NỖI OAN TÔMA

NỖI OAN TÔMA

GM Vũ Duy Thống

Đối với phần đông tín hữu Việt Nam, danh xưng Tôma khơi gợi về một thái độ, rất riêng tư nhưng cũng rất điển hình, chẳng những không tích cực mà xem ra còn để lại nhiều tai tiếng.  Gặp một tâm hồn cứng cỏi trước những biểu cảm của niềm tin, người ta đã khéo ví von “cứng lòng như Tôma;” thấy ai biểu lộ do dự hoặc nghi ngờ trước những sự kiện tôn giáo, người ta đã vội đưa vào gia phả “con cháu thánh Tôma.” Kể cũng oan.

Thật ra, đi liền với danh xưng Tôma lại là một bài học dẫn đến niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống sao cho mối phúc thứ chín, như người ta gọi về lời Chúa Giêsu kết thúc trang Tin Mừng hôm nay “Phúc cho kẻ không thấy mà tin,” được trở thành hiện thực trong đời mỗi Kitô hữu.

1. Lạy Chúa Tôi, Lạy Thiên Chúa Của Tôi

Niềm tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh là cả một chặng đường trong đó yếu tố trước hết chính là cộng đoàn: “Chúng tôi đã được thấy Chúa.” Chính vì chứng từ của cộng đoàn này mà Tôma đã tự đặt vấn để rồi sau đó mới đi tới đức tin.  Ngay việc các môn đồ hội họp vào ngày thứ nhất trong tuần cùng với lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh, làm bối cảnh hình thành truyện Tôma, cũng cho thấy vai trò của cộng đoàn trong việc khai sinh đức tin nơi một người.

Nhưng yếu tố chủ động hơn phải được tìm thấy trong phản tỉnh của cá nhân ông.  “Nếu tôi không thấy… tôi không tin. Câu nói tự phát ấy đã trở thành tai tiếng khiến nhiều người nghĩ rằng Tôma là một kẻ cứng đầu cứng cổ, đòi hỏi, nghi ngờ.  Nhưng thực ra, ông là người thực tiễn.  Chính nhờ ông lên tiếng mà ta mới thấy rõ hơn thế nào là trăn trở của đức tin thuở ban đầu và thế nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm tin có được bản sắc riêng không thể lẫn với người khác.  Nếu hôm trước Tôma đòi thấy mới tin, thì tám ngày sau, qua tiếp xúc cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông đã tuyên xưng không phải bằng công thức chung nữa, mà bằng một cách rất riêng làm thành đỉnh cao tuyên tín Phục Sinh: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi.

Và niềm tin chỉ có thể đạt được kết quả khi có yếu tố quyết định chính là hồng ân Thiên Chúa, như một bao trùm từ khởi sự cho đến hoàn thành.  Nguyện vọng của Tôma xem ra ngược ngạo, nhưng đã được Đức Giêsu thanh luyện, để cuối cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng là lúc ông được dẫn vào một nhận thức mới mẻ hoàn toàn.  Thay vì phải thấy mới tin, ông nhận ra rằng phải tin mới thấy trọn vẹn: thấy Đấng Phục sinh và con người Giêsu cũng là một, thấy Đấng Phục sinh rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và thấy niềm tin vượt lên tất cả sẽ trở thành hạnh phúc.

2. Đừng Cứng Lòng, Nhưng Hãy Tin

Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là chuyện lòng chung của muôn lòng tín hữu.  Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta hiểu hơn rằng niềm tin không phải là một yếu tố đơn thuần, mà là một tổng hợp giữa ơn thánh và nghị lực con người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá nhân.

Chỉ dựa vào ơn thánh, người ta có nguy cơ rơi vào thái độ coi mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải đào sâu tìm hiểu nữa.  Có biết đâu tin như thế là không còn tin nữa, mà một cách nào đó đã là cả tin.  Vì tin tất cả nên cả tin, hay vì cả tin nên tin tất cả?  Chỉ dựa vào lý trí, người ta lại có nguy cơ khác là thái độ muốn giới hạn tri thức về thực tại và tiêu chuẩn của kinh nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận: những gì không hiểu, không đo lường sờ chạm, đều bị chối từ.  Có biết đâu tin như thế cũng không còn là tin nữa, mà xem ra lại gần với sự bất tín!  Nếu chỉ dựa vào cộng đoàn thôi, người ta còn có thêm một nguy cơ nữa là thái độ tiêu cực.  Bên ngoài có vẻ ngoan ngùy, nhưng thực chất là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt.  Lúc đạo giáo hưng thịnh xem ra không có vấn đề, nhưng khi sự đạo phải bước vào thầm lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ ai?

Thành ra, phải xem trường hợp Tôma như một kinh nghiệm, và cần xem chặng đường niềm tin của ông như một kinh điển cho niềm tin đang dấn bước đi trong cuộc sống.  Đừng cứng lòng! Phải chăng là lời gọi hãy xa đi những thái độ không phù hợp, để chẳng những tránh được khủng hoảng, mà dường như còn nghe lại từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở cuối chặng đường gặp gỡ: “Nhưng hãy tin!”

3. Phúc Cho Kẻ Không Thấy Mà Tin

Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm vui trong đức tin của mình.  Niềm vui của Tôma là được thấy Chúa nên tin, còn niềm vui của đời tín hữu lại là tin để được thấy Chúa.  Tin như thế là một hạnh phúc.

Trong hạnh phúc ấy, sau này các tông đồ đã qui tụ cho Chúa những kẻ tin, và những kẻ tin sơ khai đã vui mừng cử hành niềm tin của mình một cách sống động, không những qua nghi thức phụng vụ, mà còn qua cách sống cộng đoàn biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và niềm hạnh phúc, cuối cùng, sẽ là sức mạnh chiến thắng.

Nhưng với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn còn ở phía trước.  Bổn phận của ta là phải khổ công vun đắp niềm tin của mình sao cho thắm đượm hồng ân Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng góp của con người, sao cho chan hòa với nhịp sống cộng đoàn mà vẫn không triệt tiêu bản sắc cá nhân.  Và một khi niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn phận kia đã trở thành trách nhiệm loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.

Tuy nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin hạnh phúc ấy còn lắm nhạt nhòa.  Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội cũng như trong nếp sống riêng mỗi tín hữu, vẫn có thể có những lúc ngại tin hoặc chậm tin vào điều mình không thấy.  Nhất là phải hy sinh những hạnh phúc chính đáng thấy được để vươn đến một thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn khả giác.  Quả là vất vả.  Nhưng chính lúc ấy, Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như một người thầy đã từng trải nghiệm.  Và lời Đức Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về đem lại sức mạnh.  Nghe trong mối phúc thứ chín có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không thấy; và chừng như cũng có lời ước hẹn: tin điều mình không thấy sẽ được thấy điều mình tin.

Ngày nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó.  Một mình ông chịu tai tiếng để sau này người ta biết đường mà tránh.  Một mình ông chịu quở là cứng lòng tin để tín hữu hiểu rằng phải vượt trên những điều nhìn thấy mới gặp được lối đi hạnh phúc của niềm tin.  Và như thế, liệu ta có thể bảo rằng nỗi oan Tôma là một nỗi oan hạnh phúc?  Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh rượu được truyền phép hôm nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của Tôma.  Để xin thêm đức tin cho những tấm lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người đang yếu đuối, và xin được hạnh phúc cho mọi kẻ tin.

GM Vũ Duy Thống

MỞ LỄ.

MỞ LỄ.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Mùa Chay 2015 đã qua. Những việc cử hành tưởng niệm trong Tuần Thánh đã khép lại. Chúng ta bước vào Mùa phục Sinh. Có lẽ tâm hồn của chúng ta đong đầy niềm vui của sự bình an trở về cùng Chúa và cùng anh chị em. Chúng ta đã nỗ lực chuẩn bị cả về tinh thần lẫn thể chất: Cầu nguyện, ăn chay hãm mình và thực hành việc bác ái. Cầu mong sự đổi mới trong cuộc sống được kéo dài và sinh hoa kết qủa trong cuộc sống đời thường.

Mùa Chay Thánh, các Cộng Đoàn Giáo Xứ đã nỗ lực mời gọi mọi người tham gia và chuẩn bị chu đáo để canh tân làm tươi mát tâm hồn. Những cuộc hành hương, tuần đại phúc, cấm phòng, xưng tội, học hỏi, suy ngắm, hy sinh, ăn chay và làm việc bố thí. Mầu Tím sám hối của Mùa Chay Thánh đã được thay thế bằng mầu trắng tinh tuyền của Mùa Phục Sinh. Giờ đây, chúng ta cùng lặng tâm trở về với lòng mình hiện diện trước nhan Chúa.

Chúng ta nhìn lại việc cử hành Tam Nhật Thánh trong đời sống Giáo Hội. Những ngày vừa qua, nhờ các phương tiện truyền thông của khoa học kỹ thuật qua hình ảnh, videos, facebook, twitter… Chúng ta có thể nhìn xem và học hỏi rất nhiều về những sự tổ chức cử hành Tam Nhật Vượt Qua trong đời sống của Giáo Hội. Những cảnh thu hình trực tiếp từ Thủ đô của Giáo Hội và từ Đất Thánh nơi chính Chúa đã chịu khổ hình thập giá và những phim ảnh diễn lại sự thương khó của Chúa Giêsu của nhiều nơi trên thế giới.

Thứ Năm Tuần Thánh, tại Vatican, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã cử hành thánh lễ Tiệc Ly và rửa chân tại nhà tù Rebibbia, Rôma. Chúng ta biết việc cử hành Bí Tích Thánh Thể theo truyền thống không có nhiều khác biệt. Trong dịp lễ này, có một số Giáo Xứ đã đắp những con chiên lớn bằng gạo nấu chín và sau thánh lễ, phân phát cho mỗi gia đình một phần nhỏ để tưởng niệm Con Chiên Vượt Qua.

Nghi thức rửa chân có nhiều hình thức khác nhau. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã rửa chân cho 12 bạn nam nữ đại diện các tù nhân ở hai trại tù. Tại Thánh địa Giêrusalem, Đức Thượng Phụ Fouad Twal cũng lập lại nghi thức rửa chân. Còn nơi các Giáo Phận và các Giáo Xứ địa phương có nhiều sự sắp xếp về nghi thức rửa chân khác biệt: Có Xứ chọn 12 ông trưởng thành làm tông đồ, có nơi chọn 12 em lễ sinh, có xứ chọn 12 người cả nam lẫn nữ, có giáo xứ đã mời 12 vị ít khi tham gia sinh họat, có nơi cử hành nhiều người rửa chân cho nhau, có nơi mời chọn giáo dân rửa chân tại chỗ và có cộng đoàn lại rửa tay (nhà hưu dưỡng).

Thứ Sáu Tuần Thánh, có rất nhiều cuộc cử hành tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu cách công khai long trọng. Tại Rôma, Đức Giáo Hoàng đã chủ sự buổi đi Đàng Thánh Giá tại hí trường Colosseum và ban phép lành tòa thánh. Tại Giêrusalem, nơi chính Chúa đã chịu khổ nạn, các hiệp sĩ Thánh Mộ và đông đảo tín hữu cũng đã đi Đàng Thánh Giá trên chính con đường Chúa đã đi xưa lên đồi Golgôtha. Cuộc tưởng niệm Chúa Giêsu chịu đau khổ được lập lại dưới nhiều hình thức. Tại Philippines, nơi có đa số người công giáo, họ đã tổ chức rất long trọng, nhiều người thay phiên nhau vác cây thánh giá nặng trên quãng đường dài, nhiều người tự đánh mình đến chảy máu đầm đìa, có người được chọn để hy sinh đóng đinh vào thánh giá thật. Giáo dân cử hành một cách sầm uất, sốt sáng và nhiệt thành.

Với các giáo xứ có nhiều tín hữu thuộc văn hóa Châu Mỹ La tinh, cũng đã tổ chức cuộc đi Đàng thánh giá sống, có quan quân xét xử, có các quân lính dẫn đường, các bà đóng vai người Do-thái than khóc và Chúa Giêsu vác thánh giá đi dọc theo các con lộ, Đoàn lữ hành kết thúc tại nhà thờ và đóng đinh giả vào thánh giá. Rất đông người đi theo cầu kinh, hát xướng và tham dự.

Một số Giáo Xứ tại các Địa Phận ở Việt Nam tổ chức rất hoành tráng. Một vài Giáo Xứ tiêu biểu như Giáo Xứ Kẻ Sặt, Xứ Hà Nội và một số cộng đoàn Giáo Xứ tại hải ngoại cũng mở lễ rất sầm uất. Các cuộc kiệu rước rất long trọng với trống chiêng. Rất đông các ông đóng vai quân lính ăn mặc như lính La Mã với gậy gộc gươm giáo đi lùng bắt và đóng đinh Chúa. Mọi người đeo tang và ngắm nguyện, than vãn hang đá và dâng hạt. Tang lễ có tượng Chúa nằm trong quan tài được khiêng rước xung quanh nhà thờ với đèn nến sáng rực. Rồi giáo dân canh thức tới nửa đêm và tiếp tục vào sáng thứ Bảy hôn kính chân tượng Chúa. Nhiều giáo xứ, có tập tục đổ nẻ trên xác Chúa và nhiều người quỳ lết hôn chân, bốc nẻ và than van nguyện cầu.

Tuy nhiên, có nhiều Giáo Xứ Cộng Đoàn cử hành các nghi lễ tưởng niệm Chúa một cách đơn giản. Thứ Sáu Tuần Thánh, theo nghi thức phụng vụ vào lúc 3 giờ chiều, có ba phần chính: Phụng Vụ Lời Chúa (Bài Thương Khó) và Lời Nguyện trọng thể, Phần Suy Tôn Thánh Giá (Linh mục xướng: Đây là cây Thánh Giá, nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian. Mọi người thưa: Chúng ta hãy đến thờ lạy). Nghi thức hôn kính thánh giá. Phần thứ ba là Rước Lễ hiệp thông. Ra về trong yên lặng.

Qua các nghi thức tưởng niệm Chúa chịu chết và sống lại. Chúng ta không phê bình đúng hay sai, thật hay giả, truyền thống hay cấp tiến và mở lễ hay không. Điều quan trọng nhất là sự cảm thông của tâm hồn mỗi tín hữu. Chúng ta có thật tình khổ đau và buồn sầu khi tham dự việc tưởng niệm mà Chúa đã phải chịu chết vì tội lỗi của chúng ta không? Những hình thức tổ chức bên ngoài có đánh động được những tâm tư đang bị ngủ quên hay không? Chúng ta có thật lòng ở lặng bên Chúa trong những lúc Chúa bị người đời xỉ vả và tẩy chay không? Hãy đem tất cả những tâm tình đó vào trong cuộc sống của gia đình và cộng đoàn để áp dụng.

Sáng Thứ Bảy Tuần Thánh, khung cảnh nhà thờ vắng lặng. Nhà Tạm bỏ ngỏ. Bàn thờ lột trần. Không đèn nến. Không trang trí. Xác Chúa còn trong mồ đá. Mọi người canh thức cầu nguyện.

Chiều Vọng Phục Sinh, bầu khí thay đổi. Nhà thờ được trang trí lộng lẫy với cờ phướng và hoa lá muôn mầu. Tạo một không gian của sự đổi mới và tươi mát. Khung cảnh bề ngoài đã thay đổi, lòng mọi người cũng nên đổi thay. Không còn khóc lóc than van hay gánh nặng của thù hằn tội lỗi, tâm hồn nhẹ nhàng thảnh thơi và niềm vui của ngày mới là ngày mừng lễ Chúa Phục Sinh. Chúa đã chiến thắng tử thần và tội lỗi. Chúa đã giải thoát con người khỏi làm nô lệ cho ma quỷ. Chúa Phục Sinh mở cửa thiên đàng cho những ai tin tưởng vào Chúa.

Lễ Vọng Phục Sinh được cử hành rất long trọng với nghi thức làm phép lửa và đốt lửa vào cây nến Phục Sinh. Nến Phục Sinh là hình ảnh ánh sáng Chúa Kitô. Chúa Kitô là ánh sáng đã đến trong thế gian và ánh sáng được thắp lên truyền cho mọi người. Mừng hát Exultet. Các Bài Đọc diễn tả lịch sử của ơn cứu độ. Hát Kinh Vinh Danh và Alleluia trọng thể. Một số nơi đã rửa tội cho các anh chị em Dự Tòng và cộng đoàn Kitô hữu lập lại lời hứa khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội.

Niềm vui của Mùa Phục Sinh sẽ tiếp tục kéo dài trong đời sống của mỗi tâm hồn. Chúng ta cố gắng gìn giữ ánh sáng của niềm tin chiếu dọi trên mọi bước đường dương thế. Qua Bí tích Hòa Giải, chúng ta đã xưng thú, đã sám hối và đã hứa quyết tâm thay đổi, ước gì những tâm tư đó được sưởi ấm và tỏa sáng mỗi ngày trong đời sống. Xin Chúa Kitô Phục Sinh ban bình an và niềm vui hy vọng cho chúng ta. Alleluia.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Bronx, New York.

ĐƯỢC GẶP CHÚA TRÊN ĐƯỜNG EMMAUS

ĐƯỢC GẶP CHÚA TRÊN ĐƯỜNG EMMAUS
Tuyết Mai

Đường Emmaus đây cũng có nghĩa là đường đời, đường lữ thứ ở Trần Gian mà ai ai cũng phải trải qua, chỉ có khác nhau ở giai đoạn ngắn, dài mà chúng ta sống ở trên đời này mà thôi.   Mà hễ là con cái Chúa ai đã được gặp Thầy Giêsu hẳn người ấy vui mừng khấp khởi như bắt được viên ngọc quý, về tìm bán hết mọi thứ để mua cho được thửa ruộng có viên ngọc quý ấy!.

Thường ai đã may mắn tìm gặp được Chúa Giêsu và mãi đến hôm nay vẫn được Ngài cùng đồng hành trên con đường Emmaus thì thích giới thiệu, chia sẻ về Ngài cho mọi người cùng được biết với và cách thức để nhận biết về Ngài cách rõ rệt chứ không như hai môn đệ tuy có Chúa đi cùng bên nhưng vì để cho sự đời nó che mờ hai con mắt.   Mà cách thức duy nhất là hãy tập từ bỏ dần những đam mê thú trần rất dễ làm mất linh hồn sống đời của một người.

Xưa Chúa Giêsu chỉ có vỏn vẹn một món quà giá trị nhất trên trần đời mà Ngài luôn ban tặng, chúc phúc cho các tông đồ của Ngài ấy là “Bình an cho các con” trong suốt thời gian mà Ngài sống chung với các ông.   Thật cuộc sống của các tông đồ ấy chẳng khác nào đàn gà con luôn được có mẹ chăm sóc cách chu đáo, tận tình, yêu thương và chẳng một vướng bận trên đời.   Chỉ có thỉnh thoảng các tông đồ có bàn với nhau chuyện đời thì có sự ganh nhau không nhỏ qua việc ai trong họ sẽ được làm lớn nhất trên Nước Trời.   Mà đó cũng là lẽ rất bình thường vì các tông đồ họ cũng chỉ là con người tầm thường còn mang nặng tánh tham, sân, si …

Nói chung thì các tông đồ của Chúa Giêsu cũng rất ngoan ngoãn vì đã từ bỏ tất cả mà theo Chúa để được Chúa dẫn dắt, hướng dẫn, dạy bảo, không một ngày bị đói khát mà ngược lại các ông còn được đóng góp với Ngài vào phần thánh đức, tích đức qua việc luôn luôn được ở cạnh bên để nghe Chúa Giêsu giải thích cặn kẽ, rõ rệt về Nước Trời và ý nghĩa của những dụ ngôn.   Cùng làm việc giúp đỡ, chia sẻ cho người nghèo khổ.

Được chứng kiến Chúa Giêsu chữa lành cho rất nhiều người bị bệnh lạ mà từ xưa đến nay chưa ai từng làm được giống như thế bao giờ … Như Chúa chữa lành cho người mù được thấy, người cùi hủi được sạch, người hoại huyết được lành ngay, người què và khuyết tật được đi đứng bình thường và người chết được sống lại, v.v…

Thưa sống ở trên đời nhất là ở lứa tuổi còn “Ngựa non háu đá” thì cũng khó mà gặp được Chúa lắm và cũng là con số rất đông cho các cháu đang đi tu.   Nhất là các cháu muốn đi tu nhưng còn đang đứng ở ngã ba đường chưa có quyết định hay không nhất quyết chứ nếu đã có ơn gọi thì sự đi tìm hiểu dòng nào cho thích hợp với mình hơn thì là cái lẽ đương nhiên phải nên tìm hiểu thôi.

Ai trong chúng ta nếu có lòng cương quyết “muốn” thì đều sẽ được mãn nguyện trong mọi lãnh vực, mọi điều và mọi việc ở trên Trần Gian hẳn sẽ không khó để đến được sự thành công, sự gặt hái nếu chúng ta giữ vững lập trường, can đảm, kiên nhẫn và mạnh dạn bước tới với dự tính đã được thành hình.   Chỉ trừ những ai nóng không ra nóng, lạnh không ra lạnh thì mới không gặp được Chúa hay tận trong thâm tâm người ta không muốn được gặp Chúa nhất là ngay liền bây giờ, thưa có phải?.

Nên có rất nhiều người hiện đang sống một cuộc sống rất nông nổi, nông cạn, vô cảm, vô lương tâm và rất tội lỗi.   Họ chỉ muốn được gặp Chúa ở giờ sau hết như người trộm lành được Chúa Giêsu hứa cho anh lên Trời liền ngay khi Chúa lên Trời.   E rằng chẳng ai trong chúng ta lại được may mắn như anh trộm lành ấy đâu mà rồi phải vào ở Luyện Ngục khi mà thời giờ thì trôi qua rất chậm, rất nóng so với cái nóng khắc nghiệt và thời gian ở Trần Gian này … Trong đau khổ, trong tiếng khóc lóc thở than mà ngày ra khỏi đó chẳng ai được biết!.

Do đó sự ao ước để được gặp Chúa thiết nghĩ chúng ta hết thảy nên thực thi Lời Chúa dạy là “Kính Chúa và yêu người” là đã sống trọn lề luật yêu thương của Chúa.   Amen.

** Xin bấm vào mã số để nghe và hát:
https://www.youtube.com/watch?v=MyY5rOuNCts
(Kính Chúa Yêu Người)

Y Tá của Chúa,
Tuyết Mai
04-08-15
————————–
Kính Chúa Yêu Người
(Cảm tác Lời Chúa CN 7TN, Năm A)

Trước tiên ta phải thờ Chúa
Vì Người chính thật là Vua vũ hoàn
Người, Đấng quyền năng vẹn toàn
Người càng vinh hiển Người càng thiết tha

Người có trái tim bao la
Người yêu nhân loại hơn ta yêu Người
Người tác tạo nên con người
Người cho hình dáng giống Người tạc in

Người tạo trời đất muôn hình
Bao la hùng vĩ cùng loài sinh linh
Người ban nhân loại Con mình
Làm giá cứu chuộc hy sinh cứu đời

Người dạy sống ở trên đời
Giới Răn phải giữ Lời Người phải tuân
Thánh Ý Chúa phải xin vâng
Ba đào sóng gió xin dâng lên Người

Cuộc đời ngắn ngủi người ơi!
Sống theo Lời Chúa Nước Trời của ta
Yêu nhau đối xử thực thà
Yêu nhau như thể người nhà của nhau

Đừng nên tranh chấp dành nhau
Đừng nên chống cự hãy mau làm hòa
Đừng nên dắt nhau ra tòa
Mà hãy phân xử hãy hòa trước đi

Kẻo bị người ta điệu đi
Ngồi tù chẳng biết có khi được về?
Chớ cười người chớ khinh chê!
Chớ nên kết án theo bè vu oan!

Yêu thù địch cả kẻ gian
Ai ghét bỏ, ta làm lành với họ
Cả kẻ vu khống bắt bớ
Hãy yêu thương hãy xóa bỏ hận thù

Để Cha ta, Đấng nhân từ
Trên Trời hằng luôn tha thứ yêu thương
Mỉm cười vì Người độ lượng
Cả Con Cha là tấm gương sáng ngời

Nguyện xin Thánh Linh Chúa Trời
Phù trợ nâng đỡ cuộc đời chúng con
Sớm hôm kinh nguyện véo von
Luôn sống bác ái thi ơn giúp đời

Để được kính Chúa yêu người
Giới Răn ta giữ được Người thưởng ban
Dẫu cho sống trong cơ hàn
Bình An bên Chúa cũng thành Giấc Mơ

Cuộc đời quả là giấc mơ
Sáng ngày ca hát ầu ơ ví dầu
Thiên Đàng chừ biết ở đâu?
Sống sao nên thánh dắt nhau cùng về

Quê Trời chẳng có ai chê
Nhưng sao lắm kẻ không mê tìm về?
Trần gian làm họ u mê?
Say sưa chìm đắm đam mê thú trần

Bởi chìm đắm hại bản thân
Hại chính mình, hại người thân, xã hội
Mất linh hồn mất cả Tôi
Chỉ vì hào nhoáng quỷ lôi vào tròng

Cả cuộc đời kể đi đong
Nếu không hối cải đừng mong có ngày
Nếu tin có Chúa có Thầy
Như Phê rô đắm cần tay của Ngài

Có Chúa hy vọng ngày mai
Anh em hết thảy đổi thay trong ngoài
Tâm hồn mạnh mẽ sống hoài
Kết hợp với Chúa, đồng loại hỉ hoan

*** Để cảm tạ, ngợi khen, và tôn vinh Thiên Chúa là Cha chung của tất cả chúng ta, tôi chân thành mời anh chị em hãy dùng những bài hát của tôi để hát, đem đến tận phương trời xa, để làm Sáng Danh Thiên Chúa.

NIỀM VUI PHỤC SINH

NIỀM VUI PHỤC SINH

Những ngày u ám đã qua.  Những đòn roi, tiếng hò hét đòi đóng đinh, những tranh luận gay gắt, tiếng chửi rủa, sỉ vả, tiếng búa chan chát, những giọt máu, vòng gai… chỉ qua một đêm là đã trở thành dĩ vãng.  Người thỏa mãn với quyền lực của mình thì vui tươi vì đã loại trừ được một cái gai trong mắt. Người sợ hãi thì giam mình trong những gian phòng tối.  Những cao trào hay ồn ào của sự kiện một người nổi tiếng bị đóng đinh cũng qua đi.  Mọi người lại trở về với cuộc sống bình thường như chưa hề có chuyện gì xảy đến.  Lịch sử của cuộc đời Giêsu tưởng là đã chấm hết với những khăn liệm và ngôi mộ lạnh lẽo thê lương.  Ai ngờ, chính từ nơi cõi chết ấy, Thiên Chúa đã biểu dương quyền năng của Người.  Từ lòng đất âm u, Người đã cho bừng dậy muôn nơi những phúc ân rạng rỡ.

Sáng sớm hôm ấy, có một số người phụ nữ yêu mến Giêsu lặn lội chạy ra mồ khi trời còn chưa tỏ.  Trên đường đi, các bà còn lo lắng không biết phải đẩy tảng đá lấp mồ như thế nào, để có thể vào trong xức dầu thơm cho xác Chúa.  Trong nhãn quan của các bà, rõ ràng là Giêsu đã chết.  Nhưng vừa ra đến mồ, các bà kinh hãi vì tảng đá đã được dịch sang chỗ khác.  Lại còn có các Thiên Sứ sáng chói ánh hào quang cho biết là Đức Giêsu đã sống lại rồi.  Các bà vội chạy về báo cho các môn đệ.  Hai ông Phêrô và Gioan cũng vội vã chạy ra và chứng thực những gì mà các bà kể lại.  Bà Maria Madalena chưa kịp hoàn hồn, cứ ngỡ ai đánh cắp xác của Thầy mang đi.  Bà đứng đó mà khóc.  Sau khi được tiếng gọi của Đức Giêsu lay động, bà vui mừng hớn hở, chạy về loan tin khắp nơi.  Một niềm vui khác hẳn chợt bừng lên trong bà và những ai chứng kiến, một niềm vui có âm vị chưa từng có trong đời.  Niềm vui ấy là niềm vui do cảm nghiệm được sự sống thần linh, niềm vui được cảm nếm trước hạnh phúc Thiên Đàng, nếm được một sự sống thật, sự sống của chính Thiên Chúa.

Các bạn trẻ thân mến,

Sự kiện Chúa chết và sống lại đã xảy ra cách đây khá lâu xét về mặt lịch sử.  Nhưng ơn phục sinh của Ngài vẫn luôn có đó và tuôn tràn khắp nơi, trong con tim và khối óc của mỗi người.  Có một hạt giống bị chôn vùi vào lòng đất, nay trổ sinh thành một chồi non mơn mởn, chứa đựng bên trong bao sức sống khác.  Mùa đông đã qua đi, mùa xuân đến kéo theo muôn chim vui ca hót tưng bừng, ngàn hoa đua nhau khoe sắc.  Xã hội có thể có những lúc khủng hoảng, nhưng rồi mọi chuyện cũng tốt lên.  Cuộc sống của chúng ta có thể có những khoảng thời gian u ám, tưởng như không sao vượt qua được, nhưng rồi một tia hy vọng chợt đến, giúp ta lấy lại thế quân bình, và tiếp tục sống những ngày tháng vui và hạnh phúc.  Thánh Thần chưa bao giờ thôi hoạt động.  Những sự sống mới lúc nào cũng nảy sinh.  Nơi góc đá khô cằn bên sườn núi, ta vẫn thấy có những cành hoa dại cố gắng vươn ra.  Nơi những triền dốc chơ vơ giữa trời, thấp thoáng vẫn có nhành cây nhỏ uốn mình theo gió.  Nơi sa mạc khô cháy và hoang vu, vẫn có những ốc đảo xanh rì rợp bóng mát.  Những dấu hiệu tự nhiên như thế cũng tỏ lộ phần nào quyền năng mãnh liệt của Thiên Chúa vượt lên trên sự chết rợn người.

Sự phục sinh của Giêsu cho chúng ta thấy những gì mà trước kia Ngài nói với chúng ta không sai chút nào.  Rằng nếu con người chịu chết đi cho những lụy tục của mình, con người sẽ được sống.  Rằng muốn đi đến vinh quang, con người phải đi qua thập giá.  Rằng niềm tin và tình yêu sẽ chiến thắng tất cả.  Rằng quyền năng của Thiên Chúa là vô đối vô song.  Rằng chỉ cần ta một lòng tín thác vào Chúa và vâng nghe Lời Người thì Người sẽ cho ta thấy Người tuyệt diệu biết bao khi dẫn ta qua những màn đêm của chết chóc.  Dẫu có khi đứng trước những hy sinh, ta có phần sợ hãi, buồn phiền, thậm chí là chùn chân, nhưng nếu ta tiếp tục tín thác và hy vọng vào một tương lai tốt đẹp trong tay Chúa, ta sẽ được Người thưởng công bội hậu.

Để có thể trở thành một con bướm xinh, con sâu phải chịu đau đớn chui ra khỏi cái kén.  Để có thể trở thành một con chim sải cánh giữa trời bao la, những mệt mỏi khi cố gắng thoát ra khỏi cái vỏ là điều không thể tránh đối với nó.  Thành công nào cũng đòi phải có hy sinh.  Phục sinh nào cũng đòi phải bước qua thập giá.  Ước gì Chúa Phục Sinh ban thêm sức cho chúng ta, để chúng ta dám vượt thắng con người ù lì và nhát đảm của mình, dám hy sinh vì công lý, vì đạo nghĩa, vì Đức Kitô ngõ hầu chúng ta có thể được cùng Người sống lại trong vinh quang.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Tìm Đấng Phục Sinh

Tìm Đấng Phục Sinh

– Tin nổi bật, Bài Giảng

150404_Empty-Tomb-Picture-09

(Đại Lễ Phục Sinh, năm B)

Chuyện kể rằng… Tại một hội nghị tôn giáo, người ta đưa ra một câu hỏi thú vị: “Sau khi chết, thủ lĩnh tôn giáo của quý vị để lại di sản gì?”. Các vị lãnh đạo các tôn giáo lần lượt trả lời. Người thì nói di sản là chút “tro tàn”, người thì nói là “chút hài cốt”, người thì nói là “mấy cọng râu”, người thì nói là vật này hoặc vật nọ. Cuối cùng, vị lãnh đạo Công giáo trả lời: “Chúa Giêsu của chúng tô
i để lại một di sản là NGÔI MỘ TRỐNG”
.

Thật kỳ diệu, “ngôi mộ trống trơn” đó lại chứa đựng tất cả. Thiên thần đã nói với mấy phụ nữ đạo đức: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi” (Lc 24:5-6). Lời Đức Kitô nói trước, giờ đã ứng nghiệm. Vâng, Ngài đã sống lại thật rồi: “Alleluia! Lễ Vượt Qua của chúng ta là Ðức Kitô đã hiến tế, vậy chúng ta hãy mừng lễ trong Chúa” (1 Cr 5:7b-8a).

Sự thật minh nhiên, không thể chối cãi, lịch sử và khoa khảo cổ đã cho thấy nhiều chứng cớ, chứng tỏ rằng thực sự có một Ông Giêsu bị đóng đinh, được mai táng và đã sống lại – dù sự thật này bị một số người bóp méo, vì họ cố chấp hoặc vô thần.

Đã và đang có các nhân chứng ở khắp nơi, điển hình nhất là ông Phêrô. Kinh Thánh cho biết: “Một hôm, tại nhà ông Co-nê-li-ô, ông Phêrô lên tiếng: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Chúng ta cũng nên nhớ rằng Kinh Thánh là bộ sách được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, và được bán chạy nhất thế giới, ước tính mỗi năm có thêm 100 triệu bản (1). Điều đó chứng tỏ rằng Kinh Thánh nói những điều có thật, chứ không hư cấu hoặc bịa đặt.

Một Phêrô hôm nay hoàn toàn khác một Phêrô hôm qua, con người khiếp đảm đã biến thành con người can đảm. Chính ông đã tới nơi chôn cất Đức Giêsu Kitô và ông thấy ngôi mộ trống trơn. Vì thế, ông tin và ông có trách nhiệm phải chia sẻ niềm tin đó với người khác. Ông hùng hồn rao giảng về Đức Kitô: “Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giuđê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10:37-38).

Và ông dẫn chứng cụ thể: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại. Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Ngườiđược ơn tha tội” (Cv 10:39-43). Tin mừng Chúa Giêsu Phục Sinh là sự thật của các sự thật, là sự thật hơn cả sự thật, không gì có thể chối cãi.

Thật hạnh phúc vì chúng ta có được đức tin tông truyền và vẫn đang cố gắng sống niềm tin đó. Hôm nay là dịp chúng ta xem lại đức tin của mình, và hãy xác định lại: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1). Chúng ta chỉ là con số “không” to lớn, vậy thì không thể không tạ ơn, vì “tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực” (Tv 118:16). Kinh Thánh đã nói: “Không thuốc nào chữa cho con người khỏi chết” (Kn 2:1). Nhưng chúng ta không phải chết tủi nhục, mà được sống mãi nhờ Đấng Phục Sinh. Như vậy, ngoài việc tạ ơn, chúng ta còn phải tự hứa: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:17).

Tác giả Thánh Vịnh nói rằng “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường”, và xác nhận “đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Tv 118:22-23). Niềm vui nối tiếp nỗi mừng, với lý do vô thường: “Đây là ngày Chúa làm ra – Cùng nhau ta hãy reo ca vui mừng” (Tv 118:24).

Thánh Phaolô nói: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3:1-2). Thì phải thế thôi, không thể khác được, vì Chúa Giêsu đã xác định: “Tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 8:23). Chúng ta là môn đệ, là con cái, là những người đi tìm Đấng Phục Sinh, chắc chắn chúng ta cũng phải noi gương Ngài, một lòng một dạ chỉ “tìm kiếm và ái mộ những sự trên trời” mà thôi.

Thánh Phaolô cho biết lý do: “Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3:3-4). Xác đất vật hèn, chúng ta chỉ là bùn đất nhơ nhớp, hôi thối hơn đống rác, ấy thế mà chúng ta lại được hưởng phúc vinh quang cùng với Đấng Phục Sinh Giêsu Kitô. Chuyện như huyền thoại mà lại là sự thật. Quá đỗi kỳ diệu!

Tuy nhiên, đừng vì thế mà ẢO TƯỞNG, ảo tưởng sinh KIÊU NGẠO, kiêu ngạo sinh CỐ CHẤP, cố chấp thì… “hết thuốc chữa”. Thánh Phaolô căn dặn: “Lý do khiến anh em vênh vang chẳng đẹp đẽ gì! Anh em không biết rằng chỉ một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men” (1 Cr 5:6-7). Vì thế, “chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” (1 Cr 5:8).

Trình thuật Ga 20:1-9 ngắn gọn, nhưng vẫn đầy đủ các chi tiết, đặc biệt là chuyện người ta đi tìm Đấng Phục Sinh Giêsu Kitô.

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Chắc hẳn lúc đó bà hốt hoảng và quan ngại lắm, phụ nữ mà, thấy gì khác lạ là thấy lo lắng rồi. Thế nên bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà thông báo khẩn: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Nghe vậy, cả ông Phêrô và chàng Gioan cũng vội vã đi ra mộ. Họ không đi bộ mà chạy. Chắc hẳn họ cũng đang hoang mang, không biết kẻ nào to gan mà đưa thi hài Thầy đi đâu mất tiêu!

Cả hai đều ráng chạy cho mau, nhưng chàng Gioan trẻ hơn nên chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Chàng Gioan cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Sau đó, ông Phêrô cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Rất gọn gàng. Thế thì không thể bị đánh cắp. Kẻ trộm nào cũng sợ, vội vàng vơ vét chứ đâu có bình tĩnh mà xếp gọn gàng khăn khố như thế chứ? Chắc chắn chẳng kẻ nào to gan mà lấy trộm xác Thầy được đâu!

Rồi Gioan cũng đi vào theo, chàng đã thấy và đã tin. Trước đó, hai ông còn lo sợ, chưa hiểu hết lời Kinh Thánh đã nói trước rằng Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết. Giờ đây, hai năm rõ mười, họ an tâm trở về, không chỉ hết lo sợ mà còn vui mừng khôn tả: Thầy đã phục sinh rồi, alleluia! (2)

Lạy Thiên Chúa Cha hằng hữu và hằng sinh, Con Một Yêu Dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô đã phục sinh vinh hiển, chúng con vô cùng hạnh phúc, và xin cho chúng con được sống lại thật về phần linh hồn, đồng thời cũng biết nhiệt thành làm nhân chứng giữa cuộc đời hôm nay. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(1) Có 10 cuốn sách được đọc nhiều nhất thế giới trong hơn nửa thế kỷ qua, Kinh Thánh đứng hàng đầu: [1] Kinh Thánh (3,9 tỷ bản), [2] Các Trích Dẫn từ Mao Trạch Đông (820 triệu bản), [3] Harry Potter (400 triệu bản), [4] Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn (103 triệu bản), [5] Nhà Giả Kim: 65 triệu bản, [6] Mật Mã Da Vinci (57 triệu bản), [7] Bộ truyện Chạng Vạng (43 triệu bản), [8] Cuốn Theo Chiều Gió (33 triệu bản), [9] Suy Nghĩ và Làm Giàu (30 triệu bản), [10] Nhật Ký của Anne Frank (27 triệu bản). Kinh Thánh là cuốn sách cổ xưa nhất nhưng lại có tỷ lệ “vượt trội” hơn các sách khác.

(2) Nghe Hallelujah của nhà soạn nhạc Handel (1685-1759): httpv://www.youtube.com/watch?v=76RrdwElnTU

Kẻ Báo Thù Sẽ Chuốc Lấy Báo Thù Của Thiên Chúa!

Kẻ Báo Thù Sẽ Chuốc Lấy Báo Thù Của Thiên Chúa!

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Năm 1998 tôi mất đứa con gái cưng Marie-Lou, đang mơn-mởn trong lứa tuổi dậy thì. Marie-Lou đột ngột qua đời trong một tai nạn lưu thông do một tên tài xế bất cẩn say rượu gây ra.

Làm sao giải thích cho được và diễn tả cho cùng tâm tình ngổn-ngang rách-nát ruột gan của một người cha trong một hoàn cảnh tương tự??? Đứa con gái cưng duy nhất của bạn – một phần của chính bạn – bỗng dưng bị cướp mất sự sống chỉ vì một tên say rượu không kiểm soát được lay lái của hắn??? Cơn giận của tôi đùng-đùng nổi lên. Một niềm uất-hận vô bờ giáng xuống trên cái tên tài xế say rượu đã cướp trọn gia sản tinh thần quý báu nhất đời tôi! Tôi nghĩ rằng cuộc sống chấm dứt đối với tôi. Không còn gì trên cõi đời này là quan trọng đối với tôi! Tất Cả thực sự đã chấm dứt theo sau cái chết của đứa con gái cưng duy nhất.

Suốt thời gian chờ đợi cuộc xét xử tên tài xế sát nhân, tôi như người sống trong cơn mê. Tôi mong sao mau đến cái ngày quan tòa kết án tên sát nhân hầu tôi có thể hả giận và trút bỏ được cơn hận thù chồng chất trong lòng! Thế nhưng tôi đã lầm. Sự thật không phải như vậy. Quan tòa kết tội nhưng cơn giận trong lòng tôi vẫn không dứt. Tôi vẫn lê-thê tiến bước với cái giận dữ nung-nấu trong tâm hồn. Cho đến một ngày, 3 năm sau cái chết của đứa con gái cưng, một cuộc gặp gỡ đã làm đảo lộn tất cả.

Năm ấy tôi thường xuyên viếng thăm một người bạn bị bệnh nặng đang nằm điều trị nơi nhà thương. Bỗng một ngày – trong một lần viếng thăm bạn – tôi chạm mặt một phụ nữ trẻ tuổi khoảng đôi mươi. Nàng ngồi xe lăn nhưng toàn thân nàng lại toát ra một niềm vui sống dạt dào. Rồi một ngày nơi phòng đợi nàng bỗng vui vẻ kể cho tôi nghe lý do tại sao nàng phải ngồi xe lăn. Nàng đang đi môtô thì bị một tài xế lái ẩu chạy băng đèn đỏ đụng vào! Nghe nàng kể đến đây lòng tôi lại đùng đùng nổi giận, nhớ đến câu chuyện đau thương của chính mình! Người phụ nữ vui tươi kể tiếp. Trong vòng 18 tháng, kể từ khi tai nạn xảy ra, nàng không hề nuôi mối hận thù nào đối với người tài xế bất cẩn đã gieo tai họa cho nàng. Trái lại, nàng cảm thấy tri ân THIÊN CHÚA vì đã cho nàng niềm hạnh phúc vẫn còn sống bên cạnh Mẹ Cha và những người thân yêu. Rất có thể, nếu nàng bi-quan thù hận đời thì càng gây thêm nỗi đau đớn cho Cha Mẹ. Điều này không mang ích lợi nào cho ai hết: cho chính nàng cũng như cho các người thân yêu của nàng.

Lẳng lặng lắng nghe người phụ nữ trẻ tuổi – ngồi xe lăn – bày tỏ tâm tình, tôi bỗng như người vừa thoát ra khỏi cơn mê. Cho đến lúc đó, tuyệt đối tôi không thể nào tha thứ cho tên tài xế đã giết chết đứa con gái của tôi. Giờ đây, Caroline – tên người phụ nữ trẻ tuổi – dạy tôi bài học:

– THA THỨ là lãnh nhận niềm an bình nội tâm.

Ở đây – trong trường hợp của tôi – THA THỨ không phải là giải hòa với tên tài xế sát nhân mà là GIẢI HÒA với chính tôi. Khi tha thứ tôi được giải thoát khỏi hận thù và kể từ đó tôi có thể cùng với hiền thê nhắc lại bao kỷ niệm thân thương về đứa con gái dấu yêu đã sớm từ bỏ chúng tôi. THA THỨ trao ban cuộc sống mới cho tình yêu phu thê của hai vợ chồng chúng tôi.

Quả thật, từ hận thù đến THA THỨ chỉ có một bước nhỏ, vậy mà tôi đã phải mất đến 3 năm mới bước được, nhờ cuộc gặp gỡ đổi đời với một phụ nữ trẻ tuổi tàn tật.

(Chứng từ của ông Jean-Michel người Pháp).

… “Oán hờn và giận dữ là những điều ghê tởm, về chuyện đó kẻ tội lỗi có biệt tài. Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của THIÊN CHÚA, tội lỗi nó, Người xem xét từng ly. Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được thứ tha. Người với người cứ nuôi lòng hờn giận, thế mà lại xin THIÊN CHÚA chữa lành! Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình! Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận, thì ai sẽ xin tha tội cho nó? Hãy nhớ đến ngày tận số mà chấm dứt hận thù, nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết mà trung thành giữ các điều răn. Hãy nhớ đến các điều răn mà đừng oán hờn kẻ khác, nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao mà không chấp nhất điều lầm lỗi” (Sách Huấn Ca 27,1/28,1-7).

(“Annales d’Issoudun”, Janvier/2008, trang 9)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt, 2/3/2015

Phỏng vấn người đầu tiên gặp Chúa Giêsu Phục Sinh

Phỏng vấn người đầu tiên gặp Chúa Giêsu Phục Sinh

dongten.net

(Bài viết dựa trên Tin Mừng: Ga 20,1-18)

– Cháu chào bà Maria Madalena.

IVANOV_YAV_HRISTA_MARI1

Chào cháu. Bà rất vui vì được cùng cháu nói về biến cố Chúa Giêsu sống lại. Đó là kỷ niệm đẹp nhất mà bà hằng ghi nhớ.

– Vâng, cháu thấy bà yêu mến Chúa Giêsu thật nhiều! Lúc trời còn tối mịt vậy mà bà đã hối hả ra mộ để thăm Người.

Cháu biết không, suốt ngày Lễ Vượt Qua, bà lo lắng thật nhiều vì không thể đi ra mộ xức dầu thơm cho Người, không thể chăm lo phần mộ của Người. Vả lại, đi theo Người trong suốt Cuộc Thương Khó, bà thấy thương Người lắm, nhưng chẳng thể làm gì được để cứu Người. Chính vì vậy nên khi Người được mai táng, bà muốn làm điều gì đó cho mộ phần của Người. Suốt cả đêm hôm ấy, giấc ngủ bà cứ chập chờn, chỉ mong sao chóng qua ngày mới để có thể chạy liền ra mộ.

– Cháu thấy các môn đệ kia lo sợ giới lãnh đạo Do Thái vì các ông có mối tương quan thân thiết với Giêsu. Họ sợ bị vạ lây. Nhưng hình như bà không chút sợ hãi?

Thú thực là trong những ngày ấy, người ta chẳng để tâm đến các bà đâu. Bởi thế, bà cùng với mẹ Maria và vài người phụ nữ đạo đức có cơ hội theo sát Chúa hơn trong Cuộc Thương Khó. Và Bà cũng đã chứng kiến Giêsu được mai táng cách nào.

Vâng, bà vui lòng kể cho cháu chi tiết hơn về việc Chúa Giêsu phục sinh và hiện ra lần đầu tiên với bà?

Ồ, đấy là một kinh nghiệm quý nhất trong đời bà. Số là sáng ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà với mấy chị em nữa đi đến mộ. Các bà vừa đi vừa dò đường vì trời còn rất tối! Trên đường không một bóng người. Vừa đi các bà vừa bàn tán với nhau: “Chị em mình làm sao lăn tảng đá lớn lấp cửa mộ ra để vào trong mà xức dầu thơm cho Người?” Nhưng chuyện không ngờ đã xảy ra. Vừa đến mộ thì một cảnh tượng hãi hùng đập vào mắt các bà: tảng đá đã bị ai đó lăn ra. Bà vội nghĩ ngay đến chuyện chẳng lành xảy đến cho thi hài của Thầy mình, nên bà liền chạy về gặp ông Phêrô và Gioan. Bà nói: “Người ta đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?”

– Thế hai ông có tin lời bà không? Và họ đã làm gì?

Lúc đầu hai ông chưa hiểu lắm, nhưng sự hối hả và hoang mang của bà khiến hai ông cũng vội vã đi ra mộ. Bà chạy theo sau. Khi ra đến nơi, hai ông ấy chứng kiến ngôi mộ trống, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Ðức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Lúc ấy, có vẻ như Gioan đã tin điều gì đó. Khi đến nơi, bà thấy hai ông vừa thẫn thờ vừa lo lắng. Không lo lắng sao được khi xác Thầy không còn nữa, không thẫn thờ sao được trước cảnh tượng vượt tầm kiểm soát của các ông, cho dẫu Kinh Thánh có nói đến việc Ðức Giêsu phải chổi dậy từ cõi chết. Thế rồi, hai ông lủi thủi trở về nhà.

– Chuyện gì đã xảy đến cho bà lúc ấy?

Lúc ấy bà buồn lắm, chỉ biết đứng ngoài mộ mà khóc, khóc như một em bé bị mất cha, mất mẹ. Lòng bà nát tan và chẳng biết phải làm gì! Bà chỉ biết nhìn vào ngôi mộ trống mà khóc thôi. Nhưng đang khi nhìn, bà thấy hai người mặc áo trắng tinh ngồi ở nơi đặt thi hài của Ðức Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. Sau này bà mới biết họ là các thiên thần. Họ hỏi bà: “Này bà, sao bà khóc?” Bà nức nở thưa: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!”

– Thế họ có nói cho bà biết kẻ nào đánh cắp thi hài Giêsu không?

Không, họ không nói gì nữa! Nhưng khi định hỏi họ kỹ hơn thì bà cảm nhận có ai đó đứng phía sau mình. Bà ngoái lại, thấy một người làm vườn. Bà trông ông ấy vừa quen vừa lạ. Ông ấy hỏi: “Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?” Bà cảm thấy ông ấy có vẻ hiểu tâm trạng của bà lúc này, nên mới hỏi lại: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” Bà vừa hỏi vừa chỉ cho ông ấy thấy ngôi mộ trống. Đúng lúc ấy, ông ta gọi bà: “Maria!” Bà quay lại và nói bằng tiếng Hípri: “Rápbuni!” (nghĩa là ‘lạy Thầy’).

-Xin lỗi, cháu có chút tò mò. Sao bà biết là Thầy Giêsu mà đáp lại như thế?

Cháu à, bà không thể nào quên được tiếng gọi ấy. Lúc đi theo Thầy, bà thường được nghe tiếng gọi thân quen ấy. Giọng nói của Thầy luôn trìu mến để mời gọi chúng ta kết thân với Người. Vì là tiếng gọi của tình yêu nên Người muốn gọi đích danh! Lúc này, bà không tin vào mắt mình nữa! Bà vui mừng ôm chầm lấy Người, không để cho Người xa bà nữa, không để ai lấy Người đi xa bà nữa. Ôi, Chúa Giêsu đã phục sinh và đang ở với bà. Đó là sự thật!

Bà đang còn ngỡ ngàng trước mầu nhiệm Phục sinh thì Ðức Giêsu bảo: “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em’”. Trái tim bà tràn ngập niềm vui, lòng bà chứa chan hạnh phúc vì Chúa đã phục sinh và hiện ra với bà. Sau đó, Chúa Giêsu liền biến mất, bà lập tức đi loan báo Tin mừng trọng đại này cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa!”. Bà muốn lặp đi lặp lại thật nhiều lần: “Tôi đã thấy Chúa!”, muốn kể lại những điều Người đã nói với bà để mọi người tin rằng Chúa đã sống lại. Nhờ đó, muôn dân được cứu độ!

– Cháu thấy bà thật có phúc vì Chúa Phục sinh đã ưu ái hiện ra với bà trước tiên!

Đúng thế! Bà vẫn luôn cảm tạ Người đã đến trong cuộc đời bà và ân thưởng cho bà sự sống bất diệt. Bà nghĩ thời đại nào Chúa Giêsu cũng đang hiện ra với từng người. Có điều, họ có nhận ra Người đang hiện diện hay không mà thôi. Bà chắc chắn với cháu một điều, những ai đụng chạm và gặp được Giêsu Phục sinh, người ấy sẽ có sự sống, có tình yêu và có ơn cứu độ nơi mình.

Ước gì cháu cũng rộng mở trái tim để đón nhận Tin mừng phục sinh của Giêsu đến trong cuộc đời của cháu. Chúc cháu luôn nhận được ơn lành của Chúa Phục sinh!

– Cháu cảm ơn lời chúc tuyệt vời của bà! Cảm ơn bà thật nhiều, người đã gặp Chúa Phục sinh đầu tiên!

Mừng Chúa Phục Sinh 2015

Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.

Câu hỏi trong Tuần Thánh

Câu hỏi trong Tuần Thánh

– Tin nổi bật, Chuyên Đề

VRNs (03.04.2015) – Roma, Italia – Một bạn trẻ gửi đến một câu hỏi: Thưa cha, tại sao thánh Phêrô và ông Giuđa cả hai cùng phạm tội. Người thì bán Chúa, người thì chối Chúa. Cả hai ông đều sám hối và mỗi người lại chọn một hành động khác nhau?

The Jews Passover

Phần trả lời chỉ là những suy tư cá nhân dựa trên chính những bản văn Kinh Thánh.

Trước hết, chúng ta cần ghi nhận rằng hành vi nộp Thầy của ông Giuđa Iscariốt là một tội trọng đáng phải chết vì có liên quan đến chính tính mạng của Đức Giêsu. Còn hành vi chối Thầy của Phêrô không đến đáng phải chết, nó liên quan đến sự trung thành và lòng can đảm của Phêrô đối với Đức Giêsu mà thôi. Nói cách khác, hành vi của Giuđa dẫn đến giết người, hành vi của Phêrô dẫn đến sự chối bỏ tương quan đức tin vào Thầy Chí Thánh. Như vậy, chúng ta có thể thấy bản chất của vấn đề khác nhau hoàn toàn. Cho nên sự so sánh hay việc đặt song song giữa tông đồ Phêrô và tông đồ Giuđa Iscariốt, do đó hệ quả của hành vi của hai tông đồ này là không công bằng. Chúng ta hãy xét từng trường hợp.

1. Sự thể chối Thầy và hành vi “sám hối” của tông đồ Phêrô

Các bản văn Kinh Thánh tường thuật lại sự việc chối Thầy của Phêrô là Mátthêu 26,69-75; Máccô 14,66-72; Luca 22,56-62; và Gioan 18,15-27. Nếu đọc kỹ, chúng ta sẽ thấy cách tường thuật của các tác giả sách Tin Mừng có sự khác nhau đáng kể. Tin Mừng Nhất Lãm, tức là Mátthêu, Máccô và Luca đều kể là Phêrô chối Thầy ba [3] lần trước khi gà gáy lần thứ hai [2]; trong khi đó, Gioan kể lại ba lần nhưng không có sự liên tục, và khi Phêrô chối lần thứ ba, tức thì gà gáy (x. Ga 18,17.25.27).

Tin Mừng Nhất Làm thuật lại rằng sau khi Phêrô chối Thầy ba lần thì gà gáy lần thứ hai, ông nhớ lại lời Thầy đã nói: “Trước khi gà gáy lần thứ hai, anh sẽ chối Thầy ba lần”, và Phêrô đi ra và ông khóc thảm thiết (Mt 26,75: Lc 22,62); và ông sụp mình xuống và khóc lóc (Mc 14,72); trong khi đó, Gioan không nói đến sự kiện Phêrô khóc, và chỉ kể lại đơn giản: và tức thì gà gáy (Ga 18,27).

Chúng ta để ý: ở đây cả bốn sách Tin Mừng không trực tiếp nói đến việc Phêrô “sám hối”, nghĩa là các tác giả Tin Mừng không dùng một động từ hay danh từ có nghĩa “sám hối” để chỉ cho hành vi ăn năn trở lại của Phêrô. Các tác giả Nhất Lãm chỉ đơn giản nói ông Phêrô ra ngoài và khóc lóc, thế thôi. Tuy nhiên, hành động “ra ngoài, sụp xuống, khóc lóc thảm thiết” của Phêrô có thể hiểu được chính là hành vi sám hối ăn năn của ông.

Tại sao Phêrô lại có khả năng ăn năn trở lại? Chúng ta hãy xem vài yếu tố. Thứ nhất, Phêrô đã được chính Thầy Giêsu báo trước và cho biết dấu hiệu: “Thật, Thầy bảo anh, nội trong đêm nay, trước khi gà gáy, anh sẽ chối Thầy ba lần” (Mt 26,34; Mc 14,30; Lc 22,34; Ga 13,38). Thứ hai, trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu đã bảo đảm cầu nguyện cho sự trở lại của Phêrô: “Simôn, Simôn, này Satan đã đòi cho được anh em mà quày cho một trận như sàng lúa; nhưng Thầy đã cầu xin cho anh, ngõ hầu lòng tin của anh khỏi bị tiêu diệt. Phần anh, một khi đã trở lại, anh hãy củng cố anh em của anh.” (Lc 22,31-32).

Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng Phêrô đã được ban cho một nội lực để trở lại và nội lực này được chính Chúa bảo đảm cho ông. Hơn nữa, sức mạnh nội tại này cũng đã có sẵn nơi Phêrô rồi, khi ông dõng dạc tuyên bố: “Dẫu phải chết với Thầy, tôi cũng sẽ không chối Thầy” (Mt 26,35; Mc 14,31); hoặc: “Thưa Thầy, làm một với Thầy, dẫu phải đi đến tù ngục và tử hình, tôi cũng sẵn sàng” (Lc 22,33); hay: “Thưa Thầy, tại sao tôi không thể theo Thầy ngay bây giờ? Tôi sẽ thí mạng sống tôi vì Thầy!” (Ga 13,37).

Thế nên, chúng ta nhận ra rằng để chọn lựa một hành động không phải là một quyết định nhất thời, nhưng là hệ tại cả một hành trình sống như thế nào, cả trong tâm tư và nơi hành động. Chính do tâm tư và hành động của mình mà người ta rút ra được kết quả của đời sống, đúng như Đức Giêsu đã nói: “Nào ai hái được trái nho nơi bụi gai, hoặc trái vả nơi bụi găng sao? Cũng thế, cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt.” (Mt 7,17-18).

Hình ảnh Phêrô trong Tin Mừng không chỉ nói riêng về Phêrô, nhưng còn nói về mọi tín hữu trong đời sống đức tin vào Đức Giêsu Kitô ở mọi thời và mọi nơi. Trong những lúc gặp gian truân và bị bách hại, ta thật sự có đủ mạnh mẽ trung thành và can đảm tuyên xưng lòng tin vào Đức Kitô?

2. Sự thể “bán” Thầy và hành vi “tự sát” của tông đồ Giuđa Iscariốt

Bây giờ chúng ta xét đến trường hợp của ông Giuđa Iscariốt. Tôi để hai từ “bán” và “tự sát” trong ngoặc kép là muốn có một sự thận trọng trong cách sử dụng hai từ này.

Hình ảnh tông đồ Giuđa Iscariốt xuất hiện trong Tin Mừng ngay từ đầu đã thấy thấp thoáng số phận đen tối của ông. Trong danh sách Mười Hai Tông Đồ, ông là người đứng sau cùng và được nhận diện ngay: “Giuđa Iscariốt, cũng là kẻ đã nộp Người (Đức Giêsu)” (x. Mt 10,4; Mc 3,19; Lc 6,16). Tên của ông được nhắc đến khoảng 20 lần trong bốn sách Tin Mừng. Động từ paradidomi, trao nộp, xuất hiện khoảng 37 lần trong cả bốn sách Tin Mừng thường ám chỉ và áp dụng cho Giuđa Iscariốt. Hình như trong các tường thuật Tin Mừng, Giuđa chỉ lên tiếng có hai lần: một lần liên quan đến tiền bạc (x. Ga 12,4-6) và một lần khi Đức Giêsu thông báo rằng có một người trong Nhóm Mười Hai sẽ nộp Người, Giuđa đã hỏi: “Thưa Thầy, chẳng lẽ là tôi?” Đức Giêsu trả lời: “Anh nói đó” (Mt 26,25).

Vậy Giuđa có “bán” Thầy không? Và cách ông chết (tự vẫn) thế nào?

Chúng ta hãy đọc cách Tin Mừng tường thuật về ý định của Giuđa nộp Đức Giêsu và hãy chú ý từng chi tiết. Tin Mừng Mt kể: “Bấy giờ, một người trong Nhóm Mười Hai tên là Giuđa Iscariốt, đi gặp các thượng tế mà nói: “Tôi nộp ông ấy cho quý vị, thì quý vị muốn cho tôi thứ gì?” Họ quyết định cho ông ba mươi đồng bạc. Từ lúc đó, ông cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giêsu” (Mt 26,14-16).

Chúng ta để ý: Giuđa không hề ngả giá về số tiền bao nhiêu (một số bản dịch dịch là: quý vị muốn cho tôi bao nhiêu? thì không chính xác!), ông chỉ hỏi các thượng tế cho ông cái gì để ông nộp Đức Giêsu thôi. Và chính các thượng tế đã quyết định cho Giuđa ba mươi đồng bạc!

Tin Mừng Mc kể: “Và Giuđa Iscariốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. Nghe ông nói, họ rất mừng và hứa cho một món tiền. Giuđa liền tìm cách nộp Người sao cho tiện” (Mc 14,10-11).

Thánh Máccô cũng kể rằng Giuđa đến với các thượng tế với ý định là để nộp Đức Giêsu. Các thượng tế biết thế thì vui mừng lắm và còn hứa cho ông Giuđa một món tiền. Như vậy, theo Máccô, ông Giuđa cũng không ngả giá tiền và thậm chí cũng không cần phải điều kiện gì. Tiền là do các thượng tế hứa cho ông, vậy thôi.

Tin Mừng Luca thì thuật lại chi tiết hơn nhưng bi kịch hơn: “Satan đã nhập vào Giuđa, cũng gọi là Iscariốt, một người trong Nhóm Mười Hai. Ông đi và trao đổi với các thượng tế và lãnh binh Đền thờ về cách thức nộp Người cho họ. Và họ rất mừng và đồng ý sẽ cho ông một món tiền. Ông ưng thuận và tìm dịp tiện để nộp Đức Giêsu cho họ, lúc không có đám đông” (Lc 22,3-6).

Cách tường thuật của thánh Luca cho chúng ta thấy tình cảnh của Giuđa đã trở nên bi đát: Satan đã nhập vào Giuđa! Tin Mừng Gioan cũng kể lại chi tiết này trong bữa Tiệc Ly: Ma quỷ đã gieo vào lòng Giuđa, con ông Simôn Iscariốt, ý định nộp Đức Giêsu” (Ga 13,2) và “Ông vừa ăn xong miếng bánh, Satan liền nhập vào ông. Đức Giêsu bảo ông: ‘Anh làm gì thì làm mau đi!’” (Ga 13,27).

Qua cách trình bày của các sách Tin Mừng trên đây, chúng ta nhận thấy thế này: Giuđa có ý định nộp Đức Giêsu, chứ không hề có ý định bán Đức Giêsu. Nhưng tại sao Giuđa lại nộp Thầy? Các Tin Mừng không cho biết lý do. Các thượng tế là những người hăm hở vui mừng khi biết tin Giuđa sẽ nộp Đức Giêsu cho họ và chính các thượng tế đã hứa cho Giuđa tiền, Mátthêu nói rõ là cho ba mươi đồng bạc. Còn Satan thì lẻn vào tâm hồn ông Giuđa. Và ông Giuđa tìm dịp tiện để nộp Đức Giêsu. Khi dịp thuận tiện đến, ông Giuđa đã dùng nụ hôn để phản bội Thầy (x. Mt 26,48-49; Mc 14,44-45; Lc 22,47-48).

Vậy là ông đã vì tiền và dùng tình yêu (nụ hôn) để phản bội Thầy. Hành động của Giuđa được các Thượng tế và hàng niên trưởng hậu thuẫn bằng cách cho tiền và Satan thì lẻn vào trong tâm hồn ông Giuđa. Tóm lại, hành động của ông Giuđa bị dẫn dắt bởi Thần Tiền và Thần Dữ!

Bây giờ chúng ta đọc đoạn kết cuộc đời của ông Giuđa Iscariốt: ông đã chết cách nào?

Giuđa không có cái may mắn được đảm bảo cho sự ăn năn trở lại. Thay vào đó, những lần nói về ông hay nhận xét về ông thì quả là đen tối. Ở Tin Mừng Gioan 6,70 Đức Giêsu nói: “Không phải là Thầy đã chọn anh em tất cả là Mười Hai sao? Vậy mà một trong anh em lại là quỉ sứ!” Và tác giả Tin Mừng Gioan nhận xét: “Người nói về Giuđa, con của Simôn Iscariốt. Vì y là kẻ sẽ nộp Người, y là một người trong Nhóm Mười Hai” (Ga 6,71). Ở Gioan 12,4-6, Giuđa được nhắc đến như thế này: “Giuđa Iscariốt, một trong các môn đệ của Người, kẻ sẽ nộp Người mới nói:Tại sao lại không bán dầu thơm ấy ba trăm đồng quan mà bố thí cho người nghèo?’ Y nói thế, không phải vì y bận tâm đến người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp, y giữ túi tiền, nên có gì bỏ vào thì y phỗng mất.” Trong khi đó, Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại lời Đức Giêsu nói về Giuđa như sau: “Con Người ra đi như đã viết về Người; nhưng khốn cho người đó, kẻ làm cho Con Người bị nộp! Thà người ấy đã chẳng sinh ra thì hơn!” (Mt 26,24; Mc 14,21; Lc 22,21). Như vậy, số phận của Giuđa thật là tồi tệ!

Trong Tân Ước, có hai chỗ thuật lại cái chết của ông Giuđa, nhưng hai cách thuật truyện về cái chết của ông rất khác nhau. Mátthêu kể: “Bấy giờ, Giuđa, kẻ đã nộp Người, thấy Người bị kết án, thì hối hận mà đem trả lại ba mươi đồng bạc cho các Thượng tế và hàng niên trưởng, mà rằng: Tôi đã phạm tội là nộp máu người vô tội. Nhưng họ nói: “Việc gì đến chúng tôi! Anh tự liệu lấy!” Và ông đã ném bạc vào Đền thờ, đoạn lui về mà ra đi treo cổ.” (Mt 27,3-4).

Sách Công vụ lại kể: “Trong những ngày ấy, Phêrô đứng dậy giữa các anh em – một đám đông tề tựu lại, lối một trăm hai mươi người – và nói: ‘Thưa anh em, Kinh Thánh phải được ứng nghiệm, lời Thánh Thần đã dùng miệng Đavid để tiên báo về Giuđa, kẻ đem đường cho những người đến bắt Đức Giêsu. Y đã từng được liệt vào số chúng tôi, cùng đã được thông phần vào công việc phục vụ này. Vậy y đã lấy tiền công phi nghĩa mà tậu một thửa đất, và nhào đầu xuống, y đã vỡ bụng, lòi ruột ra. Sự ấy, mọi người ở Giêrusalem đều biết, khiến thửa đất kia đã được gọi – theo tiếng của họ – là Hakeldama, nghĩa là Ruộng máu! Vì trong sách Thánh vịnh đã viết: ‘Trại của nó hãy thành hoang vu, và đừng có ai ở lại trong đó. Và: Chức vụ của nó, kẻ khác hãy cất lấy!” (Cv 1,15-20).

Chúng ta tự hỏi: tại sao cùng là một cái chết, Mátthêu lại kể một cách và sách Công vụ lại kể cách khác? Theo Mátthêu, sau khi Giuđa ném tiền vào Đền thờ, ông đi ra và đi treo cổ (dịch sát nghĩa tiếng Hylạp là: tự treo mình lên); còn theo sách Công vụ thì Giuđa sau khi đã mua một thửa đất (trong khi đó theo Mátthêu thì chính các thượng tế mua thửa đất [x. Mt 27,6-10]), ông đã nhào đầu xuống, bị vỡ bụng và lòi ruột ra. Vậy thực tế thì ông Giuđa chết cách nào? Chúng ta không biết chính xác!

Tuy nhiên, ở đây chúng ta nên đọc sát bản văn Mátthêu để hiểu Giuđa và hiểu ý của tác giả sách Kinh Thánh (cách trình thuật truyện về cái chết của ông Giuđa trong sách Công vụ xin hẹn đọc ở một dịp khác).

Chúng ta đọc kỹ ý của ông Giuđa ở Tin Mừng Mátthêu: “Bấy giờ, Giuđa, kẻ đã nộp Người, thấy Người bị kết án, thì hối hận mà đem trả lại ba mươi đồng bạc cho các Thượng tế và hàng niên trưởng, mà rằng: Tôi đã phạm tội là nộp máu người vô tội.

Ông Giuđa hối hận, chứ không phải là ông “sám hối”. Động từ hối hận chỉ xuất hiện trong Tân Ước 6 lần (x. Mt 21,29.31; 27,3; 2 Cr 7,8.8; Dt 7,21). Hành động đầu tiên của việc hối hận của Giuđa là đem “trả lại ba mươi đồng bạc”; hành động thứ hai là ông thú nhận tội lỗi của mình: “Tôi đã phạm tội là nộp máu người vô tội”. Lời thú tội của ông vô cùng quan trọng: Đức Giêsu là Đấng vô tội! Và ông Giuđa trả lại ba mươi đồng bạc là trả lại cho các thượng tế điều họ đã hứa cho ông. Điều các thượng tế hứa cho ông lại là giá máu của người vô tội. Như vậy, ý định ban đầu của ông Giuđa không phải là ông muốn treo cổ, mà là ông đem trả lại tiền và thú nhận tội lỗi của ông. Nhưng tại sao ông lại phải treo cổ?

Chúng ta đọc tiếp: “Nhưng họ [các thượng tế và hàng niên trưởng] nói: “Việc gì đến chúng tôi! Anh tự liệu lấy!” Ah, thì ra các thượng tế và hàng niên trưởng đã phủi tay! Ông Giuđa phải tự liệu bằng cách treo cổ!

Trình thuật của Mátthêu chương 27,3-10 về cái chết của ông Giuđa vọng lại rất nhiều chỉ dẫn Kinh Thánh Cựu Ước. Chúng ta có thể đọc được âm hưởng trong các sách Ngôn sứ Giêrêmia các chương 18,2-18; 19,1-15; 32,6-9 và sách Ngôn sứ Zacaria 11,12-13. Về cái chết treo cổ của Giuđa, chúng ta có thể đọc được trong câu chuyện của ông Akhithophel trong sách thứ hai Samuel chương 17. Ông Akhithophel bàn mưu với Absalôm để đuổi theo và hạ sát vua Đavid. Nhưng cuối cùng kế của ông Akhithopel không được chấp nhận. Khi “Akhithophel thấy người ta không làm theo lời bàn của mình, thì thắng lừa, lên đường đi về nhà, trong thành mình. Y thu xếp việc nhà, rồi thắt cổ tự tử. Y được chôn cất trong phần mộ của cha y.” (2 Sam 17,23). Ở đây, ông Giuđa đã không được các thượng tế và hàng niên trưởng chấp nhận việc trả lại tiền và lời thú tội của ông, ông đã ném tiền lại mà ra đi thắt cổ!

Liên quan đến tội nhận tiền hối lộ làm đổ máu người vô tội, chúng ta đọc được trong sách Luật Môsê: “Ngươi phải lánh xa điều gian dối. Ngươi không được giết kẻ vô tội và công chính, vì Ta không cho kẻ có tội được trắng án. Ngươi không được nhận quà hối lộ, vì quà hối lộ làm cho những kẻ sáng mắt hóa ra đui mù và làm hỏng việc của những người công chính.” (Xh 23,7-8). Và: “Đáng nguyền rủa thay kẻ giết trộm người đồng loại! Toàn dân sẽ thưa: Amen! Đáng nguyền rủa thay kẻ nhận quà hối lộ để giết người vô tội! Toàn dân sẽ thưa: Amen!” (Đnl 27,24-25).

Hành động của Giuđa đi đến Đền thờ, gặp các thượng tế và hàng niên trưởng, trả lại tiền và thú nhận tội lỗi là hành vi “đền tội” của của ông qua trung gian các tư tế (thượng tế) có thể được hiểu chiếu theo Luật Môsê (x. Lv 5). Nhưng các thượng tế đã từ chối hành vi “đền tội” của Giuđa, do đó tội của ông không được tha, và hậu quả là Giuđa phải lãnh lấy sự nguyền rủa chiếu theo Luật Môsê. Ông đã phải tự treo cổ!

Đọc trong cách trình bày này của Mátthêu, chúng ta mới hiểu được tình cảnh “bi đát” của cái chết của ông Giuđa. Giuđa đã để cho Thần Của và Thần Dữ dẫn dắt. Nhưng cũng chính Thần Của và Thần Dữ này lại thể hiện ở một khuôn mặt khác nơi các Thượng tế (hàng tư tế) và hàng niên trưởng (các nhà lãnh đạo). Chính họ đã ghét và cố tình từ chối sự thật và sự công chính!

Tóm lại, hình ảnh tông đồ Giuđa Iscariốt gợi lên cả một hành trình của mỗi một đời người trong tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân. Nhiều khi ta hay có thói quen “mặc định” cho ông Giuđa là kẻ “bán Chúa” và “thằng Giuđa phải sa hỏa ngục” (sic!) và biết bao nhiêu những thêu dệt về hình ảnh của ông thường là quá đáng. Tuy nhiên, ta lại ít phản tỉnh rằng rất nhiều khi hình ảnh Giuđa lại là chính ta.

Ở những xã hội lấy chủ nghĩa duy vật và vô thần làm nền tảng cho sự lãnh đạo và phát triển, thực chất chẳng vô thần đâu, nhưng là đang bị Thần Của và Thần Dữ dẫn dắt. Nơi đời sống tôn giáo, không thiếu gì các vị “thượng tế” và hàng “niên trưởng” thời đại chỉ biết giữ cho được cái “ghế”, cái “chức vị” của mình, thích được người ta ca tụng, vỗ tay hoan hô, vòng hoa đeo xúng xính; nhưng lại rất ngại lên tiếng bênh vực người nghèo, bênh vực những kẻ bị áp bức và bị bóc lột. Họ là những người ghét sự thật và sự công chính; đôi khi họ nại vào những lý do tôn giáo để chối từ bổn phận ngôn sứ trước những bất công xã hội.

Thế nên, hình ảnh Giuđa không chỉ là Giuđa, nhưng có liên quan đến chính ta!

Roma, Tuần Thánh 2015.

Vincent M. Phạm Cao Qúy, CSsR.

Bài giảng lễ Tiệc Ly của Đức Thánh Cha Phanxicô

Bài giảng lễ Tiệc Ly của Đức Thánh Cha Phanxicô

– Tin nổi bật, Bài Giảng

VRNs (03.04.2015) – Sài Gòn- Sau đây là nguyên văn bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh Lễ Tiệc Ly chiều qua, Thứ Năm Tuần Thánh tại  nhà tù Rebibbia ở Rôma

Thứ năm này, Đức Giêsu đồng bàn với các môn đệ, để mừng kỷ niệm lễ Vượt Qua. Đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe có một từ quan trọng là tâm điểm về những gì Chúa Giêsu đã làm cho tất cả chúng ta. “Ngài yêu thương họ cho đến cùng (x.Ga 13,2). Chúa Giêsu yêu thương chúng ta. Tình yêu này không giới hạn, yêu đến cùng. Tình yêu của Chúa Giêsu dành cho chúng ta là tình yêu vô hạn. Ngài không bao giờ mỏi mệt để yêu chúng ta. Ngài yêu tất cả chúng ta đến hiến mạng sống của Ngài. Vâng, Ngài trao ban sự sống của Ngài cho tất cả chúng ta. Và mỗi người trong chúng ta có thể nói rằng: “Ngài ban sự sống của Ngài cho tôi”. Ngài đã hiến thân mình cho từng người trong anh chị em, cho tôi cho mỗi người, từ người trước hết cho tới kẻ sau rốt vì tình yêu của Ngài là dành cho từng cá nhân chúng ta.

Tình yêu của Chúa Giêsu không bao giờ lừa dối vì Ngài không bao giờ mỏi mệt để yêu, cũng như không bao giờ mỏi mệt trong việc tha thứ, Ngài không bao giờ mỏi mệt ôm chúng ta vào lòng. Đây là điều trước hết tôi muốn nói với anh chị em: Chúa Giêsu yêu mỗi người trong anh chị em “đến cùng.”

Và rồi Ngài làm một việc mà các môn đệ không hiểu đó là rửa chân cho họ. Đó là phong tục vào thời đó khi người ta đến nhà ai, bàn chân họ dơ bẩn vì bụi đường. Không có con đường nào lót đá như bây giờ cả!

Và ở lối vào của ngôi nhà, khách bộ hành sẽ phải rửa chân. Người nô lệ sẽ làm việc này cho khách. Đó là công việc của kẻ nô lệ. Và Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, như một người nô lệ. Và Ngài nói với Phêrô: “Những gì Thầy đang làm, bây giờ anh em không hiểu nhưng sau này anh em sẽ hiểu” (Ga 13, 7).

Tình yêu của Chúa lớn đến nỗi Ngài trở nên như kẻ nô lệ để phục vụ chúng ta, để chữa lành chúng ta, để làm sạch chúng ta. Và hôm nay, trong Thánh Lễ này, Giáo hội muốn các linh mục rửa chân cho 12 người, tượng trưng cho 12 môn đệ vào lúc đó. Tâm hồn chúng ta phải xác tín chắc rằng khi Chúa rửa chân cho ta, Ngài đã tẩy sạch mọi thứ cho chúng ta, Ngài thanh tẩy chúng ta! Ngài cho chúng ta cảm nhận một lần nữa về tình yêu của Ngài.

Trong Kinh Thánh có một câu từ miệng ngôn sứ Isaia diễn tả về Thiên Chúa rất đẹp. Câu ấy nói rằng: “Không người mẹ nào quên con của mình. Dẫu cho có người mẹ nào quên con mình, thì Ta cũng không quên ngươi!” (Is. 49:15). Đó là cách Thiên Chúa yêu chúng ta.

Và tôi sẽ rửa chân 12 người trong anh chị em tượng trưng cho tất cả anh chị. Tất cả mọi người trong anh chị em! Tất cả mọi người sống ở đây. Nhưng tôi cũng có nhu cầu được Thiên Chúa làm sạch. Anh chị em hãy cầu nguyện trong Thánh lễ hôm nay để Thiên Chúa cũng làm sạch những rác rưởi trong tôi, để tôi có thể trở thành kẻ đầy tớ của anh chị em, kẻ đầy tớ phục vụ tất cả mọi người như chính Chúa Giêsu.

Hoàng Minh, VRNs

Cầu Nguyện

Cầu Nguyện

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
đón nhận những người khác
là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
con không thể nào kính trọng kẻ khác được,
vì ý kiến, vì mau da, vì cái nhìn của người ấy.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
có những ngày
mà yêu mến người khác
làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau
và những giới hạn của bản thân con.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa
và đừng để con quên Lời Chúa nói:
“Ðiều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
là làm cho chính Ta.”

(Trích trong PRIER)

Gx. Thiên Thần

IMG_5142

Làng Mai kể nguyên nhân đằng sau vụ Bát Nhã

Làng Mai kể nguyên nhân đằng sau vụ Bát Nhã

BBC

Sư cô Chân Không của Đạo Tràng Mai Thôn lần đầu tiên nói với BBC về nội tình đằng sau biến cố hàng trăm tu sinh của Làng Mai phải rời khỏi tu viện Bát Nhã ở Lâm Đồng năm 2009.

Biến cố này đánh dấu việc ‘cắt đứt quan hệ’ của thiền sư Thích Nhất Hạnh với Việt Nam, mặc dù ngài được đón tiếp nồng nhiệt khi lần đầu trở lại Việt Nam năm 2005 và một lần sau đó năm 2007.

Vị Giáo thọ nói với phóng viên Quốc Phương trong cuộc phỏng vấn tại Làng Mai, Thénac, Pháp, hồi tháng 02/2015, rằng trong chuyến đi thứ hai về Việt Nam năm 2007, sau khi Thiền sư Thích Nhất Hạnh làm trai đàn bình đẳng chẩn tế để giải oan cho miền Nam, miền Trung, miền Bắc, thì được chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đề nghị gặp.

Trong cuộc gặp đó “Thiền sư đưa ra 10 điểm đề nghị, trong đó có: “Nên có một bộ công an là đủ rồi, chứ đừng nên có thêm công an tôn giáo. Công an tôn giáo đi theo dõi mấy ông thầy tu với mấy ông cha cực quá, chỉ có nước Tàu với nước Việt Nam là có chuyện đó.”

“Vì câu đó mà công an họ đập tan hoang, tơi bời.

“Mà họ đập tại vì mình cũng không chịu lo tiền, lo tiền từ Bảo Lộc cho tới Lâm Đồng.

“Nhưng mà mình đã muốn cống hiến cho đất nước năm giới, là năm phép tu tập chánh niệm, nên sẽ phạm giới nếu mình tham nhũng.

“Thành ra chúng tôi vẫn chưa học được bài học ở Việt Nam, là nếu mà mai mốt cho một Làng Mai ở Việt Nam mà chúng tôi vẫn tiếp tục không chịu đi lo lót tiền bạc thì chắc còn lâu lắm.”

Thực hiện: Hạnh Ly, Quốc Phương.

QUẢ THẬT, TA BẢO VỚI ANH: HÔM NAY ANH SẼ ĐƯỢC Ở VỚI TA TRONG THIÊN ĐÀNG (LC 23,43).

QUẢ THẬT, TA BẢO VỚI ANH: HÔM NAY ANH SẼ ĐƯỢC Ở VỚI TA TRONG THIÊN ĐÀNG (LC 23,43).

Tác giả: Lm. Ng Ngọc Thế, SJ.

Lời thứ hai này của Chúa Giê-su nằm trong mạch văn nói về người gian phi sám hối (Lc 23, 39-43). Trước đó, Lu-ca diễn tả về hai nhóm người chế giễu và nhục mạ Chúa Giê-su (Lc 23, 35-38). Nhóm thứ nhất là những người thủ lãnh. Họ đã chế nhạo người: “Hắn đã cứu người khác, thì hãy cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn” (Lc 23, 35). Cũng thuộc về nhóm những người thủ lãnh, Mát-thêu nêu rõ ràng hơn, đó là các thượng tế, kinh sư và các kỳ mục. Họ chế nhạo Chúa như sau: “Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Ít-ra-en! Hắn cứ xuống khỏi Thánh Giá ngay bây giờ đi, chúng ta tin hắn liền! Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: ‘Ta là Con Thiên Chúa!’” (Mt 27, 42-43).

Hùa theo các thủ lãnh, các lính tráng cũng nhục mạ Chúa, nhưng với cách thức khác. “Chúng lại gần đưa giấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do-thái thì cứu lấy mình đi!”. Phía dưới đầu Người, có bản án viết: ‘Đây là vua người Do-thái’” (Lc 23, 36-38). Ngoài sự sỉ nhục của hai nhóm người này, Chúa Giê-su còn đón nhận một lời sỉ nhục, một lời thách thức của một người tử tội đang cùng bị đóng đinh, mà truyền thống thường nói là người trộm bên trái: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với” (Lc 23, 39).

  • Thử nhìn đến người trộm bên trái.

ĐHY Fulton đã có một cái nhìn rất sống động và mạnh mẽ về anh trộm bên trái này. Trước hết, ngài đã so sánh hai anh trộm bị đóng đinh chung với Chúa đều có tội, nhưng hai người lại nhìn sự đau khổ khác nhau: “Một thi sĩ đã viết: ‘Hai người ngồi tù cùng nhìn qua cửa sổ, một người nhìn thấy trăng sao, kẻ khác nhìn thấy bùn nhơ’. Cũng thế, trên thế gian, có những linh hồn nhìn bông hoa hồng và nói: ‘thật là khổ, trên cành hoa đầy gai’. Nhưng linh hồn khác: ‘thật là phấn khởi trên cành gai có những bông hoa’. Hai thái độ ấy biểu lộ sự khác nhau giữa kẻ trộm lành và dữ chịu đóng đanh cùng Chúa Giê-su trên ngọn đồi Calvario. Người trộm bên phải đại diện cho những ai nhìn đau đớn có ý nghĩa. Người bên trái không nhận ra có ý nghĩa gì, tức đau khổ không được thánh hóa.

Trước hết, chúng ta suy gẫm người bên trái: Hắn ta chịu đớn đau không nhiều hơn người bên phải, nhưng khởi sự và kết thúc cực hình của mình bằng lời nguyền rủa. Chẳng có giây phút nào hắn liên kết đau khổ của mình với Chúa Giê-su. Lời cầu xin tha thứ của Chúa không hiệu quả hơn một bóng chim bay…Bởi lẽ hắn không tiêu hóa được đớn đau và làm cho nó trở nên lương thực của linh hồn. Đó là nguyên nhân khiến hắn nguyền rủa Chúa, Đấng đáng lẽ là mục tử chăn dắt hắn vào thiên đàng bình an. Thế giới ngày nay đầy rẫy những con người như vậy. Đau khổ, cực hình chẳng có ý nghĩa nào cho họ. Không biết chi hết về ơn cứu rỗi của Chúa Giê-su, nên họ không quan tâm làm cho đớn đau trở thành ích lợi…

Như vậy, bài học của người trộm bên tả Chúa Giê-su đã rõ ràng. Đau đớn tự nó không làm cho người ta khá hơn. Ngược lại có cơ hội làm người ta xấu hơn. Chẳng linh hồn nào trở nên tốt hơn nguyên chỉ vì hắn bị đau tai! Đau khổ không được thánh hóa chẳng làm cho con người tiến bộ, trái lại, làm cho hắn thoái hóa. Kẻ trộm bên tả Chúa không tốt hơn khi chịu đóng đinh. Nó làm cho hắn khô héo, cháy rụi và linh hồn mờ tối. Từ chối liên hệ đau khổ với bất cứ mục tiêu nào, đương sự cuối cùng chỉ nghĩ đến mình và đến những ai sẽ mang xác mình khỏi thập giá. Đó là điều những người mất đức tin vào Thiên Chúa thường làm. Đối với họ Chúa Giê-su trên thập giá chỉ là một biến cố trong lịch sử đế quốc Rôma. Chúa không phải là sứ giả của hy vọng, bằng chứng của tình yêu. Họ có được một dụng cụ quý giá trong tay mình, nhưng đã 5 phút trôi qua mà không thấy sự hữu ích của nó. Họ sống nhưng không hề tìm hiểu ý nghĩa của cuộc sống. Họ chẳng có mục tiêu để sống. Những đau khổ chỉ làm họ cay đắng, đầu độc họ, và cuối cùng cơ may to lớn của cuộc sống trượt mất khỏi bàn tay. Cánh cửa cứu rỗi khép lại sau lưng và giống như người trộm bên trái, họ tiến vào đêm tối không được chúc phúc”.

Như thế, với ĐHY Fulton, người trộm bên trái đã không ý thức được trách nhiệm cho phần rỗi linh hồn của bản thân, anh ta chỉ nhìn mình và cái lợi trần thế cho mình, nghĩa là anh sợ hãi đau đớn, sợ hãi cái chết trước mắt, cuộc đời anh ta vẫn bám chặt vào trần thế này, đến nỗi đôi mắt thân xác và đôi mắt tâm hồn của anh mờ tối với đời sống mai hậu, mờ tối với Đấng Cứu Độ. Phần Chúa Giê-su, thì Ngài vẫn giữ vững tinh thần yêu thương và nhân hậu của Ngài, ngay trong hoàn cảnh Ngài bị sỉ nhục và chế diễu. Pagila chia sẻ như sau: “Chúa tha thứ và đón nhận người trộm lành bên phải, nhưng Chúa không bỏ rơi anh trộm ở bên trái và Ngài cũng không kết an anh ta. Từ ngữ ‘nghi ngờ’ một ai đó, ‘nghi ngờ’ nhóm người nào đó, hay ngay cả ‘nghi ngờ’ đối với một người tội lỗi nhất, không có chỗ trong ngôn từ của Chúa Giê-su. Chúa Giê-su đến để gieo rắc mầm hy vọng vào trong trái tim của những người khổ đau, những người bị bỏ rơi, những người là nạn nhân của các cuộc chiến tranh, và những người đau khổ đến tận cùng bởi những thảm kịch không thể hiểu được. Đối với Chúa, không có bất cứ ai là không xứng đáng với Tin Mừng, với ơn cứu rỗi và với Nước Thiên Đàng. Ngược lại, tất cả chúng ta được tạo dựng nên để hưởng nước Thiên Đàng. Vì thế, Thiên Chúa không bao giờ là người kết án. Trong mọi sự chỉ có chúng ta tự mình bộc lộ ra, và tự mình tránh xa Thiên Chúa, tự mình từ chối lời mời của tình yêu, lời mời trở nên bạn hữu của Thiên Chúa, và như thế chúng ta tự kết án mình. Từ các nguyên nhân rất rõ rệt này, chúng ta tự lãnh trách nhiệm thật lớn lao…Chúng ta phải có ý thức bộc lộ ra trách nhiệm lớn, nếu chúng ta muốn xếp đặt đời mình đúng thực sự theo tinh thần nhân bản, như chính Chúa mong ước.  Thầy Do-thái giáo sống cùng thời với Chúa Giê-su là Hillel đã nói rằng: ‘Nếu thế giới này bất nhân, thì phần bạn – bạn hãy cố gắng là một con người đúng nghĩa’.”

Thật vậy, là một con người đúng nghĩa như anh trộm bên phải sám hối ăn năn, chứ không phải như anh trộm bên trái, người đã vô trách nhiệm và đui mù nói ra những lời chế nhạo và sỉ nhục Chúa. Những lời sỉ nhục này của anh ta cũng như của các nhóm người khác còn mang sự thách thức Chúa, và hơn nữa trong chiều sâu thì sự chế nhạo, sỉ nhục và thách thức này còn tiềm ẩn một câu hỏi dày vò chính họ. Đó là hai từ “tại sao”. Tại sao Chúa không chịu xuống khỏi thập giá? Tại sao Chúa lại không muốn chứng tỏ quyền lực của Chúa, nếu Chúa thực là Chúa?

Hai chữ tại sao trước Thánh Giá Chúa.

Những người sỉ nhục không hiểu được tại sao Chúa Giê-su, Đấng đã từng làm nhiều phép lạ để cứu biết bao kẻ bất hạnh, giờ đây lại không cứu nổi mình. Nếu Ngài thực là Con Thiên Chúa, tại sao Ngài lại sẵn sàng chịu sỉ nhục như thế? Và tại sao Thiên Chúa không cứu Ngài? Ngoài nhóm người sỉ nhục Chúa, cũng có đám đông dân chúng đứng đó thương tiếc Chúa, đau cho Chúa. Có lẽ họ cũng hỏi tại sao Chúa lại đón nhận cái chết nhục nhã như thế. Trước những lời chế nhạo và sỉ nhục của nhiều nhóm người khác nhau, trước hai từ “tại sao” của nhiều hạng người gián tiếp hay trực tiếp đã đặt ra, Chúa Giê-su phản ứng như thế nào? Chúa có xuống khỏi Thánh Giá theo lời chế nhạo và sỉ nhục của họ không? Chúa có trả lời họ điều gì không?

Theo Đức Cố Hồng Y Martini, thì Chúa Giê-su có thể sẽ trả lời hai chữ tại sao như sau: “Con hãy suy nghĩ xem coi người ta coi Thầy là ai? Khuôn mặt Thiên Chúa mà họ vẽ lên mang dáng vẻ nào? Một vì Thiên Chúa như là một anh hùng thời đại, với chiến thắng, với vinh quang, với quyền lực chính trị, và chẳng sợ chi tới bạo lực, miễn là giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ mà thôi? Còn với Thầy, thì khuôn mặt Thiên Chúa chỉ còn là một Thiên Chúa đón nhận sự yếu đuối của mình, đón nhận những đau đớn người ta chất lên vai mình. Một Thiên Chúa can đảm tự ‘đặt mình’ vào sự tự do của con người, để họ muốn làm gì Ngài thì làm. Như vậy, làm sao Thầy có thể xuống khỏi Thánh Giá được. Xuống khỏi Thánh Giá không phải là chiến thắng đâu! Thầy đã được Cha trao phó cho sứ mạng đem lại Tin Mừng và ơn cứu độ cho muôn người. Hôm nay, Thầy cần thi hành sứ mạng này cách trọn vẹn. Vì thế, dù con người có nghĩ gì, dù con người có thất vọng về Thầy, về Thiên Chúa, thì Thầy cũng không rời khỏi Thánh Giá. Hơn nữa, lòng nhân từ và tình yêu của Thiên Chúa vô biên. Vì vậy, Thầy cũng không thể tự nói với mình rằng: ‘Ta đã đến để cứu độ, đã thử biết bao nhiêu phương cách để hoán cải và chuộc lại con người. Nhưng chúng rất cứng đầu. Bây giờ đã đủ rồi. Cố gắng của Ta đã chấm dứt. Ta sẽ làm cho chúng coi quyền lực của Ta lớn hơn tội lỗi của chúng, và sự chết không thể rờ đến Ta’.”

Chúa Giê-su vẫn nằm đó trên Thánh Giá! “Chúa không xuống khỏi Thánh Giá, vì Ngài là Con Thiên Chúa. Ngài đã đến thế gian cho điều đó, là bị đóng đinh vào Thánh Giá cho chúng ta. Hắn cứ xuống khỏi Thánh Giá ngay bây giờ đi, chúng ta tin hắn liền! Ôi một lời yếu tin biết bao”. Trước lời thách thức yếu lòng tin đó, Chúa không bị lay chuyển, Ngài chẳng nói năng chi, chẳng sợ hãi trước những lời chế diễu và sỉ vả. Ngài không xuống khỏi Thánh Giá như nhiều người thách thức, và Ngài cũng không đáp lời họ. Đó là một thái độ thật tuyệt vời của Chúa Giê-su. Không cần hao công tốn sức với những lời sỉ nhục mang tính bất nhân và hiểm ác, nghĩa là không để cho những lời đó có ảnh hưởng gì trên Ngài, ảnh hưởng trên sứ mạng mà Ngài nhận được từ Cha trên trời. Sứ mạng của lòng nhân hậu giành cho những tâm hồn biết ăn năn như người trộm lành.

Thờ lạy kính sợ Chúa và ăn năn thống hối – thái độ của người trộm lành.

Trở về lại với hình ảnh của hai người trộm cùnh bị đóng đinh với Chúa. Khi người bên trái lên tiếng chế nhạo Chúa như thế, thì người bên phải mà truyền thống gọi là latro poenitens – kẻ trộm ăn năn, hay người Công Giáo Việt Nam thường gọi là người trộm lành, anh ta không hùa theo, mà ngược lại lên tiếng mắng người trộm ở bên trái kia: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” (Lc 23, 40-41). Lời mắng của người trộm lành chứa đựng hai yếu tố.

Thứ nhất là sự nhắc nhớ và đòi hỏi người gian phi kia phải biết kính sợ Thiên Chúa, như trong sách Châm Ngôn có nói: “Kính sợ Đức Chúa là bước đầu của tri thức. Kẻ ngu si khinh thường khôn ngoan và lời nghiêm huấn”. (Cn 1, 7). Trong Cựu Ước, việc kính sợ Thiên Chúa luôn được coi là sự khôn ngoan những người tin. Kính sợ Chúa là khôn ngoan trọn vẹn, và sự trọn vẹn bắt nguồn từ hoa trái của sự kính sợ Chúa. Như thế, kính sợ Chúa là vương miện của sự khôn ngoan, qua đó người ta sẽ nhận được đầy tràn ơn bình an và ơn cứu độ. Đó là điều mà anh trộm lành đã trải nghiệm. Trong sách Giảng Viên ở lời cuối, tác giả đã nói rất rõ ràng: “Lời kết luận cho tất cả mọi điều bạn đã nghe ở trên đây là: hãy kính sợ Thiên Chúa và tuân giữ các mệnh lệnh Người truyền, đó là tất cả đạo làm người,14 vì Thiên Chúa sẽ đưa ra xét xử tất cả mọi hành vi, kể cả những điều tiềm ẩn, tốt cũng như xấu”. (Gv 12, 13-14).

Thánh Vịnh gia cũng nhắc nhớ tinh thần kính sợ Thiên Chúa:

“Kính sợ CHÚA đi, đoàn dân thánh hỡi,
vì ai kính sợ Người chẳng thiếu thốn chi”
(Tv 34, 9).

“Kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan.
Sáng suốt thay kẻ thực hành như vậy.
Mãi đến thiên thu còn vang tiếng ngợi khen Người”.
(Tv 111,10).

“Hạnh phúc thay, người kính sợ CHÚA,
những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban”.
(Tv 112, 1).

Valles với kinh nghiệm của bản thân, đã chia sẻ rất thú vị về tinh thần của người kính sợ Thiên Chúa, người công chính qua Thánh Vịnh 112 như sau: “Nỗ lực vươn đến trọn lành không cần phải phức tạp. Sự thánh thiện là từ nội tâm, và sự công chính có thể tìm được ngay tại nhà mình. Niềm vui tuân giữ luật Chúa và lòng thương cảm trợ giúp người nghèo cũng không phải là chuyện xa xôi. Sự khôn ngoan có vai trò riêng của nó trong đời sống thiêng liêng, và đức đơn sơ của một tâm hồn chân thực sẽ tìm thấy những con đường vắn tắt dẫn đến sự thánh thiện. Cái tâm biết đường lối để trở nên người tốt lành, công bình, liêm chính, và việc sống theo đường lối ấy chính là lẽ khôn ngoan cơ bản của mọi tiến bộ thiêng liêng. Đôi khi tôi có cảm tưởng chúng ta đã làm cho cuộc sống thiêng liêng trở nên quá phức tạp. Khi nghĩ đến vô số sách vở đã từng đọc, nhiều khoá học đã từng tham dự, nhiều hệ thống tôi đã từng thử nghiệm, nhiều cách sống đã từng áp dụng, tôi không thể không cười ngu ngơ một mình, rồi tự hỏi mình có cần phải trải qua nhiều thi cử như vậy để học biết cầu nguyện hay không. Và tôi đã tự trả lời: tất cả những khoá học tôn giáo tự chúng rất bổ ích, nhưng chúng cũng dễ dàng biến thành một rào cản khi tôi quỳ gối và muốn cầu nguyện. Để trở nên công chính không khó khăn như vậy. Để gặp được Thiên Chúa trong cuộc sống, tôi chẳng cần phải có quyển sách thiêng liêng mới nhất đang được bày bán trên thị trường. Cho đến nay, tôi miệt mài tìm kiếm trong sách vở. Tôi muốn trở lại với việc yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh chị em, trở lại với việc mở miệng và đọc lên những câu kinh tôi đã nằm lòng từ khi còn thơ ấu, trở lại với việc kính sợ Thiên Chúa và hân hoan tuân giữ các giới luật của Ngài, trở lại với việc sống nhân ái, đơn sơ giữa một thế giới phức tạp, trở lại với việc trở nên con người được Thiên Chúa mời gọi – một người công chính…Người công chính biết bàn tay Thiên Chúa chở che họ ở đời này, và với lòng đơn sơ khiêm nhường, họ sống phó thác hạnh phúc trong cõi muôn đời. Đó là hoa quả chính trên thiên đàng trổ sinh từ cuộc sống tốt lành của họ trên trần gian. Phúc thay người kính sợ Thiên Chúa”.

Thật vậy, sự kính sợ Chúa là khởi đầu của mọi sự khôn ngoan, người không học nhiều nhưng kính sợ Chúa thì người đó còn khôn ngoan hơn người có cả ba hay bốn bằng tiến sĩ nhưng không kính sợ và tin vào Thiên Chúa. Nếu kính sợ Chúa thì phải đi theo con đường của Chúa, là sống đúng tinh thần của Ngài, sống theo thánh ý của Ngài, như Chúa Giê-su đã sống: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy”. (Ga 4,34). Thomas Merton đã chia sẻ: “Trong thâm sâu hiện hữu của chúng ta, Thiên Chúa đang hiện diện, Đấng muốn chúng ta sống và hiện hữu. Nhưng chúng ta không tìm thấy Ngài chỉ bằng cách tìm kiếm sự hiện hữu của mình. Khi đòi hỏi chúng ta sống, Ngài cũng đòi hỏi chúng ta sống theo một cách nào đó. Mệnh lệnh của Ngài không chỉ bảo chúng ta nên sống theo một cách nào đó nhưng còn phải sống tốt, và nhất là sống hoàn hảo bằng cách sống trong Ngài.

Vì vậy, trong những chiều kích thâm sâu hiện hữu của chúng ta, Thiên Chúa đã đặt ở đó những ngọn đèn lương tâm hầu nói cho chúng ta luật sống. Sống không phải là sống trừ phi nó tuân theo quy luật này vốn là ý muốn của Thiên Chúa. Sống cận kề ánh sáng này là tất cả đạo làm người, vì như thế, con người đến sống trong Thiên Chúa và nhờ Thiên Chúa. Dập tắt ánh sáng bởi những hành động trái với quy luật này là làm hỏng bản chất thánh thiêng nơi bản tính của chúng ta. Nó khiến chúng ta không còn trung thực với chính mình, biến Thiên Chúa thành kẻ nói dối: mọi tội lỗi đều tác động như nhau, dẫn đến việc thờ ngẫu tượng, thay thế chân lý của Thiên Chúa bằng sự sai lạc…

Kính sợ Thiên Chúa là đầu mối khôn ngoan. Khôn ngoan là nhận biết Chân Lý trong tính chân thực nhất của nó; khôn ngoan trải nghiệm Chân Lý, đi đến Chân Lý ngang qua thái độ chính trực của chính linh hồn. Sự khôn ngoan nhận biết Thiên Chúa ở trong ta và ta ở trong Ngài”.

Phúc cho người nào kính sợ Chúa, Đi trong đường lối Ngài! Xin Chúa cho chúng ta biết bắt chước người trộm lành học biết con đường đến với Chúa, con đường của Chúa. Chúng ta đến với Chúa, gần gũi Ngài hơn, Ngài sẽ dạy chúng ta biết kính sợ Ngài, như người trộm lành khôn ngoan kính sợ Chúa. Hơn nữa, người trộm lành còn nhận ra Chúa Giê-su là người Công Chính. Đó là sự khôn ngoan của Đức Tin, sự khôn ngoan này đưa lại một sự nhận định đúng đắn. Nghĩa là Đức Tin đã giúp nhìn thấy Đấng Công Chính thật sự, Người tôi trung của Thiên Chúa, đang chịu đau khổ và sẵn sàng để cho con người ác tâm kết án cách bất công, và đón nhận cái chết thê lương nhất. Tất cả để cứu rỗi loài người.

Tâm tình thờ lạy và kính sợ Thiên Chúa của người trộm lành còn đưa chúng ta trở về với Mười Điều Răn, mà chúng ta thuộc lòng từ khi còn là một em thiếu nhi: Đạo Đức Chúa Trời có mười điều răn. Thứ nhất thờ kính một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự. Ngay điều răn đầu tiên này, chúng ta đã được đưa vào trong tinh thần nền tảng của Ki-tô hữu. Thờ lạy Thiên Chúa và coi Người cao trọng trên hết mọi sự, coi Người là Trung Tâm Điểm duy nhất của cuộc sống, sẽ giúp cho đời sống của chúng ta luôn đượm tinh thần của Chúa. Cụ thể, khi chúng ta thờ lạy và kính sợ Thiên Chúa trên hết mọi sự, thì chúng ta sẽ suy nghĩ, nói năng và hành động trong lăng kính của Chúa.

Thực tế cuộc sống vẫn thế, khổ đau vẫn có mặt, và biết bao vấn đề vẫn ở đó, nhưng giờ đây chúng ta có được lăng kính của Chúa qua tinh thần thờ lạy và kính sợ Thiên Chúa, thì mọi điều thực tế của cuộc đời này sẽ không còn làm chủ chúng ta, và đưa chúng ta vào trong ngõ cụt của cuộc sống, nơi đó thất vọng và buồn chán đang chờ đợi, nơi đó thần dữ đang giang tay thả lưới đánh bắt chúng ta. Tinh thần kính sợ và thờ lạy Thiên Chúa trên hết mọi sự của Mười Điều Răn, sẽ giúp chúng ta giải quyết mọi vấn để của đời người không bằng chữ đời nữa, chữ đời của giả dối, của lật lọng, của mưu mô xảo quyệt, chữ đời của ích kỷ và chiếm đoạt, của kiêu ngạo và ác độc. Chúng ta từ chối chữ đời, nói không với nó, là chúng ta đi vào lăng kính của Chúa, vũ trụ của Chúa, và tất cả mọi chuyện sẽ được đặt trên tiêu chuẩn của bác ái và yêu thương, của khiêm tốn và hiền hậu, của tin tưởng và cậy trông, của tha thứ và cảm thông. Có như thế, thì cuộc sống của chúng ta sẽ nở hoa và sinh trái an bình hạnh phúc.

Chúng ta cũng không quên Bảy ơn Chúa Thánh Thần. Một trong Bảy ơn đó là ơn Kính Sợ Thiên Chúa. ĐTC. Phanxico đã nhắn nhủ trong bài Giáo Lý về ơn kính sợ Thiên Chúa như sau: “Ơn kính sợ Thiên Chúa, là hồng ân của Chúa Thánh Thần, nhắc nhở chúng ta rằng mình nhỏ bé ra sao trước mặt Thiên Chúa và tình yêu của Ngài, và rằng sự tốt lành của chúng ta là do việc phó thác cho Ngài với lòng khiêm nhường, kính trọng và tin tưởng trong bàn tay của Ngài.  Đó là kính sợ Thiên Chúa: phó thác vào sự tốt lành của Cha chúng ta, là Đấng yêu thương chúng ta rất nhiều…Ơn kính sợ Thiên Chúa làm cho chúng ta ý thức được rằng tất cả mọi sự đến từ ân sủng, và rằng sức mạnh thực sự của chúng ta là chỉ đi theo Chúa Giê-su và để cho Chúa Cha có thể đổ trên chúng ta sự tốt lành và lòng thương xót của Ngài.  Hãy mở tâm hồn ra, bởi vì lòng nhân lành và lòng thương xót của Thiên Chúa đến với chúng ta.  Đó là điều Chúa Thánh Thần làm với ơn kính sợ Thiên Chúa: mở các tâm hồn. Mở lòng ra để ơn tha thứ, lòng thương xót, lòng nhân lành, sự vuốt ve của Chúa Cha đến với chúng ta, bởi vì chúng ta là những đứa con đang được Ngài yêu thương vô cùng.

Khi chúng ta được thấm nhuần bởi ơn kính sợ Thiên Chúa, thì chúng ta có khuynh hướng đi theo Chúa với lòng khiêm nhường, ngoan ngoãn và vâng lời.  Tuy nhiên, đó không phải là với thái độ cam lòng, thụ động và ta thán, nhưng với sự kinh ngạc và niềm vui của một em bé nhận ra rằng mình được Cha phục vụ và yêu thương…

Nhưng chúng ta hãy cẩn thận, bởi vì hồng ân Thiên Chúa, ơn kính sợ Thiên Chúa cũng là một ‘lời cảnh báo’ trước sự ngoan cố trong tội lỗi.  Khi một người sống trong sự dữ, khi phạm thượng chống lại Thiên Chúa, khi khai thác những người khác, khi áp chế họ, khi chỉ sống vì tiền tài, vì hư danh, hay quyền lực, hoặc kiêu căng, thì khi đó sự kính sợ thánh thiện đối với Thiên Chúa cảnh báo chúng ta: hãy cẩn thận!  Với tất cả quyền lực này, với tất cả tiền bạc này, với tất cả kiêu hãnh này của mi, với tất cả hư danh này của mi, mi sẽ không có hạnh phúc đâu.  Không ai có thể mang với họ sang (đời sống) bên kia dù là tiền bạc, dù là quyền lực, dù là hư danh, dù là kiêu hãnh.  Không mang được gì cả!  Chúng ta chỉ có thể mang theo tình yêu mà Thiên Chúa Cha ban cho chúng ta, những vuốt ve của Thiên Chúa, được chúng ta chấp nhận và đón nhận với tình yêu.  Và chúng ta có thể mang theo những gì mà chúng ta đã làm cho tha nhân.  Hãy cẩn thận đừng đặt hy vọng vào tiền tài, kiêu hãnh, sức mạnh và hư danh, bởi vì tất cả mọi thứ ấy không thể hứa bất cứ điều gì tốt đẹp với chúng ta!”

Như vậy, chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn kính sợ Chúa cho chúng ta trong mỗi ngày sống. Khi có tinh thần kính sợ Chúa, thì cuộc sống sẽ được ánh sáng Đức Tin và ánh sáng Lời Chúa soi chiếu. Người trộm lành của chúng ta, một cách nào đó đã sống trong ánh sáng của Đức Tin vào Thiên Chúa nhân hậu, nên anh ta với lòng khiêm tốn, đã sám hối ăn năn và xin Chúa Giê-su thương đến. Thomas Merton đã cảm nhận được tinh thần này, lòng kính sợ Chúa được khởi đầu với tinh thần sám hối ăn năn: “Kính sợ, bước đầu tiên dẫn đến khôn ngoan, là sợ rằng, mình không chân thật với Thiên Chúa và với chính mình. Đó là sợ rằng, chúng ta đã tự dối mình, đã ném đời mình dưới chân một vị thần sai lạc. Nhưng mọi người đều là kẻ nói dối, vì mọi người đều là tội nhân. Tất cả chúng ta đều sai lạc với Thiên Chúa. ‘Nhưng Thiên Chúa thì chân thực; và mọi người đều giả dối, như được viết’ (Rm 3, 4).

Lòng kính sợ Thiên Chúa, khởi đầu của khôn ngoan, vì thế, là sự nhìn nhận ‘lời nói dối ở trong tay hữu mình’ (Is 44, 20). ‘Nếu chúng ta nói mình không có tội, chúng ta lừa dối chính mình, và sự thật không ở trong chúng ta… Nếu chúng ta nói rằng, chúng ta không phạm tội, chúng ta biến Ngài thành kẻ nói dối, và Lời của Ngài không ở trong chúng ta’. (1Ga 1, 8.10). Vì thế, khởi đầu của khôn ngoan là sự xưng thú lỗi lầm. Sự xưng thú này giúp chúng ta tìm lại được lòng thương xót của Thiên Chúa. Nó làm cho ánh sáng chân lý của Ngài toả chiếu trong lương tâm chúng ta, không có nó, chúng ta không thể tránh tội. Nó mang sức mạnh của ân sủng Ngài vào trong linh hồn chúng ta, gắn kết hành động của ý muốn chúng ta với chân lý trong khả năng hiểu biết của mình”.

Ăn năn sám hối là tinh thần thứ hai, mà người trộm lành nhắc nhớ người trộm xấu xa. Anh ta cần ý thức về tội lỗi của cả hai đã phạm, lỗi đó đáng bị phạt, một hình phạt đích đáng. Điều đó diễn tả sự công bằng cần có. Qua tinh thần sám hối ăn năn với lòng khiêm tốn thẳm sâu, cuộc đời anh được đổi mới, anh được đón nhận ân sủng của ơn cứu rỗi mà anh không thể ngờ được.

Hình ảnh của anh trộm lành ngày xưa, chúng ta vẫn còn có thể tìm thấy trong nhiều thời đại. Có một câu chuyện thật cho thấy những ảnh hưởng của những lời mà Chúa Giê-su đã nói với anh trộm lành sám hối ăn năn ngay trong thời đại ngày nay. Một cặp vợ chồng Mê-xi-cô bị cướp mất thẻ tín dụng, giấy tờ và tiền mặt. Một vài người bạn đã cùng cầu nguyện để giúp họ bình tâm lại và những món đồ bị cướp có thể tìm lại được. Một tuần sau, cặp vợ chồng nhận được một bao thư dày được gửi bằng đường bưu điện. Tất cả những vật giá trị của họ đều nằm bên trong bao thư. Kèm theo là một bức thư ngắn được ký với tên Người trộm hoán cải. Và trong bức thư có vẽ ba cây Thánh Giá. Cây bên phải được đánh dấu tròn. Thật vậy, lòng thương xót và ơn tha thứ của Chúa Giê-su đối với những ai lầm lỡ mà biết khiêm tốn và hối cải, vẫn đang biến đổi nhân loại.

Tóm lại, tinh thần sám hối và lòng kính sợ Thiên Chúa luôn đi đôi với nhau. Hơn nữa, sự thống hối ăn năn không bao giờ trễ, tinh thần thờ lạy Chúa chúng ta luôn tìm lại được, và luôn được Chúa Thánh Thần Chúa ban tặng, khi ý thức kêu cầu cùng Ngài. Như thế, chúng ta thấy rằng, ngay giây phút cuối cùng, người tội lỗi vẫn luôn còn cơ hội để trở về, để ăn năn thống hối và nhận được ơn tha thứ, và nhờ đó thờ lạy và kính sợ Thiên Chúa. Điều đó nêu bật tinh thần hy vọng.

Hy vọng mặc dù không còn hy vọng.

Với người trộm lành, đi đôi với tâm tình kính sợ Thiên Chúa, cùng lòng thống hối ăn năn, là một lời cầu xin rất chân thành: “Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su: Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”. (Lc 23, 42). Về lời của anh trộm lành, ĐTC. Benedicto XVI đã chia sẻ như sau: “Lời thứ hai của Chúa Giê-su trên Thánh Giá được Thánh Luca tường thuật là một lời hy vọng; nó là câu trả lời cho lời cầu xin của một trong hai kẻ bị đóng đinh với Người. Người Trộm Lành, trước sự hiện diện của Chúa Giê-su, anh nghĩ đến mình và hối hận, anh cảm thấy mình ở trước Con Thiên Chúa, Đấng tỏ lộ dung nhan Thiên Chúa, và cầu xin: Lạy Ông Giê-su, xin nhớ đến tôi khi vào vương quốc của Ngài”.

Như thế, lời cầu xin của người trộm lành nêu bật được niềm hy vọng. Trong chính hoàn cảnh vô vọng, anh ta vẫn khiêm tốn hướng đến Chúa Giê-su, để xin Ngài đoái nhìn, để niềm hy vọng của anh ta được tròn đầy. Vâng, hy vọng và không bao giờ bỏ cuộc. Hy vọng mặc dù không còn hy vọng, như Áp-ra-ham ngày xưa và như người trộm lành trong câu Tin Mừng của chúng ta.

“Kinh Thánh trình bày cho thấy có những niềm cậy trông như bùng phát, trào dâng hết sức sống động. Một ví dụ trong sách Aica, với khúc hát của một tâm hồn trong cơn thử thách đau đớn nhất: ‘Tôi, một người từng nếm cảnh lầm than, dưới roi phẫn nộ của Người. Người đã xua đi và dẫn tôi vào trong tăm tối chứ không phải vào ánh sáng . Người đã xây tường vít tôi, không để cho ra. Tôi kêu, tôi la, Người đã bịt lối trước lời tôi cầu nguyện. Và tôi nói : Thế là mất rồi chỗ dựa, và hy vọng tôi nơi Ðức Giavê’. Và rồi, niềm cậy trông lại bùng lên làm đảo lộn tất cả. Người đó lại thốt lên với chính mình: ‘Quả ơn nghĩa Giavê không hết, lòng xót thương của Người không cạn! Thế nên tôi trông cậy vào Người ! Ðức Chúa sẽ không rẫy bỏ phàm nhân đời đời, cho dù Người có hành hạ, Người sẽ chạnh thương, chiếu theo lòng nhân hải hà. Có lẽ còn hy vọng’. (x Ac 3, 1 – 29).

Tôi muốn bắt đầu cậy trông trở lại ! Vinh quang thay cho Thiên Chúa, an ủi thay cho con người nếu những lời đó luôn luôn được lập lại ! ‘Vạn sự tôi đã trông cả ở Giavê, và Người đã đoái nhìn lại’, đó là lời một vịnh gia cảm nghiệm sự phục sinh nhờ có lòng trông cậy (Tv 40, 1), và một vịnh gia khác: ‘Tôi trông cậy, lạy Giavê hồn tôi trông cậy, tôi những trông cậy ở Lời Người’ (Tv 130, 5). ‘Israel, hãy trông cậy vào Ðức Giavê, từ bây giờ cho đến muôn đời’ (Tv 131, 3)…

Con người cần hy vọng để sống như cần oxy để thở. Nhu cầu này là khẩn thiết đến nỗi chỉ nguyên nghe nói đến hy vọng là người ta đứng thẳng dậy, và có thể nói, họ nhìn vào tay bạn, xem bạn may ra có điều gì đó đáp ứng lại nỗi khát khao của họ. Người ta nói, bao lâu còn hy vọng thì bấy lâu còn sự sống…

Người ta có thể phạm đến đức cậy theo hai cách: hoặc hết hy vọng vào ơn cứu độ, hoặc cho rằng mình được cứu độ mà không cần có công phúc ; thất vọng và tự phụ. Cả ở điểm này nữa, cần phải giữ cho Thập Giá và Phục Sinh gắn liền với nhau. Chịu đau khổ mà không hy vọng Phục Sinh, đó là sự tuyệt vọng, hy vọng Phục Sinh mà không chịu đau khổ, đó là sự tự phụ. Ðôi lúc tôi tự hỏi tại sao Thiên Chúa rất thích lòng cậy trông, Ngài không ngừng đòi chúng ta cậy trông vào Ngài. Vẫn một lòng cậy trông cho dù tất cả mỗi lúc một trở nên khó khăn, nghiệt ngã hơn, hơn là thực tế hiển nhiên mỗi lần xảy đến đều đập tan niềm hy vọng, chính đó là tin vào Thiên Chúa hơn là vào các sự kiện hiển nhiên ; là luôn luôn chấp nhận cho Thiên Chúa có thêm một quyền, một khả năng nữa ; là đặt trọn niềm tin tưởng vào Ngài…

Như lời thi sĩ Péguy, chúng ta cần phải trở nên ‘những người gắn bó với niềm hy vọng nhỏ nhoi’. Bạn đã tha thiết, hy vọng một điều gì đó, hy vọng một sự can thiệp của Thiên Chúa và rồi chẳng thấy gì phải không? Có phải bạn lại hy vọng thêm một lần nữa mà rồi vẫn không được gì? Tất cả cứ vẫn như trước mắt cho thấy mình sắp được đoái nhận? Xin bạn cứ tiếp tục hy vọng, cậy trông thêm một lần nữa, cậy trông mãi mãi, cho đến tận cùng. Hãy trở nên gắn bó với niềm hy vọng. Trở nên người gắn bó với hy vọng là chấp nhận để cho Thiên Chúa làm bạn thất vọng, để cho Thiên Chúa lừa dối bạn trên cuộc đời này bao nhiêu tùy ý Ngài. Còn hơn thế nữa: là thuận lòng, tận thẳm sâu tâm hồn, với việc Thiên Chúa không đoái nghe lời bạn lần thứ nhất cũng như lần thứ hai, với việc Ngài tiếp tục không đoái nghe lời bạn, vì như thế là Người cho phép bạn được dâng cho Người thêm một bằng chứng, được thực hiện thêm lòng cậy trông, mỗi lúc một khó khăn hơn. Người đã ban cho bạn một ân huệ lớn lao hơn nhiều so với điều bạn kêu xin: ơn trông cậy vào Người”.

Hy vọng thuộc về tinh thần sống của người Ki-tô hữu, bởi vì niềm hy vọng chúng ta có là từ nơi Thiên Chúa, và chúng ta không hy vọng vào ai khác, mà là hy vọng vào chính Thiên Chúa, Đấng là chủ cuộc sống, Đấng yêu thương chúng ta. Ở nơi Ngài, chúng ta giữ vững niềm hy vọng, dù chúng ta ở trong hoàn cảnh của anh trộm lành, bị đóng đinh vào Thánh Giá, ở trong hoàn cảnh khổ đau và vô vọng.

Thật vậy, niềm hy vọng của chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa và giá trị tròn đầy của nó, khi chúng ta hướng lòng lên Chúa và hướng mắt nhìn Ngài, Đấng là nguồn mạch của niềm hy vọng. ĐTC Benedicto XVI đã diễn tả điều này thật hay: “Vì vậy, qua câu trả lời này, Người cho chúng ta một hy vọng chắc chắn rằng sự tốt lành của Thiên Chúa có thể chạm đến chúng ta, ngay cả trong giây phút cuối cùng của cuộc đời, và ngay cả sau một cuộc sống sai lầm, ai chân thành cầu nguyện sẽ tìm thấy vòng tay rộng mở của Người Cha nhân lành đang chờ đợi đứa con trở lại”. Thật vậy, Chúa rất nhân từ, và người trộm lành gọi Chúa là Ngài và cầu xin nhớ đến anh trên Nước của Ngài.

Nước của Ngài, vị Vua trên hết các Vua.

Tại sao người trộm lành lại nhắc đến chữ Nước hay Vương Quốc của Ngài? Phải chăng lời của anh ta thốt lên bởi vì anh ta tin vào cái bảng mà người ta treo trên Thánh Giá của Chúa Giê-su: “Đây là Vua người Do-thái”. (Lc 23, 38). Những hàng chữ đó với các người bắt bớ Chúa là bản án giành cho Chúa mang đầy tính diễu cợt và sỉ nhục, nhưng với người trộm lành có đôi mắt sáng, thì tấm bảng đó diễn tả một sự thật mà con người có nhận ra hay không, thì sự thật vẫn thế. Sự thật nêu bật quyền Vương Đế của Chúa Giê-su, vị Vua trên hết các Vua. “Rõ ràng người trộm lành tại cây Thánh Giá đã nhận ra rằng, người bất lực kia là Vua thật, vị Vua mà dân Ít-ra-en đang trông đợi, và ở kế bên anh Ngài không chỉ đứng trên Thánh Giá, mà Ngài còn đứng trong vinh quang nữa”.

Thật vậy, con người có muốn diễu cợt hay con người muốn công nhận sự thật về Vương Đế của Chúa Giê-su, thì lời của con người không bao giờ vượt trên sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Cuộc chơi con người đưa ra luôn nằm ở trong vũ trụ và sự kiểm soát của Thiên Chúa. Chúa Giê-su là Vua người Do-thái, những hàng chữ này đã được chính con người, dù với dụng ý xấu xa, công bố cách công khai trên Thánh Giá, để tất cả mọi người đều thấy. Thật tuyệt vời! “Chúa Giê-su đã được nâng cao. Thánh Giá là ngôi Vua của Chúa, và từ ngôi Vua là Thánh Giá đó, Chúa kéo thế giới lại với Ngài. Từ nơi này, nơi mà Ngài tự hiến dâng chính mình, từ nơi này, nơi tình yêu thực sự của Thiên Chúa hiện diện, Chúa đang trị vì như vị Vua đích thật. Ngài trị vì theo cách thức của Ngài, cách thức đó Phi-la-tô và những nhân vật thế giá trong Thượng Hội Đồng không thể hiểu được”.

Cách thức của vị Vua tình yêu đầy lòng nhân hậu sẵn sàng mở lời với những người trông cậy vào Ngài: “Hôm nay anh sẽ được ở với Ta trên Thiên Đàng”. Câu trả lời của Chúa vượt xa điều anh trộm lành cầu xin, Người nói, “Thật, Tôi bảo anh, hôm nay, anh sẽ được ở cùng Tôi trên Thiên Ðàng”.  Trong câu trả lời của Chúa Giê-su ít nhất có ba điều chúng ta cần chú ý: (1) Hôm nay, (2) ở cùng tôi và (3) trên thiên đàng. Đầu tiên, xin suy niệm về hai từ hôm nay.

Mỗi ngày đều là hôm nay.

Theo Gruen, có hai ý nghĩa của từ ngữ hôm nay trong phúc âm của Luca. Thứ nhất là ý nghĩa ở trong mạch văn này: ngay hôm nay, ngay sau cái chết của Chúa Giê-su, người trộm lành sẽ được đến với Chúa Giê-su trong nước của Ngài, ngôi vườn đầu tiên và tuyệt vời trên trời mà Thiên Chúa đã làm cho loài người, và được mọi người gọi là Thiên Đàng (paradise). Như thế không cần phải đợi chờ lâu la gì. Trong cái chết của anh trộm lành, một sự biến đổi đến hoàn thiện xảy ra. Đây là một bức tranh thật đẹp và đầy an ủi đối với chúng ta. Pagila cũng chia sẻ: “Không có thời gian chờ đợi. Chúa Giê-su không dò xét gì, Ngài không tra hỏi gì, Ngài không đưa ra toà án, cuối cùng Ngài cũng không truy cứu gì cả. Ngài cứu rỗi ngay hôm nay. Bây giờ và ngay lập tức”.

Ý nghĩa thứ hai của từ hôm nay được hiểu trong toàn mạch văn của phúc âm theo Lu-ca. Lu-ca nhắc đến từ ngữ hôm nay cả thảy bảy lần.

  1. Trong biến cố Chúa Giáng Sinh: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa”. (Lc 2, 11).
  2. Trong biến cố Chúa chịu phép rửa ở sông Gio-đan, có tiếng từ trời phán: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con”. (Lc 3, 22).
  3. Thời gian đầu tiên khi Chúa bắt đầu rao giảng trong hội đường ở Na-gia-rét: “Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. (Lc 4, 21).
  4. Khi Chúa chữa người bại liệt xong: “Mọi người đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ kinh hãi bảo nhau: Hôm nay, chúng ta đã thấy những chuyện lạ kỳ!” (Lc 5, 26).
  5. Chúa nói với ông Gia-kêu, khi ông ở trên cây sung: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (Lc 19,5).
  6. Trong nhà Gia-kêu, Chúa Giê-su nhắc từ này một lần nữa: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. (Lc 19, 9-10).
  7. Lần cuối cùng là lần Chúa nói với người trộm lành: “Thật, Tôi bảo anh, hôm nay, anh sẽ được ở cùng Tôi trên Thiên Ðàng”. (Lc 23, 43).

Như thế, bảy lần từ ngữ hôm nay Lu-ca dùng diễn tả một điều: với Lu-ca những hoạt động của Chúa Giê-su là thời gian của chữa lành và thời gian để thực hiện mọi điều tốt đẹp. Như thế, hôm nay là thời điểm mà Chúa Giê-su bước vào thế giới chúng ta trong thân phận của một hài nhi, giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Mà hài nhi đó chính là Đấng Ki-tô Đức Chúa, thuộc về dòng dõi của Vua Đa-vít. Cũng hôm nay, tại giòng sông Gio-đan, một tiếng lạ từ trời cao đã gởi cho chúng ta một sứ điệp cao quý về Đấng Ki-tô, Đấng đã bước xuống dòng sông của nhân loại, để biến đổi cho nước của dòng sông này thành nước thanh tẩy tất cả mọi người có lòng ao ước đón nhận ân sủng của Chúa. Đức Ki-tô chính là Con yêu dấu của Cha trên trời, vì Ngài vâng phục Cha hoàn toàn, để thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng và đem ơn cứu rỗi cho mọi người Chúa thương yêu. Vì thế, mỗi ngày là ngày hôm nay của Chúa, để Chúa làm cho những ai bại liệt có thể đứng lên được, những ai tội lỗi và sống trong bóng đêm có thể bước ra ánh sáng. Tại bàn tiệc ánh sáng đó, Chúa lại nói lời cứu rỗi của hôm nay. Và không chỉ dừng bước ở đó. Từ ngữ hôm nay của Chúa đã theo bước Chúa tới cây Thánh Giá, để rồi Ngài lại nói với người trộm lành sứ điệp của ngày hôm nay, ngày anh ta được hội ngộ với Chúa trên Nước Thiên Đàng.

Trong cuộc sống của chúng ta, Chúa vẫn nói lời hôm nay, đặc biệt trong bí tích Thánh Thể. Mỗi lần chúng ta đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa, là chúng ta đang ở với Chúa trên Nước Thiên Đàng ngay trong ngày hôm nay. Nhưng ngày hôm nay đó sẽ tìm được ý nghĩa trọn hảo trong cái chết, khi chúng ta được về với Chúa trên Nước của Ngài.

Cũng như người trộm lành, trong giờ đối diện với cái chết, nếu chúng ta hướng về Chúa và cầu xin với Ngài, thì ngày hôm nay của Chúa sẽ xảy ra với chúng ta, thời điểm hôm nay của ân sủng, của lòng thương xót Chúa giành cho chúng ta. Như thế, hôm nay tất cả mọi sợ hãi trước cái chết được biến đổi vào trong niềm tin tưởng vào Chúa. Và ở trong cái chết chúng ta sẽ được gặp gỡ Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Rỗi đang chiếu sáng ánh hào quang của lòng nhân hậu xót thương ngay ngày hôm nay, để Ngài đưa chúng ta về nước Thiên Đàng, nơi đó bóng tối không còn nữa, khổ đau cũng lùi bước, và sự dữ không có chỗ đứng, nơi đó Thiên Chúa hiện diện và cho chúng ta được ở bên Ngài, để nếm cảm hạnh phúc tình yêu, hạnh phúc vĩnh cửu. Và ở bên Chúa, mỗi ngày đều là hôm nay, ngày vĩnh cửu của Đất với Trời thắm thiết hôn nhau, ngày vĩnh cửu của Thiên ôm ấp Trần vào vòng tay yêu dấu, để Trần luôn được ở cùng Thiên mãi mãi, từ hôm nay cho đến mãi muôn muôn đời. Tâm tình này đưa chúng ta vào yếu tố thứ hai của lời Chúa Giê-su nói.

Ở cùng tôi.

Lời của Chúa nói với người trộm lành mở cho anh một cuộc sống mới, cuộc sống ở cùng Chúa. Đó là một hồng ân rất tuyệt vời. Từ thân phận bất xứng của kẻ tội lỗi, anh được Chúa tha thứ và dọn cho anh một chỗ bên Ngài.

Trước hết, tâm tình này liên hệ đến hình ảnh của người Mục Tử nhân lành trong Thánh Kinh, và đặc biệt nơi Chúa Giê-su. Hình ảnh Mục Tử hiền lành và nhân hậu quen thuộc đối với người Do-thái, diễn tả sống động hình ảnh Thiên Chúa là Mục Tử đầy lòng nhân hậu và yêu thương dân của Ngài, đặc biệt giành cho những người lầm đường lạc lối. Thật vậy, Chúa yêu thương chúng ta, đến nỗi Chúa là người Mục Tử chạy theo từng bước chân sai lạc của chúng ta, để đưa chúng ta trở về. ĐTC Benedicto XVI đã diễn tả tâm tình này thật sâu sắc trong thông điệp đầu tiên của ngài Thiên Chúa là Tình Yêu – Deus Caritas Est: “Hành động này của Thiên Chúa mang lấy hình thức bi thảm trong sự kiện, chính Thiên Chúa trong Đức Giê-su Kitô chạy theo ’con chiên bị thất lạc’, chạy theo nhân loại đau khổ và bị tiêu vong. Khi Đức Giê-su trong các dụ ngôn nói về người mục tử chạy theo con chiên bị lạc mất, về người đàn bà đi tìm đồng bạc bị đánh rơi, về người cha chạy đến người con đi hoang và ôm nó vào lòng, thì đấy không những chỉ là những lời nói, nhưng là những cách giải thích bản chất và hành động của chính Người. Trong cái chết thập tự của Người, việc ‘Thiên Chúa quay lại chống đối chính mình’ đạt đến mức tuyệt đỉnh, khi Người tự hiến chính mình, để nâng con người lên và cứu độ họ – đó là tình yêu trong hình thức triệt để nhất. Cái nhìn vào cạnh sườn bị đâm thâu của Đức Giê-su, mà thánh Gio-an nói đến (x. Ga 19,37) giúp chúng ta hiểu khởi điểm của thông điệp này: ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Ga 4,8). Nơi đó, chân lý này có thể được nhìn ngắm. Và cũng từ đó có thể định nghĩa tình yêu là gì. Từ cái nhìn này, người Kitô hữu tìm được con đường để sống và để yêu”. (Số 12).

Con đường sống trong tình yêu của người Ki-tô hữu là con đường được Chúa yêu thương ấp ủ, chính Ngài khi đã tìm lại chiên lạc lối, thì sẽ đưa chiên của Ngài đến một nơi thật tuyệt vời, với đồng cỏ xanh tươi, với dòng nước trong lành, để bồi bổ và để tận hưởng niềm vui của tình yêu, niềm vui của niềm tin vào Chúa, Mục Tử nhân hậu, như Thánh Vịnh gia diễn tả:

“Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.”
(Tv 23, 2-3a).

Được Chúa cho nằm nghỉ êm ấm trên đồng cỏ xanh, và được Chúa cho uống những dòng nước trong lành, thì còn gì tuyệt vời hơn. Nơi đó chính là mảnh đất hứa, nơi đó con cái Chúa được lòng nhân hậu và tình thương của Ngài ấp ủ, nơi đó con cái Chúa tận hưởng tình yêu được ở trong nhà Ngài, ở trong đền Ngài mãi mãi. Đó chính là hạnh phúc mà Thánh Vịnh gia nhận ra, và kể lại cho mọi người kinh nghiệm về hạnh phúc được ở cùng Chúa:

“Lòng nhân hậu và tình thương CHÚA
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên”.
(Tv 23, 6).

Cả một cuộc đời được tình thương Chúa ấp ủ. Ngài tháng năm dài được sống trong đền Chúa. Đó lành hạnh phúc thiên đàng mà có lẽ ai ai cũng ao ước. Thật vậy, dù cuộc đời hôm nay có rao bán nhiều thứ hạnh phúc khác nhau, hạnh phúc hưởng thụ vật chất với một đời sống tiện nghi sung túc, hưởng thụ thoả mãn những lạc thú của cuộc đời, hạnh phúc đạt được những danh vọng và quyền lực đưa con người lên đỉnh cao, trở thành trung tâm điểm của cuộc sống, thì những thứ hạnh phúc đó không bao giờ tồn tại vĩnh viễn được. Những hạnh phúc đó mỏng manh như phận người mỏng dòn, những hạnh phúc đó mau chóng tàn phai như đời người có thể sáng nở tươi nhưng tối tàn phai mà chẳng ngờ được. Những hạnh phúc con người tự tạo nên đều giới hạn như đời người nhiều lắm là 100 cái xuân xanh. Cuối cùng, chỉ có hạnh phúc được ở cùng Chúa, được sống trong vòng tay ấp ủ của Người Mục Tử nhân hậu, được ở kề bên lòng Chúa, mới tồn tại vĩnh viễn. Và không có sức mạnh nào, kể cả cái chết có thể lấy mất đi hạnh phúc đó. Vì thế, người trộm lành được diễm phúc đón nhận hạnh phúc cao quý này, đó là hồng ân tuyệt vời của tình yêu vô điều kiện mà Chúa Giê-su đã dành cho anh. Hiệp với người trộm lành hạnh phúc, chúng ta có thể mượn lời của Thánh Vịnh gia thốt lên rằng:

“Còn hạnh phúc của con là ở kề bên Chúa,
chốn ẩn thân đặt ở Chúa Trời”. (Tv 73, 28).

Đức Thánh Cha Benedicto XVI đã cảm nhiệm về lời Thánh Vịnh này như sau: “Trong kinh nghiệm của thánh vịnh 73, Thánh Vịnh gia nhìn thấy Thiên Chúa và xác tín rằng, ông ta không cần gì ngoài một tâm tình, là ông gặp gỡ được Thiên Chúa trong mọi sự”.

Tìm gặp được Chúa và được ở cùng Ngài. Đó là đích đến của đời người. Đó chình là Thiên Đàng mà ai cũng ao ước. Pagila nói rằng: “Sống kết hiệp với Chúa Giê-su, chúng ta ở trên thiên đàng”.

Trên thiên đàng.

Người trộm lành đã đạt tới đích đến này, nghĩa là được vào nước Thiên Đàng, là do ân sủng nhưng không của Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Như thế, “hai người bị đóng đinh hai bên hướng nhìn về Con Người đã đến chia sẻ số phận của họ, và cùng chết với họ. Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng. Trước kia, Chúa Giê-su đã không ngừng nhắc rằng Thiên Chúa ban ơn cứu độ như một món quà tuyệt đối cho không; Người đã đến trần gian không phải để kêu gọi người công chính, nhưng là kẻ tội lỗi. Trong giờ phút quyết luyệt này, khi lìa thế để về bên Cha, Chúa Giê-su chứng thực lời Người một cách rõ ràng không thể tưởng tưởng được. Với người tử tội ấy, kẻ đã biết nhận rằng chúng ta như chịu như thế này là đích đáng, và chẳng biết cậy vào đâu ngoại trừ lòng phó thác khiêm tốn và đầy nhân ái của mình, với con người ấy, thì từ trên Thánh Giá, Chúa Giê-su tuyên bố: Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng. Chúng ta hãy nghe nhà hùng biện Công Giáo Bossuet: Hôm nay: thật là nhanh chóng! Ở với tôi: cùng hội cùng thuyền quá tuyệt diệu! Trên thiên đàng: nơi ở bao tuyệt vời! Vậy thì ai còn hoài nghi được nữa về lòng thương xót của Thiên Chúa, ai còn có thể đem công đức của mình ra khoe nữa?”

Lời của Chúa Giê-su nói với anh trộm lành xa lạ thật là đẹp biết bao. Đó là sứ điệp nhân hậu và tràn đầy ơn cứu rỗi của Ngài muốn gởi tới tất cả những ai, dù quá khứ của họ thế nào, nếu họ biết khiêm tốn, ăn năn và hướng về Chúa để cầu xin, thì đều được Chúa đón nhận. Karl Rahner đã suy niệm về lời này của Chúa thật sâu sắc: “Chúa đang đối diện với sự chết, và Chúa vẫn có chỗ trong sự đau khổ quằn quại đang tràn ngập trái tim Chúa, một chỗ cho một người lạ lẫm. Chúa đang chuẩn bị chết đi – nhưng Chúa vẫn lo lắng cho một phạm nhân, kẻ đã thú thật rằng anh ta xứng đáng chịu hình phạt đau đớn và án chết thê lương này, vì những gì xấu xa anh ta đã gây ra. Chúa nhìn thấy Mẹ mình, nhưng lời đầu tiên Chúa lại nói với đứa con hoang đàng. Chúa cảm nhận sự bỏ rơi của Thiên Chúa, nhưng Chúa lại nói về Thiên Đàng. Đôi mắt của Chúa trở nên mờ tối trong đêm đen của cái chết, nhưng đôi mắt ấy lại thấy Ánh Sáng vĩnh cửu. Trong cái chết, người ta cô đơn và làm việc với chính bản thân mình, vì người ta đã bị bỏ rơi hoàn toàn. Chúa đã lo lắng cho các linh hồn, để họ cùng được về Nước Chúa chung với Chúa. Ôi trái tim Chúa nhân hậu biết bao! Ôi trái tim Chúa rộng lượng và can đảm dường nào!

Một phạm nhân ăn năn cầu xin Chúa nhớ tới anh ta. Và Chúa đã hứa nước thiên đàng cho anh. Mọi sự sẽ trở nên mới, khi Chúa chết đi? Một cuộc sống đầy dẫy tội lỗi và đồi bại sẽ nhanh chóng được biến đổi, khi Chúa hiện diện gần bên? Nếu Chúa nói lời thánh hoá biến đổi một cuộc sống, thì ngay cả tội lỗi và những gì thô tục nhất của một cuộc sống trác táng đi hoang sẽ được đón nhận ân sủng và được biến đổi, đến nỗi không còn có gì là cản trở trên ngưỡng cửa vào gặp Chúa…

Chúa đã nói lời toàn năng tràn đầy ân sủng. Lời đó đã đi vào trái tim của tên trộm, và lời đó đã biến đổi lửa hoả ngục đến sau cái chết thành một ngọn lửa tràn đầy tình yêu của Thiên Chúa, ngọn lửa trong chốc lát đã làm sáng tỏ mọi sự…Và kẻ trộm được cùng vào nước Thiên Đàng với Chúa.

Chúa cũng ban ân sủng cho con chứ, để con không bao giờ đánh mất sự can đảm, để không ngại ngùng cầu xin và chờ đợi tất cả ân sủng từ lòng lân tuất nhân hậu của Chúa? Với sự can đảm con nói rằng: Nếu con là kẻ phạm tội đáng chịu hình phạt nặng, thì xin Chúa nhớ đến con, nếu Chúa vào Nước Chúa, Chúa ơi!

Ôi lạy Chúa, xin hãy để Thánh Giá Chúa treo thật đàng hoàng trước giường chết của con. Và xin cho môi miệng của Chúa cũng nói với con: Thật vậy, Ta nói cho con biết, hôm nay con sẽ ở với ta trên nước thiên đàng. Lời này thôi đã làm cho con trở nên xứng đáng, để con được thánh hoá hoàn toàn, được thoát khỏi mọi tội lỗi, và cùng với Chúa và trong Chúa đi xuyên suốt qua sức mạnh của cái chết, và bước vào Vương Quốc của Cha trên trời”.

Bài tập sống sứ điệp thứ hai Chúa Giê-su trên Thánh Giá.

  • Đứng trước Thánh Giá và hướng mắt lên Thánh Giá Chúa. Ngắm nhìn Chúa Giê-su đang gục đầu xuống như hướng nhìn về bạn. Hãy mở lòng bạn, mở đôi mắt của bạn và mở đôi tay của bạn để đón nhận Chúa. Bạn có thể giang đôi tay mình ra như cử chỉ đón mời Chúa.
  • Vẫn ngắm nhìn Chúa trên Thánh Giá. Giờ đây chú ý lắng nghe lời của anh trộm lành cầu xin Chúa: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Nhẩm đi nhắc lại lời ăn năn khiêm tốn này, và sau đó nhớ lại những lầm lỡ và tội lỗi của mình, đặc biệt tội nào mình cảm thấy nặng nề, và trong thinh lặng, xin Chúa giúp bạn biết thống hối ăn năn và cầu xin Chúa tha thứ, như anh trộm lành đã làm.
  • Ngắm nhìn Chúa trên Thánh Giá, và mở đôi ai và mờ tâm hồn lắng nghe Lời Chúa nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Nhẩm đi nhắc lại lời này, để lời này thấm vào trong tâm hồn. Bạn cảm thấy Chúa nhân hậu và giàu lòng thương xót biết bao. Hãy ở lại trong thinh lặng vài phút để cảm nếm hương vị dịu ngọt của lòng Chúa xót thương. Cuối cùng cảm tạ tri ân Chúa với một lời cầu nguyện ngắn.
  • “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” Lắng nghe lời của anh trộm bên trái cứng đầu. Nhắc đi nhắc lại đôi lần lời này. Suy xét xem bạn đã có trách nhiệm gì với phần rỗi linh hồn của bạn? Bạn có ý thức về những gì tội lỗi mà bạn đã gây ra và khiêm tốn sám hối ăn năn xin Chúa giải thoát hay bạn vẫn cứng đầu? Điều gì làm cho bạn cứng đầu hay nói khác đi điều gì đang cản trở bạn khiêm nhường, cản trở bạn sám hối ăn năn? Cuối cùng xin Chúa giúp bạn tháo cởi những trở ngại đó, để có thể trở nên một con người khiêm tốn và hiền lành, luôn sám hối và tin tưởng vào lòng Chúa xót thương.

Mong sao niềm tin vào Chúa Giê-su đầy nhân hậu sẽ giúp chúng ta sống đời khiêm tốn, cầu nguyện, sám hối và  trông cậy vào Chúa luôn, để qua đó chúng ta đón nhận được ơn cứu rỗi.

Cũng xin Chúa giúp chúng ta có trái tim chú ý đến người khác, dù họ xa lạ như anh trộm kia, hay gần gũi với Chúa như Mẹ Ngài và người môn đệ mà Ngài yêu thương nhất, là Thánh Gio-an tông đồ.