NGƯỜI CHA NHÂN HẬU

NGƯỜI CHA NHÂN HẬU

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Ta thường gọi là dụ ngôn “Người con hoang đàng.”  Cách gọi này không được chính xác.  Trước hết vì sự trở về của đứa con không đáng làm khuôn mẫu cho ta.  Hơn nữa, xét theo bối cảnh và nội dung, Chúa Giêsu, khi kể dụ ngôn này, có ý đề cao tình yêu thương, lòng khoan dung nhân hậu của người cha.
Bối cảnh: Nhóm Pharisêu và các Kinh sư chê trách Chúa Giêsu vì Người ngồi ăn với những kẻ tội lỗi. Để trả lời họ, Chúa Giêsu kể một chuỗi 3 dụ ngôn: Con chiên đi lạc, Đồng bạc bị mất và Người cha nhân hậu.
Nội dung: Có thể coi đây là một vở kịch 2 màn.

NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON ÚT
Đứa con ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Sự ích kỷ được biểu lộ trước hết trong việc xin chia gia tài, ở nhà chung mà chỉ nghĩ đến vun quén riêng.  Không đóng góp mà chỉ muốn rút tỉa.  Không làm việc mà chỉ muốn hưởng thụ.  Sự ích kỷ đạt đến mức tồi tệ đáng kinh tởm khi nó dám mở miệng xin chia gia tài.  Theo truyền thống phương đông, gia tài chỉ được chia sau khi cha mẹ đã qua đời.  Xin chia gia tài lúc cha mẹ còn sống có khác nào cầu mong cha mẹ mau chết đi!
Có tiền bạc trong tay, nó bắt đầu ăn tiêu phung phí.  Cách ăn tiêu nói lên tính ích kỷ của đứa con.  Nó tiêu tiền mà không nghĩ gì đến mồ hôi nước mắt của cha mẹ.  Nó tiêu tiền chỉ để thoả mãn dục vọng.  Nó dùng tiền bạc để cung phụng bản thân.  Khi có tiền nó chẳng nghĩ đến ai, nên khi hết tiền, chẳng còn ai gắn bó, sẵn sàng giúp nó qua cơn túng thiếu.  Túng cùng quá mới phải trở về.
Sự ích kỷ vẫn còn đó trong toan tính trở về.  Nó không hề nghĩ đến cha mẹ.  Nó không hề nghĩ đến tình thương.  Nó chỉ nghĩ đến cái bụng.  Về nhà để được ăn no.  Chỉ có thế.
Người cha hoàn toàn quên mình vì con.
Khi đứa con xin chia gia tài, ông đã chia ngay, không so đo tính toán, không hạch sách khó khăn.  Ông không nghĩ đến bản thân, không tự ái, chỉ mong sao con cái được vui lòng.
Khi con đã ra đi, ông ngày đêm thương nhớ, ngày nào cũng ra ngõ đứng chờ.  Thật tội nghiệp, con ra đi chẳng nhớ nhung gì đến cha mà cha không phút giây nào ngừng thương nhớ con.  Con chỉ biết tìm vui cho bản thân trong khi cha mỏi mòn trông đợi.  Con chỉ biết đến tiền bạc, còn cha chẳng quan tâm gì đến tiền của, nhưng chỉ cần có con.
Cảm động nhất và cũng chan chứa tình thương nhất là phút giây gặp gỡ.  Một phút giây vắn vỏi mà nói lên bao nhiêu điều về tình thương của cha.  “Anh ta còn ở đàng xa thì người cha đã trông thấy.”  Khi con chưa nhìn thấy cha thì cha đã nhìn thấy con.  Mắt chàng trai trẻ hẳn phải tinh anh hơn mắt ông cụ đã nhoà dòng lệ vì thương nhớ chứ.  Thế mà cha đã nhìn thấy con trước.  Vì cha không nhìn bằng mắt nhưng nhìn bằng trái tim.  Trái tim yêu thương có đôi mắt tinh tường giúp nhận ra ngay bóng người yêu dấu.  Trái tim con không còn yêu thương nên nhìn chẳng thấy cha.  Trái tim con khô cằn nên mắt vẫn sáng mà chẳng khác mù lòa.  Trái tim cha đầy ắp yêu thương nên đã lòa rồi mà vẫn thấy rõ con ngay từ đàng xa.
“Ông chạnh lòng thương.”  Trái tim dạt dào yêu thương quên hết tất cả lầm lỗi của đứa con.  Tình cảm đầu tiên dâng lên trong tim ông không phải là tiếc xót nửa gia tài đã mất, cũng không phải là tức giận thằng con phá gia chi tử, nhưng lại là chạnh lòng thương.  Yêu quá nên người cha chẳng còn nhìn thấy gì khác hơn là đứa con tiều tuỵ rách rưới.  Yêu quá nên người cha chẳng nhìn thấy lầm lỗi mà chỉ nhìn thấy nỗi khổ của con.  Trong trái tim ông, chỉ có tình thương dành cho con, nên vừa gặp con là tim đã rộn ràng xúc động.
“Chạy lại ôm cổ con.”  Lại một cử chỉ lạ lùng.  Cha không chờ con tới theo đúng lễ phép mà đã vội vàng chạy lại ôm con.  Tình yêu thương thúc đẩy, niềm vui dâng dạt dào khiến người cha không chần chờ được nữa.  Bất chấp thân phận cao quý của mình, ông chạy đi như một đứa trẻ được quà.  Bất chấp tuổi tác của mình, ông nhanh nhẹn như một thanh niên sung sức.  Đứa con tuổi còn trẻ mà sao chẳng nhanh nhẹn bằng ông già?  Vì trong tim nó thiếu tình yêu.  Trái tim không tình yêu cũng giống như cơ thể không sức sống.  Ông già mà nhanh nhẹn vì ông không chạy bằng sức lực của đôi chân.  Ông chạy bằng trái tim.  Ông bay bằng tình yêu.  Tình yêu chắp cánh cho ông.
“Hôn lấy hôn để.”  Chẳng còn bút nào tả xiết niềm vui của người cha khi gặp lại đứa con.  Những nụ hôn không ngớt đủ nói lên tình cảm dạt dào ông dành cho nó.  Ông ôm chặt như để giữ không cho nó ra đi nữa.
Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì người cha đã có 4 động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn.  Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn.  Ông thật là người cha phung phí.  Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về.  Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dãi.  Ông đã phung phí khi đem áo mới, giầy mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê béo, có cả đàn hát múa nhảy để đón đứa con đi hoang trở về.  Làm thế chẳng sợ hàng xóm cười cho!  Nói tóm lại ông đã phung phí tình yêu thương.  Yêu thương quá độ.  Yêu thương đến vô lý.  Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu thương?  Chỉ có tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.

MÀN 2: NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON CẢ
Đứa con cả đi hoang trong tâm hồn.

Đứa con cả vẫn ở nhà, nhưng thực ra chỉ có thân xác ở nhà, còn tâm hồn nó đã đi hoang từ lâu.  Tuy ở trong gia đình, nhưng tâm hồn nó không thuộc về gia đình.  Nó làm việc không phải với tâm tình của một người con hiếu thảo coi “mọi sự của cha là của con.”  Nó muốn vun quén riêng tư.  Nó làm việc với tinh thần nô lệ, mong được trả công, chỉ nghĩ đến con “bê nhỏ,” đến “bạn bè” riêng của nó.
Sống bên cha mà tâm hồn nó xa tâm hồn cha biết bao.  Nó không sao chia sẻ được những tình thương, những ưu tư, hoài bão của cha.  Cha là tình thương nhưng con chỉ là ích kỷ.  Cha là bao dung nhưng con chỉ là hẹp hòi.  Tâm hồn cha rộng mở bao nhiêu thì tâm hồn con khép kín bấy nhiêu.  Cha chỉ biết tha thứ trong khi con chỉ biết kết án.  Thật là khác biệt ngàn trùng.
Cha đi tìm con
Một lần nữa, người cha lại phải bỏ nhà ra đi, bỏ dở bữa ăn để tìm đứa con đi hoang trong tâm hồn.  Vẫn với cử chỉ dịu dàng cố hữu; vẫn với những lời lẽ ôn tồn; vẫn với ánh mắt chan chứa cả một trời bao dung, cha cố gắng thuyết phục đứa con cả trở về.
Nếu đứa con út cần một cuộc trở về thì đứa con cả cần tới hai cuộc trở về: về với cha và về với em.  Đi hoang trong tâm hồn xa xôi diệu vợi thế!
Qua dụ ngôn này Chúa cho thấy dù tôi là con út hay con cả, tôi vẫn cần trở về.  Vì nếu tôi chưa đi hoang trong đời sống, chắc chắn đã rất nhiều lần tôi đi hoang trong tâm hồn: suy nghĩ và hành động của tôi khác hẳn với đường lối của Thiên Chúa là Cha; tôi vẫn không muốn chấp nhận anh em tôi.
Nhưng dụ ngôn cũng cho tôi an tâm trở về.  Hình ảnh người cha hiền đứng đợi mời gọi tôi mau bước. Chúa là người Cha yêu thương tôi trước khi tôi yêu Người, đi tìm tôi trước khi tôi đi tìm Người, tha thứ cho tôi trước khi tôi xin lỗi Người.
Lạy Chúa là Cha nhân từ, con cảm tạ tình yêu thương vô vàn của Cha.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

BÍCH-VÂN-THIÊN

BÍCH-VÂN-THIÊN

Lang Thang Chiều Tím

“Bích-Vân-Thiên” là một trong những tiểu thuyết của nữ văn sĩ Quỳnh Dao.  Chuyện kể về mối tình tay ba giữa hai người phụ nữ Bích, Vân và một người chồng chung tên Thiên.  Vì người vợ không thể sinh con nối dõi tông đường cho chồng, nên nàng đành chấp nhận người em kết nghĩa như người vợ lẽ cho chồng.  Dù là tự nguyện, nhưng những ích kỷ ghen tương của kiếp nhân sinh đã khiến họ nhận ra rằng, cả ba không thể cùng hạnh phúc chung dưới một mái nhà.  Một người chấp nhận ra đi để hai người ở lại hạnh phúc hơn.
Những tưởng chuyện tình thơ mộng sầu muộn chỉ có trong tiểu thuyết, qua sự tưởng tượng phong phú của nhà văn.  Nhưng đâu ai biết rằng cuộc sống muôn màu sắc cũng đang dệt nên một chuyện tình tay ba đẹp lãng mạn như một bài thơ, trắc trở với những cảnh đời éo le, với phần kết vẫn còn dang dở.   “Bích-Vân-Thiên” của đời thực là một chuyện tình tay ba giữa Thu Bích, người con gái vô tư hồn nhiên, duyên dáng như viên ngọc xanh biếc giữa đời, và một Đình Vân thư sinh trắng trẻo nho nhã với cặp kiếng cận, như một áng mây lững lờ quyện lấy viên ngọc bích trong trời thu.  Hiện diện giữa họ là một Thiên Chúa vô hình lúc ẩn, lúc hiện, lúc hiền hòa yêu thương, lúc thinh thặng đến lạnh lùng.

Được sinh ra và lớn lên trong một gia đình sùng tín đạo Phật có lòng thờ kính ông bà tổ tiên, Vân đến với Bích khi chẳng biết Thiên Chúa là ai.  Đúng rồi, Thiên là Trời, là Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật, dạy cho con người những điều hay lẽ phải.  Thiên Chúa của Đạo Công Giáo cũng là Ông Trời thân thiện gần gũi của dân tộc Việt Nam đấy mà, người quen cả chứ có phải ai xa lạ đâu.  Nhưng ngược với sự suy nghĩ đơn giản của Vân, người con gái mà anh đem lòng yêu mến ở đảo, trước biến cố 30 tháng Tư năm 1975 là một đệ tử đã từng được nuôi dưỡng bởi câu kinh ê a mỗi sáng chiều trong nhà dòng các Sơ.  Nàng mong muốn vợ chồng sẽ cùng chia sẻ và đồng hành bên nhau trong đời sống tự nhiên cũng như trong đời sống thiêng liêng.
Bản chất vốn dĩ hiền lành và chân thật, mang trong tâm hồn phần nào vẻ đẹp của Đấng Chân Thiện Mỹ, Vân tự ý tìm hiểu Thiên Chúa của Bích là ai.  Khởi đầu Vân cảm thấy khó hiểu, chuyện một Thiên Chúa từ bỏ vương quyền cao sang để sinh ra làm người trong máng cỏ nghèo nàn, rồi lại lang thang bồng bế nhau đi tị nạn xứ người.  Cũng là kiếp tị nạn cả thôi, nghe sao đồng cảm quá, giống như cảnh đời của Vân-Bích đang vất vưởng ở đảo chờ ngày định cư.  Lạ thay, càng tìm hiểu anh lại càng thấy mến thương một Thiên Chúa với tình yêu bao la dành cho con người hay phản bội chóng quên, một Thiên Chúa mặc lấy xác phàm để rồi cuối cùng bị chết thảm thương nhục nhã trên cây thập giá.

Sau những tháng ngày học hỏi tìm hiểu về Đạo Thiên Chúa, năm 1984 Vân cúi đầu nhận lãnh Bí Tích Rửa Tội trong nỗi ưu phiền của người cha già ở phương xa, mà sau này khi đại gia đình được đoàn tụ, ông thường hay trách cứ: “Anh con theo Đạo để lấy vợ thì ba không buồn, nhưng con theo Đạo thì ba rất buồn vì con quá sùng tín.  Con là một đứa con bất hiếu, bỏ ông bà cha mẹ mà theo Đạo vợ.”  Trái tim Vân tan nát, anh chỉ biết cúi đầu im lặng mỗi khi nghe lời phiền trách của người cha yêu dấu.  Cha Vân đâu ngờ rằng đứa con trai này chịu phép rửa tội bằng con tim thổn thức của tuổi trẻ đi tìm chân lý, bằng nỗi khát khao nhiệt tình của người vừa tìm ra được lẽ sống đời mình, chứ không phải rửa tội chỉ để lấy vợ, như người đời thường nói: “Con quỳ lạy Chúa trên cao, con lấy được vợ con thôi nhà thờ.”

Từ đó Thiên Chúa luôn luôn hiện diện giữa Bích-Vân trong mọi biến cố buồn vui, thăng trầm của cuộc sống.  Cuộc tình nhẹ nhàng êm đềm như một bài thơ qua dòng thời gian lững lờ trôi.  Mối tình tay ba “Bích-Vân-Thiên” được triển nở khi Bích-Vân chính thức nên một trong Thiên Chúa qua bí tích Hôn Phối vào tháng 12 năm 1985.  Hạnh phúc gia đình thêm viên mãn với sự góp mặt của hai thiên thần nhỏ, một trai một gái.  Hơn 30 năm trôi dạt xứ người, phồn hoa phú quý nơi xứ sở giàu có văn minh chỉ làm Vân tăng thêm lời tạ ơn.  Đức tin của Vân ngày càng lớn dần theo thời gian cùng với tình yêu anh dành cho cả hai, Thiên Chúa và Bích.   Không chỉ giữ riêng đức tin cho mình, với tình yêu mãnh liệt mà anh cảm nhận được từ Thiên Chúa, anh mạnh dạn chia sẻ đức tin đó cho người cha và anh em trong gia đình mình.  Gương sống và hạt giống đức tin đã sinh hoa kết trái nơi người em gái mà lần này với sự đồng thuận của người cha: “Con đã quyết định theo Đạo Công Giáo thì theo cho đến nơi đến chốn.” Người anh kế và cậu em trai cũng một lòng tin kính Chúa mặc dầu chưa chính thức vào Đạo, nhưng bản thân họ đã tự nhận mình là Kitô hữu.  Vân không chỉ ngừng lại nơi đây, anh tích cực chia sẻ đức tin đó cho những người nghèo khó bệnh tật, cho những người già yếu trong viện dưỡng lão, cho ban Giáo Lý Dự Tòng, ban Tĩnh Tâm Linh Thao, phong trào Cursillo, cho các sinh hoạt mục vụ khác của giáo xứ, và là cánh chim đầu đàn cho phong trào Canh Tân Đặc Sủng ở Thung Lũng Hoa Vàng.  Với cây đàn guitar, với giọng hát sôi nổi trầm ấm, với những lời nguyện chân thành bộc phát từ trái tim cháy bỏng, đức tin mạnh mẽ của anh đã sưởi ấm bao cõi lòng băng giá vì vắng bóng niềm tin.  Trong bất cứ sinh hoạt mục vụ nào, Bích-Vân cùng sát cánh, chia sẻ và hổ trợ cho nhau như hai người bạn thiêng liêng tâm đầu ý hợp.

Ấp ủ trong tim lời mời gọi thầm thì nhưng tha thiết yêu thương của Thiên Chúa, Bích-Vân mơ ước dành trọn cuộc đời còn lại để ra đi phục vụ tha nhân.  Nhưng cuộc đời không như là mơ, dẫu giấc mơ đó thật là cao quý!  Làm chứng cho đức tin của mình bằng cuộc sống tông đồ nhiệt thành hình như chưa đủ.  Thiên Chúa muốn đức tin của Bích-Vân và gia đình phải được thử thách tôi luyện, chứng nhân của Ngài phải đổ máu trong một bi kịch oan nghiệt trớ trêu.  Trong một buổi sáng định mệnh ngày 3 tháng 3 năm 2011, khi bệnh tình trở nặng vì những ảnh hưởng nguy hại của các thuốc an thần, anh cần phải được khẩn cấp nhập viện.  Tổng đài 911 đã nhận được thông báo để cấp cứu…  Xe cứu thương và xe cảnh sát đã tới.  Nhưng than ôi, trong khoảnh khắc tích tắc, một viên đạn oan nghiệt từ một người cảnh sát không quen biết, không thù oán đã kết thúc cuộc đời anh.  Anh ra đi đột ngột không hiểu tại sao mình lại bị giết ngay trong chính ngôi nhà của mình, nơi vừa được một vị linh mục làm phép nhà cách đó ba hôm, nơi mà hai vợ chồng mơ ước sẽ làm nhà tĩnh tâm, là nơi hội họp cầu nguyện cho anh chị em… Cuối cùng anh đã trở về bên Giêsu, Đấng mà anh được rước vào lòng mỗi ngày qua bí tích Thánh Thể.  Anh đã vĩnh viễn trở về với Đấng Tạo Hóa, Đấng Chân Thiện Mỹ, Đấng mà suốt cả cuộc đời anh khát khao tìm kiếm, và cũng chính vì Ngài mà anh mang tội bất hiếu.
Từ khi bị bịnh, anh đã chuẩn bị sẵn sàng để ra đi, cho dù là cách nào, vào bất cứ lúc nào.  Nhưng thực tế cái chết tức tưởi oan ức của anh đã gây đau khổ, khó chấp nhận cho những người thân còn ở lại.  Đức tin của người vợ, hai con đang chập chững bước vào đời, hai bên cha mẹ già, anh em đạo cũ, đạo mới, chưa theo đạo bị thử thách dữ dội.  Trong giây phút mà sự dữ lên ngôi, thần chết tưởng như chiến thắng, cái ác cười ngạo nghễ trên sự thiện, người ta khó lòng mà giải thích được tại sao một người đạo đức, sống tốt lành thánh thiện như anh lại có một cái kết thúc bi thảm như vậy.  Người đời sẽ chẳng bao giờ giải thích được, trừ phi họ nhìn lên cây thập giá, nơi Chúa Giêsu Kitô chịu chết treo ô nhục trên đồi Canvê.  Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh bi ai trùm kín một màu tang tóc buồn bã, không phải là đích đến của những Kitô hữu.  Đàng sau ngày Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày Chúa Nhật Phục Sinh chiến thắng khải hoàn.  Nhưng trong cơn sầu khổ tuyệt vọng, lệ nhòa mi mắt thì bóng dáng ngày Chúa Nhật Phục Sinh xa vời mờ nhạt quá.

Giữa những tiếng xì xầm của thế gian, tiếng cười đắc chí đắc thắng của thần dữ, người thiếu phụ gục xuống trước nỗi mất mát quá tang thương này.  Chị rút vào thanh vắng một thời gian dài, xa lánh phần lớn bạn bè người thân quen.  Chị tránh những ánh mắt thương hại tội nghiệp, né những câu hỏi han tò mò, ngại ngùng khi phải nghe những lời an ủi nhiệt tình nhưng vô duyên lạc điệu:  “Thôi đừng khóc, đừng buồn nữa, hãy chấp nhận thánh giá Chúa gởi đến, như thế Chúa và anh mới vui.”  Không, Bích không muốn che dấu nỗi buồn vô tận của mình.  Bích càng bối rối hơn khi nghe người ta đổ tội cho Thiên Chúa.  Vô lý quá, làm sao mà một “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”  (Ga 3,16), lại có thể gởi những sự dữ đến cho con cái của mình được.  Sự dữ đâu đến từ Thiên Chúa!  Ngài tôn trọng sự tự do chọn lựa của người cảnh sát vô cảm kia, cũng như Ngài đã từng tôn trọng sự tự do lựa chọn của Bích-Vân vậy.
Trong bóng tối cô đơn trước cây thánh giá, với cõi lòng tan nát, Bích muốn để những tiếng rên xiết quằn quại trong cõi lòng của mình được tự do òa vỡ.  Chị kiệt sức gục đầu lên vai Chúa để mặc cho dòng nước mắt thỏa sức tuôn rơi.  Chúa không bảo chị thôi đừng khóc, bớt buồn, mà chị lờ mờ thấy Chúa lau nước mắt cho mình, cùng buồn, cùng khóc với mình.  Chị để mặc cho Chúa vuốt ve, an ủi trái tim đang gào thét lên nỗi thương nhớ.  Chúa xót xa băng bó vết thương tâm hồn bê bết máu, xoa dịu nỗi buồn gặm nhấm tâm can.  Trong cõi một mình vắng lặng, Bích cố gắng tìm lại Lời Chúa, Ý Chúa, và hình ảnh Thiên Chúa ngày xưa của mình đang ở đâu trong biến cố này.  Bích cũng đang tập làm quen dần với cảnh đời mất chồng nơi xứ lạ.

Hơn hai năm sau, khi cơn đau vẫn chưa nguôi trong trái tim mới chớm lành của người goá phụ, Bích lại tiếp tục nhận được thất bại khác.  Chị đã thua trong vụ kiện người cảnh sát bắn chồng chị.  Bích kiện không phải vì tiền, vì chẳng có đồng tiền nào có thể đánh đổi được sinh mạng của anh.  Kiện để chân lý được sáng tỏ, để tránh cho người dân thấp cổ bé miệng sau này khỏi lâm vào hoàn cảnh oan ức như anh.  Kiện để những người cầm súng đại diện cho pháp luật ở một xứ sở tự do phải ý thức hơn về những gì họ đã làm, đang làm và sẽ làm.  Nhưng thương thay, tiếng nói yếu ớt của một sắc dân tị nạn thiểu số, tại một nơi mà đa phần là da trắng, tiếng bào chữa của một văn phòng luật sư bé nhỏ, làm sao có thể thắng được với một tập đoàn luật sư hùng hậu của thành phố, của quận hạt.  Chân lý một lần nữa lại đứng về phía kẻ mạnh.  Thần dữ lại một lần nữa vỗ tay cười hả hê, khoái trá chờ ngày người vợ và hai con đang tuổi nổi loạn từ bỏ đức tin, trút cơn giận lên Thiên Chúa chẳng chút nhân từ.  Chuyện tình ba người “Bích-Vân-Thiên” chắc rằng sẽ tan rã từ đây….

Dù không còn cảm giác với tình yêu ngọt ngào của Thiên Chúa, nhưng Bích cũng ráng đến nhà thờ mỗi ngày theo thói quen, đến nhóm cầu nguyện hàng tuần dù không cảm nhận được gì.  Sự thinh lặng của Ngài trong những giây phút cầu nguyện, trong các khóa tĩnh tâm dài ngày càng làm cho chị thêm khó hiểu.  Mỗi lần nhìn lên cây thánh giá, Bích không bao giờ dám hỏi Chúa tại sao những sự dữ lại xảy đến với gia đình mình.  Người Con Một của Ngài cũng có tội tình gì đâu sao phải chết treo trên thập giá?  Nhìn vào quan tòa xét xử Giêsu trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, nhìn vào đôi tay Người Con Một Thiên Chúa đang bị trói chặt lại trước những tiếng la hét đòi xử tử, như chân lý và tình yêu bị trói buộc trước sự dữ, chị không muốn tiếp tục vụ kiện nữa.  Chúa Giêsu có thắng đâu trước quan tòa ngày hôm ấy!  Ngài đã thua thảm bại trước một tên tướng cướp giết người khét tiếng, đã thất bại chua cay trước những vị kinh sư Pharisêu đại diện cho tôn giáo của dân tộc mình.  Cũng như viên đạn bắn anh không phải xuất phát từ một tên cướp, mà là từ một nòng súng của người thi hành pháp luật dành cho một người dân vô tội.  Cay đắng quá!  Trò mà làm sao hơn được thầy!  Chén đắng đã hai lần nhấp thử, chị phần nào cảm nhận được nỗi thống khổ tột cùng của Chúa Giêsu trong vườn Gethsemane.  Cũng như Giêsu ngày xưa, Bích xuôi tay chấp nhận mình thua để khép lại vụ kiện, chị không muốn kháng án lên toà trên, không muốn vết thương lòng lại bị khơi ra khuấy động lên, chị muốn sự bình an sâu thẳm trong tâm hồn, thấm thía mầu nhiệm thập giá… Từng ngày, từng ngày, trong tâm hồn chị vẫn vang lên lời nguyện xin tha thiết: “Chúa ơi, xin cứu con!  Chúa cho phép sự việc xảy ra như thế này thì sinh ích gì cho con?  Con xin tạ ơn Chúa mặc dù giờ này con chưa hiểu, nhưng con tin vào Ý Muốn Tốt Lành của Chúa vì Chúa đã nói mọi đau khổ đều sinh ích cho những ai yêu mến Chúa.”

Qua những tháng ngày đau khổ đến tê dại không còn cảm giác, qua những lúc ngã lên gục xuống, thầm khóc đến không còn nước mắt, qua những cay đắng khi nhận được tin thất bại của vụ kiện, người goá phụ từ từ cảm nhận được những nâng đỡ ủi an kín đáo của Người Cha Nhân Từ đang ẩn mặt đâu đó trong lúc này.   Gia đình, bạn bè, cộng đoàn Đức Tin, các Bí tích, Lời Chúa, Thánh Vịnh, và những bài Thánh Ca đong đầy yêu thương là những điểm tựa nương của Bích trong lúc sầu khổ lao đao: “Lạy Chúa, khi con nói: “Này chân con lảo đảo”, tình thương Ngài đã đỡ nâng con” (TV 94, 18), “Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành” (TV 147, 3), “Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta… Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Is 53:4-5).  Bích không trách Thiên Chúa đã cất anh về sớm, trong cõi lòng sâu thẳm chị chỉ biết dâng lời tạ ơn Chúa đã ban cho chị một người chồng tốt lành, một người cha gương mẫu cho các con, một người bạn thiêng liêng thánh thiện đã cùng đồng hành với chị trong suốt hai mươi lăm năm hôn phối, mà anh chị vừa long trọng lập lại lời thề hứa ba tháng trước ngày anh đi về cõi vĩnh hằng.  Bích tạ ơn cho những gì đã có, chứ không trách móc về những gì đã mất.  Chị biết, anh vui khi được ở bên chị và anh cũng hạnh phúc khi được xum vầy cùng Thiên Chúa, Đấng mà anh hằng khát khao được diện kiến.  Chị tin rằng hình ảnh của chị và hai con luôn ở trong tim anh, và anh sẽ tiếp tục cầu khẩn cùng Thiên Chúa cho ba mẹ con.

Thời gian thấm thoát thoi đưa, thế mà đã năm năm trôi qua kể từ ngày Vân về với Thiên Chúa.  Trên bia mộ đá nơi anh an nghỉ, có hình của cả ba “Bích-Vân-Thiên”, với một bên còn trống để dành chỗ cho Bích, với lời ca Hallelujah của ngày Chúa Nhật Phục Sinh khải hoàn trong vinh quang.  Thiên Chúa chưa bao giờ vắng bóng trong cuộc tình của Bích-Vân.  Trong những tháng năm đầu, trên mộ Vân không lúc nào thiếu vắng hoa tươi do Bích mang lại.  Bạn bè kẻ khen người chê trước hành động lãng mạn không thiết thực đó, lãng phí cả thời gian và tiền bạc.  Nhưng Bích có cần gì đâu, chị làm theo tiếng nói con tim.  Sự chết không chia rẽ được tình yêu của anh chị.  Mỗi lần viếng nghĩa trang nơi anh an nghỉ, chị cảm nhận được tình yêu ba người “Bích-Vân-Thiên” quyện lẫn vào nhau trong gió, trong mây để chỉ còn là một.  Chẳng còn thế giới vô hình hay hữu hình nữa, cũng chẳng còn ranh giới sự sống hay sự chết.  Bích đến không để khóc than, chị đến để trái tim chị được sưởi ấm, đến để cảm nhận tình yêu chung thủy của ba người được thăng hoa.  Bó hoa tươi trên mộ anh là ngôn ngữ tình yêu nói thay cho con tim chị.  Anh yêu nhạc, chị thích hoa, cả hai cùng say mê vẻ đẹp chân thiện mỹ, Bích-Vân đang cùng hát lên bản Tình Ca Tạ Ơn bên Thiên Chúa – Hallelujah!

Năm năm với biết bao ân sủng tuôn đổ từ trời cao đủ để làm sống dậy tin yêu hy vọng trong Bích.  Tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn sự mất mát và thất bại đã làm tươi mới lại con người Bích, chị trở lại với con người hồn nhiên yêu đời như những ngày trước có anh đi bên cạnh.  Nụ cười rạng rỡ lại trở về trên khuôn mặt nhân hậu duyên dáng của chị.  Không những thế, chị được mời gọi để làm chứng cho những mảnh đời bất hạnh, những tâm tư giận hờn Thiên Chúa vì những khổ đau bịnh tật, hay những mất mát chia lìa đớn đau, những con chiên tự tách mình ra khỏi đàn vì mải mê oán than…. Chị đến để mang câu trả lời cho những câu hỏi không lối đáp, tại sao Thiên Chúa lại để sự này xảy đến với tôi, với gia đình tôi?  Tại sao Ngài không nhận lời?  Tại sao Ngài không ngăn cản sự dữ xảy ra?  Tại sao Ngài không cất đi căn bịnh hiểm nghèo cho tôi, cho người thân của tôi?  Tại sao và tại sao?  Chị đến không để nói, để thuyết phục hay hùng biện, chị chỉ nhẹ nhàng kể về câu chuyện tình của đời chị… và Thiên Chúa sẽ làm việc với những tâm hồn tan nát đó.

Tác phẩm “Bích-Vân-Thiên” của nữ văn sĩ Quỳnh Dao được khép lại khi trang sách cuối cùng được lật qua.  Trong đầu người đọc chỉ còn lưu lại thoang thoáng vài nét về một cốt chuyện hay, một tình yêu lai láng sầu muộn chỉ có trên tiểu thuyết.  Còn “Bích-Vân-Thiên” trong đời thường, không chỉ là tên của ba người trong một cuộc tình ghép lại, mà còn là tựa đề của cuốn sách mang niềm hy vọng – cuốn sách chứng nhân đức tin – đang được tiếp tục lật từng trang mỗi ngày.  Ba nhân vật chính “Bích-Vân-Thiên” vẫn luôn nắm tay cùng đồng hành với nhau.  Đình Vân đã đi xong quãng đường của mình.  Chặng đường của Thu Bích vẫn còn dài đăng đẳng trước mắt nhưng Bích không đi lẻ loi một mình.  “Vân-Thiên” vẫn luôn cùng đồng hành với Bích và chờ ngày đoàn tụ để đóng lại cuốn sách chứng nhân đức tin “Bích-Vân-Thiên”.

Nguyện xin Thiên Chúa Tình Yêu chúc lành cho thiên tình sử tay ba “Bích-Vân-Thiên” được đẹp mãi đến trang sách cuối cùng.  Mong rằng trong ngày sau hết cả ba sẽ được tái ngộ để cùng nhau kết hợp nên một mối tình tuy ba nhưng chỉ là một.

Lang Thang Chiều Tím

Kỷ niệm năm năm ngày giỗ anh Phêrô Lê Đình Vân, 03/03/2011 – 03/03/2016

Cái nhìn nội tâm,

Cái nhìn nội tâm,

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Mùa Chay là mùa sám hối. Sám hối là đổi mới tâm hồn. Muốn đổi mới tâm hồn, phải đổi mới cách nhìn về con người và cuộc đời, về bản thân và tha nhân. Hôm nay, Chúa Giêsu dạy ta những cách nhìn thời cuộc và biến cố theo tinh thần của Người.

Thông thường, trước một biến cố, ta dễ có cái nhìn chính trị. Hôm nay, người ta thuật lại việc Philatô giết những người Do Thái trong Đền Thờ. Thời ấy, đế quốc Rôma đang thống trị nước Do Thái. Philatô là viên tổng trấn của Rôma. Tường thuật biến cố đau thương này, người ta mong Chúa Giêsu có cái nhìn chính trị, dấn thân vào chính trị. Người ta mong Chúa Giêsu kết án Philatô. Không bàn chính trị, không làm chính trị, cho dù sau này Chúa Giêsu vẫn bị kết án vì một tội chính trị. Không kết án Philatô, dù sau này chính Người bị viên tổng trấn này kết án.

Trước mọi biến cố, Chúa Giêsu muốn ta có một cái nhìn tôn giáo, vượt lên trên lĩnh vực chính trị. Từ một câu hỏi thuộc bình diện chính trị, Chúa Giêsu đã đưa ra một giải đáp thuộc bình diện tôn giáo. Từ một biến cố gây xôn xao dư luận, Chúa Giêsu mời gọi ta hãy ăn năn sám hối. Từ cái chết của thể xác, Chúa Giêsu hướng suy nghĩ ta tới cái chết của linh hồn: “Các ông tưởng mấy người Galilê đó bị như vậy là vì họ tội lỗi hơn những người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”.

Đối với người khác, ta dễ có cái nhìn kết án. Khi gặp một người mù từ thuở mới sinh, người ta hỏi Chúa Giêsu: “Đây là do tội nó hay tội của cha mẹ nó?”. Gặp người phụ nữ phạm tội ngoại tình, người ta muốn kết án chị. Nga có thói quen cho rằng thành công là một ân huệ Chúa thưởng cho người đạo đức, còn tai hoạ là hình phạt Chúa dành cho kẻ tội lỗi. Hôm nay, chứng kiến những nạn nhân bị thiệt mạng, những người tường thuật đều nghĩ rằng những nạn nhân ấy chết vì họ tội lỗi, còn tôi vô sự, điều đó chứng tỏ tôi vô tội. Chúa Giêsu lên tiếng cảnh báo họ: Các ông cũng là kẻ tội lỗi. Nếu các ông không ăn năn hối cải, các ông sẽ chết thảm khốc hơn những nạn nhân kia nữa. Chúa Giêsu dạy ta có cái nhìn bao dung. Nếu có phải xét đoán, hãy xét mình trước khi xét người. Nếu có phải lên án, hãy lên án chính bản thân mình trước khi lên án người khác: “Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt ngươi trước, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em”. “Ai trong các ông vô tội hãy ném đá chị này trước đi”.

Sau cùng, ta thường có cái nhìn ảo tưởng. Ta xây dựng những chương trình to lớn, những tham vọng đổi mới xã hội. Chúa Giêsu dạy ta hãy có cái nhìn thực tế: Đừng ảo tưởng với những chương trình to tát, lấp biển vá trời. Hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ bé. Đừng có ảo tưởng đổi mới xã hội, cải tạo thế giới. Trước hết, hãy đổi mới chính mình, cải tạo bản thân mình. Tục ngữ Trung quốc có câu: Nếu mỗi người trông hoa trước cửa nhà mình, cả thế giới sẽ biến thành một vườn hoa đẹp. Đổi mới chính mình đó là góp phần vào đổi mới thế giới.

Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng ánh mắt ta lên cao, vượt thoát lĩnh vực tự nhiên để vươn tới lĩnh vực siêu nhiên. Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng cái nhìn của ta xuyên qua những lớp bì phủ bên ngoài để soi chiếu vào chiều sâu nội tâm. Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng cái nhìn của ta ra khỏi những ảo tưởng, đối diện với thực tế bản thân để trước mỗi biến cố ta tự xét và đổi mới chính mình.

Lạy Chúa, xin đổi mới trái tim con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Trong các biến cố, bạn có tìm thấy ý Chúa không?
    2. Bạn có nghĩ rằng hễ ai gặp may thì đó là người đạo đức, ai gặp tai nạn thì đó là người tội lỗi không?
    3. Muốn đổi mới gia đình, xã hội, phải đổi mới bản thân trước. Bạn nghĩ sao về điều này?

Ông nhà giàu và người nghèo La-da-rô

Ông nhà giàu và người nghèo La-da-rô
(Lc 16, 19-31)

19 Khi ấy, Đức Giê-su nói với người Pha-ri-sêu dụ ngôn sau đây : “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình.20 Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu,21 thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.22 Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.

23 “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ.24 Bấy giờ ông ta kêu lên: “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!25 Ông Áp-ra-ham đáp: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ.26 Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.

27 “Ông nhà giàu nói: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con,28 vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!29 Ông Áp-ra-ham đáp: “Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.30 Ông nhà giàu nói: “Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.31 Ông Áp-ra-ham đáp: “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.”

***

Câu chuyện về ông nhà giàu và người nghèo, tên là La-da-rô, mà Đức Giê-su kể cho chúng ta nghe trong bài Tin Mừng, rất quen thuộc đối với chúng ta. Nhưng có một chi tiết quan trọng, có thể chúng ta đã không để ý, đó là câu chuyện này là một dụ ngôn : « Khi ấy, Đức Giê-su nói với người Pha-ri-sêu dụ ngôn sau đây ».

Dụ ngôn là một chuyện kể phát xuất từ thực tế cuộc sống (hạt giống, nắm men, tiệc cưới, người cha có hai người con, con chiên đi lạc hay đồng bạc bị mất…), nhưng lại chất chứa những chi tiết lạ lùng để mặc khải cho chúng ta, không phải trực tiếp nhưng theo ngôn ngữ ẩn dụ, về Thiên Chúa, về tình yêu và lòng thương xót của Người, về Nước của Người, về cách thức chúng ta đón nhận và sống với Người ngang qua tương quan của chúng ta với tha nhân và với những thực tại thuộc về đời này.

Theo bối cảnh, dường như Đức Giê-su kể dụ ngôn « Ông nhà giàu và người nghèo La-da-rô » cho những người Pha-ri-sêu : « Người Pha-ri-sêu vốn ham hố tiền bạc… » (c. 14), nhưng vấn đế mà dụ ngôn nêu ra lại đụng chạm đến mọi người chúng ta ở chiều sâu. Vậy, Chúa muốn nói với chúng ta điều gì, hay đúng hơn chất vấn chúng ta về vấn đề gì, khi kể dụ ngôn này ?

 Thời gian và vĩnh cửu

Trước hết, đó là sự khác nhau giữa thời gian và vĩnh cửu, hay nói dễ hiểu hơn là sự khác nhau giữa đời này và đời sau. Đời này thì có giờ, có tháng, có năm ; đời sau thì không có giờ, có tháng, có năm, nghĩa là lúc nào cũng là hiện tại, không có thủy không có chung ; đời này thì chóng qua, đời sau thì tồn tại mãi mãi ; đời này thì có thay đổi, đời sau thì không có thay đổi.

Chính vì thế, trong dụ ngôn, tổ phụ Abraham nói với ông nhà giàu sau khi đã chết, nghĩa là đã bước vào đời sau :

Giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.

(c. 26)

Trong khi đó, ở đời này, giữa bàn tiệc của ông nhà giàu và người nghèo trước cổng đâu có phải là vực thẳm. Hai bên có thể đi qua đi lại dễ dàng ! Ý nghĩa này cần phải đánh động chúng ta. Bởi vì đời sau sẽ không thể thay đổi được, nhưng một cách nghịch lí, lại luôn luôn mới (x. Tv 136), nên chúng ta được mời gọi thay đổi, nghĩa là hoán cải ngay bây giờ, đặc biệt là trong cách chúng ta sử dụng của cải cũng như tất cả « những sự khác » (Linh Thao, số 23), theo hướng phục vụ và chia sẻ cho người khác, nhất là những người nghèo, những người thiếu may mắn và bất hạnh, và với cả những anh em, chị em nhỏ bé, yếu kém hay đau yếu bên cạnh chúng ta nữa, trong gia đình hay trong cộng đoàn. Hơn nữa, đời này thì rất chóng qua, còn đời sau thì kéo dài mãi mãi.

 Người nghèo và người giàu

Dụ ngôn còn muốn nói với chúng ta điều thứ hai, đó là những người giàu có ở đời này, sẽ bị lưu đày ở đời sau ; còn những người nghèo khó, sẽ được an ủi. Vấn đề của ông nhà giàu không phải là vì ông giàu có, ông có nhiều của cải, nhưng là ông quá gắn bó với của cải, đến nỗi ông không muốn chia sẻ, không quan tâm đến những người thiếu thốn hơn đang ở trước cổng nhà mình. Ông làm tôi cho của cải, thay vì làm tôi Thiên Chúa.

Trước khi kể dụ ngôn này, Đức Giê-su đã nói: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc 16, 13). Điều này không có nghĩa là tiền của tự nó là xấu, và chúng ta phải từ bỏ, hay phải càng có ít càng tốt. Nếu hiểu như thế, chúng ta sẽ “tự lên án” mình, vì chúng ta không thể sống mà không có tiền của, nhất là trong cuộc sống và cách thức làm việc hiện đại hôm nay, càng ngày càng đòi hỏi những chi phí rất lớn và những phương tiện đắt tiền. Tiền Của trở nên xấu trong mức độ, chúng ta coi nó như thần linh, thay thế hay đối lập với Thiên Chúa (trong bản văn Hi lạp, đó là chữ “Mamon” viết hoa). Trong khi nó chỉ là phương tiện.

Làm việc để có tiền có của, qua đó mua sắp những phương tiện là điều cần thiết trong cuộc sống. Nhưng ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự tai hại của một cuộc sống “làm tôi tiền của”, nghĩa là chỉ chạy theo tiền của, chỉ chạy theo việc mua sắm các phương tiện, chỉ lo thỏa mãn những nhu cầu vật chất của mình. Lúc đó, người ta không còn làm chủ tiền của nữa, nhưng bị tiền của làm chủ, và hậu quả là gây đỗ vỡ những tương quan làm cho chúng ta sống hạnh phúc, đó là tình thương và sự liên đới. Bởi lẽ, chúng ta không chỉ sống bằng tiền của, bằng phương tiện, bằng việc thỏa mãn nhu cầu, nhưng còn sống bằng tương quan đón nhận, tin tưởng, bao dung, tha thứ, và nhất là hiệp thông, tình bạn và tình thương mà Lời Chúa đem lại cho chúng ta. Thiếu tình thương, thì dù có tiền của, đời sống của chúng ta cũng trở thành chết chóc, thậm chí trở thành địa ngục.

Đời này thì thay đổi được, còn đời sau thì không. Chúng ta hãy thay đổi trong cách chúng ta tìm kiếm và sử dụng của cải, để trở nên nghèo khó trong tâm hồn, và như thế sẽ được Chúa ban tặng Nước Trời mãi mãi ở đời sau.

 Lời Chúa và các bí tích

Điều thứ ba chúng ta cần lưu ý trong dụ ngôn, đó là ông Mô-sê và các ngôn sứ, nghĩa là Kinh Thánh, là đủ để cho người đang sống hoán cải, thay đổi cách sống của mình ; và không cần phải chứng kiến những điều lạ lùng, như người chết hiện về. Bởi vì, hiện về thì hiện về có một lần ; nhưng thay đổi cách sống là thay đổi suốt đời ; thế mà, sự thay đổi bền vững lại phát xuất từ sự biến đổi của con tim, nhờ tác động của Lời Chúa trong Kinh Thánh, chứ không phải từ những hiện tượng ngoạn mục ở bên ngoài. Những hiện tượng lạ lùng, chỉ là dấu chỉ mời gọi thôi, chứ không tự động đem lại cho chúng ta sự thay đổi sâu xa và bền vững.

Đời này thì thay đổi được, đời sau thì không ; đời này thì chóng qua, đời sau thì vĩnh cửu. Xin cho chúng ta không cần trông cậy vào những điều lạ lùng hay ngoại thường, nhưng hoàn toàn tín thác vào Lời Chúa và các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể. Vì nếu chúng ta hoàn toàn tín thác vào Lời Chúa và các bí tích, chúng ta sẽ nhận ra rằng, đó là những điều lạ lùng nhất, ngoại thường nhất, có sức mạnh hoán cải chúng ta, biến đổi chúng ta thành con của Chúa và thành anh chị em của nhau, làm cho chúng ta biết chia sẻ cách quảng đại. Vì qua Lời Chúa và bí tích Thánh Thể, Chúa chia sẻ cho chúng ta chính sự sống của Chúa cách quảng đại, và khi lãnh nhận sự sống của Chúa và nhận ra rằng, mọi sự chúng ta có là ân huệ Chúa ban, chúng ta được thúc đẩy để chia sẻ cho người khác cách quảng đại.

Như thế, dụ ngôn về ông nhà giàu và người nghèo La-da-rô, mà Đức Giê-su kể cho chúng ta nghe trong bài Tin Mừng hôm nay, chất vấn chúng ta thật mạnh mẽ về tương quan của chúng ta với người khác và với những thực tại thuộc về đời này. Xin cho chúng ta, nhờ Lời Chúa, Mình và Máu Thánh của Chúa, làm cho chúng ta thay đổi và hoán cải ngay bây giờ trong cách chúng ta liên đới với những những người chung quanh, nhất là người nghèo khổ và bất hạnh, và với cả những anh em, chị em nhỏ bé, yếu kém hay đau yếu bên cạnh chúng ta nữa.

* * *

Dụ ngôn « Ông nhà giàu và người nghèo La-da-rô » chất vấn chúng ta, nhưng đó chưa phải là sứ điệp chính yếu của dụ ngôn. Sứ điệp chính yếu của dụ ngôn, đó là Thiên Chúa trao ban sự sống viên mãn một cách quảng đại và nhưng không cho « người nghèo ». Chính vì thế mà Người nghèo được nêu tên đích danh « La-da-rô », còn người giầu thì không. Nhưng « người nghèo » là ai ? Đó là những người nghèo thật sự : những em bé bị giết hại ngay từ khởi đầu của sự sống, những em bé bị bỏ rơi, những em bé sinh ra tật nguyền hay mang những căn bệnh hiểm nghèo hay nan y, những người khuyết tật, những người sinh ra và lớn lên trong cùng khổ, trong những hoàn cảnh không xứng đáng với nhân phẩm, trong điều kiện xã hội thấp kém và thua thiệt…

« Người nghèo » còn là mẫu người mà chúng ta được mời gọi trở nên. Vậy, dù là chúng ta là ai, chúng ta được mời gọi sống như người nghèo, theo khuôn mẫu của Đức Giê-su, để đón nhận mọi sự từ lòng tốt của Thiên Chúa, ở đời này và đời sau, như chính Đức Giê-su đã nói trong Tám Mối phúc thật :

Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ.
(Mt 5, 3)

Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

XIN ĐỂ THÊM MỘT THỜI HẠN

XIN ĐỂ THÊM MỘT THỜI HẠN

 LM Giuse Nguyễn Hữu An

Nhìn lên trần nhà đầy mạng nhện đeo bám, càng tối càng không thấy, nhưng khi nhìn gần, nhìn có ánh sáng soi chiếu sẽ thấy rõ cả những nhện con, những mạng lưới chằng chịt.  Tâm hồn con người cũng như thế, sống trong bóng tối thì không thấy mình tội lỗi, trái lại khi sống trong ánh sáng lại biết mình là tội nhân.

Môisen, có một lần lùa đàn cừu tận núi Khoreb, bỗng nhiên ông nhìn thấy một quang cảnh hùng vĩ: bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi.  Trước Thiên Chúa thánh thiện, Môisen thấy mình nhỏ bé, tội lỗi (Xh. 3, 1-5).

Phêrô, trước mẻ cá lạ lùng cũng thấy mình yếu hèn, bất xứng, liền nói với Chúa Giêsu: Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là người tội lỗi (Lc 5, 8).

Trước Thiên Chúa là Đấng Thánh, Chí Thánh, Ngàn Trùng Chí Thánh, con người chỉ là tội nhân cần đến lòng thương xót của Người.  Vì thế mỗi người luôn cần đến sám hối và hoán cải.

Tin mừng Chúa nhật hôm nay kể câu chuyện: Nhân sự kiện hai vụ án Philatô giết người vô tội và tháp Silôa đổ xuống đè chết 18 người, Chúa Giêsu cảnh tỉnh: nếu các ngươi không sám hối thì cũng bị chết như vậy (Lc 13:3-5).

Người đời thường nghĩ rằng: những kẻ bị tật nguyền, những ai bị tai hoạ là bởi tội của họ hoặc do tiên nhân để lại.  Họ đã đau khổ lại càng đau khổ hơn bởi quan niệm sai lầm này. Trong thực tế mọi người phải chấp nhận giới hạn của mình và hậu quả do mình gây nên hay vì sự liên đới nào đó do người khác mang lại.  Chẳng hạn, hai tai nạn Chúa Giêsu đưa ra trong trong đoạn Tin mừng đều có nguyên nhân của nó.  Philatô cần có tiền để xây dựng hệ thống dẫn nước đem lại lợi ích cho toàn dân.  Vì thiếu tiền nên đã vào đền thờ quyên góp.  Nhóm cực hữu cho hành động này là xúc phạm sự thánh nên trang bị khí giới để chống đối và bảo vệ đền thờ.  Thấy thế Philatô ra lệnh giết chết họ trong đền thờ.  Hành động của họ dù với mục đích tốt nhưng lại thiếu khôn ngoan nên họ đã bị thiệt mạng.  Vụ án mạng tháp Silôa sập đè chết 18 người vì lý do thiếu kỷ thuật trong việc xây cất.  Vụ này cũng như vụ việc cầu Văn Thánh rạn nứt hay các công trình xây cất hiện nay bị xuống cấp mau chóng là do bớt xén vật liệu, làm dối làm ẩu.

Những tai họa đều có nguyên nhân của nó, hoặc là do mình, hoặc là do người khác.  Những người Do thái nghĩ là do có tội nên Chúa phạt họ, còn mình vô tội thì được bình yên. Điều này đưa đến sự an toàn giả tạo.  Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh rằng mọi người đều là tội nhân nên cần phải sám hối ăn năn.  Lúc sống yên lành là lúc cần hoán cải.  Cây vả trong dụ ngôn cũng ở trong tình trạng an toàn.  Cây vả không cho trái độc, không làm hại cây khác, không phá cảnh quang.  Nó chỉ có tội làm hại đất, sử dụng đất màu mỡ mà không cho trái. Nhiều người cũng cảm thấy an toàn như cây vả.  Tự hào vì mình không làm điều xấu, chẳng làm hại ai.  Thế nhưng họ lại quên rằng mình đã phạm tội không làm điều tốt, những điều tốt có thể làm được và phải làm.  Nhiều người thường tự hỏi: tại sao người tốt cần phải hối cải? Tôi là người thường đọc kinh dự lễ rước lễ, không làm điều xấu hại ai, tại sao tôi phải ăn năn sám hối?  Sống đạo không phải chỉ lo tránh tội mà còn là gieo trồng cái tốt, cái thiện.

Có câu chuyện kể của ông chủ tiệm đồ cổ.  Vào một đêm đông, trời đã khuya, bão tuyết rơi lạnh lẽo, gió thổi mạnh rít từng cơn.  Bỗng dưng có tiếng gõ cửa.  Ông chủ cảm thấy khó chịu vì bị quấy rầy giữa đên khuya.  Khi cánh cửa vừa mở, một người thanh niên dáng bụi đời đang run rẩy với một bàn tay xoè ra van xin, một bàn tay đỡ cây gậy trên vai treo ít đồ đạc cá nhân.  Thấy hoàn cảnh đáng thương, ông chủ đưa tay với lấy ít bánh mì, vài đồng bạc lẻ trao cho hành khách.  Nhận được của bố thí, người thanh niên quay gót trở đi không nói lời cám ơn giã từ.  Khi đó chợt một ý tưởng đến trong đầu ông chủ nhà là nên mời người đó vào nghỉ đỡ một đêm, nhà vẫn còn phòng khách trống, còn chăn nệm ấm êm.  Tuy nhiên ông lại nghĩ nếu để cho người này ở lại thì căn nhà sạch sẽ của mình sẽ bị ẩm ướt, bị dơ bẩn.  Thế rồi ông vội vàng đóng kín cửa.  Hai ngày sau, có người thợ đem đến một cây gậy làm bằng gỗ quý. Khi đã thương lượng giá cả, người bán gậy cho biết, anh ta là người thợ chuyên đào mộ ở nghĩa trang.  Anh vừa chôn một người thanh niên mới chết, người thanh niên này vô gia cư, không tiền bạc, không người thân.  Tài sản anh ta chỉ là cây gậy, người thanh niên chết vì bị lạnh cóng, máu đông lại khi ngủ trên tuyết.  Nghe đến đây ông chủ tiệm cảm thấy hối hận và xấu hổ.  Ông hối hận không phải vì đã làm điều xấu mà vì điều tốt ông có thể làm cho người thanh niên nhưng ông đã không làm khiến cho anh phải chết rét.  Ông chủ tiệm kết thúc câu chuyện với nỗi thao thức: điều tôi ao ước là những sự dữ chúng ta làm có lẽ Thiên Chúa sẽ tha thứ.  Nhưng những gì tốt chúng ta đã không làm sẽ mãi mãi không được tha thứ.

Đó cũng chính là điều Chúa Giêsu muốn nói qua dụ ngôn cây vả.  Mục đích cây vả là sinh trái.  Người chủ vườn thất vọng không phải là cây vả sinh trái xấu, trái độc, trái chua mà là cây vả không sinh trái tốt.  Cứ để thêm một năm chăm bón vun xới may ra cây vả sinh hoa trái.  Chúa mời gọi thời gian sám hối hoán cải.  Lời mời gọi sám hối không chỉ là lời mời gọi xa tránh sự dữ nhưng còn là lời mời gọi làm việc lành, sinh hoa trái tốt.  Bởi đó, việc sám hối liên hệ ràng buộc mọi người.  Ai cũng phải làm lành lánh dữ.  Lánh dữ, không làm điều xấu chưa đủ, từ bỏ tội lỗi chưa đủ nhưng cỏn phải tích cực thực hành những điều tốt lành nữa.

Khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn được yên thân, an phận, không muốn làm phiền ai và cũng không muốn ai gây phiền hà cho mình.  Vì thế một người ngoan đạo có thể bị rơi vào tình trạng tự mãn, sống ích kỷ mà không hay biết.

Dụ ngôn cây vả cho ta thấy khuôn mặt Thiên Chúa. Chúa Cha là người chủ vườn kiên nhẫn: “Ðã ba năm nay…” Ngài đã nuôi bao hy vọng: “Tôi ra tìm trái mà không thấy.”  Quyết định chặt cây chỉ đến sau những lần hụt hẫng.  Ngài chỉ phạt khi đã làm đủ cách để lay động tim ta.  Chúa Giêsu là người làm vườn kiên nhẫn không kém: “Xin ông cứ để nó lại năm nay nữa.”  Ngài không ngừng ấp ủ chút hy vọng mong manh: “Tôi sẽ vun xới, bón phân, may ra sang năm nó có trái.”  Nhưng đừng quên lời đe dọa cuối cùng: “Nếu không ông chủ cứ chặt nó đi.”  Kiên nhẫn, hy vọng, chăm bón, nhưng cương quyết đòi hỏi: đó là thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân.  Ðức Giêsu vừa thôi thúc chúng ta mau mau hoán cải, vừa chấp nhận cho ta có thời gian trì hoãn.

Mùa chay là mùa ân sủng.  Người chủ vườn nhẫn nại và quảng đại cho cây vả thêm một năm nữa để hy vọng nó có thể sinh hoa trái.  Mỗi Mùa Chay, Thiên Chúa cho chúng ta thêm cơ hội để đổi mới con người, làm nhiều việc lành bác ái phúc đức.  Mỗi người không biết mình sẽ ra đi về với Chúa khi nào.  Mùa Chay là thời gian thuận tiện để mỗi người kiểm điểm về cây vả đời mình.  Thêm một cơ hội, thêm một kỳ hạn nữa.  Điều quan trọng là mỗi người đã làm gì với cơ hội và với kỳ hạn đó?

LM Giuse Nguyễn Hữu An

TÂM SỰ MÙA CHAY

TÂM SỰ MÙA CHAY

 Trầm Thiên Thu

Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng tự vấn: “Tôi là ai mà còn trần gian quá?”  Vâng, tôi chẳng là gì, chỉ là hư vô, có chăng chỉ là một “hạt bụi” nhỏ nhất mà tôi đã làm xốn mắt Thiên Chúa!

Gói thuốc lá nằm trên bàn viết trước mặt tôi.  Những đầu ngón tay ám vàng.  Đã bao lần hứa với lòng mình và người thân mà tôi vẫn chưa dứt bỏ hẳn được, dù vẫn biết “hút thuốc có hại cho sức khỏe.”

Chiều xuống mang đầy sắc tím – sắc màu sám hối.  Chợt nhớ câu: “Hãy xé lòng, đừng xé áo” (Ge 2:13).  Tiếng Chúa hóa thành tiếng lòng cứ mãi thôi thúc tôi không nguôi.  Tôi không thể không trở về gặp chính mình trước khi gặp Đấng đã vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá.

Nếu ăn chay là kiêng thịt và nhịn đói thì quá dễ, vì tôi thường xuyên làm việc đó, dù có thể chỉ miễn cưỡng làm theo hoàn cảnh “ép” tôi làm một cách vô thức.

Nếu ăn chay là “giữ miệng,” tôi cũng không phải chiến đấu nhiều, vì cả ngày tôi chỉ “trò chuyện” với cây bút và trang giấy.  Vả lại, tôi thường chẳng muốn tranh chấp gì với bất kỳ ai – dù là điều nhỏ.

Nếu ăn chay là giao hòa với tha nhân trước khi giao hòa với Thiên Chúa, đồng thời biết rộng lượng hơn.  Điều này cũng chẳng khó đối với tôi.  Biết phận mình thế nào, tôi không phiền gì ai – dù nhìn bề ngoài “nghiêm”, và thường “bị” người ta cho tôi là… “khó tính”!

Nếu ăn chay là hãm dẹp bớt đam mê thì đối với tôi lại nan giải.  Thế mới hay “khi ta mạnh lại là lúc ta yếu.”  Tôi cứ tự biện hộ và chiều chuộng mình vô cớ nên hút thuốc lá nhiều đến nỗi đã trở thành thói quen, hút theo phản xạ – vui cũng hút, buồn cũng hút, no cũng hút, đói cũng hút, rảnh cũng hút, bận cũng hút, ngày cũng hút, đêm cũng hút, hút theo kiểu nói “điếu này vừa hạ rộng, điếu kia đã động quan” – hút quá nhiều và trở thành cố tật!

Ngày xưa, tôi có dạy lớp tình thương.  Thấy họ có loại “cao dán cai thuốc” và tôi đã xin họ.  Họ nói loại này dán vào bất kỳ nơi nào trên cơ thể, mỗi ngày một miếng, dùng bảy ngày thì sẽ “sợ” thuốc lá – nghĩa là khi hút thuốc hoặc ngửi mùi thuốc thì “người cai” sẽ cảm thấy khó chịu hoặc buồn nôn gì đó.  Sau một tuần “cai nghiện”, tôi càng thèm (vì “nhịn” lâu), tôi mua MỘT điếu duy nhất và… thử hút xem sao. Rít một hơi, rồi hai hơi, ba hơi… không thấy phản ứng gì, thế là tôi “an tâm” hút tiếp vô tư.  Thật tồi tệ! Bỏ một thói quen (dù nhỏ) cũng không dễ chút nào.

Một lần nữa Mùa Chay lại về.  Tôi mở lại “trang lòng” mình để gột rửa.  Con người tưởng là mạnh mẽ mà quá yếu đuối.  Thật đúng như Đại đế Napoléon đã nói: “Chiến thắng một đạo quân còn dễ hơn chiến thắng chính mình.”  Với Ơn Chúa, tôi hy vọng có thể dứt bỏ thêm một vài tật xấu riêng nào đó để có thể “giữ chay” theo đúng Tôn Ý Thiên Chúa.  Thoát khỏi “xiềng xích” của một thói xấu nào đó, dù chỉ là thói xấu bình thường, dù không hề vi phạm Luật Chúa và Luật Giáo hội, người ta cũng vẫn cảm thấy “nhẹ mình.”

Xin tẩy rửa tâm hồn con, lạy Chúa, Đấng thương con trọn vẹn từ thuở hồng hoang đến muôn đời, xin cho con cùng CHẾT và được SỐNG LẠI với Ngài.  Con thâm tín rằng tội lỗi con dù có thắm như son và đỏ như máu, ân tình Ngài vẫn tẩy sạch con nên trắng ngần như bông, như tuyết.  Con thật hạnh phúc vì có một “Thiên Chúa là tình yêu” (Ga 4:8).

 Trầm Thiên Thu

******************************

Chúa bị đóng đinh và sống lại,

Xin dạy chúng con đương đầu với những đấu tranh hằng ngày,

để chúng con sống trọn vẹn hơn.

 

Chúa đã đón nhận những thất bại trong đời người,

như nỗi đau khổ trên thập giá,

với lòng khiêm tốn và nhẫn nại,

xin cho chúng con biết đón nhận

những nhọc nhằn và đấu tranh mỗi ngày

như những dịp để lớn lên và giống Chúa hơn.

 Xin cho chúng con biết đương đầu với những thử thách đó

với lòng kiên nhẫn và bạo dạn,

vì được Chúa nâng đỡ.

 Xin cho chúng con hiểu rằng

chúng con chỉ sống trọn vẹn

khi chấp nhận từ bỏ mình luôn luôn,

với những thèm muốn ích kỷ.

Vì chỉ khi chết với Chúa,

chúng con mới sống lại với Chúa.

 Từ nay, xin cho chúng con đừng bao giờ đau khổ và khóc than

đến mức quên mừng rỡ vì Chúa đã sống lại !

Chúa là mặt trời rực rỡ của tình yêu Chúa Cha,

Chúa là hi vọng hạnh phúc muôn đời,

Chúa là ngọn lửa tình yêu sáng rực.

Ước gì niềm vui của Chúa Giêsu là sức mạnh của chúng ta

Và liên kết chúng ta trong sự bình an, hiệp nhất và tình thương.  Amen.

 Hiền Hòa chuyển dịch

CHÚA KHÔNG ƯA NHỮNG MÊ TÍN DỊ ĐOAN

CHÚA KHÔNG ƯA NHỮNG MÊ TÍN DỊ ĐOAN

(Sống Mùa Chay)

Tuyết Mai

Từ khi Chúa Giêsu đi Rao Giảng Tin Mừng về Nước Trời thì không một lúc nào mà chúng ta nghe thấy Chúa Giêsu lại giảng Nước Trời là điều giả dối, không có thật hay tin vào chính Ngài là tin vào mê tín dị đoan mà không ngược lại là những hành vi tin vào mê tín dị đoan là do chúng ma quỷ xúi biểu chúng ta làm vậy.

Bởi nếu chúng ta tin vào mê tín dị đoan có nghĩa là chúng ta không hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa Đấng quyền năng vô song có thể làm nên tất cả, hủy diệt tất cả và những điều thuộc về chúng quỷ Satan.   Mà hiện nay nhà thờ Satan đã dần mọc lên cách công khai để chiêu dụ nhiều người nhẹ dạ đến theo thờ chúng.

Chúng ta con cái Chúa hãy thành thật và tự kiểm điểm những hành vi bất xứng của mình với Thiên Chúa xem là chúng ta thường ngày đã tin vào những mê tín dị đoan đến bao nhiêu phần trăm và tin tuyệt đối vào Thiên Chúa bao nhiêu phần trăm? Và số còn lại đi hai hàng là bao nhiêu phần trăm?.

Bao nhiêu người hiện đang tin vào bói toán, Tử Vi, coi Phong Thủy hay thỉnh thoảng chơi Cầu Cơ vào ban đêm chỉ để muốn biết rằng khi nào thì chúng ta bỗng chốc giầu có mà không cần dùng đến tài năng, khả năng cùng sức khoẻ mà Chúa đã ban cho … Qua mua vé số, đánh đề, cờ bạc và mọi hình thức của đỏ đen?.

Ai còn nhớ Chúa đã dẹp tan hình thức cờ bạc, đổi tiền, gian xảo ở nơi thờ phượng Chúa như là Đền Thờ theo nghĩa xác thực đã được diễn tả trong Phúc Âm? Nhưng có phải nghĩa bóng thì Nơi thờ phượng Chúa là ngay trong tâm hồn của chúng ta?.   Vì Chúa dạy Đền Thờ của Chúa là ở ngay chính trong tâm hồn và thân xác không phạm tội của chúng ta.

Nên Mùa Chay là mùa chúng ta hãy cố gắng dành thời giờ mà liên kết với Thiên Chúa với Đức Maria nhiều hơn, đến Tòa Giải Tội để xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cùng ăn năn hối cải để được Chúa thương mà cứu vớt linh hồn của chúng ta, nhất là trong giờ lâm tử, trong phút thập tử nhất sinh, chết bất đắc kỳ tử.

Vì chả ai mãi sống đời ở Trần Gian này mà hằng ngày chúng ta cứ phải bám vào những của chóng qua ấy.   Những của mà khi thân xác chúng ta không còn thì của ấy sẽ vào tay người khác tiêu xài, vung vãi, phung phí và rồi nó cứ thế hết vào tay người này đến tay người khác.   Bởi thế mà Hỏa Ngục có vô số kể con người khi còn sống vì tham lam tích góp của cải đã phải mất linh hồn sống đời rất quý và rất vô giá … Thì quả thật là vô phúc lắm thay!!!.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

19 tháng 2, 2016

CHÚA BIẾN HÌNH TRÊN NÚI TABOR

CHÚA BIẾN HÌNH TRÊN NÚI TABOR

(CN II Mùa Chay, Năm C)

Tuyết Mai

Ôi loài người tội lỗi của chúng ta thì sao có thể tưởng tượng được những hình ảnh chợt biến đổi, biến dạng của Chúa Giêsu qua một hình ảnh tuyệt vời mà trên Thế Gian chưa từng có ai có được diễm phúc để thấy được.   Mà chỉ có Chúa muốn cho ai thấy thì người ấy mới thấy được mà thôi dù rằng thấy bằng con mắt thịt như ba tông đồ của Chúa là Phêrô, Giacôbê và Gioan trong bài Phúc Âm của ngày hôm nay.   Hay bằng con mắt Đức Tin mà Thiên Chúa đã biến đổi được tâm hồn của rất nhiều người trong chúng ta.

Và đấy mới thật sự là hạnh phúc Thiên Chúa dành ban cho loài người vì Người đã quá đỗi yêu thương nhân loại mà củng cố thêm Niềm Tin cùng Hy Vọng tràn đầy cho chúng ta thấy được hình ảnh cùng dung mạo sáng ngời qua Chúa Giêsu; thật sự là Con Thiên Chúa.   Từ đó chúng ta có thể hình dung thêm được Nước Trời.   Hình dung thêm được cuộc sống ở Đời Sau trên Thiên Quốc luôn là sáng láng, thánh thiện, trọn lành, đẹp đẽ, tuyệt Mỹ và không hạnh phúc gì bằng.

Quả Chúa Giêsu đã hé mở một tia ánh sáng rực rỡ, sáng ngời, trong luồng ánh sáng đã làm cho ba ông tông đồ không bị chói lòa cái nhìn của con mắt thịt.   Nhưng các ông đã cảm nhận được một thứ ánh sáng rất dịu êm mà tâm hồn cứ muốn được mãi đắm chìm trong luồng ánh sáng ấy.   Do đó mà các ông đã không biết mình đã nói gì?.   Nhưng khi luồng ánh sáng ấy đã biến đi và nghe tiếng Chúa Giêsu nói thì các ông mới hoàn hồn và tỉnh lại giây phút của hiện tại.   Vâng lời Chúa Giêsu các ông đã giữ kín trong lòng và đã không thuật lại điều thấy ấy cho ai hay biết.

Còn chúng ta là con người tội lỗi nhưng đã biết ăn năn, hối cải và Trở Lại cùng Thiên Chúa thì được Người biến đổi ở dạng nào? Có phải Người chọn mạc khải cho chúng ta thấy được qua Con Mắt Đức Tin hay không? Hẳn là phải thế vì chúng ta đã cảm nhận được sự thay đổi nên tốt lành trong ánh mắt nhìn, biết cảm thương, biết chia sẻ cho anh chị em khổ nghèo đang sống lang thang không cửa không nhà, không người thân thương để cảm thông và để an ủi họ!? … Từ tấm bánh, quần áo, thuốc men và những lời an ủi hay khích lệ thật lòng từ trái tim nhân ái.

Ở mọi thời đại đã cho chúng ta thấy hình ảnh Cỏ lùng nhiều hơn Lúa nhưng Thiên Chúa Người vẫn luôn có hy vọng trên chúng ta vì nếu không thì Thế Gian này đã bị sụp đổ và bị nổ tung từ lâu lắm rồi.    Nhưng chỉ cần một tấm lòng mở rộng như cậu bé tốt lành kia đã đem 2 con cá và 5 ổ bánh mì lại cho Chúa để Chúa Giêsu có thể làm phép lạ mà nuôi 5000 ngàn đàn ông, chưa kể số đàn bà và con nít.   Đã thế các tông đồ lại còn lượm lại được 12 thúng đầy những khúc bánh mì vụn.

Hay chuyện của bà góa nghèo có tấm lòng vàng đã bỏ hết 2 đồng xu mà bà có vào thùng tiền, được Chúa Giêsu khen thưởng vì là số tiền có thể nuôi bà sống được 1 ngày nhưng hẳn bà tin rằng Thiên Chúa sẽ luôn luôn nuôi cho bà được đầy đủ.   Do thế mà bà luôn sống trong sự tin tưởng, phó thác trong bàn tay đầy quyền năng của Thiên Chúa là Đấng tối cao và là duy nhất.

Bài Phúc Âm của tuần này Thiên Chúa đã hé mở cho chúng ta thấy một chút quyền uy, lạ lùng, chói ngời và sáng tỏa như phép lạ mà Chúa muốn biến đổi trong tâm hồn tăm tối của chúng ta.   Là có mắt nhìn hướng về những điều thiện cùng việc làm tốt lành để làm cho gia đình chúng ta thay đổi.   Giúp xã hội nên tốt lành và như một cây nến cùng những cây nến khác từ từ biến thành cây đuốc sáng, bùng to lên như lửa trại hay trở thành ngọn Hải Đăng chiếu rọi vào bóng đêm mà nhiều người đang đắm chìm trong biển đời tội lỗi biết đâu là bến bờ của Yêu Thương mà quay trở về để tìm lại được sự sống sung mãn cùng người Mục Tử là Chúa Giêsu và Ràn của Ngài là Nước Trời, Nơi có sự sống muôn muôn đời bên ba ngôi Thiên Chúa.   Amen.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

21 tháng 2, 2016

33 CÂU HỎI GIÁO LÝ MÙA CHAY

33 CÂU HỎI GIÁO LÝ MÙA CHAY

Mùa Chay là mùa sám hối đặc biệt để chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua của Đức Kitô. Mùa Chay kéo dài 40 ngày, bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro và kết thúc trước Thánh Lễ Tiệc Ly chiều ngày thứ Năm Tuần Thánh.

33 CÂU HỎI GIÁO LÝ MÙA CHAY

33 CÂU HỎI GIÁO LÝ MÙA CHAY

  1. Mùa Chay là gì ? Mùa Chay kéo dài bao nhiêu ngày, bắt đầu và kết thúc vào ngày nào ?

Mùa Chay là mùa sám hối đặc biệt để chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua của Đức Kitô. Mùa Chay kéo dài 40 ngày, bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro và kết thúc trước Thánh Lễ Tiệc Ly chiều ngày thứ Năm Tuần Thánh.

  1. Kinh Thánh cho ta biết con số 40 ám chỉ những biến cố lớn nào ?

Con số 40 ( ám chỉ ) gợi nhớ 40 năm dân Do Thái Vượt Qua trong sa mạc tiến về Đất Hứa (Ds 14, 33; 32, 13), lụt Hồng Thủy kéo dài 40 đêm ngày (St 7) và cuộc chay tịnh 40 đêm ngày của Chúa Kitô trong rừng vắng trước khi rao giảng ơn cứu độ (Mt 4, 2; Lc 4, 1 – 2).Các Giáo Phụ cũng coi thời gian giữ chay tương tự thời gian bốn mươi ngày ông Môsê ở trên núi Xinai (Xh 34, 28), hoặc 40 ngày ông Êlia chạy trốn ở núi Khorép (1V 19, )…

  1. Mùa Chay có mấy đặc tính ?

Mùa Chay là mùa sám hối đặc biệt để chuẩn bị mừng Lễ Vượt Qua của Đức Kitô, và nhất là nhớ lại hoặc dọn mình lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy.

Mùa Chay còn là mùa chuẩn bị các tín hữu cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua bằng sự nhiệt thành nghe Lời Chúa và chuyên chăm cầu nguyện mỗi ngày.

  1. Mùa Chay mang ý nghĩa gì ?

Mùa Chay là thời kỳ sám hối, cầu nguyện: Hội Thánh kêu gọi mọi người quay về với Chúa, thanh tẩy tâm hồn, từ bỏ các tật xấu, hy sinh hãm mình và làm việc bác ái.

Mùa Chay cũng là thời gian huấn luyện Đức Tin của các Kitô hữu cho thêm vững mạnh, và sâu xa hơn khi nhớ lại Bí Tích Thánh Tẩy đã lãnh nhận.

Mùa Chay còn là mùa chuẩn bị cho anh chị em Dự Tòng đón nhận sự sống thiêng liêng nhờ việc sống tinh thần của Bí Tích Thánh Tẩy.

  1. Chủ đề Sứ Điệp Mùa Chay năm 2014 của Đức Thánh Cha là gì ?

Chủ đề của Sứ điệp trích từ thư thứ hai của Thánh Phaolô gửi tín hữu Corintô: “Người đã trở nên nghèo để làm cho chúng ta được giàu có nhờ cái nghèo của Người” (x. 2 Cr 8,9).

  1. Vì sao ĐTC chọn chủ đề này?

Vì đây là chủ đề yêu thích của Đức Thánh Cha Phanxicô; ngay từ khi khởi đầu sứ vụ Giáo hoàng, ngàiđã luôn nhấn mạnh đến chiều kích này của đời sống Kitô hữu.

  1. Bốn phương thế Hội Thánh quen dùng trong Mùa Chay là gì ?

Bốn phương thế Hội Thánh quen dùng trong Mùa Chay là: sám hối, ăn chay hãm mình, cầu nguyện và làm các việc bác ái.

  1. Sám hối là gì ?

Sám hối là can đảm và khiêm tốn nhìn nhận những lỗi lầm mình đã phạm.

  1. Việc chay tịnh giúp con người ra sao ?

Qua việc chay tịnh, con người nhìn nhận mình lệ thuộc Thiên Chúa, vì chính lúc không sử dụng lương thực Chúa ban, con người mới cảm nghiệm được tính cách bấp bênh của sức lực mình. Hơn nữa, ăn chay là muốn bày tỏ cùng Thiên Chúa rằng: Nếu không có Người, chúng ta không thể làm gì được; và qua việc thực lòng nhìn nhận tính cách hư vô của mình, con người khẩn cầu Chúa tha thứ.

  1. Theo luật HT, đến tuổi nào thì buộc phải giữ chay và kiêng thịt ?

Theo luật Hội Thánh, mọi người từ tuổi thành niên (tức là 18 tuổi trọn; GL 97) cho đến khi bắt đầu 60 tuổi thì buộc phải giữ chay (GL 125 ). Còn luật kiêng thịt buộc những người từ 14 tuổi trọn trở lên.

  1. Giáo Hội buộc ta phải giữ chay và kiêng thịt vào những ngày nào ?

Giáo Hội buộc ta phải giữ chay và kiêng thịt vào hai ngày Thứ Tư Lễ Tro và ngày Thứ Sáu Tuần Thánh (x. GL 125). Việc chay tịnh của Hội Thánh vào hai ngày này nói lên ý muốn đền tội và từ bỏ tội lỗi và đó cũng là một sự chuẩn bị để mừng lễ Phục Sinh.

  1. Phụng Vụ ngày thứ Tư Lễ Tro gợi lên cho tín hữu những gì ?

Phụng Vụ ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi lên cho tín hữu ý thức về thân phận thụ tạo tội lỗi của mình. Khi nhận tro rắc lên đầu, tín hữu được nhắc nhớ: “hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro”.

  1. Tại sao CN thứ VI Mùa Chay được gọi là Chúa Nhật Lễ Lá ?

Chúa Nhật bắt đầu Tuần Thánh gọi là Chúa Nhật Lễ Lá, vì có cuộc kiệu lá để kỷ niệm việc Chúa Giêsu long trọng tiến vào thành Thánh Giêrusalem để hoàn tất Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người. Tục lệ này khởi đầu tại Giêrusalem vào cuối thế kỷ thứ IV.

  1. Nghi thức làm phép lá và rước lá nhắc nhở chúng ta điều gì ?

Nghi thức làm phép lá và rước lá nêu cao vương quyền của Đức Kitô, đồng thời để giúp chúng ta sống lại cảnh tượng Chúa Kitô khải hoàn tiến vào Giêrusalem. Người muốn tỏ uy quyền và vinh quang của Người để chúng ta bền vững, tin tưởng và trung thành với Người.

  1. Tuần Thánh là gì ?

Tuần Thánh là tuần lễ chủ yếu của Năm Phụng Vụ, bắt đầu từ Chúa Nhật Lễ Lá đến Chúa Nhật Phục Sinh.

  1. Trong tuần Thánh, GH cử hành những cuộc tưởng niệm nào ?

Trong Tuần Thánh, Giáo Hội cử hành cách đặc biệt hơn các biến cố trong những ngày cuối cùng của Chúa Giêsu, tức là cuộc khổ nạn, cái chết và sự Phục Sinh của Người. Trong tuần lễ này, Tam Nhật Vượt Qua là những ngày quan trọng nhất.

  1. Hằng năm, người Do Thái mừng lễ Vượt Qua để làm gì ?

Hằng năm người Do Thái mừng lễ Vượt Qua để tưởng nhớ lại biến cố Vượt Qua Biển Đỏ mà ngợi khen, cảm tạ Thiên Chúa đã yêu thương giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, và nhắc nhở họ phải sống xứng đáng là dân riêng của Chúa.

  1. Hội Thánh cử hành Tam Nhật Vượt Qua với mục đích nào ?

Hội Thánh cử hành Tam Nhật Vượt Qua để cho ta thấy trước và sống trước những thực tại của ngày cánh chung, ngày mà Chúa Kitô sẽ tập hợp tất cả chúng ta lại trong Nước của Cha Người. Mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giêsu đã khơi mào và bảo đảm cho ta được hưởng ngày hồng phúc ấy.

Hơn nữa, Hội Thánh dùng Tam Nhật Vượt Qua để đón nhận những con cái mới được sinh ra trong ân sủng, để giao hòa những hối nhân và canh tân đời sống những người đã được thanh tẩy.

  1. Tam Nhật Vượt Qua có ý nghĩa gì đối với Kitô hữu ?

Tham dự Tam Nhật Vượt Qua, tín hữu được sống với Đức Kitô trong bữa Tiệc Ly, theo Người lên Núi Sọ, bước vào chốn an nghỉ của Người và chiêm ngắm Người Phục Sinh vinh hiển.

  1. Tại sao Tam Nhật Vượt Qua lại là trung tâm điểm của Phụng Vụ Kitô giáo ?

Tam Nhật Vượt Qua là trung tâm điểm của Phụng Vụ Kitô giáo, bởi vì tất cả nền Phụng Vụ của Hội Thánh đều phát xuất từ mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô: khổ nạn, chịu chết và phục sinh. Chúa Phục Sinh là ngày lễ Mẹ của mọi Chúa Nhật trong năm; Thánh Lễ nào cũng đều tưởng niệm và tái diễn công cuộc Vượt Qua của Đức Kitô.

  1. Trong ngày thứ Năm Tuần Thánh, Hội Thánh cử hành những nghi thức long trọng nào ?

Thánh Lễ Truyền Dầu được cử hành vào ban sáng do Đức Giám Mục Giáo Phận chủ tế cùng với Linh Mục đoàn để làm phép dầu Bệnh Nhân, dầu Dự Tòng và để thánh hiến Dầu Thánh.Thánh Lễ tưởng niệm bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu được cử hành ban chiều để nhắc nhớ việc Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Thánh Lễ này khai mạc Tam Nhật Vượt Qua.

  1. Phụng Vụ chiều thứ Năm Tuần Thánh, Hội Thánh tưởng niệm những biến cố gì liên quan đến Chúa Giêsu ?

Trước hết là tưởng niệm bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu, việc Ngài thiết lập Bí Tích Thánh Thể và chức Linh Mục (x. Mt 26, 26-29), cũng như nghi thức rửa chân, biểu tượng tình yêu phục vụ của Đức Kitô (x.Ga 13,1 -20).

  1. Khi cử hành nghi thức rửa chân, Hội Thánh muốn nhắc chúng ta điều gì ?

Chính vì yêu thương mà Chúa Giêsu đã hạ mình xuống rửa chân cho các môn đệ, như đầy tớ rửa chân cho chủ. Qua nghi thức này, Hội Thánh muốn nhắc nhở chúng ta phải noi gương Đức Kitô trong tinh thần phục vụ: “Phục vụ vì yêu thương”.

  1. Kinh Thánh cho ta biết tâm trạng của Chúa Giêsu trong vườn Ghếtxêmani thế nào ?

Trong vườn Ghếtsêmani, Chúa Giêsu cảm thấy sợ sệt, buồn rầu và xao xuyến. Người đã xin Chúa Cha cho khỏi qua giờ đau khổ, khỏi phải uống chén này. Tuy nhiên, dầu sợ hãi, Người cũng sẵn sàng chết, nếu đó là Thánh ý Chúa Cha: “nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (x. Mt 26, 39; Mc 14, 35 – 36; Lc 22, 42 – 44).

  1. Chén mà Chúa Giêsu xin Chúa Cha cho Ngài khỏi uống ám chỉ điều gì ?

Chén ở đây ám chỉ những thử thách và những đau khổ mà Đức Giêsu sắp phải chịu. Đó chính là cuộc thương khó của Ngài.

  1. Trọng tâm của việc cử hành chiều ngày thứ Sáu Tuần Thánh là gì ? Tại sao ?

Trọng tâm của việc cử hành chiều thứ Sáu Tuần Thánh là nghi thức suy tôn và kính thờ Thánh Giá, vì nhờ Thánh Giá mà ơn cứu độ được ban cho chúng ta.

  1. Trên Thập Giá, Đức Giêsu đã nói những lời nào ?

Lời thứ nhất: Đức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha xin Người tha cho những kẻ làm khổ mình: “Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34);
Lời thứ hai:Đức Giêsu chấp nhận lời xin của tên trộm bị đóng đanh cùng: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên Đàng” (Lc, 23, 43);

Lời thứ ba: Đức Giêsu trao gửi Thánh Gioan cho Đức Mẹ: “Thưa Bà, đây là Con Bà” (Ga 19, 26);

Lời thứ tư:Đức Giêsu trao gửi Đức Mẹ cho Thánh Gioan: “Đây là Mẹ của anh” (Ga 19, 27);

Lời thứ năm: Đức Giêsu than thở với Chúa Cha: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của Con, sao Ngài bỏ rơi Con !” (Mt 27, 46);

Lời thứ sáu:Đức Giêsu phó thác linh hồn cho Chúa Cha: “Lạy Cha, Con xin phó thác linh hồn Con trong tay Cha” (Lc 23, 46);

Lời thứ bảy: Đức Giêsu kêu khát và sau khi uống chút giấm chua, Đức Giêsu nói: “Thế là mọi sự đã hoàn tất”. Rồi Người tắt thở. (Ga 19, 30).

  1. Khi chết trên Thập Giá, Đức Kitô muốn nói với chúng ta điều gì ?

Đức Kitô muốn nói rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng: “Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu” (Ga 15, 13).

  1. Tại sao gọi tình yêu của Thiên Chúa là tình yêu cứu chuộc ?

Chúng ta gọi tình yêu của Thiên Chúa là tình yêu cứu chuộc vì qua hy lễ của Đức Kitô, tình yêu Thiên Chúa giải thoát loài người khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết. (Rm 5, 8).

  1. Khi chiêm ngắm Chúa Giêsu chết trên Thập Giá, chúng ta phải có những thái độ nào ?

Suy tôn:vì Chúa đã chiến thắng sự chết;

Kính phục:vì Chúa đã hy sinh chịu chết;

Cảm mến:vì Chúa đã dùng cái chết để tỏ lòng yêu thương ta;

Tri ân:vì Chúa đã chịu chết để chuộc tội cho ta;

Ngưỡng mộ: vì Chúa muốn chúng ta noi theo Người: “Ai muốn theo Ta, thì hãy bỏ mình và vác thập giá mình mà theo”.

Vì thế, chúng ta hãy giục lòng ăn năn tội và quyết tâm sống mỗi ngày một đẹp lòng Chúa Giêsu hơn.

  1. Ngày thứ Bảy Tuần Thánh, Hội Thánh muốn chúng ta làm gì ?

Ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, Hội Thánh mời gọi chúng ta cùng với Mẹ Maria cầu nguyện bên Mồ Chúa, cùng Người suy ngắm các đau khổ, cái chết và việc mai táng của Chúa Giêsu trong niềm hy vọng và tin tưởng.

  1. Trên hình Thánh Giá ở cây nến Phục Sinh, Linh Mục ghim năm hạt hợp hương mang ý nghĩa gì ?

Trên hình Thánh Giá ở cây nến Phục Sinh, năm hạt hợp hương chính là biểu tuợng của năm dấu đanh Chúa Giêsu (dấu đanh trên cổ tay trái, dấu đanh trên cổ tay phải dấu đanh trên cổ chân trái, dấu đanh trên cổ chân phải, và dấu đanh bên cạnh sườn Chúa Giêsu).

  1. Dấu Thánh Giá mang ý nghĩa gì ?

Thánh Giá là dấu chỉ của sự cứu độ. Khi làm dấu Thánh Giá, chúng ta nhận biết mình thuộc về Chúa Kitô và bày tỏ niềm tin vào Chúa Kitô, Đấng đã chết trên Thánh Giá để cứu chuộc chúng ta.
Baoconggiao.com

PHẢI CẦU NGUYỆN THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA?

PHẢI CẦU NGUYỆN THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA?

CẦU NGUYỆN LÀ GÌ VÀ
PHẢI CẦU NGUYỆN THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA
?

  • Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Hỏi: xin cha giải thích cầu nguyện là gì ? Trong Phúc Âm Chúa Giêsu nói “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình và vác thập giá theo Ta.” Như vậy cầu xin Chúa cho khòi bệnh tật và mọi gian nan khốn khó ở đời thì có trái với lời dạy trên của Chúa và có tội hay không ?

Trả lời: Trước hết, xin giải thích cầu nguyện là gì.

Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên với Chúa để tâm sự hay nói chuyện với Chúa trong thân tình Cha con khi vui cũng như lúc buồn, khi gặp gian nan khốn khó hay lúc được những điều vui thỏa vừa ý.

Thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê su cũng nói : “đối với tôi, cầu nguyện là một sự hướng lòng lên, một cái nhìn đơn sơ hướng lên trời. Đó là tiếng kêu của lòng tri ân và của tình yêu trong cơn thử thách cũng như trong lúc hưởng niềm vui.”(St Therese of Licieux, Autobiography C. 25p)

Như thế cầu nguyện là tâm tình thân mật với Chúa trong niềm tin có Chúa là Cha nhân từ luôn lắng nghe mọi lời cầu nguyện, cầu xin của con cái loài người và hằng ban muôn ơn lành cho chúng ta, những người có đức tin và ngay cả cho những người chưa có đức tin, chưa biết Chúa và yêu mến Người, căn cứ vào chính lời Chúa Giêsu đã nói với các mộn đệ xưa như sau:

“Còn Thầy, Thầy bảo anh em : hãy yêu kẻ thù và và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính.” (Mt 5:44- 45)

Vậy chúng ta phải cầu nguyện cách nào cho đẹp lòng Chúa ?

Căn cứ vào kinh Lậy Cha mà Chúa Giêsu dạy các Tông Đồ xưa, chúng ta có thể rút ra được những chỉ dẫn sau đây:

Trước hết, Chúa nói cho chúng ta biết:

1- Chúng ta có một CHA ở trên trời

2- Vì thế, chúng ta phải nguyện xin trước hết cho danh CHA cả sáng, cho Vương Quốc của Cha được lan rộng và nhất là cho thánh Ý Cha được thực hiện dưới đât cũng như trên trời.

3- Sau cùng, chúng ta xin CHA ban cho những nhu cầu cần thiết như cơm ăn áo mặc, để sống, hạnh phúc ở đời này.

Như vậy, cầu xin cho được an vui, mạnh khỏe, có công ăn việc làm và khỏi bệnh tật là điều đẹp lòng Chúa, vì là con người, chúng ta phải cần những nhu cầu ấy bao lâu còn sống trên trần thế này.

Trong tinh thần cầu nguyện trên đây, chúng ta đọc thấy nhan nhản trong Kinh Thánh những lời cầu nguyện có nội dung ca ngợi, cảm tạ và cầu xin Chúa thương cứu giúp như sau:.

a- Cầu xin Ca ngợi (prayer of praises):

“Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa
Câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi
Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa
Xin các bạn nghèo hãy nghe tôi nói mà vui lên
Hãy cùng tôi ngượi khen ĐỨC CHÚA
Ta đồng thanh tán tụng danh Người.” (Tv 34 :2-4)

  1. Cầu nguyện tạ ơn (Prayer of Thanksgivíng)

Chúc tụng Chúa vì Người nghe tiếng tôi khẩn nguyện
Chúa là sức mạnh, là khiên mộc chở che tôi
Lòng tôi đặt tin tưởng nơi Người
Tôi đã được Người thương trợ giúp
Nên lòng tôi vui mừng hoan hỉ, cất cao tiếng hát tạ ơn Người” (Tv 28:6-7)

c- Cầu nguyện xin ơn (prayer of petitions)

Lậy Chúa, xin đoái thương, này con đang kiệt sức
Chữa lành cho con,vì gân cốt rã rời
Toàn thân con rã rời quá đỗi
Mà lậy Chúa, Chúa còn trì hoãn đến bao giờ ?
Lậy Chúa, xin trở lại mà giải thoát con
Cứu độ con, vì Ngài nhân hậu” (Tv 6:2-5)

Trong khi đi rao giảng Tin Mừng cứu độ, Chúa Giêsu cũng đã chữa lành cho biết bao người bệnh tật như đui, mù, què, câm điếc, phong cùi … cũng như làm phép lạ biến bánh ra nhiều để cho hàng ngàn người đói ăn no nê. Điều này cho thấy, Chúa đã quan tâm đến nhu cầu thể lý của con người, ngoài nhu cầu thiêng liêng là cần được cứu rỗi. Vầ để thỏa mãn những nhu cầu đó, Chúa Giếsu đã dạy câc Tông Đồ phải cầu xin với Chúa Cha nhân danh Người như sau:

“Thật, Thầy bảo thật anh em
Anh em mà xin Chúa Cha điều gì, thì Người sẽ ban cho anh em
Vỉ danh Thầy” (Ga 16:23)

Phải cầu xin Chúa CHA vì Người là nguồn ban phát mọi ơn lành và, phúc lộc tối cần cho con người sống vui và hạnh phúc ở đời này và nhất là được cứu rỗi để sống đời đời trên Thiên Quốc mai sau.

Như thế, cầu nguyện là một nhu cầu tối cần thiết cho những ai có niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng giầu tình thương và vô cùng nhân hậu. Phải cầu xin Người vì chúng ta thiều thốn mọi sự, và nhất là không có đủ sức để đứng vững trước mọi thù địch đe dọa niềm tin có Thiên Chúa và hy vọng được sống hạnh phúc với Người, ngay từ đời này trước khi được thực sự chiêm ngưỡng Thánh Nhan Người trên Nước trời mai sau.Cầu nguyện ví được như hơi thở của thân xác. Không có hơi thở thì không thân xác nào có thể sống được. Đó là lý do vì sao Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15:5) Không có Thầy, nghĩa là không có ơn Chúa phù giúp, thì ta không thể đứng vững và thăng tiến trong đời sống tin, cậy, mến, cũng như được an vui, mạnh khỏe khỏe và may lành trong trần thế. này.

Nhưng khi Chúa nói : “Ai muốn theo Thầy,phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24), chúng ta phải hiểu thế nào ?

Trước hết, nói đến thập giá là nói đến sự đau khổ mà bản chất con người không ai muốn chấp nhận. Nhưng đau khổ thập giá lại là phuơng tiện cứu độ hữu hiệu nhất mà Chúa Giêsu đã vui lòng chấp nhận để đền tội thay cho cả nhân loại trong chương trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa. Vì thế, muốn dự phần vinh quang phục sinh với Chúa Kitô, tức là được sống hạnh phúc đời đời với Chúa trên Thiên Quốc thì chúng ta cũng phải chia sẻ phần nào sự đau khổ của Người.

Tuy nhiên, nói chia sẻ đau khổ với Chúa, hay vác thập giá theo Người không có nghĩa là phải xin Chúa trao cho thập giá để vác, nhiều khốn khó để chịu. mà chủ yếu là phải vui lòng chấp nhận những thánh giá mà Chúa muốn gửi đến hay tha phép cho xảy ra trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Nói rõ hơn, khi gặp phải những gian nan khốn khó mà mình không mong muốn, nhưng không tránh được như bệnh tật, nghèo khó, thất nghiệp, bất công v.v. thi phải coi đó như những khổ giá mà Chúa muốn chia sẻ để cho ta được dự phần đau khổ với Chúa hầu được thông phần vinh quang với Người. Nhưng cầu xin Chúa giúp cho có sức chịu đựng và vượt qua những khó khăn, đau khổ này lại là điều phải lẽ và đẹp lòng Chúa vì Người nhân nhậu và vui thích đuợc ban ơn cho ta. Nói khác đi. Chúa không cấm chúng ta cầu xin Chúa cho mình hay cho người thân được khòi bênh tật, được có công ăn việc làm tốt, đươc thành đạt trong học hành v.v. Mặt khác, Chúa cũng không mong muốn chúng ta “anh hùng” xin Người gửi những đau khổ tinh thần và thể xác cho ta chịu để lập công.

Chính Chúa Giê su cũng không tự nguyện vác thập giá xưa kia. Khi đối diện với đau khổ này trong đêm Người bị nộp vì Giuđa phẩn bội, Chúa Giêsu đã thống thiết cầu xin cùng Chúa Cha như sau: “Lậy Cha, nếu Cha muốn, xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo Ý Cha” (Lc 22:42)

Lời cầu nguyện trên đây của Chúa Giêsu chính là khuôn vàng thước ngọc cho chúng ta bắt chước mỗi khi chúng ta muốn xin Chúa bất cứ ơn gì cho mình và cho người khác.Và cách cầu nguyên này chắc chắn đẹp lòng Chúa nhất vì chúng ta không xin theo ý riêng mình mà xin theo ý CHA trên trời như Chúa Giêsu đã xin..

Tóm lại, cầu xin Chúa ban cho những nhu cầu cần thiết như cơm ăn, áo mặc, sức khóe và bình an là điều tự nhiên không có gì sai trái, hay thiếu đạo đức. Điều quan trọng là phải xin cho được vâng theo Thánh Ý Chúa trong mọi sự mà thôi.

 

 

MẠC KHẢI NÓI VỀ HỎA NGỤC:

MẠC KHẢI NÓI VỀ HỎA NGỤC:

41/ Với nữ tu Agreda:

“Nếu ở Thiên đàng, Mẹ còn có thể phải đau khổ, Mẹ đau đớn nhường nào khi thấy biết bao linh hồn phải hư mất! Trong khi cuộc đời qua đi quá mau chóng như vậy, mà con cái Giáo hội cứ tự vướng mắc vào dò bẫy ma quỉ, mê theo cuộc sống kiêu sa, ve vuốt dục vọng xác thịt, tự lên án phạt mình đời đời, mặc dầu được Chúa ban cho mọi thứ ân sủng. Có lẽ họ ngờ rằng được chết một cách tự nhiên, dứt bỏ được cuộc đời như loài thú là sung sướng rồi. Nhưng không đâu, còn hỏa ngục nữa, hỏa ngục đời đời sẽ ngốn nuốt họ. Tự lao mình vào đó thật ngu dại tội lỗi chừng nào!

Hỡi phàm nhân lầm lạc, các con cứ nghĩ đi đâu? Các con làm gì thế? Các con có biết thế nào là nhìn thấy Thiên Chúa nhãn tiền, là thông phần đời đời vào sự sống và vinh quang của Người không? Các con tìm gì để thay vào hạnh phúc vô cùng ấy được? Các con sẽ không thể tìm được một hạnh phúc nào khác đâu. Ai đã làm tâm trí các con mờ đục và mê loạn như thế? Các con cũng phải suy nghĩ cho kỹ rằng lao nhọc ngắn, mà hạnh phúc hay tai họa vĩnh cửu sẽ vô cùng”.

42/ Với 3 em nhỏ Fatima:

Ngày 13/7/1917 Đức Mẹ hiện ra với 3 em. Luxia tả:

“Sau khi đến đồi Cova da Iria gần chỗ cây sồi, nơi nhiều người đang lần hạt, chúng con lại thấy chớp sáng và sau đó Đức Mẹ hiện đến.

– Bà muốn con làm gì?

– Ta muốn các con tới đây ngày 13 tháng tới. Ta muốn các con tiếp tục lần hạt hằng ngày tôn kính Đức Mẹ Mân côi, để xin hòa bình cho thế giới và chấm dứt chiến tranh vì chỉ có Đức Mẹ có thể giúp.

– Hãy hi sinh cầu cho các tội nhân và lặp lại mỗi khi hi sinh: “Lạy Chúa Giêsu, vì yêu mến Chúa, để cầu cho tội nhân thống hối và đền tạ Trái Tim Vô nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ”.

Nói xong,  Đức Mẹ mở rộng tay ra như đã làm trong 2 lần trước. Những tia sáng thấu qua trái đất và chúng con thấy một biển lửa. Ma quỉ và các linh hồn dưới hình người bị dìm vào đó như những cục than hồng, cháy đen hay đỏ rực đang ngoi ngóp, phập phồng, có lúc bị tung lên với những ngọn khói đen kịt, rồi văng trở lại biển lửa kinh khiếp, rên siết, thống khổ và thất vọng. Điều đó làm chúng con kinh hãi và run sợ. (Chắc vì thế mà chúng con khóc thét lên, như những người chung quanh con sau này cho con biết). Quỉ dữ có thể phân biệt vì chúng coi hung dữ, tàn bạo như những quái vật khủng khiếp chưa từng thấy, cháy đen hay đỏ rực như than trong lò. Kinh sợ và hốt hoảng, chúng con ngước nhìn xin Đức Mẹ cứu giúp. Đức Mẹ nhân từ, buồn sầu nhắn nhủ:

– Các con vừa thấy hỏa ngục, nơi tội nhân khốn nạn phải rơi vào. Để cứu họ, Chúa muốn thiết lập trên thế giới sự tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ”.

– Đức Mẹ dạy sau kinh Sáng Danh của mỗi chục kinh Kính mừng, sẽ đọc thêm lời này: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội lỗi chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục. Xin đem các linh hồn lên Thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng thương xót (của) Chúa hơn”.

43/ Với nữ tu Giosepha:

Trong cuốn Tiếng Gọi Tình Yêu, Chúa cho chị xuống hỏa ngục, chị viết lại rằng:

“Tôi bị đẩy vào một cái hang có lửa đỏ rực, và dường như tôi bị ép giữa 2 khối lửa, và có dùi sắt nung đỏ xuyên thấu khắp mình tôi…một mùi hôi thối nồng nực khiến người ta phải ngột ngạt gớm ghê, nôn mửa, bay tỏa khắp nơi như mùi thịt thối đốt chung với sinh diêm và hắc ín. Tiếng gào thét inh ỏi…

Chị Giosepha ghi lại một phiên họp của quỉ. Quỉ chúa phán:

Theo ý tao:

Với hạng người này, tụi bay làm chúng ơ hờ, rồi cuối cùng hướng theo lòng ác.

Với hạng người kia, chúng bay cám dỗ chúng bằng tính tham lam, tích trữ bạc vàng, tiền của.

Với hạng khác, tụi bay cho chúng cái mồi dâm dục, để chúng mù quáng trong cái thú hư đốn nhảy nhót khêu gợi, phim ảnh đồi trụy, sách báo tục tĩu, nhậu nhẹt say sưa, chơi bời dâm đãng…”

44/ Với nữ tu Faustina:

Thánh nữ Faustina, tông đồ Lòng Thương xót Chúa, viết năm 1936: ” Tôi được Thiên thần dẫn vào một vực sâu thẳm trong hỏa ngục. Đó là nơi cực hình lớn lao. Nó mênh mông và đáng sợ chừng nào! Những thứ hình phạt tôi đã thấy trong hỏa ngục là:

1/ Hình phạt mất Chúa,

2/ Lương tâm cắn rứt đời đời,

3/ Tình trạng mỗi người không bao giờ thay đổi,

4/ Lửa đốt linh hồn, nhưng không diệt nó- đó là sự đau đớn kinh khủng, vì đó là lửa hoàn toàn thiêng liêng, bởi cơn giận của Chúa,

5/ Tối tăm triền miên và mùi khói ngạt thở dữ dằn, và mặc dù tối tăm, nhưng quỉ dữ và các linh hồn bị phạt vẫn nhìn thấy nhau và thấy các kẻ dữ, cả phía quỉ lẫn phía kẻ bị phạt,

6/ Lũ quỉ Satan còn mãi mãi,

 7/ Sự thất vọng kinh khủng, sự gớm ghét Chúa, những lời độc ác, tục tĩu, và  phạm thượng.

Trên đây là những hình khổ đau đớn mọi người bị phạt phải chịu.

Ngoài ra, còn có những hình khổ riêng cho mỗi thứ tội. Đó là những hình khổ về các giác quan. Mỗi linh hồn phải chịu những đau khổ dữ tợn, không thể tả, liên quan đến những cách mà họ đã phạm tội. Có những hang hầm  và những ngục tù khác nhau để giam phạt. Tôi chắc phải chết ngay khi nhìn thấy những nơi cực hình này, nếu Thiên Chúa Toàn năng không nâng đỡ tôi.

Hãy cho tội nhân biết, họ sẽ chịu cực hình đến muôn đời muôn kiếp, trong những giác quan họ đã dùng để phạm tội.

Tôi viết ra những điều này theo lệnh của Chúa, để không còn linh hồn nào chữa mình rằng không có hỏa ngục, hoặc không có ai ở trong hoả ngục bao giờ, và không có ai nói hỏa ngục là thế nào.

+Tôi, Sơ Faustina , theo lệnh Chúa, đã được thăm  các vực sâu hỏa ngục để tôi có thể nói lại cho các linh hồn, và làm chứng hỏa ngục có thật. Hiện nay, tôi không nói về hỏa ngục, nhưng tôi được lệnh của Chúa phải viết lại. Các quỉ dữ đầy lòng giận ghét tôi, nhưng chúng phải vâng nghe  tôi, khi tôi vâng lệnh Chúa . Những điều tôi đã viết chỉ là bóng mờ nhạt những gì tôi đã thấy. Nhưng tôi để ý một điều: Hầu hết những linh hồn phải sa hỏa ngục đã không tin có hỏa ngục.

Sau khi tôi đã ra khỏi  đó, tôi thấy khó quên những sợ hãi, vì tôi quá  kinh khiếp. Các linh hồn trong đó đau đớn ghê rợn chừng nào!

Do đó, tôi cầu nguyện sốt sắng hơn cho các tội nhân ăn năn cải thiện, tôi nài xin không ngừng Lòng Thương Xót Chúa xuống trên các linh hồn ấy. Ôi, Chúa Giêsu, con thà chịu đau khổ cho đến tận thế, giữa những đau khổ lớn lao nhất, hơn là xúc phạm đến Chúa dù một lỗi nhỏ mọn nhất”.

(Trích Diary Divine Mercy in my Soul, St. Faustina, Stockbridge, Ma, 2001, pp. 296-297)

Theo thánh nữ Faustina tả ở trên, Hỏa ngục có 2 hình khổ : Thất khổ và giác khổ. Thất khổ là “mất Chúa”, “giác khổ” là giác quan nào phạm tội thì giác quan ấy phải đau đớn. Cường độ đau đớn là  không thể tả. Trường độ là đời đời, đúng như Chúa Giêsu nói: dòi bọ không chết, vì tiếng lương tâm cắn rứt mãi, vì đã cứng lòng, không nghe theo ơn Chúa. Lửa đốt linh hồn linh thiêng trong quyền phép Thiên Chúa…

             45/ Với Linh mục người Ấn độ

27-11-2006 (Source: FOSS/web Phinomenon)

Chúa Nhật ngày 14.4.1985 là Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa?, Linh Mục Tom Maniyangat đang trên đường đi tới một Nhà Thờ truyền giáo ở phía Bắc của Kerala, nước India (Ấn) để dâng Thánh Lễ, và ngài đã bị chết vì tai nạn xe.  Xe của ngài đụng thẳng đầu một xe jeep.  Ngài được chở vội tới nhà thương cách chỗ xảy ra tai nạn khoảng 70 cây số, nhưng ngài đã qua đời trên đường chở tới nhà thương.

Linh Hồn cha Tom lìa khỏi xác, nên cha cảm nghiệm được là ngài đã chết.  Ngài nhìn thấy thi thể ngài, và người ta đang chở ngài tới nhà thương.  Cha nghe được tiếng người ta khóc lóc và đọc kinh cầu nguyện cho cha.

Rồi cha gặp Thiên Thần Bản Mệnh.  Thiên Thần nói với cha: “Tôi sẽ dẫn Linh Mục lên Trời.  Chúa muốn gặp và nói chuyện với Linh Mục”.  Thiên Thần cũng nói với cha rằng, trên đường đi, ngài cũng muốn cho cha thấy Hoả Ngục và Luyện Ngục nữa.  Dưới đây là những gì cha Tom Maniyangat kể về Hỏa Ngục và Luyện Ngục:

Hỏa Ngục

“Trước tiên, Thiên Thần dẫn tôi xuống chứng kiến Hoả Ngục.  Đó là một quang cảnh thật ghê sợ.  Tôi thấy Satan và các quỉ dữ, thấy những ngọn lửa không hề tắt với sức nóng 2,000 độ Fahrenheit, thấy dòi bọ lúc nhúc, thấy người ta rên la và đánh đập nhau, thấy những người khác đang bị bày quỉ dữ tra tấn hành hạ.

“Tôi được nói cho biết có bảy “cấp bậc” hoặc bảy tầng đau khổ trong Địa Ngục.  Những người “phạm hết tội trọng này đến tội trọng khác” khi sống trên dương thế, phải chịu sức nóng ghê gớm nhất.  Thân hình họ trông rất xấu xí và rất ghê rợn.  Họ là con người nhưng lại giống như những con quái vật: những thứ trông xấu xí và đáng sợ.  Thiên Thần cho tôi biết tất cả những đau khổ này là do các tội trọng không hối cải.

Cho nên, tôi hiểu có bảy cấp bậc đau khổ, căn cứ theo số tội trọng và loại tội trọng đã phạm trên dương thế.  Tôi được thấy một số người mà tôi quen biết, nhưng tôi không được phép tiết lộ danh tánh của họ.

Những tội khiến họ bị trầm luân phần lớn là do phá thai, dâm dục, thù hận, không tha thứ và tội phạm thánh.

Thiên Thần nói với tôi rằng, nếu họ sám hối, họ sẽ tránh được Hoả Ngục mà chỉ phải vào Luyện Ngục thôi.  Tôi cũng hiểu rằng, một số người sám hối tội lỗi có thể được thanh luyện trên trái đất qua những đau khổ họ phải chịu.  Bằng cách này, họ có thể tránh được Luyện Ngục và bay thẳng lên Thiên Đàng.

Tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong Hoả Ngục gồm có cả Giám mục, Linh Mục, một vài người tôi không thể ngờ.  Nhiều người trong số họ ở trong Hoả Ngục, vì họ đã hướng dẫn lạc đường cho người khác bởi những lời dậy sai lầm và bởi gương xấu của họ.

……. 

Khi người ta di chuyển thi thể của tôi tới nhà xác, Linh Hồn tôi liền nhập vào xác tôi.  Tôi cảm thấy rất đau đớn vì nhiều thương tích và các xương bị gẫy.  Tôi bắt đầu rên, và rồi các người chung quanh tôi đã hết sức sợ hãi, họ hốt hoảng vừa chạy vừa la.

 Một người trong số họ đến gặp bác sĩ và nói: “Thi thể cha đang rên rỉ!” Bác sĩ vội chạy tới và khám nghiệm thân thể tôi.  Ông thấy tôi còn sống, cho nên ông nói: “Cha vẫn còn sống.  Đúng là một phép lạ! Hãy mau chở ngài tới nhà thương…”

NHỜ CHÚA CHÚNG TA SẼ GẶT HÁI TỐT TRONG LỜI NÓI

NHỜ CHÚA CHÚNG TA SẼ GẶT HÁI TỐT TRONG LỜI NÓI

(Sống Mùa Chay)

Tuyết Mai

Khi chúng ta có chủ đích là sống trong yêu thương, trong tình yêu Thiên Chúa thì mọi lời nói chúng ta thốt ra hẳn chúng phải được phát xuất từ trong trái tim nhân ái.   Chúng ta cần phải cẩn trọng nhất là những lời nói thô lỗ, cần được giảm ở mức tối thiểu hay không bao giờ nên thốt ra khi nói với con cái và người thân trong gia đình.

Chúng ta cần được hiểu rằng những lời nói thiếu suy nghĩ ấy chúng sau này sẽ trở lại với chúng ta không thiếu một chữ ấy là chưa kể đến những lời nói nặng đau theo thời gian sẽ làm chúng con cái trở nên nhát đảm hay ngược lại là chúng sẽ trở nên dữ giằn, ăn nói mất dạy, cục cằn thô lỗ và lòng thì đầy hận thù.

Thử tưởng tượng mà xem khi chúng ta mang danh nghĩa là con cái Chúa thế mà lại đi đối xử với nhau trong gia đình còn hơn là người mà chúng ta gây thù oán với.   Vả không ai trong chúng ta ngu dại gì mà lại đi dùng những lời lẽ thô tục mà nói với người ngoài bởi lẽ rất có thể nó lấy tánh mạng của chúng ta cách nhanh chóng mà không ai kịp có lời trăn trối.

Rốt cục thì chỉ trong gia đình là bị ảnh hưởng nặng nề, sâu đậm trên vợ trên con cái mà thôi.   Thử hỏi cha mẹ nào mà không muốn cho tương lai chúng con cái trở nên tốt lành, nhân hậu và là người dễ thương, dễ mến mà chúng ta cha mẹ lại không làm gương tốt lành và nhân hậu thì cho hỏi chúng con cái phải được học từ ai và từ đâu?.   Hoặc chúng ta cha mẹ cảm thấy bất lực khi con cái chúng khó dạy, ngang tàng xấc xược, là thành phần bất trị của xã hội thì chúng ta đổ thừa cho ai đây?.

Nhân Mùa Chay mong ước hết thảy chúng ta không là “Một con sâu làm rầu nồi canh” Mà là sự cố gắng của một con Én có thể làm nên mùa Xuân qua lời hót đẹp đẽ rộn ràng của nó.   Hay chỉ cần một cành Mai, cành Huệ, cành Lan hay cành Cúc tươi thắm … Thì cũng đủ, thưa có phải?.

Thưa nếu chỉ có một chút bấy nhiêu mà chúng ta đã không làm tròn trách nhiệm cùng bổn phận được thì thử hỏi khi Thiên Chúa Người đòi hỏi ở chúng ta phải yêu thương nhau, chia sẻ cho người khổ nghèo có cùng một Cha chung trên Trời … Thì liệu chúng ta có thực thi được hay không?.

Ai trong chúng ta cũng học biết rằng Thiên Chúa Người rất chán ghét những con người sống đạo đức giả là vì chuyện gia đình của họ thì luôn rối beng, xào xáo, om xòm, tan vỡ vì họ luôn sống ích kỷ với nhau, không có chỗ cho Thiên Chúa ngự trị trong căn nhà tâm hồn của họ.   Tuy nhà biệt thự của họ cũng có bàn thờ Chúa Mẹ thật to, thật đắt tiền nhưng Chúa Mẹ thì rất cô đơn và lạnh lẽo.   Những con người này chỉ vì họ muốn có tiếng tăm nên đã lợi dụng danh Chúa mà trục lợi của người.

Trong suốt Mùa Chay, Thiên Chúa Người mời gọi hết thảy con cái của Người hãy Trở Về sống bên Chúa để được Người băng bó cho vết thương lòng, thương yêu, đùm bọc và dạy dỗ để chúng ta ngày một nên giống Chúa hơn.   Amen.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

18 tháng 2, 2016