
Bài giảng hay nhất của CHA KHẢM về Vấn đề TIỀN BẠC hiện nay

Về Công Giáo và Phật Giáo cùng các tôn giáo khác
ĐỨc Giêsu HIỂN DUNG
(Luca 9,28b-36 – CN II MC – C)
Lm FX Vũ Phan Long, OFM
1.- Ngữ cảnh
Đây là biến cố cuối cùng trong thời gian Đức Giêsu hoạt động tại Galilê (Lc 3,1–9,50): Người đang ở tại một khúc quanh quan trọng trong sứ mạng; công việc rao giảng tại Galilê đã kết thúc; Phêrô mới đây đã tuyên xưng Người là “Đấng Kitô của Thiên Chúa” (9,20) và nhân dịp đó, Người đã củng cố thêm hiểu biết của các môn đệ bằng cách loan báo cuộc Thương Khó (9,22). Cũng giống như ở Mc 9,2-8, truyện Hiển Dung của Đức Giêsu trong TM III (9,28-36) đi theo sát lời Đức Giêsu nói về đời môn đệ và dường như trả lời một loạt các câu hỏi về chân tính của Đức Giêsu (x. 9,7-9.18-22). Cuộc Hiển Dung cho các môn đệ được thấy trước vinh quang của Đấng Phục Sinh, vinh quang Nước Trời. Truyện giới thiệu tư cách thuộc thiên giới của Đức Giêsu đối lại với hai dung mạo Cựu Ước và thúc bách các Kitô hữu lắng nghe Người như lắng nghe Con Một của Thiên Chúa và Đấng được Thiên Chúa ưu tuyển.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba đơn vị:
1) Hoàn cảnh của cuộc Hiển Dung (9,28);
2) Cuộc Hiển Dung (9,29-35):
3) Kết thúc cuộc Hiển Dung (9,36).
3.- Vài điểm chú giải
– dung mạo Người đổi khác (29): Cụm từ này đã thay thế cho động từ “được biến hình” (metamorphôthê) trong Mc (9,2) và Mt (17,2) để tránh những truyện về hóa thân, hóa kiếp trong thần thoại ngoại giáo.
– có hai nhân vật (30): Vì được giới thiệu là “hai nhân vật, hai người đàn ông” (andres dyo), ta có thể nghĩ đến “hai người đàn ông y phục sáng chói” trong truyện Phục Sinh (Lc 24,4) hoặc “hai người đàn ông mặc áo trắng” trong truyện Thăng Thiên (Cv 1,10). Như thế, quả thật Môsê và Êlia là hai chứng nhân của Đức Giêsu, nhưng ở đây, hai vị có mặt trong tư cách là những nhân vật thuộc thiên giới, nhằm loan báo vinh quang tương lai của Đức Kitô. Và nếu vậy, quang cảnh này trước hết là một hình ảnh báo trước cuộc Lên Trời (x. Cv 1,9: đám mây).
– Xuất hành (31): Rất có thể tác giả Lc coi toàn bộ Thương Khó – Phục Sinh – Thăng Thiên là một cuộc Xuất Hành mới, đi từ Giêrusalem cứng tin (# Ai Cập) mà vào Vinh quang của Thiên Chúa (# Đất hứa).
– ngủ mê mệt (32): Dịch sát là “bị đè nặng trong giấc ngủ” (bebarêmenoi hypnô).
– vinh quang (32): Tác giả Lc là tác giả duy nhất sử dụng từ “vinh quang” ở đây. Kiểu ngài nối kết Khổ Nạn với Vinh quang ở đây rất gần với truyện Ga 12,27-28 (vẫn được coi như tương tự với truyện Hiển Dung trong các TMNL).
– thật là hay (33): Hay cho ai? Chúng ta không rõ. Dù sao, ta hiểu là Phêrô không hiểu rõ hoàn cảnh, nhưng cảm thấy vui, nên mơ ước kéo dài tình trạng này.
– đám mây (34): Phải chăng đám mây bao phủ cả các môn đệ, nên các ông mới sợ (sợ chết?)? Có bao phủ ba nhân vật kia không? Nhưng bản văn lại nói là “từ đám mây có tiếng phán ra”. Vậy có lẽ các môn đệ ở ngoài đám mây. Nhưng dù thế nào, đám mây thường đi liền với cuộc thần hiển (x. Xh 16,10; 19,9.16; 24,15-16; Lv 16,2; Ds 11,25) và được coi như nơi ở (shơkinâh trong sách Talmud, có nghĩa là “sự hiện diện của Thiên Chúa”) của Thiên Chúa. Khi thấy đám mây xuất hiện và dường như còn bao trùm lấy mình, các môn đệ kinh hãi.
– Người được Ta tuyển chọn (35): Xem các “Bài ca về Người Tôi Trung” (Is 42,1; 49,7).
– trong những ngày ấy (36): nghĩa là trong thời gian Đức Giêsu đi hoạt động. Công thức này đối lại những gì được kể sau này, sau khi Đức Giêsu đã sống lại.
4.-Ý nghĩa của bản văn
Khung cảnh của bản văn này như sau: Ngay trước bài tường thuật này là các giáo huấn về đời môn đệ (Lc 9,23-27) và ngay sau bài, là truyện Đức Giêsu chữa lành một em bé bị quỷ ám (9,37-43). So với các Tin Mừng khác, ta thấy tác giả không kèm theo mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ trong khi các ngài xuống núi (x. Mc 9,9-10; Mt 17,9), cũng không có lời nói về ngôn sứ Êlia (x. Mc 9,11-13; Mt 17,10-13).
Độc giả đã thấy giáo huấn về đời môn đệ “vác thập giá” và thị kiến về “vinh quang” được nối kết chặt chẽ trong kinh nghiệm về cuộc Hiển Dung. Không thể hiểu được ý nghĩa của biến cố huyền nhiệm này nếu không đặt nó vào bên trong hai chiều tư tưởng thần học chủ đạo: sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu, yêu cầu đi theo Người trên con đường thập giá, và ánh sáng vinh quang của sự phục sinh của Người.
* Hoàn cảnh của cuộc Hiển Dung (28)
Chỉ tác giả Lc xác định biến cố xảy ra vào “khoảng tám ngày sau khi (Đức Giêsu) nói những lời ấy” (c. 28), tức là các giáo huấn về đời môn đệ (cc. 23-27). Cả ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê vừa chứng kiến Đức Giêsu làm cho con gái ông Gia-ia sống lại (Lc 8,51-56), nay Người đưa các ông đi ra khỏi tình trạng ồn áo huyên náo của cuộc sống thường ngày và đưa các ông lên núi (không được xác định), biểu tượng của thế giới Thiên Chúa. Mới trước đó, Người yêu cầu “vác thập giá mà theo” Người, bây giờ Đức Giêsu quyết định “đem theo” ba môn đệ và kết hợp các ông vào sứ mạng của Người, để các ông có thể chia sẻ kinh nghiệm vinh quang nhằm đi tới chỗ hoàn tất trong Ngày Phục Sinh.
Điều đáng ghi nhận: tác giả cho biết mục tiêu Đức Giêsu nhắm không phải là tỏ mình ra cho các môn đệ, nhưng là “cầu nguyện”. Việc cầu nguyện được đặc biệt nêu bật trong TM III.
* Cuộc Hiển Dung (29-35)
Đang khi Người cầu nguyện, thì “dung mạo Người đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà” (c. 29): cuộc hiển dung xảy ra như là kết quả của việc cầu nguyện. Tác giả không dùng động từ metamorphousthai (= biến hình) có trong Mc và Mt (x. Mc 9,2; Mt 17,2). Theo một vài nhà chú giải, tác giả Lc muốn tránh làm cho độc giả hiểu đây giống như những cuộc hóa thân của thần thánh ngoại giáo; có những tác giả khác lại cho rằng đây là một gợi nhắc đến biến cố Môsê đã trải qua trên núi Sinai (Xh 24,29-30): trong bản văn này có nói rằng dung mạo Môsê phản ánh vinh quang của Đức Chúa. Tầm quan trọng được gán cho biến cố huyền nhiệm này đưa độc giả đến chỗ nghĩ rằng Đức Giêsu đang tự mạc khải ra như là Đấng sống lại và đang ở trong thế giới siêu việt và vinh quang của Thiên Chúa.
Vậy, vẻ rạng rỡ của dung mạo và nét trắng tinh chói lòa nơi y phục của Người cho biết Người thông dự vào đời sống của Thiên Chúa, Người có bản tính Thiên Chúa, và báo trước cuộc Phục Sinh. Các môn đệ nhận ra rằng dung mạo quen thuộc con người trần gian của Đức Giêsu lâu nay không diễn tả hết tất cả thực tại của Người; các ông hiểu rằng Người không bị khóa kín trong những giới hạn của thực tại trần gian. Đàng sau dung mạo phàm trần của Đức Giêsu, có ẩn giấu thực tại siêu phàm thần thiêng của Người.
Không những các giới hạn của thực tại trần thế bị vượt quá, các biên cương của thời gian cũng bị lướt qua. Bên cạnh Đức Giêsu, xuất hiện hai ông Môsê và Êlia, hai dung mạo nổi bật trong lịch sử dân Israel (cc. 30-31). Môsê nhà giải phóng Dân tộc, cũng là trung gian đón nhận Luật Sinai. Êlia là vị ngôn sứ đã bảo vệ tôn giáo độc thần và tái lập giao ước của Thiên Chúa với Dân. Các ngài đại diện cho mối quan tâm săn sóc của Thiên Chúa và cuộc chiến đấu của Người cho dân tộc này. Các ngài cũng chia sẻ kinh nghiệm bị từ khước và bị bách hại. Nay hai ngài đàm đạo với Đức Giêsu về “cuộc xuất hành” Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem (c. 31). Tác giả Lc coi toàn bộ Thương Khó–Phục Sinh–Thăng Thiên là một cuộc Xuất Hành mới, đi từ Giêrusalem cứng tin (# Ai Cập) mà vào Vinh quang (# Đất hứa). Nhưng toàn bộ cuộc Xuất Hành mới này liên hệ đến lịch sử Israel (đại diện bởi Môsê và Êlia); Đức Giêsu sẽ đưa lịch sử của những mối quan tâm săn sóc của Thiên Chúa đối với Dân Người đến chỗ hoàn tất.
Đáng tiếc là các môn đệ nặng nề trong giấc ngủ (c. 32). Khi Thầy làm phép lạ, hoặc khi đám đông hoan hô Người, các ông thức, nhưng khi Người bắt đầu nói đến chương trình của Thiên Chúa, việc hiến dâng mạng sống, phục vụ người nghèo, thì họ từ khước hiểu biết, họ nhắm mắt lại và ngủ. Sau này, tại núi Ôliu, các ông cũng ngủ (Lc 22,45), bởi vì các ông chờ đợi được vỗ tay hoan hô và tôn vinh, chứ không hiểu vai trò của thập giá mà Thầy đang đi tới. Tuy nhiên Phêrô còn tìm ra sức mà lên tiếng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều…” (c. 33). Ông mong muốn kéo dài mãi mãi kinh nghiệm về vinh quang này, tương quan đặc biệt này giữa thiên quốc và trần gian, một nếm cảm trước sự viên mãn cánh chung, thiết lập tức khắc Triều Đại Thiên Chúa trên mặt đất (G. Rossé). Chi tiết “dựng ba cái lều” vừa có tính lịch sử (Nhà Tạm của Hòm Bia Chứng Ước trong cuộc xuất hành qua sa mạc) vừa mang tính phụng vụ (Lễ Lều: Lv 23,42; Dcr 14,16-19). Thật ra, ông không biết mình đang nói gì” (c. 33). Ông chỉ dừng lại với một khoảnh khắc sống ở bình diện cá nhân chứ không nghĩ đến được số phận cánh chung của toàn thể Dân Giao ước. Ông không hiểu giá trị của cuộc Hiển Dung trong chương trình cứu độ phổ quát.
Quang cảnh hiển vinh đột nhiên bị một đám mây che phủ. Khi đi vào trong hoàn cảnh mới này, các môn đệ hoảng sợ (c. 34), điều này cho hiểu là con người mỏng dòn đang tiếp cận với mầu nhiệm của sự thánh thiêng. Đám mây là sự chấm dứt kinh nghiệm về vinh quang, vừa là nơi phát ra tiếng nói thiên quốc. Đây là vai trò biểu tượng của đám mây (x. Xh 19,9.16; 24,15-18; 40,34t; 2 Mcb 2,8; Cv 1,9). Tiếng nói bảo: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (c. 35). Khẳng định được liên kết với mạc khải trong Phép rửa (Lc 3,22), nhưng khác biệt ở chỗ tại Phép rửa, tiếng nói ngỏ lời trực tiếp với Người Con, còn ở đây, mạc khải được gửi đến các môn đệ, với lệnh vâng nghe lời Người (autou akouete: lưu ý vị trí nhấn mạnh của đại từ. Diễn ra như sau: “Chính Người, anh em hãy nghe lời!”). Mạc khải từ trời đã tổng hợp hai trích dẫn Tv 2,7, nhằm nói về tư cách Con Thiên Chúa của Đức Kitô, và Is 42,1 nhắc đến sứ mạng ngôn sứ của Người Tôi Tớ Đức Chúa, phải chịu đau khổ khi loan báo Lời Chúa. Đức Giêsu vừa có tư cách vừa mang sứ mạng được hai bản văn này giới thiệu. Mạc khải kết thúc với lời kêu gọi rút từ Đnl 18,15 nhắc nghe lời ngôn sứ Môsê (x. Cv 7,37). Từ nay, không còn phải là Môsê hoặc các ngôn sứ mà các môn đệ phải vâng lời, nhưng là chính Con Thiên Chúa, Đấng có uy quyền vượt xa uy quyền của mọi người từ xưa cho đến tận thế. Cách nào đó lời này phi bác ý muốn của Phêrô là thiết lập ngay từ bây giờ Nước Thiên Chúa trên mặt đất. Cần phải hiểu là sứ mạng Mêsia của Đức Giêsu vượt quá những nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia của dân Israel và những nguyện vọng trần tục của các môn đệ.
Thế rồi bản văn Lc kết thúc đơn giản, so với Mc (Mc 9,8). Tiếng nói đã ngưng, các nhân vật Môsê và Êlia không còn ở đó nữa, chỉ còn lại Đức Giêsu và các môn đệ (c. 36). Tác giả không nhắc đến lệnh im lặng Đức Giêsu truyền cho các môn đệ (x. Mc 9,9; Mt 17,9), nhưng ghi nhận rằng các ông “nín thinh”. Đây là hậu quả của một kinh nghiệm đã ghi dấu sâu sắc trong lòng ba chứng nhân, họ nội tâm hóa biến cố này, họ không để lộ ra bên ngoài bao lâu Đức Giêsu còn ở với họ (“Trong những ngày ấy”).
* Kết thúc cuộc Hiển Dung (36)
Sau đó, các môn đệ giữ thinh lặng, không tiết lộ gì về những chuyện đã xảy ra trên núi. Ghi nhận sự thinh lặng này đúng ra là một câu tóm truyện Mc (Mc 9,9-13). Các ông cứ giữ thinh lặng như thế cho đến khi Đức Giêsu đã sống lại.
+ Kết luận
Biến cố Hiển Dung là trạm trung chuyển giữa ánh sáng loé lên quá mau của Phép Rửa và ánh sáng chói lọi của sáng ngày Phục Sinh. Trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, Đức Giêsu thấy mình được tiếng Chúa Cha chuẩn nhận trong sứ mạng Mêsia chịu đau khổ: Người sẽ thực hiện chương trình cứu độ qua thân phận bị sỉ nhục và thất bại. Nhưng qua lời giới thiệu của Chúa Cha, chúng ta biết Đức Giêsu là Lời mà ta phải lắng nghe, là vị hướng đạo chắc chắn trong cuộc Xuất Hành cuối cùng đưa đến cuộc sống viên mãn. Điều này được làm rõ ở cuối biến cố, khi tác giả nói là “chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu: Mục tiêu của Cựu Ước là dẫn chúng ta đến với Đức Giêsu, Đấng hoàn toàn vâng phục chương trình cứu độ của Chúa Cha. Sau Phục Sinh, biến cố Hiển Dung sẽ có một vị trí quan trọng trong truyền thống Hội Thánh, vì được coi là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất trong kinh nghiệm Kitô hữu (x. 2 Pr 1,16-28).
5.- Gợi ý suy niệm
Lm FX Vũ Phan Long, OFM
Xin mời ghé thăm Đất Thánh, quê hương của Chúa Giê su
Sự tha thứ khó khăn
Linh mục Paul O’Sullivan, O. P
Do thời thế chính trị biến động, một người kia không may đã giết chết một quan chức cấp cao, đối nghịch với ông ta.
Vì bị chính đồng đội trở mặt tố cáo, nên người ấy đã bị bắt giữ và bị kết án tử hình. Ông ta thành tâm sám hối tội lỗi của mình, nhưng nhất quyết không tha thứ cho kẻ tố cáo hèn hạ. Linh mục tuyên úy nhà tù ra sức khuyên giục ông xưng tội . Phạm nhân đáp lại: “Không thể được , bởi vì con hối hận về các tội lỗi của con, nhưng con không sao tha thứ được cho người bạn tráo trở kia. Như thế thì xưng tội chỉ tổ phạm sự thánh mà thôi.”
Một nữ tu tốt lành dòng Nữ Tử Bác Ái đã làm cho phạm nhân phải cảm động trước tấm lòng nhân ái và tế nhị của chị. Chị cũng ra sức khuyên giục ông xưng tội, nhưng luống công.
Chiều tối trước ngày tội nhân thụ án tử hình, nữ tu ấy lại hết sức cố gắng để thuyết phục ông.
Chị nữ tu hỏi:
– Ông có biết tôi là ai không ?
Phạm nhân đáp:
– Chị là thiên thần từ trời xuống.
Chị nữ tu lắc đầu:
Tôi không phải là thiên thần từ trời xuống, nhưng là em gái của nạn nhân đã bị ông giết hại. Tôi đã tha thứ cho ông, tôi đã ăn chay, đã cầu nguyện và đã làm tất cả những gì có thể làm được để cứu lấy linh hồn của ông.”
Hết sức ngạc nhiên, phạm nhân đáng thương ấy đã phục xuống, giàn giụa trong nước mắt và hôn kính bàn chân của chị dòng.
-Quả thật , quả thật chị là thiên thần của Chúa, thực sự là một thiên thần . Tận đáy lòng tôi, tôi xin tha thứ cho người bạn tráo trở của tôi và xin chị cũng hãy tha thứ cho tôi.
-Thật vậy hành vi tha thứ của nữ tu ấy là một hành vi thật anh hùng.
Như chúng tôi đã nói, nhiều khi chỉ một hành vi mà thôi đủ chứng minh sự thánh thiện, anh hùng.
Sự dâng cúng của bà góa nghèo đã được Chúa Giê-Su đánh giá cao. Chúa phán: “Bà ấy đã cho đi nhiều hơn tất cả những người khác.” Bà góa chỉ dâng cúng một đồng xèng, nhưng bà đã cho với tất cả tâm hồn.
Lời khẩn cầu của người trộm lành trên thập giá đã xin được ơn tha thứ cho toàn bộ tội lỗi của mình.
Lời cầu nguyện của người thu thuế thật ngắn gọn: “ Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tôi lỗi” nhưng đã làm cho linh hồn của ông trở nên tinh sạch như tuyết.
Linh mục Paul O’Sullivan, O. P
Trích sách: “ Con Đường Nên Thánh Dễ Dàng” của Linh mục Paul O’Sullivan, O. P
(CN I Mùa Chay)
Tuyết Mai
Thật thế khi chúng ta sống tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa thì chỉ có Người là đấng duy nhất đã tác tạo ra chúng ta sẽ luôn ban cho chúng ta cuộc sống thật dồi dào và thanh thản trong khả năng rất giới hạn của từng người nếu chúng ta đừng tham lam và đừng ích kỷ.
Bởi do đâu mà chúng ta ra tham lam và ích kỷ như thế? Thưa có phải vì chúng quỷ xúi biểu và dụ dỗ? Bằng chứng thật rõ ràng cho chúng ta thấy Chúa Giêsu đã bị thử thách trong suốt 40 ngày đêm trong Sa Mạc và ai còn nhớ Chúa Giêsu đã phải trải qua những thử thách gì trong những ngày ấy?.
Khuyên để cho đừng bị chúng quỷ dụ dỗ thì chúng ta cần phải sống thật khiêm nhường trước mặt Thiên Chúa cùng anh chị em và khi chúng ta càng khiêm nhường bao nhiêu thì chúng quỷ sẽ nhả chúng ta ra càng nhanh bấy nhiêu vì Khiêm Nhường là chất khử độc chúng và đọc Kinh Mân Côi là hai cách có hiệu quả nhất.
Bước vào 40 ngày Chay Thánh mong hết thảy chúng ta học hỏi gương của Chúa Giêsu, người Con tuyệt đối sống tin tưởng vào bàn tay quan phòng của Cha Ngài cùng Chúa Thánh Thần là đấng luôn phù trợ cùng an ủi. Người Việt chúng ta cũng có câu rất hay và rất đúng là “Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư” và thường những người con này có tánh ngang tàng xấc xược, tự cao tự đại và tự dựa vào khả năng rất có giới hạn của mình!?.
Ngược lại thì thường những người con yếu đuối từ thể xác hay tinh thần thì cũng chẳng bao giờ dám sống rời xa cha mẹ của mình đâu. Ấy thế mà cuộc đời của những người con này luôn được bình yên vô sự, dư đủ và thoải mái vì tất cả đều được cha mẹ chăm lo cho dù tuổi đời của các anh chị này có đến là bao nhiêu.
Mùa Chay là mùa nhắc nhở hết thảy con cái Chúa ai sống xa Người và xa Ràn thì đây là lúc cần nên Trở Về bên Chúa vì nếu chúng ta cứ đi xa mãi thì sợ rằng chúng ta sẽ chết trong nanh vuốt của thú dữ (quỷ dữ) cách không toàn thây. Amen.
Y Tá của Chúa,
Tuyết Mai
13 tháng 2, 2016
Đức Giêsu bị cám dỗ sau một thời gian dài không ăn trong hoang địa. Có lẽ sau khi Ngài chịu phép rửa ở sông Jordan với Yoan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã ăn chay cầu nguyện để biết Thiên Chúa muốn Ngài làm gì, và phải làm như thế nào trong những tháng ngày sắp tới. Sau thời gian này, Đức Giêsu đã đi rao giảng, khởi đầu một giai đoạn mới trong đời Ngài.
Đức Giêsu là người. Ngài không biết tất cả. Ngài phải tìm ý Thiên Chúa liên lỉ qua cầu nguyện, bằng việc nhận định những gì xảy tới cho Ngài trong đời sống thường ngày (Lc.22, 42; Ga.4, 34). Ngài cầu nguyện để biết phải làm gì, phải chọn ai (Lc.6, 12-13). Trong cuộc sống, có lúc Ngài biết nhưng lúc khác Ngài lại xao xuyến dao động: Ngài đã loan báo cho các tông đồ rằng Ngài sẽ bị bắt bị giết và sau ba ngày Ngài sẽ sống lại (Lc.9, 22. 44-45; 18, 31-34) nhưng ở trên thập giá Ngài lại bị cám dỗ Thiên Chúa bỏ Ngài: “Lạy Cha, lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc.15, 34).
Đức Giêsu là người. Ngài còn bị cám dỗ như tất cả mọi người. Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu bị cám dỗ biến đá thành bánh (Lc.4, 3), bị cám dỗ có quyền hành (Lc.4, 6-7), bị cám dỗ nghi ngờ tình yêu Thiên Chúa (Lc.4, 9-10). “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.” Ai đã có kinh nghiệm đói, mới biết những cám dỗ này mãnh liệt như thế nào. Ai có kinh nghiệm về nghèo, mới thấy tiền bạc thu hút con người đến độ nào. Khi đói, người ta mong có đủ cơm ăn; khi có đủ cơm ăn áo mặc, người ta mong muốn có nhiều để bảo đảm tương lai và còn muốn ăn ngon mặc đẹp. Đây là những cám dỗ mà ai cũng gặp. Đức Giêsu một khi đã chia sẻ thân phận con người nên Ngài cũng bị cám dỗ về ăn, tuy nhiên Ngài không thể biến đá thành bánh như Ngài muốn, nếu không, Ngài không còn là người trọn vẹn nữa. Nhập thể, là chấp nhận giới hạn của con người.
Con người thấy mình có những khuynh chiều của thân xác và cũng có lý trí để nhận biết điều tốt và phải làm. Con người có những khuynh chiều thân xác như thèm ăn, đòi thỏa mãn thân xác, muốn được đề cao và quy tất cả về mình. Những khuynh chiều này cũng thuộc về tôi nhưng không hoàn toàn thuộc về tôi. Tôi có những nhu cầu thân xác, có những khuynh chiều thân xác, nhưng cũng không phải chỉ có vậy. Tôi còn cảm nhận nơi tôi có ao ước cái gì cao hơn, tươi đẹp hơn, tuyệt hơn. Tôi là thực tại gồm cả khuynh chiều thân xác cũng như lý trí hướng thiện. Khuynh chiều xấu có nơi tôi, nhưng nó chưa là tôi hoàn toàn; chỉ khi nào tôi đồng tình, chỉ khi nào tôi ưng thuận, nó mới hoàn toàn là tôi. Có nhiều lúc tôi ưng thuận với những khuynh chiều bất chính nơi tôi, và như vậy, tôi làm tôi thành xấu qua chính hành vi ưng thuận của tôi.
Đức Giêsu, theo ngôn từ của thư gởi tín hữu Do Thái, không bao giờ ưng thuận những điều sai quấy cho dù Ngài bị cám dỗ như tất cả bao người khác: “Ngài nên giống chúng ta mọi đàng trừ tội” (Dt 4, 15; 2, 17). Ngài bị cám dỗ như bao người, như mỗi người chúng ta, nhưng không bao giờ Ngài phạm tội, không bao giờ Ngài ưng thuận với những gì bất chính, với những khuynh chiều bất chính nơi thân xác Ngài. Đức Giêsu là người hoàn toàn, Ngài chịu thử thách trăm bề, bị cám dỗ như bất cứ ai trên đời, nhưng Ngài có một điều khác con người: Ngài không phạm tội. Đồng tình hay không đối với những khuynh chiều bất chính nơi mình, là hành vi tự do của mỗi người; đồng tình với những khuynh chiều xấu, là phạm tội. Phạm tội hay không, là tùy tự do của mỗi người, là do con người xử dụng tự do Thiên Chúa ban cho như thế nào. Phạm tội hay không, là tùy tự do con người, nó không thuộc bản chất con người.
Theo niềm tin Kitô hữu, có hai người không bao giờ dùng tự do Thiên Chúa ban để chống lại Thiên Chúa, không bao giờ hai vị này thuận theo những khuynh chiều bất chính nơi họ, đó là Đức Giêsu và Đức Maria. Đức Maria vô nhiễm nguyên tội và không phạm tội “riêng.” Mẹ là người tuyệt vời, nên đã được Thiên Chúa cho hưởng hạnh phúc trọn vẹn và vĩnh cửu với Ngài. Điều này được diễn tả qua tín điều: Đức Maria lên trời cả hồn lẫn xác. Đức Giêsu đã không bao giờ thuận tình với bất cứ cám dỗ làm điều xấu nào. Ngài thuộc trọn về Thiên Chúa đến độ người ta nói Ngài là con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Tin vào Đức Giêsu là tin vào Thiên Chúa. Thiên Chúa đã sinh ra Đức Giêsu, đã làm Đức Giêsu thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn. Đức Giêsu đã thuộc về Thiên Chúa với thân xác của mình, cho dù người ta đã hủy hoại thân xác Ngài, nhưng không thể hủy hoại được Ngài. Thân xác Đức Giêsu là thân xác thánh ngang qua chính cuộc sống của Ngài. Mỗi con người đều được gọi để thành thánh, để thuộc về Thiên Chúa, trở nên người thành toàn, người tuyệt vời qua những chọn lựa sống của mình. Hơn bất cứ thời điểm nào, mùa chay giúp các Kitô hữu nhìn lại con người của mình với những khuynh chiều thân xác và tinh thần, để rồi nhận ra lời mời gọi nên thánh trong tất cả mọi hành vi của đời sống mình.
LM Giuse Phạm Thanh Liêm
GM Giuse Vũ Văn Thiên
Người ơi hãy nhớ, mình là bụi tro
Một mai người sẽ trở về bụi tro” (Thánh ca)
Bài thánh ca đã trở thành quen thuộc mỗi khi Mùa Chay về. Lời ca đơn sơ mà da diết, bi ai mà thiết thực, nhắc chúng ta nhớ về thân phận con người.
Trong nghi thức khai mạc Mùa Chay, các tín hữu công giáo, từ giáo hoàng, giám mục, linh mục đến giáo dân, mọi người đều khiêm hạ nhận lấy một chút tro trên đầu. Người giàu cũng như người nghèo, người già cũng như người trẻ, hết thảy đều nhận mình là thân phận bụi đất, hư vô. Nghi thức này thật cảm động, vừa diễn tả lòng sám hối, vừa nói lên nguồn gốc tro bụi của mình. Bụi tro xem ra đơn giản là thế mà lại gợi ý suy tư với bao điều sâu sắc.
1- Bụi tro nhắc nhở chúng ta sự mỏng giòn của kiếp người
Tro là phần còn lại của một số chất liệu sau khi đã bị lửa thiêu rụi. Tiền thân của tro có thể là những đồ vật một thời quý giá, sang trọng, có thể là những bông hoa một thời kiêu sa, rực rỡ. Thế rồi, với tác động của ngọn lửa, những gì là rực rỡ không còn, những gì là kiêu sa đã mất, còn lại chỉ là nắm tro tàn vô dụng. Phụng vụ khuyên đốt những cành lá sử dụng trong Chúa nhật lễ Lá năm trước để lấy tro dùng trong nghi thức làm phép và xức tro. Những cành lá nhắc lại lời tung hô của người dân thành Giêrusalem khi Đức Giêsu tiến vào thành thánh. Như những cành lá xanh tươi mau khô héo do tác động của thời gian, những lời ca tụng con người dành cho nhau sớm bị lãng quên vì chỉ nhất thời. Nếu có rất nhiều người tung hô Đức Giêsu khi Người vào thành thánh ngày Chúa nhật lễ Lá, thì cũng có khá đông những cánh tay giơ lên chiều thứ Sáu để đòi lên án tử cho Người. Khoảng cách cho một cành lá từ lúc xanh tươi đến lúc héo tàn mỏng manh là thế.
Khi tham dự nghi thức hỏa táng một người thân, chúng ta cảm nghiệm cách sâu xa sự mỏng giòn của thân phận con người. Chỉ sau vài giờ đồng hồ, ngọn lửa đã biến thân xác con người trở thành tro bụi. Vẻ đẹp đẽ xinh tươi sẽ không còn; giàu sang phú quý sẽ biến mất. Những hộp hài cốt đặt để gần nhau trong ngôi “nhà tưởng niệm” cho thấy, sau khi chết, con người chẳng còn chi khác biệt. Giàu sang, nghèo hèn có cùng một địa chỉ; yêu thương thù ghét cùng một chốn đi về.
Như một đoá hoa vô thường, cuộc đời mỏng manh, nay còn mai mất. Mỗi ngày qua đi, thân xác con người thay đổi, rồi đến mùa thu cuộc đời, họ trở nên tàn tạ.
Vượt lên thân phận mỏng giòn chóng qua của kiếp con người, đức tin công giáo hướng chúng ta về những giá trị vĩnh cửu. Quả vậy, nếu thân xác con người như đoá phù dung sớm nở tối tàn, thì linh hồn con người lại trường tồn bất tử. Nếu cuộc sống thế gian dừng lại khi con người nhắm mắt xuôi tay, thì cuộc sống vĩnh cửu lại khởi đầu lúc con người giã biệt trần thế. Phủ nhận linh hồn bất tử, con người sẽ bất hạnh, vì sau khi chết, họ trở về với hư vô. Không tin Thiên Chúa hiện hữu, người ta sẽ sống trong vô vọng, vì không tìm đâu được lý tưởng cuộc đời.
2- Bụi tro nhắc nhở chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng Vĩnh cửu
Tác giả sách Sáng thế nói với chúng ta, thân xác con người được tạo thành từ bùn đất, rồi con người sẽ trở về với đất, vì từ đất mà ra. “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở nên một sinh vật” (St 2, 7). “Con người” chỉ khác với đất là có hơi thở. Chính Thiên Chúa đã “thổi hồn” cho đất để đất trở nên người. Đất với người từ đó mà có duyên nợ, luôn gắn liền với nhau. Con người sống nhờ đất khi thọ hưởng biết bao hoa màu từ đó, rồi cũng chết vì đất khi đổ mồ hôi trán để tồn tại và mưu sinh. Đất là chỗ đứng chắc chắn cho bước chân người khi họ còn sống; Đất mở rộng vòng tay đưa con người trở về an nghỉ khi họ từ giã cuộc đời. Hành trình con người khởi đi từ đất, qua một chuỗi những tháng ngày vui tươi đau khổ, hân hoan, thất vọng, rồi con người lại trở về với… đất. Cách trình bày của tác giả sách Sáng thế cho ta thấy tình thương bao la của Thiên Chúa. Con người là một tác phẩm do chính Chúa tạo nên. Ngài như một người thợ thủ công lành nghề, khéo léo nhào nắn đất để tạo nên hình dạng con người. Với tình yêu thương, Ngài chăm sóc và ban cho con người hơi thở. Hơi thở ấy chính là hơi thở của Ngài. Thật kỳ diệu khi được biết sự sống của chúng ta chính là hơi thở của Thiên Chúa. Nhờ hơi thở của Chúa mà con người trở nên cao cả, tuy được nắn từ bùn đất. Sau cuộc đời lo toan giữa nhân tình thế thái, con người trước khi về với đất “trút linh hồn”, trả lại “hơi thở” cho Chúa, trong tâm tình biết ơn trìu mến, như người con phó thác trọn vẹn nơi Cha mình.
3- Bụi tro nhắc chúng ta sống tốt cuộc đời tạm này
Khi ý thức được sự mỏng giòn chóng qua của thân phận con người, chúng ta chọn lựa và gắn bó với những giá trị trường tồn vĩnh cửu. Của cải vật chất chỉ là phương tiện Chúa ban để chúng ta sống xứng với phẩm giá con người và để giúp đỡ anh chị em. Chúng ta không thể mang theo chúng khi giã biệt cõi đời. Cánh tay buông thõng của người vừa trút hơi thở cuối cùng cho thấy, con người đến thế gian với hai bàn tay trắng, nay trở về với cát bụi cũng chỉ là tay không. Thật bất hạnh cho những ai coi tiền bạc của cải như những chiếc “phao cứu hộ” vào lúc cuối đời.
Vì những lợi lộc trần gian mà không thiếu người dùng mọi mưu mô mánh lới. Vì vinh quang nhất thời mà có người đã coi nhẹ lương tâm. Bụi tro nhắc chúng ta những vinh quang trần thế cũng chỉ như đoá hoa rực rỡ hôm nay, ngày mai sẽ trở thành tro bụi. Chỉ có tình Chúa tình người mới lâu bền tồn tại, mãi đến thiên thu.
Nếu bàn bay buông thõng của người vừa nằm xuống chẳng mang theo được gì khi tạm biệt cõi đời, thì những công phúc họ đã thực hiện ở đời này lại theo họ mãi mãi (x. Kh 14, 13). Vì vậy, trong cuộc đời quá ngắn ngủi này, chúng ta được kêu gọi tận dụng thời gian để sống tình nhân ái với nhau. Hãy thôi những bon chen lừa lọc vì cuộc đời chẳng là mấy. Hãy dừng những toan tính nhỏ nhen vì chẳng ai sống mãi trên đời. Thấy rõ cuộc sống chóng qua giúp ta thiện chí sống bao dung quảng đại. “Hổ chết để da, người ta chết để tiếng”. “Tiếng” đây là lòng nhân hậu, là đạo đức của con người. Một người sống tốt lành, khi thân xác của họ đã an nghỉ trong lòng đất, cái đức của họ vẫn còn. Họ vẫn được lưu danh với thời gian.
“Người ơi hãy nhớ, mình là bụi tro
Một mai người sẽ trở về bụi tro”
Lời ca đơn sơ mà da diết, bi ai mà thiết thực, nhắc chúng ta nhớ về thân phận con người, hướng chúng ta về với Đấng Vĩnh Cửu qua những thực hành cụ thể của cuộc sống hôm nay.
GM Giuse Vũ Văn Thiên
Lời Chúa: Mt 6, 25-34
Khi ấy Chúa Giêsu nói cùng các môn đệ rằng:“Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.”
Suy niệm:
Ngày Tết báo hiệu một năm cũ đã qua và một năm mới đang đến.
Chúng ta cần nhìn lại một năm qua với cái nhìn của Chúa
để thấy tất cả là hồng ân,
kể cả những gì người đời coi là xui xẻo, bất hạnh.
Chúa đã cho chúng ta sống thêm một thời gian, thêm một năm trên đời.
Chúng ta nhận ra thời gian một ngày nhờ mặt trời mọc lên rồi lặn xuống.
Nhà nông nhận ra thời gian một tháng nhờ mặt trăng tròn rồi lại khuyết.
Tạ ơn Chúa vì hai nguồn sáng quý báu như vậy trên bầu trời.
Thời gian theo Kitô giáo không đi theo đường xoắn ốc, nhưng theo đường thẳng.
Thời điểm nào cũng là duy nhất, đi rồi không trở lại, nên rất đáng quý.
Con Thiên Chúa làm người đã đằm mình trong dòng thời gian như ta.
Nhờ Ngài, dòng thời gian này sẽ đưa ta vào vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Ngày Tết người ta thường hay chúc nhau.
Chúc sức khỏe, chúc làm ăn phát đạt, chúc mọi sự như ý…
Chúng ta có thể học được một cách chúc rất đẹp trong sách Dân Số (6, 22-27).
Đức Chúa chỉ dạy cho ông Môsê
để ông này chỉ lại cho ông tư tế Aaron biết cách chúc lành cho dân.
Có ba lời chúc, mỗi lời đều bắt đầu bằng chủ từ là Đức Chúa:
“Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em.
Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em.
Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn anh em và ban bình an cho anh em.”
Ơn bình an là ơn bao gồm mọi ơn về sức khỏe, sống lâu, an ninh, thịnh vượng…
Rốt cuộc chính Đức Chúa mới là Đấng chúc lành cho dân Ítraen (c. 27).
Chính Đức Chúa đóng ấn Danh của Ngài trên họ để bảo trợ họ.
Và hôm nay chính Ngài cũng ban muôn ơn cho ta nhờ Danh Đức Giêsu.
Trước thềm Năm Mới, con người không tránh khỏi nỗi lo về tương lai.
Có nhiều nỗi lo rất hữu lý, vì khó khăn trước mắt là có thật.
Có nhiều nỗi lo âu chỉ vì con người thấy mình quá đỗi mong manh.
Nỗi lo quấn lấy con người và làm tâm con người không yên.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu bốn lần nhắc chúng ta “Đừng lo.”
Nếu Kitô hữu không bị quay quắt vì lo âu
thì không phải vì họ là người vô lo, hay vì họ tự tin, giỏi giang hơn người khác.
Đơn giản chỉ vì họ có một Người Cha quan tâm đến mọi nhu cầu của họ.
Kitô hữu tận tụy hết mình cho công việc, nhưng lại không bất an, lo âu.
Tín thác như một đứa con ngồi trong lòng cha,
họ đặt vinh quang Thiên Chúa lên trên hết,
và tin mọi sự khác sẽ được Ngài lo liệu.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
Cha đã cho chúng con sống thêm một năm,
đi thêm một đoạn đường đời.
Nhìn lại đoạn đường đã qua,
chúng con chỉ biết nói lên lời tạ ơn chân thành,
vì Cha vẫn cho chúng con sống,
và sống trong tình yêu.
Mọi biến cố vui buồn của năm qua
đều là những lời mời gọi kín đáo của Cha
để thức tỉnh, nâng đỡ và đưa chúng con lên cao.
Tạ ơn Cha
vì những gì cuộc đời đã làm cho chúng con,
và những gì chúng con đã làm được cho cuộc đời.
Xin cho chúng con sống những ngày Tết dân tộc
trong tinh thần vui tươi, hòa nhã,
và không quên những ai nghèo khổ, cô đơn.
Ước gì những lời chúng con chúc cho nhau
là những lời chúc lành
xuất phát từ trái tim yêu thương.
Và lạy Cha, năm mới đã đến,
trái đất lại xoay một vòng mới quanh mặt trời,
chúng con cũng muốn
ở lại trong quỹ đạo của Cha,
nhận Cha là trung tâm cuộc sống,
và nhận mọi người là anh em. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Hoa và rác
Người giúp việc vừa lau chùi bàn ghế trong phòng khách vừa ngắm nghía bình hoa hồng tươi đẹp đang được trân trọng đặt trên mặt bàn bóng láng.
Thấy người giúp việc chăm chú nhìn mình với ánh mắt cảm phục, hoa hồng tỏ ra kiêu hãnh và nói:
– Anh xem trên đời nầy có hoa nào vừa đẹp, vừa sang, vừa thơm ngát như tôi không?
Người giúp việc đáp:
– Sớm muộn gì thì mầy cũng chỉ là rác!
Hoa hồng cảm thấy bị xúc phạm nặng nề trước lời nói đó, nên tỏ ra gay gắt:
– Ta xinh đẹp thế nầy, ta đang toả hương thơm ngát thế nầy, ai cũng quý mến ta; ta được tôn vinh trong phòng khách sang trọng thế nầy, vậy mà nhà ngươi dám xỉ nhục ta, dám gọi ta là rác ư! Nhà ngươi xúc phạm ta quá đáng.
Người giúp việc bồi thêm:
– Mầy sẽ là bụi tro!
Hoa hồng tức tối đáp lại :
– Nhà ngươi là kẻ ăn nói ngang ngược! Nhà ngươi có biết trong Ngày Tình Yêu, tất cả các đôi nam nữ trên thế giới đều chọn ta để đem tặng cho những người bạn tình yêu quý nhất đời của họ hay không? Nhà người có biết là trong ngày đó, ta được các hoàng tử, các công chúa, những chàng công tử tài hoa, các cô thiếu nữ cao sang đài các… nâng niu ta trên tay, ôm ấp ta vào lòng, quý trọng ta đến thế nào không? Thế mà nhà ngươi dám cho rằng ta là bụi tro ư! Thật không có lời nào xúc phạm đến phẩm giá của ta như những lời ngươi vừa nói.
Người giúp việc bồi tiếp :
– Mầy sẽ là phân bón!
Hoa hồng tỏ ra phẫn nộ :
– Ôi ! Trời ơi là Trời ! Có ai ăn nói hỗn hào như ngươi không! Ta là Hoa Hồng, là Nữ Hoàng của các loài hoa. Nhà ngươi xúc phạm đến ta là xúc phạm đến các chủng loại hoa hồng nói riêng, đồng thời xúc phạm cả mọi loài hoa trên đời, vì ta là Hoa Hồng, là Nữ Hoàng của các loài hoa.
Hoa Hồng giận quá! Cơn giận bốc lên ngùn ngụt khiến hoa hồng ngất đi một hồi lâu mới tỉnh.
Thế là từ lúc đó, cơn giận sôi sục trong lòng đoá hoa hồng khiến nó không ăn, không ngủ, không một phút giây bình an… Và thế là nó héo đi nhanh chóng.
Qua ngày hôm sau, chủ nhà thấy hoa hồng đã héo, vứt nó ra hố rác. Thế là hoa hồng kiêu sa, đẹp lộng lẫy, toả hương thơm ngát làm đắm đuối lòng người, bây giờ trở nên rác, đúng như lời người giúp việc đã nói về nó.
Bởi vì rác hoa hồng nằm chung với các thứ rác khác nên bốc mùi hôi, do đó chủ nhà bảo người giúp việc đốt rác đi. Thế là hoa hồng bây giờ trở thành tro! Đúng như lời người giúp việc đã nói về nó.
Mấy ngày sau, chủ nhà lại sai người giúp việc hốt tro trong hố rác trộn chung với các thứ phân chuồng để đem đi bón ruộng. Thế là hoa hồng bây giờ đã trở thành phân bón! Đúng như lời người giúp việc đã nói về nó, mới ngày hôm kia.
Ôi, kiếp hoa hồng là thế, hôm nay là hoa đẹp lộng lẫy kiêu sa toả hương thơm ngát, ngự trị trong phòng khách xa hoa sang trọng, mai sẽ là rác thối, là tro bụi và cuối cùng là phân bón!
Xin ngẫm lại mà xem. Thân xác chúng ta rồi cũng như thế thôi. Dù hôm nay chúng ta rất xinh đẹp được nhiều người mê say quyến luyến; dù hôm nay chúng ta giàu có sang trọng được mọi người kính nể; dù hôm nay chúng ta thông minh, tài trí được người ta tôn trọng… thì mai đây thân xác chúng ta cũng chỉ là rác, là tro bụi và là phân bón thôi.
Nghi thức xức tro trong ngày thứ Tư Lễ Tro nầy nhắc nhở ta luôn nhớ rằng mai đây chúng ta chỉ là bụi tro.
Ý tưởng nầy được thánh vịnh hôm nay nhắc lại : “Hỡi người! Hãy nhớ mình là bụi tro. Mai sau người sẽ trở về bụi tro.”
Bài học bụi tro
Khi biết thân phận mình rồi chỉ là tro bụi, tôi rút được nhiều bài học hay:
Tôi sẽ không tự cao tự đại, không kiêu căng, vì phận mình là tro bụi, là thứ thấp hèn mà tự nâng mình lên, tự cho mình là lớn lao cao cả hơn người khác là chuyện nực cười.
Tôi sẽ không khinh dể, không xem thường người khác, vì mình là tro bụi thì có đáng xá gì mà dám khinh dể người ta!
Tôi sẽ không chê bai, phê phán, chỉ trích người khác vì mình là tro bụi mà dám lên mặt chê bai khích bác người khác thì thật phi lý và điên rồ.
Và khi bị người ta xem thường, khinh dể, tôi sẽ không hờn, không giận và vui lòng chịu đựng vì mai đây mình chỉ là bụi tro; vô số bụi tro vẫn thường bị chà đạp hằng ngày dưới chân con người cũng là chuyện bình thường thôi !
Hơn hết, một khi biết mai đây mình chỉ là bụi tro, tôi sẽ không dại dội đầu tư tất cả thời giờ, công sức, tài năng, trí tuệ… của tôi để chăm lo cho thân xác nầy, để rồi rốt cuộc, thân xác nầy trở thành bụi tro. Trái lại, tôi phải dành nhiều thời giờ hơn, nhiều công sức hơn, nhiều tiền bạc hơn… để đầu tư cho đời sống thiêng liêng của tôi, nhờ đó, một khi thân xác nầy trở về với bụi tro thì linh hồn tôi sẽ được chiếm hữu sự sống hạnh phúc vĩnh cửu trên quê trời.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Thánh lễ tại nguyện đường thánh Marta, sáng thứ 5 ngày 04.02 – OSS_ROM
VATICAN. “Gia tài quý giá nhất mà chúng ta có thể để lại cho các thế hệ mai sau chính là đức tin.” Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ 5, ngày 04.02, tại nhà nguyện thánh Marta. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha cũng nhắc nhở rằng chúng ta đừng sợ hãi, vì đằng sau cái chết sự sống vẫn mãi tiếp tục.
Suy nghĩ về cái chết sẽ giúp soi sáng cho cuộc sống hiện tại
Được gợi hứng từ bài đọc một trích sách các Vua thuật lại sự ra đi của vua Đa-vít, Đức Thánh Cha chia sẻ rằng: “Ai rồi cũng sẽ đến lúc phải trải qua những giây phút cuối cùng của cuộc đời. Suy nghĩ này khiến chúng ta chẳng mấy vui thích. Vì thế, chúng ta thường tránh đi và không muốn nhắc đến. Nhưng cái chết lại là một thực tại hiển nhiên của kiếp sống nhân sinh. Khi biết suy xét đúng đắn về ‘cuộc vượt qua cuối cùng’ này sẽ mang lại ánh sáng cho cuộc đời chúng ta. Sự chết chính là thực tại mà ai cũng phải đối diện.
Trong những buổi tiếp kiến chung vào sáng thứ tư hàng tuần, có lần tôi đã gặp một nữ tu lớn tuổi với gương mặt chan chứa niềm vui và bình an, đang ngồi giữa những bệnh nhân và người đau yếu. Tôi hỏi soeur: ‘Năm nay soeur bao nhiêu tuổi rồi?’ Soeur trả lời tôi với một nụ cười rất tươi: ‘Dạ, thưa Đức Thánh Cha, nay con được 83 ạ. Con đang hoàn tất những chặng đường cuối cùng trong cuộc hành trình dương thế này và bắt đầu một cuộc hành trình khác bước đi cùng với Thiên Chúa. Con bị ung thư tuyến tụy, Đức Thánh Cha ạ.’ Và như thế, trong an bình, vị nữ tu này đã sống hết mình trong một cuộc đời hiến dâng. Soeur đã chẳng hề tỏ ra sợ hãi trước cái chết, vì như soeur đã nói ‘con đang hoàn tất cuộc đời này để bước vào một cuộc sống mới với Đức Kitô’. Đó là một sự chuyển tiếp. Và sự chuyển tiếp này rất cần thiết với chúng ta.
Đức tin – gia sản quý giá nhất
Vua Đa-vít đã trị vì Ít-ra-en được 40 năm. Khi thấy mình đã gần đất xa trời, vua truyền dạy Sa-lô-môn con mình phải biết tuân giữ các huấn lệnh của Đức Chúa, các luật pháp và chỉ thị của Người như đã ghi trong luật Mô-sê. Trong đời mình, vua Đa-vít đã phạm nhiều tội lỗi, nhưng ngài cũng đã biết nài xin sự tha thứ của Thiên Chúa. Và ngày hôm nay, mỗi lần nhắc đến ngài, Giáo hội đều dùng tước hiệu ‘thánh vương Đa-vít’. Ngài là tội nhân nhưng cũng là một vị thánh. Trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời, vua đã để lại cho con trai một gia sản quý giá và đẹp đẽ nhất, một gia sản mà ai cũng có thể để lại cho con cái mình, đó chính là đức tin, là lòng tin tưởng.
Khi viết di chúc, người ta thường nói: tôi để lại cái này cho người này, cái kia cho người kia, cái nọ cho người nọ, ….vân vân và vân vân. Điều ấy tốt thôi. Nhưng gia sản quý giá nhất mà một người có thể để lại cho con cháu của mình chính là đức tin. Vua Đa-vít ghi nhớ lời Thiên Chúa hứa và vẫn hằng tin tưởng vào những lời hứa ấy. Cuối cùng vua đã truyền lại lòng tin tưởng ấy cho con trai mình. Thế nên, hãy để lại đức tin cho con cháu như một gia sản thừa kế.
Khi cử hành nghi thức Thanh Tẩy, chủ tế trao nến phục sinh cháy sáng cho các bậc phụ huynh và nói những lời tương tự như thế này: ‘Ánh sáng này được trao phó cho anh chị em chăm nom. Hãy làm bừng sáng nơi con cái của anh chị em và hãy truyền lại ánh sáng ấy cho con cái như một gia sản quý giá.’
Để lại đức tin cho con cháu như một gia sản. Đây là điều mà chính vua Đa-vít đã làm và cũng là một bài học cho mỗi người chúng ta. Vua đã qua đời cách bình thường và đơn sơ như bao nhiêu người khác, nhưng vua lại biết truyền dạy và để lại cho con thứ gia tài quý giá và quan trọng nhất. Gia tài đó không phải là ngôi vua, là vương quốc nhưng chính là đức tin.
Thiên Chúa trung tín, là người Cha không bao giờ khiến con cái thất vọng
Như vậy thật là hữu ích nếu mỗi người chúng ta cũng hãy tự hỏi mình rằng: ‘Khi ra đi, tôi sẽ để lại gì cho con cháu? Tôi sẽ trao cho những người thừa kế gia sản gì?’
Chúng ta hãy xin Thiên Chúa hai điều. Thứ nhất, xin ơn đừng sợ hãi trước cái chết. Hãy xin ơn để được giống như vị nữ tu mà tôi đã nhắc đến trong buổi tiếp kiến chung – ‘Con đang hoàn tất cuộc hành trình dương thế để bắt đầu một chặng đường mới với Đức Kitô’ – đừng hoảng sợ. Và điều thứ hai, xin ơn để mỗi người chúng ta có thể để lại cho đời, để lại cho con cháu, cho thế hệ mai sau một thứ gia sản quý giá nhất, đó chính là đức tin, là lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa Thành Tín. Vị Thiên Chúa ấy luôn bên cạnh chúng ta. Ngài chính là người Cha không bao giờ khiến cho con cái mình phải thất vọng.”
Vũ Đức Anh Phương, SJ
CHÚA CHE CHỞ VÀ Ở GẦN KỀ
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt |
Chính Chúa Là Đấng Vẫn Chở Che, Người Luôn Luôn Ở Gần Kề!
Cha Alfonso là Linh Mục cộng tác viên và là bạn thân của Linh Mục Giám Đốc một Cô Nhi Viện ở miền Bắc nước Ý. Cha Alfonso kể lại câu chuyện sau đây.
Nơi Cô nhi viện có Giuliano là thiếu niên 13 tuổi rất hung dữ và cộc cằn. Cậu bé có một niềm vui ác-quỉ là rất thích đập vỡ kính các xe lửa đang chạy trên đường rầy. Cậu lượm đá rồi canh chừng khi xe lửa chạy qua thì ném mạnh vào các kính xe. Cậu như muốn trả thù và trả thù. Dù không biết trả thù ai!
Giuliano không bao giờ chịu làm bài và học bài. Cậu chỉ chấp nhận học duy nhất các bài giáo lý, trong đó có kể chuyện Cuộc Đời Chúa Cứu Thế. Giuliano thường nói với các bạn:
– Tao thích học Phúc Âm vì thấy Đức Chúa GIÊSU cũng bị người ta cư xử tàn tệ như tao!
Đầu tháng 5 năm 2004, Cha Giám Đốc Cô Nhi Viện nói với các thiếu niên:
– Viện sẽ tổ chức một cuộc tĩnh tâm 3 ngày do Cha Alfonso hướng dẫn. Cuộc tĩnh tâm có mục đích chuẩn bị tâm lòng các con lãnh bí tích Giải Tội và Rước Lễ lần đầu. Ai muốn thì ghi tên tham dự.
Và Cha Giám Đốc ngạc nhiên biết bao khi thấy tên của Giuliano cũng nằm trong danh sách. Cha Giám Đốc hóm hỉnh nói với tôi:
– Thật hú hồn! Chúc bạn can đảm! Còn chúng tôi sẽ được nghỉ ngơi đôi chút!
Nghe Cha Giám Đốc nói, lòng cảm thấy hơi lo lo. Nhưng tôi phó thác tất cả trong bàn tay yêu thương dẫn dắt của Đức Chúa GIÊSU, Vị Thầy Chí Thánh Chí Nhân Chí Ái.
Ngày đầu tiên diễn tiến bình thường. Không có tai nạn nào đáng tiếc xảy ra. Các buổi cầu nguyện không kéo dài lâu. Trái lại các trò chơi thể thao được chú ý nhiều hơn. Giuliano là tướng lãnh dẫn đầu các cuộc chơi. Sang ngày thứ hai có vài chuyện đáng tiếc xảy ra nhưng không lớn lao và trầm trọng cho lắm. Đức Chúa GIÊSU đang ở giữa chúng tôi. Sang ngày thứ ba tôi thử chơi ván bài cuối cùng. Tôi chọn lựa thời điểm thuận tiện nhất trong ngày. Tôi nhẹ nhàng nói các thiếu niên về Đức Chúa GIÊSU. Tôi dùng lời nói và cách nói thật ngọt ngào. Tôi nói như rót mật vào tai. Tôi nói với trọn tâm lòng của một Linh Mục. Tôi kết thúc buổi nói chuyện như sau:
– Đức Chúa GIÊSU KITÔ yêu thương chúng ta với trọn những ưu và khuyết điểm của chúng ta. Ngài tha thứ và quên đi những lỗi lầm chúng ta đã làm. Ngài ban cho chúng ta một niềm vui mới lạ. Niềm vui chưa từng hưởng nếm.
Tôi để ý thấy Giuliano chăm chú lắng nghe. Cậu thiếu niên ngồi im như uống từng lời tôi nói. Tôi long trọng tuyên bố khởi đầu việc lãnh ơn tha thứ của Đức Chúa GIÊSU qua bí tích Hòa Giải. Tôi nói:
– Bây giờ Cha ngồi tòa giải tội. Ai trong các con sẵn sàng thì bắt đầu trước!
Tôi vui mừng khi thấy Giuliano giơ tay nói lớn tiếng:
– Thưa Cha, con xin xưng tội trước!
Thế là các thiếu niên khác xếp hàng nối đuôi sau Giuliano.
Nơi tòa giải tội, tôi lặng lẽ cầu nguyện. Tôi van xin THIÊN CHÚA Nhân Từ viếng thăm và thay đổi tâm lòng các thiếu niên đã trải qua quá nhiều thử thách: hoặc mồ côi hoặc bị cha mẹ bỏ rơi .. Xưng tội xong Giuliano ghé sát vào tai tôi thầm thì:
– Thưa Cha, Đức Chúa GIÊSU nói với con mấy điều. Ngài không nói bằng lời, nhưng nói với con vài điều. Tuy nhiên, giờ đây con không thể nói cho Cha biết là điều gì!
Tối hôm ấy các thiếu niên tỏ lộ nét vui mừng. Mọi người lên giường ngủ, không gây tiếng động, không lời nói ồn ào. Ngày kế tiếp tất cả trở lại Viện Mồ Côi và chuẩn bị cho cuộc Rước Lễ lần đầu vào sáng hôm sau. Thật là một đại lễ. Các thiếu niên mau mắn lên giường ngủ sớm. Thế nhưng chiếc giường của Giuliano lại trống trơn! Cha Giám Đốc lo lắng giơ tay than trời:
– Thôi rồi, cậu bé lại bỏ trốn một lần nữa!
Riêng tôi, tận thâm tâm không tin chuyện có thể xảy ra. Tôi thầm thì van xin Đức Chúa GIÊSU cứu giúp. Tôi đi một vòng để tìm Giuliano. Tôi đến nhà nguyện. Trong bóng tối tôi trông thấy một khối trắng. Đó là Giuliano đang quì cầu nguyện. Giuliano lại thầm thì với tôi:
– Chúa GIÊSU nói với con mấy điều. Ngài không nói bằng lời, nhưng quả thật Ngài nói với con.
Tôi hỏi:
– Chúa nói gì với con?
Cậu bé đáp:
– Xin Cha đợi một chút để con hỏi Chúa có bằng lòng con nói cho Cha biết không. Chúa nói được. Con có thể cho Cha biết. Chúa nói Ngài sung sướng vì con bằng lòng tiếp rước Ngài ngày mai. Nhưng Ngài, Ngài còn hài lòng hơn con vì được ngự vào lòng con.
Nói đến đây, hai hàng nước mắt chảy dài, Giuliano cảm động vừa khóc vừa nói:
– Thật là chuyện khó xảy ra. Bởi lẽ con là một đứa trẻ dữ dằn, không ai thương con hết!
Tôi chậm rãi giải thích:
– Chính vì thế mà Đức Chúa GIÊSU yêu thương con nhất, yêu hơn mọi người khác.
… ”Xin Chúa gìn giữ bạn đừng để bạn lỡ chân trật bước, xin Người chớ ngủ quên. Đấng gìn giữ Israel, lẽ nào chợp mắt ngủ quên cho đành! Chính Chúa là Đấng canh giữ bạn, chính Chúa là Đấng vẫn chở che, Người luôn luôn ở gần kề. Ngày sáu khắc, vầng ô không tác họa, đêm năm canh, vành nguyệt chẳng hại chi. Chúa gìn giữ bạn khỏi mọi điều bất hạnh, giữ gìn cho sinh mệnh an toàn. Chúa giữ gìn bạn lúc ra vào lui tới, từ đây cho đến mãi muôn đời” (Thánh Vịnh 121(120),3-9).
(”Il Settimanale di Padre Pio”, n.21, 29 Maggio 2005, trang 29)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
CÓ THỂ LÀ TỘI NHÂN, NHƯNG KHÔNG ĐƯỢC LÀ KẺ HƯ HỎNG
ĐGH Phanxicô
“Chúng ta hãy tha thiết nài xin Thiên Chúa để dẫu chúng ta có yếu đuối phạm tội nhưng đừng bao giờ trở thành những kẻ hư hỏng (corrotti), không cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa nữa.” Đây là nội dung bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ sáng thứ sáu, ngày 29.01, tại nguyện đường thánh Marta.
Khởi đi từ bài đọc một trích sách Sa-mu-en, thuật lại chuyện vua Đa-vít và bà Bát Se-va, Đức Thánh Cha đã phân biệt giữa tội nhân và kẻ hư hỏng. Khác với những người hay phạm tội nhưng biết ăn năn, kẻ hư hỏng không còn cảm thấy cần sự tha thứ của Thiên Chúa nữa.
“Con người có thể hay phạm tội nhưng luôn biết chạy đến với Thiên Chúa để chân thành nài xin sự tha thứ. Chân thành nài xin chứ không bao giờ nghĩ rằng tự sức mình có thể đạt được sự tha thứ ấy. Nhưng khi con người bắt đầu trở nên hư hỏng, không còn cảm thấy cần sự tha thứ; thì vấn nạn mới thực sự phát sinh.”
Tôi không cần Chúa
Đây là thái độ mà vua Đa-vít vướng phải khi vua say mê bà Bát Se-va, vợ ông U-ri-gia, một sỹ quan quân đội đang chiến đấu trên tiền tuyến. Sau khi vua Đa-vít ăn nằm với bà Bát Se-va và biết rằng bà đã có thai, vua đã nghĩ ra những mưu kế để che dấu hành vi ngoại tình của mình. Vua truyền cho ông U-ri-gia từ chiến trận quay về nhà để nghỉ ngơi và có thời gian gần gũi với vợ. Nhưng ông U-ri-gia lại nghĩ rằng không nên về với vợ mà nằm ở cửa đền vua với tất cả các bề tôi của chúa thượng ông. Kế hoạch không thành, Vua Đa-vít chuốc rượu cho ông U-ri-gia đến say khướt, nhưng âm mưu vẫn thất bại.
Như thế, vua Đa-vít đã rơi vào một tình huống khó khăn. Nhưng chắc chắn rằng, vua vẫn có thể tự nói với mình: “Ta sẽ giải quyết được việc này.” Vua đã viết thứ cho ông Giô-áp và gửi ông U-ri-gia mang đi. Trong thư, vua viết rằng: “Hãy đặt U-ri-gia ở hàng đầu, chỗ mặt trận nặng nhất, rồi rút lui bỏ nó lại, để nó bị trúng thương mà chết.” Vua Đa-vít nhất định khiến ông U-ri-gia phải chết. Người lính can trường và trung thành này – trung thành với lề luật, với dân tộc, tổ quốc – đã phải mang lấy án tử bởi chính vị vua mà ông hết mực trung thành.
Tính “an toàn” của sự hư hỏng
Vua Đa-vít là thánh nhân nhưng cũng là tội đồ. Vua đã sa ngã vì sự thèm muốn và khao khát nhục dục, nhưng Thiên Chúa vẫn rất yếu mến vua. Vua Đa-vít cảm thấy an tâm, vì quốc gia đang hưng thịnh. Sau khi ngoại tình, với quyền lực của mình, vua đã làm mọi cách để đẩy người tôi trung đến cái chết, khi bỏ nó lại chiến trường nơi mặt trận nặng nhất. Và cái chết vì gươm đao là chuyện vô cùng bình thường của nhà binh.
Sự kiện này xảy ra trong cuộc đời của vua Đa-vít khiến chúng ta cũng phải xem xét lại đời sống của mình: Liệu tôi có đang chuyển từ tội nhân đến một kẻ hư hỏng không? Vua Đa-vít đã bước một chân lên nấc thang đầu tiên dẫn đến sự hư hỏng rồi. Vua có quyền lực. Vua có sức mạnh. Và chính vì lý do đó, sự hư hỏng rất dễ xảy ra với chúng ta là những người có quyền lực, cho dù đó là uy quyền trong Giáo hội, tôn giáo hay trong kinh tế, chính trị… Bởi vì, ma quỷ sẽ khiến chúng ta an tâm và tự nhủ: “Tôi có thể làm được. Tôi sẽ giải quyết được mọi sự.”
Tội nhân, có thể chấp nhận; nhưng kẻ hư hỏng thì không
Sự hư hỏng – nhờ ân sủng Chúa, vua Đa-vít đã được giải thoát khỏi tình trạng này – đã làm thương tổn tâm hồn chàng thiếu niên anh dũng, người đã đối diện với tên Gô-li át khổng lồ và hạ hắn bằng một dây phóng đá cùng năm hòn đá cuội nhặt dưới suối. Bởi vậy, hôm nay, tôi muốn nhấn mạnh với anh chị em một điều thôi: Đôi khi chúng ta phạm tội hay đời sống của chúng ta quá an toàn, chắc chắn, chúng ta cảm thấy ổn vì có nhiều quyền lực; chính lúc đó sự hư hỏng sẽ bắt đầu. Một trong những điều tồi tệ nhất mà sự hư hỏng gây ra là khiến người ta không còn cảm thấy cần sự tha thứ của Thiên Chúa nữa.
Bởi vậy, chúng ta hãy tha thiết cầu nguyện cho Giáo hội, cho Đức Giáo Hoàng, các Giám mục, linh mục, các nam nữ tu sĩ và tất cả mọi tín hữu: “Lạy Chúa, xin cứu chúng con. Xin cứu vớt chúng con khỏi sự hư hỏng. Chúng con là tội nhân, nhưng lạy Chúa, xin đừng để chúng con trở thành những kẻ hư hỏng, không cần đến sự tha thứ của Chúa nữa.” Chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa ân sủng này.”
ĐGH Phanxicô
Chuyển ngữ: Vũ Đức Anh Phương, SJ