Tin Fatima: ”Chị Lucia” sắp được phong Chân Phước?

Tin Fatima: ”Chị Lucia” sắp được phong Chân Phước?

CHI LUCIA

Năm kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima sắp tới, liệu nhân vật lừng danh nhất và sống lâu nhất trong “3 đứa trẻ,” là Sơ Lucia dos Santos, còn được gọi một cách thân ái là “Chị Lucia”, sẽ có thểđược phong Chân Phước chăng?

Đó rõ ràng là mục đích cuả các giới chức Công Giáo Bồ Đào Nha, Giáo Hội Bồ Đào Nha vừa công bố vào hôm thứ 2 rằng hàng ngàn văn bản đã được thu thập để làm chứng cho sự thánh thiện của SơLucia.

Các tài liệu bao gồm hơn 15.000 bức thư, lời khai, và các tài liệu khác, sẽ được dùng để cổ động cho việc phong chân phước. Đức Giám Mục Virgilio Antunes cuả giaó phận Coimbra ghi nhận rằng, đểkiếm chứng số tài liệu này, họ đã phải mất hơn tám năm , vì chúng bao gồm nhiều thư từ cá nhân và chứng từ cuả hơn 60 người.

Hồ sơ đã được trình bày trong một buổi lễ tại tu viện cuả Sơ Lucia ởCoimbra và sẽ được gửi đến Toà Thánh để xin chấp thuận cho việc tiến hành bước tiếp theo của tiến trình phong thánh. Vụ việc này sẽđược Đức Thánh Cha Phanxicô xem xét.

Nhắc lại vào ngày 13 tháng 5 năm 1917, 2 anh em là Francisco và Jacinta Marto – 9 và 7 tuối – và người chị họ của mình là Lucia dos Santos, 10 tuổi, đã thả đàn cừu gặm cỏ ở gần làng Fatima cuả BồĐào Nha thì họ nhìn thấy cảnh tượng một người phụ nữ ăn mặc áo trắng tinh và cầm một chuỗi tràng hạt.

Sau cuộc xuất hiện đầu tiên đó, Đức Trinh Nữ Maria còn hiện ra với các trẻ vào những ngày 13 mỗi tháng từ tháng 5 cho đến tháng 10. Thông điệp cuả Đức Mẹ được tóm tắt là những lời kêu gọi hãy ăn năn, đền tạ và cầu nguyện.

Năm 1930, Giáo Hội Công Giáo tuyên bố sự siêu nhiên của các cuộc hiện ra và một ngôi đền thờ đã được dựng lên tại Fatima. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã đến viếng thăm ngày 13-5-1967, và sau đó làcác Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Benedictô XVI.

Thánh Gioan Phaolô II đã có một lòng sùng kính đặc biệt mạnh mẽvới Đức Mẹ Fatima. Sau vụ ám sát năm 1981, Ngài tuyên bố sự sống của mình đã được cứu thoát nhờ sự can thiệp kỳ diệu của Đức Mẹ. Như là một dấu hiệu của lòng biết ơn, Ngài đã đặt viên đạn cuả vụ ám sát vào vương miện của Đức Mẹ. Trong dịp đó Ngài nói:

“Xin hãy cầu nguyện cho người anh em đã bắn tôi, người mà tôi đã chân thành tha thứ. Hiệp thông với Chúa Kitô, là một linh mục và cũng là nạn nhân, tôi xin dâng những đau khổ của tôi cho Giáo Hội và thế giới.”

Đức Thánh Cha Phanxicô đã có kế hoạch đến thăm Fatima trong tháng 5 để kỷ niệm 100 năm ngày Đức Mẹ hiện ra.

Hai người em họ cuả Sơ Lucia, Francisco và Jacinta Marto, đã qua đời khi còn trẻ vì chứng viêm phổi và được phong chân phước vào năm 2000.

Sơ Lucia qua đời năm 2005 lúc được 97 tuổi tại tu viện kín ở Coimbra.

ĐỪNG ĐỔ THỪA CHO CHÚA

ĐỪNG ĐỔ THỪA CHO CHÚA

Tôi có thói quen hay cắt nghĩa tất cả mọi sự đều do Chúa định.  Thói quen đó được tôi dùng như một giải pháp đạo đức dễ dàng để trấn an lương tâm.

Đối với những điều lành xảy ra, thì lối cắt nghĩa đó không gây thắc mắc.  Nhưng đối với những điều dữ, thì nhiều khi tôi nghĩ rằng lối giải thích đó hơi mơ hồ.

Chẳng hạn tôi bị ghẻ, tôi cho là do Chúa định.  Nhưng thực ra cũng có thể là do tôi không giữ vệ sinh.

Tôi nghèo, tôi cũng bảo là do Chúa muốn.  Nhưng thực ra cũng có thể là do tôi không biết làm ăn.

Tôi thấy chiến tranh tàn phá làng tôi, cướp mất gia đình tôi.  Tôi cho là do Chúa định.  Nhưng thực ra cũng có thể là do tội những người lãnh đạo chiến tranh.

Tôi thất bại trong chuyện đời, đạo.  Tôi cho là tại Chúa xếp đặt như thế. Nhưng thực ra cũng có thể là vì tôi đã thiếu tài thiếu đức.

Tôi thấy Xứ Đạo tôi, Địa Phận tôi, Giáo Hội tôi có những khuyết điểm lớn nhỏ.  Tôi cho là Chúa an bài như vậy.  Nhưng thực ra cũng có thể là tại lỗi lầm của tôi, của các bề trên tôi, của anh chị em đồng đạo và của cả cộng đoàn Kitô hữu.

Tôi không nên đổ thừa cho Chúa các tội lỗi và hậu quả tội lỗi của chính tôi và của người ta.

Tôi không nên gán cho Chúa những sự không thể hợp với sự thánh thiện, khôn ngoan và tình thương vô cùng của Chúa.

Tôi không nên lôi Chúa ra để bắt Chúa lãnh chịu những cái dở do tôi và người khác đã dại dột gây ra.

Tôi phải nhận rằng: trên đời này chỉ có Đức Giáo Hoàng là không sai, và Ngài chỉ được ơn không sai lầm trong một số trường hợp rất hiếm hoi, đó là khi Ngài phán quyết điều gì về đức tin và phong hóa nhân danh đại diện Chúa Kitô.

Chỉ có thế thôi.  Còn ngoài ra, mọi người đều có thể sai lầm trong bất cứ phương diện nào.  Lỗi lầm là điều thường tình theo sát thân phận con người.  Ai dám nói rằng: Cả đến Tòa Thánh cũng có thể tránh được hoàn toàn mọi lầm lỡ thiếu sót.

Nhìn nhận những sự thật đó mới là lương thiện.  Đừng đổ thừa cho Chúa những điều mà chẳng ai muốn nhận là của mình.  Oan cho Chúa quá!

Đã hẳn, Chúa quan phòng mọi sự.  Nhưng sự quan phòng của Chúa được thực hiện với sự cộng tác tự do của con người.  Chúa có chương trình của Chúa.  Nhưng Chúa không ngăn trở người ta làm sai chương trình của Chúa.  Chúa không cưỡng bách ai, kẻo họ mất hết tự do, hết trách nhiệm và hết điều kiện để thưởng phạt.

Vì thế, bao nhiêu sự không hay đã xảy ra rõ ràng không phải do Chúa.  Chỉ tại người ta đã thiếu cộng tác vào ý muốn của Chúa.

Nếu chân thành nhìn nhận như thế, rồi cố gắng sửa sai bằng cách rút ra từ những lỗi lầm đó các bài học hữu ích, đồng thời nỗ lực cộng tác với ơn Chúa mà vươn lên, thì đó mới là điều người ta quen nói: “Mọi sự đều có thể trở nên tốt cho những người có lòng mến Chúa.”

Nhưng để biết lợi dụng thất bại, thì cũng cần và càng cần cộng tác sự tự do của con người vào ơn Chúa.  Nếu không, thì thất bại vẫn chỉ là thất bại, hay có thể trở thành thất bại nặng nề hơn.  Nguyên nhân cũng lại do tại con người đã không cộng tác vào chương trình của Chúa.

Lạy Chúa, con nhìn nhận rằng: Tất cả mọi sự xấu xảy ra ở trần gian này đều phát xuất do tội lỗi con người đã thiếu cộng tác với ơn Thánh Chúa.  Lỗi của tổ tông, lỗi của riêng con, lỗi của người khác.  Con dốc lòng từ nay sẽ cố gắng cộng tác với ơn Thánh Chúa, để mọi chương trình Chúa muốn về con được hoàn toàn thực hiện.  Amen!

GM Bùi Tuần

Mạng Lưới Dũng Lạc

Langthangchieutim goi

Có hoa nào qua mùa không héo?

Suy Tư Tin Mừng Trong tuần thứ 8 thường niên năm A 26/02/2017

Tin Mừng: (Mt 6: 24-34)

Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được. Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.

“Có hoa nào qua mùa không héo?”

“Có tiếng nào, giàu đẹp hơn không?”

(dẫn từ thơ Lưu Trọng Lư)

Mai Tá lược dịch

Hoa nào lại không héo, vào mùa Đông? Tiếng nào giàu/đẹp hơn Lời Vàng được thánh Mátthêu Tin Mừng những ghi chép? Lời Vàng thánh Mátthêu Tin Mừng ghi, là hoa tươi, là tiếng nói giàu/đẹp thánh nhân đưa vào trình thuật truyện kể và bài giảng lấy hứng từ Tin Mừng thánh Mác-cô. Và, đó cũng là điều mà hầu hết các nhà chú giải đều đồng ý. Tuy nhiên, vẫn có những đoạn trình thuật mang tính chất rất riêng tư như thánh Mátthêu đề cập đến ở Lời Chúa, rất hôm nay.

Điển hình hơn cả, là: đoạn trích được thánh sử rút từ sách Ysaya, nhằm

phản ánh truyền thống sống động về sinh hoạt của Đức Giêsu và về Lời dạy rất thánh, của Ngài. Các đoạn trích tập trung nơi Tin mừng thời tiên khởi. Thời này, đã tràn lan xuất hiện các chỉ thảo có từ Sách Tanak như: thánh vịnh, Đệ Nhị Luật và Sách ngôn sứ Ysaya. Xem thế, ta có thể kết luận là: cộng đoàn Mát-thêu ngay từ đầu, đã thủ đắc các phó bản của sách Ysaya này.

Tuy là thế, Mátthêu đây vẫn dùng đến sách của các ngôn sứ khác, nhưng chỉ để hỗ trợ cho việc trưng dẫn sách Ysaya, trong chủ đích này. Tin Mừng thánh nhân ghi, tuy không trích dẫn từng lời nói của vị ngôn sứ, nhưng thánh nhân cũng sử dụng nhu liệu làm nền từ vị ngôn sứ này. Vì thế, có thể nói: thánh Mát-thêu nhận ra Đức Giêsu là Đấng đã thực thi những gì được ngôn sứ nói, từ thời Cựu Uớc.

Điều mà thánh nhân nhấn mạnh, là: bảo vệ niềm tin của cộng đoàn mình đặt nơi Chúa. Và từ đó, xác tín rằng chính Đức Giêsu là Đấng Mêsia, như chủ thuyết Giuđa minh định. Ngang qua sách Ysaya, thánh sử có nói về 3 chủ đề chính ngõ hầu hỗ trợ cho lập trường được nhắm đến, là: Tạo Dựng Mới. Tin Mừng Cứu Độ ở nơi Chúa. Và, Trở về từ đất miền lưu đày, ngang qua sa mạc.

Ngoài ra, Mátthêu Tin Mừng còn chứng minh điều mà Đức Giêsu nói: Ngài là Đấng Tạo Thành Mới. Tin Mừng là Tin Vui Cứu Độ gửi đến mọi người. Nếu ai cũng biết đặt mình vào Tạo Dựng Mới, sẽ chẳng còn ai phải lưu đày ở chốn khách này, nữa. Thế nên, thánh nhân coi Tin Mừng do mình viết, là một Khởi Nguyên mới. Là, công việc mới mẻ để mọi người hiểu rằng: Chúa đã và đang thực hiện vai trò Luật gia Torah rất đích thực. Và, những gì khi xưa sách Ysaya xưa đã đề cập, nay thành hiện thực nơi Ngài. Và, sự thực ấy, nay trải dài ở Tin Mừng của thánh nhân, ít là ở 10 bản văn.

Bản văn đầu, về Gia Phả, Mátthêu muốn minh định: lời ngôn sứ loan: “Nhà Đavít có Vị nối dõi tông đường nay đã thể hiện nơi Đức Kitô”. Loan báo, là loan và báo khác hẳn gia phả giòng tộc vua quan khác ở Đamát, Samari và Assyri (Is 7: 10, 9: 11). Vì thế, thánh nhân kể rõ từng chi tiết trong gia phả của Chúa. Và, việc Đức Mẹ đưa Hài Nhi Giêsu qua Ai Cập là để xác chứng rằng lời Chúa hứa giúp dân Do thái thoát khỏi ách nô lệ để trở về, nay đã thành chuyện có thực.

Bản văn thứ hai chứng minh thêm một điều, là: ngôn sứ Ysaya hứa giải cứu dân Do thái thoát ách nô lệ ngoại bang để trở về, nay hiện thực hiện ngay nơi hoang vắng có Chúa nguyện cầu. Đây, còn là chốn miền để Chúa gặp gỡ Cha Ngài. Ở Tin Mừng, Mátthêu nói nhiều về chốn hoang sơ/sa mạc ở Giuđêa, nơi đó thánh Gioan Tiền Hô từng rao báo những điều đã ghi ở sách Ysaya ở chương 40.

Với Ysaya, dân Do thái trở về, là về từ nơi chốn lưu lạc bên Ai cập, ngang qua chốn hoang vu sa mạc. Và trở về mà hoàn tất ơn cứu độ nhờ Đức Chúa dẫn dắt như vị Chủ chăn. Tổ phụ Môsê, vị chủ chăn từng giúp dân Do thái vượt biên/vượt biển thành công được, cũng nhờ có sự trợ giúp của Thần Khí Chúa. Với Tin Mừng, Mátthêu Tin Mừng kể về việc Chúa chấp nhận dìm mình dưới nước sông Giođan, để rồi dẫn dắt dân con Ngài vào chốn hoang vu, nhờ đó Thần Khí Chúa biến Ngài thành Con Thiên Chúa Hằng Sống. Ở Tin Mừng, Đức Giêsu là Môsê Mới cũng sử dụng lời lẽ từ sách Đệ Nhị Luật để đuổi xua tên cám dỗ sừng sỏ dám thách đố Ngài. Và, Ngài nói đến “chốn núi cao”, như Cựu Ước từng nói.

Bản văn thứ ba, đem đến cho người đọc nguồn ánh sáng chiếu rọi trên dân con Chúa. Họ đón nhận ánh sáng ấy nếu biết ứng dụng Luật Torah theo tinh thần Chúa sáng soi (Is 9: 4). Động lực ‘ánh sáng’ đưa mọi người đến ý nghĩ về “cặp mắt xấu” (tức lòng tham vô đáy) và năng lượng tạo lửa ngọn hực cháy. Tạo nên đá tảng cho an bình nội tâm, càng thêm vững.

Bản văn thứ tư gợi ý nói về Người Tớ Khổ Đau. Tức, tập trung vào nỗi khốn khổ, đớn đau của con người. Từ đó, thánh nhân diễn rộng thành truyền thống coi Chúa là Vị Thày Chữa Lành mọi sự. Các chương 8 và 9 gồm 10 trình thuật nói về việc Chúa chữa lành. Tất cả chia thành hai nhóm, mỗi nhóm gồm 5 trình thuật truyện kể. Mỗi nhóm, nói đến người bị ruồng bỏ như trẻ nhỏ, kẻ goá bụa và những người được chữa đến hai lần. Tất cả, nói lên lý lịch của Chúa là Đấng Mêsia, rất đích thực. Rõ nhất, là vai trò Chủ Chăn của Chúa (như vua Đavít), rút từ sách Isaya chương 53. Và từ đó, Chúa nói đến chiên lạc nhà Israel. Rồi, Ngài diễn rộng bằng bài thuyết giảng về sứ vụ rao báo, ngõ hầu giúp tông đồ Ngài trở nên sứ giả chuyên phổ biến Tin Vui An Bình, ngang qua trình thuật kể về nỗi khổ đau của Tôi Tớ Đau Khổ.

Bản thứ năm trích nhiều từ đoạn 42, qua đó người đọc thấy được lý lịch của Chúa như Con Người. Và, như Người Con của Giavê Thiên Chúa, Đấng sẽ đến lại vào ngày Quang Lâm. Đức Chúa của ngày Sabát, là Con vua Đavít, vẫn cao sang hơn đền thánh. Hơn Yôna, Salômôn khôn ngoan/quyền quý mà mọi người quý trọng. Với Mátthêu, cung cách của Người Tớ Khổ Đau nói ở Cựu Ước được đánh giá cao qua công việc Ngài làm. Việc này, còn được diễn bày rất nhiều, về sau. Nhưng trước mắt, thành công đạt được là nhờ Thần Khí Chúa dẫn dắt. Và Mátthêu định danh Thần Khí Chúa như Nguồn Mạch chữa lành và trừ tà.

Bản văn thứ sáu, là trình thuật về lời mời gọi Ysaya trở thành ngôn sứ. Lời mời, ăn khớp với việc Chúa quan phòng dẫn dắt dân con Ngài ngang qua lưu đầy, khốn khổ. Thời đó, các nhiệm tích được chuyển tải theo cung cách kín ẩn cho đến khi dân con kết cuộc mọi lưu lạc, trở về thành “hạt giống thánh”. Hạt giống đâm chồi nảy lộc ngay trên đất của mình. “Hạt Giống Thánh Thiêng” đây, là Đấng Mêsia thuộc giòng họ rất Đavít.

Bản văn thứ bảy, rút từ chương 29 được thánh Mát-thêu coi như cảnh tình của dân con mọi người có nghe biết, mà chưa hiểu. Và, thánh nhân diễn rộng điểm này ở chương 6. Ở Isaya 29, toàn bộ thị kiến của ngôn sứ là sách quí dành cho cả người không biết đọc, lẫn người học rộng. Bởi, Chúa giấu kín mọi nhiệm tích khỏi người khôn ngoan. Ngài khiến kẻ điếc được nghe, kẻ mù được thấy, để họ hiểu rõ những gì mình nghe và biết, điều quan trọng hơn là lập đi lập lại giới luật do Pharisêu và Xađốc quảng bá. Chính vì thế, Mátthêu đưa ra các khích bác về Lời của Chúa, cho người thời đại, cả đến hôm nay.

Truyền thống Giáo Hội liên kết các khích bác ấy với trình thuật Chúa làm dấu lạ qua nhân rộng 5 chiếc bánh và hai con cá, cho cả ngàn người no đầy. Đây là chi tiết rất ăn khớp với truyện kể ở Isaya 29, câu 8 khi tác giả sách ngôn sứ kể về người đói bụng chìm trong giấc mơ tuy ăn nhiều nhưng không mãn nguyện. Và, qua trình thuật phép lạ về bánh và cá, Mátthêu Tin Mừng muốn đề cập đến việc Chúa chữa lành cho cả người điếc lẫn người mù, khiến họ thoả mãn, thích thú.

Bản văn thứ 8 là chương 68-69, tóm lược từ đoạn Zakaria 9, được thánh Mát-thêu sử dụng cốt ý nói đến việc Chúa về với Giêrusalem. Chủ đề này, là để đền bù đáp ứng lòng thù hận; lấy xót thương, tử tế, sẻ san nỗi thống khổ mà đoàn dân quay trở về từ đất miền lưu lạc, nay cảm nghiệm. Đavít xưa tuy toàn thắng nhưng vẫn khiêm hạ. Ông quyết ngồi trên lưng lừa, chứ không dùng ngựa, bởi ngựa bị cấm không được trở về với Giêrusalem. Nhất nhất mọi điều nói lên lòng xót thương/khiêm hạ của Đấng chủ chăn cộng đoàn.

Bản văn thứ 9 là từ Ysaya 56 đặt nặng nhu cầu bảo vệ công lý/chính trực cho kẻ thấp cổ bé họng, những người bị bỏ rơi, cô quạnh. Ngài có nói: đền thờ là nơi nguyện cầu, dành cho hết mọi người. Đối nghịch tính đồi bại, nguy hại của thể chế rất thành văn, của tôn giáo. Điều này đuợc nhắc đến ở Gêrêmia 7, là sách nói đến sào huyệt của dân cướp cạn. Bởi, ở nơi đó, họ thực hiện những bất công, cùng tệ nạn sùng bái ngẫu thần và cả chuyện hy sinh giết trẻ nhỏ để tế lễ. Các sự kiện cuối đời hoạt động của Chúa, soi rọi quanh chủ đề cánh chung, ngày Chúa đến lại, trong vinh quang mai ngày.

Và, bản văn 10 từ Isaya 53: 4-6, cho chí Is 52: 13 và 53: 12, được thánh Mát-thêu sử dụng để tóm kết đoạn sách Gerêmia 13: 7. Mátthêu dùng chương này, cốt để nói lên cố gắng của Chúa Chiên Lành là Đức Giêsu trước âm mưu ám hại Ngài. Chúa vẫn âm thầm, câm nín như chiên con đi vào lò sát sinh. Chủ đề, thấy rõ ở sách ngôn sứ Gêrêmia, qua đó vị chủ chăn bị đánh, chiên con chạy tán loạn. Ở Tin Mừng, Mátthêu thánh nhân thêm vào đoạn nói ở sách Ysaya, qua đó cho biết Đức Giêsu sẽ trỗi dậy từ cõi chết. Và, Ngài về lại Galilê là để gặp gỡ hết mọi người, cả tông đồ cũng như dân con, hằng mong đời.

Nói cho cùng, hai sách Đệ Nhị Luật và Ysaya gộp lại thành tấn thảm kịch diễn lại sự giải thoát dân Israel, qua Cyrus và dân con người Ba Tư. Nhưng Mátthêu dùng sách, để trình bày về Đức Giêsu là Đavít Mới. Là, Đức Vua. Là, Thi nhân Đavít Mới quyết đem mọi điều tích cực đến với mọi người. Chứ Ngài không chỉ dành ân huệ cao quí ấy cho mỗi dân Do thái. Đavít không chỉ là vua quan/lãnh chúa, mà còn là “nhà thơ” từng chứng kiến mọi đổi thay nơi dân mình, qua các thánh vịnh do ông sáng tác. Ở đó, có sự nối kết giữa Đavít toàn thắng về binh bị với Đavít chuyên gia âm nhạc và thơ. Tất cả, đều là ý của vị ngôn sứ.

Đức Giêsu, đích thực là hậu duệ của “thi sĩ” Đavít. Ở nơi hoang vu, Ngài học hát những bài ca của Môsê. Là Môsê Mới, Ngài chữa lành hết mọi người bằng thi ca/âm nhạc, biến Giêrusalem là chốn Ngài lấy lại, thành Vương Quốc Nước Trời. Nước Trời, không theo nghĩa của trần gian mà là sự công chính. Vương quốc của Ngài biến thành bài ca/giọng hát, cho muôn người. Trên thập tự, “vương quốc” bình thường đã qua đi. Nhưng, nhờ sống lại, “Nước Trời” ấy trổi lên thành thi ca/âm nhạc vượt quá văn xuôi, rất tầm thường. Từ đó, thánh Mát-thêu đã lấy lại chất thơ rất Ysaya. Bởi, Đức Giêsu đã cấu trúc Giuđêa lại, qua cung cách rất thơ của ngôn sứ Ysaya.

Xem thế thì, Đức Giêsu là hậu duệ của nền thơ Đavít. Thứ thi ca đã kinh qua hoang vắng, và qua cả cốt cách Môsê, rất đổi mới. Ngài là Đấng chiếu sáng muôn dân bằng thơ. Chữa lành mọi người bằng nhạc, chứ không thuần mỗi chính trị, hoặc, binh bị cho mọi người, cả những người đang có, lẫn các kẻ còn thiếu thốn. Nơi Ngài, Nhà Thơ Tối Cao, Thiên Chúa đã đến để lấy lại Giêrusalem vì mục đích cao cả hơn chính trị.

Công lý, hoà bình và ơn cứu độ sẽ theo đó mà về với mọi người, chứ không chỉ với một dân tộc. Dù dân tộc ấy đã được chọn. Trên thập tự, vương quốc của Ngài đã qua đi. Nhưng qua sự sống lại, hồn thơ đã trỗi dậy. Hồn thơ ấy, là sự giải thoát. Là Đức Giêsu, Đấng chữa lành/giải thoát hết mọi dân tộc, mọi người. Ở đây đó.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn – 

Mai Tá lược dịch

“Một đời tôi vẫn nhớ đến em

Video  Quang Dũng – Một Đời Vẫn Nhớ

httpv://www.youtube.com/watch?v=wd3de6LxF1k

Chuyện Phiệm Đọc Trong Tuần thứ 8 mùa Thường niên năm A 26/02/2017

“Một đời tôi vẫn nhớ đến em

trong những tháng năm dài,
Ôm mối tình sầu với em tôi biết sẽ tàn phai.
Một hồn tôi ray rứt bước chân đi trên cát buồn.
Biển vắng đêm nay xót xa một mối tình không may.”

(Diệu Hương – Một Đời Vẫn Nhớ)

(Giacôbê 1: 2-3)

Trần Ngọc Mười Hai

Nhớ thế sao? Thế bạn và tôi, ta có nhớ “người em bé bỏng” ở đâu đó, trong các “viện” như được kể thế này không? Truyện kể, là kể về các người “Em” ấy như thế này đây:

“Theo thống kê của Cơ quan an sinh xã hội bang California, Mỹ thì: trong tổng số 400 nghìn người Việt hiện đang sống ở miền Nam California, có khoảng 15 nghìn người trên 65 tuổi. 1/3 số người ấy đang sống chung với con cháu. Số còn lại, đang ở trong viện dưỡng lão (nursing home). Vẫn theo thống kê này, những người Việt già trên đất Mỹ rất sợ bị đưa vào nursing home! Dưới đây là vài dữ-kiện:


Xế chiều 29 tháng Chạp vừa qua, tôi lái xe đến Viện Dưỡng Lão ở thành phố Westminster, Orange County. Đây là cơ sở được xem như khá nhất trong số các viện dưỡng lão tại miền Nam Cali. Vì là ngày giáp tết nên quang cảnh ở đây khá lặng lẽ. Các lối đi trong khu vực dành cho người Việt, trên những băng ghế đặt rải rác dưới những tàn cây, không thấy cụ nào tản bộ hay ngồi nghỉ chân, trò chuyện với nhau. Bãi đậu xe cũng chỉ lác đác vài chiếc của nhân viên trực. Nhìn khu dành cho người Mỹ, người Hàn Quốc và khu dành cho người Mexico thì đông người hơn, có lẽ các vị này không biết hôm nay là đêm giao thừa của người Việt.

 Bước vào bên trong, tất cả đều vắng vẻ. Nhìn một lát, tôi mới thấy y tá đẩy một chiếc xe lăn, trên đó có một cụ ngồi ngoẹo đầu, mắt nhắm nghiền, nước dãi chảy dài xuống khóe miệng. Trước cửa phòng số 6, một cụ bà khác ngồi im lìm trên ghế nhựa, nét thẫn thờ. Tôi hỏi: “Có con cháu nào vào thăm Bà chưa?”. Nhìn tôi một lát, bà lắc đầu kèm theo tiếng thở dài nghe mệt mỏi.

 Tên bà là Trần Thị Nghị, 74 tuổi. Bà sang đây theo diện bảo lãnh của con trai. Bà kể: “Lúc đầu, mọi sự đều tốt đẹp. Nhưng chỉ được vài năm, con dâu nói: thấy tôi ở dơ vì khi cháu nội của tôi sổ mũi, tôi bèn lấy tay bóp vào mũi nó, vắt nước cho sạch. Bực mình quá, tôi bèn nói: hồi nhỏ, tao cũng hay vắt nước mũi cho chồng mày vậy, có sao đâu! Thế là nó cấm tôi không được đụng đến con nó nữa. 3 tháng sau, chồng nó nghe lời ton hót của nó, bèn đẩy tôi vào đây”.

 Một phòng khác, cụ ông Nguyễn Văn Đức, 71 tuổi, nằm co quắp trên giường. Hỏi ra mới biết cụ bị bệnh suyễn. Đưa tay chỉ vào hộp bánh, 2 hộp mứt, 2 hộp kẹo nằm chỏng chơ trên bàn, cụ phều phào bảo: “Cái này con tôi nó cho, cái kia là của hội, còn hộp đó là quà của nhà chùa”.

 Theo tập tục người Việt mình, thì cứ gia đình nào gồm 2, 3 thế hệ ông bà, cha mẹ, con cháu cùng ở chung với nhau đều được xem là gia đình hạnh phúc, ăn ở có đức, có hiếu. Nhưng, đối với  người Mỹ và người phương Tây có bản tính thực tế, thì họ lại không nghĩ vậy; bởi lẽ, ngay từ hồi còn trẻ, họ đã học được tính tự lập – và điều này đã tác động rất mạnh lên thế hệ thứ 2 người Việt. Thứ 3 nữa, là: người sang Mỹ từ khi còn bé, hoặc sinh ra trên đất Mỹ, tất cả hầu như ít nói tiếng Việt mà chỉ sử-dụng tiếng Anh, tiếng Mỹ, cả khi về nhà.

 Phần lớn họ chịu ảnh hưởng nặng từ lối sống của Mỹ: 18 tuổi ra ở riêng; cha mẹ già thì đưa vào viện dưỡng lão. Mọi thành công về mặt tiền bạc, học vấn, vv. đã khiến họ chẳng quan tâm nhiều đến quá khứ của bậc cha ông. Nếu như còn ở Việt Nam, hầu như con cái đều ngồi im nghe cha mẹ chỉ giáo, dù miễn cưỡng; còn thì ở Mỹ, phần lớn người Việt thuộc thế hệ thứ 2, thứ 3 lại chọn lối bỏ ra ngoài sống, không quan tâm gì đến cha mẹ, và điều đó dẫn đến xung đột thế-hệ… Xung đột có khi chỉ bắt nguồn từ nguyên nhân nhỏ nhưng không được giải quyết cho thấu đáo, thường dẫn đến mâu thuẫn ngày một trầm trọng.

 Bà Lý Thị Vân, 69 tuổi nằm phòng số 3 có nói: “Có nhiều điều ở Việt Nam ta coi như bình thường thì qua đây lại trở thành bất thường. Về bữa ăn chẳng hạn, nếu tôi dùng muỗng riêng của mình để múc canh trong tô chung thì anh rể nhà tôi sẽ trợn mắt nhìn tôi, rồi từ lúc đó đến cuối bữa ăn, nó không hề đụng vào tô canh ấy nữa!”

 Vì vậy, đối với người Việt cao tuổi sống ở Nam Cali, thì ba chữ “viện dưỡng lão” từ lâu vẫn là cơn ác mộng. Nó đánh thốc vào tâm can, tạo cơn kinh hoàng đến độ có cụ quỳ sụp xuống ngay trước cổng vào viện dưỡng lão, chắp tay vái con ruột mình: “Ba lạy con, con cho ba về nhà, ba trải ghế bố nằm trong gara cũng được chứ đừng bắt ba vô đây”. Ông Trần Ngọc Lâm chẳng hạn, khi tôi hỏi vợ con ông ra sao, có thường xuyên đến thăm ông không, thì ông bực bội nói: “Làm ơn đừng nhắc đến vợ con tôi nữa. Vợ, con gì mà để tôi sống như thế này đấy!”

 Ông Lê Cẩm, phòng số 9 kể: “Năm tôi 68 tuổi, việc đi đứng bắt đầu yếu, mắt bắt đầu mờ, tay thì run nên con trai tôi nó bảo: mai con đưa ba vô “nursing home”. Tưởng nó giỡn chơi, ai dè sáng hôm sau nó đưa tôi vô đây thiệt. Tôi có bảo nó là sao con nỡ lòng nào làm vậy đối với ba?, thì nó nói tỉnh bơ: Ba già rồi thì vô viện dưỡng lão sống, chứ làm vậy là làm sao?” Tôi hỏi: bác có biết mai là Tết Nguyên Đán rồi không? Ông nói: tôi cũng biết chuyện đó, vì ba bữa trước đây con tôi vô thăm, có đem cho tôi mấy hộp kẹo, mứt. Thoáng nhìn gò má nhăn nheo của ông, tôi bỗng thấy lăn dài những giọt nước mắt: “Tết nhất là ngày sum họp gia đình. Vậy mà…”.

 Công bằng mà nói, nỗi kinh hoàng viện dưỡng lão của các cụ cao tuổi người Việt – ngoài việc bị tách khỏi môi trường gia đình quen thuộc ra, thì: hầu hết các cụ đều nghĩ là mình bị bỏ rơi, hoặc con cháu hắt hủi nên mới thế. Còn một nguyên nhân nữa, đó là: khi tuổi tác đã  cao, sức khỏe tàn dần, các cụ cũng xuống tinh-thần nhiều thì bệnh tật ắt phải có. Chuyện các cụ không thể tự chăm sóc cho mình là lẽ thường tình nên khi bệnh tật của các cụ đã đến thời kỳ nghiêm trọng, thì chỉ còn cách duy nhất là đưa các cụ vào viện dưỡng lão thôi.

 Kevin Nguyen, có người mẹ 72 tuổi, hiện đang sống ở viện dưỡng lão, có nói: “Tôi và vợ tôi đều phải đi làm, hai đứa con thì đi học, nên không lấy đâu ra thời giờ chăm sóc mẹ.  Còn, mướn y tá hay điều dưỡng đến nhà ăn ở, nấu nướng và chăm sóc cho mẹ thì tôi không đủ tiền”.

 Một trong những nguyên nhân khác dẫn đến việc các cụ buộc phải vào viện dưỡng lão, đó là: khi về già, các cụ thường bị lú lẫn hoặc ít ra là mất trí nhớ, thậm chí không nhận ra vợ ra chồng hoặc con cái, nên mới bảo mấy người đừng tới gần. Kevin Nguyen nói tiếp: “Mẹ tôi nay đã đổi tính, nên khó chịu. Lúc nào cụ cũng gắt gỏng, nghi ngờ hết mọi người”.

 Chị Lam Hương, cũng có mẹ sống ở viện dưỡng lão, đã tâm sự: “Cụ nhà tôi lúc nào cũng nghi ngờ là trong nhà có người ăn cắp tiền của cụ mặc dù tiền đó là của con, cháu cho cụ. Ngày nào cũng vậy, cụ cú lôi túi tiền ra đếm đi đếm lại đến vài chục lần rồi cụ chửi um xùm, bỏ ăn, thậm chí có hôm còn cuốn quần áo đòi ra khỏi nhà, vì như cụ nói: “Nhà này toàn quân ăn trọm không à!”. Riết rồi không ai chịu nổi cụ nữa đành đưa cụ vào viện”.

 Lại có lý-do dẫn tới nỗi sợ phải nhập viện dưỡng lão, đó là: một số nhân viên ở nhiều viện do thiếu khả năng chuyên môn, thiếu nhiệt tâm và không được huấn luyện kỹ, cộng với tình hình bị cắt giảm ngân-sách tài trợ từ chính phủ do thâm thủng ngân quỹ dẫn đến tình trạng nhiều người bị ngược đãi hoặc bỏ mặc về phương diện sinh lý lẫn tâm lý ngày càng tăng, chưa kể tình-trạng có cụ bị bắt phải nín lặng, không được phép than-van, kêu cứu khi lên cơn đau dạ dày hay thấp khớp.

 Cụ Trần Văn Sinh, trước khi sang Mỹ là y tá ở Bệnh viện Bình Dân ở thành-phố có nói: “Một thời gian dài, tôi bị trầm cảm vì tuyệt vọng và tôi buộc phải uống thuốc an thần nhiều nên rất thản nhiên. Khi tôi báo cáo sự việc này lên ban quản trị, thì con tôi lúc vào thăm đã bị ngăn chặn với lý do là làm trở ngại công việc điều hành bệnh viện”.

 Theo tôi tìm hiểu, Viện Dưỡng lão ở Westminster có khoảng 90% người già trên 65 tuổi. Số còn lại từ 80 trở lên. Cũng xin nói thêm là ở Orange County, các viện dưỡng lão đều do người Mỹ làm chủ và điều hành. Các viện này thường được chia làm hai khu chính là: nội trú và bán trú với nhiều khu phụ. Khu nội trú dành cho các cụ ở thường trực. Khu bán trú dành cho bệnh nhân sau khi điều trị ở bệnh viện, nhưng không đủ tiền nằm lại vì viện-phí rất cao, nên phải chuyển vào viện dưỡng lão để nằm chờ bình phục rồi mới về nhà.

 Thường, thì nhân viên quản lý sắp xếp các khu ốc theo sắc tộc, như khu dành cho người da trắng, khu người Việt, khu Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan v.v… Nếu thiếu phòng, các cụ phải nằm bất cứ khu nào còn trống. Chả thế mà cụ Lê Thị Lài 67 tuổi, sau hơn 2 tháng ở chung với khu người Mỹ da đen rồi được chuyển sang khu người Việt, cụ cứ ngơ ngác như người bị tâm thần, hỏi gì cũng ú ớ. Nếu con số người Việt ở đây đông, các cụ sẽ được nhà bếp nấu riêng món ăn Việt, nhưng chỉ là bữa trưa và tối thôi, còn bữa sáng vẫn phải ăn món ăn của Mỹ.

 Hầu hết trường hợp các cụ được đưa vào đây là do bị bệnh cần có sự trợ giúp thường xuyên của nhân viên y tế cũng như thiết bị mà chỉ các viện dưỡng lão mới có khả năng cung cấp. Các cụ đây thường mắc những bệnh mất năng lực thể chất lẫn tinh thần các cụ yếu đến độ không thể di chuyển, tự tắm rửa hay tự ăn uống được.

 Trao đổi với tôi, phóng viên Vince Gonzales thuộc Đài CBS, người từng thực-hiện nhiều phóng sự về chuyện ngược đãi người già ở viện dưỡng lão cho biết: “Nhiều người trong số các cụ cần có được chăm sóc suốt đời, vì các cụ không thể hồi phục để tự chăm sóc cho mình, chứ đừng nói là cho về nhà. Tương lai các cụ một là sẽ chết trong viện dưỡng lão, hai là chuyển vào bệnh viện nếu bệnh nặng rồi sẽ chết ở đó, và thứ ba là bệnh viện trả về để chờ chết…”. 

Đến bữa, các cụ còn khỏe thì chậm chạp lê chân bước hoặc tự mình lăn xe xuống nhà ăn. Yếu quá thì nằm trong phòng chờ điều dưỡng mang thức ăn đến. Cô Jenny Pham, một điều-dưỡng-viên người Việt ở đây, cho biết: “Viện có rất ít điều dưỡng người Việt nên tụi em thường bị điều đi phục vụ trong toàn khu, chứ không chỉ khu người Việt mà thôi”. Theo luật tiểu bang California, mỗi viện dưỡng lão phải có đủ nhân viên săn sóc cho bệnh nhân, nhất là dịch vụ khẩn cấp, mỗi bệnh nhân phải được y tá săn sóc ít nhất 3 hoặc 2 tiếng một ngày. 

Jenny Pham tiếp: “Khi có kiểm tra, viện dưỡng lão thuê thêm điều dưỡng cho đông, đồng thời sắp xếp cứ 1 điều-dưỡng-viên chăm sóc 10 người theo luật định để che mắt đoàn. Khi kiểm tra đi rồi, mỗi đứa tụi em lại phải chăm sóc đến 19, 20 người…”. Tôi hỏi: “Mấy bữa nay, gia đình có vào thăm các cụ nhiều không?” Jenny Pham đáp: “Cũng ít thôi, chủ yếu là các hội đoàn thiện nguyện, hoặc các tổ chức tôn giáo. Em biết có 26 cụ từ ngày vào đây, có cụ ở đã 5 năm trời không có ai đến thăm lần nào”. 

Tôi hỏi: “Đêm giao thừa, đây có tổ chức gì không?” Jenny Pham lắc đầu: “Dạ không, mấy cụ còn khỏe hoặc minh mẫn thì tụ họp nhau lại uống trà, kể chuyện xưa. Còn, thì hầu hết đều nằm trên giường. Nhiều cụ khi em hỏi ngày mai là mùng 1 tết rồi, có biết không? Có cụ nhe răng cười, chẳng biết gì hết”.

 Tôi ra về và khi bước ngang phòng số 7, thấy có đôi vợ chồng trẻ cùng hai đứa con đứng cạnh một cụ già ngồi xe lăn, người phụ nữ nói: “Chào ông nội rồi đi về con”. Ông cụ miệng méo xệch: “Bay cho nó ở chơi thêm chút nữa, vừa mới vô mà”. Anh con trai đỡ lời: “Con đưa các cháu vào chúc Tết ba, bây giờ dẫn  tụi nó đi coi xiếc cá heo. Vé mua rồi, sắp tới giờ diễn rồi…”.

 Dù có biết là: ở bầu thì tròn ở ống thì dài, sống đâu theo đó, nhưng sao tôi vẫn thấy nao nao vì bên quê nhà giờ này, gia đình nào cũng đang quây quần, họp nhau vui vẻ…” (Siêu Tầm sưu tầm) 

Niềm vui nỗi nhớ xảy đến vào ngày “đầu năm”, kể cũng nhiều. Nhưng, nỗi-niềm nhung nhớ của mỗi người và mỗi vị, lại vẫn khác. Khác hoàn cảnh, tuỳ vào văn-minh/văn-hoá mỗi sắc tộc của nhiều người.

Ngày đầu xuân mỗi năm, người người đều có niềm vui riêng. Niềm vui ấy, có khi đượm ướt nỗi niềm nhung nhớ những ngày xa xưa, lại cũng là nỗi nhớ “ngày đầu xuân”, thôi. Bần đạo đây, nay bất chợt tìm ra được nhạc-bản cũng hơi buồn của tác-giả Diệu Hương, xứng-hợp với đề tài dự tính bàn-luận, thế nên xin trích-dẫn đôi ba ý-tứ nơi ca-từ của tác-giả, rất như sau:

“Làm sao em biết tình này chất chứa thật đầy,
Giấu kín từ trong con tim buồn bã?
Tình vô biên quá, để rồi khó nói bằng lời,
Cho môi khô héo dần thôi.
Một đời tôi vẫn nhớ tới em, trong những phút xa xôi.
Em đến tình cờ với tôi, như thoáng một giấc mơ.
Vì biển ơi! con sóng xóa tan con thuyền trôi giữa giòng.
Tôi biết tình ta mãi là một góc đời cách xa.”

(Diệu Hương – bđd)

Nghe hát câu “Nhớ tới Em trong những phút xa xôi”, bần đạo lại nhớ đến “Người Em” nọ trong Hội thánh từng viết bức thư đầy tình-tiết gửi lên Mẹ Bề Trên Cabrini có ý/lời như sau:

“Mẹ Cabrini thân mến,

 Tôi viết cho Mẹ bức thư này kèm một ý-tưởng về bộ phim tập nhiều kỳ có tiêu-đề là “Saint and the City” lồng trong truyện kể về đời của Mẹ.

 Dĩ nhiên, chốn thị-thành được kể ở trong phim, chắc phải là thành-phố New York, nơi Mẹ từng đặt chân đến tá-túc, sau khi rời nước Ý năm 1889. Nhưng, bộ phim dài nhiều tập kể ở đây, lại nói đủ mọi thứ chuyện chứ không như cuốn phim có tựa đề hơi hơi giống là phim: “Sex and the City”, nói rất ít.

 Phim truyện đây, không thấy nói đến các cô đi giày cao gót cứ “ì xèo”, mà chỉ lác đác trình chiếu một vài cao ốc rải rác thôi. Tuy nhiên, phim truyện đây, lại có đủ của ăn/thức uống, áo quần, tức những nhu-yếu-phẩm cần cho cuộc sống, mà Mẹ đem giúp đám di-dân vừa rời châu Âu chốn tả tơi tuyệt vọng, đi loạng-choạng trong khung-cảnh một châu Mỹ khá chộn-rộn. 

 Tôi thầm đoán là Mẹ cũng cần đến “Netflix” để giải khuây ở trên đó chốn quê trời lồng lộng. Thế nên, xin cho phép tôi được kể cho Mẹ nghe một trong các chủ-đề được đề-cập ở phim “Sex and the City” khi mọi người cứ đi tìm ông Chủ Bự, một đối-tác trọn-hảo trong phim truyện. Còn, phim của Mẹ, thì việc kiếm tìm ông Chủ Bự, là một tìm kiếm rất sâu-sắc khiến Mẹ bị đánh động nhiều, đó là độ dài nối kết với việc kiếm tìm tương-quan đích-thực với Thiên-Chúa. Mẹ dư biết, là: Thiên-Chúa có bao giờ Ngài chịu đi mua sắm ở Đại-lộ số 5 đâu. Ngài cũng không ăn vận diêm dúa, đầy những lụa-là để gây ấn-tượng cho bất cứ một ai.

 Thế nhưng, ông Chủ Bự đây, lại không biết đến hãi sợ, nếu ông buộc phải có quyết-tâm nào đó. Không như hàng triệu người khác, tâm can Mẹ đây không bị đánh động từ các truyện thần kỳ kể về thành-tựu của nước Mỹ, coi đó như truyện kể về những người từng đạt mọi thành-tựu. Thần dân của Mẹ, vẫn chiến-đấu không ngừng nghỉ bằng mọi cách, từ: ngôn-ngữ, nghề-nghiệp, tiền bạc, cho đến nỗi nhớ nhà, sự hỗn độn/căng-thẳng về gia-cảnh, và cả đến nỗi sầu mất mát, những cố-gắng nghèo-nàn để có được một nền y-tế, giáo-dục cũng khả-quan. Mẹ là nguồn hứng-khởi cho phần đông chúng tôi, những người được mời gọi hãy đáp trả mức-độ hỗn-độn ngoại-thường ở thế-giới tân-kỳ này.

 Cao Uỷ Tỵ Nạn cho chúng tôi biết, là: hơn 60 triệu người trên thế-giới, nay bị bứng gốc; hơn 20 triệu người buộc phải rời bỏ nước ra đi làm kẻ tỵ nạn, xin tầm trú. Mỗi ngày, có đến 34 ngàn người phải xa quê chỉ vì nơi họ ở, đang có xung-đột/bức-bách đủ mọi cách. Con số những người như thế, vẫn dao-động hết mọi người. Vâng. Mẹ thấy đó, từng đợt và từng đợt, rất nhiều người cứ phải di-dời ra khỏi nơi mình ở, như vận-chuyển của Thánh Thần Chúa, đấy.

 Thật khó có thể thăm-dò đo-đạc hiện-tượng dao-động này. Nhưng, đây lại vẫn là lời mời gọi gửi đến hết mọi người, để ta ôm chặt sự sống mà không biết đến hãi sợ. Mẹ là lữ-khách đi khắp nơi về khắp chốn mà không biết mệt, hiểu theo nhiều nghĩa. Khi Mẹ đặt chân đến vùng trời New York vào độ tuổi 38 cùng với 6 nữ-tu khác, Mẹ chỉ có một ít thứ gọi là “của riêng”. Lúc ấy, Mẹ cũng chẳng biết mọi người có vui lòng đón tiếp Mẹ hay không nữa. Cộng-đoàn Dòng bé nhỏ của Mẹ đã di-dời về khu nhà ổ chuột và phải xin xỏ đây đó mới đủ nuôi sống bấy nhiêu chị. Tự trong xương tuỷ, Mẹ biết thế nào là tình-trạng không được nghênh-đón đành phải phục-vụ những người có cùng một trải-nghiệm như mình. Tôi nắm chắc rằng, những năm tháng ngày giờ trở về sau, Mẹ thấy vui hơn khi biết được rằng tên tuổi của Mẹ nay gắn liền với Trạm trú-ẩn, tỵ nạn ngay trong thành-phố Melbourne của Úc.

 Tôi tự biết mình không nên đề-cập những chuyện như: tầm-cỡ cao thấp/lớn nhỏ như bao giờ. Thế nhưng, khi ấy Mẹ thuộc những người nhỏ thó, thấp bé không ai quan-tâm. Tôi bị mê-hoặc bởi truyện kể về những người hăng say/kiên-quyết nhưng cứ lầm lẫn về tầm vóc, kích-thước của mỗi người. Thánh nữ Têrêxa thành Calcutta chẳng hạn, bà cũng chỉ cao không đầy thước rưỡi thế mà bà vẫn làm được nhiều việc cả thế. Mẹ đây, lại cũng thấp bé như bà và có thể thấp hơn nữa. Mẹ là người con áp út trong số 11 anh chị em trong gia đình đông-đúc, trong đó chỉ có 4 người đạt đến tuổi trưởng-thành.

 Như thế nghĩa là, Mẹ được dưỡng-nuôi trong một gia-đình có khả-năng đối-đầu với mọi mất mát, thua thiệt. Ngay đến sức khoẻ, Mẹ cũng bị coi là người mỏng-mảnh, dễ bể. Bất cứ ai gặp Mẹ, đều nghi-ngờ rằng với sức khoẻ tồi-tệ như thế, sao Mẹ lại có thể kéo dài, tồn tại được.

 Nước Mỹ, nay có vai-trò đáng kể trong việc vượt lằn ranh của chính họ. Và nay, họ vừa  trải qua cuộc vận-động tranh cử vào cuối năm 2016 rồi, khiến đôi lúc, tôi cũng mong sao có người như Mẹ đây, và một số công-dân rất ít được tấn-phong thành bậc hiển-thánh, đứng trên bệ cao để chỉ đường đi nước bước cho mọi người; và cũng cởi mở đủ, để không cần gì đến ảnh hình này khác mà chỉ cần lương-thiện và tình thương, thôi. Tôi vẫn tin vào lời thán-phục ghi bên cạnh Nữ Thần Tự Do, một tượng đài luôn ghi rõ lời mời chào nổi tiếng những bảo rằng: “Hãy cho tôi đám đông nghèo đói, mệt mỏi và chộn rộn của bạn đi!”

 Điều trớ trêu, là Mẹ đã ra đi về cõi vĩnh hằng chỉ ít ngày trước lễ Giáng Sinh năm 1917, khi Mẹ trở bệnh sau ngày chuẩn bị gói quà đem cho trẻ nghèo. Giáng sinh mời gọi Mẹ và tôi, ta suy tư nhiều hơn nữa về lời của Thân Mẫu Đức Giêsu khi Cụ bảo: “Lòng từ-bi của Ngài ở tuổi này tuổi khác, đạt đến những người biết kính sợ Ngài”. Thông điệp đây, còn tốt và đẹp hơn ánh đèn mầu nhấp-nháy ở Quảng Trường Thời-Đại bên New York nhiều. Hẳn, ta cũng nên dựng lên kênh truyền-hình để chiếu phim tập hay như thế.

 Michael McGirr

(X. A Letter to Mother Cabrini, Australiancatholics magazine số Christmas 2016 tr.27)

Thông-điệp trên, nay ta cũng nên phổ-biến cho chán vạn người đang sầu/buồn vào đêm Giáng Sinh, ở đây đó. Ấy đấy, lại là ý-tưởng mà bần đạo có được sau lễ Giáng Sinh 2016 và đầu năm Đinh Dậu 2017, rất Âm-Lịch.

Sầu/buồn ngày lễ hội, lại vẫn là tâm-trạng của nhiều người thời cách-mạng vi-tính, rất tinh-vi. Sầu/buồn đây, có thể cũng giống như mối sầu thành thị, rất không tên. Sầu và buồn, là nỗi-niềm từ đâu tới, thật không rõ. Chỉ rõ có một điều, là: buồn và sầu đến độ chẳng biết vì sao và làm thế nào cho vợi bớt nỗi niềm không tên ấy.

Sầu/buồn nhiều nỗi, còn là tâm-trạng người nhà Đạo hôm nay, khi thấy Giáo-Hội vẫn có những thứ được nhiều linh mục nói đến ở các bài giảng và bài viết, như giòng chảy, ở bên dưới:

“Tình thương-yêu và lòng từ-bi nhân-hậu của Chúa đã tạo nhiều ảnh-hưởng hơn những chuyện tầm-phào/yếu kém trong cuộc sống của ta. Thành ra, ta có thể vui hưởng tính hài-hước trong cặp đôi bất-xứng giữa sự thật lớn lao ta tin tưởng và cung-cách bé nhỏ qua đó ta xử-thế. Hoặc, các vụ tranh-cãi giữa những người không hợp lòng hợp ý với nhau và cả những chuyện người đi nhà thờ không chịu nổi cảnh cứ phải ngồi lâu nghe giảng giải đến khá dài ở nhà thờ.

 Vốn biết Chúa thương yêu mỗi người chúng ta cả vào khi ta phạm lỗi tày trời rất nhiều lần, Ngài vẫn tha thứ cho ta trước khi ta xưng thú hoặc yêu cầu Ngài quên đi; mặc dù thế, ta vẫn có thể vui vẻ chịu đựng tính-khí rất thất-thường đối với nhau; cả những khi kể cho nhau nghe những câu chuyện về các giám mục và linh-mục hoặc thấy thoải mái khi nghe người ngoài đạo kể chuyện tiếu lâm về người đi Đạo…” (Xem thêm Lm Andrew Hamilton sj, The Church’s Divine Comedy, AustralianCatholics Magazine số Christmas 2016 tr. 17-20)

Nói về các bậc nữ-lưu chân-phương/lành thánh giống như trên, là nói rất nhiều về giáo hội ở nhiều nơi. Nói như trên, chỉ có thể nói về người đi Đạo và/hoặc cho người đồng Đạo, rất quen với giáo-lý, thần học, đúng ra là nói về các nữ-phụ an lành/hạnh đạo, là phải nói như người ngoài đời sống ở đời, rất “ngoài luồng”. Tức, đượm chút mắm muối tiêu đường, thật rất tếu.

Nói về nam-nhân/nữ-phụ tốt lành/hạnh đạo, đôi lúc ta cũng nên nói như kể truyện đời nhiều chất dí-dỏm, dị-hợm để cười đùa cho quên nỗi sầu buồn, một đời người. Nói thế, là nói như truyện kể thêm thắt ở bên dưới cho đỡ buồn đời:

“Hai vợ chồng nọ kéo nhau vào siêu-thị mua sắm. Đến gian-hàng nọ có đặt chiếc cân điện-tử nói thành tiếng, khi từng lượt người bước lên cân. Thấy chiếc cân quá hiện-đại rất tầm cỡ, mọi người đều thích thú thay nhau, bước lên bàn cân.

 Một cô khách bước lên bàn cân, thì chiếc cân điện-tử bèn nói: “Cô cân nặng 62 pounds, so với chiều cao như thế này mà cân được 92 pounds thì cô là người hoàn-toàn, có sức hấp-dẫn nhiều đàn ông.

 Một bà mệnh-phụ vừa bước lên cân, đã nghe chiếc cân điện-tử phán những câu xanh rờn, rằng: “Bà cân nặng 102 pounds, hơi bị quá có một chút thôi, chỉ cần đi bộ 2, 3 cây số mỗi ngày là bà sẽ có vóc dáng đáng yêu ngay thôi, chẳng cần phải kiêng cữ gì hết”. Bà vợ nghe thế, lấy tay đẩy ông chồng  rồi nói: “Anh lên cân thử đi!”

 Khi đức ông chồng bước lên, thì chiếc cân liền lên tiếng: “Ông bạn chỉ có 93 pounds thôi thì quá gầy ốm. Vợ ông cần phải tẩm bổ/bồi dưỡng cho ông, và cấm ngặt không được làm ăn chăn gối gì hết trong 3 tháng…”

 Nghe thế, bà vợ nhà lại bước lên cân lần nữa, thì lần này chiếc cân chẳng nói năng gì, đợi mãi cũng chẳng thấy tăm hơi gì hết, bà bực quá bước xuống. Tức thì, chiếc cân mới phát ra hiệu lệnh thật rõ ràng: “Xin bà con vui lòng bước lên từng người một, đừng chen lấn kẻo hư cân…” (Truyện kể đăng trên mạng)       

 Kể những chuyện vui cười xảy ra trong cộng đồng nhà Đạo hay ngoài luồng, không phải và không chỉ kể về những giòng chảy thần học khô cứng đến chán nản, không ai còn muốn nghe nữa. Thế nhưng, nói về chuyện đạo hạnh nhà Đạo, tưởng cũng nên kể những lời hay/ý đẹp của đấng thánh hiền vẫn nhủ khuyên dân con Đạo mình như sau:

“Thưa anh chị em,

anh chị em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui

khi gặp thử thách trăm chiều.

Vì như anh chị em biết:

đức tin có vượt qua thử thách mới sinh lòng kiên nhẫn.

Chớ gì anh chị em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra

bằng những việc hoàn hảo, để anh chị em nên hoàn hảo,

không có gì đáng trách, không thiếu sót điều gì.”

(Giacôbê 1: 2-3)

 Nói gì thì nói, tưởng cũng nên nói cho mọi người bằng giòng nhạc có giai-điệu bay bổng hoặc trầm lắng như sau:

“Tình vô biên quá để rồi khó nói bằng lời
Cho môi khô héo dần thôi
Một đời tôi vẫn nhớ tới em trong những phút xa xôi
Em đến tình cờ với tôi như thoáng một giấc mơ
Vì biển ơi con sóng xóa tan con thuyền trôi giữa dòng
Tôi biết tình ta mãi là một góc đời cách xa. “

(Diệu Hương – bđd)

Hôm nay đây, người viết nhạc mang tên Diệu Hương đã nói thay cho nhiều vị, nhiều người. Chí ít, là những người, hoặc những vị đang có vấn-đề gì đó trong cuộc sống khó phôi pha. Thế nhưng, như câu hát ở trên đã đề-cập, cũng nên đề nghị với bạn và với tôi, những người đang đọc các giòng chữ ở đây, một lời nhắn thêm nữa của tác-giả, mà rằng:

“Một đời tôi vẫn nhớ đến em trong những tháng năm dài
Ôm mối tình sầu với em tôi biết sẽ tàn phai
Một hồn tôi ray rứt bước chân đi trên cát buồn
Biển vắng đêm nay xót xa một mối tình không may.

(Diệu Hương – Một Đời Vẫn Nhớ)

Vẫn nhớ một đời người, không là “xót xa một mối tình không may”, hoặc tệ hơn nữa khi em “Ôm mối tình sầu với em tôi biết sẽ tàn phai.” Nhưng vẫn là: “Em đến tình cờ với tôi như thoáng một giấc mơ.Giấc mơ có một đời phúc hạnh, sướng vui mãi không ngờ.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ chúc và mừng mọi người

Những ngày vui hơn pháo Tết

Suốt một đời.  

NÔ LỆ HAY TỰ DO

NÔ LỆ HAY TỰ DO

Hôm ấy, trời vừa rạng đông, ông hoàng nói với tên đầy tớ: “Xem chừng anh mơ ước giàu có lắm. Vậy từ giờ này cho tới lúc mặt trời lặn, anh có sức ngần nào thì cứ chạy.  Tất cả những ruộng vườn, ao cá anh chạy vòng quanh được, ta cho anh hết.”

Anh vui sướng quá!  Cha chết sống dậy cũng không bằng.  Anh liền cắm đầu chạy, chạy vùn vụt như Hạng Vũ trên con ngựa Ô-Truy.  Chín mười tiếng đồng hồ qua, chàng làm chủ được mấy cánh đồng bao la mù mịt.  Chàng vừa dừng chân, thì một hồ cá mênh mông với mặt nước trong ngần huyền ảo phản chiếu ánh mặt trời đã xế chiều.  Chàng lại chạy tiếp.  Sau cùng, màn đêm buông rơi.  Chàng thở hổn hển quay bước trở về, để làm bậc tỉ phú với “Ruộng vườn cò bay thẳng cánh, ao hồ mặc sức cá đua.”

Nhưng vừa bước chân vào ngưỡng cửa, chàng ngã lăn xuống bất tỉnh.  Vợ con vội vàng thuốc thang săn sóc…  Nhưng vô hiệu.  Nhà tỉ phú đã trút linh hồn sau một ngày dài lao lực quá mức.  Người ta đào cho chàng một chỗ nghỉ trong lòng đất, vừa dài, vừa rộng, nhưng không quá ba tấc đất!

****************

Đó là kết cục của một con người ham mê tiền của, để nó sai khiến như một tên nô lệ, phải vắt cạn kiệt sức lực cho tới chết, mà không được mảy may hưởng dùng!

Đức Giêsu đã cảnh báo cho những con người tôn thờ tiền của ấy như sau: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được” (Mt 6, 24).  Tiền của ở đây được viết hoa, tiếng Aram là Mammon, có nghĩa là Thần tiền.  Nếu tiền được thần hóa như thế, thì sức mạnh thống trị của nó không thể coi thường.  Nếu tiền và Thiên Chúa đã được Đức Giêsu đưa lên bàn cân để người ta chọn lựa, thì quyền lực của nó phải là vô song.

Sống là một chuỗi những chọn lựa.  Chính những chọn lựa này sẽ làm cho người ta thành công hay thất bại, trở nên người tốt hay hóa ra kẻ xấu, được hạnh phúc hay phải khổ đau.  Đã chọn lựa điều này thì phải từ bỏ điều kia.  Từ bỏ bao giờ cũng nuối tiếc dằng co.  Đức Giêsu muốn các môn đệ của Người phải chọn lựa dứt khoát, không có thái độ lưng chừng hoặc bắt cá hai tay.  Người bắt cá hai tay bao giờ cũng là kẻ thua thiệt nhất.  Hoặc làm tôi Thiên Chúa hoặc làm tôi tiền của.

Tiền của có một sức mạnh vạn năng, nó giải quyết phần lớn các nhu cầu của con người, nên tiền của hấp dẫn lạ thường.  Việt nam ta có câu: “Có tiền mua tiên cũng được.”  Ngay cả việc đạo cũng phải có tiền mới xong: “Có thực mới vực được đạo.”  Nhưng tại sao Đức Giêsu lại gay gắt với tiền của như thế?  Thật ra, Người không lên án tiền của, Người chỉ cảnh báo những ai ham mê của cải mà thôi.

Tiền của là phương tiện hữu hiệu Chúa ban, để bảo tồn sự sống đời này, và để mua nước Thiên Đàng đời sau.  Tự bản chất tiền của là tốt, nó là hồng ân của Thiên Chúa tặng ban cho con người.  Tiền của chỉ trở nên xấu khi ta quá tôn thờ nó, như một ông chủ sai khiến hành hạ đời ta, thậm chí lấy luôn mạng sống ta như anh đầy tớ trong câu chuyện trên đây.  Tiền của chỉ trở nên đáng ghét khi ta quá tham lam thu tích nó mà quên đi bổn phận chia sẻ với anh em, như người giàu có xử tệ với Ladarô nghèo khó.  Tiền của chỉ trở nên án phạt khi ta quá ham mê nó mà từ bỏ Thiên Chúa, như Giuđa bán Thầy vì mê 30 đồng bạc.  Tiền của chỉ trở nên cạm bẫy khi ta quá bám víu vào nó mà không còn tin cậy nơi Thiên Chúa quan phòng, như người phú hộ ham hưởng khoái lạc không kịp ăn năn.

Vì thế Đức Giêsu thật có lý khi cấm chúng ta không được làm tôi tiền của.  Người còn khuyên chúng ta đừng lo lắng về “của ăn, áo mặc.”  Động từ “lo lắng” được lập đi lập lại 6 lần, chứng tỏ tính cấp bách phải từ bỏ mọi lo âu thái quá, vì cả cuộc sống chúng ta đều ở trước mặt Chúa Cha, Đấng biết rõ mọi thứ chúng ta cần.

Nói như thế, không phải là Người cổ vũ cho sự lười biếng ỷ lại, hay sự vô tâm thụ động, không làm gì để Chúa làm tất cả.  Người khuyên chúng ta đừng lo lắng, chứ không cản chúng ta lo liệu.  Lo lắng vì không tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng.  Mọi lo lắng đều liên hệ đến tương lai, mà tương lai là điều chưa có thật.  Trái lại, lo liệu là vẫn lo làm việc hôm nay, tiên liệu cho ngày mai, nhưng luôn tin cậy phó thác nơi Chúa.

Nếu Chúa đã nói: “Anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngài mai, cứ để ngày mai lo.  Ngày nào có cái khổ của ngày đó” (Mt 6,34) thì chúng ta phải hiểu là: Quá khứ đã qua đi rồi, hãy quên nó đi; hiện tại đang trong tầm tay, phải chu toàn nó; tương là là của Chúa, hãy phó thác cho Người.

****************

Lạy Chúa, Chúa đã dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người trước” (Mt 6,33), xin cho chúng con trong khi bôn ba cho cuộc sống này, vẫn dành ưu tiên cho việc làm sáng danh Chúa và luôn sống theo thánh ý Người.  Amen.

Thiên Phúc

(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)

Anh chị Thụ & Mai gởi

NỤ HÔN CỦA THIÊN CHÚA LÊN LINH HỒN

NỤ HÔN CỦA THIÊN CHÚA LÊN LINH HỒN

Đâu là gốc rễ thực sự của sự cô đơn trong con người?  Một sai sót trong cấu thành của chúng ta?  Sự bất xứng và tội lỗi?  Hay, như câu nói trứ danh của thánh Âugutinô, “Ngài đã tạo thành chúng con, lạy Chúa, và lòng chúng con khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Ngài.”

Dù rất giá trị, nhưng câu châm ngôn của thánh Âugutinô vẫn không đủ.  Chúng ta là những linh hồn vô hạn bên trong cuộc sống hữu hạn, và chỉ một điều này thôi là đã đủ để giải thích cơn nhức nhối triền miên không thỏa của chúng ta, ngoại trừ một điều là linh hồn chúng ta khi đi vào thế giới đã mang lấy sự bất diệt rồi, và điều này cho toàn bộ cơn nhức nhối của chúng ta một sắc thái đặc biệt.

Có nhiều cách để giải thích cho điều này: Ví dụ như, Bernard Lonergan, triết gia và thần học gia đáng trọng, đã cho rằng linh hồn con người không đến thế giới như thể một tabla rasa, một tờ giấy trắng, không tì vết để có thể viết gì lên đó cũng được.  Với ông, chúng ta được sinh ra với các nguyên tắc tiên quyết ghi tạc vào trong linh hồn không bao giờ phai.  Ý ông là gì?

Thần học và triết học kinh điển, xác định bốn sự mang tính siêu việt, có thể nói là chân tính của mọi sự có tồn tại, chúng là nhất, chân, thiện, và mỹ.  Mọi sự tồn tại đều có bốn phẩm chất này.  Tuy nhiên các phẩm chất này chỉ hoàn hảo nơi Thiên Chúa. Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng toàn nhất, toàn chân, toàn thiện và toàn mỹ.  Nhưng theo Lonergan, Thiên Chúa đã ghi tạc 4 sự này, trong tình trạng hoàn hảo, và cốt lõi linh hồn con người.

Do đó, chúng ta đến trong thế giới, thì đã biết, dù còn mập mờ, về sự toàn nhất, toàn chân, toàn thiện và toàn mỹ, vì chúng ta đã có sẵn trong chúng ta, một dấu ấn không phai.  Như thế, chúng ta có thể phân biệt đúng sai, vì đã biết sự thật hoàn hảo và sự thiện hoàn hảo trong cốt lõi linh hồn mình, và cũng nhận biết theo bản năng về tình yêu và vẻ đẹp, bởi chúng ta đã biết chúng một cách hoàn thiện trong bản thân mình.  Trong đời này, chúng ta không học biết sự thật, mà là nhìn nhận sự thật, chúng ta không học yêu mà là nhận ra tình yêu, và chúng ta không học biết nhưng là nhận ra cái gì là tốt lành. Chúng ta nhận ra được vì đã có chúng trong cốt lõi linh hồn mình.

Một vài nhà thần nghiệm đã có một mô tả thế này: Linh hồn con người đến từ Thiên Chúa và trước khi đặt linh hồn vào trong cơ thể, điều cuối cùng Thiên Chúa làm là hôn linh hồn đó.  Rồi linh hồn đi qua đời sống, vẫn luôn nhớ về nụ hôn đó, một nụ hôn của tình yêu hoàn hảo, và linh hồn xác định mọi tình yêu và nụ hôn trong đời qua nụ hôn hoàn hảo ban sơ đó.

Các nhà khắc kỷ Hy Lạp cũng nói về một điều tương tự.  Họ dạy rằng linh hồn đã tồn tại sẵn trong Thiên Chúa, và trước khi đặt linh hồn và trong một cơ thể, Thiên Chúa xóa đi ký ức về hiện hữu của nó.  Nhưng linh hồn luôn hướng về Chúa một cách vô thức, bởi khi đến từ Thiên Chúa, linh hồn luôn nhớ về mái ấm đích thực của mình, và khắc khoải mong được về lại.

Người Hy Lạp cho rằng Thiên Chúa đặt linh hồn vào thân xác chỉ khi đứa bé đã thành hình trọn vẹn trong lòng mẹ.  Ngay sau khi đặt linh hồn vào thân xác, Thiên Chúa liền khóa chặt ký ức tiền hiện hữu của nó bằng cách khóa chặt môi đứa trẻ để nó không bao giờ nói về tiền hiện hữu của mình.  Đây là lý do vì sao chúng ta có một rãnh lõm dưới mũi, ngay trên môi.  Đây là nơi Chúa đặt ngón tay lên để khóa lại.  Đây là lý do vì sao bất kỳ lúc nào cố gắng để nhớ chuyện gì đó, chúng ta vô thức đặt ngón tay lên nơi này.  Chúng ta đang cố gắng phục hồi một ký ức ban sơ.

Có lẽ, tôi cần đưa thêm một ẩn dụ nữa.  Chúng ta thường nói về những sự “đúng rõ ràng” hay “sai rõ ràng.” (ringing true và ringing false).  Nhưng chỉ có chuông mới rung (ring).  Trong chúng ta có một chiếc chuông rung lên khi đúng và sai hay sao?  Về căn bản, thì có!  Chúng ta nuôi dưỡng một ký ức vô thức về một thời từng được biết một tình yêu, sự thiện và vẻ đẹp trọn hảo.  Do đó, mọi sự sẽ ngân lên đúng hay sai, dựa vào việc liệu chúng có theo tiêu chuẩn là tình yêu, sự thiện và vẻ đẹp hoàn hảo vốn đã có nơi cốt lõi linh hồn chúng ta hay không.

Và cốt lõi đó, trung tâm đó, nơi đó trong linh hồn chúng ta, nơi chúng ta được ghi dấu với các nguyên tắc tiên quyết và nơi chúng ta ghi nhớ nụ hôn của Thiên Chúa khi chúng ta được sinh ra, với nỗi khắc khoải không ngơi, trong đời này.  Như lời Henri Nouwen, thì chúng ta mang một ký ức mơ hồ về một thời từng được âu yếm trong đôi bàn tay trìu mến nhiều hơn bất kỳ bàn tay nào từng gặp trong đời.

Linh hồn chúng ta mơ hồ nhớ về một thời từng được biết tình yêu hoàn hảo và vẻ đẹp hoàn hảo.

Nhưng, trong đời này, chúng ta không bao giờ gặp được sự hoàn hảo đó, dù cho chúng ta cứ luôn mãi đau đáu một người hay một sự nào đó đáp ứng được chiều sâu thẳm này trong chúng ta.  Điều này tạo nên trong chúng ta một sự cô đơn tinh thần, một khao khát những gì mà chúng ta xác định là tri kỷ, một người có thể thực sự nhìn nhận, chia sẻ và tôn trọng những gì thâm sâu nhất trong chúng ta.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

CHÂN DUNG VÀ CÂY VIẾT CHÌ

CHÂN DUNG VÀ CÂY VIẾT CHÌ

Trong chuyến Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viếng thăm Ấn Độ năm 1986, có những chuyện bên lề ít người biết.

Người phụ trách lộ trình cho Đức Giáo Hoàng thăm Calcutta là một Linh Mục Dòng Tên ở thành phố ấy.  Cha ở cùng Nhà Dòng nơi tôi xin trọ, Xavier’s College, 30 Park Street, Calcutta.  Vì thích tìm xem có gì liên quan tới Mẹ Têrêsa không, tôi tò mò hỏi chuyện với ngài, vô tình mới biết ngài là Linh Mục được chỉ định công việc tổ chức lộ trình trong ngày quan trọng đó.  Và câu chuyện bên lề trong chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng cũng khá thú vị.

Chuyến đi sau cùng của Đức Giáo Hoàng dự định từ gốc đường Park chạy thẳng ra phi trường.  Nhưng đến ngã tư, xe cảnh sát dẫn đầu không đi thẳng mà lại quẹo trái.  Cha kể với tôi là Linh Mục trưởng đoàn tổ chức, từ Roma qua, không hiểu có chuyện gì.  Tại sao kỳ quặc thế này?  Người ta sợ ám sát ư?  Đoàn xe đi đâu bây giờ?

Xe ngừng trên đường ghé vào Nhà Dòng chính của Mẹ Têrêsa.  Nhà này ngay bên đường, sau này cũng là nơi chôn xác Mẹ.  Đức Thánh Cha ghé thăm một lúc rồi đoàn xe tiến ra phi trường.  Trong chương trình ở Calcutta, Đức Thánh Cha chỉ tới thăm ngôi nhà săn sóc những người hấp hối mà thôi.  Lúc mới tới Calcutta, từ phi trường vào thành phố, Ngài đã ghé thăm ngôi nhà này rồi.  Không có chương trình ghé Nhà Dòng chính.

Tới phi trường, nghe cha kể lại, Linh Mục trưởng đoàn tổ chức kia rất bực mình với viên cảnh sát trưởng tại sao làm vậy mà không cho ngài biết.  Ông cảnh sát trả lời rằng phút cuối, Mẹ Têrêsa xin ông như vậy.  Ông bảo ở Calcutta này có ai là người không nghe lời Mẹ Têrêsa đâu!

Rồi cha kết luận, chính quyền ở đây không từ chối điều gì bà xin.

Chỉ khi đến Calcutta tôi mới biết chính quyền ở đây là đảng Cộng Sản.  Thể chế chính trị ở Ấn gồm nhiều đảng.  Chính phủ tiểu bang hợp thành chính phủ trung ương.  Tiểu bang nào nhiều thành phần của một đảng, đảng ấy thắng thế.  Bấy giờ tôi mới hiểu tại sao trong một khu xóm, ngày nào tôi cũng đi bộ ngang qua đến Nhà Dòng Mẹ Têrêsa, họ treo ngợp cờ đỏ búa liềm.  Nhưng Cộng Sản ở Ấn rất khác Cộng Sản trên thế giới.  Họ chỉ là một đảng trong nhiều đảng của nền chính trị Ấn.  Họ chủ trương đường hướng xã hội giải thoát giới nghèo chứ không đàn áp tôn giáo.

Chưa đến Ấn, tôi chỉ biết Mẹ Têrêsa qua báo chí, qua phương tiện truyền thông là một Nữ Tu nổi tiếng thế giới vì săn sóc người nghèo.  Qua Ấn, tôi hiểu hơn, màu sắc vẽ chân dung người đàn bà này khác lạ lắm.

Bà không nổi tiếng về truyền giáo, về viết sách, về triết học, thần học, người nữ tu này làm việc rất tầm thường.  Công việc của đời bà thật đơn giản.

Qua Ấn tôi mới hiểu cái nghèo ở đây khác mọi nơi.  Nó là kiếp nghèo của định mệnh đẳng cấp do xã hội và tôn giáo tạo ra.  Trong bốn đẳng cấp, đẳng cấp thứ tư thấp nhất, chỉ có lao động, làm cu li.  Nhưng ngoài bốn đẳng cấp này, còn loại người “unclean”, “untouchable”.  Tiếng “untouchable” do Gandhi dùng để chỉ một hạng người khốn khổ nhất.  Nghĩa là họ thuộc hạng người “ô uế”.  Họ không được đụng vào người thuộc đẳng cấp khác.  Họ phải làm những việc như lau cầu tiêu, chôn xác chết.

Tóm lại, họ phải tránh xa người khác trên đường đi.  Ai đụng vào họ đều ra ô uế, phải thanh tẩy.  Vì thế, họ nghèo từ định mệnh nghèo ra, họ phải mang thân phận lầm than.  Tôn giáo và xã hội bắt họ vậy.  Cũng nhờ qua đây, tôi mới hiểu ý nghĩa sâu xa khi Kinh Thánh nói Giavê bảo vệ những người nghèo.  Cái nghèo ở đây là nghèo đến từ con người mất phẩm giá.  Nó không chỉ là cái nghèo kinh tế, nhưng nghèo vì bất công, nghèo vì bị xúc phạm.

Giữa lúc tôn giáo và xã hội xa tránh họ thì Mẹ Têrêsa đến ôm những người này!  Bà không sợ bị ô uế phải đi thanh tẩy ư?

Mãi đến năm 1957 hiến pháp Ấn mới xoá bỏ chế độ đẳng cấp.  Trong thực tế, các vùng xa xôi nó vẫn như chiếc cối đá choàng trên cổ đẳng cấp này.  Năm 1948, Gandhi bị giết do một tín đồ Ấn Giáo cực đoan vì ông chủ trương mọi người phải bình đẳng.

Trong bối cảnh xã hội và tôn giáo như thế Mẹ Têrêsa xuất hiện.

Người Nữ Tu này chủ trương một Dòng Tu đi tìm những người bất hạnh mà phục vụ.  Thế kỷ này thế giới không còn chế độ nô lệ.  Không quốc gia nào có thể chấp nhận giai cấp người nô lệ người.  Hiến pháp Ấn Độ không chấp nhận đẳng cấp, nhưng trong thâm tâm thành phần thống trị có muốn thay đổi không, đó là một chuyện khác.

Trong hoàn cảnh như thế Mẹ Têrêsa xuất hiện.

Người Nữ Tu này không là nhà cải cách tôn giáo, bà không là nhà cải tạo xã hội.  Mẹ chỉ đến với những kẻ mà người khác sợ đến gần bị ô uế.  Các Nữ Tu thuộc Dòng của Mẹ không đi truyền giáo.  Người ta không thể vì Mẹ mà sợ mất tín đồ.  Mẹ không truyền đạo để đông người, để cạnh tranh tôn giáo.  Ai lạm dụng tôn giáo và kinh tế để nắm chính trị, không thể kết án người Nữ Tu này được điều gì ngoài điều họ không dám làm là đến với những người bị bỏ rơi.

Thông tin đóng một vai trò chính yếu trong việc vẽ chân dung Mẹ Têrêsa.  Hơn một tỷ người Ấn biết đến Mẹ.  Công việc và đời sống mẹ được thông tin truyền đi.  Toàn dân Ấn biết đến một con người mà truyền thống xã hội, tôn giáo của họ đi ngược lại.  Đó là Mẹ đến với người nghèo.

Nhiều người Ấn không biết đến Giáo Hoàng.  Có thể có kẻ chống đối Vatican nữa.  Nhưng Mẹ Têrêsa đi đến đâu, người ta xếp hàng xin chúc lành.  Mẹ đã vẽ một chân dung rất trung thực về Thiên Chúa cho nhân loại.  Thiên Chúa của Tình Thương.  Công việc và đời sống của người đàn bà này rất giản dị.

ME TERESA

Đối với tín đồ Bà La Môn, không chỉ người chết mới là thánh.  Ngay người sống cũng là thánh.  Các nhà Sadhu khổ hạnh, các bậc thiền tu, họ là thánh.  Có danh từ “Phật sống” là thế.  Bởi đó, chân dung Mẹ Têrêsa là chân dung “Phật sống”, chân dung đầu thai của một thánh nhân.

Thiên Chúa đã dùng người đàn bà này để vẽ chân dung Thiên Chúa bằng ngôn ngữ thật tuyệt vời.  Một người đàn bà thấp lùn, không có tướng mạo duyên sắc.  Một người đàn bà không bằng cấp nói về chân dung rất chân thực của Chúa cho một tỉ người trên đất Ấn Giáo với không biết bao nhiêu nghìn năm bám vào đẳng cấp hệ luỵ.

Khi để Thiên Chúa dùng, chẳng ai trong chúng ta là người nhỏ bé.  Tất cả chúng ta được dựng nên trong ân sủng phi thường của Ngài.

Phải chăng vì thế Mẹ Têrêsa đã nói: “Tôi là cây viết chì trong tay Chúa, Ngài muốn vẽ gì tùy ý Ngài”.  Phải chăng vì thế, Chúa đã lấy tình thương trong trái tim Mẹ để vẽ chân dung Giáo Hội trong thế kỷ hôm nay.

Lm. Nguyễn Tầm Thường, SJ

****************************** ******

Con chỉ là một Cây bút chì, rất nhu mì chẳng có là chi.
Trong tay Chúa, Chúa vẽ muôn diệu kỳ.  Quá diệu kỳ
Khi con mọn thực thi thiên ý, khiêm hạ xóa bỏ mình đi.
Trong tay Chuá, Chúa vẽ muôn diệu kỳ, rất diệu kỳ
***
Trong tay đấng toàn năng, thượng trí, con xin được làm cây bút chì
Một cây bút chì cỏn con, thật ngoan ngoãn và dễ thương
Trong tay Chúa, tài hoa tuyệt mỹ, bút phóng họa trường thiên trác tuyệt
Ngợi ca Chúa Trời hiển vinh, cảm mến phúc lộc Thiên đình

“Cây Bút Chì Trong Tay Chúa”– Hải Triều

langthangchieutim gởi

Nếu địa đàng, chẳng còn gì để nhớ

Suy Tư Tin Mừng Trong tuần thứ 7 thường niên năm A 19/02/2017

 Tin Mừng: (Mt 5: 17-37)

 Hôm ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành. Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời.

 “Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt. Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng.

  “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục.

 “Luật còn dạy rằng: Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình.

  “Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”.Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.”

                                  &    &   &

Nếu địa đàng, chẳng còn gì để nhớ”

“Hạt bụi rớt xuống đời, xin lẫn vào nhau…”

(dẫn từ thơ Bùi Thanh Tuấn)

 Mt 5: 38-48 

  Mai Tá lược dịch

Địa đàng cuộc sống, là chốn miền để gợi nhớ. Hạt bụi tình người, là chất liệu để yêu thương. Thương yêu, điều Chúa nhắc nhở, ở Tin Mừng, vẫn được thánh sử ghi chú, vẫn lâu nay.

Nhiều người, rất lấy làm lạ khi được bảo: Tin Mừng thánh sử viết, là bản văn viết không vào thời Chúa hoạt động, hoặc ngay sau ngày Chúa sống lại, nhưng được viết vào nhiều thập niên sau, như: “Tin Mừng theo thánh Mátthêu” chẳng hạn, đã chỉ được ghi chép vào giữa thập niên ’80, ở thế kỷ đầu. Và, người ghi chép “Tin Mừng” này không phải là Mát-thêu-thu-thuế thời Chúa sống. Cũng không là một trong số mười hai tông đồ, gần gũi Chúa. Mátthêu đây là học giả Do thái hiểu biết nhiều tiếng Hy Lạp, xuất thân sinh sống tại một quận ở ngoại ô Giêrusalem, mà người thời ấy có thói quen gọi là “thày dạy”, hoặc đấng bậc “tư tế”.

Tác giả “Tin Mừng theo thánh Mátthêu”, là vị thức giả từng hồi hướng về với Đạo Chúa, ngang qua các thừa sai của Chúa.Thánh sử Mát-thêu học được nhiều điều, qua hành động và cuộc sống từ các Đạo hữu theo chân Chúa. Đặc biệt, là các vị có liên hệ mật thiết với thánh Phêrô tông đồ, thời tiên khởi. Khi ghi chép Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, tác giả đã ở vào độ tuổi cao niên khá cứng, nhưng ông lại là người có tầm nhìn thông thoáng, thi vị. Ông đề cập nhiều đến những con người và người con có tâm tư chân phương, bình dị nhưng có tư cách.

Sử gia Mátthêu, là cây viết rất sáng giá. Thánh nhân, tuy chung đụng nhiều với người Do thái, nhưng dùng tiếng Hy Lạp để ghi chép Tin Mừng. Và, qua văn phong văn thể cùng lập trường chuyên chính rất Kitô, nên các nhà chú giải cho rằng tác giả là một trong các Kitô-hữu đầu tiên, ở thời ấy.

Tin Mừng do tác giả viết, lại gồm lời lẽ ân cần, gửi đến các đấng bậc khôn ngoan/thông thái ở Israel. Nên, nhờ đó ta học được rất nhiều điều qua các dạng thức, như: lời sấm, dụ ngôn, phương châm, hoặc tư vấn, nhất nhất đều nhấn mạnh đến điều Chúa giảng rao cho mọi người. Bởi thế nên, người đọc nhận ra những 73 lần tác giả lập đi lập lại cụm từ “tông đồ”, ở “Tin Mừng” này.

Và vì thế, người đọc cũng nên hiểu cụm từ “tông đồ” theo nghĩa các “đấng bậc khôn ngoan/uyên bác” chuyên học hỏi những điều hay lẽ phải, do từ Chúa phán ra. Và cũng vậy, người đọc đừng nên hiểu rằng tác giả “Tin Mừng” là nhà thức giả thuộc tầm cỡ đại học, chuyên ngồi trong phòng lạnh để viết. Hãy cứ tưởng tượng rằng: khi ghi chép “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” tác giả đã suy tư dưới ánh đèn dầu leo lét, với tâm tình nguyện cầu trong bầu khí ẩm ướt, nặc mùi khô cháy có lưới cá đang hơ hóng, ở đâu đó…

Nay có người hỏi: thánh sử Mát-thêu muốn chuyển tải điều gì mới mẻ, khi ghi chép Lời Chúa?

Hầu hết các cộng đoàn tin theo Chúa sống ở Giêrusalem, đều mang tính chất rất “Do thái”. Hết thảy đều thấy nơi Đức Giêsu một Môsê rất mới để các vị nghe lời. Vì, xét cho cùng, Ngài còn mới hơn cả chính tiên tri Môsê, bởi Ngài là Đấng luôn chủ trương những điều mới mẻ, nơi Lề Luật. Và, điều mới mẻ khác nữa, là: Ngài không cất bỏ đi yếu tố quan trọng sẵn có từ hậu duệ của Đavít. Và, mọi người còn nhận ra nơi Đức Giêsu, hệt như ở Môsê và Đavít, ảnh hình của Đấng Bậc Hiền Từ, rất đặc biệt. Đặc biệt, là bởi người người đều nhận thấy rằng: qua Ngài và ở nơi Ngài “Ơn Cứu Độ” đã đến, là đến với cả Dân ngoại nữa. Ngài đến, qua trung gian Israel hoặc những người Do thái, tức: những người lúc ấy vẫn ở trong tư thế cách xa và tách rời khỏi dân-được-chọn.

Và, họ coi đó như ân sủng riêng tư, nhận từ Chúa. Bởi thế nên, trở thành người hết lòng tin tưởng vào Đức Giêsu, phải là người Do thái tích cực, phóng khoáng, những người chủ trương tuân giữ Luật Torah rất Đạo. Từ đó, cộng đoàn dân Chúa đã thấy mọi người tập trung nhấn mạnh đến Luật Torah. Quyết tuân giữ Lề Luật cách kiên trì, nhưng thông thoáng. Tuân và giữ, theo tinh thần tự do của người con Đức Chúa, mới đúng.

Vốn đặt nền tảng vững vàng lên truyền thống rao giảng kiểu thánh Phaolô Tông đồ, Hội thánh Chúa khi ấy đã có tầm nhìn rất khác lạ về Lề Luật. Và, Hội thánh đã coi Đức Giêsu là Đấng Bậc rất Do thái, chủ trương giữ Luật Torah thật đúng qui cách nhưng tự do, phóng khoáng, cho đúng nghĩa. Kể từ đó, Hội thánh vốn có sẵn tinh thần giảng rao của thánh Phaolô, lại đã khám phá ra rằng: tự do con cái Chúa là một hiện hữu rất đích thực, khi ta tuân thủ Lề Luật, rất Torah.

Là người Do thái sống ở miền Bắc xứ Palestin thời tiên khởi, thánh sử Mát-thêu xuất xứ từ một quá trình cuộc sống, có lập trường khá bảo thủ. Chí ít, là truyền thống giữ luật đúng qui cách, như Chúa dạy. Thánh sử cũng lo rằng nhiều truyền thống có thể sẽ mai một đi nếu không có người bận tâm lo duy trì nó. Và, thánh sử còn một mối lo ngại nữa, cứ e rằng: rồi ra sứ vụ tông đồ rao giảng kiểu Phaolô thánh nhân, có thể sẽ khiến truyền thống của người Do thái trở thành thứ yếu, mất đi tầm quan trọng. Do đó, thánh sử gia đã cảm thông với tình huống mà cộng đoàn Hội thánh ở Giêrusalem đang sống, dù cho thánh sử không thuộc về cộng đoàn này.

Cũng vì thế, tác giả quyết tâm tái cấu trúc cộng đoàn theo kiểu cộng đoàn dân Chúa ở Giuđêa, nghĩa là: không chỉ rập theo khuôn phép cũ của người Do thái, nhưng còn phổ biến lối sống của cộng đoàn Hội thánh Giêrusalem, hoặc có khuynh hướng mục vụ rao giảng theo kiểu của thánh Phaolô. Bởi thế nên, người đọc nhận ra rằng: “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” cũng mang dáng vẻ bảo thủ qua việc đòi mọi người giữ luật cho đúng qui cách. Chí ít, là cải cách niềm tin của người Do thái theo khuôn khổ “chiên lạc rời khỏi ràn nhà Israel”. Thành thử, tinh thần của thánh sử và của cộng đoàn nơi thánh nhân sinh hoạt vẫn có khả năng duy trì mối liên kết chặt chẽ với đền thờ người Do thái.

Tuy nhiên, thánh sử Mát-thêu không quên rằng: chính Đức Kitô mới là Đấng ta cần tin vào Ngài. Thánh sử diễn tả lập trường này theo lối viết giản đơn, rất thông thường, rằng: thay vì ta áp dụng nguyên tắc đền và bù như: “mắt đền mắt”, “răng đền răng”, tác giả lại khuyên người đọc Tin Mừng của ngài, hãy nên sử dụng đường lối bất-bạo-động. Và, thay vì phòng thủ hoặc trả thù, thánh sử đề nghị ta nên khoan dung, độ lượng.

Thay vì lo cho riêng mình, hãy quan tâm ái ngại đến người khác. Với thánh sử Mát-thêu, đây không phải là lạc quan sáng suốt, cũng chẳng là đường lối tư riêng độc quyền của người Hy Lạp, nghĩa là đường và lối chỉ chú trọng vào cuộc sống tư riêng của người khác, thôi. Nhưng, là: hãy áp dụng luật Torah theo qui cách thương yêu, như Chúa đã khuyên dạy.

Điều cốt thiết mà thánh sử nhận ra nơi lời dạy của Chúa, là: Ngài là người giữ luật Torah, rất đúng cách. Tuy nhiên, Ngài chú trọng đến tinh thần, chứ không phải chữ viết của Luật. Nói cách khác, người đọc “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu không thể hiểu Luật Torah cho đúng cách, nếu không thi hành lời dạy của Đức Giêsu cũng như cộng đoàn nhỏ bé của Ngài, là Hội thánh thời tiên khởi. Bởi, cộng đoàn Hội thánh mới là người sống thực Luật Torah theo tinh thần Chúa đề ra. Và, thánh sử lại thêm rằng: dân con thành thánh Giêrusalem không chắc đã nhận ra được điều này. Vì thế nên, người đọc “Tin Mừng” có thể kết luận rằng: tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” quả là phóng khoáng cũng rất đúng.

Vậy, người đọc hôm nay học hỏi được điều gì qua sự việc này?

So sánh kinh nghiệm của các thừa sai tông đồ thời tiên khởi với kinh nghiệm thời Hậu-Công Đồng Vatican II, dân con Hội thánh nhận ra được điều gì? Ta có nhận ra được năng lực và tự do con cái Chúa nơi cộng đoàn Hội thánh tiên khởi theo kiểu thánh Phaolô không? Phải chăng, so sánh kinh nghiệm về cố gắng ‘tái lập’ di sản được bảo tồn, đáng yêu từ một truyền thống rất đúng đắn? Truyền thống, có là qui cách mà tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” hằng cảnh báo Hội thánh hãy trở về với tính chất Do thái, ở lai thời không?

Nếu tác giả “Tin Mừng theo thánh Mátthêu” nay còn sống, hẳn ông sẽ yêu cầu các đấng bậc vị vọng trong Hội thánh hôm nay, hãy quan tâm nhiều hơn nữa đến việc tái tục truyền thống đã có từ thời tiên khởi? Và, Hội thánh cũng nên nhìn vào Đức Giêsu hơn là các truyền thống mà các ngài muốn duy trì, bảo vệ. Hẳn rằng thánh sử Mát-thêu cũng sẽ yêu cầu mọi thành viên Hội thánh hôm nay hãy có tầm nhìn phóng khoáng và cởi mở, tốt hơn là ở lại với truyền thống xưa/cũ. Như Đức Giêsu khi xưa, vẫn đứng về phía những người duy trì Luật Torah, bằng tinh thần chứ không theo từng chữ. Và, ảnh hình Chúa chấp nhận dìm mình thanh tẩy nơi sông Giođan, sẽ là bằng chứng điển hình cho việc tuân giữ Luật Torah, rất tự do lại có tinh thần thương yêu đúng qui cách.

Thật khó mà thiết-lập được quân bình cho cơn sóng dồn và sức ép từ Lề Luật, thế mà Ngài vẫn chấp nhận dầm mình dưới giòng sông Giođan để chứng tỏ tinh thần giữ Luật đúng cách. Nhưng, tác giả “Tin Mừng theo thánh Mátthêu” vẫn sẽ là vị học giả cao niên, chín chắn. Là vị thức giả hiểu rõ hơn ai hết tinh thần của người Do thái. Hiểu Đức Kitô và người nghèo, hơn ai hết. Tác giả “Tin Mừng theo thánh Mátthêu” chính là người có được nhận thức mới về sự khôn ngoan, thông suốt cho mỗi người chúng ta.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn

  Mai Tá lược dịch

Từng ngày nao, nồng-nàn từng câu ca dao,

httpv://www.youtube.com/watch?v=cJIScRWJcQY

Dòng thời gian – Phan Đình Tùng (st: Nguyễn Hải Phong)

Chuyện Phiếm Đọc Trong Tuần thứ 7 mùa Thường niên năm A 19/02/2017

“Từng ngày nao, nồng-nàn từng câu ca dao”,

Từng ngày lặng-lẽ sống với kỷ-niệm ngọt ngào.

Mình quên những giấc chiêm bao.

Qua rồi một thời yêu đương sớm tối

Giữa thênh-thang bầu trờ, nắng gió muôn nơi.”

(Nguyễn Hải Phong – Giòng Thời Gian)

(Mt 5: 12)

 Trần Ngọc Mười Hai

Với nhiều người, quả y như rằng: đời mình là như thế đấy. Với một số người khác, thì: cũng qua rồi “một thời yêu đương sớm tối giữa thênh-thang bầu trời”, rất khôn nguôi.

Với tất cả mọi người, thì: cuộc đời người thường có nghĩa: “giữa thêng-thang bầu trời”, người thời nay không còn nhìn thấy “một thời yêu thương sớm tối” nữa, thì làm sao thấy được cuộc sống xã hội hôm nay, ngày ngày gặp toàn chuyện trái khuấy, kỳ lạ như nhận-định của ai đó trên mạng vi-tính có những lời lẽ sau đây:

“Xã hội này lạ lắm! Con người nay vui lắm. Giới bác-sĩ, thì chỉ muốn con bệnh mình cứ bệnh mãi, bệnh hoài để còn tìm đến mà chữa-trị. Lớp kỹ-sư, lại cứ muốn đồ đạc trong nhà/ngoài ngõ cứ bị hư. Thợ làm răng, lại những muốn người bị bệnh rang sâu, sứt mẻ hoặc vỡ/bể để còn làm những bộ rang giả khá đắt tiền. Đến như thày/cô, lại vẫn cứ mong sao cho đám trẻ mãi mãi khờ-khạo cứ là dễ bảo, để dạy kèm tăng học-lực. Thợ xây-dựng, thì cứ muốn nhà cửa hư-hỏng suốt, để còn xây thêm và chữa mãi không thôi. Chủ tiệm áo quan vẫn muốn nhiều người chết tốt, để bán hòm. Duy, có mỗi tay ăn trộm lại cứ muốn mọi người khấm khá hơn xưa để có cơ-hội mà thăm viếng, kiếm chút cháo… Thế đó, là xã hội thời hôm nay và mai ngày, cứ thế mãi.”

 Thế, Giáo hội phụng thờ Đức Chúa, thì sao?

Vâng. Đây là câu-hỏi tuy nghe nhiều vẫn thấy hay hay, nên trả lời cho đúng đắn! Trả lời vấn-nạn ở đây, quả thật không dễ. Không dễ chút nào, bởi: hôm nay đây, trong lòng Hội thánh Công-giáo được tiếng là “Giáo-hội duy-nhất, thánh-thiện và tông-tryền”, rày đã thấy có dấu-hiệu rạn-nứt/bất-đồng giữa một số hồng-y giáo-chủ và Giáo-hoàng cùng một gốc gác với Giáo Tông, Giáo . Không tin ư?

Vậy thì, mời bạn và tôi, ta cứ để mắt nhìn vào một vài sự-kiện mới xảy ra ở La Mã, rất Vaticăng.

 Nhưng, trước khi đi vào tìm hiểu chi-tiết về một “rạn-nứt/bất-đồng trong Giáo hội, cũng mời bạn và tôi, ta nghe tiếp nhạc-bản vừa trích-dẫn để có hứng mà bàn cho kỹ. Nhạc bản “Giòng Thời-gian” lại có những ca-từ đầy thi-tứ như sau:

Thời gian qua đi… bộn bề nhiều lần suy nghĩ…

đời ngọt ngào thì đôi khi…
Tình yêu nơi đâu…

vội vàng tìm hoài không thấu…
Thôi… dừng làm chi… rồi lại đi…
Bao nhiêu năm rồi làm gì và được gì…

ngày tháng sao vội đi đôi khi không như ý…

trôi qua bao nhiêu năm nữa có lẽ ta không ngây ngô… như bây giờ…
Bao nhiêu cho vừa, từng ngày và từng giờ…

cành lá sao lặng im như thôi…
không mong nhớ…

cho ta bao nhiêu năm nữa có lẽ bao nhiêu đây thôi…
Cho ta nhìn thời gian trôi… “

(Nguyễn Hải Phong – bđd)

Rồi cứ thế, ca từ của bài hát cứ nhẩn nha đưa ta về cõi đường dài, “nhiều chông gai” có những“tháng ngày buồn ở lại”, ngày vui mau phai” có “cơn đau nặng nề”, “khốn khó lê thế”… rất như sau:

 “Đường còn dài… và còn nhiều hơn chông gai…
Rồi thì lặng lẽ những tháng ngày buồn ở lại…

ngày vui dễ lắng… mau phai…
Mai về nhìn lại cuộc đời vui ghê…

về nhìn lại yêu thương vẫn thế…

giữa cơn đau nặng nề…

khốn khó lê thê…
Thời gian qua đi…

bộn bề nhiều lần suy nghĩ…

đời ngọt ngào thì đôi khi…
(Nguyễn Hải Phong – bđd)

Vâng. Cuộc đời người là như thế. Thế nhưng, bên trong Giáo hội Công giáo hôm nay, cũng thấy xuất-hiện “nhưng cơn đau nặng nề, lê thê, khốn khó. Khốn và khó, nhưng bài viết bên dưới từng bật mí những bí mật sau đây:

“Một lần nữa, Đức Giáo Hoàng Phanxicô lại khiến cho các viên chức Vaticăng ngỡ ngàng khi ngài chúc mừng Giáng sinh 2016 bằng lời loan báo sẽ có cải-tổ Giáo-triều Rôma và cái-gọi-là “những hành-xử đầy cởi mở”, “việc giấu diếm” và các loại ảnh-hưởng xấu xuất tự chống-đối đang gặp.

 Ngỏ lời với các hồng-y và giới chức lão-thành của Giáo-triều Rôma tập-họp tại Vaticăng hôm ấy, Đức Phanxicô nói: sở dĩ có sự cải-tân Giáo triều này là do yêu-cầu của các hồng-y từng bàn-thảo trước mật-hội năm 2013. Đức Giáo-hoàng có liệt-kê 12 tiêu-chuẩn hướng-dẫn công-cuộc cải-tổ này và ngài cũng nói đến “ba thể-loại phản-chống” mà Giáo-hội đang gặp. Và, để trả lời với những người cho rằng cuộc cải-tổ này sẽ thành-tựu một cách không đáng kể và các vị ấy cũng chỉ đưa ra một số tiến triển không là bao.

 Đây là năm thứ 3 qua đó vị Giáo Hoàng người Argentina này đi sâu vào khía cạnh chính cuộc sống của Giáo triều Rôma, tức dịch-vụ dân-sự của Giáo hoàng. Năm 2014, ngài có vạch ra “15 căn bệnh” hoặc “yếu điểm” mà các giới chức trong Giáo triều đang gặp. Năm 2015, ngài lại đưa ra các phương thuốc giải-trừ cho các tật bệnh này bằng cách liệt kê danh-sách các đặc-tính thiết-yếu mà Giáo-triều cần nắm vững để trau-dồi.

 Năm nay 2016, Đức Phanxicô lại đóng khung cuộc nói chuyện của ngài quanh vấn-đề linh-đạo nhập-thể. Nhân lúc diễn-tả Giáng Sinh như lễ hội của “tình thương yêu khiêm-hạ của Thiên Chúa” đặt nặng lên lập-luận đầy khoa-học-tính của con người, ngài nhắc mọi người rằng: Thiên Chúa chọn sinh ra trong cảnh thấp hèn, vì Ngài muốn mọi người yêu mến Ngài” và vốn dĩ là người bé nhỏ, mỏng dòn, yếu ớt nên không ai cảm thấy xấu hổ khi đến với Ngài, không ai hãi sợ Ngài hết.

 Đức Phanxicô nói: lập-luận đầy khoa-học của Thiên-Chúa hối-thúc lập-luận đầy lý lẽ của thế-gian, thứ lập-luận của quyền-lực, đội binh, rất Pharisêu, đầy cơ-hội hoặc xác-định. Đức Giáo hoàng còn nói rõ rằng đây là thứ lập-luận thật sự tạo sức sống cho Giáo-triều Rôma và củng-cố việc cải-tổ rất cần-thiết…    

      Ngài nêu rõ: “Cải tổ” có nghĩa “thuận theo” tin vui an bình của Lời Chúa trong Phúc Âm vốn dĩ phải được công-bố một cách vui tươi đầy can-đảm cho hết mọi người, đặc-biệt là người nghèo và những người bị loại trừ khỏi xã-hội họ đang sống, “phù hợp với các dấu chỉ của thời-đại để ta có thể đáp trả một cách tốt đẹp với nhu-cầu của nam nhân và nữ phụ hôm nay. Điều đó còn có nghĩa “phù hợp” với thừa-tác-vụ của người kế vị thánh Phêrô và hỗ trợ ngài trong chức vụ quan-yếu này…

 Đức Phanxicô còn cho biết: công-cuộc cải-tổ chỉ thành-tựu một cách hiệu-năng nếu được các giới chức đã “cải-tân” chứ không phải các quan-chức mới vào làm. Bởi lẽ, thay đổi nhân-sự không thôi cũng chưa đủ. Cần thiết phải “cải-tân các thành-viên của Giáo-triều cả về mặt linh-thiêng, nhân-bản lẫn chức-nghiệp” nữa. Nếu không có sự “hồi hướng trở về của các vị” này và nếu không chịu “thanh-sạch-hoá thường-xuyên”, thì không thể có cải-tổ được.

 Trong cải tổ, ta luôn gặp các khó khăn, đó là chuyện bình thường và cũng an lành nữa; và ngày hôm nay những việc như thế đều gặp phải “nhiều thể-loại chống-đối” vừa theo cách cởi mở, công khai hoặc có ác ý cũng không chừng…” (X. Gerard O’Connel, Pope Francis speaks about the Reform of the Roman Curia and the Resistance to it, Dispatched 22/12/2016).

Nói cho cùng, thì: cải-tổ nào cũng gai góc, sơ cứng và đôi khi rất khó chịu. Riêng với Giáo hội Công-giáo, 50 năm về trước cũng đã có một cải tổ khá lớn rộng cả một giáo hội qua cái-gọi-là “Công Đồng Vaticăng 2”, chứ không chỉ mỗi Giáo triều Rôma mà thôi; thế nhưng, sau 50 năm có lẻ, mọi chuyện cứ “y nguyên”, vẫn như cũ.

Thành thử, cứ như ca từ của nhạc-bản ta vừa hát, cũng nên lập lại đôi ý-từ cùng ý-tứ những nhắn nhủ mọi người bằng giòng nhạc, cứ hát rằng:

“Tình yêu nơi đâu…

vội vàng tìm hoài không thấu…
Thôi… dừng làm chi… rồi lại đi…
Bao nhiêu năm rồi làm gì và được gì…

ngày tháng sao vội đi đôi khi không như ý…

trôi qua bao nhiêu năm nữa có lẽ ta không ngây ngô… như bây giờ…
Bao nhiêu cho vừa từng ngày và từng giờ…

cành lá sao lặng im như thôi
không mong nhớ…

cho ta bao nhiêu năm nữa có lẽ bao nhiêu đây thôi…
Cho ta nhìn thời gian trôi…”

(Nguyễn Hải Phong – bđd)

Cứ “nhìn thời gian trôi”, rồi sẽ thấy nhiều thay-đổi. Cứ tìm “Tình yêu nơi đâu”, “vội vàng tìm hoài không thấu”, rồi cũng thấy “bao nhiêu năm rồi làm gì và được gì…” và cứ thấy “ngày tháng vội đi khi không như ý”,… Bởi, Giòng thời gian cứ thế trôi qua, dù con người có phản-chống, cải-tổ hoặc làm gì đi nữa.

Nói thế không để bảo rằng: ta cứ thế mặc kệ mọi chuyện ciễn tiến trong/ngoài xã-hội và giáo-hội. Nói thế, chỉ để nói rằng: thời gian cuộc đời người còn trôi nhanh hơn mọi người tưởng. Thế nên, hay nhất là ta cứ vui hưởng cuộc sống rất hiện tại, dù mai ngày có ra sao, tích-cực hoặc tiêu-cực.

Nói thế, để đề-nghị với bạn và với tôi, ta lại sẽ đi vào vùng trời thánh-hiến có những Lời Vàng của đấng thánh-hiền từng bảo ban như sau:

“Anh em hãy vui mừng hớn hở,

vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời

thật lớn lao.”

(Mt 5: 12)

Hãy vui mừng và hớn hở, còn là và sẽ là những gì ta gặp không chỉ là phần thưởng ở trên trời mà thôi. Nhưng đã tỏ hiện ngay tại đây, lúc này ở Nước Trời Hội thánh hôm nay, trong đó mọi người không còn “đi tìm” tình-yêu nữa. Nhưng đã thấy và thực hiện tình yêu ấy cho nhau, suốt mọi ngày, trong đời.

Quyết thế rồi, nay mời bạn và mời tôi ta đi vào vườn hoa châm ngôn và truyện kể để sẽ thấy rằng “giòng thời gian” từng làm cho con người sống vui tươi, hớn hở dù lâu nay trải qua nhiều đoạn đường dài khắc khổ, sầu muộn đến chán nản.

Châm ngôn và truyện kể ở trong đời là những kinh nghiệm từng trải mà người đi trước viết lại cho người đi sau để thưởng lãm, suy-tư hầu có quyết-tâm sống những ngày dài sắp xảy đến. Châm ngôn và truyện kể, còn là những kể lể về thời gian trải dài trong cuộc sống, vẫn “cần đến một chữ duyên” như sau:

 “CUỘC SỐNG CŨNG CẦN MỘT CHỮ DUYÊN

1. Giữa người với người, có thể gần, cũng có thể xa.
Giữa việc với việc, có thể phức tạp, cũng có thể giản đơn.
Giữa tình cảm với nhau, có thể sâu, cũng có thể cạn.
2. Đừng mong cầu mọi người đối xử với mình đặc biệt, cũng chẳng nên hy vọng họ sẽ bớt đi những toan tính.
3. Cuộc sống có người nói ít làm nhiều, cũng sẽ có kẻ chỉ biết hoa chân múa tay. Bạn không nên quá bận lòng, chỉ cần quản tốt việc của bản thân, còn lại mọi việc hãy thuận theo nhân duyên.
4. Đức Phật từng nói: Với người không có duyên, dù bạn nói bao nhiêu lời cũng là thừa; còn như đã hữu duyên thì chỉ cần xuất hiện, bạn cũng có thể đánh thức mọi giác quan của họ.
5. Có một số việc, vừa phân trần trắng đen đã trở thành quá khứ.
Có một số người, giận hờn vài ngày đã trở thành dĩ vãng.
Có những nỗi đau, vừa cười lên đã tan thành bọt nước.
Có những hoàn cảnh, nhờ chịu chút thương đau mà trở nên kiên cường.
Cuộc sống cũng cần một chữ Duyên
6. Đôi khi hôm nay là việc lớn, ngày mai nhìn lại chẳng có gì đáng kể. Năm nay quan trọng, sang năm sẽ trở thành thứ yếu. Chuyện vĩ đại đời này, đời sau người ta gọi là truyền thuyết.
7. Chúng ta, nhiều nhất cũng chỉ là câu chuyện của một người. Vì thế trong cuộc sống hay công việc, nếu gặp chuyện không vừa ý, hãy nói với bản thân: “Hôm nay sẽ qua đi, ngày mai rồi cũng đến, hãy buông bỏ tất cả để bắt đầu ngày mới!”
8. Trên đời, có một số việc không phải không để tâm, mà để tâm cũng không làm được gì hơn.
9. Cuộc sống không có “Nếu Như”, chỉ có “Hậu Quả” và “Kết Quả”
10. Đón nhận đời mình như thế nào là do bản thân lựa chọn, người khác không thể quyết định thay.
11. Trưởng thành rồi, bạn sẽ biết cách lấy nụ cười đối diện với tất cả.” 
(tác giả ST Sưu tầm)

Nói cho cùng, thì “Giòng thời gian” là giòng chảy gồm nhiều giai-đoạn của cuộc đời làm nên đời người. Giòng chảy ấy, có tốt có xấu, có cả những sự và việc khiến mọi người như bạn và tôi đồng ý hay bất ưng, vui vẻ hay sầu buồn. Tất cả, vẫn chỉ là một quyết tâm. Quyết tâm sống những chuỗi ngày còn lại sau khi gặp nhiều sự việc diễn tiến trong đời mình.

Quyết thế rồi, nay mời bạn và tôi, ta cứ hiên ngang ngẩng đầu nhìn về đằng trước rồi se sẽ hát những ca-từ vừa trích dẫn ở trên mà rằng:

“Đường còn dài… và còn nhiều hơn chông gai…
Rồi thì lặng lẽ những tháng ngày buồn ở lại…

ngày vui dễ lắng… mau phai…
Mai về nhìn lại cuộc đời vui ghê…

về nhìn lại yêu thương vẫn thế…

giữa cơn đau nặng nề…

khốn khó lê thê…
Thời gian qua đi…

bộn bề nhiều lần suy nghĩ…

đời ngọt ngào thì đôi khi…
(Nguyễn Hải Phong – bđd)

Vâng. Đường đời vẫn còn dài, nhiều chông gai. Dù đó có là “những tháng ngày buồn” gì đi nữa, hãy cứ trông cậy vào “Giòng thời gian” cứ tuôn chảy mãi không thôi. Tuôn chảy rồi, sẽ thấy cuộc đời vẫn êm ả như những tháng ngày buông trôi thời thơ ấu, rất nên thơ.

 Trần Ngọc Mười Hai

Và ý-nghĩ thoáng qua

Khi kịp nghe bài hát Giòng thời gian

Của Nguyễn Hải Phong

Rất thường tình.

TÌNH YÊU BIẾN KẺ THÙ THÀNH BẠN HỮU

 TÌNH YÊU BIẾN KẺ THÙ THÀNH BẠN HỮU

 Tin Mừng các Chúa Nhật liên tiếp trình bày những giáo huấn mới mẻ của Chúa Giêsu so với luật cũ của Cựu ước.

 Chúa Nhật IV, Chúa Giêsu là Môisen mới, đứng trên núi Sinai mới (núi Bát Phúc) công bố luật mới của Nước Trời (Tám mối Phúc thật).

 Chúa Nhật V, sau khi công bố Hiến Chương Nước Trời, Chúa Giêsu khuyến khích các môn đệ, những công dân mới của Nước Trời, hãy đem những giáo huấn của Người ra thi hành.  Sứ mạng cao cả của người công dân Nước Trời là muối cho đời, ánh sáng thế gian.

 Chúa Nhật VI, Chúa Giêsu so sánh luật mới của Người với luật cũ của Môisen.  Luật mới kiện toàn luật cũ.  Chúa Giêsu đưa ra 4 trường hợp cụ thể:

 –      Luật cũ cấm giết người.  Luật mới dạy, phải coi người khác là anh em.  Thương yêu nhau, nếu có gì bất hòa thì hòa giải với nhau.

–      Luật cũ cấm hành vi ngoại tình.  Luật mới ngăn chặn ngoại tình từ ước muốn.  Cần chặn đứng những gì gây nên ước muốn xấu xa như con mắt, cái tay, cái chân…

–      Luật cũ quy định thủ tục li dị.  Luật mới triệt để cấm li dị.

–      Luật cũ cấm thề gian.  Luật mới dạy sống chân thực.  Khi đã sống chân thực rồi thì không cần thề nữa.

 Chúa Nhật VII, Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn hoàn thiện luật cũ.

–           Luật cũ dạy yêu thương, nhưng lòng yêu thương ấy chỉ giới hạn trong những người Israel với nhau.  Luật mới dạy phải mở rộng yêu thương đến kẻ thù nữa.

–          Tinh thần luật cũ “mắt đền mắt, răng đền răng”.  Pháp lý của Chúa Giêsu hoàn toàn mới mẻ.  Chúa mở ra con đường mới: thiện thắng ác, tình yêu thắng hận thù.

–          Tinh thần luật cũ là chỉ yêu thương người đồng bào.  Giáo huấn mới là hãy yêu thương thù địch và làm ơn để báo oán.

 1.  “Hãy yêu kẻ thù”

“Hãy yêu kẻ thù” là giáo huấn độc đáo nhất của Chúa Giêsu.  Người đã cắt nghĩa rất cụ thể.  Yêu thương kẻ thù là:

–          Làm ơn cho kẻ ghét mình.

–          Chúc phúc cho người nguyền rủa mình.

–          Cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.

–          Ai vả má nầy thì đưa cả má kia.

          Ai lột áo ngoài thì cho cả áo trong.

–          Ai lấy gì thì đừng đòi lại…

 Lý do của thái độ nhân ái, lòng yêu thương bao la ấy là con cái phải noi gương Thiên Chúa là Cha ngự trên trời“Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…”.  “Yêu thương kẻ thù” là một nghĩa cử anh hùng, một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người.  “Yêu thương kẻ thù” là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.  Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù”, Chúa Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là để nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quảng đại tha thứ.

 “Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Chúa Giêsu.  Khó nhưng không phải là không có thể.  Chính Chúa đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá.  Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa.  Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế.  Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người.  Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân.  Như vậy Chúa Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại.  Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù.  Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.

 2.  Tại sao phải yêu kẻ thù?

Yêu người yêu mình thì dễ.  Yêu kẻ làm hại mình thật khó biết bao!  Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: “Lấy oán báo oán, oán chập chùng.  Lấy đức báo oán, oán tiêu tan.”  Lấy oán báo oán chỉ thêm hận thù mà thôi.  Bạo lực sẽ kéo theo bạo lực.  Câu chuyện tình bất hủ Roméo và Juliette đã đi vào lịch sử nhân loại.  Nhiều thi sĩ, nhạc sĩ đã viết thi ca âm nhạc ca tụng tình yêu.  Những vở kịch những cuốn phim diễn tả hấp dẫn mối tình lãng mạn của đôi tình nhân trẻ.  Nếu câu chuyện tình của họ được kết thúc một cách tốt đẹp và bình thường, chắc sẽ không có ai nhắc đến.  Nhưng Roméo Juliette là nạn nhân của sự thù hận giữa hai gia tộc.  Không ai có thể tìm cách để giải hòa được sự thù hận ấy.  Sự thù hận dẫn đến mất mát cho cả hai bên.  Sự thù hận đã cướp đi mạng sống của đôi bạn trẻ yêu nhau tha thiết.  Sự thù hận giết chết một mối tình đẹp, nhân loại ngàn đời xót xa nuối tiếc.  Sự thù hận khởi đi từ tâm hồn ích kỷ.  Bảo vệ mình bằng sự trả thù, thì càng mất mát hơn và hận thù hận ngày càng dâng cao.

 Nhạc sĩ Phạm Duy viết trong một ca khúc: Kẻ thù tôi đâu có phải là người.  Giết người đi thì ta ở với ai?  Đã là người thì ai cũng có những sai lỗi.  Nhân vô thập toàn.  Hơn nữa, mỗi người lại có những tính tình và sở thích riêng biệt, bá nhân bá tánh.  Vì vậy, đã sống chung cùng nhau chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội và những buồn phiền.  Vậy nếu hễ tức giận là báo thù, thì tôi sẽ phải báo thù kẻ lạ cũng như người quen, kẻ ngoài xã hội cũng như người trong gia đình, kẻ bên trái cũng như những người bên phải, kẻ đàng trước cũng như người đàng sau, nghĩa là phải tẩy chay, phải thanh toán hết mọi thứ người trên mặt đất này.  Phạm Duy khuyên đừng giết người vì tuy là kẻ thù, nhưng họ vẫn là người, vẫn giống chúng ta.

 3.  Tình yêu biến kẻ thù thành bạn hữu.

Trong cuộc sống, chúng ta va chạm nhau rất nhiều qua lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, một câu truyện bịa đặt thêm nếm cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn.  Chúng ta cố gắng xây dựng hòa bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha thứ.  Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta: Anh em nổi nóng ư?  Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn (Ep 4,26).

 Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh Chúa, lẽ nào Người lại tiêu diệt nó chứ?  Chúa Giêsu đến để đẩy lui sự ác, xóa bỏ tội lỗi.  Chúa không đến để tiêu diệt người tội lỗi mà để cứu vớt.  Tình yêu là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui tội lỗi nơi con người, làm thay đổi một con người.  Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối.  Chỉ có tình thương mới xóa bỏ hận thù ghen ghét.  Tình yêu có phép mầu biến kẻ thù thành bạn hữu.  Tình yêu có sức mạnh sáng tạo và cứu độ.  Đối với người Kitô hữu, lý do căn bản để yêu thương kẻ thù chính là Lời Chúa: “Anh em hãy yêu kẻ thù…  Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao” (Lc 6,35).

 Câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Sư tử ốm đã một tuần nay và nằm trong hang không dậy được.  Nó buồn lắm vì là chúa tể sơn lâm mà chẳng con vật nào đến thăm hỏi hay mang cho nó chút quà gì cả.  Nhìn cây hoa hồng bên cạnh, lúc nào cũng có bướm, có ong, có chim chóc ríu rít, đến bay lượn vui vẻ.  Sư tử bèn hỏi cây hoa hồng: Hoa hồng ơi, vì sao ngươi mảnh dẻ yếu ớt như thế, mà lúc nào cũng có bạn bè đến thăm vui vẻ, còn ta là chúa tể sơn lâm mà chẳng có con vật nào đến thăm ta cả?

 Hoa hồng trả lời: Vì tôi luôn tặng cho mọi loài màu sắc tươi đẹp và hương thơm ngào ngạt khi mọi loài đến với tôi.  Còn ngài là chúa tể sơn lâm uy quyền, nhưng ngài có tặng cho những con vật bé nhỏ thuộc hạ của ngài cái gì đâu?

 Hoa hồng là hình ảnh của con người biết yêu thương.

 Lạy Chúa, trên thập giá, Chúa đã nêu gương tha thứ cho những kẻ giết Chúa.  Xin thương củng cố tình thương của Chúa trong trái tim con, để mỗi ngày con được tiến thêm và kiên trì đi trên con đường yêu thương của Chúa cho đến cùng.  Xin thánh hóa tình yêu trong con, cho con biết yêu mến mọi người.  Amen.

 LM Giuse Nguyễn Hữu An

Langthangchieutím gởi

Ðức Mẹ Lộ Ðức

Ðức Mẹ Lộ Ðức

Buổi sáng ngày 11 tháng 2 năm 1858 tại Lộ Ðức, một thị trấn nhỏ nằm ở miền Nam nước Pháp, trời lạnh như cắt. Cô Bernadette Soubirous cùng với hai người em khác tự nguyện ra phía rừng cạnh bờ sông Gave để nhặt củi. Bernadette vừa lên 15 tuổi. Nhưng cô chưa biết đọc và biết viết. Cô vừa mới cắp sách đến trường của các sơ được một thời gian ngắn để học tiếng Pháp, bởi vì trong miền cô đang ở, mọi người đều nói một thứ thổ ngữ khác với tiếng Pháp. Hôm đó là ngày thứ năm, cô được nghỉ học. Mặc dù bệnh suyễn đang hoành hành, nhưng nghĩ đến cảnh nghèo túng của gia đình, nên Bernadette đã xin phép mẹ được đi nhặt củi.

Bình thường theo dọc bờ sông Gave, có rất nhiều cành cây khô. Nhưng suốt buổi sáng thứ năm đó, dường như chị em của Bernadette không nhặt được bao nhiêu. Bernadette mới lần mò tiến về một hang động gần đó mà dân làng có thói quen gọi là Massabielle. Cô đang loay hoay với công việc nhặt củi, thì kìa từ trong hang: một thiếu nữ cực kỳ diễm lệ xuất hiện. Theo lời mô tả của Bernadette, thì người thiếu nữ chỉ trạc độ 16, 17 tuổi. Bernadette tưởng mình như đang mơ. Cô bước thêm bước nữa. Người thiếu nữ cực kỳ diễm lệ đó chỉ mỉm cười.

Trong cơn xúc động bồi hồi, như một cái máy, Bernadette đã lôi tràng hạt từ trong túi áo ra và cô bắt đầu đọc kinh Kính Mừng trong ngôn ngữ quen thuộc của cô. Trong ánh sáng chan hòa giữa mùa đông vẫn còn lạnh đó, người thiếu nữ chỉ mỉm cười. Khi Bernadette vừa lần xong chuỗi mân côi, người thiếu nữ làm dấu cho cô tiến lại gần hơn. Nụ cười vẫn chưa tắt trên môi người thiếu nữ. Bernadette say sưa ngắm nhìn và tiếp tục đọc kinh cho đến khi ánh sáng bao trùm người thiếu nữ nhạt dần và tắt hẳn…

Ba ngày sau đó, sau khi đã có những tiếng xì xầm về hiện tượng lạ đó, bà mẹ của Bernadette nghiêm cấm không cho con gái mình trở lại hang Massabielle nữa. Nhưng do một sự thúc đẩy không thể cưỡng bách được, Bernadette đã trở lại chỗ cũ cùng với mấy chị em của cô. Lần này, khi người thiếu nữ mặc áo trắng xuất hiện Bernadette đã mạnh dạn hô lớn: “Nếu người đến từ Thiên Chúa, xin người hãy ở lại”. Người thiếu nữ mỉm cười gật đầu. Ðây là lần thứ hai người áo trắng hiện ra với cô. Lần thứ ba cũng xảy ra như thế vào ngày 18 tháng 2 và liên tiếp trong vòng 15 ngày, Bernadette đã được diễm phúc gặp Ðức Maria hiện ra và tỏ lộ cho cô một danh tánh vô cùng kỳ lạ: “Ta là Ðấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”.

Từ nơi cô đang quỳ cầu nguyện mỗi khi Ðức Mẹ hiện ra, một dòng suối nhỏ đã vọt lên có sức chữa trị mọi tật bệnh.

Ðó là nguồn gốc của hang Ðức Mẹ Lộ Ðức. Ngày nay, từng giờ từng phút, khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới tuôn đến để cầu nguyện và xin ơn. Ðến đó, dù tin hay không tin, mọi người đều cảm thấy có một sức mạnh lạ lùng lôi kéo để đốt lên một ngọn nến và quỳ gối cầu nguyện.

Hiện nay, khắp nơi trên thế giới, đều có những hang Lộ Ðức được thiết kế một cách tương tự để nhắc nhớ biến cố này cũng như kêu gọi lòng tôn sùng Mẫu Tâm.

Nhưng có lẽ ai trong chúng ta cũng có một lần mơ ước đến tận nơi để cầu nguyện. Mẹ Maria đã không hiện ra với tất cả mọi người. Phép lạ cũng không hiện ra một cách tỏ tường với tất cả mọi người đến cầu khấn. Ðiều quan trọng không phải là hành hương đến tận nơi Thánh, nhưng chính là sứ điệp mà Mẹ muốn nhắn gửi với chúng ta qua những người được diễm phúc thấy Mẹ hiện ra. Sứ điệp đó vẫn luôn luôn là hy sinh, là phục vụ và nhất là cầu nguyện

11Tháng Hai

Trích sách Lẽ Sống

Anh chị Thụ & Mai gởi

ĐTC – Sứ Điệp Mùa Chay 2017

ĐTC – Sứ Điệp Mùa Chay 2017

Pope writing a letter

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ – SỨ ĐIỆP MÙA CHAY 2017

“Lời Chúa là một tặng ân, Những Con Người Khác cũng là một tặng ân”

Anh Chị Em thân mến,

Mùa Chay là một khởi đầu mới, là một đường lối dẫn đến đích điểm chắc chắn Phục Sinh, cuộc vinh thắng của Chúa Kitô trên sự chết. Mùa này khẩn thiết kêu gọi chúng ta hãy ăn năn hoán cải. Kitô hữu được kêu xin hãy trở về cùng Thiên Chúa “bằng tất cả tấm lòng của họ” (Joel 2:12), hãy đừng an phận với những gì là tầm thường và hãy gia tăng mối liên hệ thân tình với Chúa. Chúa Giêsu là người bạn trung thành không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngay cả khi chúng ta vấp phạm tội lỗi, Người vẫn nhẫn nại đợi chờ chúng ta trở về; bằng niềm trông đợi nhẫn nại ấy Người cho chúng ta thấy rằng Người sẵn sàng thứ tha cho chúng ta (xem bài giảng ngày 8/1/2016).

Mùa Chay là một thời điểm thuận lợi để đi sâu vào đời sống thiêng liêng của chúng ta bằng phương tiện thánh hóa được Giáo Hội cống hiến cho chúng ta, đó là chay tịnh, cầu nguyện và làm phúc. Căn bản của hết mọi sự là lời Chúa, mà trong mùa này chúng ta được mời gọi để nghe và suy niệm một cách sâu xa hơn. Giờ đây chúng ta hãy lưu ý tới dụ ngôn về người phú hộ và Lazarô (xem Luca 16:19-31). Chúng ta hãy tìm thấy cái cảm hứng nơi câu chuyện ý nghĩa này, vì nó cống hiến cho chúng ta cái then chốt để hiểu được những gì chúng ta cần phải làm hầu đạt tới hạnh phúc chân thực và sự sống đời đời. Nó khuyên chúng ta hãy thành tâm hoán cải.

1- Người khác là một tặng ân

Dụ ngôn này mở đầu bằng việc giới thiệu hai nhân vật chính. Con người nghèo được diễn tả một cách chi tiết hơn: người ấy là một con người quá tệ thậm chí không còn sức mà đứng lên được nữa. Nằm ở trước cửa nhà của người phú hộ, người này sống bằng các mảnh vụn rơi xuống từ bàn của người phú hộ. Thân thể của người ấy đầy những ghẻ lở và bị các con chó đến liếm các vết thương trên mình (xem các câu 20-21). Hình ảnh này là hình ảnh về một tình trạng thật là cùng khốn bất hạnh; nó phác tả cho thấy một con người khổ nhục và đáng khinh.

Cảnh tượng này lại càng thế thảm hơn nữa nếu chúng ta lưu ý tới con người nghèo này được gọi là Lazarô: một cái tên đầy hứa hẹn, theo nghĩa đen là Thiên Chúa phù giúp. Nhân vật này không phải là một con người vô danh. Các đặc tính của con người ấy được miêu tả một cách rõ ràng và tỏ ra như là một cá nhân sống câu chuyện đời tư của mình. Trong khi con người này thực tế trở thành vô hình đối với nhà phú hộ thì chúng ta lại thấy được và biết được con người ấy như là một ai đó quen thuộc. Con người này trở thành một khuôn mặt, và như thế, là một tặng ân, một kho tàng vô giá, một con người được Thiên Chúa yêu thương và chăm sóc, bất chấp thân phận thực tế của con người này như là một kẻ bị loại trừ (xem bài giảng ngày 8/1/2016).

Nhân vật Lazarô dạy chúng ta rằng những con người khác là một tặng ân. Mối liên hệ đúng đắn với con người ta là ở chỗ ưu ái nhìn nhận giá trị của họ. Ngay cả con người nghèo khổ ở ngay cửa nhà của nhà phú hộ này không phải là những gì rầy rà phiền toái mà là lời hiệu triệu hoán cải cùng đổi thay. Dụ ngôn này trước hết mời gọi chúng ta hãy mở cửa lòng mình ra cho người khác, vì mỗi một người là một tặng ân, dù là người hàng xóm láng giếng của chúng ta hay là một kẻ ăn xin vô danh tiểu tốt. Mùa Chay là một thời điểm thuận lợi cho việc mở cửa ra cho tất cả những ai đang thiếu thốn và nhận biết nơi họ dung nhan của Đức Kitô. Mỗi người chúng ta gặp gỡ con người ta hằng ngày như thế. Mỗi một cuộc sống chúng ta gặp gỡ là một tặng ân đáng chấp nhận, trân trọng và yêu thương. Lời Chúa giúp chúng ta mở mắt của chúng ta ra để đón nhận và yêu thương sự sống, nhất là khi sự sống đó yếu đuối và mỏng dòn dễ bị tổn thương. Thế nhưng, để làm điều ấy, chúng ta cần phải cẩn trọng lưu ý tới những gì Phúc Âm nói với chúng ta về nhà phú hộ.

2- Tội lỗi làm chúng ta mù quáng


Dụ ngôn này không tiếc lời diễn tả về những cái đối nghịch liên quan đến nhà phú hộ (xem câu 19). Không giống như Lazarô nghèo khổ, nhà phú hộ không có tên gọi; mà chỉ được gọi là “một người giầu có”. Cái giầu sang phú quí của nhà phú hộ này được thấy nơi những chiếc áo quá ư là mắc tiền của mình. Vải điều thậm chí còn quí hơn cả bạc và vàng, và vì thế được giành cho các bậc thần thánh (xem Giêrêmia 10:9) và vua chúa (xem Quan Án 8:26), trong khi vải lanh tốt cống hiến cho người ta một tính chất hết sức linh thánh. Con người này rõ ràng là muốn phô trương cái giầu sang phú quí của mình, và tỏ bày nó ra hằng ngày theo thói quen: “Hằng ngày yến tiệc linh đình” (câu 19). Nơi con người ấy chúng ta có thể thấy ngay được cái thê thảm của tình trạng băng hoại tội lỗi là tình trạng tiến triển theo 3 giai đoạn liên tục là yêu thích tiền của, phù du và kiêu kỳ (xem bài giảng ngày 20/9/2016).

Tông Đồ Phaolô đã nói với chúng ta rằng “lòng yêu thích tiền của là nguồn gốc của tất cả mọi sự dữ” (1Timôthêu 6:10). Nó là nguyên do chính yếu của tình trạng băng hoại và là nguồn gốc của ghen tị, xung đột và ngờ vực. Tiền của có thể đi đến chỗ thống trị chúng ta, thậm chí cho đến độ trở thành một thứ ngẫu tượng chuyên chế tàn bạo (xem Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, 55). Thay vì là một phương tiện giúp chúng ta làm lành và tỏ tình đoàn kết với những người khác thì nó có thể trói buộc chúng ta và toàn thế giới vào cái lý lẽ vị kỷ không còn chừa chỗ cho yêu thương và trở thành cản trở hòa bình.

Vậy dụ ngôn này cho thấy rằng lòng tham lam của nhà phú hộ biến con người này thành hư ảo. Nhân cách của con người ấy ở nơi các dáng vẻ bề ngoài, nơi việc tỏ cho người khác thấy những gì con người ấy có thể làm. Thế nhưng, cái dáng vẻ bề ngoài ấy là những gì che đậy một thứ trống rỗng nội tâm. Đời sống của con người này là một tù nhân cho những dáng vẻ bề ngoài, cho những khía cạnh hiện hữu nông nổi và mau qua nhất (xem Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, 62).

Cái thanh ngang thấp nhất của tình trạng thoái hóa về luân lý này là tính kiêu hãnh. Nhà phú hộ phục sức như là một ông vua và tác hành như một vị thần, quên rằng mình chỉ là loài chết chóc. Đối với những ai bị băng hoại bởi lòng yêu thích giầu sang, thì không có gì hiện hữu ngoài bản ngã của họ. Những gì ở chung quanh họ đều không ở trong tầm nhìn của họ. Hậu quả của việc gắn bó với tiền của là một thứ mù lòa. Nhà phú hộ đã không nhìn thấy con người nghèo đang đói khổ, đớn đau, nằm ngay ở cửa nhà của mình.

Khi nhìn vào nhân vật này chúng ta có thể hiểu tại sao Phúc Âm đã rất ư là thẳng thừng lên án lòng yêu thích tiền của: “Không ai có thể làm tôi hai chủ: họ một là ghét chủ này mà thương chủ nọ, hay gắn bó với chủ này mà khinh thường chủ kia. Các con không thể làm tôi cho cả Thiên Chúa lẫn tiền của được” (Mathêu 6:24).

3- Lời Chúa là một tặng ân

Phúc Âm về nhà phú hộ và Lazarô giúp chúng ta thực hiện việc sửa soạn tốt đẹp để tiến tới Lễ Phục Sinh. Phụng vụ của Thứ Tư Lễ Tro mời gọi chúng ta đến với một cảm nghiệm rất giống với cái cảm nghiệm của nhà phú hộ. Khi vị linh mục xức tro trên đầu chúng ta thì ngài lập lại những lời: “Hãy nhớ rằng mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro”. Cuối cùng thì nhà phú hộ và con người nghèo khổ đều chết, và phần quan trọng hơn của dụ ngôn xẩy ra ở đời sau. Cả hai nhân vật đều đột nhiên khám phá ra rằng “chúng ta chẳng mang gì vào thế gian và chúng ta cũng không thể nào mang gì ra khỏi đó” (1Timôthêu 6:7).

Chúng ta cũng thấy cả những gì xẩy ra ở đời sau nữa. Ở đó người giầu nói dài dòng với tổ phụ Abraham, vị mà người này gọi là “cha” (Luca 16:24,27), như một dấu hiệu chứng tỏ con người ấy thuộc về dân Chúa vậy. Chi tiết này lại càng khiến cho đời sống của người này lại càng tỏ ra hoàn toàn trái ngược, vì cho đến lúc ấy vẫn chẳng có chuyện đề cập đến mối liên hệ của mình với Thiên Chúa. Thật vậy, chẳng có chỗ nào cho Thiên Chúa trong đời sống của con người ấy. Vị thiên chúa duy nhất của con người này là chính bản thân mình.

Nhà phú hộ chỉ nhận ra Lazarô khi ở giữa những cực hình đời sau. Con người ấy muốn con người nghèo kia làm giảm bớt cái khổ đau của mình bằng một giọt nước. Những gì con người ấy xin Lazarô giống như những gì con người này có thể làm được nhưng lại chẳng bao giờ làm. Abraham bảo con người ấy rằng: “Trong đời sống của mình nhà ngươi đã được đầy những cái may lành, còn Lazarô thì đầy những cái tồi tệ. Giờ đây nó được an ủi ở nơi đây trong khi ngươi đang phải chịu thống khổ” (câu 25). Ở đời sau sự công bằng sẽ được phục hồi và những cái xấu trong đời sống sẽ được quân bằng lại bằng sự thiện.

Dụ ngôn này tiếp tục cống hiến cho tất cả mọi Kitô hữu một sứ điệp. Nhà phú hộ xin Abraham sai Lazarô về cảnh báo cho anh em của mình là những kẻ còn đang sống. Thế nhưng Abraham đã trả lời rằng: “Họ đã có Moisen cùng các vị tiên tri, họ hãy lắng nghe các vị ấy” (câu 29). Đụng phải những kháng cự của nhà phú hộ, Abraham nói thêm rằng: “Nếu họ không lắng nghe Moisen hay các vị tiên tri thì họ cũng sẽ chẳng tin cho dù có ai sống lại từ kẻ chết” (câu 31).

Như thế thì cái vấn đề thực sự của nhà phú hộ đã hiện lộ. Ở căn gốc về tất cả mọi thứ bệnh hoạn của con người này là không nghe lời ChúaDo đó con người này đã không còn kính mến Thiên Chúa và gia tăng việc khinh khi tha nhân của mình. Lời Chúa là những gì tồn tại và quyền năng, có thể hoán cải các tấm lòng và dẫn chúng về với thiên Chúa. Khi chúng ta khép lòng mình lại trước tặng ân lời Chúa thì chúng ta đi đến chỗ khép mình lại trước tặng ân anh chị em của chúng ta.

Các bạn thân mến, Mùa Chay là thời điểm thuận lợi để tái tấu việc chúng ta gặp gỡ Chúa Kitô đang sống động nơi lời của Người, nơi các Bí Tích cũng như nơi tha nhân của chúng ta. Lạy Chúa, Đấng đã chiến thắng các mưu mô lừa đảo của Tên Cám dỗ trong 40 ngày ở sa mạc, xin cho chúng con thấy đường lối chúng con phải theo. Xin Thánh Linh dẫn chúng con thực hiện cuộc hành trình hoán cải thực sự, nhờ đó chúng con có thể tái khám phá ra tặng ân lời Chúa, có thể được thanh tẩy khỏi tội lỗi làm cho chúng con bị mù quáng, và có thể phục vụ Chúa Kitô hiện diện trong anh chị em thiếu thốn của chúng con. Tôi khuyến khích tất cả mọi tín hữu hãy thể hiện cuộc canh tân thiêng liêng này bằng cả việc tham dự vào các Chiến Dịch Mùa Chay được nhiều tổ chức Giáo Hội phát động ở các phần đất khác nhau trên thế giới, và như thế hướng về nền văn hóa gặp gỡ trong gia đình nhân loại duy nhất của chúng ta. Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau để, nhờ được tham dự vào cuộc vinh thắng của Chúa kitô, chúng ta có thể mở cửa của chúng ta ra cho thành phần yếu kém và nghèo khổ. Để rồi chúng ta mới có thể cảm nghiệm thấy và chia sẻ trọn vẹn niềm vui Phục Sinh.

Tại Vatican ngày 18/10/2016

Phanxicô

http://w2.vatican.va/content/f rancesco/en/messages/lent/docu ments/papa-francesco_20161018_ messaggio-quaresima2017.html

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo những chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu                                                                          

Anh chị Thụ & Mai gởi