CUỐN SÁCH HAI CHỮ

CUỐN SÁCH HAI CHỮ

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Giêsu khẳng định: “Đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ.  Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.

Luật Môsê là Luật của Thiên Chúa ban.  Môsê đã làm nhiệm vụ trung gian trao lại cho dân Do thái và giải thích Luật ấy.  Người Do thái từ bao đời đã giữ Luật theo lời giải thích của Môsê.  Lề Luật là khuôn vàng thước ngọc để đánh giá một con người.  Lề Luật có tầm quan trọng số một đối với người Do thái.

Không ai có quyền bãi bỏ luật lệ, trừ chính vị ra luật hay nhà lập luật.  Trong Israel, chỉ mình Đức Chúa có quyền này, ngay cả Môsê cũng không, vì ông chỉ là trung gian truyền đạt.

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.  Ngài không gạt bỏ Luật của Thiên Chúa được trao cho Môsê, nhưng Ngài giải thích lại Luật ấy cho đúng với ý Thiên Chúa, Ngài làm cho mọi luật được nên trọn hảo.  Chúa Giêsu công bố lại ý hướng nguyên thuỷ của Thiên Chúa diễn tả qua Lề Luật, đó là Tình Yêu.  Ngài muốn đặt tình yêu làm nền tảng cho mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau : “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như bản thân mình.

Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy đến để kiện toàn lề luật.”  Lời tuyên bố quả quyết dứt khoát đến nỗi: trời đất qua đi thì lời Ngài nói vẫn tồn tại, và tất cả những ai tuân giữ lời Ngài cũng được tồn tại muôn đời trong Nước Trời.  Lời tuyên bố như đinh đóng cột làm: “thiên hạ sửng sốt vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mt 7,28; Mc 1,22; Lc 4,31).  Kiện toàn Luật Môsê và các Ngôn sứ là kiện toàn và thực hiện toàn bộ Kinh Thánh.

CUON SACH 2 CHU
Chúa Giêsu kiện toàn nội dung của Luật gồm luật Sabát, luật thanh sạch, luật hôn nhân, luật báo oán…  Đối với Chúa Giêsu, tất cả các khoản luật được lập ra là nhằm mục đích phục vụ con người, chứ không phải phục vụ cơ chế hay quyền lợi của một nhóm người nào.  Luật phải vì con người chứ không phải con người vì luật.  Luật quan trọng nhất được khắc ghi trong tâm hồn mà mọi điều luật khác phải qui về, đó là luật bác ái yêu thương.  Luật nào không còn phục vụ và làm thăng tiến con người trên phương diện tình yêu đều không còn lý do để tồn tại.

Chúa Giêsu kiện toàn tinh thần giữ luật.  Giữ luật vì lòng yêu mến chứ không phải vì hình thức vụ luật.  Óc nệ luật, vụ hình thức làm tê liệt sáng kiến và cầm chân con người trong thái độ tiêu cực, máy móc, cằn cỗi.

Như vậy, Chúa Giêsu kiện toàn lề luật bằng cách đặt cho nó một linh hồn là yêu thương.  Tất cả lề luật trong đạo đều qui về một giới răn nền tảng và duy nhất, đó là yêu thương.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu làm hoàn hảo điều răn thứ 5, điều răn thứ 6 và thứ 9, điều răn thứ 2 và thứ 8.

Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 5

Điều răn thứ 5 dạy “chớ giết người.”  Giết người là có tội.  Luật của Chúa Giêsu thì chi tiết hơn: giận ghét, mắng chửi người khác đã là xúc phạm đến người khác, đã là lỗi luật rồi: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà.  Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng.  Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt” (Mt 5, 22-23).

Chúa Giêsu dạy cho con người biết yêu thương và tôn trọng nhau.  Yêu thương thì bao dung nhân hậu, thứ tha cảm thông, hòa nhã lịch sự.  Yêu thương thì không giận không ghét, không mắng chửi.  Ngài cụ thể về đức công chính là làm hòa với tha nhân trước đã, dâng lễ cho Thiên Chúa sau.  Như thế, lễ dâng cho Thiên Chúa chỉ có giá trị khi lòng người ngập tràn niềm yêu mến và tôn trọng nhau.  Không đợi đến mức giết người mới thành khung tội nặng, khung án nặng, mà theo Chúa Giêsu thì chỉ cần giận ghét chửi mắng anh em là đã liệt vào khung hình phạt cao nhất rồi.

Luật của Chúa Giêsu thật chí lý.  Vì nếu, con người ta giữ được lòng yêu thương, tôn trọng, không giận ghét, không mắng chửi thì không có nguyên nhân dẫn đến việc giết người.

Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 6 và thứ 9

Điều răn thứ 6 dạy: “Chớ dâm dục“, và điều răn thứ 9 dạy: “chớ ngoại tình.”  Chúa Giêsu dạy tích cực hơn: Giữ tâm hồn trong sạch, cả cho mình lẫn cho người.

Không đợi đến lúc vở lỡ, không đợi phải bắt quả tang những chuyện tình vụng trộm thì tội mới thành danh tội “dâm dục” hay “ngoại tình”, nhưng ngay khi nhìn người phụ nữ mà thèm muốn làm chuyện xác thịt thì đã thành tội rồi.  Chúa Giêsu rất có lý, vì nếu không giữ cho tâm hồn trong sạch, không kềm chế những ước muốn thấp hèn, sớm muộn con người ta cũng không tránh khỏi cái vòng tục lụy kia nó cuốn vào chỗ phạm tội làm mất đi nhân phẩm cao quí là con cái của Thiên Chúa, là Đền Thờ Chúa Thánh Thần.  Mọi người sống trong sạch với cái nhìn đơn sơ như chim bồ câu, sống vui tươi với nhau thật hồn nhiên như trẻ thơ, làm cho cuộc đời hạnh phúc biết bao!
Chúa Giêsu kiện toàn điều răn thứ 2 và thứ 8

Chúa Giêsu còn dạy thêm về sự ngay chính thật thà: “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không.”  Thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra” (Mt 5,37).  Lòng ngay chính thật thà hỗ trợ tốt cho việc chu toàn luật yêu thương, tôn trọng tha nhân.  Yêu thương chân thành là nền tảng vững chắc ngăn chận mọi âm mưu gian tà của lạc thú xác thịt, của chia rẽ hận thù báo oán.

Cuốn sách hai chữ : Yêu Thương

Một câu chuyện kể rằng, có nhà vua kia lệnh cho các nhà thông thái trong đất nước của ông là hãy tóm gọn tất cả mọi chân lý vào trong một cuốn sách.  Thời gian trôi qua hàng chục năm mà chưa ai thực hiện được.  Vị quan được trao phó trách nhiệm công việc này đến thưa với vua, xin vua khất cho thời hạn.  Một năm sau, vua hỏi, vị này vẫn chưa làm được điều gì.  Vì kiến thức là một biển cả mênh mông, không thể tóm trong một cuốn sách, phương chi là một vài chục năm.  Không may, nhà vua bị bệnh, mỗi ngày một suy yếu.  Thời gian không còn tính theo năm nữa mà tính theo tháng.  Rồi bệnh của vua càng ngày càng trầm trọng.  Nhà vua hối thúc vị quan được trao phó trách nhiệm.  Vị quan này gấp rút dồn lại trong một cuốn sách.  Nhưng nhà vua nói: Bây giờ thì ta không thể đọc được nữa rồi, ngươi hãy thu ngắn lại nữa.  Cuối cùng một cuốn sách chỉ còn lại một chương.  Một chương, nhà vua cũng không còn sức để đọc được nữa.  Bệnh đã nặng, hết hơi, sức đã tàn.  Sau cùng, nhà vua nói với viên quan kia: ngươi hãy tóm lại trong một chữ thôi.  Viên quan đã tận tâm và thưa: muôn tâu hoàng thượng, nếu tất cả chân lý chỉ tóm lại trong một chữ thì thần xin bệ hạ hai chữ là: Yêu Thương.
 
Thánh Phaolô biết rõ hơn ai hết sự cao đẹp của Luật Môsê, nhưng chính vì thế mà ngài càng xác tín hơn ai hết về giới hạn của nó so với Tin Mừng Chúa Giêsu (x. Gl 3,25-26).  Đối với Phaolô: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).  Sống yêu thương là dấu ấn Thiên Chúa đã ghi khắc trong tâm hồn con người.  Mỗi người là tạo vật duy nhất được Thiên Chúa tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài.  Thiên Chúa là Tình Yêu cho nên con người cũng chỉ có một ơn gọi duy nhất, đó là sống yêu thương. Tất cả lề luật Giáo Hội ban hành là chỉ nhằm giúp con người sống yêu thương nhau.

Chúa Giêsu tha thiết kêu mời: Hãy yêu nhau “Như Thầy đã yêu anh em” (Ga 15,12).  Chúa đã yêu bằng hành động cụ thể là hy sinh cho người mình yêu.  Khi yêu nhau, người ta có thể hy sinh cho nhau thời giờ, tiền bạc, sức khỏe, công việc…  Hy sinh cao cả nhất là hy sinh mạng sống: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.”  Chúa đã thực thi sự hy sinh cao độ ấy: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (x. Rm 5,6; Ep 5,2; 1Ga 3,16), để chúng ta yêu thương: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta phải thương yêu nhau” (1 Ga 4,19), nhờ đó mà “niềm vui được nên trọn vẹn” (Ga 15,9).  Đối với Chúa Giêsu, tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn.  Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu.  Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật.

Lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu.  Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, chúng ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa.  Tình yêu sẽ làm cho chúng ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật.  Tình yêu thật vĩ đại cho những ai sống theo gương Chúa Giêsu trong hành trình cuộc đời mình.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con biết làm tất cả mọi việc chỉ vì lòng mến Chúa và yêu người. Amen.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

LỜI CHÚC HẠNH PHÚC ĐẦU XUÂN: TÁM MỐI PHÚC THẬT

LỜI CHÚC HẠNH PHÚC ĐẦU XUÂN: TÁM MỐI PHÚC THẬT

Tác giả:  Lm. Đan Vinh, HHTM

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

LỄ ĐÓN GIAO THỪA ĐẦU XUÂN

Mt 5,1-10

  1. LỜI CHÚA:“Phúc thay ai có tâm hồn  nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3)
  2. CÂU CHUYỆN:

1) HẠNH PHÚC ĐÒI TA LUÔN PHẤN ĐẤU:

Vào một buổi sáng đẹp trời, chú cún con chạy đến bên mẹ và hỏi: 
– Mẹ ơi, hạnh phúc ở đâu?
Mẹ cún con mỉm cười đáp: 
– Hạnh phúc nằm ở chiếc đuôi xinh xắn của con đó!
Cún con thích lắm, ngày nào chú cũng ngắm nghía chiếc đuôi của mình, vừa nhảy vừa vẫy vãy chiếc đuôi! Nhưng rồi bỗng một hôm, chú cún con buồn bã chạy đến bên mẹ: 
– Mẹ ơi, tại sao con chẳng bao giờ nắm giữ được hạnh phúc vậy?
Mẹ khẽ vuốt ve cún con và đáp: 
– Chỉ cần con tự tin bước về phía trước, hạnh phúc sẽ tự đi theo con thôi!!!

2) HẠNH PHÚC Ở TRONG LÒNG CHÚNG TA:

Ngày xưa, có một bầy yêu tinh tập hợp lại với nhau để lên kế hoạch làm hại con người. Một con yêu tinh lên tiếng: “Chúng ta nên giấu cái gì quý giá của con người. Nhưng mà cái đó là cái gì?”

Một con yêu tinh khác lên tiếng: “Chúng ta nên giấu hạnh phúc của con người. Không có nó, ngày đêm con người sẽ phải khổ sở. Nhưng vấn đề là chúng ta sẽ giấu hạnh phúc nơi nào mà con người không thể tìm thấy được.”

Một con yêu tinh cho ý kiến: “Chúng ta sẽ quẳng hạnh phúc lên đỉnh núi cao nhất thế giới.”

Con yêu tinh khác phản đối: “Con người rất khỏe mạnh, chuyện trèo lên đỉnh núi đối với họ không có gì khó khăn.”

“Vậy thì chúng ta sẽ đem hạnh phúc ném xuống đáy biển sâu.”

“Không được, con người rất tò mò. Họ sẽ chế tạo ra những con tàu hiện đại để đi xuống tận đáy biển. Rồi tất cả mọi người sẽ biết.”

Một con yêu tinh trẻ có ý kiến: “Hay là chúng ta đem giấu hạnh phúc ở một hành tinh khác.”

Con yêu tinh già phản đối: “Không được, con người rất thông minh. Càng ngày họ càng thám hiểm nhiều hành tinh khác đấy thôi.”

Suy nghĩ hồi lâu, có một con yêu tinh già lụ khụ lên tiếng: “Tôi biết phải giấu hạnh phúc ở đâu rồi. Hãy giấu nó ở chính bên trong con người. Đa số con người đi tìm hạnh phúc ở khắp chốn, khắp nơi và bao giờ họ cũng thấy người khác hạnh phúc hơn mình. Bản thân họ thì chẳng bao giờ quan tâm. Giấu nó ở đó thì con người không bao giờ tìm thấy!!!”

Tất cả các con yêu tinh đều đồng ý. Và kể từ đó, rất nhiều người mãi miết kiếm tìm hạnh phúc mà không biết rằng nó được giấu ngay trong tâm hồn của chính mình.

3) NGƯỜI GIÀU CŨNG KHÓC:

PAUL GETTY là ông chủ một hãng dầu lớn nhất tại Anh Quốc. Khu đất ông ở rộng bốn mươi mẫu tây. Tài sản của ông trị giá hàng tỷ mỹ kim. Thế mà mỗi ngày ông đều phải thức dậy làm việc từ lúc ba giờ sáng. Chung quanh ông lúc nào cũng có tới mười cảnh sát bảo vệ. Mỗi ngày, ông nhận được hàng trăm cú điện thoại và những lời đe dọa ám sát… Ông đã phải thốt lên rằng: “Tôi là người chẳng bao giờ biết đến hạnh phúc!”.

  1. THẢO LUẬN: 1) Hạnh phúc thực sự là gì? 2) Làm thế nào để đạt được hạnh phúc thực sự trong cuộc sống hiện tại và mai sau?
  2. SUY NIỆM:

Năm cũ sắp qua nhường chỗ cho năm mới đang tới. Trong dịp này, chúng ta thường chúc cho nhau những điều tốt đẹp. Chẳng hạn: Chúc cho đông con nhiều cháu, phát tài phát lộc, khỏe mạnh sống lâu… Những lời cầu chúc thường qui về ba chữ: Phúc, Lộc, Thọ. Tóm lại là chúc nhau được hạnh phúc trong Năm Mới. Nhưng thế nào là hạnh phúc thực sự?

1) Hạnh phúc là gì?

Hạnh phúc là tình trạng thỏa mãn khi đạt được những điều mong ước mà người đời thường mong ước như Phúc, Lộc và Thọ. Tuy nhiên không nhất thiết cứ có đông con nhiều cháu, cứ sở hữu nhiều nhà cửa tiền bạc, chức cao quyền trọng hoặc được sống lâu trăm tuổi là đương nhiên có hạnh phúc… Vì lòng tham con người vô đáy như người đời thường nói: “Được voi đòi tiên”, “Đứng núi này trông núi nọ”…

Người ta cũng thường chúc nhau khỏe mạnh. Nhưng khỏe mạnh vẫn chưa phải là thứ hạnh phúc thực sự. Vì nếu sức khỏe là hạnh phúc, thì chắc hẳn những nhà lực sĩ sẽ hạnh phúc nhất. Thế nhưng, không phải như vậy. Bởi vì có những người dù đau yếu, sức khỏe èo uột, thế mà nụ cười vẫn tươi nở trên đôi môi, đang khi những nhà vô địch Ô-lim-pic có sức khỏe vô địch lại thường âu lo bị soán ngôi như người ta thường nói: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị”.

Rất nhiều người đã mong ước kiếm nhiều tiền để được sống an nhàn như người ta thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được: Đồng tiền là Tiên là Phật; Là sức bật của tuổi trẻ; Là sức khỏe của tuổi già; Là cái đà của danh vọng; Là cái lọng để che thân; Là cán cân của công lý; Là triết lý của cuộc đời”…

2) Hạnh phúc thực sự do đâu ?

Hạnh phúc thật sự không nhất thiết do tiền bạc, chức quyền, sắc đẹp, sức khỏe… dù rằng những điều đó đều là ưu điểm có thể mang lại cho chúng ta niềm vui trong một lúc nào đó. Vậy hạnh phúc đích thật ở đâu?

Thực ra: Con người chúng ta không những gồm thân xác mà còn có linh hồn nữa. Cơm áo gạo tiền hay tiền bạc vật chất, địa vị chức quyền, sắc đẹp, tài năng, sức khỏe, sống lâu…  chỉ đáp ứng được những nhu cầu về thể xác bên ngoài và không bền lâu, nên không mang lại hạnh phúc thực sự. Điều quan trọng để có hạnh phúc thực sự là một tâm hồn bình an, luôn tìm thấy niềm vui như Đức Ma-ri-a, sau khi được bà chị Ê-li-sa-bét ken là có phúc, đã dâng lời ca tụng Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa. Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,46-47).

Dù thân xác chúng ta có gặp những tai nạn rủi ro và những điều trái ý, nhưng người có đức tin vẫn luôn phó thác vào Thiên Chúa và gặp được niềm vui hạnh phúc trong sự nhẫn nhịn chịu đựng, quảng đại tha thứ chỏ kẻ thù ghết bách hại mình, như Phó tế Tê-pha-nô khi bị thù ghét ném đá sắp chết, vẫn mở miệng cầu xin: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (Cv 7,60), hoặc như Đức Giê-su khi bị treo trên thập giá sắp chết đã cầu xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).

Như thế, hạnh phúc chúng ta nhận được phải bắt nguồn từ Thiên Chúa là nguồn mạch mang lại hạnh phúc đích thực. Nơi nào có Chúa Giê-su hiện diện thì nơi ấy sẽ có sự bình an hạnh phúc như Người đã hứa: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi. Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28-29).

3) Cho thì có phúc hơn là nhận (Cv 20,35):

Trong một buổi hội thảo về hạnh phúc gồm 50 người tham dự. Diễn giả khởi đầu bằng một hoạt động tập thể. Ông đưa cho mỗi người một quả bóng và yêu cầu họ viết tên của mình lên trái bóng bằng bút lông. Sau đó, số bóng được thu hết lại rồi bỏ sang một phòng khác.

Rồi 50 người này được tập trung tại phòng chứa bóng và được yêu cầu tìm quả bóng ghi tên của mình trong thời gian 5 phút. Mọi người đều lao vào giỏ xô đẩy nhau để tìm kiếm và căn phòng trở nên hỗn loạn, nhưng khi hết 5 phút mà không mấy ai tìm thấy trái bóng tên mình.

Sau đó, vị diễn giả lại yêu cầu mỗi người tự nhặt lên một quả bóng bất kỳ rồi tìm chuyển cho người có tên ghi trên bóng. Chỉ trong vòng 5 phút, ai nấy đều đã có được quả bóng của mình.

Lúc này, vị diễn giả mới dẫn vào đề tài về hạnh phúc: Trong cuộc sống, mỗi người đều hối hả đi tìm hạnh phúc của mình, nhưng thực ra lại không biết chúng nằm ở đâu.

Hạnh phúc của chúng ta nằm trong hạnh phúc của người khác. Hãy tìm cách làm cho người xung quanh có được hạnh phúc của họ, rồi chúng ta cũng sẽ được người khác mang lại hạnh phúc cho ta. Cũng như câu chuyện trên cho thấy: khi náo loạn đi tìm bóng mà không thấy. Họ chỉ cần trao bóng hạnh phúc cho kẻ khác là chính họ cũng sẽ tìm được hạnh phúc của chính mình. Hãy cứ cho đi rồi sẽ được nhận lại:  Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38).

 

4) Phương thế để được hạnh phúc thực sự là sống Tám Mối Phúc:

Hạnh phúc không ở đâu xa, nó luôn ở trong lòng mình và ở bên cạnh mình. Có điều chúng ta quên điều này mà đi tìm ở nơi đâu khác và cuối cùng đã bị mất hạnh phúc.

Để luôn có hạnh phúc nghĩa là có Chúa ở cùng, là luôn có tình yêu của Chúa trong lòng mình. Muốn được như vậy, mỗi người chúng ta phải quyết tâm thực hành Tám Mối Phúc trong cách ứng xử quên mình vị tha, công bình nhân ái, như lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay: Sống khiêm hạ nghèo khó, luôn ứng xử hiền lành, chấp nhận con đường qua đau khổ vào vinh quang, luôn khát khao nên người công chính, có lòng chạnh thương những kẻ bất hạnh, có tâm hồn trong sạch, luôn ăn ở thuận hòa, sẵn sàng chịu bách hại vì sống công chính, chấp nhận bị sỉ nhục vì danh Chúa…

Niềm hạnh phúc của một tâm hồn luôn có Chúa ở cùng, cũng chính là niềm hạnh phúc mà chúng ta cần phải cầu chúc cho nhau trong giờ phút đón Giao Thừa và trong Năm Mới này. Dù chúng ta ít nhiều vẫn còn chịu đau khổ và gặp những điều trái ý, nhưng nếu thực sự có Chúa ở cùng, chắc chắn chúng ta vẫn cảm thấy vui mừng và hy vọng, bình an và hạnh phúc như thánh Phao-lô đã chia sẻ kinh nghiệm: “Tâm hồn tôi chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2 Cr 7,4b).

  1. LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giê-su. Xin cho chúng con quyết tâm thực thi tinh thần Tám Mối Phúc của Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay, thể hiện qua cách suy nghĩ, nói năng và cách ứng xử khiêm tốn, vị tha, luôn nhẫn nhịn chịu đựng, từ bi nhân hậu sẵn sàng tha thứ cho tha nhân noi gương Chúa khi xưa, để tâm hồn chúng con được bình an, vui vẻ từ ngày hôm nay, là dấu chỉ sau này chúng con cũng sẽ được hưởng an bình hạnh phúc trên Thiên Đàng với Chúa.- AMEN.

LM ĐAN VINH-HHTM

THÔNG ĐIỆP CỦA MÙA XUÂN

THÔNG ĐIỆP CỦA MÙA XUÂN

GM Giuse Vũ Văn Thiên

MUA XUAN

Mùa xuân Đinh Dậu đang về.  Vẫn biết rằng, đông qua thì xuân tới, mà lòng người vẫn thấy xốn xang, khi những tín hiệu đầu tiên của mùa xuân xuất hiện.  Thì ra, mùa xuân không chỉ là một khoảnh khắc thời gian tiếp nối xoay vần, mà còn là thời điểm mang nhiều ý nghĩa sâu sắc đối với cuộc sống con người.  Tiết trời, thiên nhiên, lòng người đều như muốn gửi đến với chúng ta những thông điệp có ý nghĩa đối với cuộc sống hằng ngày.

Mùa xuân đến mời gọi chúng ta canh tân đổi mới.  Trong suốt mùa đông, thời tiết u ám, giá lạnh.  Khi mùa xuân đến, vũ trụ thiên nhiên như bừng tỉnh và khoác trên mình một chiếc áo mới, huy hoàng lộng lẫy.  Mặt trời sau những ngày vắng bóng, nay trở lại sưởi ấm lòng người, chiếu soi vũ trụ.  Nếu tiết đông là biểu tượng của sự chết, thì mùa xuân là hình ảnh của sự sống.  Cùng với muôn loại cỏ cây, chúng ta được mời gọi canh tân cuộc đời, sang một ngã rẽ mới.  Đoạn tuyệt với mùa đông, cũng là đoạn tuyệt với lối sống cũ, còn vương nhiều khiếm khuyết, để vươn tới một tương lai tươi sáng huy hoàng hơn.  Bước sang xuân mới, người ta khép lại quá khứ, để sống cho hiện tại và hướng về tương lai với những dự phóng mới.  Lời mời gọi canh tân là một trong những sứ điệp quan trọng của Tin Mừng.  Chúa Giêsu đã khởi đầu sứ vụ bằng lời gọi sám hối vì “Nước Trời đã đến gần” (x. Mc 1,15).  Sám hối canh tân luôn gắn liền với đời sống Kitô hữu, bởi con người sống giữa trần gian luôn bị giằng co giữa nhiều khuynh hướng.  Có những khuynh hướng tốt đưa họ hướng thượng để gặp gỡ Đấng Tối cao, nhưng cũng có những lôi kéo làm cho con người chìm trong biển đam mê sa đọa.  Giữa hai ngả đường, người khôn ngoan chọn cho mình hướng đi đem lại bình an và thăng tiến; người thiển cận lại chỉ chú ý đến những niềm vui hào nhoáng nhất thời.  Mùa xuân gửi đến cho chúng ta thông điệp: hãy đổi mới cuộc đời và hãy khôn ngoan chọn lựa cho mình một hướng đi.  Người tin Chúa nhận ra nơi Đức Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa.  Người là Đường, là Sự thật và là Sự sống.  Ai tin nơi Người sẽ tìm thấy hạnh phúc và niềm vui.  Nếu người tín hữu thành tâm sám hối, là vì họ tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa.  Ngài sẵn sàng tha thứ những lỗi lầm, dù nghiêm trọng đến đâu chăng nữa, bởi Ngài là Cha nhân hậu.  Thiên Chúa vui mừng khi một tội nhân từ bỏ tội lỗi.  Cả triều thần thiên quốc cũng chung vui niềm vui ấy (x. Lc 15,7).  Nếu chúng ta luôn sống trong tinh thần canh tân đổi mới, cuộc đời của chúng ta sẽ trở nên thánh thiện vẹn toàn, vì cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời, nhờ đó, tâm hồn chúng ta sẽ thư thái và bình an.

Những mầm non mới nhú của mùa xuân mang đến cho chúng ta thông điệp hy vọng.  Ở các xứ lạnh, cây cối khẳng khiu dường như đã chết hẳn trong tiết lạnh của mùa đông, nhưng khi mùa xuân về, từ những thân cây tiêu điều ấy, lại trỗi dậy những tín hiệu của sự sống.  Cuộc sống không phải lúc nào cũng êm trôi, nhưng luôn có những khó khăn thử thách.  Có những người can đảm trỗi dậy sau những vấp ngã; nhưng cũng có những người bi quan chán nản buông trôi theo dòng sông định mệnh.  “Lửa thử vàng, gian nan thử đức,” mùa xuân gọi mời chúng ta hãy có cái nhìn lạc quan về cuộc sống, để vươn tới tương lai.  Quả vậy, phần lớn những vĩ nhân và những người thành đạt trong cuộc sống, là những người đã thất bại nhưng không chùn bước, đã vấp ngã nhưng không bi quan.  Cùng với nỗ lực phấn đấu của bản thân, người tín hữu còn tin vào ơn phù trợ của Thiên Chúa.  Ngài luôn che chở giữ gìn và chúc lành cho những ai trông cậy Ngài.  Chúa Giêsu đã trấn an các môn đệ đang kinh hoàng lo lắng: “Thày đây, đừng sợ!” (Mc 6,50).  Chúa cũng hứa: Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy và ai gõ cửa thì sẽ mở cho.  Tác giả Helen Keller đã viết: “Hãy quay về hướng mặt trời, và bạn sẽ không thấy bóng tối.”  “Quay về hướng mặt trời” chính là nhìn cuộc đời một cách lạc quan.  Hơn nữa, mặt trời là chính Đức Kitô, Đấng đang soi chiếu và hướng dẫn chúng ta.  Ai tin tưởng phó thác nơi Người sẽ không phải thất vọng.

Mùa xuân còn mang đến cho chúng ta thông điệp yêu thương.  Có dịp chứng kiến bầu khí xuân ở Việt Nam, những người bạn nước ngoài rất ngạc nhiên và thán phục trước nét đẹp văn hóa của ngày tết cổ truyền.  Ngày tết có ý nghĩa thiêng liêng tuyệt vời đối với người dân Việt.  Những người đi làm ăn xa, dù nghèo nàn cũng cố gắng trở về sum họp hội tụ với gia đình.  Sau những tháng ngày làm việc vất vả, về với người thân trong những ngày tết đến xuân về, họ quên hết mọi nhọc nhằn.  Tình yêu thương hài hòa cũng được thể hiện qua thói quen kiêng cữ không làm người khác buồn trong ba ngày tết.  Dịp tết đến xuân về cũng là cơ hội để hàn gắn những rạn nứt mâu thuẫn giữa các thành viên trong một dòng họ, một gia đình, hay lối xóm, để rồi, khi tiễn năm cũ, mọi người cũng “tiễn” luôn những xui xẻo, mâu thuẫn hận thù, để cùng sang một trang mới với mùa xuân.  Gặp nhau trong những ngày xuân mới, mọi người đều trở nên thân thiện, cầu chúc cho những điều tốt lành và mong cho mọi người hạnh phúc.   Tình yêu thương không chỉ dừng lại nơi những người còn sống, nhưng ngày cuối năm và đầu xuân mới cũng là những ngày thể hiện lòng hiếu thảo tri ân đối với những bậc sinh thành và những người đã khuất.  Vì vậy, trước tết, các phần mộ của tổ tiên đều được quét dọn sạch sẽ, được trưng bày hoa nến.  Với tấm lòng thành kính tri ân, người ta tin rằng ông bà cha mẹ và những người thân đã khuất luôn hiện diện với con cháu, và cùng về “ăn tết” với họ.

Nếu tinh thần của những ngày đầu xuân được trân trọng và phát huy trong suốt cả năm, thì cuộc sống của chúng ta sẽ rất tốt đẹp.  Những thông điệp của mùa xuân được gửi đến chúng ta như lời mời gọi hãy làm cho tinh thần của mùa xuân lan tỏa hằng ngày và khắp nơi trong cuộc sống.  Cho dù ngày mai còn nhiều khó khăn thử thách, bạn và tôi, hãy đón mùa xuân mới trong tâm tình phó thác cậy trông vào Đấng Tối Cao, vì biết rằng, không có gì mà Ngài không làm được (Lc 1,37).

Với tâm tình trân trọng quý mến, xin kính chúc quý Độc Giả một mùa xuân an lành, tràn đầy tình Chúa, thấm đượm tình người, ngàn muôn phúc lộc và may mắn bình an.

GM Giuse Vũ Văn Thiên

Xuân Đinh Dậu 2017

Langthangchieutim gởi

Đêm, mùa trăng úa …làm vỡ hồn ta.

Chuyện Phiệm Đọc Trong Tuần thứ 5 mùa Thường niên năm A 05/02/2017

“Đêm, mùa trăng úa …làm vỡ hồn ta.”
Ngập ngừng xa…suối thu dồn lá úa trôi qua.
Sầu thu, sầu lên vút mịt mù, mà e nhớ hương mùa thu.
Trăng Tầm Dương lung linh bóng sáng,

từng thoáng lệ ngân, mà hồn phân vân cuồng điên nhớ.
Long lanh tiếng Nguyệt Cầm, tiếng đàn trầm.
Ai nhớ nương tử một đêm nao trăng thanh trong lời hát…

chết theo nước xanh…Chết theo nước xanh…
Ôi, đàn trăng cũ làm vỡ hồn anh…”

(Cung Tiến – Nguyệt Cầm)

(Mt 10: 8-10)

Trần Ngọc Mười Hai

“Ôi, đàn trăng cũ làm vỡ hồn anh!” Chao ôi là lời hát, rất âm-nhạc! “Long lanh tiếng Nguyệt cầm, tiếng đàn trầm”, “chết theo nước xanh”, Ối chà là thi ca, rất ấn-tượng!

Vâng. Quả có thế. Thi-ca và âm nhạc, bao giờ cũng gây ấn-tượng cả nơi người hát lẫn người nghe. Chẳng thế mà, người người lại cứ mời bạn/mời tôi ta cứ nghe câu hát để đời, tiếp theo đây:

“Long lanh long lanh … trăng chiếu một mình,
chơi vơi chơi vơi … nhạc lắng tơ ngơi
Nguyệt cầm ơi! từng lệ ngân, chết từng mùa Xuân…
Đêm, ngời men nhớ…Nhạc tê ngời thuở xưa.
Trăng sầu riêng chiếc…

Trăng sầu riêng chiếc, sầu cho tới bao giờ?
Hồn ghê bốn bề sao ngợp hồn xanh biếc trời cao.
Kià thuyền trăng, trăng nhớ Tầm Dương, nhớ nhạc vàng,

đêm ấy thuyền neo bến ấy.
Nguyệt Cầm nghe nấc từng câu…
Có hàng mây trắng về đâu?
Mắt chìm sâu, đêm lắng đời sâu.
Nguyệt Cầm khơi mãi tình sầu .
Khơi mãi nguồn đêm …Mùa trăng úa làm vỡ hồn ta…

Ngập ngừng xa suối thu dồn lá úa trôi qua .
Sầu Thu sầu lên vút mịt mù, mà e nhớ hương mùa Thu .
Trăng Tầm Dương, lung linh bóng sáng từng thoáng lệ ngân,

mà hồn phân vân cuồng điên nhớ.
Long lanh tiếng Nguyệt cầm, tiếng đàn trầm.
Ai nhớ! Nương Tử một đêm nao trăng thanh trong lời hát,

chết theo nước xanh.. chết theo nước xanh.
Ôi, đàn trăng cũ làm vỡ hồn anh.”

(Cung Tiến – bđd)

Vâng. Hôm nay đây, lại cũng thấy “tiếng đàn trầm” của những “Nguyệt cầm” cũng khá buồn ở đời và trong Đạo, được đấng bậc thuộc Giáo hội Chính thống Nga, phát biểu như sau:

“Hôm rồi, Thượng Phụ Chính Thống Nga đã có buổi phỏng vấn với ký-giả của “Russia Today” bàn về một số vần-đề thời-thượng, trong đó có chuyện hôn-nhân đồng-tính và chuyện nghiêm-túc chính-trị. Đến từ đất nước, trong đó chính quyền nhiều lần tìm cách xoá bỏ Đạo Chúa suốt 70 năm liền, Thượng Phụ Kirill nay lại đưa ra một tầm-nhìn lịch-sử khá dài ngõ hầu đối-đầu với giới thù-địch ở nước này. Và dưới đây, là vài trích-đoạn rút từ cuộc phỏng-vấn hiếm có này:

 Nếu hỏi tại sao các chính-trị-gia Phương Tây lại cứ hay bài-bác chuyện chính-trị nghiêm-túc? Thì: câu trả lời, đại loại sẽ bảo rằng: chừng như cụm từ “chính-trị nghiêm-túc” có nghĩa là hạn-chế tự-do của người đi Đạo, không cho họ tiếp tục thực-thi niềm tin sắt đá nơi họ, mà thôi. Người xưa cứ bảo với ta rằng: Âu Châu chịu ảnh-hưởng cả từ Hy-Lạp cổ và La Mã xưa nữa. Điều đó, có thật. Nhưng nếu tính theo cân-lượng, thì ảnh-hưởng này không thể so với tầm quan-yếu của các giá-trị đạo-đức ở Đạo Chúa và các luật-lệ từ đó kéo dài hằng nhiều thế-kỷ.

 Thành thử, giả như Âu-Châu nay bị cắt đứt mọi mối liên-kết với nguồn gốc của nó, thì tự nó sẽ nảy sinh vấn-đề là nó có bị lôi kéo vào vào một thứ chính-trị nghiêm-túc hoặc thứ gì khác không? Đó mới là vấn-đề mà chúng là những con người lâu nay từng trải qua biết bao cuộc bách-hại ở Liên-xô, vẫn thắc mắc. Trở về với quá-khứ khi mọi sự được giải-quyết nhân-danh nhân-quyền và tự-do, mọi sự để lo cho một tương lai tươi sáng hơn.

 Thế nhưng, chỉ những người tin-tưởng nào ở vào tình-huống bị áp-lực mãi cho đến thời Đổi mới là cảm-thông được. Còn thì, giới tư-bản, trưởng-giả và chủ-đất mà các lãnh-đạo người Sô-viết mới ngưng không còn chiến-đấu chống lại tất cả những người như họ và ngay đến nền kinh-tế Sô-viết cũng chỉ giống phân nửa nền kinh-tế thị-trường mà thôi; đó là chưa kể về Chính-sách Kinh-tế Mới vào thập niên 1920; nhưng, họ đã chiến-đấu chống lại Đạo Chúa mãi đến cùng. Chẳng ai hiểu tại sao họ lại làm thế.

 Thành thử, chúng ta đã tỏ ra lo-lắng cả vào khi, dưới danh-nghĩa của một “chính-trị nghiêm-túc” và mọi quyền lợi cũng như tự-do trên hoàn-vũ, chúng ta thoáng thấy có dấu-hiệu về sự kỳ-thị chống lại những người muốn sống cởi mở đối với các xác-tín về Đạo của họ…

 Theo tôi, mẫu mã của chủ thuyết đa-sắc-tộc hoạt-động tốt hơn triết-thuyết đa-văn-hoá của phương Tây. Do bởi nước Nga là một quốc-gia đa-chủng, nhưng ý-tưởng về một chủ-thuyết đa-văn-hoá lại chẳng bao giờ được đề-bạt ở đây hết, cả vào lúc đất nước của chúng tôi chìm ngập với chủ-nghĩa Sô-viết cũng thế. Khi ấy, có người lại đã nghĩ về chuyện tuyên-bố rằng chúng tôi từng có lai-lịch một đất nước tân-kỳ nếu giữ nguyên là những người thuộc giới Sô-viết. 

Nhưng, ai cũng đều hiểu là: người Turks vẫn muốn giữ nguyên tình-trạng của người mình, là Turk, người Tajik cũng thế vẫn chỉ muốn ở thế nguyên-trạng là Tajik, người Ubeks cũng vậy và người Nga cũng không ra khỏi hiện-trạng của Nga và người Do-thái-giáo cũng thế nốt…

 Được như thế, không có nghĩa bảo rằng: chúng tôi muốn trộn lẫn sắc-tộc thành một thứ cocktail, mà mỗi người cùng mọi người vẫn phải được ở nguyên-si là mình. Nhưng, tất cả mọi người chúng tôi đều chung sống trong cùng một đất nước, nên chúng tôi phải tuân-giữ luật-lệ cũng như tỏ ra tử-tế với nhau.

 Và chính sách nghiêng về chuyện này phải được nhắm đến, tức là: không được xoá bỏ đường ranh vạch giữa các nền văn-hoá cũng như đạo-giáo khác nhau và làm nên một khối “xa-bần/hổ lốn” rút từ đó. Trái lại, chúng ta phải đoan chắc hỗ-trợ cho nhau, để mọi người có được quyền-hạn và tự-do ban-bố cho tất cả, mỗi người một cách để rồi mỗi nhân-vị có bất cứ niềm tin nào dù khác nhau vẫn có thể cảm thấy thoải mái như ở nhà mình khi sống trong đất nước của mình, chứ không như người sống cạnh người lạ…

 Nếu hỏi rằng: tương-lai của Đạo Chúa tại Âu-Châu mai ngày sẽ ra sao? Thì, câu trả lời của tôi là: Ngày nay, người đi Đạo chỉ là thiểu-số. Các giá-trị đạo-đức lâu nay ta truyền-bá đang biến dần hoặc bị lãng quên. Tại sao thế? Lý do, là vì ta cứ khuyến-khích mọi người hướng thượng, leo lên đồi cao, trong khi văn-hoá của người thường lại cứ yêu-cầu mọi người đi về hướng ngược lại, tức là: tụt xuống dưới.

 Giả như có người nào đó cứ để bản-năng của mình hướng-dẫn, và giả như văn-minh/văn-hoá nhân-loại được dựng-xây trên nền-tảng như thế đó, thì đa số mọi người sẽ theo đường lối này, lý do là vì làm thế dễ hơn, nó không đòi nhiều cố-gắng hoặc phải làm cho thật nhiều. Người nào cũng chỉ muốn có đời sống dễ chịu, thôi.

 Thế nhưng, Kinh thánh lại cứ bảo rằng” con đường chật hẹp sẽ dẫn ta đi vào sự sống”. Và, con đường chật hẹp dẫn đến ơn cứu-độ đòi phải có sự can-đảm. Nhưng, giả như con đường này biến-dạng, thì toàn-thể nhân-loại sẽ rơi tọt xuống hố. Đức Giêsu đã không thuyết-phục mọi người bằng lời rao giảng. Thật ra, cuộc sống của Ngài dưới trần-thế lại đã chấm-dứt trên Thập-giá là nơi con người đóng chặt Ngài ở trên đó. Đành rằng Ngài đã trỗi-dậy khỏi cõi chết… Thế nhưng, cũng có một số người coi là Ngài đã thất-bại.

 Giả như chúng ta không tin vào sự sống lại của Đức Kitô, thì khi đó sự sống vào cuối đời của Ngài sẽ không gây ấn-tượng gì cho lắm, cũng chỉ như thể Ngài bị xử trảm, thế thôi. Các tông-đồ cũng như thế, ngoại trừ thánh Gioan. Còn thì tất cả đều bị xử trảm. Thành thử, điều căn bản xem ra tất cả đều là người thua thiệt, thua và để mất mọi sự.

 Nhưng, thông-điệp của Đức Kitô và các tông-đồ theo Ngài đã tồn-tại suốt 2000 năm, vẫn còn đó kích-động nhiều người. Nó tạo-hứng cho các nghệ-nhân và văn-sĩ là những người sáng-tạo nhiều công-trình tuyệt-tác dù bên ngoài vẫn tạo áp-lực nghịch-ngạo. Thế nhưng, điều còn quan-trọng hơn là bảo rằng: Đức Kitô đã và đang đi vào tâm-can của rất nhiều người, dù có muốn hay không, cũng vậy…” (Xem Patriarch Kirill, Russian Orthodox Patriarch on Gay Marriage, secularisation, the future of Christianity, MercatorNet 29/11/2016)

 Đọc bài phỏng-vấn đấng bậc vị vọng ở trên, bần đạo bầy tôi đây lại nhớ đến những câu truyện kể cùng nhận-định về lập-trường sống cho nhân-sinh-quan rất dễ thấy như sau:

“Trên thế gian này, có một quy luật đã được định ra rất rạch ròi là: có gieo sẽ có gặt. 

Dưới đây là 11 điều để bạn bắt đầu:

 Cho đi một nụ cười

Nở một nụ cười và trao nó đến cho mỗi người bạn gặp, và bạn sẽ nhận được những nụ cười đáp lại.

 Cho đi những suy nghĩ tích cực

Hãy đưa ra những suy nghĩ tích cực về những người khác chung quanh bạn, và ngay cả về những thứ mà bạn đang làm, bạn sẽ có một cuộc sống tốt và những ý nghĩ tốt đẹp cũng sẽ được dành cho bạn.

 Cho đi lời tử tế

Hãy nói những điều tử tế với mọi người và lời thân ái của bạn sẽ được đáp trả bằng những lời thân ái. Nhân chi sơ, tánh bản thiện mà.

 Cho đi một thái độ lạc quan

Luôn tỏ ra lạc quan với cuộc sống, và sự vui vẻ của bạn sẽ được hoan nghênh.

 Cho đi sự cảm kích

Hãy biết ơn, cảm kích, cuộc sống của bạn sẽ có thêm những giá trị, và đến lượt bạn cũng sẽ được tưởng thưởng xứng đáng.

 Cho đi sự khích lệ

Hãy khích lệ, bạn cũng tràn ngập dũng khí tươi mới để đối mặt (với thử thách) từng ngày, và hãy chuẩn bị để thu hút những người động viên cổ vũ bạn.

 Cho đi sự kính trọng

Hãy luôn kính trọng những người, những điều xứng đáng, cho đây là điều đáng để bạn phải làm và bạn sẽ nhận được những tràng pháo tay tán thưởng.

 Cho đi niềm hạnh phúc

Chia sẻ niềm hạnh phúc, đồng thời bạn cũng sẽ cảm thấy sung sướng, và nó cũng sẽ mang lại cho bạn niềm hạnh phúc.

 Cho đi thời gian của bạn

Hãy dành thời gian của bạn cho những mục tiêu lớn lao hơn mục tiêu cá nhân, và bạn sẽ nhận được những phần thưởng mà bạn không ngờ tới.

 Cho đi niềm hy vọng

Hãy luôn hy vọng và hãy xem nỗi tuyệt vọng sẽ biến mất, đức tin và niềm vui sẽ dâng lên bội phần.

 Cho đi lời cầu nguyện

Hãy cầu nguyện cho bạn bè của mình, và cho cả những người mình xem là kẻ thù. 

Bởi trên đời này, trong cuộc sống này đã có quá nhiều hận thù, hiềm khích rồi. 

Những lời nguyện cầu sẽ vượt quãng đường dài để mang điều kỳ diệu đến những nơi u tối, xóa bỏ lòng thù hận.

“Cho đi lời cầu nguyện” nghe sao thấy quen quen như các dặn dò ở Kinh Sách. Dặn dò, là vừa dặn và vừa dò để rồi hãy cứ cho đi mà chẳng cần gì đến sự thận-trọng hoặc suy-tính rất lâu ngày. Bởi, đấng thánh nhân-hiền của Đạo mình, vẫn luôn dặn-dò và khuyên nhủ như sau:

“Hãy đến với chiên lạc nhà Israel,

dọc đường hãy rao giảng: Nước Trời đã gần kề.

Anh em hãy chữa lành người đau yếu,

làm cho kẻ chết sống lại,

cho người phong hủi được sạch,

và khử trừ ma quỷ.

Anh em đã không công mà được,

thì cũng hãy cho không như vậy.

Đừng chuốc lấy vàng lấy bạc hay tiền đồng hòng vặn thắt lưng.

Không bao bị đi đàng,

cũng đừng có hai áo, giày dép, gậy gộc.

Vì làm thợ thì đáng được của nuôi thân.”

(Mt 10: 8-10)

Vâng. Đúng thế. Thợ gặt đến với chiên nhà Israel mà còn thế, huống chi là người nghèo chỉ cần những gì là tối thiểu cho cuộc sống. Một cuộc sống chỉ biết cho đi chứ không biết chuốc vào người dù nhiều thứ.

Thời hôm nay, cho đi không chỉ có nghĩa là: bố thí, vứt bỏ những gì mình có dư hoặc thừa mứa, không dùng đến. Cho đi, còn là và vẫn là tặng ban cả những gì mình đang cần hoặc túng bấn không biết được tương-lai mai ngày, sẽ ra sao.

Cho đi, hôm nay, là cho mà không nghĩ chuyện đòi lại vào một ngày rất gần, dù từ người nhận hoặc ai khác. Cho đi, hôm nay và mai rày, lại là quyết-tâm kéo dài suốt cuộc sống, dù thiếu thốn. Cho đi, còn là và sẽ là động-thái gắn liền với sinh-hoạt hằng ngày ở mọi nơi, vào mọi lúc cả những lúc và những thời không có gì để cho, chỉ muốn nhận mà thôi.

Cho đi, lại vẫn là ý-nghĩa của cuộc đời không bon chen/giành giựt, cũng rất bận. Và cho đi, chính là mục-tiêu mọi người đều nhắm đến khi quyết-tâm thực-hiện một đổi thay cho tương-lai con người ở trần-thế. Cho đi, còn đồng-nghĩa với sống hùng, sống mạnh, sống viên-mãn với người nhận mà mình không biết đang ở đâu.

Nói cách khác, cho đi là cứu-cánh của cuộc sống nơi con người ở mọi thời. Thế-trần này, phải bao gồm toàn những người cho đi chứ không chỉ mỗi nhận vào. Đó, chính là niềm tin của người đi Đạo. Bởi, niềm-tin đồng-nghĩa với thương-yêu, giùm giúp, tức “cho đi.” Tin, là cho đi và cho hết cả con người mình, tinh-thần lẫn vật-chất, chứ không chỉ mỗi của ăn nuôi dưỡng xác thể của mình.

Để minh-hoạ cho động-thái quyết cho đi vào mọi lúc, không gì hay/đẹp và khích-lệ cho bằng truyện kể ở đời có những lúc người đời cứ quên lãng mục-tiêu của đời người. Thế nên, nay mời bạn và mời tôi, ta nghe thêm câu truyện kể về động-thái “cho” làm đoạn kết cho chuyện phiếm khô-khan, nghèo-nàn ít hứng thú, như sau:

“Có ai đó nói rằng, khi quay ngược trái tim mình lên, trái tim sẽ có hình ngọn lửa. Có phải đó là ngọn lửa của yêu thương, của tình người ấm áp ? Ngọn lửa ấm áp cho tình yêu đến phút cuối của cuộc đời. Tôi cũng từng nghe người ta nói rằng, tuổi trẻ thường mang trái tim màu đỏ với tình yêu đầy nhiệt huyết, có thể cống hiến hết  tất cả những gì mình có cho tình yêu và lý tưởng. Nhưng phải chăng chính vì trái tim nhiệt huyết ấy mải mê chạy theo nhng đam mê hoài bão, mà vô tình quên mất đi ngọn lửa yêu thương?

 Có lần về Việt nam, tôi đã từng chứng kiến cảnh một bà già mù lòa đi ăn xin, trong cơn mưa lạnh căm căm, không một manh áo ấm. Nhưng đi đến đâu người ta cũng xua đuổi. Người bán hàng sợ “xui”, sợ hôi, sợ dơ, sợ cả một ngày bị bà già “ám” mà không bán được hàng. Người qua  đường thì muốn đi thật nhanh, tránh đụng phải bà già mà sẽ bị bẩn những bộ quần áo đắt tiền. Có người còn ra vẻ am hiểu sự đời “Thời nay người giả ăn mày không hiếm. Đừng hòng giả dạng mà qua mặt được ta”…

 Một đám đông xúm lại trên đường quây quanh một cô gái trẻ đang bị hai thanh niên côn đồ đánh đập dã man. Cuối cùng cô bị ngã nằm sống soài trên đường, máu bê bết, quần áo bị xé nát tả tơi, ánh mắt cầu cứu van xin. Nhưng không ai thèm để ý. Họ tụ  năm tụm bảy tại đây không gì hơn ngoài sự hiếu kỳ. Mọi người đang thưởng thức một bộ “phim  kiếm hiệp”. Người ta không muốn dây dưa, chẳng muốn dính vào. Cả mấy chục thanh niên trai tráng bu quanh vẫn sợ hai thằng lưu manh kia mới lạ. Không ai phí công gọi điện cho cảnh sát. Chẳng kẻ nào muốn xắn tay đưa cô gái đến bệnh viện vì nghĩ sẽ gặp rắc rối nếu nạn nhân chết trên đường. Có người độc miệng còn nói “ Chắc cũng là trai gái làng chơi thanh toán với nhau thôi”.

 Tôi cũng đã từng trông thấy cảnh một em bé gái mặt nhễ nhãi mồ hôi, giữa trưa nắng hè ở trước cổng trường đại học, cầu xin sự ban ơn của các anh chị sinh viên, để có thêm chút tiền đóng viện phí cho nhà thương, nơi ba em đang nằm điều trị. Em ngây thơ nên cứ tin rằng các anh chị sinh viên, với trái tim thanh niên đầy tình yêu và nhiệt huyết, sẽ có thể làm giảm bớt nỗi đau đang cào cấu ba em – nằm chờ chết trong bệnh viện. Nhưng mọi người đứng đó nghe em trình bày rồi lại lắc đầu bỏ đi. “Bọn lừa đảo bây giờ đâu có thiếu! Ai mà ngu đi tin những câu chuyện “bịa đặt” như vậy kia chứ ?”.

 Một anh chàng giám đốc trẻ gọi điện thoại về cho mẹ nói rằng, anh đang bận công việc tại sở làm khi được biết tin mẹ bệnh. Có lẽ cũng còn sót lại “chút tình người”, nên anh gửi cho mẹ một số tiền để lo thang thuốc.

 Nhưng sự thật phũ phàng, là anh ta đang bận dự lễ sinh nhật của người yêu. Bữa tiệc linh đình mà anh chiêu đãi hằng trăm bè bạn ở một nhà hàng sang trọng, để người yêu anh nở mày nở mặt. Chỉ tiền rượu thôi cũng đã tính bằng trăm triệu. Giây phút đó, nào anh có nhớ chính nhờ mẹ đã ban cho anh sự sống, và cũng chính nhờ có cái lưng còng của mẹ, nên ngày nay anh mới có thể  đứng thẳng nghênh mặt nhìn đời?

 Có thể cuộc sống ngày nay với những gian dối dẫy đầy, đã khiến bạn mất niềm tin vào con người, và từ đó dễ dàng khiến chúng ta lo sợ rằng tình thương của mình sẽ cho nhầm chỗ? Nhưng đâu phải trên thế giới này, tất cả đều là những toan tính, dối lừa …

 Bà cụ mù đi ăn xin trong trời rét căm căm, cô gái lỡ lầm bị đánh đập không thương tiếc, bé gái trước cổng trường đại học cầu xin ai đó giúp ba em: Họ đã lầm khi họ van xin không đúng chỗ, để rồi họ chỉ nhận được những cái xua tay, những cái lắc đầu quây quẩy.  Họ quá ngây thơ nên cứ hy vọng mà cầu xin một “món hàng” mà từ lâu đã trở thành “quý hiếm”: Tình thương … 

 Có ai đó nói gia đình là tất cả, nhưng bạn đã làm được gì cho gia đình ấy ? Một câu nói ân cần nhắc mẹ uống thuốc, một  chén cháo nóng lúc ba đau, đó là tình yêu không lời bạn dành cho họ. Chúng ta đã NHẬN, quá nhiều –  từ gia đình, bạn bè, từ cuộc sống, và từ cả những người không quen biết, thì cũng đến lúc mình cần phải biết CHO đi, biết ban tặng. Bạn phải biết sẵn sàng chia sẻ, sẵn sàng ban phát tình thương, như đã có rất nhiều lúc trong cuộc đời, mà bạn đã rất cần sự chia sẻ và tình thương vậy …

 Khi xưa, thời trai tráng, tôi cũng đã từng như các bạn trẻ ngày nay, đã từng chạy theo tình yêu mà quên đi ba mẹ. Tôi cũng đã từng quay mặt làm ngơ trước bao cảnh thương tâm, chỉ vì sợ bị gạt gẫm, bị chê cười. Giờ đây khi mái tóc đã lắc rắc muối tiêu, tôi mới thật sự hiểu hết ý nghĩa của hai chữ “CHO và NHẬN “. Dẫu muộn màng, nhưng vẫn còn hơn không …

 Tuy biết rằng ngọn lửa nào rồi cũng có lúc tàn. Nhưng hãy để cho ngọn lửa trong trái tim chúng ta mãi sưởi ấm – đến khi còn có thể. Đừng thắc mắc, đừng đặt quá nhiều câu hỏi. Đừng sợ người, sợ ta, sợ thị phi, đàm tiếu. Hãy sống với trái tim mang dòng máu đỏ đầy yêu thương và nhiệt huyết. Nguyên tắc cuộc sống vốn vô cùng đơn giản: có CHO thì có NHẬN.

 Tôi vẫn nhớ mãi câu chuyện nhỏ ngày xưa khi còn bé. Có một buổi sáng nọ, bà ngoại tôi dắt một người ăn xin vào nhà, và đem cả một phần cơm điểm tâm ra cho người nghèo đói ấy. “Cô bé  tôi” khi ấy, mặc dù đã được ăn no căng đầy bụng, vẫn ganh tỵ mà hỏi ngoại  “Tại sao mình phải cho bà cụ đó nhiều quá vậy? Ngoại chỉ cho một miếng bánh mì là bả đã mừng lắm rồi “. Ngoại tôi cười móm mém “Con à, cuộc đời này có vay thì có trả, có cho thì có nhận. Mai này lớn lên con sẽ thấy lời ngoại dạy là đúng .. “

 Và vì thế mà đến giờ tôi vẫn luôn tâm đắc với câu “châm ngôn cuộc đời” của Ngoại: “ Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình ”… (Hoàng Thanh kể).

 Kể thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta quay về với nhạc-bản ở trên hát lên đôi câu ca khiến ta hăng hái tiến bước về phía trước để rồi sẽ quyết tâm làm việc gì đó mang ý-nghĩa của một nhân-sinh-quan tích-cực, không bao giờ chán nản. Bởi có cho hoài và cho mãi mới thấy cuộc đời này, đầy ý-nghĩa.

Vậy nên, ta cứ hát lên những lời ở trên, rằng:

“Đêm mùa trăng úa làm vỡ hồn ta…”
Ngập ngừng xa…suối thu dồn lá úa trôi qua.
Sầu thu, sầu lên vút mịt mù, mà e nhớ hương mùa thu.

Trăng Tầm Dương lung linh bóng sáng,

từng thoáng lệ ngân, mà hồn phân vân cuồng điên nhớ.
Long lanh tiếng Nguyệt Cầm, tiếng đàn trầm.
Ai nhớ nương tử một đêm nao trăng thanh trong lời hát…

chết theo nước xanh…Chết theo nước xanh…
Ôi đàn trăng cũ làm vỡ hồn anh…”

(Cung Tiến – bđd)

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn phiếm lai rai

nhân-sinh-quan/lập trường

cần nhắc mãi

với mình và với người

để khỏi quên.

CHUÁ CHỮA LÀNH BỆNH LAO THẬN VÀ ĐỔI MỚI ĐỜI SỐNG

CHUÁ CHỮA LÀNH BỆNH LAO THẬN VÀ ĐỔI MỚI ĐỜI SỐNG

Linh mục:    James Manjackal

HINH 01

Trong gia đình từ thời thơ ấu, tôi đã nghe mẹ  đọc kinh Chúa Thánh Thần vào đầu những giờ kinh tối trong gia đình, việc đọc kinh thường kéo dài từ một đến một tiếng rưỡi đồng hồ. Sau này, đi học trong các chủng viện vào đầu giờ ở các lớp học cũng như trong các sự kiện quan trọng,  đã có xướng lên một lời cầu nguyện hoặc một bài thánh ca xin ơn Chúa Thánh Thần. Đó là tất cả những gì tôi biết về Chúa Thánh Thần trong quá khứ. Tôi vốn không có ngay cả một hệ giáo lý hay một luận án về Chúa Thánh Thần trong quá trình trau dồi về thần học của mình.  Tất nhiên tôi có được biết từ giáo lý rằng Đức Thánh Linh là ngôi thứ ba của Thiên Chúa Ba Ngôi và Ngài ban ơn trong cuộc sống của chúng ta. Tuy nhiên tôi chưa bao giờ có một kinh nghiệm thực sự về Chúa Thánh Thần cho đến khi tôi được Chúa đụng chạm  thông qua lời cầu nguyện mạnh mẽ của một người đàn ông trẻ tuổi nọ.

HINH 2

Sau khi tôi chịu chức linh mục vào ngày 23 tháng 4 năm 1973, tôi  làm việc trong các cơ quan đại diện của Visakhapatnam khoảng một năm rồi sau đó tôi được bổ nhiệm làm giáo sư tại Đại Chủng Viện SFS Ettumanoor, Kerala. (Ấn Độ)

Khi còn là sinh viên ở các chủng viện, nguyện vọng tha thiết của tôi là được làm giáo sư tại một trường đại học hay chủng viện, một vị trí thoải mái và đáng kính trong đời sống tu trì.  Tôi không bao giờ có thể tưởng tượng ra được rằng mình sẽ du hành, lang thang từ nơi này đến nơi khác tập thích ứng với các tình huống khác nhau về ứng sử với con người, tương thích với văn hóa và tiêu thụ thực phẩm lạ.  Trong thâm tâm tôi đã muốn tìm kiếm cho mình các tiện nghi vật chất và sự  an lành của một cuộc sống ổn định.  Năm 1975, tôi tình cờ đọc được bài viết về ân tứ chữa lành và nói tiếng lạ từ một tạp chí Mỹ,  “Giao ước mới”.  Tôi không thể tin rằng vào những ngày trong thời đại này lại có người được chữa lành bởi đức tin và lời cầu nguyện.  Tôi chế giễu những ơn tiếng lạ, cho rằng nó xuất ra từ  cảm tính rên rỉ thái quá của phụ nữ !.  Tâm trí tôi tràn ngập niềm tự hào về  kiến thức Triết học và Tâm lý học của mình.  Sau đó, tôi nghe nói về một khóa tĩnh tâm Đặc Sủng ở Poona ,  Bắc Ấn Độ.  Cùng với một linh mục già thuộc giáo đoàn, tôi đã tham dự khóa tĩnh tâm  của cha James D’Souza. Cha là một nhà thuyết giảng hùng hồn và là một ca sĩ có giọng hát hay. Tôi thích sự giảng dạy và ca hát của Ngài. Tôi đã đi lên không phải để tiếp nhận một lời cầu nguyện chữa lành vì tôi không bị bệnh. Tôi đã thực hiện một buổi xưng tội sốt sắng và làm theo tất cả các hướng dẫn của các nhà truyền giáo như đưa tay lên cao và vỗ tay.  Khi Ngài nói về ơn nói tiếng lạ và các đặc sủng khác, tôi nghĩ rằng ơn đó không dành cho tôi nhưng ban xuống cho các tâm hồn ưu tú về tâm linh. Vào ngày Nhóm đón nhận “Phép Rửa trong Chúa Thánh Thần” tôi chuẩn bị tốt tinh thần ,  ngồi cùng với các thành viên khác nhưng tôi  đã không cảm nhận được bất cứ điều gì đặc biệt khi được Cha cầu nguyện và đặt tay trên tôi.

Cha phụ trách tĩnh tâm, khi đến cầu nguyện trên tôi, Ngài nói, “James một ngày nào đó bạn sẽ là nhà thuyết giảng Đặc Sủng”, nghe điều này, tôi cười to và nói “không bao giờ, không bao giờ đâu”.  Không chỉ có vậy, tôi không thể chấp nhận những cách đặc biệt của Canh Tân Đặc Sủng đâu, và tôi luôn luôn tỏ ra nhút nhát trước mặt người khác. Từ những ngày còn đi học và sau này được đào tạo trong chủng viện, tôi đã không thể phát biểu trước đám đông.  Ngay cả sau khi chịu chức, tôi là một người thất bại hoàn toàn trên bục giảng.  Tôi vẫn còn nhớ rõ những gì đã xảy ra với tôi trong dịp giảng bài đầu tiên của mình.  Sau khi chịu chức, với nhiều miễn cưỡng, tôi đành đồng ý để cử hành Thánh Lễ và giảng vào ngày hôm sau, một ngày lễ Chúa nhật.  Ở nhà tôi đã chuẩn bị trên giấy một vài ghi chú về Tin Mừng của ngày hôm đó và kẹp chúng trong quyển Kinh Thánh mới của tôi.  Tôi không gặp vấn đề khi dângThánh lễ, vì tôi sẽ nhìn vào sách lễ mà đọc những lời cầu nguyện và những lúc khác tôi thường khép mắt lại vì tôi sợ phải nhìn vào mọi người. Sau khi đọc bài Tin Mừng tôi nhìn dán chặt cả hai mắt trên cửa chính cuối nhà thờ và bắt đầu tìm kiếm tờ giấy ghi chú kẹp sát bìa bên trong quyển Kinh Thánh.  Tôi trở nên rất lo lắng và sợ hãi, tôi quên mất là đã để chúng ở phía bìa bên phải hoặc bên trái sách.  Tôi sợ không dám dời mắt khỏi cánh cửa nhà Thờ và nhìn vào Kinh Thánh, vì tôi nghĩ rằng làm như vậy mình sẽ nhìn thấy dân chúng và với tình trạng sợ hãi này tôi sẽ sup đổ cách thảm hại hơn. Run rẩy, đổ mồ hôi, nhiều lần tôi đã cố gắng để thốt lên vài lời, … “Anh Chị Em thân mến, thân mến” mà không nói thành câu. Đến vài phút đã trôi qua, từ bên trong cửa sổ, cha xứ nhìn biết tình trạng khó khăn đến ngớ ngản của tôi, Ngài thì thầm qua cửa sổ “Cha giảng đủ rồi, bây giờ Cha có thể tiếp tục Thánh Lễ.”  Giống như một quả bóng xì hết hơi, xấu hổ và tự thương hại, tôi tiếp tục dâng Thánh Lễ. Tôi chắc chắn rằng mọi người có thể đã cười hay thương hại cho vị linh mục trẻ,  mới và nhút nhát!  Sau Thánh Lễ khi tôi đến phòng thánh, tôi nghe một vị linh mục nhận xét: “Cha ấy là một nhà truyền giáo của (Dòng)Thánh Francis de Sales, ông sẽ rao giảng điều gì đây?”.  Đó là lý do tôi đã cười khi nghe Cha phụ trách tĩnh tâm nói rằng tôi sẽ là một nhà giảng thuyết đặc sủng.  Nhưng đó quả thực là một lời tiên tri!  Vì trong suốt 32 năm tiếp theo, tôi chỉ dùng thời gian này để truyền giảng ở khắp nơi trên thế giới.

Vào ngày cuối cùng của khóa tĩnh tâm, hầu hết mọi người tham gia đã lên làm chứng về ơn chữa lành của Chúa, chia sẻ kinh nghiệm được các ơn tiên tri, ơn thị kiến, ơn tiếng lạ,… Tuy nhiên, riêng tôi, không có được ơn gì để làm chứng.  Nhiều người đã có kinh nghiệm được gặp gỡ Chúa Giêsu và được nghe Ngài nói chuyện với họ!  Tôi cảm thấy buồn bã.  Tôi bắt đầu cáo tội mình vì quá tự hào nên đã không hợp tác đầy đủ với việc tĩnh tâm và không gặt hái được các ơn tứ của Chúa Thánh Thần.  Có lẽ tại thời điểm này trong sâu thẳm con tim, tôi bắt đầu ao ước và khao khát thần khí Chúa. Nhiều người bạn tò mò hỏi tôi đã nhận được ơn gì trong khóa tĩnh tâm nhưng tôi không thể đưa ra một câu trả lời chính xác nào.  Rồi một tuần sau khi tĩnh tâm, tôi đã bị ốm nặng lần đầu tiên trong đời.  Tôi nằm ở hai bệnh viện trong hơn bốn tháng.  Tôi trở nên yếu và xanh xao, không thể ăn do các cơn đau trong dạ dày, lưng tôi cũng rất đau.  Tôi nôn thốc tháo ra mọi thứ kể cả các viên thuốc.  Khi đứng lên, tôi không thể tự dâng Thánh lễ, tôi quen với việc dâng Thánh Lễ trên giường với sự giúp đỡ của một số linh mục khác.  Khi nhìn thấy tình trạng đau ốm nặng nề và thảm hại của tôi, nhiều người nghĩ rằng tôi sẽ không thể sống lâu.  Cuối cùng bệnh tật của tôi được chẩn đoán, đó là bệnh lao ở thận cùng với sỏi thận và nhiễm trùng. Liệu pháp bao gồm chín mươi mũi tiêm và uống thuốc viên con nhộng trong hai năm để chữa bệnh lao. Các bác sĩ đề nghị phẫu thuật trong thận sau chín mươi ngày tiêm thuốc.

Vào ngày thứ bảy kể từ khi bắt đầu cuộc điều trị dài ngày này, một điều lớn lao đã xảy ra làm thay đổi toàn bộ cuộc đời của tôi.  Trong buổi chiều sau giờ ngủ trưa, tôi đang trò chuyện với hai Sơ đến thăm, đột nhiên có một người đàn ông trẻ, khoảng hai mươi tuổi đi về phía tôi và hỏi: “Thưa Cha, con xin phép cầu nguyện trên Cha cho được chữa lành “.  Vào thời điểm đó, Canh Tân Đặc sủng chưa được biết đến và truyền bá tại Kerala, thậm chí không có linh mục nào thực hành việc cầu nguyện chữa lành. Nhưng người Tin Lành Ngũ Tuần quen thuộc với việc cầu nguyện cho sự chữa lành.  Là một linh mục Công giáo, tôi không muốn một người Tin Lành Ngũ tuần đặt tay trên tôi, một linh mục.  Khi tôi hỏi anh ta về nhân thân, anh nói rằng chỉ mới tám tháng nay, anh đã được biết Chúa lãnh nhận phép rửa tội và được ban cho nhiều đặc sủng của Chúa Thánh Thần.  Tôi càng không thể nào tin rằng Chúa đã sai anh ta du hành bằng xe buýt đến bệnh viện để lo cầu nguyện cho tôi.  Chưa bao giờ chúng tôi từng quen biết nhau trước đây!  Anh không chờ đợi tôi cho phép anh trong việc đặt tay cầu nguyện, kết thúc chia sẻ lời chứng của mình, Anh ta đặt tay trên đầu của tôi và bắt đầu cầu nguyện. “Lạy Cha trên trời, xin gởi Con của Ngài là Chúa Giêsu giờ đây đến với vị linh mục này đang bị tổn thường vì bệnh lao thận, sỏi thận và nhiễm trùng và phục hồi ngài hoàn toàn lành mạnh trong cơ thể và tâm hồn”.  Khi đó, tôi nghĩ trong tâm trí mình rằng anh ta có thể đã thấy các biểu đồ bệnh viện nơi bệnh tật của tôi được báo cáo!  Tôi đã không biết rằng anh đang cầu nguyện với ơn trí tri.  Nhiều lần anh đã cao rao ngợi khen Thiên Chúa và đôi khi xen lẫn với tiếng lạ trong lời cầu nguyện.  Tôi cảm thấy một luồng điện chạy từ tay anhtruyền dẫn vào trong tôi.  Rồi tôi ý thức được sức mạnh của việc ca ngợi và cầu nguyện công khai. Trong khóa tĩnh tâm tôi không thể tán thành việc cầu nguyện ồn ào với các lời ca khen lớn tiếng.  Đột nhiên tôi nghĩ đến những lời cầu nguyện của người mù, ăn xin có tên là Barthimaeus. Ông đã kêu nài lớn tiếng “Lạy Con Vua David, xin thương xót tôi”.  Mặc kệ các môn đệ đã cố gắng để giữ cho ông yên lặng, nhưng ông càng gọi lớn hơn nữa.  Sau đó, Chúa Giêsu gọi ông đến bên và ban cho điều ông thỉnh cầu (Mc 10: 46-52).  Biểu lộ ra ngoài miệng chính là sự diễn tả ước muốn từ trái tim!  Một lời nguyện to và mạnh mẽ từ miệng là sự dốc đổ lòng ao ước mãnh liệt và tín thác của linh hồn.

” Tiếng tôi lên với Thiên Chúa, tôi kêu,

tiếng tôi lên với Thiên Chúa,

Người sẽ ghé tai lại với chúng tôi,     (Tv 77: 1).

Các tông đồ vào thời điểm của cuộc bách hại thứ nhất, dâng cao lời kêu xin lên Thiên Chúa.  Lời cầu nguyện của họ mạnh đến mức làm rung chuyển ngôi nhà mà họ đang tụ tập với nhau (Cv 4: 24-31).  Tất cả sự hoài nghi của tôi về việc cầu nguyện lớn tiếng đã được chữa lành hoàn toàn.  Tôi cũng bắt đầu cầu nguyện cùng anh ta với lời ca ngợi vang xa.

Sau đó, chàng thanh niên bắt đầu chuyển hướng cầu nguyện với một cung giọng khác, cho các sự kiện xảy ra trong quá khứ của cuộc đời tôi. Anh cầu nguyện “Lạy Chúa, vị linh mục này là một linh mục tốt lành nhưng Ngài không thể rao giảng Tin Mừng vì Ngài rất hay mắc cỡ và rụt rè, căn nguyên của một mặc cảm tự ti đã phát triển trong thời thơ ấu của mình. Ngài đã mất cha khi lên bảy tuổi. Ngài cảm thấy bị xua đuổi và phân biệt đối xử trong số năm người con cùng sinh hoạt chung. Mẹ góa bụa của Ngài rất vất vả để nuôi nấng các con. Ngài mập và to con nên anh chị em gọi đùa là “thằng béo”. Bạn trong trường gọi Ngài là “thằng đen” vì là người da màu. Như vậy, tuổi thơ đã chịu đựng rất nhiều thương tổn, Em nhỏ này, đã có nhiều oán hận kẻ khác trong tim mình. Lậy Chúa, Xin Chúa Thánh Thần lấy đi khỏi Ngài các vết thương, sự oán giận và ban cho Ngài một tâm tư mới. Giải thoát Ngài khỏi mọi trói buộc và quyền lực của tối tăm. Ôi, lạy Chúa Thánh Thần xin đổ đầy tim Ngài với tình yêu của Chúa…” Tôi bị sửng sốt vì lời cầu nguyện, Anh ta như phân cắt nội tâm tôi ra thành từng mảnh trong sức mạnh của Lời Chúa. (Thư Do Thái 4:12) . Vì  tất cả những gì anh nói là sự thật trong cuộc sống của tôi.  Tôi biết chắc rằng các bệnh trạng anh nêu ra trong khi cầu nguyện không hề hiện hữu trong các biểu đồ của bệnh viện!  Anh ta đã đọc một biểu đồ từ Chúa Thánh Thần! Trong nước mắt tôi đã nhớ lại những lời của Chúa Giêsu: ” “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. ” (Lc 10: 21).  Một lần nữa tôi khóc cho niềm tự hào vô nghĩa của tôi, đặc biệt là sự tự hào về trí tuệ thông thái của mình.  Tôi cảm biết là mình quá thô thiển trong cách dùng hiểu biết thế gian mà đo lường và giới hạn sự khôn ngoan và tình yêu không có giới hạn, không thể dò thấu của Thiên Chúa. Tôi nhận ra rằng người thanh niên này, một người tân tòng, lại được ơn tái sinh trong Chúa Thánh Thần trong khi đó thì tôi, một người Công giáo truyền thống, một vị linh mục thụ phong, vẫn còn ở trong bản tính xác thịt của mình.  Tôi bắt đầu hiểu rằng những điều mắt chưa thấy, tai chưa hề nghe và lòng người chưa từng nghĩ đến, thì Đức Chúa Trời đã chuẩn bị sẵn cho những kẻ yêu kính Ngài. Vì Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta nhờ Thần khí, bởi Thần khí dò thấu mọi sự, cả những chiều sâu thẳm nơi Thiên Chúa.  (I Cor 2: 9-10).  Tôi nhận thức có nguồn nước hằng sống đang chảy qua tôi và giải thoát cho tôi khỏi tội nhơ.  Tôi cảm thấy có năng lượng tập trung trên thân mình, một cảm giác ấm áp trên bụng và trên phần của thượng thận ở lưng.  Tôi tin rằng Chúa đã chữa lành cho tôi.  Tôi tuyên bố sự chữa lành và ngợi khen Chúa Giêsu.

Vào ngay lúc đó tôi có một nỗi sợ nảy ra trong lòng, đó là, liệu người đàn ông trẻ này vốn có thể nhìn thấy tôi một cách từ trong suốt cho đến thấu suốt, sẽ nói trắng ra các tội lỗi tàng ẩn quá đặc biệt của tôi trước mặt hai Sơ này.  Rồi, anh ta cầu nguyện “Lạy Chúa Giêsu, chính Ngài đã gọi cha tới chức linh mục, nhưng Cha đang dâng tiến lễ với trái tim và bàn tay không thanh tịnh”. Những lời của tiên tri Malachi đến tâm trí của tôi và bắt đầu cáo buộc tội tôi về sự không thánh khiết trong chức linh mục.  ” hỡi các thầy tế lễ khinh dể danh ta!… Các ngươi dâng bánh ô uế trên bàn thờ ta.”  (Mal 1: 6-7).  Anh tiếp tục cầu nguyện rằng ” Vị linh mục này đang còn chưa tha thứ đối với nhiều người, xin ban ơn biết tha thứ cho người khác và rửa Ngài trong máu quý giá của Chúa và ban cho Cha một quả tim trắng hơn tuyết” (Is 1: 18).  Vào thời điểm này, chính Chúa Thánh Thần bắt đầu cáo buộc về các tội lỗi tôi đã phạm (Ga 16: 8).  Tôi không biết rằng cậu thanh niên đã bước ra khỏi phòng với các sơ để đi cầu nguyện đặt tay cho những người khác.  Tôi nhìn thấy một tờ giấy trắng trước mặt tôi, trong đó có ghi rõ ràng tất cả tội lỗi của tôi, những tội lỗi tôi đã xưng ra, và đôi khi những tội tôi dấu diếm vì sợ hãi và xấu hổ.  Tôi thấy rõ người mà tôi chưa tha thứ và những người mà tôi chưa thực sự làm hòa trong tâm tư. Tôi thấy trái tim của tôi bị bao bọc trong tối tăm với tấm màn của những thói quen xấu và mạng nhện của sự giả hình.  Lời Chúa, về sự rước Chúa cách bất xứng tất sẽ đưa đến sự tội và bị kết án (I Cor 11: 27), bắt đầu xua đẩy tôi vào một cuộc khủng hoảng sâu trong lương tâm.  Tôi đã có một thói quen xấu bắt rễ sâu xa từ tuổi thiếu niên của tôi.  Ngay cả bàn tay của tôi đã nhuộm vàng với mùi hôi của khói thuốc lá.  Trong nước mắt tôi thưa: “Lạy Chúa, con không thể thoát ra khỏi những thói quen xấu này. Con bất lực. Con không thể tiếp tục làm một linh mục thánh thiện” Trong những giọt lệ, tôi kêu khóc với Chúa, có lẽ là lần đầu tiên trong đời tôi cầu nguyện với nước mắt. Tôi hoang mang cực độ, không biết là nên rời khỏi chức vụ linh mục hay tiếp tục.  Chúa Thánh Thần trong tôi đang nói, nếu tôi muốn tiếp tục, tôi phải là một linh mục thánh thiện, một con người khác.  Tôi cho rằng các Thánh lễ tôi dâng trong quá khứ đã không được chấp nhận bởi Cha trên trời và không một lời lời cầu nguyện nào của tôi đã được Chúa nghe lời.  Khi tôi bước lên bàn thờ tôi cần phải tha thứ và hòa giải (Mt 5: 23).  Tôi phải tha thứ cho người khác để cho lời cầu nguyện của tôi có hiệu quả (Mc 11: 25).  Tôi nghĩ rằng tôi là một con người khốn khổ, hoàn toàn hư mất!  Tôi đang ở trong bóng tối đen ngòm, nghi ngờ và bối rối.  Tôi nghĩ rằng mình đã lừa dối Thiên Chúa và mọi người trong chức linh mục của mình.  Tôi đang cầu nguyện trong sự bất lực “Lạy Chúa xin cứu con là kẻ tội lỗi”.

Thiên Chúa của tôi đã không bỏ rơi tôi trong tuyệt vọng.  Lần đầu tiên trong cuộc sống của tôi, tôi thấy Chúa Phục Sinh đi về phía tôi trong ánh sáng chói lòa.  Khuôn mặt Ngài chiếu sáng, áo trắng của Ngài lấp lánh hào quang.  Bao quanh Ngài có nhiều thiên thần.  Tôi có thể nghe thấy tiếng nhạc du dương của các thiên thần.  Ngài đặt tay lên vai tôi, tôi đã trở nên rất nhỏ bé trước Ngài.  Chúa nói với tôi một cách rất rõ ràng “James, con là linh mục của ta mãi mãi. Ngay từ khi ta thụ thai trong lòng mẹ ta (cung lòng của Đức Maria), con đã có đó như một linh mục chia sẻ chức vụ tư tế đời đời của ta. Cha tha thứ cho tất cả tội lỗi của con và làm cho con hoàn toàn nên mới”.  Đó là một sự mặc khải lớn lao đối với tôi, rằng tôi đã thuộc về nhiệm thể của Ngài từ khi Ngài mặc lấy hình dạng con người.  Đức Maria đã trở thành mẹ của tôi từ lâu trước khi Chúa Giê Su giao phó Mẹ cho nhân loại trên thập tự giá khi nói “ Này là con Mẹ…”. Rồi tôi thực sự cảm nghiệm được sự gần gũi với Mẹ Maria, tôi cảm thấy mình như một em bé được an ủi và chữa lành trong khi Mẹ bế đặt trên đùi mặc dù tôi không nhìn thấy Mẹ.  Không có từ nào diễn tả hết được kinh nghiệm tôi đã trải qua trong buổi ngất trí kéo dài hơn ba tiếng rưỡi đồng hồ.  Chúa bảo tôi thực hiện một cuộc thú tội tổng thể thật sâu sắc về cuộc sống quá khứ của tôi.  Ngoài ra, Ngài hướng dẫn tôi ra đi hòa giải với những người mà tôi oán hận.  Trong thời gian dài được đào tạo ở chủng viện hay trong nhà tập, tôi chưa bao giờ có kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu trong cầu nguyện hay nghe giọng nói ngọt ngào này mặc dù Giáo Sư và Linh hướng của tôi đã dạy tôi chiêm niệm và cầu nguyện.  Bây giờ tôi biết rằng lời cầu nguyện và chiêm niệm không phải là một cái gì đó mà tôi có thể đạt thấu nhưng là ơn mà tôi có thể nhận được chỉ như món quà tinh khiết của Chúa Thánh Thần.

Tôi thức dậy từ giấc mơ đầy ơn phúc khi một y tá gọi tên tôi.  Tôi nhìn thấy cô đứng trước tôi với các liều thuốc tiêm và viên thuốc.  Với nhiều niềm vui trong tim, tôi nói với cô ấy rằng tôi vừa trải qua một kinh nghiệm sâu sắc về sự đụng chạm của Chúa Giêsu và tôi đã được chữa lành.  Khi cô rời khỏi phòng tôi cất tiếng ca ngợi Thiên Chúa với một giọng nói lạ, tôi cảm thấy rằng ngôn ngữ và lời nói của tôi được gỡ bỏ và Chúa Thánh Thần cho một ngôn ngữ và lời nói mà nghĩa của nó là khó hiểu với tôi.  Món quà rất đáng gọi là quà tặng là ơn nói tiếng lạ, mà tôi vốn đã không muốn có, nay được trao cho tôi bởi Chúa của tôi.  Tôi đã thực sự cố gắng để hội ra được mọi chiều: rộng, dài, cao, sâu của tình yêu vô biên của Thiên Chúa thể hiện qua Chúa Giêsu, Con của Ngài (Eph 3: 18).  Sau một lúc, bác sĩ điều trị đến và trách cứ tôi vì không chịu dùng thuốc.  Ông nói: “Cha là một linh mục, tôi tin rằng Cha có ý thức và kiến thức, Cha có nghĩ rằng Cha lại đang được chữa lành bằng lời cầu nguyện của thanh niên tân tòng. Nếu Cha không uống thuốc, bệnh sẽ tái phát.”  Tôi nói: “Xin lỗi Bác sĩ, tôi sẽ uống thuốc nhưng tôi biết mình được chữa lành bởi những lời cầu nguyện của cậu nhỏ”.  Tôi uống viên thuốc và chịu mũi tiêm trước sự hiện diện của bác sĩ bởi vì tôi biết rằng các bác sĩ và thuốc men đều nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa và tôi hứa rằng tôi sẽ tiếp tục việc điều trị theo y khoa cho tới khi ông có kết luận khác (Huấn ca 38: 1-2).

Tôi rất hạnh phúc và vui vẻ.  Tôi bắt đầu nói với những người bên cạnh và các Sơ về việc được chữa lành.  Đêm hôm đó, tôi có giấc ngủ ngon và sâu mà không cần một viên thuốc ngủ.  Đó là sự lành bệnh về thể lý đầu tiên mà tôi nhận được.  Kể từ khi tôi có vấn đề về thận, tôi đã không thể ngủ được nếu không sử dụng thuốc an thần.  Hôm sau, tôi thức dậy vào lúc 4 giờ sáng như thể có ai đó đánh thức mình dậy sớm, chắc chắn vị đó là Chúa (kể từ ngày hôm đó tôi luôn thực hiện việc cầu nguyện cá nhân hàng ngày vào buổi sáng lúc 4 giờ).  Tôi ngồi trên chiếc ghế của tôi và cầu nguyện trong một tiếng rưỡi với cùng kinh nghiệm sốt sắng của ngày hôm trước nhưng với sức mạnh gia tăng hơn nhiều.  Trong lúc tôi cầu nguyện, Chúa đặt để sự khôn ngoan của Ngài vào trong miệng của tôi và trao cho năng lực để rao giảng về Vương Quốc của Ngài và ra lệnh cho tôi phải từ chức giáo sư chủng viện và đi ra rao giảng.  Sau khi cầu nguyện tôi đi bách bộ một giờ.  Mới ngày hôm trước, tôi còn không thể đứng dậy một mình ra khỏi giường và bước xung quanh căn phòng! Sau khi tắm rửa, tôi liền đi đến nhà nguyện cử hành Thánh Lễ cùng với hơn một trăm năm chục người tham dự. Bài đọc Tin Mừng trích sách Luca chương mười chín, về câu chuyện của Gia kêu.  Không có bất kỳ sự chuẩn bị trước nào, cậy dựa hoàn toàn vào Chúa Thánh Thần tôi đã có thể giảng trong mười tám phút và làm điều đó nữa, tức là nhìn mặt đối mặt với mọi người.  Tôi cảm thấy đã hoàn toàn được giải thoát khỏi gánh nặng và trói buộc của sự sợ hãi và mặc cảm tự ti. Tôi cảm thấy có một sự gần gũi đặc biệt với những người trong Thánh Lễ. Tôi có thể nhìn ngắm họ với sự tự do và tình mến như thể mỗi người là anh chị em ruột của tôi.  Sau Thánh lễ, được thông báo về sự thay đổi trong hành vi của tôi, bác sĩ liền đề xuất lệnh cho làm lại tất cả các xét nghiệm. Sau đó, ông gọi tôi vào phòng và chỉ cho tôi cách so sánh những kết quả cũ và mới của các cuộc thử nghiệm lâm sàng đồng thời tuyên bố, xác nhận rằng thận của tôi đã hoàn toàn bình phục và rằng tôi có thể ngưng tất cả các loại thuốc cùng được xuất viện.  Tôi không biết làm thế nào để diễn tả hết niềm vui vào thời điểm đó.  Tôi nói, “Ngợi khen Chúa” và ôm từ giả bác sĩ trước khi rời bệnh viện.

Tôi đi ra khỏi bệnh viện như một con người mới với các quyết định và quyết tâm mới.  Tôi quyết định sống cho một mình Chúa Giêsu và dành cả đời mình cho việc rao giảng Nước của Người.  Tôi từ bỏ công việc của tôi trong vị trí giáo sư chủng viện và chuẩn bị bước ra ngoài đi rao giảng,  sau khi đã dành bốn mươi ngày ăn chay và cầu nguyện.  Kể từ ngày 17, tháng 2 năm 1976 tôi bắt đầu giảng tĩnh tâm Đặc Sủng, lần đầu tiên, tôi giảng bằng tiếng Malayalam, ở tiểu bang Kerala, cho đến tận bây giờ tôi chỉ dành thời gian của tôi trong việc rao giảng Lời của Ngài mà thôi.  Bề trên kính mến của tôi sau đó đã đề nghị nhiều cơ hội cho tôi đi đến nước Đức hoặc đến Rome để theo đuổi học vị tiến sĩ, nhưng tôi đã mạo muội từ chối vì Chúa Thánh Thần nói với tôi, “Ta là đủ cho con”.  “Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa!” (Lc 9: 62).  Trong thời gian đào tạo tại chủng viện, khi tôi thấy có nhiều bạn đồng hành được đề cử ra nước ngoài để theo học bậc cao hơn, tôi đã có một khát vọng lớn đó là được đi ra nước ngoài để nâng cao trình độ kiến thức.  Tạ ơn Chúa, bây giờ Chúa còn đang thỏa mãn ước vọng của tôi, khi được tiếp tục giảng thuyết về Vương Quốc ở ngoại quốc. Thật quả đúng là khi chúng ta chịu từ bỏ bất kỳ ham muốn thế gian nào vì lợi ích của Chúa, Ngài sẽ trả lại gấp trăm lần! Đúng là Chúa Giêsu đã sử dụng tôi để Ngài xây dựng một nhà cầu nguyện cho Ngài, tại Athirampuzha, Kerala, cũng được gọi là Charis Bhavan.  Trong các buổi giảng tĩnh tâm, hội nhóm và sứ cầu nguyện chữa lành tôi gặp phải những chống đối  và ngay cả các bách hại nữa.  Nhưng Lời Chúa nói rằng, mỗi người muốn sống một cuộc đời thánh thì sẽ bị bức hại, lời này đã an ủi và tiếp sức mạnh cho tôi (II Tim 3: 12).  Tôi biết rằng tất cả những món quà và quyền hạn được trao cho tôi, một con người yếu đuối, chứa đựng trong những bình sành lọ đất, ngõ hầu quyền lực siêu vời kia thực rõ là của Thiên Chúa, chớ không phải xuất tự chúng tôi. (II Cor 4: 7). Cùng với Thánh Phaolô, tôi nữa, tôi cũng sẽ nói rằng Tôi có sức chịu đựng mọi sự, trong Ðấng ban sức mạnh cho tôi. (Phi-líp 4: 13).  Quyền năng của Ngài được bày tỏ trong giai đoạn tôi bị bắt cóc và cầm tù trong thế giới Hồi giáo ở các nước Ả Rập, và trong những lời lăng mạ và những hiểu lầm của bề trên và bạn bè.  Tôi kết luận lời chứng của tôi với những lời của Thánh Phêrô: “Anh em thân mến, đừng lấy làm lạ vì hỏa tai bốc cháy để thí luyện anh em, như một cái gì lạ lùng xảy đến. Nhưng càng được chung phần thống khổ của Ðức Kitô chừng nào, anh em hãy vui mừng! Ngõ hầu khi vinh quang của Ngài mạc khải ra, anh em cũng được vui mừng hớn hở. Nếu anh em phải chịu sỉ vả vì Danh Ðức Kitô, thì phúc cho anh em, vì Thần khí vinh quang, Thần khí của Thiên Chúa, sẽ đậu lại trên anh em. “(Phê rô 4: 12-14 ).

Cám ơn Chúa vì sự thành tín và rộng rãi của Ngài, ngày hôm nay mục vụ Canh Tân Đặc Sủng của Cha James Manjackal được Giáo Hội công nhận,

Cha thực hiện nhiều hành trình rao truyền Tin Mừng trong 87 quốc gia trên 5 châu lục, Ngài thuyết giảng trong các buổi tĩnh tâm Canh Tân Đặc Sủng, chủ trì các hội nghị và cầu nguyện xin ơn chữa lành, hướng dẫn trong các trường Tin Mừng và tiên phong trong công tác truyền bá đức tin cho người Hồi Giáo vùng vịnh Ả Rập. Cha sáng lập dòng “Tì nữ Maria đầy ơn phước” trong giáo phận Vijayapuram, bang Kerala, Ấn độ. Ngài viết nhiều sách về Canh Tân Đặc Sủng như “33 Lời nguyện Đặc sủng” được dịch ra vài ngôn ngữ, “Cầu nguyện làm nên điều kỳ diệu”, “Ngài đụng chạm và chữa lành tôi”, “Sự Chữa lành tạo nên Đời Sống mới”, “Tỉnh thức, Ta gõ cửa đây”, “Tìm thấy rồi”, “Vào trong tàu . Mới đây vào tháng 2, năm 2016, Cha được Đức Thánh Cha Phan xi cô chỉ định là một  trong bẩy trăm sứ giả của Lòng Thương Xót Chúa nhân dịp năm thánh Lòng Thương Xót.

Phan Sinh Trần gởi

NĂM MỚI và TÂM LINH

NĂM MỚI và TÂM LINH

 Trầm Thiên Thu 

Năm 2017 là năm Con Gà.   Đặc tính nổi bật của con gà là tiếng gáy của chú gà trống vào mỗi buổi sáng.  Tiếng gáy đó báo thức để người ta biết giờ thức dậy, đặc biệt là dậy sớm.  Thức khuya và dậy sớm là điều cần thiết, không chỉ với nông dân mà với mọi người.

Tiếng Gà báo thức cũng là tiếng cảnh báo chúng ta phải tỉnh thức về mọi thứ, cả xã hội và tâm linh.  Mỗi dịp đón năm mới, nhiều người trong chúng ta tự hứa với nhiều điều quyết tâm cho Năm Mới – các điều này chủ yếu liên quan các mục đích như giảm cân hoặc tập thể dục nhiều.  Nếu chúng ta thực sự cảm thấy có hứng thú, chúng ta có thể hứa viếng Thánh Thể hằng ngày hoặc đọc trọn bộ Kinh Thánh.

Không may thay, với đa số các quyết định năm mới, khả năng chịu đựng tinh thần chỉ kéo dài khoảng một tuần, và chúng ta thấy mình vẫn ở điểm bắt đầu, cảm thấy thất bại và thắc mắc: “Tôi có thể hứa cầu nguyện nhiều trong năm mới?  Tôi có nên bỏ qua và bắt đầu lại?”

Kết hợp nhiều thời gian để cầu nguyện là điều không dễ thực hiện, để đến gần các mục đích tâm linh, đây là vài gợi ý thực tế có thể giúp bạn quyết định làm cho năm nay là năm tâm linh đặc biệt:

  1. Tin Tưởng Vào Mục Đích Và Tín Thác Vào Thiên Chúa

 Bước thứ nhất này có thể mang vẻ hiển nhiên, nhưng chúng ta thường bỏ lỡ.  Khi chúng ta nghĩ về việc cầu nguyện “nghiêm túc”, chúng ta thường có kiểu nói như thế này: “Tôi biết tôi sẽ thất bại, không thể làm được, vì tôi không thánh thiện đủ.”  Nói thật, tư tưởng như vậy là lừa dối, nó ngăn cản bạn bắt đầu kế hoạch cầu nguyện.  Nó thuyết phục bạn tin mình “chưa thánh thiện đủ” hoặc “quá bận” hoặc “không bao giờ theo đến cùng.”  Satan có xu hướng ngăn cản bạn cầu nguyện hằng ngày và làm cho bạn tìm nhiều cách lừa dối xoay quanh ý tưởng rằng “bạn không thể đạt được điều bạn muốn.”  Đừng nghe lời ma quỷ xúi giục!

Bạn là con cái của Thiên Chúa, và Ngài luôn ở bên bạn.  Bạn có thể làm được điều đó!  Nếu chúng ta mở lòng ra với Thiên Chúa, Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta và ban cho chúng ta có sức mạnh cần thiết.  Chúng ta cần phải tin rằng Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta và chúng ta có thể làm được điều không thể.  Hơn mọi thứ khác, đức tin là tặng phẩm do Thiên Chúa trao ban.  Hãy cầu xin tặng phẩm đức tin!  Hãy xin Ngài gia tăng lòng yêu mến.

Chúa Giêsu đã nói: “Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (Mt 17:20).

  1. Nhớ Lại Điều Đã Hoặc Không Tác Dụng

 Trong đời sống tâm linh, chắc chắn có sự thăng trầm; có những lúc bạn cảm thấy rất sung mãn, cũng có những lúc bạn cảm thấy như trong ao tù.  Hãy nhìn lại quá khứ, xem điều gì tác động và khi nào cảm thấy “sung mãn.”  Bạn có thể chú ý các kiểu nào đó hữu ích hoặc bạn muốn tái tạo trong hiện tại.

Thêm vào đó, chúng ta còn có những thói quen khác nhau.  Đây có thể là cách chúng ta sẵn sàng vào buổi sáng theo cách riêng là gấp quần áo.  Cầu nguyện cũng cần trở thành một thói quen.  Khi chúng ta nghĩ về các thói quen mà chúng ta có liên quan, điều gì là điểm chung?  Rất có thể đó là điều bạn học biết khi còn nhỏ và tiếp tục vẫn làm điều đó hằng ngày.  Rồi điều đó ăn sâu vào cuộc sống và bạn chỉ nghĩ về điều đó.  Việc làm cho cầu nguyện trở thành thói quen là điều RẤT QUAN TRỌNG nếu bạn muốn cầu nguyện nhiều trong năm mới này.

Đừng sợ bắt đầu một điều nhỏ, thậm chí nhỏ như việc bắt đầu và kết thúc một ngày bằng Dấu Thánh Giá và Kinh Sáng Danh.  Từ những điều nhỏ như vậy mà xuất hiện những vị thánh.

  1. Bạn Là “Con Gà” Hay “Con Cú”?

Đối với nhiều người, họ không thể kiểm soát cuộc sống trong khoảng từ 9 giờ sáng tới 5 giờ chiều.  Dù chúng ta có thể đi làm công sở, ở nhà chăm sóc con cái, hoặc đã nghỉ hưu, ban ngày vẫn đầy khả năng.

Điều này cho chúng ta hai cách chọn lựa đối với thời gian cầu nguyện: buổi sáng hoặc buổi tối.  Hai khoảng thời gian này thường là “khoảng” chúng ta có thể kiểm soát những gì xảy ra.  Có thể chúng ta phải lo cho con nhỏ, phải ăn tối, phải lo việc lặt vặt trong gia đình, nhưng hằng ngày chúng ta vẫn có cách chọn lựa những gì cần làm sau khi con cái đi ngủ và đã xong việc nhà.  Bạn có vô internet hoặc facebook tới 1 giờ sáng, hay là bỏ mọi thứ để cầu nguyện?  Hãy chân thật với chính mình, và đặc biệt là chân thật với Thiên Chúa.

Mặt khác, chúng ta có thể có nhiều thời gian vào buổi sáng và mau mắn thức dậy lúc 5 giờ sáng để cầu nguyện khoảng 30 phút.  Đây là điểm quan trọng: bạn là “người buổi sáng” hay “người ban đêm,” là “con gà trống” hay “con cú,” việc tự biết mình như vậy sẽ giúp chúng ta biết lúc nào là lúc tốt nhất để chúng ta dành thời gian cho việc cầu nguyện.

  1. Suy Nghĩ “Nhiều Phút” Chứ Không “Nhiều Giờ”

 Tác giả Gary Jansen viết một cuốn sách có tựa là “The 15-Minute Prayer Solution: How One Percent of Your Day Can Transform Your Life” (Giải Pháp Cầu Nguyện 15 Phút: Một Phần Trăm Mỗi Ngày Sống Có Thể Biến Đổi Cuộc Đời Bạn), ông cho biết: “Bạn có biết rằng mỗi ngày có 1.440 phút?  Đúng vậy.  Tôi đã tính toán.  Bạn có biết rằng 1% của số thời gian đó là 14 phút đối với 24 giờ?  Điều gì xảy ra nếu hằng ngày bạn quyết định khôn ngoan để rèn luyện linh hồn bằng cách dành 15 phút cho Thiên Chúa?  Chỉ 1% bé nhỏ của cuộc đời bạn mà thôi.  Cuộc đời bạn có thay đổi không?  Cuộc đời tôi đã thay đổi.”

Chúng ta thường có những mục đích cao ngất là làm một giờ thánh mỗi ngày, và rồi chúng ta thất bại, chúng ta cứ tưởng mình là người đáng thương.  Thay vì đặt ra mục đích cao xa và thất bại, trước tiên chúng ta nên cố gắng áp dụng từng “bước nhỏ.”  Nếu mỗi ngày chúng ta có thể dành 15 phút để cầu nguyện và kiên trì làm như vậy, chúng ta có thể tăng thêm thời gian và dần dần vượt qua những mục đích nhỏ để có thể đạt tới các mục đích cao hơn về sau.

  1. Thời Khóa Biểu Cầu Nguyện 

Đầu óc của chúng ta đầy những thông tin nên dễ quên những gì “đã hứa” thực hiện.  Đó là lý do chúng ta phải thận trọng và viết thời khóa biểu hằng ngày, quyết tâm làm cho việc cầu nguyện là việc chính.  Chúng ta phải có khung thời gian hằng ngày.  Hãy viết bằng CHỮ HOA, và có thể TÔ ĐẬM, để giúp củng cố trí nhớ.  Nếu bạn có điện thoại thông minh, hãy dùng “chương trình nhắc nhớ” (Reminders App).  Tóm lại, chúng ta phải cẩn trọng đối với việc dành thêm thời gian hằng ngày cho việc cầu nguyện.

Quả thật, cầu nguyện là việc rất cần thiết hằng ngày.  Thánh Ephraem Syria xác định: “Các nhân đức thành hình nhờ cầu nguyện.  Lời cầu nguyện duy trì sự điều độ, ngăn chặn sự tức giận, ngăn chặn sự kiêu ngạo và đố kỵ.  Lời cầu nguyện đưa Chúa Thánh Thần vào linh hồn và nâng con người tới Thiên Đàng.”

Cuối cùng, làm trọn các mục đích tâm linh của bạn trong năm mới này sẽ không dễ dàng, mà cũng chẳng bao giờ dễ dàng.  Hôn nhân cũng không hề dễ dàng, nhưng chúng ta có sự chọn lựa cẩn thận để quyết định chung sống với người bạn đời của mình “trong mọi hoàn cảnh, và cho đến chết.”  Điều chúng ta cần làm là quyết định, nhận biết những gì liên quan và cố gắng hết sức để đạt tới thành công.

Philip Kosloski

Trầm Thiên Thu 

 (Chuyển Ngữ Từ Aleteia.Org)

Langthangchieutim gởi

BĂNG QUA BÓNG TỐI (Ơn gọi của một linh mục bị mù)

Image may contain: 2 people, people standing

BĂNG QUA BÓNG TỐI (Ơn gọi của một linh mục bị mù)

————————–——
Hồi tưởng lại khoảng thời gian khi đôi mắt vừa mất đi ánh sáng, linh mục Phêrô Phạm Văn Dương, dòng Anh Em Đức Mẹ Lên Trời chỉ nhẹ tênh: “Quãng đó mình cũng bí thật, không đi lại, không ra ngoài được, làm gì cũng không xong. Người bạn duy nhất chính là chiếc radio… Nhưng mình vượt qua rất nhanh vì nghĩ không có nhiều thì giờ nên không thể dừng lại quá lâu. Trong bóng tối vẫn phải tiếp tục bước đi”.
Đường dài gian nan– Ơn gọi đến với cha Dương bắt đầu từ năm 2001, lúc cha còn là sinh viên và tình nguyện sang Nga phục vụ cho giáo xứ có cộng đoàn người Việt. Giáo xứ này do các linh mục dòng Anh Em Đức Mẹ Lên Trời coi sóc nằm ở Mátxcơva. Làm việc trong môi trường mới thuộc miền ôn đới, người tu sĩ trẻ không hay mình đã bị một loại virus cực hiếm âm thầm tấn công vào mô thần kinh mắt, khiến thị giác lúc mờ lúc tỏ. Tuy nhiên lúc ấy do chủ quan, cha nghĩ chắc không sao nên vẫn cứ hăng say làm việc.Tháng 5.2002, cha chuyển sang Pháp để tiếp tục hành trình ơn gọi. Thời gian này, vị tu sĩ nhận được chẩn đoán chính xác của các bác sĩ tại bệnh viện và bắt đầu điều trị mắt. Vừa đi học, cha vừa phải huy động sức mạnh tinh thần để chữa bệnh. Ba lần được mổ mắt không thành công, cha vẫn chưa thôi ôm ấp niềm hy vọng một ngày nào đó đôi mắt mình sẽ bình thường trở lại. Thế nhưng đến lần mổ thứ tư thì đôi mắt không còn nhìn thấy gì nữa. Dù có sự chuẩn bị từ trước nhưng đối với một người trước nay sáng mắt, giờ bỗng không thấy gì thì quả thật vô cùng khó khăn.

 

Cha xin vào học ở một trung tâm phục hồi chức năng dành cho người khiếm thị ở ngoại ô Paris. Thế giới đầy sắc màu bên ngoài tưởng chừng đã khép lại hoàn toàn thì nay bỗng dưng biến đổi, trở nên diệu kỳ hơn bởi được cảm nhận một cách mộc mạc nhất từ con tim. Học ở đây, người tu sĩ biết được nhiều cảnh đời, có thêm bạn bè từ những tôn giáo khác cũng như chứng kiến nhiều mối tình cảm động. Ông nhận ra trong thế giới người mù có rất nhiều điều để khám phá, cũng phong phú sinh động và tươi đẹp lạ thường, để rồi bắt đầu các bài học cơ bản như di chuyển, cầm gậy, đi tàu điện, nấu ăn, giặt, ủi đồ… rồi đến học chữ nổi, tập dùng máy vi tính.Trải qua 5 tháng cố gắng, cha Dương hoàn thành tốt các bài học và có thể sống tự lập được. Khi khóa phục hồi chức năng kết thúc, cha vào Đại chủng viện Xuân Bích (Paris) tiếp tục 6 năm Triết và Thần học, rồi sau đó học chuyên về Thần học ở trường Đại học Công giáo Paris.

Nhớ lại suốt những năm học ấy, cha cho biết mình đã phải luôn cố gắng gấp đôi so với người bình thường vì trong lớp chỉ có mình cha là người khiếm thị. Từ nhà dòng đến chủng viện nếu người sáng chỉ mất 30 phút thì cha mất khoảng 45 phút di chuyển; đi tàu cũng phải cẩn thận dò bản đồ chữ nổi và chú ý đếm số ga đã đi qua để canh chừng mà xuống. Những bài vở mà các giáo sư đưa ra, cha đều phải chuyển sang chữ nổi hoặc đưa vào scan trên máy tính. Việc lật giở các trang sách chữ nổi cũng khá chật vật mới theo được các bạn trong lớp. Tuy vậy, nhờ có trí nhớ tốt, cha nắm bài cũng như ghi chép rất trôi chảy, vì thế môn nào cũng được xếp thứ hạng cao. Đối với một người khỏe mạnh thì việc học xong rồi chịu chức linh mục là một điều không khó. Thế nhưng với cha Dương thì đoạn đường này cũng đầy thử thách, song bằng niềm tin và nỗ lực, cha đã không chỉ hoàn thành chương trình học mà còn chứng tỏ được ơn gọi của mình.

Ánh sáng niềm tin

– Ngày 5.2.2012, cha Dương chịu chức phó tế và ngày 14.10.2012 lãnh tác vụ linh mục tại nhà thờ Thánh Hyppolyte (giáo xứ Thánh Hyppolyte cũng là nơi cha giúp việc trong thời gian còn tu học), do Đức cha Eric de Moulins-Beau-fort, Giám mục phụ tá giáo phận Paris truyền chức. Trở về Việt Nam sau đó, để thuận tiện hơn cho những nhiệm vụ mới, cha đã tìm đến Mái ấm Thiên Ân và mày mò học chữ nổi bằng tiếng Việt. Thánh lễ mở tay của cha Dương được cử hành tại nhà thờ Đa Minh Ba Chuông (TGP.TPHCM) vào chiều ngày 19.11.2012. Đó là một buổi lễ vô cùng đặc biệt, dành riêng cho các em khiếm thị trong một số mái ấm tại thành phố và tất cả các phần trong phụng vụ đều sử dụng chữ nổi.

– Cha được giao làm phụ tá giám tập cho dòng Anh Em Đức Mẹ Lên Trời, phụ trách việc đồng hành về đời sống thiêng liêng và dạy học cho các tập sinh ở Bà Rịa. Được 3 năm, cha nhận bài sai về làm bề trên một cộng đoàn của dòng nằm ở Bình Thạnh (TPHCM). Hiện tại, cộng đoàn này có 10 thỉnh sinh và hai tu sĩ khấn trọn đời. Song song với công việc tại nhà dòng, cha cũng thường đi giảng tĩnh tâm và dâng lễ định kỳ tại một số giáo xứ và các mái ấm. Nhớ về những vụng về, sai sót trong những lần dâng lễ, vị linh mục cười vui kể lại: “Lúc đầu do chưa quen, lại không nhìn thấy, tôi hay vấp lỗi, chẳng hạn lên cung thánh thay vì đứng giữa thì chỉ đứng một bên bàn thờ… Lúc còn là phó tế, có lần đến lúc đọc Tin Mừng, tôi lại cầm sách đi liêng xiêng đến gần chỗ cây nến phục sinh và va phải. Cũng may khi đó có cậu giúp lễ chạy tới giúp, giáo dân ở dưới cũng được một phen hú vía”. Cha cười nhưng người nghe lại rưng rưng cảm động rồi cảm phục trước nghị lực phi thường của một vị mục tử trong việc thực thi trọn vẹn ơn gọi của mình.

– Nay, cha Dương đang là Chủ tịch Ủy ban Bác ái và Ủy ban Bảo trợ ơn gọi của nhà dòng. Cha thường xuyên cùng mọi người trong ban tổ chức mời các bác sĩ đi khám bệnh và phát thuốc miễn phí tại các tỉnh miền Tây, miền Trung cũng như vùng cao, một năm khoảng hai, ba chuyến. Mỗi lần, mọi người đều gắng huy động và chuẩn bị những phần quà để kết hợp trao cho những người khó khăn. Song song đó, cha cũng quan tâm đến chuyện học hành của con em các hộ nghèo, qua việc trợ giúp học bổng ở nhiều nơi. Ngài cùng ban bác ái, kết nối với cha xứ, các hội nhóm ở mỗi nơi, mỗi vùng để xin danh sách các em rồi giúp đỡ. Cái hay của quỹ học bổng này chính là việc theo sát các em trong suốt quãng đường học tập và khi em nào ra trường, sẽ liên lạc lại với nhà dòng để tiếp tục nuôi lớn chương trình bằng cách này hay cách khác.

– Ngoài ra, năm nào cha cũng tổ chức cho giáo dân những chuyến hành hương đến các linh địa để tĩnh tâm, cầu nguyện, mỗi năm có gần 1000 người tham dự. Cha còn thường xuyên đến bệnh viện ung bướu ban bí tích, sức dầu cho bệnh nhân cũng như an ủi thân nhân của họ.

– Không chỉ làm việc và sinh hoạt như một người bình thường, nơi vị mục tử khiếm thị này còn toát lên sự lạc quan và niềm yêu đời tha thiết. Sức mạnh tinh thần này dường như được truyền từ cảm nghiệm sâu sắc về cuộc đời trong một kỷ niệm khó quên cha đã từng trải qua: “Hồi còn ở Paris, có một đêm khuya tôi từ nơi làm việc đi đón tàu điện trở về nhà dòng. Lúc đó đường vắng, tôi đứng ở chỗ cột đèn giao thông rất lâu, chờ người tới để nhờ dẫn qua đường. Tôi định bụng chờ lát nếu không có ai thì liều đi đại nhưng thời may lúc sau lại có người. Khi tôi cất tiếng xin nhờ bám vào một bên cánh tay để qua đường thì người đó im lặng vài giây rồi nói: ‘ông muốn nhờ cánh tay tôi thì phải đổi sang bên khác vì tôi chỉ còn có mỗi cánh tay thôi!’. Đối với tôi, đêm đó là đêm nhớ nhất trong đời, bởi đêm dù đen tối nhưng vẫn có thể bừng sáng nhờ lòng người. Tôi nhận ra, khi người ta tin tưởng, giúp đỡ và yêu thương nhau thì mọi gánh nặng đều có thể vơi đi”.

THIÊN LÝ

TÀI HOA VÀ ĐỨC MẾN CỦA NGƯỜI NGÃ NGỰA TẠI DAMAS

TÀI HOA VÀ ĐỨC MẾN CỦA NGƯỜI NGÃ NGỰA TẠI DAMAS

Nếu có một câu hỏi dành cho Thánh Phaolô: “Hãy mô tả Ngài bằng 4 từ,” tôi sẽ chọn: tài hoa và đức mến.

Đức mến

 Sự dấn thân, nhiệt tình vô điều kiện của Thánh Phaolô trong việc truyền rao Lời Chúa thể hiện trong cả lời nói và việc làm.  Đối với Ngài, Thiên Chúa là tất cả.  Các bài viết của Thánh Phaolô thường hay lặp lại các câu ngắn sau “trong Đức Kitô,” “Thiên Chúa của tôi,” “nhờ Đức Kitô,” “với Đức Kitô,” “Đức Kitô ở trong tôi”. . .  Đối với Ngài tình yêu với Thiên Chúa là tuyệt đối.

Ngài đi truyền giáo khắp mọi nơi: Sýp, Pamphilia, Pixidia, Corinto. . .  Bị bắt nhiều lần: lần 1 tại Giêrusalam, lần 2 tại Palestin, lần 3 tại Roma. . . cuối cùng là tử đạo.  Ngoài việc truyền giáo trực tiếp bằng lời giảng, Ngài còn viết các thư cho các cộng đoàn lẫn các cá nhân.  Tuy các đối tượng mà Ngài rao giảng là khác nhau, nhưng điểm hội tụ mà Ngài truyền tải là “Đức Kitô đã chết và đã sống lại”.

Tài hoa

 Cuốn Tân Ước dày khoảng 800 trang thì số trang của Thánh Phaolô chiếm khoảng 200 trang, so sánh như thế mới thấy gia tài đồ sộ mà Ngài để lại cho con cháu.  Lối viết súc tích, lôi cuốn, rực lửa làm bài viết của Ngài nổi trội trong toàn bộ cuốn Tân Ước.  Tất cả các điều trên đạt được được có lẽ Ngài lấy từ nguồn cảm xúc vô tận từ Chúa Giêsu Kitô, để các bài đọc trở thành những đoạn văn vượt thời gian.  Ngày nay, 13 thư của Ngài là một trong các chủ để cho các chương trình Thần học và cho chính mỗi chúng ta, những người đang muốn đến gần với Chúa hơn thông qua các lời giảng tâm huyết, mạch lạc rõ ràng của Ngài dành cho hậu thế.  Chúng ta có thể tìm thấy chính mình trong các thư của Ngài muốn mô tả,  khi trìu mến, lúc quở trách, kể cả những đau khổ của Ngài khi thấy chúng ta đang đi trên các con đường thiện ác vô lường.

Ngài là nhà truyền giáo, nhà văn, nhà tổ chức, nhà hùng biện, khai phá và vun trồng.  Tài hoa của Ngài đã được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành khí cụ sắc bén trong việc truyền rao và xây dựng giáo hội thời sơ khai.  Đặc biệt, đối tượng rao giảng của Ngài rất đa dạng.  “Người ấy là lợi khí Ta chọn để mang danh Ta đến trước mặt dân ngoại, vua chúa và con cái Israel.” (Cv 9, 15)

Chữ NGỘ

 Không ai trong chúng ta có thể quên đoạn Kinh Thánh mô tả Thánh Phaolô được Chúa Giêsu chinh phục trên đường đi Damas.  Nó minh chứng rằng, cách mà Thiên Chúa gọi con người là đa dạng và cách gọi Thánh Phaolô là rất đặc biệt.  Với một trải nghiệm quá lớn lao như thế với bản thân, Thánh Phaolô đã trở thành một con người khác sau biến cố ngã ngựa.  Cái khoảnh khắc sát na đó, đã làm Thánh Phaolô chợt NGỘ.  Sau đó Ngài bị mù, không ăn, uống ba ngày (Cv 9, 9).  Tưởng họa mà lại hóa phước.  Chết để được phục sinh.

Sau đó Ngài lao vào các hoạt động mà chúng ta đã biết.  Vấn đề đặt ra là, Ngài không được thụ hưởng sự giảng dạy trực tiếp từ Chúa Giêsu, vậy ngôn từ, tri thức của Ngài đến từ đâu?  Trong (Cv 13, 2) nói rõ, Thánh Thần bảo “Hãy dành riêng Banaba và Phaolô cho ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm.”  Vậy, sự khôn ngoan, trí mẫn tiệp, sức lực mạnh mẽ của Ngài có từ Chúa Thánh Thần.

Ngài không chỉ diện kiến Thiên Chúa một lần khi ngã ngựa mà còn vài lần  khác trong (Cv 13, 2), (Cv 26, 16).  Đó là hồng ân Thiên Chúa dành cho Ngài.  Nói chung dành cho tất cả những ai có tinh thần giống Ngài.

Thiên tài của Thánh Phaolô làm chúng ta suy nghĩ, tại sao Ngài có thể làm được những chuyện lớn lao như thế?  Xin được giải thích và kết luận bài viết bằng một câu trong tin mừng (Ga 15, 6) “Thầy là cây nho, anh em là cành.  Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong kẻ ấy thì người ấy sinh nhiều HOA TRÁI.  Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.”

Lạy Thánh Phaolô, xin luôn trợ giúp sưởi ấm lòng mến Chúa, yêu người trong mỗi chúng con.  Và xin cho chúng con được một phần tài hoa của Ngài.

 Tuấn Anh

Linh Thao Là Gì?

Linh Thao Là Gì?

Nhằm giúp bạn hiểu hơn đôi nét về Linh Thao, chúng tôi xin trích đăng sau đây bài viết của Linh mục Nguyễn Tầm Thường, SJ. trong cuốn “Đường Đi Một Mình”.

 LINH THAO LÀ GÌ?

LINH là linh hồn, THAO là thao luyện, là tập dượt. Muốn cho thân xác khỏe mạnh ta tập THỂ THAO. Body Excercises. Đi Total Fitness. Để làm gì?

– Để khỏe mạnh, sống yêu đời.

– Để “burn” đi “fatness” cho dễ coi, để bớt cholesterol, thải những chất độc trong cơ thể.

Muốn cho linh hồn khỏe mạnh, người ta LINH THAO. Spiritual Excercises. Đi Retreat House. Để làm gì?

– Để bớt nhăn nhó với đời và đời bớt nhăn nhó với ta.

– Để thiên đàng vào trong ta chứ ta không tìm vào thiên đàng

TẠI SAO LẠI LINH THAO?

Thấy mình sống lo lắng, gia đình chán nản, phân hoá nội tâm… Nhận định tiếng nói thần lành, thần dữ. Làm sao để sống tự do và hạnh phúc hơn. Như người đau, muốn khỏi bệnh, phải diệt hết vi trùng gây bệnh, phải biết cách ngăn chặn vi trùng và phải biết phản công.

LINH THAO BẮT NGUỒN TỪ ĐÂU?

Gần 500 năm về trước, thánh Ignatio đã “sáng chế” ra phương pháp thao luyện linh hồn gọi là LINH THAO. Linh thao trọn vẹn là 30 ngày. Thánh nhân chia 30 ngày thành 4 tuần lễ với những thao luyện khác nhau. Ignatio “sáng chế” như thế nào? Hành trình nào đưa thánh nhân tìm ra phương pháp này? Tại sao lại 30 ngày? Chuyện còn dài, ta để dịp khác. Vào restaurant, ta order thức ăn rồi thưởng thức đã. Chuyện làm cách nào ông chủ xây được quán ăn. Ta để dịp khác.

Ngày nay LINH THAO được thực hiện dưới hình thức 30 ngày, 8 ngày, 5 ngày, và 3 ngày. Trung bình hằng năm có khoảng 50 khoá linh thao cho các cộng đoàn Công Giáo Việt tại Mỹ và Canada. Vì do thánh Ignatio nên còn gọi là Ignatian Retreat, tức tĩnh tâm theo phương pháp Ignatio, hoặc là Silent Retreat vì phải thinh lặng, hay Directed Retreat. Gọi là Directed Retreat, vì thánh Ignatio không giảng chung mà hướng dẫn từng người. Cứ nhìn em bé học đàn. Từng em cần hướng dẫn khác nhau.

LINH THAO DÀNH CHO AI?

LINH THAO dành cho mọi người, bất cứ ai muốn linh hồn mình được thao luyện đều có thể linh thao. Bất cứ ai muốn “good looking” cần body excercises. Cũng như bất cứ ai muốn đề phòng bị stroke cần “burn” đi cholesterol. Dĩ nhiên phải hiểu là người đó có sức khoẻ, tâm lý tốt.

CÓ THỂ LINH THAO MẤY NGÀY?

Thể thao giúp thân xác khỏe mạnh. Linh hồn cũng vậy, linh thao giúp linh hồn nhìn rõ cuộc đời để sống đúng và yêu đời. Vì thế bạn có thể linh thao 3 ngày, 8 ngày, 30 ngày. Ingatio rất tinh tường khi thấy giáo dân khó làm linh thao 30 ngày trọn vẹn ở nhà tĩnh tâm. Ngài lấy 30 ngày trải dài nhiều tháng, làm linh thao trong đời sống hằng ngày. Chương trình này tạm gọi là Linh Thao ngoài đời.

LINH THAO MẤY LẦN TRONG ĐỜI?

Ngày hôm qua bạn ăn, hôm nay lại đói. Mấy ngày trước bạn đổ xăng vào xe, hôm nay đã hết. Chiếc áo bạn giặt hôm nào, nay lại dơ. Vì thế bạn ăn tiếp, đổ thêm xăng, giặt áo lại và sạc cái bình điện đã yếu. Linh hồn cũng vậy, bạn không thể LINH THAO một lần là xong. Không phải LINH THAO một lần cho biết, nhưng LINH THAO để sống, cũng như chẳng có ai ăn cơm một lần cho biết rồi thôi không ăn nữa, nhưng là tiếp tục ăn để sống. Ít nhất, bạn nên LINH THAO một năm một lần.

Đến đây, bạn biêt LINH THAO là gì rồi. Đó là thao luyện linh hồn, nên LINH THAO:

– Không phải là một phong trào.

– Không phải là một đoàn thể.

– Từng cá nhân, từng vợ chồng, từng gia đình, từng nhóm người đều có thể tổ chức các khoá tĩnh tâm LINH THAO. Bạn đã biết linh thao trên lý thuyết. Vấn đề không phải là nhìn “menu” trong quán ăn rồi về. Vấn đề là ăn.

LINH THAO – Không là phong trào. Nhưng có những phong trào muốn dùng linh đạo của thánh Ignatio để giúp đời sống thiêng liêng của họ. Chẳng hạn Cursillo. Thủ bản LEADER’S MANUAL của Cursillo, trang 57, chương 7: The Role Of The Cursillo Leader, phần hậu Cursillo, In The Postcursillo nói rõ các Cursillistas hàng năm nên tĩnh tâm Ignatian Spiritual Excercises. Hoặc phong trào Christian Life Community, Việt Nam ngày xưa gọi là Hiệp Hội Thánh Mẫu, nay gọi là Đồng Hành. Họ dựa trên nền tảng linh đạo này của thánh Ignatio. Bạn có thể vào website DONGHANH.ORG để biết về lịch trình các khoá linh thao hằng năm.

LỜI HƯỚNG DẪN

Muốn làm linh thao một cách hữu ích, trước khi đi bạn cần biết:

THINH LẶNG là điều cần thiết. Bạn phải giữ THINH LẶNG trong khoá. LINH THAO không phải là khoá sinh hoạt hội thảo, ồn ào.

  • Tại sao thinh lặng? – “Lạy Chúa, xin Chúa phán một Lời linh hồn con sẽ lành mạnh”. Bạn tuyên xưng lời này quá nhiều lần rồi. Sự lành mạnh đến từ Chúa nói tôi nghe, chứ không phải tôi nói Chúa nghe. Làm sao “nghe” nếu cứ nói?
  • Thay đổi lối suy nghĩ. – Không phải làm linh thao là hy sinh thời giờ cho Chúa mà cho chính bạn! Bạn đến hay không thì Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa! Có bạn hay không mặt trời vẫn mọc. Kẻ khôn ngoan là người đi tìm ánh sáng, đừng bắt ánh sáng cần mình.
  • Thời gian bao lâu? – Khoá ngắn, bắt đầu tối thứ Năm đến chiều Chúa Nhật.

Linh thao là thời gian nghe thiên thần kể chuyện.

Chúc bạn những ngày:

VACATION WITH THE LORD

NGHE THIÊN THẦN KỂ CHUYỆN THẬT TUYỆT VỜI

Người ta ngại đi linh thao vì không có thì giờ và tốn tiền. Họ ngại vì không biết chuyện thiên thần kể có dzui không mà đi?

– Một năm xưng tội một lần thôi có được không? Thiên thần kể chuyện thế này. Một hôm có người hỏi thùng rác trong bếp: “Phiền quá, lại phải đem mày đi đổ. Tốn thời giờ. Tốn tiền. Một năm đổ mày một lần được không?”

Thùng rác trả lời:

– Tùy!

Thiên thần tuổi thơ trên thiên đàng cũng nghịch lắm. Nếu Chúa sai mấy thiên thần tuổi thơ này kể chuyện, các thiên thần sẽ nói:

– Đó, chuyện thiên thần kể đại loại là như thế, có dzui không? Tùy!

Cũng như có lần có người nói:

– Vợ chồng tôi đâu có vấn đề gì mà “phải” đi tĩnh tâm.

Các thiên thần trả lời: “Có vấn đề thì đi gặp luật sư”.

Rồi mấy thiên thần bé thơ này lại khúc khích cười. Tuổi thơ mà. Tiếng cười dễ thương trước những câu hỏi của con người.

Thiền Niệm hay Linh Thao

Zen hay không Zen

là kẻ nghe thấy gì sau tiếng cười ấy.

From: vongtaysongnguyen

GIÁO DÂN NGHĨ GÌ VỀ NGÔN NGỮ TRONG BÀI GIẢNG CỦA MỘT LINH MỤC?

 

GIÁO DÂN NGHĨ GÌ VỀ NGÔN NGỮ TRONG BÀI GIẢNG CỦA MỘT LINH MỤC?

Conggiaovietnam.net

Tôi thực kinh ngạc khi đọc thư của một linh mục cho biết về linh mục kia từ bên Mỹ về Việt Nam và giảng tại giáo xứ Tân Sa Châu Saigon với những  ngôn ngữ không thể tượng tượng được như sau (trích nguyên văn  thư của linh mục gửi cho tôi:, dựa trên một video quay lại bài giảng của linh mục kia):

– Đạo Công Giáo không dạy chúng ta phải sống tốt ! ! !

– tình dục thì rất sướng !!!

– tao tát một cái, đập vỡ mặt bây giờ !

– dốt như con lợn

– Nhìn mặt thấy bà Sơ là không có Chúa!

– Nhìn bà Sơ giống con mẹ ế chồng !

– nhìn mấy ông cha giống như vợ bỏ !…

Nếu thực tế đúng như nguyên văn được trích trên đây , thì tôi không biết linh mục kia có phải là linh mục thực sự của Giáo Hội hay là một kẻ mạo danh linh mục để  bêu xấu  hàng linh mục của Giáo Hội  nói chung và hàng linh mục Việt Nam nói riêng,

Thật vậy,  nếu  thực sự được đào tạo thích đáng, dù ở Viêt Nam hay ở ngoại quốc, thì không một linh mục nào lại có thể ăn nói bậy bạ, vô tư cách, thiếu  giáo dục như vậy trên tòa giảng !!!

Và nếu Là linh mục được đào tạo chân chính, thì không bao giờ có thể giảng dạy sai lầm như vậy, nhất là với ngôn ngữ của bọn “ xã hội đen” hay trùm băng đảng’

Thay vì phải là ngôn ngữ đúng đắn, trang nhã của một  tư tế, một Thầy dạy giáo lý của Chúa để giúp giáo dân thêm yêu mến Chúa nhờ gương  sống  nhân chứng của mình.

Là linh mục của Chúa mà các Thánh Giáo Phụ (Church Fathers) xưa đã gọi là Đức Kitô thứ hai (Alter Christus) thì phải là hiện thân của Chúa Kitô qua lời giảng dạy nhân cách và ngôn từ của mình trước mặt giáo dân và người đời, để  “ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy”…( Ga 13:35):

Là môn đệ của Thầy thì phải giảng dạy như Thầy giảng dạy, phải dùng ngôn từ như Thầy đã dùng. Thầy không hề dạy ai rằng  Đạo của Thầy không dạy phải sống tốt,  Thầy cũng chưa hề mạt sát ai là con heo, chưa từng khinh ai là có bộ mặt không giống Chúa, bộ mặt như đàn bà ế chồng hay đàn ông bị vợ bỏ… như ngôn ngữ của linh mục kia.

Giảng dạy như vậy, phải chăng linh mục kia đã tự hào cho mình là linh mục xứng đáng nhất về trình độ trí thức, giáo lý tinh tuyền và nhân cách phù hợp???

Hay ngược lại, chính vì giảng dạy sai lầm trầm trọng như trên – và với ngôn ngữ thô lỗ, bá láp đó, thì sẽ đẩy giáo dân ra khỏi Giáo Hội và làm cho họ chán ghét, khinh thường linh mục của Chúa.

Trước hết, nếu Đạo Công giáo không dạy sống tốt, thì dạy cái gì, dạy lừa dối, dạy ăn nói thô lỗ như linh mục kia hay sao ???

Lại nữa, liên quan đến vấn đề tính dục (sexuality) giáo lý  của Giáo Hội chỉ nói rõ như sau :

“Tính dục quy hướng về tình yêu phu phụ của người nam và người nữ. Trong hôn nhân, sự thân mật thân xác giữa hai vợ chồng trở thành một dấu hiệu và một bảo chứng của sự hiệp thông tinh thần. Nơi các Kitô hữu các dây liên lạc  của hôn nhân đã được thánh hóa bằng một bí tích…Tính dục làm cho hai người nam và  người hiến thân cho nhau qua những hành vi riêng và độc chiếm của vợ chồng: tính dục không phải là một cái gì thần túy sinh học, nhưng nó liên hệ đến phần sâu xa nhất của nhân vị con người. Nó chỉ được thực hiện cách nhân bản thật sự, khi nó là thành phần cấu tạo của tình yêu làm cho người nam và người nữ trọn vẹn dấn thân đối với nhau cho đến khi chết.” ( SGLGCG số 2360- 61)

Ngoài những  lời dạy trên đây, tuyệt đối không có lời dạy nào nói rằng “tinh dục là rất sướng” như linh mục kia đã nói. Nói như vậy phải chăng linh mục kia đã “nếm mùi đời rồi” nên mới có kinh nghiệm bản thân như vậy??? Nếu không làm sao ông biết rằng “tình dục là rất sướng” ? Và dù có kinh nghiệm bản thân như vậy, thì trên cương vị linh mục, ông cũng không được phép “mô tả tính dục” cách  thô lỗ như vậy trong bài giảng hay nói chuyện với giáo dân, vì nghe ông mô tả như vậy, người nghe có cảm tưởng là ông đã từng “nếm mùi vị tính dục” nên mới có kinh nghiệm như vậy. Đúng ra ngôn ngữ trên chỉ để dành cho “giới ăn chơi sa đọa”  chứ không phải là ngôn ngữ của linh mục giảng dạy cho giáo dân về “phái tính” dựa trên Giáo Lý của Giáo Hội.

Sau hết, không một linh mục nào được phép khinh chê người này không có Chúa, người kia trông giống gái ế chồng, người nọ giống đàn ông bị vợ bỏ. !!! ngôn ngữ này hoàn toàn không phù hợp với ngôn ngữ giảng dạy của một linh mục chân chính, một thầy dạy đức tin và giáo lý tinh tuyền của Chúa.

Viết đến đây, tôi chợt nhớ có lần lỡ coi video nhan đề “cũng một kiếp người “do một người thân gửi cho xem.

Tôi tò mò muốn biết xem nội dung cuốn video kia nói về chuyện gì . Tuy mục đích của nhóm sản xuất là muốn phơi bày thảm trạng các trẻ nữ dưới tuổi thành niên đã bị bán cho các động mãi dâm và ấu dâm, (child prostitution) mà ông linh mục kia tự đánh bóng  cho mình là đang dấn thân để cứu những nạn nhân xấu số đó.., Nhưng tôi thất vọng vì phần đầu của cuốn video dành để mô tả gái mãi dâm dụ dỗ hay mời mọc đàn ông con trai vào tròng mua dâm. Nếu chủ đích muốn tố cáo tệ trạng các em nhỏ bị bán và phải hành nghề mãi dâm, thì đâu cần phải trình diễn cảnh gái mãi dâm chuyên nghiệp mời chào khách mua dâm như vậy ???

Thêm vào đó là ngôn ngữ của ông linh mục này, nói trong video nói trên.

Trước hết, ông đã khiêm tốn giả tạo, không cần thiết khi xưng “con” với mọi khán giả, già trẻ đến tham dự buổi gây quỹ để cứu các trẻ nạn nhân. Điều lố bịch và ngang tai hơn nữa là nghe ông giới thiệu một trẻ em của một cặp vợ chồng không lấy nhau nhưng lại có con để chăm sóc. Ông giải thích là người cha nuôi đứa nhỏ đó là chính ông, còn mẹ của nó là một nữ tu thuộc nhóm làm việc với ông !! Nếu mục đích của ông là kể thành tích cứu và nuôi một bé nạn nhân cùng với nữ tu kia, thì tại sao lại phải “hoa mỹ cách  thô bỉ “ khi nói rằng mình và nữ tu kia là cha mẹ đứa trẻ  mặc dù chưa từng lấy nhau, nhưng lại có con để chăm sóc !!! . Đây là sự thật có trên video “Cũng một khiếp người” đang lưu hành. Ngôn ngữ trên của ông linh mục trẻ này cũng phần nào chứng minh ngôn từ quái dị và tục hóa của ông trong bài giảng có thâu video tại giáo xứ Tân Sa Châu trong năm qua…

Tóm lại, thư tố cáo nói trên của một linh mục khác gửi cho tôi quả thật là kinh dị vì ngôn từ và nội dung bài giảng của linh mục kia hoàn toàn trái nghịch với giáo lý của Giáo Hội, với nhân cách và ngôn từ phải có của bất cứ linh mục nào của Chúa.

Ước mong linh mục kia nhận ra khuyết điểm lớn này để  kịp sửa sai và lấy lại uy tín với giáo dân, và cách riêng, của những người đang cộng tác với ông trong việc từ thiện hiện nay.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

(Houston, Texas, USA)

Chúa Giêsu Ði Xem Bóng Ðá

Chúa Giêsu Ði Xem Bóng Ðá

 Một linh mục Ấn Ðộ chuyên về huấn luyện tu đức là cha Anthony de Mello đã tưởng tượng ra một câu chuyện như sau: Chúa Giêsu than phiền là Ngài chưa được một lần tham dự một trận túc cầu. Chúng tôi bèn đưa Ngài đi xem một trận đấu rất gay go giữa một đội Tin Lành và một đội Công Giáo. Ðội Công Giáo làm bàn trước một không. Chúa Giêsu vỗ tay hoan hô và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, đội Tin Lành lại làm bàn. Lần này Chúa Giêsu cũng vỗ tay reo hò và tung mũ lên trời.

 Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu. Oâng ta lấy tay đập lên vai Ngài rồi hỏi: “Ê ông bạn, ông bạn ủng hộ bên nào vậy?”. Xem chừng như vẫn còn bị khích động bởi trận đấu, Chúa Giêsu trả lời: “Tôi hả? Tôi không ủng hộ bên nào cả. Tôi đến đây là chỉ để thưởng thức trận đấu thôi”. Người khán giả khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, nay lại càng bực bội hơn. Oâng quay sang người bên cạnh và nói nhỏ: “Hắn là một tên vô thần”.

 Trên đường trở về nhà, chúng tôi chất vấn Chúa Giêsu về tình hình tôn giáo trên thế giới. Chúng tôi nói với Ngài: “Thưa Chúa, những con người có tôn giáo thật là buồn cười. Họ tưởng rằng Chúa Giêsu chỉ đứng riêng về phía họ và nghịch lại với những người thuộc tôn giáo khác”.

 Chúa Giêsu gật đầu tỏ vẻ ưng ý. Ngài nói: “Ðó là lý do tại sao ta không ủng hộ tôn giáo mà chỉ ủng hộ con người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người trọng hơn ngày Sabbat. Chúng con nên biết là chính những người có tôn giáo đã treo Ta lên thập giá”.

 Câu chuyện tưởng tượng trên đây cho chúng ta thấy rằng một trong những vết thương lớn nhất của nhân loại trải qua mọi thời đại: đó là thái độ bất khoan dung đưa đến những cuộc chiến tranh tôn giáo. Con người ai cũng bị cám dỗ nhân danh Thượng Ðế, thần minh và hệ tư tưởng của mình để triệt hạ, để loại trừ, để bách hại người khác. Kỳ thực, có tôn giáo nào mà không dạy sự khoan dung, lòng nhân từ đối với mọi người?

 Chúa Giêsu đến để mạc khải cho chúng ta một Thiên Chúa là Cha của mọi người. Ngài là Ðấng làm cho mặt trời mọc lên cho người lành cũng như kẻ dữ. Ngài yêu thương những kẻ nhận biết và yêu mến Ngài cũng như những kẻ chối bỏ và thù ghét Ngài. Ngài muốn chúng ta yêu thương nhau như anh em cùng một gia đình. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta là Ðấng mà người ta cũng sẽ chối bỏ nếu người ta khước từ chính anh em đồng loại của mình. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải là Ðấng mà người ta cũng sẽ xúc phạm nếu xúc phạm đến con người.

 Trích sách Lẽ Sống

Gió lùa ánh sáng vô trong bãi

 Suy Tư Tin Mừng ngày  22/01/2017

 Tin Mừng: (Mt 4: 12-23)

Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Galilê. Rồi Ngài bỏ Nadarét, đến ở Caphácnaum, một thành ven biển hồ Galilê, thuộc địa hạt Dơvulun và Náptali, để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.”

 

Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Simôn, cũng gọi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. 

Đi một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người. 

Thế rồi Đức Giêsu đi khắp miền Galilê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân.

*   *    *     *

 “Gió lùa ánh sáng vô trong bãi”

Trăng ngậm đầy sông, chảy láng lai

Buồm trắng phất phơ như cuống lá

Lòng tôi bát ngát rộng bằng hai.

(dẫn nhập thơ Hàn Mặc Tử)

 Mai Tá lược dịch

Ánh sáng, nhà thơ hôm nay ghi nhận, không là hào quang sáng chói, “lùa trong bãi”. Nhưng, là ảnh hình Chúa Kitô sáng mãi với thế gian. Ảnh hình Ngài tỏa sáng như ban ngày. Sáng từ thời Cựu Ước mãi đến hôm nay. Nơi trình thuật sáng chói, ngày Chúa gọi.

Trình thuật sáng chói hôm nay, đề cập nhiều đến ánh sáng Vương Quốc Nước Trời, đem đến những canh cải đổi thay,  những đáp ứng lời mời của Thầy Chí Thánh, đang toả sáng.

Bước đầu đường đời Ngài rao giảng, Đức Giê-su cũng đã mời và đã gọi. Ngài mời gọi đám dân đen thuyền chài nhỏ bé, rất tầm thường, đưa các vị ấy vào chốn toả sáng “lùa trong bãi”, làm đồ đệ. Khởi đầu công cuộc rao giảng, Đức Giêsu đã xuất hành từ thị trấn Na-da-rét. Tiếp theo đó, Ngài đi CaphaNaUm, một thị trấn bé nhỏ bên bờ Galilê nơi vùng biển mang tên “ZêBuLun” và “NápTaLi”. Đi như thế, Ngài đã ứng nghiệm lời tiên tri Isaya, nơi Cựu Ước, có lời rằng: “Hãy canh cải, vì Vương Quốc Nước Trời đã gần kề”. 

Nước Trời đã gần  kề nói ở đây, không là Thiên đường sống ở trên cao, nơi ta đạt đến sau khi chết. Nhưng chính là cộng đoàn tiên khởi, gồm con dân nhà Đạo gốc Do Thái giáo nay đà hoán cải. Thoạt tiên, người Do thái rất ngại ngần, vì không quen sử dụng trực tiếp danh tánh của Chúa, mỗi khi trao đổi hoặc nguyện cầu. Vì thế, sử gia Mat-thêu mới phải viết tả về Đức Chúa, bằng lối gián tiếp như “thiên đường”, hoặc bằng thể thụ động nơi động từ, vẫn nghe quen.

Với nhà Đạo, cụm từ Vương Quốc xuất từ ngôn ngữ cổ của Hy Lạp bằng từ “basileia”. Basileia trước nhất có nghĩa: vương quyền, quy luật và triều đại. Cũng từ đó, khi nói Vương Quốc Nước Trời đã gần kề, không có nghĩa bảo rằng: ta đã gần đạt chốn đền đài cung điện đầy nguy nga. Dù ở đời này hay đời sau. Thành thử, lời khuyên Hãy canh cải là có ý bảo: hãy đặt mình dưới sức mạnh/quyền uy của Đức Chúa. Hãy sống vì Vương Quốc Nước Trời. Vì Vương Quyền của Đức Chúa.

Đặt mình sống vì Vương Quyền của Chúa, là đặt mình trong tương quan đầy thương mến với Trời. Và với Chúa của ta. Đặt mình trong tương quan, là sống trong môi trường nơi đó có các giá trị đáng để ta trân trọng thực hiện như: tình yêu, lòng thương xót, sự công chính, tự do, sống với cộng đồng, sống trong an bình… Nhất nhất đều là những điều, ta vẫn cần thắng lướt trong cuộc sống.

Đặt mình trong tương quan với Chúa – với người nơi Vương Quốc Nước Trời, còn là biết canh cải, đổi thay, đáp ứng lời mời của Đức Chúa. Nói đến canh cải – đổi thay, người người thường chỉ nghĩ là: ta phải ưu tư áy náy về những lỗi phạm, mình đã mắc phải. Nhưng, mời gọi của Đức Giê-su còn đi xa hơn thế nữa. Ngài không muốn ta xóa sạch mọi tàn tích của lỗi phạm trong quá khứ. Bởi lẽ điều ấy, chẳng thể nào làm được. Canh cải đổi thay là chuyển hướng hành động từ ngày hôm nay, đến lai thời.

Canh cải đổi thay, cụm từ bắt nguồn từ metanoia tiếng Hy Lạp. Cụm từ trên, bao gồm một thay đổi từ gốc rễ mọi suy tư nghĩ ngợi. Quyết hướng nhìn về cuộc sống theo đường lối mới. Đường lối được Tân Ước bộc lộ trong trọn bộ Thánh Kinh. Chỉ khi nào có quyết tâm canh cải đổi thay tận gốc rễ như thế, ta mới trở nên thành viên của Vương Quốc Nước Trời. Mới đặt mình dưới sức mạnh chuyển đổi nhờ uy lực của Đức Chúa.

Hơn nữa, lời mời gọi của Đức Giê-su là yêu cầu ta không chỉ sám hối về những gì mình lỗi phạm trong quá khứ, quyết không lập lại. Nhưng là đổi thay trọn vẹn lối hành xử, để tháp nhập công việc Chúa muốn ta làm. Công việc ấy, là hợp tác cùng mọi người nhất định chấm dứt cơn túng cực bần hàn, của người dân đen trên thế giới. Là, chấm dứt nạn đói nghèo, thất nghiệp. Là, vứt bỏ tính hờn – ghen nơi cộng đồng nhà Đạo và dứt đoạn lòng “tham – sân – si” quá mức độ. Chấm dứt lòng ham mua sắm quá khả năng.

Lời mời gọi của Chúa, là cốt để cho dân con nhà Đạo biết tháp nhập vào với Vương Quốc Nước Trời ở đây, bây giờ. Lời Ngài mời gọi, được gửi đến không chỉ với dân con nhà Đạo, nhưng cả muôn dân nước, khắp nơi trên địa cầu. Vương Quốc Ngài lập, cần vượt trên không gian – thời gian, vượt biên giới của nhà Đạo. Nước Ngài mời gọi, cần thể hiện bằng nhiều cách ở nhiều nơi, cả những nơi, Đạo Chúa chưa hội nhập được. Bởi, trên thực tế, có đến 80% dân số thế giới chưa biết đến Tin Mừng của Đức Chúa. Chưa biết Lời Ngài, vì Lời Mời Gọi ấy chưa phổ biến khắp dương gian. Thế nên, ta cần chuyển tải và coi Lời Ngài như mục tiêu đời sống, của mọi người chúng ta.

Người nhận rao giảng Nước Trời, vào buổi đầu đời, chẳng phải là những kinh sư, lẫn Pharisêu, Biệt Phái. Mà là, giới thuyền nhân chài lưới, rất bình dân. Những người cả năm không cần sách bút, lẫn kinh kệ. Nhưng lại hiểu Lời, hơn ai hết. Và, có điều hi hữu nữa là: lời mời gọi Chúa gửi đến được chuyển tải ngay vào lúc các ngài làm công việc chài lưới. Chính vì thế, Chúa vẫn xác nhận: Thầy chọn các con, chứ không phải các con chọn Thầy.”

Với các môn đệ, metainoia (canh cải) còn có nghĩa trọn vẹn thay đổi lối sống trở về trước. Là, làm như các môn đệ gốc thuyền chài: dứt khoát bỏ thuyền, bỏ lưới bỏ cả giòng sông, quyết theo Thầy. Quyết theo Thầy, nên các ngài hoàn toàn tin tưởng nơi Thầy. Tin, đến độ bỏ lại đằng sau mọi phương tiện sống, kế sinh nhai.

Bỏ mặc mà đi, dù không rõ thuyền về bến nao, đi nơi nào. Cũng tựa như Thầy đã dứt khoát bỏ rời thôn làng Nadarét bỏ mẹ cha, bỏ cả cuộc sống tay nghề thợ mộc chân phương cần cù, vào mọi lúc. Bỏ là như thế. Nhập vào với Đạo là như vậy. Bởi từ nay, mối lo âu không biết mình lấy gì mà sống, cho bằng sự lo lắng quan tâm đến anh chị em đồng loại của mình, sống sao đây.

Xem như thế, đáp ứng lời mời của Đức Chúa trong canh cải, là khởi sự sống đời rất mới. Một đời có những hỗ tương đùm bọc hết mọi người. Mọi người, nơi cộng đồng nhân loại, đang ngóng chờ. Bởi, cộng đồng này giờ đây đã trở thành gia đình thân thương, rộng hơn. Lớn hơn. Yêu thương nhau hơn.

Về yêu thương người cùng cộng đồng, thánh Phao-lô cũng đã căn dặn cộng đoàn dân Chúa ở Cô-rin-thô, bằng những lời đanh thép nhưng thật tình: “Tôi khẩn khoản kêu mời anh em, nhân danh Đức Kitô, hãy thuận thảo với nhau để không có sự chia rẽ nơi anh em và anh em sẽ hoàn toàn hiệp nhất trong tư tưởng và thần trí”(1Cr 1:10).

Lời mời gọi canh cải và biến đổi hôm nay, không phải để Đức Chúa thích nghi với lối sống ta đã lựa chọn, nhưng để ta trở nên xứng hợp với thị kiến của Ngài về sự sống. Làm như thế, không phải là ta đang thực hiện một hy sinh, đổi chác. Nhưng ngược lại, để bảo rằng ta đang trên đường ngay nẻo chính. Con đường dẫn ta đến thành tựu, Chúa bảo ban.

Trong hân hoan thực hiện cuộc canh cải, ta hiên ngang cất cao lời ca yêu từng hát thuở nào:

“Yêu là tình dâng cao

Gió lao xao ngả hàng phi lao

Phút ái ân đắm say tâm hồn

Nhớ mãi đêm nào bên nhau.

Yêu là thêm thương đau

Với xót xa lệ tình khôn lau

Biết nói sao những khi âu sầu

Những khi úa nhầu tâm tư.” (Văn Phụng – Yêu)

Vâng. Trong cộng đoàn Nước Trời ở trần gian, sống yêu cũng có những lúc là thêm thương đau. Là, lệ tình khôn lau. Nhưng, hãy cứ yêu như Đức Chúa bảo ta yêu. Yêu rất nhiều. Yêu ngay bây giờ. Và mãi mãi vẫn cứ yêu. Như “gió lùa ánh sáng vô trong bãi”. Yêu, “với lòng bát ngát rộng bằng hai”.

 Frank Doyle sj biên-soạn

Mai Tá lược dịch