Sứ Ðiệp Của Một Người Tàn Tật

Sứ Ðiệp Của Một Người Tàn Tật

Msgr. Petrus Nguyễn Văn Tài

Hằng năm tổ chức có tên là “Tự nguyện chịu đau khổ” hành hương đến Lộ Ðức để chia sẻ kinh nghiệm của họ khi đối đầu với đau khổ. Năm 1982, khách hành hương đã chú ý đến lời chia sẻ của Jacques Lebreton, một phó tế vĩnh viễn không tay, mù mắt. Chúng ta hãy lắng nghe chứng từ của ông:

Sau trận đánh ở El Alamem, tôi và các bạn của tôi đang lo gỡ mìn. Một anh bạn tôi cầm một quả lựu đạn và vô tình mở chốt. Trong cơn hốt hoảng, anh trao cho tôi. Tôi cứ tự nhiên cầm lấy quả lựu đạn. Nó đã nổ tung trong tay tôi. Tôi tối tăm mặt mũi, không nói được nữa. Tôi cảm thấy mình đang chết. Tôi chỉ còn là một người không tay, không mắt… Tôi toan tự tử.

Trên giường bệnh ở nhà thương, tôi, một người đã không giữ đạo từ lâu, tôi bắt đầu cầu nguyện. Tôi xin được rước lễ. Tôi đã hiểu nguyên do sự đau khổ của tôi là tội lỗi nhân loại: đó là thù oán, kiêu căng, chiến tranh… Và tôi đã tìm lại được sự an vui và trông cậy.

Tôi cảm thấy một cái gì tương tự như Chúa Giêsu trong vườn Giêtsêmani. Ngài cũng không muốn chịu đau khổ. Ngài đã van xin: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này”, nhưng liền sau đó, Ngài lại thưa: “Lạy Cha, xin vâng theo ý Cha”. Sau thảm kịch Golgotha, Ngài đã sống lại. Chính nhờ mầu nhiệm chết và sống lại mà Chúa Kitô muốn cho chúng ta cùng sống. Tôi đã đạt đến mức độ không phải là chịu đựng mà là chấp nhận. Chịu đựng là một thất bại. Chấp nhận là một chiến thắng. Trên giường bệnh, tôi đã khóc, khóc vì sung sướng với ý nghĩ ấy. Ðiều mà tự nhiên tôi cũng không thể chịu được, nay nhờ ơn Chúa tôi đã chịu được.

Như lời văn hào Mauriac nói: “Chúa Giêsu không đến để xóa bỏ đau khổ, nhưng để cùng hiện diện với những người đau khổ“. Tôi đã cảm nghiệm được lời Chúa phán: “Phúc cho những kẻ khóc lóc, phúc cho những kẻ đau khổ”.

Tại Evreux, tôi được gặp một người đàn bà hoàn toàn bất toại, đến nỗi không thể nói được. Nhưng nhờ ngón chân cái của bà, bà có thể máy động bàn chữ cái trên một miếng ván và bà đã tặng cho tôi một bài thơ có tựa đề “Nụ cười”.

Tôi liên tưởng đến một người đàn ông khác, bị điếc lúc 14 tuổi, mù từ lúc lên 16 tuổi. Trên giường bệnh, lúc hấp hối, người đàn ông 87 tuổi này đã thốt lên như sau: “Tôi đã trải qua một cuộc đời tốt đẹp”.

Ông Jacques Lebreton kết luận như sau: “Tôi, một người không tay, không mắt, tôi cũng thấy đời tươi đẹp. Cuối cùng, sự tàn tật lớn lao nhất là bị chia lìa với Thiên Chúa. Tôi không thể nói như vậy, nếu tôi lành lặn với đôi mắt và đôi tay. Nhưng tôi có thể nói như vậy vì tôi biết thế nào là sống xa Chúa. Và hôm nay, sau một chặng đường dài, tôi lớn tiếng kêu lên với tất cả các người anh em của tôi rằng: Thiên Chúa hằng sống. Ðức Kitô đã sống lại”.

Ðã có khoảng 6,000 vụ lành bệnh lạ lùng được ghi nhận tại Lộ Ðức, trong số này chỉ có 64 vụ được Giáo Hội công nhận là phép lạ. Nhưng phép lạ cả thể nhất của Lộ Ðức cũng như của những trung tâm Thánh Mẫu khác: chính là phép lạ của lòng tin. Và trong những phép lạ của lòng tin ấy, kỳ diệu hơn cả vẫn là niềm tin, sự chấp nhận, tinh thần lạc quan của chính những người đau khổ. Trong niềm đau tột cùng trong thân xác cũng như tâm hồn, những con người ấy vẫn còn thấy được ý nghĩa của cuộc sống, tình yêu cao cả của Chúa. Ðó chính là phép lạ mà Chúa vẫn tiếp tục thực hiện qua những người có lòng tin. Và đó cũng là phép lạ mà chúng ta không ngừng kêu cầu Chúa thực hiện.

Nhìn lên thập giá Chúa, trong niềm hiệp thông với Mẹ Ngài, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta được tiếp tục tin yêu, được tiếp tục nhìn thấy ánh sáng phục sinh giữa những đêm tối của khổ đau, thử thách. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho không biết bao nhiêu người đang quằn quại trong đau đớn của thể xác, trong cô đơn của tâm hồn. Xin cho họ được nâng đỡ, ủi an và tìm được niềm tin.

Msgr. Petrus Nguyễn Văn Tài

Anh chị Thụ & Mai gởi

PHỤC VỤ VÀ HIỆN DIỆN

PHỤC VỤ VÀ HIỆN DIỆN

Giuse Ngô Văn Chữ, S.J.

Cô Son, nữ tu Dòng Nữ Vương Hòa Bình, phụ trách giáo lý dự tòng và giáo lý hôn nhân cho người Dân Tộc.  Nếu anh chị em Dân Tộc ở gần thì cô sắp xếp lớp ở nhà xứ để họ đến học, còn những người ở xa thì cô phải lặn lội đi vào buôn để dạy.  Sáng nọ cô vào làng dạy giáo lý hôn nhân cho sáu cặp mà ngồi chờ hơn tiếng chẳng thấy ai đến học, thông thường các cô khác thì đã đi về rồi, nhưng cô Son cố nán lại trong buôn để đi tìm, đến nhà cụ Lép hỏi con bà, Lợi, ở đâu mà không thấy đến lớp học giáo lý.  Bà nói nó đang ở nhà Dí, thế là cô đi tìm hỏi nhà Dí.  Đến nhà Dí thấy Lợi cùng với mấy người bạn đang khề khà mấy hạt đậu phụng với rượu đế.  Cô nói hôm nay có học mà sao không đến.  Lợi nói quên, bây giờ lỡ uống rượu rồi nên không đi học nữa.  Cô nói Lợi để rượu đó, đi học về rồi uống tiếp, nhưng Lợi không chịu.  Cô nài nỉ mãi thì Lợi nói cô về lớp trước đi, rồi Lợi sẽ đến liền.  Cô không đi, vì cô biết nếu cô đến lớp chờ thì Lợi cũng chẳng ló mặt đến.  Cô nói: “Tôi không đi đâu, tôi cứ ngồi đây chờ anh.  Tôi đến lớp từ sáng đến giờ và đã chờ gần hai tiếng rồi.”  Lợi nghe cô nói thì động lòng, cô đã bỏ công việc bề bộn của giáo xứ để lặn lội chạy xe vào làng để dạy, rồi lại còn kiên nhẫn ngồi chờ mình gần hai tiếng, nên Lợi ngưng ngay rượu để đi học.  Thế là tóm được một anh!  Lợi dẫn cô đi tìm mấy người kia, chỉ một chặp là có đủ mặt, và lớp học lại tiếp tục, dù trễ hơn hai tiếng.

Anh chị em Dân Tộc đối xử với nhau đầy tình người như vậy đó.  Các anh chị em đến học vì thấy cô đã chờ mình gần hai tiếng đồng hồ, họ thấy tội nghiệp khi cô phải lủi thủi đi về.  Còn chuyện cô vào mà không có người nào học để rồi lần sau không vào nữa thì họ chẳng quan tâm.  Đời sống của họ chẳng biết suy nghĩ về tương lai, anh chị em Dân Tộc chỉ sống thì hiện tại mà thôi.  Họ kiếm được tiền hôm nay thì vui hôm nay, còn ngày mai thì họ chẳng màng tới.  Ngày trước đã có nhiều cô vào trước để dạy nhưng thường bỏ ngang khóa học vì không hiểu được đời sống của người Dân Tộc và cũng chẳng cảm thông với não trạng và tâm tình của họ.  Nếu đến với người Dân Tộc chỉ bằng cái đầu logic và luật lệ thì không thể đến được với anh chị em Dân Tộc được.  Muốn đến với họ thì phải đến bằng trái tim để có thể cảm thông.  Cách hành xử của anh chị em Dân Tộc là cách hành xử của con tim.

Sau khóa học có thánh lễ hợp thức hóa các đôi hôn nhân tại nhà thờ giáo xứ.  Trước thánh lễ cô đã đếm đủ sáu cặp rồi, nhưng đến khi đọc lời thề hứa của từng cặp thì không biết sao lại mất đi một cặp.  Kiểm tra lại thì thấy thiếu cặp vợ chồng Hua.  Đi tìm quanh nhà xứ cũng chẳng thấy đâu.  Cô hỏi thăm cặp vợ chồng Hua đâu thì có người bảo họ đã đi về rồi.  Hỏi tại sao về thì chẳng ai biết, thế là cô nhờ một anh Dân Tộc đi với cô về lại buôn tìm Hua.  Đến nhà Hua thấy hai vợ chồng ngồi mỗi người một góc.  Hua đang chửi vợ như tát nước, thiếu điều muốn bỏ vợ.  Cô hỏi sao mà bỏ thánh lễ về ngang như vậy thì mới biết bà vợ đang bồng con dự lễ thì đứa nhỏ… tè ra ướt hết cả áo, nên đi về nhà thay áo khác.  Nhưng ở nhà làm gì có cái áo nào ra hồn để thay, nên không trở lại dự lễ nữa.  Cô năn nỉ mãi một chập sau hai vợ chồng mới chịu theo cô trở lại nhà thờ.  Khi đến nhà thờ thì lễ đã xong, cha xứ phải làm một phần riêng cho hai vợ chồng.  Phục vụ cho anh chị em Dân Tộc là thế đó, nếu cứ thẳng thừng như kiểu người Kinh thì chắc không ổn.  Làm việc với họ cần kiên nhẫn và sự cảm thông nhiều lắm.

Đến với anh chị em Dân Tộc mà chỉ biết những lý lẽ và nguyên tắc của người Kinh thì họ khó mà đón nhận.  Một lần tôi đi với một anh giáo lý viên vào buôn lúc buổi chiều, đến cái chòi của một gia đình Dân Tộc thì chúng tôi được mời ăn tối.  Họ dọn lên bốn trái bắp nướng.  Anh giáo lý viên cầm một trái bắp nướng ăn, tôi cũng cầm một trái ăn, còn vợ chồng anh Dân Tộc và bốn đứa nhỏ ngồi coi chúng tôi ăn.  Tôi hỏi nhỏ anh giáo lý viên sao họ không ngồi ăn chung thì mới biết rằng bốn trái bắp nướng này là phần ăn tối của cả gia đình.  Họ đã nhường cho những người bạn của họ ăn.  Mà chúng tôi không ăn không được, vì không ăn là từ chối tình thương của họ và họ sẽ không coi chúng tôi là bạn.  Tôi ăn trái bắp mà nuốt không trôi, một phần vì bắp vàng rất cứng, bắp đã được hong khô bằng khói trên bếp để có thể để được lâu, rồi bây giờ nướng lên để ăn nên cứng kinh khủng, một phần là tôi đang ăn bữa ăn tối của họ và họ sẽ nhịn ăn tối đó, nên tôi ăn từng hạt mà như muốn mắc nghẹn đâu đó trong cổ họng.  Đó là văn hóa của người Dân Tộc, như người Kinh có mời khách bất ngờ ăn chẳng qua là mời xã giao vì cơm chỉ nấu đủ cho gia đình hôm đó.  Nghe mời lơi mà tưởng thiệt ngồi vào ăn thì nhiều chuyện đáng tiếc xảy ra.  Với người Dân Tộc thì không có mời lơi, khi họ mời là mời thiệt tình, họ nghĩ mình không ăn là khinh họ và không coi họ là bạn.

Một lần tôi ghé thăm nhà các cô giáo lý viên ăn trưa, phần cơm nấu cho năm cô và tôi là sáu.  Đang ăn thì ba anh Dân Tộc đem măng trong buôn ra nhà các cô để đổi gạo.  Các cô kêu vào ăn chung luôn vì họ đi chặt măng trong rừng từ sáng, rồi mang ra nhà các cô thì chắc chắn chưa có gì trong bụng, và lát nữa đây họ lại đi bộ hai ba tiếng về làng.  Một chập sau có thêm hai chị Dân Tộc ở buôn khác đem chuối ra đổi gạo và cũng được kêu vào ăn.  Vài phút sau lại có một nhóm năm anh em giáo lý viên Dân Tộc ghé ngang chơi cũng ngồi hết vào bàn và mọi người cùng vui.  Phần cơm cho sáu người nay phục vụ cho mười sáu người, thay vì mỗi người ăn hai chén hơn thì nay mỗi người ăn một chén và mọi người cùng vui.  Hôm đó tôi ăn một chén cơm thôi nhưng no thật sự vì một chén cơm đầy hương vị tình người.

Tôi đến phục vụ anh chị em Dân Tộc và thường hay có thái độ ban cho, các cô giáo lý viên đã dạy tôi cách sống phục vụ thật sự là hiện diện với anh chị em Dân Tộc.  Làm cho người khác thì dễ hơn là làm với người khác, và sống với người khác thì còn khó hơn nữa.  Thiên Chúa đã vì quá yêu nhân loại mà hạ mình đến thế gian để sống với con người.  Phục vụ như Marta là điều tốt nhưng hiện diện như Maria thì quý hơn (Lc 10:38-42).

Lạy Chúa, xin cảm hóa tâm hồn con để con biết Phục Vụ anh chị em với thái độ Hiện Diện như Chúa đã sống.  Sống trong một thế giới nặng phần sản xuất càng nhiều càng tốt nên con thường có thái độ làm cho nhiều mà quên đi thái độ cảm thông của con tim.  Xin Chúa cho con cảm nghiệm Tình Chúa thật nhiều để con lúc nào cũng mang lấy tâm tình của Chúa trên đường lữ hành.  Amen!

Giuse Ngô Văn Chữ, S.J.

SỐNG CHỨNG NHÂN

SỐNG CHỨNG NHÂN

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

“Tin đạo chứ không tin người có đạo.”  Câu nói này tôi đã nghe nhiều người nói.  Nhưng đáng tiếc không phải là những người ngoại đạo nói mà là những người có đạo nói.  Đa số họ là những người đã lâu năm không tới nhà thờ.  Họ bỏ xưng tội rước lễ.  Họ bỏ đồng đạo.  Họ có đạo nhưng không sống đạo.  Họ mang danh Kitô hữu nhưng lại bảo rằng “đạo tại tâm” nên không thể hiện ra bên ngoài dấu chỉ là người Kitô hữu.  Thế nhưng, họ lại biện minh cho hành động chối đạo của mình là vì chê ghét một ai đó trong đạo.  Họ không đến nhà thờ vì ông A, ông B đã không tốt với họ.  Họ bỏ Chúa vì cha xứ quá khắt khe trong lề luật của Chúa.  Họ không còn xưng tội rước lễ vì bà A, bà B vẫn chứng nào tật ấy có tốt hơn họ đâu?  Họ đòi người khác phải làm chứng cho họ còn bản thân họ thì lại không chịu làm chứng cho tin mừng.  Họ đòi người khác sống tốt còn bản thân họ thì lại nuôi thù oán.  Họ đòi người khác phải bác ái yêu thương còn bản thân họ thì cô lập một mình không gắn bó với giáo xứ.  Họ chính là những cỏ dại đang làm mất đi vẻ đẹp của cánh đồng lúa Giáo hội Chúa Kitô.  Họ chính là những người có đạo nhưng không đáng tin vì tính cố chấp, nuôi thù hận mà bỏ Chúa, bỏ anh em.

Các thánh Tử đạo Việt Nam năm xưa đã lãnh nhận cái chết tử đạo nhiều khi cũng bởi chính những con người mang danh Kitô hữu nhưng đã không còn sống men tin mừng.  Họ đã tố giác anh em vì một chút bổng lộc.  Họ đã bán đứng anh em vì cố chấp trong tội lỗi.  Như trường hợp thánh An-rê Kim Thông, ngài đã bị tố giác bởi chính người cháu tội lỗi, ngang ngược.  Ngài đã từng nhắc nhở người cháu sửa đổi nhưng chứng nào tật ấy.  Hắn đã không sửa đổi mà còn tố giác ngài để cầu vinh.

tu-dao

Trường hợp Thánh Phaolô Hạnh cũng thế.  Ngài là một thanh niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới giang hồ tại chợ Quán.  Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị đàn em bóc lột không thương tiếc.  Thánh nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc chúng trả lại tất cả những gì đã lấy của nạn nhân.  Vì hành động nghĩa hiệp này, thánh nhân phải trả giá: họ tố cáo ngài ngoài tội là Kitô hữu, còn tiếp tay với quân đội Pháp.  Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hoà ngày 28-5-1859.

Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan còn đáng thương và cảm động hơn.  Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử.  Họ bàn tính với nhau đến bắt Cha Loan để lập công chuộc tội.  Thế là họ đang tâm nộp Cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng Long.  Sau cùng, ngày 5-6-1840, Thánh Luca Loan bị chém đầu.

Điểm chung của các thánh Tử Đạo chính là can đảm đón nhận thập giá Chúa gửi đến mà không oán hận kẻ làm hại mình.  Các ngài đã vui nhận hy lễ thập giá vì yêu mến Chúa Kitô.  Các ngài luôn xác tín rằng: những đau khổ đời này không đáng gì so với vinh quang bất diệt mai sau.  Các ngài dầu có chịu khổ hình trong giây lát nhưng được sống lại vinh quang muôn đời.  Đó là điều mà thánh Đaminh Hạnh đã xác tín, khi mà quan triều đình nói với ngài: “Xem kìa, đạo trưởng Duyệt đã chịu bỏ đạo, được tha về, ông cứ làm như thế tôi sẽ tha cho ông.”  Nhưng thánh Đaminh Hạnh bình tĩnh trả lời: “Kẻ trung thành với Chúa, khi chết sẽ được lên thiên đàng.”

Mừng kính các thánh Tử đạo Việt Nam là dịp nhắc nhở chúng ta hãy sống thể hiện niềm tin trung kiên của mình trong mọi tình huống.  Đừng vì một chút cỏ dại lấn át mà chán nản bỏ đạo.  Đừng vì một chút giận hờn mà thù hận cả niềm tin của mình.  Đừng chối đạo vì ghét ai đó, hay đánh mất niềm tin vì bên trong Giáo hội vẫn có cỏ lùng xen lẫn.  Và nhất là đừng bán đứng anh em để cầu vinh.

Ngày nay chúng ta không còn những bạo chúa bách đạo bằng gươm đao súng đạn, nhưng đề sống niềm tin đòi hỏi chúng ta phải chiến thắng chính mình.  Không ai bắt chúng ta bỏ đạo nhưng vẫn còn đó những người bỏ đạo vì chức vụ trần gian, vì lười biếng ham chơi, vì đam mê trụy lạc.  Không ai ngăn cản chúng ta thực hành đạo nhưng vẫn còn đó những người luôn nuôi dưỡng hận thù, luôn bất mãn với tha nhân nên đã sống thiếu yêu thương trong lời nói và việc làm.  Không ai dụ dỗ chúng ta bỏ đạo nhưng nhiều người đã lao vào những con đường tội lỗi, những quan hệ bất chính nên đã không còn xứng đáng mang danh là Kitô hữu.

Quả thực, ngày nay không cần những cuộc bắt đạo những vẫn có hàng ngàn người bỏ đạo vì những danh lợi thú trần gian.  Ngày nay không ai bắt chúng ta bước qua thập giá nhưng vẫn còn đó nhiều người vì danh lợi thú đã tự tháo bỏ thập giá khỏi bàn thờ gia đình, khỏi cuộc sống của mình.  Họ đích thực là loại người mà nhân loại kết án “tin đạo chứ không tin người có đạo”, vì lẽ họ không còn sống niềm tin của mình.

Lạy các thánh Tử đạo Việt Nam, là cha ông chúng con.  Xin cho chúng con biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự, biết noi gương các ngài để thể hiện niềm tin trung kiên của mình trước những cám dỗ lợi lộc của thế gian.  Xin giúp chúng con biết thể hiện niềm tin của mình qua đời sống thánh thiện, bác ái yêu thương.  Amen.

LM Giuse Tạ Duy Tuyền

langthangchieutim gởi

BỎ NGÀI CON BIẾT THEO AI ?

BỎ NGÀI CON BIẾT THEO AI ?

Bỏ Ngài con biết theo ai,

đời lộng gió cánh chim ngàn khơi?

Bỏ Ngài con biết theo ai,

thuyền không lái biết trôi về đâu?

Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ?

Bước đi không Ngài, đời con buồn tênh…

(LM. Thành Tâm – Trích từ bài hát “Bỏ Ngài Con Biết Theo Ai ?” )

***

Bạn thân mến!  Khi Đức Giêsu hoá bánh và cá ra nhiều, nuôi năm nghìn người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi mừng vui. Họ tin tuyệt đối rằng Người chính là Đấng Cứu Thế đến cứu dân tộc Do Thái.  Niềm tin của họ mạnh mẽ đến nỗi khi Đức Giêsu trốn đi, họ vẫn đuổi theo sát nút với ý định tôn Người lên làm vua cai trị họ.

Thế mà hôm nay, khi Đức Giêsu tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga .6:54).  Đám đông đã xầm xì với nhau: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga .6:60).  Họ đã quay lưng bỏ Chúa để ra đi.  Một số môn đệ cũng bỏ Thầy mình mà đi.  Đức tin bồng bột tưởng chừng như không gì dập tắt nổi của những ngày hôm trước nay đã tan tành như mây khói.  Sự gắn bó tưởng chừng như không gì chia cắt nổi bỗng trở nên nhạt nhẽo lạnh lùng.  Đức tin gặp gian nan thử thách và họ đã không có đức tin đủ mạnh để vượt qua.  Họ đã thất vọng và bỏ cuộc.

Giữa cơn khủng hoảng ấy, Phêrô đã đại diện nhóm 12 đã tuyên xưng niềm tin sắt son vào Đức Kitô:  “Bỏ Thầy con biết theo ai ? Vì Thầy có Lời ban sự sống” (Ga:6.68) . Lời tuyên xưng của Phêrô là lời tuyên xưng tuyệt vời nhất trong lúc mọi người gặp khủng hoảng và đang quay lưng lìa xa Chúa. Cũng trong lời tuyên xưng đó, Phêrô đã dành cho Đức Giêsu một danh hiệu chưa từng có: “Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga .6:69).

Chính việc mạnh mẽ tuyên xưng đức tin đã làm tan biến mọi do dự; tuyên xưng đức tin không phải là gắn bó với những chân lý trừu tượng, nhưng là với con người Đức Giêsu.  Tin tưởng khi thời cơ thuận lợi thì thật dễ dàng.  Nhưng vẫn tin tưởng gắn bó với Chúa trong những lúc gặp khó khăn thử thách mới thật sự là niềm tin chân chính và bền vững.

Hành trình đức tin của chúng ta chắc chắn sẽ không khác hành trình đức tin của các Tông đồ xưa kia.  Có những thời gian thuận lợi, ta thấy niềm tin dâng cao mãnh liệt.  Khi ấy Lời Chúa là những lời êm ái ngọt ngào làm phấn chấn lòng ta.  Lời Chúa mang đến cho ta niềm vui, niềm bình an, niềm hy vọng.  Lời Chúa đem đến cả thành công và may mắn nữa.

Nhưng rồi tới những ngày u ám tăm tối, ta cảm thấy niềm tin lung lay chao đảo.  Đó là khi ta gặp khó khăn thử thách.  Lúc ấy Lời Chúa làm cho cuộc đời ta mất bình an. Lời Chúa gõ vào tính tự ái, tự cao, tự đại của ta.  Lời Chúa gõ vào sức khoẻ ta. Lời Chúa gõ vào gia sản của ta. Lời Chúa như lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn ta, tạo ra những vết thương sâu thẳm không bao giờ ngưng rỉ máu. Những lúc ấy, ta dễ bị cám dỗ ra đi từ bỏ Chúa như những người Do Thái trong bài Tin Mừng hôm nay.

***

Lạy Chúa! Trong những giờ phút tăm tối và khó khăn nhất của cuộc đời. Niềm tin của con bị chao đảo.  Con muốn đầu hàng.  Con muốn bỏ cuộc.  Xin Ngài luôn nâng đỡ con, thêm niềm tin cho con và giúp con khắc ghi trong lòng lời thánh Phêrô: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai. Vì Thầy mới có lời ban sự sống”. Amen.

Tổng hợp từ R. Veritas)

Ngọc Nga sưu tầm

Anh chị Thụ & Mai gởi

MẠC KHẢI NÓI VỀ HỎA NGỤC:

MẠC KHẢI NÓI VỀ HỎA NGỤC: 

41/ Với nữ tu Agreda:

“Nếu ở Thiên đàng, Mẹ còn có thể phải đau khổ, Mẹ đau đớn nhường nào khi thấy biết bao linh hồn phải hư mất! Trong khi cuộc đời qua đi quá mau chóng như vậy, mà con cái Giáo hội cứ tự vướng mắc vào dò bẫy ma quỉ, mê theo cuộc sống kiêu sa, ve vuốt dục vọng xác thịt, tự lên án phạt mình đời đời, mặc dầu được Chúa ban cho mọi thứ ân sủng. Có lẽ họ ngờ rằng được chết một cách tự nhiên, dứt bỏ được cuộc đời như loài thú là sung sướng rồi. Nhưng không đâu, còn hỏa ngục nữa, hỏa ngục đời đời sẽ ngốn nuốt họ. Tự lao mình vào đó thật ngu dại tội lỗi chừng nào!

Hỡi phàm nhân lầm lạc, các con cứ nghĩ đi đâu? Các con làm gì thế? Các con có biết thế nào là nhìn thấy Thiên Chúa nhãn tiền, là thông phần đời đời vào sự sống và vinh quang của Người không? Các con tìm gì để thay vào hạnh phúc vô cùng ấy được? Các con sẽ không thể tìm được một hạnh phúc nào khác đâu. Ai đã làm tâm trí các con mờ đục và mê loạn như thế? Các con cũng phải suy nghĩ cho kỹ rằng lao nhọc ngắn, mà hạnh phúc hay tai họa vĩnh cửu sẽ vô cùng”.

42/ Với 3 em nhỏ Fatima:

Ngày 13/7/1917 Đức Mẹ hiện ra với 3 em. Luxia tả:

“Sau khi đến đồi Cova da Iria gần chỗ cây sồi, nơi nhiều người đang lần hạt, chúng con lại thấy chớp sáng và sau đó Đức Mẹ hiện đến.

– Bà muốn con làm gì?

– Ta muốn các con tới đây ngày 13 tháng tới. Ta muốn các con tiếp tục lần hạt hằng ngày tôn kính Đức Mẹ Mân côi, để xin hòa bình cho thế giới và chấm dứt chiến tranh vì chỉ có Đức Mẹ có thể giúp.

– Hãy hi sinh cầu cho các tội nhân và lặp lại mỗi khi hi sinh: “Lạy Chúa Giêsu, vì yêu mến Chúa, để cầu cho tội nhân thống hối và đền tạ Trái Tim Vô nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ”.

Nói xong,  Đức Mẹ mở rộng tay ra như đã làm trong 2 lần trước. Những tia sáng thấu qua trái đất và chúng con thấy một biển lửa. Ma quỉ và các linh hồn dưới hình người bị dìm vào đó như những cục than hồng, cháy đen hay đỏ rực đang ngoi ngóp, phập phồng, có lúc bị tung lên với những ngọn khói đen kịt, rồi văng trở lại biển lửa kinh khiếp, rên siết, thống khổ và thất vọng. Điều đó làm chúng con kinh hãi và run sợ. (Chắc vì thế mà chúng con khóc thét lên, như những người chung quanh con sau này cho con biết). Quỉ dữ có thể phân biệt vì chúng coi hung dữ, tàn bạo như những quái vật khủng khiếp chưa từng thấy, cháy đen hay đỏ rực như than trong lò. Kinh sợ và hốt hoảng, chúng con ngước nhìn xin Đức Mẹ cứu giúp. Đức Mẹ nhân từ, buồn sầu nhắn nhủ:

– Các con vừa thấy hỏa ngục, nơi tội nhân khốn nạn phải rơi vào. Để cứu họ, Chúa muốn thiết lập trên thế giới sự tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ”.

– Đức Mẹ dạy sau kinh Sáng Danh của mỗi chục kinh Kính mừng, sẽ đọc thêm lời này: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội lỗi chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục. Xin đem các linh hồn lên Thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng thương xót (của) Chúa hơn”.

43/ Với nữ tu Giosepha:

Trong cuốn Tiếng Gọi Tình Yêu, Chúa cho chị xuống hỏa ngục, chị viết lại rằng:

“Tôi bị đẩy vào một cái hang có lửa đỏ rực, và dường như tôi bị ép giữa 2 khối lửa, và có dùi sắt nung đỏ xuyên thấu khắp mình tôi…một mùi hôi thối nồng nực khiến người ta phải ngột ngạt gớm ghê, nôn mửa, bay tỏa khắp nơi như mùi thịt thối đốt chung với sinh diêm và hắc ín. Tiếng gào thét inh ỏi…

Chị Giosepha ghi lại một phiên họp của quỉ. Quỉ chúa phán:

Theo ý tao:

Với hạng người này, tụi bay làm chúng ơ hờ, rồi cuối cùng hướng theo lòng ác.

Với hạng người kia, chúng bay cám dỗ chúng bằng tính tham lam, tích trữ bạc vàng, tiền của.

Với hạng khác, tụi bay cho chúng cái mồi dâm dục, để chúng mù quáng trong cái thú hư đốn nhảy nhót khêu gợi, phim ảnh đồi trụy, sách báo tục tĩu, nhậu nhẹt say sưa, chơi bời dâm đãng…”

44/ Với nữ tu Faustina:

Thánh nữ Faustina, tông đồ Lòng Thương xót Chúa, viết năm 1936: ” Tôi được Thiên thần dẫn vào một vực sâu thẳm trong hỏa ngục. Đó là nơi cực hình lớn lao. Nó mênh mông và đáng sợ chừng nào! Những thứ hình phạt tôi đã thấy trong hỏa ngục là:

1/ Hình phạt mất Chúa,

2/ Lương tâm cắn rứt đời đời,

3/ Tình trạng mỗi người không bao giờ thay đổi,

4/ Lửa đốt linh hồn, nhưng không diệt nó- đó là sự đau đớn kinh khủng, vì đó là lửa hoàn toàn thiêng liêng, bởi cơn giận của Chúa,

5/ Tối tăm triền miên và mùi khói ngạt thở dữ dằn, và mặc dù tối tăm, nhưng quỉ dữ và các linh hồn bị phạt vẫn nhìn thấy nhau và thấy các kẻ dữ, cả phía quỉ lẫn phía kẻ bị phạt,

6/ Lũ quỉ Satan còn mãi mãi,

 7/ Sự thất vọng kinh khủng, sự gớm ghét Chúa, những lời độc ác, tục tĩu, và  phạm thượng.

Trên đây là những hình khổ đau đớn mọi người bị phạt phải chịu.

Ngoài ra, còn có những hình khổ riêng cho mỗi thứ tội. Đó là những hình khổ về các giác quan. Mỗi linh hồn phải chịu những đau khổ dữ tợn, không thể tả, liên quan đến những cách mà họ đã phạm tội. Có những hang hầm  và những ngục tù khác nhau để giam phạt. Tôi chắc phải chết ngay khi nhìn thấy những nơi cực hình này, nếu Thiên Chúa Toàn năng không nâng đỡ tôi.

Hãy cho tội nhân biết, họ sẽ chịu cực hình đến muôn đời muôn kiếp, trong những giác quan họ đã dùng để phạm tội.

Tôi viết ra những điều này theo lệnh của Chúa, để không còn linh hồn nào chữa mình rằng không có hỏa ngục, hoặc không có ai ở trong hoả ngục bao giờ, và không có ai nói hỏa ngục là thế nào.

+Tôi, Sơ Faustina , theo lệnh Chúa, đã được thăm  các vực sâu hỏa ngục để tôi có thể nói lại cho các linh hồn, và làm chứng hỏa ngục có thật. Hiện nay, tôi không nói về hỏa ngục, nhưng tôi được lệnh của Chúa phải viết lại. Các quỉ dữ đầy lòng giận ghét tôi, nhưng chúng phải vâng nghe  tôi, khi tôi vâng lệnh Chúa . Những điều tôi đã viết chỉ là bóng mờ nhạt những gì tôi đã thấy. Nhưng tôi để ý một điều: Hầu hết những linh hồn phải sa hỏa ngục đã không tin có hỏa ngục.

Sau khi tôi đã ra khỏi  đó, tôi thấy khó quên những sợ hãi, vì tôi quá  kinh khiếp. Các linh hồn trong đó đau đớn ghê rợn chừng nào!

Do đó, tôi cầu nguyện sốt sắng hơn cho các tội nhân ăn năn cải thiện, tôi nài xin không ngừng Lòng Thương Xót Chúa xuống trên các linh hồn ấy. Ôi, Chúa Giêsu, con thà chịu đau khổ cho đến tận thế, giữa những đau khổ lớn lao nhất, hơn là xúc phạm đến Chúa dù một lỗi nhỏ mọn nhất”.

(Trích Diary Divine Mercy in my Soul, St. Faustina, Stockbridge, Ma, 2001, pp. 296-297)

Theo thánh nữ Faustina tả ở trên, Hỏa ngục có 2 hình khổ : Thất khổ và giác khổ. Thất khổ là “mất Chúa”, “giác khổ” là giác quan nào phạm tội thì giác quan ấy phải đau đớn. Cường độ đau đớn là  không thể tả. Trường độ là đời đời, đúng như Chúa Giêsu nói: dòi bọ không chết, vì tiếng lương tâm cắn rứt mãi, vì đã cứng lòng, không nghe theo ơn Chúa. Lửa đốt linh hồn linh thiêng trong quyền phép Thiên Chúa…

 45/ Với Linh mục người Ấn độ

27-11-2006 (Source: FOSS/web Phinomenon)

Chúa Nhật ngày 14.4.1985 là Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa?, Linh Mục Tom Maniyangat đang trên đường đi tới một Nhà Thờ truyền giáo ở phía Bắc của Kerala, nước India (Ấn) để dâng Thánh Lễ, và ngài đã bị chết vì tai nạn xe.  Xe của ngài đụng thẳng đầu một xe jeep.  Ngài được chở vội tới nhà thương cách chỗ xảy ra tai nạn khoảng 70 cây số, nhưng ngài đã qua đời trên đường chở tới nhà thương.

Linh Hồn cha Tom lìa khỏi xác, nên cha cảm nghiệm được là ngài đã chết.  Ngài nhìn thấy thi thể ngài, và người ta đang chở ngài tới nhà thương.  Cha nghe được tiếng người ta khóc lóc và đọc kinh cầu nguyện cho cha.

Rồi cha gặp Thiên Thần Bản Mệnh.  Thiên Thần nói với cha: “Tôi sẽ dẫn Linh Mục lên Trời.  Chúa muốn gặp và nói chuyện với Linh Mục”.  Thiên Thần cũng nói với cha rằng, trên đường đi, ngài cũng muốn cho cha thấy Hoả Ngục và Luyện Ngục nữa.  Dưới đây là những gì cha Tom Maniyangat kể về Hỏa Ngục và Luyện Ngục:

Hỏa Ngục

“Trước tiên, Thiên Thần dẫn tôi xuống chứng kiến Hoả Ngục.  Đó là một quang cảnh thật ghê sợ.  Tôi thấy Satan và các quỉ dữ, thấy những ngọn lửa không hề tắt với sức nóng 2,000 độ Fahrenheit, thấy dòi bọ lúc nhúc, thấy người ta rên la và đánh đập nhau, thấy những người khác đang bị bày quỉ dữ tra tấn hành hạ.

“Tôi được nói cho biết có bảy “cấp bậc” hoặc bảy tầng đau khổ trong Địa Ngục.  Những người “phạm hết tội trọng này đến tội trọng khác” khi sống trên dương thế, phải chịu sức nóng ghê gớm nhất.  Thân hình họ trông rất xấu xí và rất ghê rợn.  Họ là con người nhưng lại giống như những con quái vật: những thứ trông xấu xí và đáng sợ.  Thiên Thần cho tôi biết tất cả những đau khổ này là do các tội trọng không hối cải.

Cho nên, tôi hiểu có bảy cấp bậc đau khổ, căn cứ theo số tội trọng và loại tội trọng đã phạm trên dương thế.  Tôi được thấy một số người mà tôi quen biết, nhưng tôi không được phép tiết lộ danh tánh của họ.

Những tội khiến họ bị trầm luân phần lớn là do phá thai, dâm dục, thù hận, không tha thứ và tội phạm thánh.

Thiên Thần nói với tôi rằng, nếu họ sám hối, họ sẽ tránh được Hoả Ngục mà chỉ phải vào Luyện Ngục thôi.  Tôi cũng hiểu rằng, một số người sám hối tội lỗi có thể được thanh luyện trên trái đất qua những đau khổ họ phải chịu.  Bằng cách này, họ có thể tránh được Luyện Ngục và bay thẳng lên Thiên Đàng.

Tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong Hoả Ngục gồm có cả Giám mục, Linh Mục, một vài người tôi không thể ngờ.  Nhiều người trong số họ ở trong Hoả Ngục, vì họ đã hướng dẫn lạc đường cho người khácbởi những lời dậy sai lầm và bởi gương xấu của họ.

……. 

Khi người ta di chuyển thi thể của tôi tới nhà xác, Linh Hồn tôi liền nhập vào xác tôi.  Tôi cảm thấy rất đau đớn vì nhiều thương tích và các xương bị gẫy.  Tôi bắt đầu rên, và rồi các người chung quanh tôi đã hết sức sợ hãi, họ hốt hoảng vừa chạy vừa la. 

Một người trong số họ đến gặp bác sĩ và nói: “Thi thể cha đang rên rỉ!” Bác sĩ vội chạy tới và khám nghiệm thân thể tôi.  Ông thấy tôi còn sống, cho nên ông nói: “Cha vẫn còn sống.  Đúng là một phép lạ! Hãy mau chở ngài tới nhà thương…”

ĐỨC TIN ĐÃ CỨU TÔI

ĐỨC TIN ĐÃ CỨU TÔI

+ Gm. GB BÙI TUẦN

  1. Chúa Giêsu đã cảnh báo:“Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người”(Lc 21,36).

Trước đây, tôi đọc lời Chúa cảnh báo đó rất nhiều lần, mà không quan tâm đủ. Nhưng thời gian này, Chúa dạy tôi hãy nhờ đức tin mà đón nhận lời cảnh báo đó của Chúa. Tôi xin Chúa thêm đức tin cho tôi. Nhờ vậy, tôi nhận ra lời Chúa cảnh báo trên đây là rất nghiêm trọng.

Tôi xin chia sẻ vắn tắt.

  1. Trước hết, tôi thoáng nhìn thấy những điều sắp xảy đến là rất đáng sợ. Những điều đáng sợ đó đã bắt đầu rồi. Tôi thấy ba hình ảnh sau đây:
  1. Hình ảnh thứ nhất là một thác máu đang đổ trên trần gian.

Chúa cho tôi hiểu đó là máu của hàng trăm ngàn thai nhi đổ ra hằng ngày do nạn phá thai. Đó là máu của bao người chết trên đường do nạn giao thông. Đó là máu của bao người bị bọn xấu chém giết mỗi ngày.

  1. Hình ảnh thứ hai là một thác những chất dơ bẩn hôi thối đang tràn trên lịch sử.

Chúa cho tôi hiểu đó là những gian dối, những bất trung, bất tín đủ loại, những ích kỷ cá nhân và tập thể, những phản bội đủ thú, những hưởng thụ sa đà vào rượu chè, cờ bạc, dâm ô.

  1. Hình ảnh thứ ba là một thác bùn đang chảy sâu vào cuộc sống.

Chúa cho tôi hiểu đó là những thứ bận rộn vô bổ, những luật lệ chỉ cốt phô trương, những thói quen vô cảm. Tất cả những thứ đó như bùn, làm cho người ta lún vào mà không bước đi được.

Khi nhìn thấy ba dòng thác trên đây, tôi rất sợ. Chúa bảo tôi: Đây mới chỉ là khởi đầu của một chuỗi dài những điều sẽ xảy đến.

  1. Tôi phải làm gì đây?

Chúa trả lời: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”.

Để tỉnh thức và cầu nguyện, tôi nhờ đức tin. Tôi tin vào Lời Chúa. Tôi dần dần nhận ra một điều hết sức quan trọng: Chúa Giêsu là Đấng cứu thế. Người đang cứu tôi. Người sẽ cứu tôi. Người sẽ cứu tất cả những ai tin ở Người.

Nếu không tin vào Chúa Giêsu là Đấng cứu độ, tôi sẽ nhìn mà không thấy. Nếu có thấy mà cũng chẳng biết sợ.

  1. Nhiều sự việc quá nguy mà không thấy sự nguy hiểm, đó là điều chính tôi đã từng cókinhnghiệm. Mới rồi, tôi đang bước đi rất chậm. Tay chống gậy. Mắt nhìn xuống đất chăm chú. Nhưng trong tích tắc, tôi té ngã, đập đầu xuống sân ximăng, máu đầu chảy ra. Đúng là tôi có nhìn, mà không thấy chỗ đó quá rong rêu, dễ trượt, đầy nguy hiểm cho người già yếu. Bài học đó dạy tôi là trên con đường đời, có những chỗ nguy hiểm, nếu không tỉnh thức và cầu nguyện, thì tôi sẽ nhìn mà không thấy.
  1. Tỉnh thức và cầu nguyện là phải hết sức tin vào Chúa.Tin vào Chúa là Đấng quyền năng và giàu thương xót. Chính Người cứu tôi.
  1. Tới đây, tôi nhớ lại đoạn Phúc Âm kể lại phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù tại Giêrikhô.

“Khi Đức Giêsu gần đến Giêrikhô, thì có một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường, nghe thấy đám đông đi qua, anh ta hỏi xem có chuyện gì. Họ bảo cho anh biết là Đức Giêsu Nazarét đang đi qua đó. Anh liền kêu lên rằng: ‘Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương xót tôi’. Những người đi qua quát nạt, bảo anh ta im đi. Nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi. Đức Giêsu dừng lại, truyền dẫn anh ta đến. Khi anh ta đã đến gần, Người hỏi: ‘Anh muốn tôi làm gì cho anh?’ Anh ta đáp: Lạy Ngài, xin cho tôi được thấy. Đức Giêsu nói: ‘Anh hãy thấy đi. Lòng tin của anh đã cứu anh’. Lập tức, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người” (Lc 18,35-43).

  1. Đọc đoạn Phúc Âm vừa rồi, tôi có cảm tưởng tôi cũng là một thứ người mù. Chúa Giêsu đã mở mắt tôi ra, để tôi thấy bao nguy hiểm quanh tôi, nhưng tôi được chính Người cứu tôi. Được như vậy, là nhờ đức tin. Đức tin là một món quà quý Chúa trao ban cho những ai khiêm nhường.
  1. Sau khi đã mở mắt tôi ra, để tôi thấy ba thác nguy hiểm trên đây, đồng thời nhận thấy Đức Kitô là Đấng cứu độ, thì Chúa lại mở mắt thêm cho tôi, để tôi thấy thêm sự thực về tôi.

Tôi thấy tôi nghèo đói về mọi mặt:

– Về sức khoẻ.

– Về nhân cách.

– Về trí thức.

– Về đạo đức.

– Về khôn ngoan.

– Về đức tin.

  1. Nghèo đói nào của tôi cũng rất nghiêm trọng. Từ tình trạng nghèo đói nghiêm trọng đó, tôi nhìn lên Chúa Giêsu. Người hiện lên trước mặt tôi như một tình yêu cứu độ. Người hứa cứu tôi, không để cho những nghèo đói đó thành cớ đưa tôi vào thảm hoạ tội lỗi, để sau cùng là thảm hoạ hoả ngục đời đời. Trái lại, Người hứa sẽ làm cho những nghèo đói đó của tôi thành cơ hội để gặp được Chúa.

Chúa đã thực hiện điều hứa đó. Từ vực sâu nghèo đói thiêng liêng, tôi giơ tay lên, và Chúa đã nắm lấy tay tôi. Chúa đã cứu tôi thực sự.

  1. Giờ đây, tôi hiểu được phần nào lời Chúa phán:“Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người”.

Điều sẽ xảy đến thực rất khủng khiếp. Ngay một sự mình mù, mà lại không nhận biết mình mù, mình trong vực thẳm hư vong mà lại cứ cho là mình ở trong cõi bình an hạnh phúc. Ngay chỉ thế cũng đã là khủng khiếp lắm rồi. Nếu, hơn nữa, người mù lại dắt người mù, từng đoàn như vậy, thì khủng khiếp biết bao.

Để thoát khỏi cảnh khủng khiếp hãi hùng đó, Chúa dạy tôi là hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn.

  1. Tôi thấy mình chưa tỉnh thức đủ, chưa cầu nguyện đủ. Tôi xin Đức Mẹ, các thánh trên trời và trong luyện tội thương giúp tôi.

Dần dần, trong tôi bừng lên niềm vui và hy vọng. Tôi thấy mình được đỡ nâng, an ủi. Tôi cảm thấy Chúa Giêsu là Đấng cứu độ luôn ở bên tôi. Tôi đi về phía trước, với hy vọng chắc chắn mình sẽ được vào cõi sống đời đời đầy bình an hạnh phúc. Hy vọng đó là niềm vui lớn lao. Chia sẻ niềm vui và hy vọng đó cũng sẽ là bài ca tạ ơn Chúa giàu lòng thương xót đã ban đức tin cho tôi.

Hy vọng chia sẻ này cũng sẽ giúp tôi và nhiều người biết sống lời cảnh báo của Chúa một cách nghiêm túc, nhất là trong tình hình hiện nay có nhiều bất ngờ đáng sợ.

Long Xuyên, ngày 5.11.2016.

+ Gm. GB BÙI TUẦN

Anh chị Thụ & Mai gởi

CÓ HỎA NGỤC HAY KHÔNG?

CÓ HỎA NGỤC HAY KHÔNG?

 Lm Nguyễn Hữu Thy

Ở Âu Châu, tháng mười một là một tháng u buồn ảm đạm nhất trong năm: Khí trời mới vào đông tuy chưa có tuyết rơi, nhưng rất lạnh lẽo giá buốt, sương mù dăng dăng dầy đặc và những làn mưa phùn bay phất phơ trong từng cơn gió lạnh, làm thấm ướt cả áo măng-tô của các khách bộ hành qua lại trên phố xá.  Và cũng chính tháng mười một đã được Giáo Hội chọn làm Tháng Các Linh Hồn, nghĩa là thời gian dùng để kính nhớ và cầu nguyện cho các người đã quá cố.

Hành động đó đã minh nhiên chứng minh rằng chết không phải là hết, nhưng sau khi chết con người còn tiếp tục sống và sống một cuộc sống vĩnh cửu.  Nhưng ở đây một câu hỏi được đặt ra là sau khi từ bỏ cõi đời này, chỉ có Thiên Đàng là nơi vĩnh cửu duy nhất sẽ đón nhận các người đã quá cố hoặc còn có nơi nào khác nữa, hay nói rõ hơn, có hỏa ngục hay không?

Theo tâm lý tự nhiên ngày nay, đa số người đương thời có khuynh hướng muốn được yên thân sống thoải mái dễ dãi, chứ không muốn nhắc đến luân lý, đạo đức hay tội lỗi nữa.  Vì thế họ cũng không muốn đề cập tới vấn đề hỏa ngục, nếu không nói là họ phủ nhận sự hiện hữu của hỏa ngục.

Nhưng ít nhất vẫn còn có Sting, tên thật là Gordon Summer (1951), một ca sĩ nhạc Rock nổi tiếng người Anh, luôn tin có hỏa ngục, một nơi có mặt của mọi thành phần xã hội: từ các quan tòa, các luật sư, các Hồng Y, Giám Mục, các nhạc sĩ, các ca sĩ, v.v…  Trong một bài hát thuộc loại nhạc kích động với tựa đề bằng tiếng Anh: “Saint Augustine in Hell” (Thánh Augustinô ở trong hỏa ngục), Sting đã hát: “They’re all here, You’re not alone” (Tất cả họ đều có mặt ở đây.  Chứ không phải một mình anh đâu).  Bài hát đề cập tới việc vị thánh nhân đã ra sức vất vả chống lại sự cám dỗ về đức trong sạch khi phải đứng trước một người phụ nữ nhan sắc đầy quyến rũ.

Thật cả là một hiện tượng quá ngạc nhiên, hoàn toàn vượt quan niệm thường tình: Trong hỏa ngục cũng có cả sự hiện diện của những bậc vị vọng, những người khi còn sống đã từng đóng vai trò người bảo vệ luân lý, đạo đức và công bằng, và theo sự phán đoán bình thường nhân loại, thì họ là những người sau khi chết sẽ được bay thẳng về Thiên Đàng.  Còn hỏa ngục là nơi chỉ dành cho những kẻ đã phạm những tội ác nặng nề chống lại nhân loại như: Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot, Nero, Giu-đa, Napoléon, hay những bọn khủng bố, những kẻ giết người như ngóe, bọn phản bội hại người hay những kẻ cực đoan đã gây nên bao tang thương đau khổ và chết chóc cho hàng triệu người vô tội, tiêu hủy cả một nền văn hóa của nhân loại, và không ngừng gieo rắc hận thù, ghen ghét trên khắp thế giới.

Cái hố sâu trong hỏa ngục

Vâng, theo quan niệm đại chúng thì những kẻ đã gây nên những tội ác như thế cần phải được trừng phạt một cách đích đáng, và – dựa theo luật công bằng – sự trừng phạt đó có thể vượt sang cả bên kia thế giới vĩnh cửu nữa.

Tuy nhiên, trong cuộc sống cụ thể, người ta thường dùng danh từ “hỏa ngục” như một cách so sánh hay có tính cách ẩn dụ, để ám chỉ những khó khăn to nhỏ trong cuộc sống hằng ngày.  Ví dụ: Trong một chuyến đi nghỉ hè xa mà phải ngồi chờ cả ngày tại phi trường hay tại nhà ga xe lửa, hết ngồi rồi lại đứng, bởi vì máy bay hay tàu bị trục trặc hay vì một sự cố nào đó xảy ra, nên phải hủy chuyến bay hoặc phải đến trễ; khi khởi công xây nhà mà trời cứ mưa tầm tã cả ngày; khi con cái và mọi người trong nhà đau ốm liên miên, nhưng tiền dành dụm lại không còn, vay mượn thì không ai cho; hay cảnh phải lam lũ vất vả cả ngày mà kiếm không đủ cơm nuôi gia đình; nhất là khi cuộc sống trong gia đình hoàn toàn thiếu đầm ấm, bất hạnh phúc, vợ chồng lục đục bất hòa với nhau suốt ngày v.v…  Bấy giờ đó quả là“hỏa ngục!” và người ta mới cảm nhận được sự đau đớn và thất vọng chua xót trong lòng trước niềm khao khát được cơm no áo ấm, được một cuộc sống ấm êm, hạnh phúc.

Nhưng cả khi phải đối mặt với những thử thách và khó khăn vất vả như thế, người ta cũng chưa hẳn tin hỏa ngục như là một nơi có thực.  Trái lại, người ta đã tương đối hóa hỏa ngục và sử dụng nó như một kiểu chơi chữ, như một nơi giả tưởng để diễn tả một sự chịu đựng đắng cay nào đó mà thôi.  Đó chính là điều mà các nhà tâm lý học, triết gia và văn họa sĩ của thế ký XX vừa qua đã làm, và quan điểm đó của họ đã để lại một ảnh hưởng sâu rộng trong ngôn ngữ cũng như trong tư tưởng của các tầng lớp xã hội.

Quả vậy, nhà phân tâm học Sigmund Freud và giáo sư tâm lý học C.G. Jung đã diễn tả ý niệm “hỏa ngục” chỉ còn như là cái vực sâu thẳm nhất của nội tâm con người; còn trong cuốn tiểu thuyết nổi danh “Doctor Faustus” của ông, văn hào Thomas Mann đã coi “hỏa ngục” như là biểu hiệu cho sự man rợ ghê tởm, xảy ra dưới chế độ diệt chủng Đức Quốc Xã; trong khi đó, triết gia Jean-Paul Sartre – bằng một hình thức hiện sinh nhẹ nhàng – lại cho thấy rằng “hỏa ngục” luôn luôn là “những người khác.”  Hỏa ngục được coi như một nơi hoàn toàn và tuyệt đối không có sự hiện diện của Thiên Chúa, dù một lời nói hay một dấu hiệu cũng hoàn toàn không.

Tuy nhiên, điều đó không luôn luôn như vậy.  Đặc biệt nhất là các bức hình thời trung cổ trình bày về ngày Phán Xét Chung – mà ngày nay người ta còn tìm thấy trên trần các nhà thờ chánh tòa và vương cung thánh đường cổ hay trong bản văn Sách Khải Huyền của thánh Gioan tông đồ – đã vẽ lên một cách rõ ràng và đầy ấn tượng tình trạng của những kẻ bị kết án trầm luân trong hỏa ngục.  Trong khi đó, chữ “hỏa ngục” trong tiếng Do-thái là “Ge hinnom”, hoàn toàn chỉ có nghĩa là vùng thống trị của ma quỷ mà thôi; khác với chữ “âm phủ” (nước của những kẻ chết) mà trong tiếng Do-thái là “Scheol” và cũng khác với các quan niệm Hy Lạp thời thượng cổ về nước của kẻ chết, tức thế giới của tối tăm.

Những trình bày về hỏa ngục chỉ muốn nhắm cảnh giác và làm cho người xem động lòng lo sợ, hầu họ biết ăn năn sám hối và cải thiện cuộc sống, dựa trên ý nghĩa Kinh Thánh và những lời dạy của Chúa Cứu Thế, ví dụ: “Thà cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời.  Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hỏa ngục.” (Mt 18,8-9)

Trong vùng ảnh hưởng nền văn hóa Tây phương nói chung, những hình ảnh trình bày về hỏa ngục hay những suy diễn tưởng tượng về hỏa ngục rất đa dạng.  Vâng, có khi hỏa ngục được coi như một nơi của thù oán; có khi lại được coi như một lò lửa cháy bừng bừng đến vô tận; và nhiều khi còn được coi như núi hỏa ngục.  Trong cuốn tiểu thuyết nổi danh “La Divina Commedia” của ông, Dante Alighieri (1265-1321), một thi hào người Ý, còn trình bày hỏa ngục như một cái hố sâu mà Satan đã gây ra khi y bị rơi từ Thiên đàng xuống.

Còn các danh họa Kitô giáo, như Hieronymus Bosch (1450-1516), Peter Paul Rubens (1577-1640), Sandro Botticelli (1445-1510), hay Michelangelo (1475-1564), đều trình bày hỏa ngục như chặng đường cuối cùng của cuộc sống con người, chứ không còn là nơi thanh luyện hay cải hóa nữa.  Và có lẽ đó cũng là quan niệm chung của các nền văn hóa và các tôn giáo khác.

Điều đó cũng nói lên rằng các danh họa Kitô giáo trên đã luôn luôn trung thành với các giáo huấn truyền thống của Giáo Hội.  Bởi vì dựa theo lời Đức Giêsu trong Phúc Âm, nhiều thánh Giáo phụ từ thế kỷ I cho tới thế kỷ III, ví dụ như Clemens de Rom, Irenée de Lyon, đã khẳng định rằng người ta không được phép đùa giỡn với một cuộc sống bên kia biên giới sự chết được, vì đó là một sự thật minh nhiên.  Và sau cái chết chỉ còn lại hai nơi cư ngụ duy nhất cho con người: Hoặc Thiên đàng hoặc hỏa ngục, có lẽ tạm thời còn có một nơi tạm trú thứ ba, đó là Lửa Luyện Tội.  Ngoài những chỗ đó ra, tuyệt đối không còn bất cứ nơi chốn nào khác nữa.

Thế nhưng, bỗng nhiên Origênê (185-254), thuộc hàng Giáo phụ, lại giới thiệu một suy tư thần học mới: Thuyết “Apocatastase” – sự cứu vớt muôn loài muôn vật.  Origênê cho rằng sau cuộc sống đời này, tất cả mọi tạo vật đều được trở về cùng Thiên Chúa Tạo Hóa, còn hỏa ngục hoàn toàn trống rỗng.  Đó quả là một quan điểm có thể được coi là hấp dẫn, mang tính cách nhân bản và tiến bộ.  Vì thế, nhiều Giáo phụ thuộc thế kỷ IV và thế kỷ V, như Gregoire de Nyssan đã chấp nhận thuyết đó.

Nhưng thuyết Apocatastase của Origênê chỉ kéo dài đến năm 553 thì hoàn toàn chấm dứt.  Công đồng đại kết Constantinople II đã tuyên cáo: “Nếu ai nói hay nghĩ rằng hình phạt dành cho ma quỷ và những kẻ vô đạo chỉ có tính cách tạm thời và trong một lúc nào đó sẽ được chấm dứt hay sẽ có sự hồi phục lại cho ma quỷ và những kẻ vô đạo, thì bị dứt phép thông công.”

Lời khẳng định: Từ hỏa ngục không hề có con đường nào dẫn tới cùng Thiên Chúa, là một quan điểm trải qua bao thế kỷ đã được chứng thực bởi các thị kiến của nhiều vị thần bí, như Anna Catharina Emmerick, Anna Schäfer hay chân phước Padre Piô, v.v… và trên nguyên tắc, mãi cho tới nay Giáo Hội vẫn không chối bỏ.  Trái lại, trong cuốn Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (SGLHTCG), được phát hành năm 2005, còn được xác định: “Giáo Hội dạy rằng có hỏa ngục và án phạt đời đời.  Sau khi chết, linh hồn kẻ còn mang tội trọng sẽ xuống hỏa ngục chịu cực hình ‘lửa đời đời’” (SGLHTCG phần 1, đoạn 2, chương 3, mục 12, số 1035).  Chính Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI trong cuốn sách mới nhất của Người “Chúa Giêsu thành Na-da-rét” cũng đã xác nhận rằng có hỏa ngục, và là một nỡi vĩnh viễn dành cho những ai chối từ tình yêu Đức Kitô.

Án phạt đời đời

Tuy nhiên, ở đây người ta cũng có thể chân thành nêu lên câu hỏi: Ngày nay còn có bao nhiêu người và bao nhiêu cơ quan đoàn thể trong Giáo Hội thực sự coi trọng những phát biểu đó nữa?  Trong thời đại ngày nay, ai còn đầy xác tín nói về hoả ngục và về án phạt đời đời?  Và nếu trường hợp có người còn can đảm dám làm chuyện đó, thì anh ta sẽ quả quyết thế nào về hỏa ngục: là một nơi chốn, một tình trạng hay chỉ là một cảm giác?

Thế hệ của những nhà thần học cũng như những vị giáo phẩm trong Giáo Hội ngày nay, xem ra có một sự đồng thuận cho rằng, hỏa ngục không phải là một nơi chốn dành để trừng phạt những kẻ có tội với các đau khổ thể xác, nhưng là một điều có tính cách trừu tượng, hay nói đúng hơn, đó là sự “xa lìa Thiên Chúa”, như chính ĐTC Gioan Phaolô II khi sinh thời cũng đã từng phát biểu.  Nhưng nói chung, tất cả những nhà thần học này đều trung thành với giáo huấn của Giáo Hội về hỏa ngục.

Nhưng bên cạnh đó còn có những nhà thần học khác đã tìm cách dựa theo khoa chú giải Kinh Thánh có tính cách phê bình sử quan, để đưa ra một con đường trung dung khác, thay vì quan điểm “sự cứu rỗi cho muôn loài muôn vật” và “sự hiện hữu của hỏa ngục”.  Theo quan điểm thứ ba này thì hỏa ngục hiện hữu thực sự và như một “khả hữu thực tiễn” (Karl Rahner).  Nhưng điều đó không có nghĩa là sẽ có một linh hồn nào đó sẽ bị lạc đường sa vào chỗ ấy, bởi lẽ tình yêu và lòng từ bi của Thiên Chúa thì bao la vô tận.

Sự chia lìa vĩnh cửu với Thiên Chúa

Đặc biệt tại đa số các cộng đoàn Kitô giáo thuộc vùng lãnh thổ nói tiếng Đức, xem ra người ta có khuynh hướng chọn lối cắt nghĩa thứ hai.  Các giáo sĩ ngày nay ít đề cập đến hỏa ngục trong các bài giảng của mình, vì họ thường quan niệm rằng: trong vấn đến tín ngưỡng, nên tôn trọng sự tự do chọn lựa của con người, hay nói rõ hơn, nên để giáo dân tự do sống đạo theo sự ý thức của họ, chứ không nên giữ đạo vì do sợ hãi khỏi phải xuống hỏa ngục.  Phải chăng đây là một quan niệm hoàn toàn đúng đắn?

Một điều không thể phủ nhận được là quan niệm trên đã từ từ làm cho người ta quên đi sự nguy hiểm về cuộc sống xa lìa vĩnh cửu với Thiên Chúa, nguồn sống và nguồn mọi hạnh phúc của con người.  Đồng thời nó cũng dẫn tới một hậu quả khác nữa, đó là khuynh hướng tương đối hóa tội lỗi, nghĩa là chỉ có tội nhẹ, chứ không còn có tội trọng nữa; và điều đó cũng muốn nói rằng con người không còn nguy hiểm sợ mất sự sống vĩnh cửu nữa.

Hay sự im lặng không muốn đề cập tới hỏa ngục như thế còn có những lý do khác nữa?  Phải chăng sự im lặng đó còn nhắm tránh cho người tín hữu mặc cảm tội lỗi, bởi vì trong nhiều thế kỷ qua, các bài giảng về hỏa ngục đã làm cho các tín hữu đâm ra áy náy sợ hãi, vì lo mất linh hồn?  Hoặc: phải chăng vì do những lý do quyền lực, kinh tế hay chính trị, v.v… mà người ta đã từng làm cho cuộc sống tâm linh của các tín hữu trở thành lệ thuộc và mất tự do, khi trình bày cho họ hình ảnh về hỏa ngục?

Nếu sự thể thực sự là như vậy, thì cần thiết phải tìm cách giải quyết ngay cái mặc cảm phiền phức đó. Nhưng phải chăng để làm cho công cuộc Phúc Âm hóa của Giáo Hội, mà Đức Gioan Phaolô II cũng như Đức Bênêđíctô XVI đã khởi động và cổ vũ, trở nên khả tín và khả thi, nếu khi người ta trình bày công cuộc Cứu Rỗi của Đức Kitô và viễn tượng về Nước Trời, tuyệt đối không được đả động tới những thực tại ngược lại, hay nói rõ hơn, không được đề cập tới hỏa ngục?

Nếu sứ mệnh của Giáo Hội không chỉ dừng lại nơi những hoạt động thiêng liêng và từ thiện được dành cho mọi tầng lớp xã hội như các đoàn thể từ thiện khác vẫn làm, thì Giáo Hội cần phải tái khám phá ra sự hiện hữu của hỏa ngục như một biểu hiệu sự công bằng của Thiên Chúa, chứ không phải như một dụng cụ để hành hạ hay trả thù.  Vâng, mặc dù nói đến hỏa ngục là một điều ít ai muốn nghe, nhưng sự hiện diện của hỏa ngục cũng góp phần vào việc sống trọn tinh thần Phúc Âm.

 Lm Nguyễn Hữu Thy

 Langthangchieutim gởi

Gương chịu đựng bệnh ung thư với đức tin của cha Francisco Rencoret

Gương chịu đựng bệnh ung thư với đức tin của cha Francisco Rencoret

Ngày Chuá Nhật 14 tháng 8 vừa qua, hàng trăm người đã tham dự Thánh lễ an táng của cha Francisco Rencoret, một Linh mục trẻ người Chilê, qua đời ngày 13 tháng 8 (2016), sau hơn một năm chịu đựng và chiến đầu chống lại căn bệnh ung thư phổi cách kiên cường và với đức tin mạnh mẽ. Cha hưởng dương 35 tuổi.

franciscorencoret 

Trong Thánh lễ an táng, cha Andrés Ferrada, một vị huấn luyện đào tạo tại chủng viện Giáo hoàng Santiago đã chia sẻ: “Thiên Chúa trung thành với tình yêu không điều kiện của Ngài, bởi vì Ngài là Cha thương xót, bởi vì Thiên Chúa hiền dịu. Đây là những lời cuối cùng mà cha đã nói với ba của mình trước khi bước vào cánh tay của Thiên Chúa Cha: ‘Ba ơi đừng quên, Thiên Chúa dịu hiền’, và xác tín này xuất phát từ đức tin Cha đã nhận được từ trong gia đình, từ trong Giáo hội và nó nuôi dưỡng cha trong suốt cuộc sống của mình. Năm trước, Thiên Chúa đã cho cha thấy rằng các hoạt động cơ bản trong cuộc sống của cha và của sứ vụ Linh mục là ôm lấy Thánh giá. Vì vậy cha đã viết trong sổ tĩnh tâm thiêng liêng của cha: ‘Con chạy đến với Chuá, ôi Chúa Giêsu để ôm lấy Thánh giá’. Trong những tháng ngày này cha đã đón nhận Thánh giá với lòng can đảm, để Thiên Chúa là Thiên Chúa trong cuộc sống của cha, cảm nghiệm sâu sắc hơn sự tha thứ của Ngài và trao ban sự tha thứ cho tất cả.” Đó là những lời có thể nói là tóm tắt con đường thiếng liêng của Cha Rencoret, đặc biệt trong những ngày chịu đựng cơn bệnh ung thư.

 Cha Rencoret chịu chức năm 2013 và được gửi sang Roma để học Giáo luật tại Đại học Giáo hoàng Gregoriana. Nhưng thật không may, cha đã phải bỏ dở chương trình học, rời Roma để trở về quê nhà điều trị ung thư, sau khi khám phá ra mình mắc phải căn bệnh hiểm nghèo. Trong những tuần trước đây, mọi người hy vọng cha sẽ hồi phục gia khi các xét nghiêm cho thấy một sự tiến triển đáng kể trong việc ngăn ngừa các tế bào di căn ở phổi đã được phát hiện trước đó. Nhưng cũng thật không ngờ, hai khối u não bất ngờ đã tước đi mạng sống của cha.

 Vào giữa tháng 6, cha Rencoret bất ngờ nhân được điện thoại của Đức Thánh Cha Phanxicô. Đức Thánh Cha nghe biết về bệnh tình của cha Rencoret và đã gọi để biết về tình hình sưc khỏe của cha, cũng như cho cha biết là Đức Thánh Cha đang cầu nguyện cho cha. Cha Rencoret cho biết là Đức Thánh Cha đã nâng đỡ, khuyến khích cha rất nhiều cũng như trao mang lại cho cha tình yêu Giáo hội. Cha Rencoret đã thưa với Đức Thánh Cha: “Con đang dâng những đau khổ của con để cầu nguyện cho ơn gọi, những khó khăn và đau khổ của Đức Thánh Cha”. Cha Rencoret đã sống những giây phút cuối đời trong sự bình an, tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa.

 Cha Mauricio Valdivia, bạn học của cha Rencoret tại Đại chủng viện Giáo hoàng Santiago nói: “Tôi tin là cha Rencoret có thể hiều cách này hay cách khác, không phải là không khó khăn, Thiên Chúa ban cho cha món quà thời gian để cha chuẩn bị cho mình, và tôi tin là thời gian đã chín mùi để cha gặp Chúa. Cha đã cảm nghiệm sự tự phó mình đó khi cha nói cha muốn được cứu rỗi hơn là được chữa lành bệnh, và từ khía cạnh đó cha đã cảm nghiệm nó là một cơ hội đặc ân. Cha luôn rất bình an. Cha đã có thể chuẩn bị cho gia đình, trao cho họ sức mạnh và sự bình an. Tôi đã có cơ hội đi cùng cha đến bệnh viện, ở lại đó một đêm với cha và chúng tôi đã nói nhiều chuyện với nhau và xưng tội với nhau, trong món quà của tình bạn Linh mục, với sự thanh thản của con tim biết cách tìm kiếm ý muốn của Thiên Chúa”

 Cha Valdivia nhớ lại, trong ơn gọi Linh mục của mình, cha Rencoret có một sự cảm thông đặc biệt với những người thấp bé, khốn khổ, cần giúp đỡ nhất. Không có một người ăn xin nào trong giáo xứ lại không biết cha Pancho. Cha giúp đỡ cho các người vô gia cư sống trên đường phố. Tại nơi đầu tiên cha Rencoret được bổ nhiệm đến, có một người nằm liệt giường, cha đã thu góp quần áo và các vật dụng mang đến cho người này. Cha cũng giúp như thế cho nhiều người khác nữa… Cha ao ước mang sự an ủi đến cho những người đau khổ và mang cho họ lòng thương xót của Thiên Chúa. Cha Valdivia đánh giá cao tình bạn với cha Rencoret, cha nói: “Tình bạn với cha Rencoret là một phúc lành tôi nhận được và hôm nay tôi biết mình có một người anh em ở trên Nước Trời đang khẩn cầu cho tôi. Chúng ta cầu nguyện cho cha Rencoret nhưng cũng đặc biệt cầu nguyện cho cha mẹ và gia đình của cha vượt qua được nỗi đau thương mất mát người thân yêu và tìm được sự an ủi”.

 (RadioVaticana 01.09.2016)

Anh chị Thụ & Mai gởi

Nghĩ về sự chết

Nghĩ về sự chết

ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần

Tôi biết là có ngày tôi sẽ chết. Mặc dầu tôi không biết sẽ chết ngày giờ nào, nơi nào, cách nào.

Chắc chắn tôi phải chết. Đó là một chân lý hết sức rõ ràng và chắc chắn. Chân lý này, không ai đã dạy tôi. Nó nằm ngay trong con người của tôi.

Cái chết cũng là một biến cố đụng tới mọi người. Nó là một vấn đề chung. Vấn đề này được coi là hết sức quan trọng. Bởi vì nó đặt ra câu hỏi: Đâu là ý nghĩa cuộc sống? Cuộc đời đi về đâu?Bên kia sự chết có gì không?

Câu trả lời theo lý thuyết có thể tìm được trong nhiều sách, nhất là sách đạo. Nhưng câu trả lời theo cảm nghiệm sẽ thường chỉ hiện lên một cách sống động, khi ta ở bên cạnh những người sắp chết, hoặc chính ta đã có lần thập tử nhất sinh.

Những lúc đó, câu trả lời sẽ không phải là một kết luận lạnh lùng của triết học hay của giáo lý.Nhưng sẽ là cái gì linh thiêng thăm thẳm chứa trong những cảm tình, cảm xúc, cảm động, cảm thương, khi hiện tượng sự chết rập rình sát tới.

Những hiện tượng khác thường nơi người sắp chết rất đa dạng. Có thể là những lo âu sợ hãi, những khắc khoải đợi chờ, những nắm bắt bâng khuâng, những ngóng trông mệt mỏi, những cái nhìn xa xăm. Cũng có thể là những bất bình tức giận, những chán nản phiền muộn, những buông xuôi tiếc nuối, những phấn đấu tuyệt vọng. Cũng có thể lại là những ăn năn đầy bình an toả sáng, mang dấu ấn của một nghị lực thiêng liêng và một tin tưởng đến từ cõi đời đời.

Tất cả những hiện tượng như thế phản ánh những trực cảm nội tâm: Đã tới lúc vĩnh biệt. Đã tới lúc ra đi. Đã tới lúc phải bỏ lại tất cả. Đã tới lúc phải trực diện với lương tâm. Lương tâm hỏi về trách nhiệm: Trách nhiệm làm người nói chung và trách nhiệm làm con Chúa nói riêng.

Trước đây, có nhiều điều về trách nhiệm đã lẩn trốn lương tâm. Nhưng lúc con người sắp chết, những điều lẩn trốn đó sẽ trở về trình diện rất nghiêm túc.

Tôi có cảm tưởng là người sắp chết lúc đó sẽ nhận ra: Sự sống của mình là một quà tặng Chúa ban. Ơn gọi được làm con Chúa càng là một ân huệ quí báu Chúa trao cho nhưng không. Chúa ban sự sống và ơn làm con Chúa, để mình phát triển mình và những người xung quanh trong những chặng đường lịch sử nhất định. Sự phát triển sẽ tuỳ ở ơn Chúa, nhưng cũng tuỳ thuộc vào sự tự do và tinh thần trách nhiệm của mỗi người.

Thực tế cho thấy là đã có những phát triển đạo đức, và trái lại cũng có những phát triển tội lỗi.Với những phát triển tốt, người sắp chết cảm thấy được an ủi, coi như nhiệm vụ được trao đã phần nào hoàn thành.

Trái lại nếu thấy những phát triển của mình là xấu, nhiệm vụ được trao đã không hoàn thành, họ sẽ không thể không sợ hãi. Bởi lẽ hậu quả sẽ vô cùng quan trọng. Vì chết là bước sang cõi đời sau với hai ngả: thiên dàng và hoả ngục. Mà hai ngả này đều rất rõ ràng công minh.

Vì thế, nói cho đúng, vấn đề đặt ra cho ta về cái chết sẽ không phải là sợ chết, mà là sợ chết dữ, chết mà sau đó không được lên thiên đàng, nhưng phải xuống hoả ngục.

Những tư tưởng trên đây thường nhắc nhủ tôi về ba chọn lựa này:

  1. Hãy tiến về sự chết của mình như tiến tới một quãng phải vượt qua, để về với Cha trên trời.

Một khi nhìn sự chết của mình như thế, thì cuộc sống của mình cũng được hiểu theo hướng đó.

Để đi đúng hướng về Cha trên trời, tôi chỉ có một đường phải chọn, đó là Chúa Giêsu Kitô.Người là đường, là sự thực và là sự sống (Ga 14,6). Đón nhận Người, lắng nghe Người, đi theo Người, bắt chước Người. Người là gương mẫu cho ơn gọi làm người và ơn gọi làm con Thiên Chúa. Điều quan trọng tôi sẽ hết sức quan tâm trong việc theo Chúa Giêsu sống ơn gọi, là phải phấn đấu thanh luyện mình, phải biết khiêm tốn quên mình, dấn thân sống theo ý Chúa, để được trở thành tạo vật mới. Nếp sống kiêu căng cần phải bị loại tận gốc. Nếp sống cầu nguyện khiêm nhường cần được thường xuyên phát huy.

  1. Hãy tiến về sự chết của mình như người được sai đi truyền giáo, mong trở về với Đấng sai mình.

Sống như người truyền giáo và chết như người truyền giáo. Truyền giáo một cách cụ thể ở địa phương này, ở thời điểm này. Nghĩa là một địa phương và thời điểm có nhiều khác biệt. Vì thế, tôi phải tỉnh thức lắng nghe hướng dẫn của Thánh Thần Đức Kitô. Ngài đang dẫn người truyền giáo vào chiều sâu. Ngài đang giúp người truyền giáo mở rộng nhiều liên đới. Ngài đang tạo ra cho nhà truyền giáo nhiều dịp để loan báo Tin Mừng. Tôi có luôn khiêm tốn cầu nguyện hồi tâm, để trở thành dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Ngài không?

  1. Hãy tiến về sự chết của mình như người khắc khoải trở về với Đấng đã trao cho mình điều răn mới.

Điều răn mới này, tôi nhận được từ Lời Chúa: “Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34).

Để hiểu thấm thía hành trình tình yêu, tôi nên hằng ngày gẫm suy đoạn văn sau đây của thư thánh Gioan:

“Chúng ta biết rằng: chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được? Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa” (1Ga 3,14-19).

“Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4,19-21)

Khi tôi sống với những hướng kể trên, tôi sẽ coi sự chết như là một điểm chấm dứt nhiệm vụ.

Nhiệm vụ được chấm dứt. Nhưng nhiệm vụ có được hoàn thành hay không, đó là chuyện khác và đó mới là điều quan trọng. Chúa sẽ phán xét công minh điều đó. Ở đây, tôi có lý do để lo, bởi vì tôi biết tôi đã lỗi phạm nhiều.

Biết lo là điều tốt. Không phải lúc gần chết mới lo, mà phải lo ngay bây giờ. Biết lo ở đây là tìm cách sửa mình, đổi mới mình nên tốt hơn. Coi như bắt đầu lại.

Khởi sự từ quyết tâm tận dụng ngày giờ còn lại và những phương tiện trong tầm tay để chu toàn các nhiệm vụ được trao một cách tốt đẹp nhất. Nhất là tỉnh thức ưu tiên đón nhận Nước Trời vào bản thân mình bằng sám hối và tin mến khiêm cung.

Những nỗi lo như thế là chính đáng. Khi chúng ta làm hết sức mình, thì những nỗi lo đó sẽ đem lại những tiến triển và hân hoan. Với hân hoan và tin tưởng nơi Chúa giàu tình yêu thương xót, chúng ta bình tĩnh đi về sự chết. Sự chết lúc đó chỉ là bước sang sự sống mới vô cùng tốt đẹp hơn trước. Và như thế, sau cùng, chỉ có thần chết là phải chết thôi.

ANH EM LÀM CHỨNG CHO THẦY,

ANH EM LÀM CHỨNG CHO THẦY,

LM Antôn Nguyễn Cao Siêu,SJ

Trong số 117 vị Tử Đạo Việt Nam, được phong thánh năm 1988, có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con.  Đó là bà Anê Lê Thị Thành, còn gọi là bà Đê.

Trước khi là một anh hùng tử đạo, bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu. “Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con. Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý, sau lại dạy cách dự thánh lễ và xưng tội rước lễ.”  Đó là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền.

Nhà bà Đê là nơi các linh mục trú ẩn.  Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861, quan Tổng Đốc Nam Định cho quân bao vây làng của bà.  Bà Đê bị bắt lúc đã 60 tuổi.  Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo, bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người.  Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam, đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu, bà đã an ủi con với một niềm lạc quan lạ lùng: “Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?”  Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình, người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.

Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta.  Thiên Chúa đã làm điều phi thường nơi một người phụ nữ già nua, yếu đuối.  Quan “Hùm Xám” tỉnh Nam Định cũng phải bó tay trước sự yếu đuối kiên vững của bà.
Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ, bà thánh Đê đã phó mặc cho Chúa đời mình.  Bà chẳng lo phải nói gì, phải làm gì trước tòa án, vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.

Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống, nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn định.
Mỗi ngày, chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Đức Giêsu, y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.

Có khi chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn mình, đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.

Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin.  Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo gây ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.

Ước gì chúng ta không để mất đức tin được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho hơn 70 triệu đồng bào trên quê hương.
Lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.  Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.  Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn.  Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục vụ.  Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam.  Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.

LM Antôn Nguyễn Cao Siêu,SJ