Ăn chay đúng nghĩa là gì ?

Ăn chay đúng nghĩa là gì ?

Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong Thánh lễ tại nhà nguyện Marta sáng ngày 03.03.2017

Ăn chay

 Các bài đọc hôm nay nói về việc ăn chay. Ăn chay là việc mà chúng ta được mời gọi thực hành trong Mùa Chay. Làm như thế để chúng ta có thể tiến lại gần Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thích những tâm hồn sám hối. Tác giả Thánh Vịnh là người có tâm hồn cảm thấy được tội lỗi của mình, và nhận biết được rằng mình chỉ là một tội nhân.

Trong bài đọc trích sách ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa chê trách những kẻ giả hình. Họ ăn chay nhưng lại ăn bẩn trong kinh doanh và đối xử tệ bạc với người làm công. Họ có đôi tay xấu xa. Một tay họ làm việc đền tội, tay kia họ làm những điều bất công. Vì thế, Chúa kêu gọi thực hiện việc ăn chay đích thực.

Ăn chay giả dối

 Có kiểu ăn chay giả dối, có thói đạo đức giả. Đó là kiểu ăn chay để cho người khác thấy mà khen, trong khi lại hành xử đầy bất công và khai thác con người. Ví như có người nói: “Tôi sẽ dâng tặng điều tốt đẹp này cho Giáo hội”. Thử hỏi lại người ấy rằng: “Hãy nói cho tôi, bạn có đối xử tốt với gia đình bạn không? Bạn có trả lương xứng đáng cho nhân viên của bạn không? Bạn có thực thi như luật pháp và lẽ phải, để các nhân viên có thể nuôi con cái của họ không?”.

Có một câu chuyện diễn ra ngay sau thời chiến tranh thế giới thứ hai, khi ấy cha Pedro Arrupe Dòng Tên đang là nhà truyền giáo tại Nhật Bản. Có một doanh nhân giàu có nọ muốn dâng tặng cho công cuộc truyền giáo, nhưng đi cùng anh ta, có một nhiếp ảnh gia và một nhà báo. Trong khi đó, chiếc phong bì mà anh doanh nhân tặng chỉ chứa 10 đôla.

Ăn chay đích thực

 Kiểu ăn chay giả dối cũng giống như việc chúng ta không đối xử phải lẽ với người thân cận. Chúng ta thực hiện việc đền tội, ăn chay, bố thí, và rồi chúng ta cũng làm việc hối lộ. Đó là sự giả hình giả dối của những thứ phù vân hư ảo. Đó không phải là chân thực mà chỉ là đạo đức giả. Vì vậy Chúa Giêsu nói: khi cầu nguyện thì chọn nơi kín đáo, khi ăn chay thì đừng làm bộ buồn sầu, khi bố thí thì đừng khua chiêng đánh trống, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm.

Trong bài đọc trích sách ngôn sứ Isaia, Chúa nói cho những kẻ giả hình biết thế nào là ăn chay đúng nghĩa: “Nào ăn chay như Ta mong muốn không phải như thế này sao? Là hủy bỏ xiềng xích bất công, tháo gỡ gánh nặng, trả tự do cho kẻ bị áp bức, chia cơm sẻ bánh cho người đói, tiếp rước người nghèo vô gia cư, mặc áo cho kẻ trần truồng, đừng khinh khi những người cũng là con người như ngươi”.

Chúng ta hãy ngẫm suy những lời này, chúng ta hãy để tâm những lời ấy mỗi khi chúng ta ăn chay, cầu nguyện, và làm phúc bố thí. Điều ấy sẽ giúp chúng ta nghĩ xem người ta cảm thấy điều gì, khi người ta ăn bữa tối với giá 200 euro xong và trên đường trở về nhà, người ta nhìn thấy một người đang đói, và rồi người ta tiếp tục bước đi. Thật là tốt cho chúng ta để nghĩ suy về những điều này.

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi.

Tỉnh Thức

Tỉnh Thức

Chuyện kể rằng, một thầy dòng nọ đọc đâu được trong bộ sách khôn ngoan cũ kỹ mách bảo cho biết rằng: “Tận cùng chân trời của trái đất là nơi trời với đất gặp gỡ nhau”.

Phấn khởi vui mừng, thầy lên đường tìm kiếm nơi trời mới đất mới gặp nhau và sẽ không trở về nhà cho tới khi tìm được. Ngày tháng trôi qua, thầy vẫn kiên nhẫn rảo bước khắp nơi với hy vọng mãnh liệt trong tâm hồn, bất chấp mọi khó khăn gian khổ và thử thách, những lần phải chịu đói khát, giá rét và không gì có thể lay chuyển được ý định của thầy.

Trong bộ sách khôn ngoan cũ kỹ ấy chỉ có thêm rằng: “Khi tới chỗ đất với trời gặp nhau sẽ thấy có một cánh cửa, chỉ cần gõ nhẹ cánh cửa sẽ mở ra và người ấy sẽ gặp thấy Thiên Chúa”.

Thật vậy, sau nhiều ngày tháng trời đi tìm kiếm đó đây khắp mặt đất, cuối cùng thầy dòng đã tới trước cánh cửa. Thầy vui mừng gõ cửa bước vào, lúc đó thầy dòng mới hoảng hồn nhận ra đó là Tu Viện cũ của thầy, là cửa của căn phòng mà thầy đã từng sống bao nhiêu năm qua.

***

Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã hứa với dân chúng rằng: “Ai xin sẽ được, ai tìm sẽ thấy, ai gõ cửa sẽ mở cho”. Ðời sống trần thế là thời gian tìm kiếm Chúa với hy vọng vững chắc là sẽ được gặp Ngài, nhưng cần phải tìm kiếm Chúa ở đâu?

Thật sự không cần phải đi tìm kiếm Chúa ở tận nơi xa xôi hoặc mãi nơi chân trời nào cả, Thiên Chúa hiện diện ngay trong tâm hồn mỗi người, cùng đồng hành với mỗi người trong mọi hoàn cảnh vui buồn, sướng khổ của cuộc sống. Vấn đề quan trọng là có biết nhận ra những giờ, những nơi hẹn mà Chúa đang chờ đợi ta hay không?

Chúng ta biết tỉnh táo và chuẩn bị sẵn sàng là thái độ của mỗi người đầy tớ trung tín, chứ không phải là thái độ cần thiết của những người gác cổng mà thôi. Tỉnh thức có nghĩa là các đầy tớ sẽ làm công việc khác nhau của mình một cách ý thức, là tiến hành công việc mà Thiên Chúa đã ủy thác cho họ thực hiện. Tỉnh thức là biết mình đang làm gì đến nỗi vừa làm việc, vừa có thể nghe được hơi thở của mình. Sự ý thức lựa chọn mà mỗi người làm trong giây phút hiện tại sẽ định đoạt số phận vĩnh hằng của mình sau này.

Giáo Hội như người mẹ hiền nhắc nhở con cái là những người có lòng tin sẵn sàng chờ đợi ngày trở lại sau cùng của Chúa Giêsu, ngày trở lại đó ai cũng biết là chắc chắn mặc dù không ai biết trước được khi nào ngày giờ đó sẽ xảy đến. Cũng là điều tốt cho chúng ta khi không biết chắc chắn lúc Chúa chúng ta có thể bị cám dỗ ỷ lại, lười biếng trong công việc của mình cho Chúa Kitô, hoặc tệ hại hơn nữa là tiếp tục ngồi lỳ trong con đường tội với hy vọng sẽ trở lại với Chúa trong giờ phút cuối cùng.

Tỉnh thức và sẵn sàng, tức là lúc nào cũng sẵn sàng chuẩn bị bất cứ lúc nào ông chủ về bất thình lình, Người vẫn thấy chúng ta có mặt thay vì ngủ mê hoặc lêu lổng với công việc bổn phận. Ðể được thế, chúng ta cần luyện tập, làm việc cách trung thành với công việc Chúa đã ban cho chúng ta trong giây phút hiện tại, cũng đừng để cho trí tuệ tinh thần của chúng ta ra u mê, sống buông thả hay sự mù quáng đuổi theo các đam mê điên rồ hoặc để cho các lo âu đời sống đè bẹp, trói buộc chúng ta mãi.

***

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã phán bảo chúng con hãy luôn tỉnh thức kẻo sa chước cám dỗ, xin ban ơn sức mạnh cho chúng con để chúng con luôn bền tâm trong công việc thiện, trong khi chờ ngày Chúa đến. Ước chi mỗi lần Chúa đến gõ cửa nhà tâm hồn chúng con, Chúa sẽ hài lòng thấy chúng con luôn tỉnh thức trong cầu nguyện, vui mừng ca tụng Chúa và nhiệt thành thực thi bác ái với mọi người. Amen.  

R.Veritas

Ngọc Nga sưu tầm

Kinh Thánh: Tác phẩm văn hóa vô giá của nhân loại

Kinh Thánh: Tác phẩm văn hóa vô giá của nhân loại

bible-study_724_482_80

Tác giả: Nguyễn Hải Hoành

Một số hiểu lầm về Kinh Thánh

Cho tới nay dường như vẫn có nhiều người nghĩ rằng Kinh Thánh là sách nói về giáo lý của đạo Ki-tô, thuần tuý là sách tôn giáo, chỉ dùng cho các tín đồ Ki-tô giáo mà thôi – mà tôn giáo lại là lĩnh vực nhạy cảm, ở ta quen gọi là “thuốc phiện của nhân dân”, chớ có dại mà đụng chạm tới – vì vậy ai không theo Ki-tô giáo thì chẳng cần và chớ nên đọc Kinh Thánh. Cuốn sách gối đầu giường của hơn một tỷ tín đồ và được cả thế giới không ngừng xuất bản với số lượng nhiều nhất này chưa từng thấy bán tại các hiệu sách ở ta. Báo in, báo điện tử ngại đăng các bài viết liên quan tới Kinh Thánh.

Thực ra cách hiểu như vậy là lệch lạc và bất lợi cho mọi người trong việc tìm hiểu văn hóa nhân loại và văn hóa phương Tây nói chung cũng như văn hóa Ki-tô giáo nói riêng.

Hiểu lầm nói trên có thể bắt nguồn từ bản thân tên “Kinh Thánh” đem lại ấn tượng “thần thánh”, thần bí. Đây là cái tên không chính xác, dễ gây hiểu nhầm. Thực ra sách này vốn dĩ có hai tên gốc: 1) Tên tiếng Hy Lạp là Biblia, nghĩa là “sách”;  2) Tên tiếng La Tinh là Scriptura, nghĩa là “trước tác” “bài viết”, “bản thảo” – nói cách khác, nó hoàn toàn không có chút nào ý nghĩa thần thánh. Tiếng Anh đầu tiên gọi là Biblelh, về sau thống nhất gọi là The Bible, nghĩa là sách kinh điển.

Tên sai là do ta dùng từ hoàn toàn theo Trung Quốc. Ngày xưa, khi dịch Cựu Ước toàn thư và Tân Ước toàn thư ra chữ Hán, người Trung Quốc gán cho hai cuốn sách này cái tên “Thần thánh điển phạm” (Mẫu mực thiêng liêng) và “Thiên kinh địa nghĩa” (Đạo nghĩa muôn thủa); về sau, khi in gộp Cựu Ước và Tân Ước thành một bộ sách, người Trung Quốc ghép hai chữ thứ hai lại thành “Thánh Kinh”, nghe nặng tính thần thánh, khiến người ta dễ hiểu lầm sách này chỉ là sách kinh điển của Ki-tô giáo. Quả thật, cái tên đó khi dịch sang tiếng Việt là Kinh Thánh đã nhuốm đậm màu sắc tôn giáo, thánh thần, trở nên xa lạ với cộng đồng người không theo tôn giáo.

Đây thật là một sai lầm lịch sử đáng tiếc nhưng không thể sửa được vì đã quen dùng và cảm thấy thiêng liêng. Vì thế rất ít người Việt Nam thực sự biết Kinh Thánh là gì, nội dung ra sao, có ý nghĩa thế nào đối với chúng ta. Đây là một thiệt thòi lớn về tri thức cho mọi người, nhất là thanh thiếu niên.

lược nội dung Kinh Thánh

Kinh Thánh gồm hai phần: Cựu Ước (Old Testament) và Tân Ước (New Testament), do hơn 40 tác giả viết trong suốt hơn 1.600 năm từ thế kỷ 12 trước CN cho tới thế kỷ 2 sau CN, là một tác phẩm đồ sộ, bản tiếng Việt dày tới 1.400 trang chữ khổ nhỏ.

Cựu Ước – Giao ước cũ của người Hebrew (nay gọi là Do Thái) với Thượng Đế, là Kinh điển của người Hebrew, thực tế là bộ sử của một dân tộc dẫn đầu nền văn hoá nhân loại. Từ 5.000 năm trước, người Hebrew đã sáng suốt chỉ tin một đấng tối cao duy nhất họ gọi là Jehovah tức Thượng Đế (God), được hiểu là một sức mạnh siêu nhiên sáng tạo ra tất cả (Tạo Hóa, the Creator) – khái niệm ấy ngày nay ta chưa hiểu rõ song lại chưa thể phủ nhận – chứ không thờ một thần thánh nào có nguồn gốc từ người hoặc vật.

Cựu Ước gồm 39 cuốn chia 4 phần: sách Luật pháp (5 cuốn đầu của Moses); sách Lịch sử (12 cuốn); sách Tiên tri (16 cuốn); sách Văn thơ (6 cuốn). Cựu Ước rất ít màu sắc tôn giáo, nó chứa đựng vũ trụ quan, nhân sinh quan cổ xưa nhất của nhân loại, là tài liệu vô cùng quý giá rất đáng nghiên cứu. Sách Cựu Ước nguyên văn viết hầu hết bằng tiếng Hebrew và một phần bằng tiếng Aramaic (tiếng của người Aram, tức Syria cổ), do nhiều người viết suốt từ năm 1.200 đến năm 100 trước CN và được truyền miệng từ rất lâu trước khi viết thành văn. Tuy cổ xưa như thế nhưng Cựu Ước là một văn bản có thực và tồn tại cho tới ngày nay. Chứng cớ là thời gian 1947–1956, người ta phát hiện trong các hang động gần Biển Chết (Dead Sea, ở Israel) chứa hơn 900 “sách” có viết chữ (chữ Hebrew, Hy Lạp, Aramaic) bằng dùi nung trên da cừu, gọi là Sách Cuộn Biển Chết (Dead Sea scrolls), đựng trong các bình gốm cao. Giám định cho thấy số sách này được làm vào khoảng từ năm 100 trước CN tới 70 sau CN, là những bản sao cổ xưa nhất còn tồn tại của Cựu Ước (nội dung hoàn toàn như Kinh Cựu Ước hiện sử dụng) và một số kinh điển khác của người Hebrew. Phát hiện Sách Cuộn Biển Chết có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.

Tân Ước – Giao ước mới của các tín đồ Ki-tô giáo với Thượng Đế, nguyên văn viết bằng tiếng Hy Lạp, ra đời một thế kỷ sau khi xuất hiện đạo Ki-tô, tức rất muộn so với Cựu Ước, và nặng mầu sắc tôn giáo hơn; nó trình bày cuộc đời và học thuyết của Chúa Jesus. Tân Ước gồm 27 cuốn, chia 3 phần: sách Phúc Âm (5 cuốn); sách giáo lý (21 cuốn); sách Khải Huyền (1 cuốn). Số trang của Tân Ước chỉ bằng khoảng gần 1/3 Cựu Ước. Các học giả cho rằng Tân Ước được viết xong vào khoảng năm 382 sau CN.

Kinh Thánh là một bộ sách có tính tổng hợp, một bách khoa toàn thư rất hữu ích trong việc nghiên cứu nhân loại cổ đại về các mặt lịch sử, chính trị, quân sự, pháp luật, luân lý đạo đức, kinh tế, khoa học kỹ thuật, y học, văn hoá … Chưa dân tộc nào viết được bộ sử của mình một cách khái quát, hữu ích như Cựu Ước. Bộ sử này không viết nhiều về đời sống, hành vi của các vua chúa (như Sử Ký của Tư Mã Thiên), nhưng viết rất kỹ về quá trình di chuyển, các tai họa dân tộc (chiến tranh, đói kém …), các kinh nghiệm và đời sống của dân tộc này, qua đó đời sau có thể học được nhiều điều bổ ích.

Cựu Ước ghi lại đời sống mọi mặt của người Hebrew, từ việc lớn của quốc gia, dân tộc cho tới những chi tiết rất nhỏ nhặt trong ăn ở, đối nhân xử thế, thậm chí cả trong sinh hoạt tình dục, nhờ thế giúp hậu thế hiểu chính xác, chi tiết về đời sống tinh thần vật chất của họ cách đây mấy nghìn năm. Một thí dụ: phương pháp tránh thai phổ biến nhất, cổ nhất xưa nay là xuất tinh ngoài âm đạo – phương Tây gọi là Onanism – từ này có nguồn gốc trong Kinh Thánh, chương 38 “Sáng thế ký (Genesis)” “Giuđa và con dâu là Tama”.[1]

Chưa dân tộc nào biên soạn và còn lưu giữ được một tác phẩm kinh điển có giá trị như Kinh Thánh phần Cựu Ước. Thí dụ “Kinh thánh” của văn minh Trung Hoa là sách Luận Ngữ hoàn toàn không có được tính tổng hợp như vậy, chưa kể còn ra đời sau 7 thế kỷ.

Kinh Thánh còn là một tác phẩm văn học đồ sộ, di sản quý báu của nhân loại. Trong Cựu Ước có các tác phẩm văn học trí tuệ, văn học tiên tri và văn học khải huyền, là những sáng tạo của người Hebrew.

Tính chất quan trọng của Kinh Thánh

Kinh Thánh có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại của dân tộc Do Thái. Cựu Ước là kinh điển của đạo Do Thái, nhờ tôn giáo này mà người Do Thái dù hai nghìn năm mất tổ quốc, sống lưu vong phân tán ở khắp nơi trên thế giới, bị hắt hủi, xua đuổi, thậm chí hãm hại, tàn sát nhưng vẫn giữ nguyên vẹn được nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa và nhất là họ luôn dẫn đầu thế giới trong các hoạt động trí tuệ. Ngày ngày cầu kinh, ôn lại lịch sử khốn khổ của dân tộc mình, là cách nhắc nhở người Do Thái luôn nhớ quá khứ gian nan của mình để cố gắng vươn lên thoát khỏi nghịch cảnh. Dân tộc nhỏ bé này có đóng góp cho nhân loại nhiều hơn mọi dân tộc khác. Một thí dụ: người Do Thái chỉ chiếm 0,25% số dân thế giới nhưng họ chiếm 22% tổng số giải Nobel các loại đã trao trong thời gian 1901-2007; trong đó có 41% giải Kinh tế, 26% giải Vật lý, 19% giải Hóa học, 28% giải Y học, 13% giải Văn học, 9% giải Hòa bình.

Đối với loài người, tính chất quan trọng của Kinh Thánh không chỉ thể hiện ở chỗ nó được in đi in lại với số lượng nhiều nhất thế giới, mà còn ở chỗ được người ta quan tâm đọc và trích dẫn nhiều nhất – đây là tiêu chuẩn định lượng đánh giá một tác phẩm. Cho tới nay, Kinh Thánh đã lưu truyền mấy nghìn năm chưa bao giờ ngừng, được dịch ra 1.800 ngôn ngữ của khắp thế giới, có ảnh hưởng tới hàng tỉ người kể cả người không theo tôn giáo nào. Riêng nước Mỹ hàng năm in khoảng 9 triệu bản Kinh Thánh. Trung Quốc đã in hơn 40 triệu bản.

Kinh Thánh là nguồn cảm hứng và trích dẫn của nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật, lịch sử, triết học v.v… trên toàn thế giới. Từ bức tranh Bữa ăn tối cuối cùng của Leonard de Vinci, tập thơ Thần khúc của Dante, các vở kịch của Shakespeare (vở Hamlet trích dẫn Kinh Thánh nhiều nhất), cho tới tiểu thuyết Sống lại của Tolstoy, …vô số tác phẩm văn học nghệ thuật đều lấy nguồn từ Kinh Thánh. Các trước tác của Karl Marx và Engels trích dẫn Kinh Thánh hơn 300 lần, liên quan tới hơn 80 nhân vật trong đó. Tại Trung Quốc, Lỗ Tấn, Tào Ngu, Quách Mạt Nhược, Mao Thuẫn … đều trích dẫn Kinh Thánh. Ở Việt Nam, chúng ta thường xuyên kỷ niệm lễ Phục sinh, Giáng sinh …, tiểu thuyết, sách báo ta thường nói A-đam, Ê-va, Chúa,… tất cả đều có nguồn gốc từ Kinh Thánh.

Bởi vậy nếu không hiểu Kinh Thánh thì sẽ rất khó tìm hiểu văn minh phương Tây – nền móng của văn minh hiện đại, cũng rất khó hiểu về dân tộc Do Thái. Không đọc Kinh Thánh thì tất nhiên sẽ dễ nói, viết sai về các điển tích đó. Rõ ràng tất cả mọi người, nhất là người làm công tác văn hóa văn nghệ, giáo dục, xã hội … đều nên đọc Kinh Thánh.

Kinh Thánh ở Việt Nam

Có lẽ vì nghĩ rằng Kinh Thánh là sách riêng của Ki-tô giáo, tuyên truyền cho tôn giáo, nên ở ta không thấy hiệu sách nào có bán Kinh Thánh do nhà xuất bản của nhà nước chính thức phát hành rộng rãi như một tác phẩm văn hóa bình thường.

Thực ra các giáo hữu ở ta đều có cuốn Kinh Thánh do Toà Tổng Giám mục Hà Nội kết hợp Nhà Xuất bản Hà Nội in và xuất bản với số lượng lớn nhưng chỉ phát hành nội bộ giáo hữu. Cuốn Kinh này chỉ in Tân Ước nặng tính tôn giáo; Cựu Ước quan trọng hơn thì lại không được in, thật đáng tiếc. Sách khổ nhỏ cỡ bàn tay in trên giấy tốt, bìa ni lông. Ngoài ra các giáo hữu còn có sách “Kinh Thánh bằng hình” (phụ bản của báo “Công giáo và Dân tộc” in tại TP Hồ Chí Minh năm 1991, lượng in 25.000 cuốn); đáng tiếc là hệ thống phát hành của nhà nước cũng không phát hành cuốn này.

Lùng các hiệu sách cũ, người viết bài này mua được một bản Kinh Thánh toàn tập tiếng Việt, dày 1.400 trang giấy mỏng, bìa giả da, do United Bible Societies in tại Hàn Quốc năm 1995. Sách dùng cách hành văn và từ ngữ cổ, khó hiểu; phần Tân Ước dịch khác nhiều so với bản in của Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội.

Thiết nghĩ hệ thống xuất bản phát hành của nhà nước nên xuất bản phát hành Kinh Thánh như một tác phẩm văn hoá nghệ thuật nhằm khai thác kho tàng văn hóa vô giá này của nhân loại. Nên đưa việc học Kinh Thánh (nhất là Cựu Ước) vào chương trình giảng dạy phổ thông trung học. Cũng nên biên soạn các sách hướng dẫn tìm hiểu giá trị văn hoá lịch sử, khảo cổ … của Kinh Thánh. Việc tìm hiểu Kinh Thánh sẽ giúp chúng ta hiểu đúng đắn, toàn diện về văn minh phương Tây nói riêng và văn minh nhân loại nói chung, giúp chúng ta hoà vào dòng chảy chung của văn minh toàn cầu, đồng thời thể hiện chúng ta biết tôn trọng văn hoá tôn giáo – một thành phần rất quan trọng của văn hoá thế giới.

Đây là một việc cần làm khi Việt Nam đã gia nhập WTO, hòa vào nhịp sống chung của toàn cầu, trong đó có đời sống văn hóa-tâm linh.

Nguyễn Hải Hoành là dịch giả và là nhà nghiên cứu tự do hiện sống tại Hà Nội.

———————-

[1] Dân Hebrew có tục chị dâu góa chồng mà chưa có con thì được quyền lấy một trong các em trai của chồng. Giuđa (cháu nội tộc trưởng Abraham) bảo con trai thứ hai của mình là Onan : Con hãy ngủ với chị dâu con (là Tama) để làm tròn bổn phận em chồng – sinh người nối dõi cho anh con (anh của Onan là Êrơ do độc ác đã bị Thượng Đế Jehovah giết). Onan biết đứa con nối dõi ấy sẽ không thuộc về mình nên khi “ngủ” với Tama đã cố ý làm rơi tinh dịch ra ngoài. Thượng Đế coi việc đó là tội ác nên đã giết Onan (trang 45 Kinh Thánh, United Bible Societies, bản tiếng Việt 1995, ở đây có sửa lại văn cho dễ hiểu). Từ Onanism bắt nguồn từ Onan – tên người có sáng kiến dùng cách tránh thai ấy.

– See more at: http://nghiencuuquocte.org/2015/07/15/kinh-thanh-tac-pham-van-hoa-vo-gia-cua-nhan-loai/#sthash.QxatNFPE.dpuf

Anh trở lại con đường lên núi biếc,

Suy Tư Tin Mừng Trong tuần thứ Nhất mùa Chay năm A 05/3/2017

 

Tin Mừng: (Mt 4: 1-11)

 

Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ. Ngài ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Ngài thấy đói. Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Ngài và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!” Nhưng Người đáp: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.”

Sau đó, quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Ngài trên nóc đền thờ, rồi nói với Ngài: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.”

Đức Giêsu đáp: “Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.”

Quỷ lại đem Ngài lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi.”10 Đức Giêsu liền nói: “Xatan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.”

Thế rồi quỷ bỏ Ngài mà đi, và có các sứ thần tiến đến hầu hạ Ngài.

                *    *     *      *

“Anh trở lại con đường lên núi biếc,

thương mây bay từ đó vẫn cô đơn.

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

          Mai Tá lược dịch

Đường lên núi biếc, dù mây bay từ đó vẫn cô đơn. Cô đơn, với nỗi niềm Chúa cảm nghiệm cảnh tình người phàm khi Ngài vật vã với băn khoăn, rất thử thách.

Trình thuật tuần đầu Mùa Chay hôm nay, kể cho ta nghe tâm tình của Chúa khi Ngài bị thử thách/cám dỗ, đến như thế. Thử thách/cám dỗ, là những thử và thách suốt 40 ngày đêm nơi hoang vu, sa mạc. 40 ngày đêm, nói lên chuỗi ngày dài một đời, Chúa từng trải nhiều thử thách/cám dỗ mãi đến ngày Ngài kết tận hành trình nơi đồi cao chốn vắng, rất Calvary.

Chốn vắng Calvary xưa, có thử thách/cám dỗ đưa Chúa vào với mê say để Ngài không thực hiện được ý định Cha đưa ra. Mê say, còn là thử thách/cám dỗ đặt ra với Chúa, rất nhiều lần.

Thử thách/cám dỗ đặt ra, qua cung cách Cha muốn Ngài thực hiện vai trò của Đấng Mêsia có quyền uy trên cả hoàng đế La Mã, như thánh Mátthêu từng ghi. Thử thách/cám dỗ là thách đố khả năng giải quyết khó khăn do đế quốc La Mã đem lại. Thử thách/cám dỗ, còn là thách thức chức năng Chúa nhận từ Cha, hầu giúp con dân loài người sống yên hàn, lành lặn. Thử thách/cám dỗ, còn là thách đố và thử xem Chúa có nhắm mắt làm ngơ nỗi đau của mọi người, để rồi sẽ trao cho Cha giải quyết mọi việc.

Thử thách/cám dỗ cướp tay trên quyền uy của đế quốc, để rồi Ngài cũng sẽ hành xử hệt như thế. Thử thách/cám dỗ đặt ra với Đức Giêsu, là thách Ngài giành lại quyền uy của hoàng đế La Mã, rồi cũng sẽ ăn trên ngồi chốc, bức bách dân con lớp người ở dưới. Bởi, một khi đã có quyền hành là có quyền để hành người khác, hệt như vậy. Bởi thế nên, Đức Giêsu chối bỏ mọi lợi lộc dành cho kẻ có quyền. Ngài chối bỏ quyền đối xử với mọi người theo cung cách ấy. Ngài đả kích không chỉ giới cầm quyền La Mã thôi, nhưng Ngài còn chỉ trích chính những uy và quyền ấy nữa. Ngài chọn đường lối không quyền lực, nhưng vẫn sống. Sống với người không quyền, trong “Vương Quốc” của Ngài.

Thử thách/cám dỗ thứ hai, là thách đố khả năng giải quyết tình trạng nghèo đói trên thế giới. Thời của Chúa, có đến 95% người dân Galilê ở dưới mức tối thiểu, để sống còn. Dân lành thời đó, không đủ cơm bánh và cá, mà qua ngày. Họ cứ lần lượt rơi vào vòng lao lý, tật bệnh hoặc chết yểu. Một số trường hợp, do Hêrôđê tạo ra. Ông lập chương trình xây cất nhiều toà nhà đồ sộ. Lại đánh thuế cao khiến dân đen chịu không nổi đến độ không còn gì để ăn và để sống nữa.

Thử thách/cám dỗ cuối cùng đến với Đức Giêsu, là thách đố để xem Ngài có khả năng kích động dân đen, khiến họ căm phẫn quyết chống lại quyền uy của vua quan/lãnh chúa, thời ấy không? Thử thách/cám dỗ, là dỗ dành Chúa đòi lại cơm áo gạo tiền cho dân lành hèn hạ thấp cổ bé họng, ở bên dưới. Thử thách/cám dỗ đưa ra với Chúa, là xem Chúa có hành xử như vua quan mọi thời. Hoặc, Ngài sẽ còn đối xử tệ bạc hơn cả vua quan thời đó, khi có quyền. Nhưng, Đức Giêsu đã chối từ quan niệm coi mình như Đấng ban phát mọi thứ, hầu thoả mãn đòi hỏi của mọi người. Ngài chọn đường lối khác hẳn mọi vua quan/lãnh chúa, ngõ hầu trở nên Đấng Mêsia do Cha định đoạt. Ngài không chấp nhận đường lối của vua quan ở trần gian chỉ biết hưởng thụ, cho thoả thích.

Với Tin Mừng thánh Mátthêu, thử thách/cám dỗ lớn nhất đưa ra với Chúa, là chỉ lo chuyện lành thánh, cốt khuynh loát những điều do Cha định đoạt, mà chỉ theo ý mình. Khuynh loát, để Cha phải can thiệp mà giải quyết các khó khăn chốn gian trần. Và, buộc Cha Ngài phải làm thế, ngay tức thì. Thử thách/cám dỗ này nguy hiểm hơn thứ gì hết, vì đụng chạm đến đền đài thánh thiêng, lẫn nguyện đường, và cả cuộc sống ngoan hiền, ngõ hầu dẫn dụ Cha sửa đổi mọi chuyện để thuận theo ý Con, chứ không theo ý Cha.

Người đời thời của Chúa, vẫn muốn tuân theo đường lối giản đơn, rặt như thế. Họ là những người ở Qumran. Những kẻ từng dấn bước theo chân Gioan Tẩy Giả, cả vào lúc khó khăn, đầy bức bách. Và, thử thách/cám dỗ đây, là muốn chế ngự quyền uy thánh thiêng của Chúa. Là, kiểm soát lòng thương xót của Ngài. Thử thách/cám dỗ đây, là nghĩ rằng lòng đạo của mình còn lớn lao/cao cả hơn lòng xót thương của Cha. Và, Đức Giêsu nhận ra rằng: nếu thế thì Chúa Cha không là Thiên Chúa đích thực là Cha của Ngài. Ngài thực sự đã chọn đồng hành với Cha Ngài. Và kết cục, Ngài chọn thuận theo ý Cha, chứ không theo ý riêng của chính Ngài. Và, chọn lựa này mới thật là chọn lựa khác biệt.

Nếu Đức Giêsu không chọn quyền hành để đánh bạt đối thủ là đế quốc La Mã rất sừng xỏ, không chọn ban phát mọi sự hợp nhu cầu/đòi hỏi của mọi người, cũng chẳng cướp tay trên quyền uy có từ Cha, thì thử thách/cám dỗ đưa ra cho Ngài, là thách thức gì? Thử thách/cám dỗ ấy là sống đích thực đời người phàm. Đời, của những người con không có quyền cũng chẳng có uy. Những kẻ luôn thiếu thốn đủ mọi thứ. Chọn lựa của Ngài, là cùng chung số phận với những người nghèo hèn ấy. Ngài chọn lựa sống như họ, để rồi Ngài đi vào tương quan đích thực với dân đen, hèn kém, chẳng trông đợi vào ai.

Điều này, thoạt nghe chẳng có gì mới mẻ, hoặc hấp dẫn. Nhưng, mục tiêu Đức Giêsu nhắm đến là như thế. Là, thâu thập dân con mọi người vào với tình thương của Cha. Là, sẽ không một ai bị gạt ra ngoài nhóm hội/cộng đoàn thân thương để chung sống. Nhóm ấy, cộng đoàn ấy vẫn có Chúa, có Cha vào mọi lúc. Bởi, chính Cha đang ở ngay trong nhóm. Bởi, chính cộng đoàn là nhóm hội của Cha, đã có được tình thương yêu, hy vọng. Hy vọng, mọi người sẽ sống chung và sống cùng. Cùng sống, cùng lướt vượt mọi khó khăn, rất đồng đều. Đó chính là đường lối Chúa chọn sống.

Ngài lướt vượt mọi thử thách/cám dỗ Ngài theo đường khác. Cám dỗ ấy, Ngài thấy rất rõ, suốt đường đời Ngài từng trải. Và, nay Ngài trở về với những gì là căn bản của chính con người. Trở về với con người đích thực, trước/sau mọi thử thách/cám dỗ. Ngài trở về, cả vào lúc những người khó nghèo/bần hàn kia đã quay lưng chống lại Ngài. Vì thế, đế quốc mới giết hại Ngài. Vì thế, Chúa Cha mới không kịp nghe tiếng Ngài kêu cầu, nơi vườn cây Dầu.

Và đây chính là thông điệp gửi đến với Hội thánh, hôm nay. Thông thường, Hội thánh vẫn muốn thi đua với thế gian, ngoài đời. Vẫn muốn đấu tranh tạo phần thắng, hầu lấy lại quyền uy chính trị, từng luột mất. Lấy lại quyền, để tạo uy hùng dũng mãnh, trên chúng dân. Thông thường, Hội thánh vẫn muốn thi đua với các tổ chức bác ái, quyết lấy lại uy tín bằng việc ban phát các phẩm vật cho dân đen nghèo hèn. Thông thường, Hội thánh từng tìm cách tỏ ra mình những muốn sống đời lành thánh để kéo Chúa về cùng phe, để Ngài sẽ đi theo con đường mình đang thực hiện. Quả là, Hội thánh nay cũng gặp thử thách/cám dỗ như Đức Giêsu, ở thời hôm trước.

Bản thân ta cũng thế. Ta vẫn muốn trở thành nhân vật quan trọng có khả năng giải quyết mọi vấn đề; để rồi, sẽ lôi kéo Chúa vào phe mình, mỗi khi cần. Thông thường, ta cũng muốn chối bỏ những thử thách/cám dỗ, rất tương tự. Bởi thế nên, hãy đề cao cảnh giác cả vào khi ta đã khá giả và trở nên mạnh mẽ, cũng nên biết mình chỉ là kẻ hèn mọn, vẫn phải sống với những khó khăn không dứt bỏ. Bằng không, nhiều lúc ta vẫn cứ nghĩ mình là kẻ sở hữu cả Đức Chúa, chăm lo cho Chúa, rất nhiều điều. Vì nghĩ thế, nên ta cứ cho rằng mình đang theo Đức Giêsu và chính mình đang là Chúa, nữa không chừng?

Thật sự, hãy nhớ rằng mọi người cũng như ta, chỉ là những kẻ vô danh tiểu tốt trong đám đông quần chúng. Cũng chỉ là phận hèn loài người được Chúa đoái thương. Được Chúa ban phát đôi điều để có thể sống sót, sống còn với mọi người. Có thể những gì Chúa ban cho ta, không là bánh/là cá, như người Do thái khi xưa từng học biết. Nhưng, ta học biết để Chúa trở thành chính Chúa. Và, qua học hỏi, ta khám phá ra rằng ta được Chúa đi bước trước, là để Ngài vẫn thương ta, vẫn muốn ta về với Ngài

Hãy cảm tạ Cha đã để Đức Giêsu lướt thắng mọi thử thách/cám dỗ, được như thế. Hãy nguyện cầu, để Hội thánh của ta cũng được thế. Hãy chúc nhau có được cơ may lướt thắng được chính con người mình. Lướt thắng mọi thử thách/cám dỗ vẫn xảy đến với mình, vào mọi lúc. Có thế, ta mới an tâm bước vào Mùa Chay thánh. Có thế, ta mới thấy vui được Chúa dẫn đưa ta ra khỏi mọi thử thách/cám dỗ, rất trần gian.

Trong hân hoan dấn bước như thế, ta hãy cùng dân con ở đời ngâm nga đôi lời thơ ý nhị, rằng:

“Anh trở lại, con đường lên núi biếc,

Thương mây bay, từ đó vẫn cô đơn.

Những bông hoa, còn có nửa linh hồn,

Những lá cỏ, nghiêng vai tìm mộng ảo.”

(Đinh Hùng – Cánh Chim Dĩ Vãng)

Rất chí lý. Bông hoa kia, có khi chỉ còn nửa linh hồn vẫn cứ “nghiêng vai tìm mộng ảo”, thì tôi và anh sẽ chẳng tìm lối đi không thử thách. Để, sẽ thấy Chúa, thấy Cha ở phía trước đang giơ tay đón chờ. Chờ tôi, chờ anh bấy lâu nay ở mọi thời.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn,

         Mai Tá lược dịch.

TỪ BỎ ĐỂ SỐNG MÙA CHAY

TỪ BỎ ĐỂ SỐNG MÙA CHAY

TRẦM THIÊN THU

Thứ Tư Lễ Tro là khởi đầu Mùa Chay. Mùa Chay tới, nhiều người nghĩ phải cố gắng từ bỏ điều gì đó để bước theo Đức Kitô. Tuy nhiên, những điều này lại thường ít ảnh hưởng đến cuộc sống, chúng ta “khôn lỏi” lắm!

Dưới đây là 40 thứ có thể từ bỏ để sống Mùa Chay. Không phải là những thứ liên quan việc ăn uống, nhưng chúng thực sự cần từ bỏ. Mùa Chay kéo dài 40 ngày, mỗi ngày cố gắng từ bỏ 1 điều. Trong 40 điều này, có những điều không chỉ từ bỏ trong Mùa Chay mà phải từ bỏ suốt cả đời.

  1. SỢ THẤT BẠI – Bạn không thành công nếu chưa trải qua thất bại. Đúng như tục ngữ Việt Nam nói: “Thất bại là mẹ thành công”.
  1. VÙNG AN TOÀN – Đó là “vùng thoải mái”, sợ khó. Dám ra ngoài “vùng”này thì chúng ta mới có thể khám phá những điều mới lạ.
  1. CẢM THẤY HOÀI NGHI – Có lúc chúng ta nghi ngờ rằng không biết Tạo Hóa có tạo dựng nên mình hay không.Hãy xác định như tác giả Thánh Vịnh:“Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con, Ngài không lạ lẫm gì, khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu. Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy; mọi ngày đời được dành sẵn cho con đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu của đời con khởi sự”(Tv 139:13-16).
  1. THIẾU KIÊN NHẪN – Thời giờ của Thiên Chúa là thời giờ hoàn hảo. Mọi thứ đều đúng hẹn, đúng kỳ theo ý Ngài tiền định và quan phòng.
  1. SỐNG ẨN DẬT – Còn hít thở, chúng ta còn sống với người khác và tương tác với họ vì Đức Kitô. Công việc của chúng ta luôn ảnh hưởng người khác.
  1. LÀM VUI LÒNG NGƯỜI KHÁC – Không ai có thể làm vừa lòng mọi người, nhưng chúng ta phải luôn cố gắng làm vui lòng người khác, còn họ có vừa lòng hay không là phần của họ.
  1. SO SÁNH – Một là cảm thấy mình kém cỏi hơn người khác, hai là cảm thấy mình “ngon lành” hơn người khác. Dạng nào cũng không được.
  1. TRÁCH CỨ – Chúng ta có xu hướng không dám nhận lỗi, và luôn muốn đổ lỗi cho người khác.
  1. PHẠM TỘI – Nhân vô thập toàn. Mặc dù chúng ta là tội nhân, Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, và Chúa Giêsu đã chết vì chúng ta. Hôm nay là ngày mới, hôm qua đã không còn.
  1. MẤT TỰ CHỦ – Do đó chúng ta khó có thể hoàn tất công việc và làm tốt hơn.
  1. THIẾU DỰ ĐỊNH – Các quyết định khôn ngoan hiếm khi trở thành vô ích.
  1. KHÔNG MINH BẠCH – Một là không minh bạch về điều này hoặc điều nọ (khuất tất), hai là không trong sạch (nhân đức).
  1. TỰ QUYỀN – Thiên Chúa không mắc nợ chúng ta điều gì, thế giới cũng chẳng mắc nợ chúng ta điều gì. Hãy cố gắng sống trong ân sủng và khiêm nhường.
  1. LÃNH ĐẠM – Cuộc đời có bao nhiêu mà hững hờ. Không quý mến nhau thì cũng đừng kèn cựa nhau. Tranh chấp nhau, giành giật nhau, hơn thua nhau làm gì?
  1. GHEN GHÉT – Hãy cảnh giác kẻo mắc lừa ma quỷ, bởi vì chúng rất ranh mãnh. Kinh Thánh căn dặn: “Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác”(Rm 12:21).
  1. TIÊU CỰC – Hãy cố gắng quan hệ hòa nhã với mọi người. Tránh né người khác là tiêu cực, mà cũng chỉ vì chúng ta không coi trọng người khác nên mới tránh né họ.
  1. MÊ VẬT CHẤT – Hãy nhớ rằng có Thiên Chúa là có tất cả, mất Thiên Chúa là mất tất cả: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì”(Tv 23:1).
  1. SỐNG MÁY MÓC – Càng đầu tư nhiều thì càng có lợi nhiều. Về tinh thần và tâm linh cũng vậy.
  1. THAN PHIỀN – Đừng cằn nhằn, khó tính, than thân trách phận hoặc trách móc người khác, hãy cố gắng xử lý và giải quyết vấn đề cho thấu đáo.
  1. BẤT CẦN – Thiên Chúa muốn chúng ta hạnh phúc cả đời này và đời sau. Đó là niềm vui sống. Đừng buông xuôi, bất cần đời!
  1. GAY GẮT – Đó là tự làm khổ mình, và tất nhiên cũng làm khổ người khác. Tâm bất an thì không thể nào sống vui và sống khỏe, bệnh tật phát sinh từ đó.
  1. CHIA TRÍ – Cuộc sống có nhiều thứ khiến chúng ta chia trí, vì thế cần phải tập trung vào mục đích của mình.
  1. MẶC CẢM – Thiên Chúa không bao giờ từ bỏ chúng ta, dù chúng ta xấu xa và tội lỗi: “Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa thì hãy còn có Chúa đón nhận con”(Tv 27:10).
  1. TẦM THƯỜNG – Cuộc đời chúng ta có thể không ai biết đến, không có gì khác thường, sống rất bình thường, nhưng tuyệt đối đừng sống tầm thường.
  1. GÂY CHIA RẼ – Chia rẽ là chết, đoàn kết mới sống. Khuyến khích nhau là điều cần thiết, mọi nơi và mọi lúc: “Phải khuyến khích nhau, nhất là khi anh em thấy Ngày Chúa đến đã gần”(DT 10:25).
  1. BẬN RỘN – Đó là “huy hiệu danh dự” của người mê công việc mà bỏ bê những thứ cần thiết khác.
  1. CÔ ĐỘC – Có Chúa Giêsu, chúng ta sẽ không cô độc. Ngài luôn hiện diện và đồng hành với chúng ta.
  1. BẤT HÒA – Xung đột là mối nguy cho cuộc sống, cả đời thường và tâm linh. Xung đột xảy ra thì không thể hợp tác. Sự cộng tác và đồng tâm nhất trí rất cần: “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho”(Mt 18:19).
  1. VỘI VÀNG – Dục tốc bất đạt. Dù to hay nhỏ, cái gì cũng cần có thời gian, không thể một sớm một chiều.
  1. LO LẮNG – Thiên Chúa kiểm soát mọi sự, chúng ta có lo lắng cũng chẳng thay đổi được gì: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy”(Mt 6:33-34).
  1. THẦN TƯỢNG HÓA – Đừng thần tượng hóa bất cứ ai, bắt chước là ngu xuẩn, hãy cứ là chính mình! Chỉ có Thiên Chúa là Đấng hoàn hảo mà thôi.
  1. CỐ CHẤP – Cuộc sống luôn phải thay đổi để thích nghi mọi thứ. Cố chấp là ích kỷ, là hèn nhát.
  1. KIÊU NGẠO – Thiên Chúa hạ bệ kẻ kiêu ngạo, nhưng nâng cao người khiêm nhường (Lc 1:51-52).
  1. NÔNG CẠN – Đừng nói rằng vấn đề khó quá, chính vấn đề khó đó cho chúng ta biết Thiên Chúa vĩ đại.“Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”(Nguyễn Thái Học).
  1. ĐỐ KỴ – Người Pháp có câu nói chí lý: “Đừng vì kính mến Chúa mà chống đối người khác”. Mọi người đều là anh em và là con một Cha trên trời.
  1. VÔ ƠN BẠC NGHĨA – Cuộc sống là những ngày tháng chúng ta mắc nợ Thiên Chúa mọi thứ, chúng ta cũng mắc nợ tha nhân và xã hội nhiều thứ. Do đó, chúng ta không thể không biết ơn Thiên Chúa và cuộc đời.
  1. THAM LAM – Thiên Chúa có kế hoạch riêng dành cho mỗi người: “Ta đã gọi ngươi đích danh, đã ban cho ngươi một tước hiệu, dù ngươi không biết Ta”(Is 45:4). Hãy cố gắng làm trọn công việc Ngài giao phó.
  1. TỰ MÃN – Chúa Giêsu là sức mạnh của chúng ta: “Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết”(Pl 4:13). Có Ngài thì chúng ta mới làm được công kia việc nọ, không có Ngài thì chúng ta chẳng làm nên trò trống gì đâu:“Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được”(Ga 15:5).
  1. ƯU SẦU – Buồn thì cứ khóc, xong rồi thôi. Đừng giam mình trong vòng ưu sầu. Mọi sự sẽ qua, cứ tín thác vào Thiên Chúa: “Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Người”(Tv 30:5b).
  1. CUỘC ĐỜI – Thế gian là cõi tạm, rồi sẽ qua đi. Đừng coi nặng vật chất, kể cả cuộc sống của chúng ta, tất cả chỉ là bụi tro mà thôi. Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”(Ga 12:25).

TRẦM THIÊN THU

(biên soạn theo GreaterThingsToday)

Khởi đầu Mùa Chay – 2017

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

VẾT MÒN

VẾT MÒN

TRẦM THIÊN THU

Con người thật là yếu đuối, hèn nhát, ngu xuẩn, nhưng lại luôn lên mặt tỏ ra mình ngoan hiền! Điều mình muốn thì không làm, lại cứ làm điều mình ghét, không hề muốn (x. Rm 7:15). Ai cũng có những “vết mòn”. Khốn nạn thay!

Một lần nữa, Mùa Chay lại về. Mùa Chay liên quan vấn đề sám hối, sám hối liên quan tội lỗi. Một trong những điều khiến chúng ta thất vọng nhiều nhất là khi cố gắng tiến bộ về tâm linh nhưng cứ tái phạm các tội cũ, cứ lại lăn vào vết xe cũ, tránh mãi chẳng được, chừa mãi không xong!

Chúng ta buồn. Chúng ta nghĩ rồi mình lại tái phạm.Và đúng như vậy. Chúng ta ngập đầu tội lỗi, cắn rứt và xấu hổ. Do đó chúng ta cũng dễ bỏ cuộc. Chúng ta thất vọng và tự nhủ đó không là tội, nếu có là tội thì cũng chỉ là tội nhẹ.

Đây là 12 cách cần ghi nhớ nếu bạn cứ phạm đi phạm lại một tội nào đó:

  1. PHẢI HOÀN THIỆN CẢ ĐỜI

Bạn có nghĩ mình sẽ nên thánh sau một đêm? Đây là vấn đề đối với nhiều người trong chúng ta. Chúng ta thích“cấp tốc”, giải quyết nhẹ nhàng mà hiệu quả. Thánh GH Gioan Phaolô II nói:“Sự hoàn thiện phải thực hiện suốt đời”. Không gì vĩ đại mà lại dễ dàng. Nên thánh cũng như trở nên vận động viên Thế Vận Hội hoặc người có tài năng xuất chúng. Ai cũng phải khổ luyện, chẳng có gì dễ dàng và mau chóng được. Hãy nhớ: “Dục tốc, bất đạt”.

  1. ĐỪNG GAY GẮT VỚI CHÍNH MÌNH

Vâng, hãy đặt ra tiêu chuẩn cao. Đừng dễ dãi với chính mình, nhưng cũng đừng khó khăn với chính mình. Cứ cố gắng làm rồi sẽ làm đúng. Có một “sáo ngữ” nhưng đúng: “Bạn thường té ngã bao nhiêu lần thì cũng phải thường đứng dậy chừng đó lần”. Bạn đang trên đường tiến tới thì té ngã bao nhiêu lần cũng không thành vấn đề.

  1. HÃY KHÁCH QUAN

Số tội lỗi và mức xấu hổ không là “thước đo”để phân định mức độ nghiêm trọng của tội. Chúng ta cảm thấy xấu hổ về tội liên quan xác thịt vì nó ô uế và nhơ nhớp. Việc thiếu cầu nguyện và không tôn trọng người khác có thể là tội còn nặng hơn các tội về xác thịt. Lòng kiêu ngạo có thể ngăn cản tâm linh hơn tội về xác thịt. Nói như vậy không phải là biện hộ cho tội xác thịt, nhưng cảm giác có tội và xấu hổ đôi khi khiến chúng ta không nhận ra rằng tội lỗi không làm chúng ta xấu hổ. Hãy khách quan khi xét mình và đừng đánh mất cảm thức tội lỗi. Hãy thẳng thắn với chính mình, tin vào lòng thương xót của Chúa và đi xưng tội.

  1. PHÂN BIỆT TỘI

Tội nặng (tội trọng) liên quan vấn đề quan trọng.Bản chất của tội trọng là làm chúng ta mất ơn nghĩa với Chúa. Bạn phải biết đó là tội trọng, là yếu tố làm mất tự do,và phải quyết định dứt khoát, đừng tự nhủ: “Tôi biết đó là tội trọng, nhưng tôi cứ phạm”. Nếu lỡ phạm tội trọng, bạn phải cấp tốc ăn năn. Nếu bạn có ý đi xưng tội  trong thời gian sớm nhất, đó là bạn đã trở về với Chúa.

  1. TỘI QUEN PHẠM LIÊN QUAN TÂM LÝ

Nhận biết điều này giúp bạn bớt phạm tội. Nếu bạn bị “nghiện” và không thể vượt qua một tội nào đó, bạn cần nhờ người linh hướng. Các nhà liệu pháp và các nhà tư vấn có thể giúp bạn tìm ra căn nguyên khiến bạn “nghiện”. Nếu bạn khó chừa một tội nào đó, có thể bạn đã bị “nghiện”. Nhiều người không cho là mình bị “nghiện” nên không chịu “điều trị”. Hãy mạnh dạn nhờ người giúp đỡ để bạn có thể vượt qua. Đừng muốn làm bác sĩ vì bạn bị bệnh. Đừng ngần ngại lãnh nhận Bí tích Hòa giải nếu linh hồn bạn bị bệnh.

  1. TỰ GIẢI THOAT

Nếu bạn “kẹt” vì một tội nào đó, có thể bạn bị sự ác ám ảnh. Nói là “sự ác” không hẳn là ma quỷ. Có thể đó chỉ là điều thuộc tâm sinh lý – bị kém trí nhớ, ảnh hưởng mối quan hệ không lành mạnh nào đó, hoặc do yếu tố xấu nào đó. Nếu bạn cảm thấy sự ác ảnh hưởng bạn, hãy cầu nguyện và ăn chay. Hãy ăn chay các ngày thứ Sáu và chú tâm cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Hãy xưng tội, đừng quan tâm là linh mục nào. Xưng tội là thú tội với Chúa và xin Ngài thương xót.

  1. NHẬN BIẾT CƠN CÁM DỖ

Có thể bạn đã làm điều gì đó rồi… quen. Ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt. Nó thúc giục bạn, và bạn lấy nhiều lý do để tự biện hộ.Thói quen thành nghiện, nghiện rồi thì muộn rồi. Hãy chống lại cơn cám dỗ ngay khi nó xuất hiện trong tâm trí. Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Đừng thí mạng mà đối đầu với ma quỷ, nhưng hãy thẳng thắn nói với nó: “Satan, cút ngay, xa ta ra!”.

  1. CẬY NHỜ LINH KHÍ

Thánh lễ, tràng hạt Mân Côi, áo Đức Bà, ảnh các thánh, Kinh Thánh,… là các vũ khí hữu hiệu trong cuộc chiến tâm linh. Hãy tìm hiểu cách sử dụng hữu hiệu các linh khí này.

  1. HIỂU BẢN CHẤT TỘI

Bạn sẽ không bỏ được tội lỗi nếu bạn không thực sự ghê tởm nó. Bạn thấy những con nghiện đáng sợ không?Nghiện gì cũng đáng sợ: Nghiện ma túy, nghiện rượu, nghiện thuốc lá,… Nghiện phạm tội còn kinh tởm hơn nhiều. Hãy cầu nguyện để thanh lọc ước muốn, cố gắng tập trung vào cái tốt đẹp và chân thật.

  1. TÌM NGƯỜI LINH HƯỚNG TỐT

Hãy chân thành sám hối và tìm người linh hướng, kiểu như bác sĩ gia đình, quan hệ thân thiết để người linh hướng biết thực trạng của bạn. Càng biết rõ thì người linh hướng càng dễ giúp bạn tiến bộ trên đường trọn lành. Ai cũng phải nên thánh, có người nhanh, có người chậm, nhưng chắc chắn ai cũng trải qua con đường sám hối và được Thiên Chúa thương xót thứ tha.

  1. ĐỪNG BỎ CUỘC

Dù thất vọng nhưng đừng tuyệt vọng. Dù thế nào cũng không được đầu hàng, bỏ cuộc. Đừng tự nhủ rằngtội của mình không là tội. Đó là tự giả dối và hủy hoại chính mình. Hãy đối mặt với tội lỗi và kiên cường chiến đấu. Hãy ghi nhớ: “Đừng bỏ cuộc!”.

  1. CHÚA LUÔN Ở BÊN BẠN

Đó là điều bạn phải ghi nhớ rõ ràng. Nhiều người Công giáo phạm tội như thể Chúa ở xa lắm, rồi nghĩ rằng đời còn dài, mai mốt ăn năn cũng được, Chúa nhân từ lắm. Đó là lạm dụng lòng thương xót của Chúa. Kinh Thánh nói:“Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3:17).  Phải hiểu tích cực chứ đừng tiêu cực. Hiểu tiêu cực là lợi dụng lòng tốt của Chúa. Ngài luôn chờ cơ hội để tha thứ chứ không muốn kết án. Hãy can đảm “đứng dậy và trở về với Cha” (Lc 15:18), càng sớm càng tốt.

TRẦM THIÊN THU

(chuyển ngữ từ Patheos.com)

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

THỬ THÁCH VÀ LỰA CHỌN

THỬ THÁCH VÀ LỰA CHỌN

Trình thuật về các lần cám đỗ được coi như phần mở đầu giúp người tín hữu hiểu được điều sâu kín nhất trong tâm hồn Đức Giêsu.  Đó là một bản Tin Mừng thu gọn, một thứ hướng dẫn.  Những ai muốn hiểu rõ về cuộc đời công khai của Đức Giêsu, cần phải để ý điều này: nếu muốn hiểu biết điều gì trong đó, hãy luôn nhớ lại ba lựa chọn căn bản này của Đức Giêsu.

Cuộc thử thách và lòng trung thành

Thời gian 40 đêm ngày Đức Giêsu trải qua trong sa mạc đánh dấu việc khởi đầu một cuộc phiêu lưu, cuộc phiêu lưu của Giao Ước Mới.  Cuộc phiêu lưu này tái hiện quãng thời gian 40 năm dân Do-thái đã trải qua trong cuộc Xuất hành, đồng thời nhắc lại 40 ngày đêm ông Mô-sê đã ở trên núi Xi-nai.

THU THACH

Còn hơn thế nữa, khoảng thời gian này không chỉ là một cuộc khởi đầu, nhưng còn là một cuộc sáng tạo với những yếu tố như cuộc sáng tạo vũ trụ: sa mạc (miền đất trống rỗng, hoang vu), và sự thử thách.

Trong cuộc sáng tạo, A-đam đã phải chịu thử thách, đã đứng trước một lựa chọn, trong đó ông phải bày tỏ tự do của mình.  Cũng vậy, với biến cố hôm nay, với cuộc thử thách và lựa chọn trong sa mạc, Đức Giêsu đã bày tỏ tự do của mình, đã thể hiện sự gắn bó với Thiên Chúa, và cho thấy bản tính sâu xa của Người: Con Thiên Chúa và Con Loài Người.

Thực vậy, sa mạc và thử thách luôn là những cơ hội để bày tỏ lòng trung thành hay thái độ bất trung (A-đam, sự kiện con bò vàng …).  Lần đầu tiên trong suốt lịch sử cứu độ, Đức Giêsu thực hiện điều mà trước đây, cả A-đam lẫn ÍT-RA-EN không thể thực hiện: lòng trung thành với Thiên Chúa.

Nhờ sự trung thành với căn tính Con Người và Con Thiên Chúa, Đức Giêsu mở ra con đường cho Giao ước Mới, con đường đặt nền tảng trên lòng trung thành, một yếu tố mà con người có thể thực hiện được với nỗ lực và tự do của mình.  Và lòng trung thành này được biểu hiện qua việc nhìn nhận Lời Chúa là của ăn, nhìn nhận thánh ý Chúa Cha có giá trị ưu tiên tuyệt đối, nhìn nhận Thiên Chúa là Chúa duy nhất.

Một cuộc chiến đấu

 Con người vẫn thường nghĩ về Đức Giêsu như Đấng có uy quyền, Đấng bày tỏ các mầu nhiệm và thực hiện những điều lạ lùng.  Về phần mình, Đức Giêsu lại đề ra một cuộc chiến đấu.

Quả thực, qua các cám dỗ tại sa mạc, Đức Giêsu đã thể hiện trọn vẹn tính cách con người.  Mặc dù có thể, Người đã không sử dụng các phép lạ cho riêng mình để loại bỏ đi những yếu tố vẫn gắn liền với thân phận con người.

Đức Giêsu muốn uống lấy chén đắng, Người muốn cứu nhân loại chứ không cứu lấy bản thân mình.  Chính ý tưởng này còn đưa đến cho Người nhiều thử thách khác, không kém phần cam go, nhưng Người đã vượt qua.  Thử thách cuối cùng là cái chết, Người cũng đã đón nhận, bởi vì Người hiểu rằng, chính trong tâm tình tự hiến vì yêu thương, Người nhận lấy vinh quang của cuộc chiến đấu, đồng thời đem lại vinh quang cho tất cả những ai bền lòng vững chí.

Suốt cuộc đời của Đức Giêsu là một cuộc chiến đấu liên lỉ chống lại sự dữ, chống lại quyền lực xấu xa đang đè nặng trên cuộc sống của con người.  Người muốn giải phóng họ khỏi những quan niệm, những cách sống đang làm vướng bận mối tương giao của họ với Thiên Chúa, hay làm cho mối tương giao đó không được trong sáng, không đạt tới ý nghĩa thâm sâu.  Chẳng hạn như sau khi chứng kiến phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng đã muốn tôn Người làm vua, nhưng Người đã lánh đi (Ga 6,15), hoặc khi Phê-rô lên tiếng can ngăn Đức Giêsu, xin Người đừng lên Giê-ru-sa-lem, Người đã không xiêu lòng trước thử thách, nhưng đã quyết liệt khước từ và nặng lời trách móc Phê-rô (x. Mt 16,23).

Như thế, Đức Giêsu không muốn sống an toàn, trái lại, Người lao vào một cuộc đấu tranh, chấp nhận những mất mát thua thiệt về phía mình, kể cả sự sống.  Người hiểu rằng, để khai sinh một nhân loại mới, một ý nghĩa mới cho cuộc sống của con người, cần phải chiến đấu, phải hi sinh, phải liều lĩnh.  Nếu không có can đảm vượt lên trên cái nhìn bình thường, vượt lên trên sự an toàn cho riêng mình, thì nhân loại không thể nào được cứu vớt, được giao hoà với Thiên Chúa.

Cuối cùng, cuộc chiến đấu này đã dẫn đưa Người tới cái chết trên thập giá, và Người đã chiến thắng nhờ sự Phục sinh.  Sự kiện này cho thấy rằng cuộc chiến đấu của Người không phải là vô nghĩa, và con người có thể đạt tới chiến thắng vinh quang nhờ lòng trung thành, nhờ thái độ tuân phục thánh ý Thiên Chúa.

Vì vậy, xét theo cái nhìn bình thường, Đức Giêsu đã hành động như là không yêu mến con người; Người đã mở ra một cuộc chiến và mời gọi họ dấn thân, chứ không đem đến cho họ sự an toàn.  Tuy nhiên, chính cuộc chiến do Đức Giêsu khởi đầu lại là con đường duy nhất để đạt tới vinh quang đích thực.  Trong cuộc chiến đấu của mình, Đức Giêsu đã liên đới với tất cả những người đau khổ, liên đới với thân phận làm người của nhân loại; Người hành động như thế vì yêu mến họ, yêu mến cách tận tình, muốn đưa họ tới sự sống chân thật.  Bình an do Đức Giêsu đem đến là bình an được chiếm đoạt bằng sức mạnh, bằng sự trung tín với Lời Chúa.

Chiến dấu từng ngày và suốt đời

 Ba cám dỗ, hay ba chọn lựa, vẫn thường xảy ra trong suốt dòng lịch sử.  Mỗi người sẽ gặp phải những thử thách và họ sẽ ngã gục như A-đam và dân It-ra-en, nếu họ không nhìn vào Đức Giêsu, và không noi theo gương của Người.

Cuộc chiến đấu ấy, thử thách ấy vẫn diễn ra cách này cách kia theo nhiều hình thức khác nhau; mỗi thời mang một vẻ khác, mỗi giai đoạn lại có vẻ tế nhị hơn, quyết liệt hơn, nhưng bao giờ cũng vẫn là sự chọn lựa giữa Thiên Chúa và trần gian.  Đó là một cuộc chiến đấu dài, rất dài, không bao giờ chấm dứt; người ta phải chiến đấu đến giây phút cuối cùng, mà không được quyền bỏ cuộc, rút lui.

Vậy, đâu là những thử thách vẫn thường xảy ra mà không khi nào Đức Giêsu nhượng bộ?

Thứ nhất: Con người được dựng nên không phải chỉ vì những lương thực trần gian.  Họ còn có những lương thực thiêng liêng và chính thứ lương thực này mới cần thiết.

Thứ hai: Con người được dựng nên không phải để cảm nghiệm về Thiên Chúa mà thôi.  Họ cần phải hiệp thông với Người, như một đứa con, với lòng tin tưởng tuyệt đối.  Đó không phải là mối tương giao đặt nền tảng trên lòng yêu mến.  Họ ở trong Người, không một chút nghi ngờ, không một khoảng cách.

Thứ ba: Con người được dựng nên không phải để thống trị anh em mình, không phải để bắt người khác thần phục mình.  Trái lại, mọi người đều là con một Cha; tất cả đều quy hướng về Thiên Chúa.  Hơn nữa, họ không được dựng nên để phục lạy các ngẫu tượng, nhưng là để thờ phượng Thiên Chúa:

Như vậy, vấn đề được đặt ra chính là căn tính của con người.  Họ được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi và Ba Ngôi Chí Thánh không ngừng làm cho họ nên giống hình ảnh của Người.  Đó là chương trình đã có từ thời sáng thế, và hôm nay vẫn đang được thực hiện.  Chương trình này vẫn đang bị đe doạ vì những ham muốn chống đối của con người, và Thiên chúa không ngừng bày tỏ lòng yêu thương của Người:

Chính trong việc cử hành Thánh Thể,

Đức Kitô ban mình làm lương thực để nuôi sống con người.

Đức Kitô xoá tan mọi khoảng cách và nghi ngờ,

Ngài đến ở với chúng ta qua việc rước lễ.

Đức Kitô quỳ gối trước mặt chúng ta,

rửa chân cho chúng ta,

biến chúng ta thành một dân biết phục vụ,

sắn sàng quỳ gối để rửa chân và giúp đỡ người khác.

Con người không được dựng nên cho riêng mình.  Cộng đoàn ngày Chúa Nhật là cơ hội để chúng ta thấy rõ căn tính của mình.  Trong cộng đoàn này, chúng ta chia sẻ với nhau những thành quả do cuộc chiến đấu của Đức Kitô, đồng thời trở nên hình ảnh của Thiên Chúa.

Đi vào Mùa Chay

là cùng với Đức Kitô

lao vào cuộc chiến đấu.

để bày tỏ lòng trung thành

đặt nền tảng trên Lời Chúa.

  G. Nguyễn Cao Luật

Langthangchieutim gởi

Mùa Chay là con đường của niềm hy vọng

Mùa Chay là con đường của niềm hy vọng

 Linh Tiến Khải – R. Vatican

Mùa Chay là thời gian ăn chay hãm mình để sống lại với Chúa Kitô, để canh tân căn tính được rửa tội của chúng ta, nghĩa là tái sinh từ “bên trên”, từ tình yêu của Thiên Chúa. Mùa chay là  lộ trình của hy vọng, là dấu chỉ bí tích của sự hoán cải, đòi hỏi nhiều dấn thân.

ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 30.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng 1-3-2017.

Trong bài huấn dụ ĐTC đã dựa trên trình thuật ơn gọi của ông Môshê như kể trong chương 3 sách Xuất Hành để khai triển đề tài “mùa Chay như con đường của niềm hy vọng”.

Ngài nói: Thật thế viễn tượng này trở thành hiển nhiên, nếu chúng ta nghĩ rằng mùa Chay đã được Giáo Hội thành lập như thời gian chuẩn bị cho lễ Phục Sinh, và vì vậy tất cả ý nghĩa của thời gian 40 ngày này nhận lấy ánh sáng từ mầu nhiệm vượt qua mà nó hướng tới. Chúng ta có thể tưởng tượng Chúa Phục Sinh mời gọi chúng ta ra khỏi các tối tăm của mình, và tiến bước tới với Ngài là Ánh Sáng. ĐTC định nghĩa mùa Chay như sau:

Mùa Chay là một con đường hướng về Chúa Giêsu Phục Sinh, một giai đoạn của sám hối, hãm mình nhưng không phải là mục đích cho chính nó, nhưng là nhắm làm cho chúng ta chỗi dậy với Chúa Kitô, canh tân căn cước là tín hữu được rửa tội của chúng ta, nghĩa là tái sinh từ “trên cao”, từ tình yêu của Thiên Chúa ( Ga 3,3). Đó chính là tại sao muà Chay, tự bản chất của nó, lại là thời gian của niềm hy vọng.

** Để hiểu rõ hơn nó là gì chúng ta phải quy chiếu kinh nghiệm nền tảng cuộc xuất hành của dân Israel ra khỏi Ai Cập, như được Thánh Kinh kể trong sách Xuất Hành. Điểm khởi hành là điều kiện nô lệ bên Ai Cập, sự áp bức, các lao động cưỡng bách. Nhưng Chúa đã không bỏ rơi dân Ngài và lời hứa của Ngài: Ngài kêu gọi ông Môshê, và với canh tay uy quyền mạnh mẽ, Ngài cho dân Israel ra khỏi Ai Cập và hướng dẫn họ đi qua sa mạc tiến về miền Đất của tự do. Trên con đường từ nô lệ sang tự do đó, Chúa ban cho dân Israel luật lệ để giáo dục họ yêu Ngài là Chúa duy nhất, và yêu thương nhau như anh em.

Thánh Kinh cho thấy rằng cuộc xuất hành dài và vất vả, nó kéo dài một cách biểu tượng 40 năm, nghĩa là thời gian cuộc sống của một thế hệ. Một thế hệ mà trước các thử thách của lộ trình, đã luôn luôn bị cám dỗ tiếc nuối Ai Cập và trở lại đàng sau. Cả chúng ta tất cả cũng biết cái cám dỗ trở lại đàng sau. Nhưng Chúa luôn trung thành, và dân đáng thương ấy được hướng dẫn bởi ông Môshê đi tới Đất hứa. Tất cả con đường này đã thành toàn trong hy vọng: hy vọng đạt tới Đất hứa và chính trong nghĩa này nó là một cuộc “xuất hành”, một cuộc đi ra khỏi nô lệ tới tự do. Và đối với tất cả chúng ta 40 ngày này cũng là một đi ra khỏi nô lệ, khỏi tội lỗi để đến với tự do, để gặp gỡ Chúa Giêsu Phục sinh.

Mỗi bước đi, mỗi mệt nhọc, mỗi thử thách, mỗi té ngã, và mỗi đứng dậy, tất cả chỉ có nghĩa bên trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, là Đấng muốn sự sống cho dân Ngài chứ không phải cái chết, niềm vui chứ không phải khổ đau.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói:

** Lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu là cuộc xuất hành của Ngài, qua đó Ngài đã mở ra cho chúng ta con đường để đạt tới cuộc sống tràn đầy, vĩnh cửu và hạnh phúc. Để mở ra con đường này, việc vượt qua này, Chúa Giêsu đã phải tự lột bỏ vinh quanh của Ngài, hạ mình, vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Việc mở đường cho chúng ta đã khiến cho Ngài phải đổ tất cả máu mình ra, và nhờ Ngài chúng ta được cứu thoát khỏi nô lệ tội lỗi. Nhưng điều này không có nghĩa là  Ngài đã làm tất cả, và chúng ta không phải làm gì hết, rằng Ngài đã đi qua thập giá và chúng ta “đi vào thiên đàng bằng xe”. Không phải thế đâu. Sự cứu rỗi của chúng ta chắc chắn là ơn của Ngài, bởi vì là một lịch sử của tình yêu, nó đòi hỏi tiếng “có” của chúng ta và sự tham dự của chúng ta vào tình yêu của Ngài , như Mẹ Maria chứng minh cho chúng ta thấy, và sau Mẹ là tất cả các Thánh.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ: mùa Chay sống cái năng động đó: Chúa Kitô đi trước chúng ta với cuộc xuất hành của Ngài, và chúng ta đi qua sa mạc nhờ Ngài và theo sau Ngài. Ngài bị cám dỗ vì chúng ta và đã chiến thắng Tên Cám Dỗ cho chúng ta, nhưng cả chúng ta nữa cũng phải cùng Ngài đương đầu với các cám dỗ  và thắng vượt chúng.  Ngài cho chúng ta nước của Thần Khí Ngài, và chúng ta phải kín múc lấy từ suối nguồn của Ngài và uống, trong các Bí Tích, trong lời cầu nguyện, trong sự thờ lậy. Ngài là ánh sáng chiến thắng bóng tối, và chúng ta được đòi hỏi dưỡng nuôi ngọn lửa nhỏ đã được tín thác cho chúng ta trong ngày chúng ta lãnh bí tích Rửa Tội.

Trong nghĩa đó, mùa Chay là “dấu chỉ bí tích sự hoán cải của chúng ta” (Sách lễ Roma, Lời nguyện Chúa Nhật I mùa Chay); ai đi trên con đường mùa Chay, thì luôn luôn ở trên con đường con của sự hoán cải, của con đường từ nô lệ sang tự do, cần canh tân luôn luôn. Một con đường chắc chắn dấn thân, như đúng đắn phải là như thế, bởi vì tình yêu luôn luôn đòi hỏi dấn thân, nhưng là một con đường tràn đầy hy vọng. Tôi còn nói hơn thế nữa: sự xuất hành mùa chay là con đường trên đó chính niềm hy vọng được thành hình. Sự mệt nhọc đi qua sa mạc – mọi thử thách, các cám dỗ, các vỡ mông, các ảo tưởng – tất cả có giá trị rèn luyện một niềm hy vọng mạnh mẽ, vững vàng, theo mô thức niềm hy vọng của Đức Trinh Nữ Maria, là Đấng giữa các tối tăm của cuộc khổ nạn và cái chết của Con Mẹ vẫn tiếp tục tin và hy vọng vào sự phục sinh của Ngài, vào chiến thắng của  tình yêu Thiên Chúa . Với con tim rộng mở cho chân trời này, hôm nay chúng ta hãy bước vào trong mùa Chay. Cảm thấy mình là thành phần của dân Thiên Chúa chúng ta hãy tươi vui bắt đầu con đường hy vọng này.

. ** ĐTC đã chào các đoàn hành hương nói tiếng Pháp, đặc biệt các bạn trẻ đến từ Paris, Pignan, Saint Cloud, cũng như các tín hữu đến từ Thụy Sĩ và Bỉ. Ngài cũng chào các nhóm đến từ Nam Hàn, Hoa Kỳ và các nước nói tiếng Anh khác, cũng như các đoàn hành hương Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và các nước châu Mỹ Latinh. ĐTC khích lệ mọi người sống Mùa Chay tươi vui trong tình bác ái đối với các anh chị em túng thiếu nghèo khổ. Chỉ như thế tín hữu mới thực sự cảm thấy mình là thành phần dân Chúa và anh chị em trong cùng một nhiệm thể Chúa Kitô là Giáo Hội. Ngài cũng cầu chúc chuyến hành hương Roma củng cố họ trong niềm hy vọng vào tình yêu thương của Thiên Chúa là mối dây nối kết tất cả trong đại gia đình của Thiên  Chúa là Giáo Hội, cũng như trong gia đình của từng người và trong toàn xã hội.

Chào các tín hữu Ba Lan ngài nói lễ Tro nhắc cho mọi người nhớ tới sự mỏng giòn của cuộc sống con người và của thế giới. Nó thôi thúc chúng ta nhìn vào giáo huấn của Chúa Giêsu, hoán cải tin vào Tin Mừng và hoà giải với Thiên  Chúa và với nhau.

Trong các nhóm nói tiếng Ý ĐTC đặc biệt chào hội « Bạn của con tim » tỉnh Altamura, các học sinh các tỉnh Civitavecchia, Legnano, Cislago, Thiene và Cefalù, cũng như sinh viên học viện du lịch Livia Bottardi Roma, và trường kitô hoà lan Meppel. Ngài cầu mong cuộc gặp gỡ đầu mùa Chay khơi dậy nơi họ nỗ lực canh tân tinh thần bằng cách tham dự vào các buổi cử hành mùa chay và các chiến dịch quyên góp bác ái để trợ giứp các anh chị em nghèo túng đó đây trên thế giới.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn, ngài xin Chúa chỉ cho họ con đường hy vọng và xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn họ trong việc hoán cải đích thực, thanh tẩy tội lỗi và phục vụ Chúa Kitô hiện diện nơi tha nhân.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.

Anh chị Thụ Mai gởi

Nụ Cười Của Bà Sarah

28 Tháng Hai

    Nụ Cười Của Bà Sarah

Kinh thánh thuật lại rằng, khi bà Sarah, vợ của tổ phụ Abraham, một lão bà gần đất xa trời, được Chúa cho biết là sẽ cưu mang và sinh con, bà đã có một phản ứng thật là người và cũng thật là kỳ diệu: bà đã cười!

Phải, bà cụ già Sarah có lẽ đã cười nắc nẻ khi đứng trước một hoàn cảnh xem ra trớ trêu như thế: một người đàn bà trên 70 tuổi mà còn được Thiên Chúa cho có con!… Thiên Chúa xem ra thích khôi hài!

Và khi Thiên Chúa hỏi tại sao cười, Sarah lại chối rằng mình đã không hề cười. Có lẽ do sợ hãi mà Sarah đã nín cười. Sự sợ hãi có lẽ không còn cho con người được nhìn thấy khía cạnh đáng cười, đáng vui trong cuộc sống… Nhưng liền sau khi sinh con, bà Sarah đã tìm lại được óc khôi hài cho nên bà đã đặt cho đứa con một cái tên khá ngộ nghĩnh là Issac; Issac theo tiếng Do Thái có nghĩa là được sinh từ một người đã cười…

Cười, cười một cách lạc quan: có lẽ đó là một trong những nét nổi bật của người có niềm tin. Người ta thường định nghĩa rằng: một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn… Tất cả các vị thánh đều là những người có óc khôi hài. Các ngài là những con người đã từng biết cười với cuộc sống với tha nhân.

Thánh Phanxicô thành Assisi, vị sứ giả của Hòa Bình, đã có lần tuyên bố: “Hãy trả lại sự buồn phiền cho ma quỷ, bởi vì chỉ có ma quỷ mới có đủ lý do để buồn phiền”.

Cha sở họ Ars, là thánh Gioan Maria Vianey, mặc dù thường được người ta tạc tượng như một con người buồn bã, ảo não, nhưng kỳ thực không ai có tâm hồn vui tươi lạc quan như Ngài. Thánh nhân đã nói: “Linh hồn của những ai phục vụ Chúa đều được tràn ngập vui mừng, họ luôn luôn sống như nghỉ ngơi và luôn luôn sẵn sàng để ca hát…”

Thánh Thomas Moore khi bị đưa lên máy chém, đã nói đùa với người lý hình rằng hãy để cho ngài được giúp một tay, cho việc hành quyết được dễ dàng. Ngài còn nói thêm rằng, sau khi đã chém đầu ngài, chớ đụng đến bộ râu vì bộ râu của ngài không hề phản bội một ai…

Một vị tu sĩ nào đó vào thời Trung Cổ đã viết như sau: “Một nụ cười và óc khôi hài thu hút được nhiều người đến với tôn giáo hơn là những khuôn mặt dài vì ủ dột”.

Chúa Giêsu bảo chúng ta rằng: khi ăn chay hãm mình hãy xức dầu thơm vào người.

Còn thứ dầu thơm nào quý giá hơn để tô thắm cho gương mặt của chúng ta cho bằng niềm vui.

Cuộc sống dù có trămnghìn vất vả, đau thương vẫn là cuộc sống đã được Chúa trao ban như một kho tàng cao quý nhất.

Tình đời có đen bạc, nhân nghĩa có phôi pha: những con người đang sống với chúng ta vẫn là những người con cái Chúa và là anh em của chúng ta.

Hãy cười với cuộc sống, hãy cười với người anh em của chúng ta: đó là sứ điệp của Kitô Giáo mà trọng tâm chính là Mầu Nhiệm Phục Sinh. Qua Mầu Nhiệm ấy, Thiên Chúa đã cười cợt, thách thức tội lỗi và sự chết.   Sự Sống và Niềm Hy Vọng đã phát sinh từ cái chết của Ðức Kitô.

     Trích sách Lẽ Sống

MA QUỶ TẤN CÔNG

MA QUỶ TẤN CÔNG

 TRẦM THIÊN THU

Mùa Chay lại về, Mùa Chay là thời gian thuận tiện để chúng ta kiểm điểm cuộc đời mình và xem xét mọi ngõ ngách của linh hồn, và cố gắng chấn chỉnh để phần nào đền bù tội lỗi của chính mình.

Chúng ta đang sống trong “vùng chiến tranh” nghiêm trọng, và khó tìm thấy hòa bình trong khoảng đó. Điều mà nhiều ngườikhó nhận ra, đó làcuộc chiến đấuxảy ra hằng ngày trong cuộc sống của chúng ta ở ngay trong đầu chúng ta. Kinh Thánh cho biết:“Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô. Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc”(1 Cr 10:3-5).

Có những đồn lũy nào đó của ma quỷ vây hãm chúng ta hằng ngày mà chúng ta phải nhận biết. Cuộc chiến đang xảy ra trong tư tưởngcủa chúng ta và ma quỷ lợi dụng chính các nhược điểm đó để tấn công chúng ta. Hãy lưu ý 6 điểm dưới đây. Đừng coi ma quỷ là đồng minh, bởi vì nó xảo trá và quỷ quyệt, nó sẽ lừa dối bạn để bạn lọt vào tròng của chúng.

  1. KHI BẠN BỊ TỔN THƯƠNG

Ma quỷ sẽ tấn công bạn khi bạn yếu đuối, cả thể lý lẫn tinh thần. Chúa Giêsu bị tấn ma quỷ công sau khi Ngài đã ăn chay suốt 40 ngày. Kinh Thánh cho biết:“Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói. Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!”(Mt 4:2-3). Ma quỷ đã từng tấn công Chúa Giêsu vào một trong những lúc Ngài suy nhược nhất về thể lý. Có những ngưoi“chăm chút” sự yếu đuối của mình và giữ lấy nó. Nếu bạn là người như vậy, bạn sẽ không bao giờ tự do. Ma quỷ “bắt cóc” bạn và cầm giữ bạn.

  1. KHI BẠN MỆT MỎI

Bạn có thường uể oải hoặc mệt mỏi? Thiếu nghị lực và thiếu sinh khí thường là hậu quả của một cuộc tấn công “mở rộng”. Thật vậy, các vấn đề này có thể xảy ra từ các vấn đề khác, kể cả việc mất ngủ và thiếu sức khỏe. Tuy nhiên, một trong các dấu hiệu quan trọng nhất mà bạn bị tấn công tinh thần là lúc bạn cảm thấy mệt mỏi, chính sự mệt mỏi khiến bạn chán nản và ngăn cản bạn làm những điều Thiên Chúa bảo bạn làm. Ngôn sứ Isaia cho biết:“Thanh niên thì mệt mỏi, nhọc nhằn, trai tráng cũng ngả nghiêng, lảo đảo”(Is 40:30), nhưng chờ đợi Chúa bồi bổ sức mạnh và thể hiện sự khôn ngoan để có thể chờ đợi, nghỉ ngơi và cậy nhờ vào Thiên Chúa chứ đừng ỷ vào sức mình.

  1. KHI BẠN BẮT ĐẦU MỘT HÀNH TRÌNH TÂM LINH MỚI

Ma quỷ sẽ tấn công bạn  k hi bạn bắt đầu một quyết tâm mới về tâm linh. Không có gì nó ghét hơn là bạn quyết định thiết lập mối quan hệ với Thiên Chúa và phát triển đức tin. Ngày sau khi Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ, Ngài khởi đầu sứ vụ công khai. Kinh Thánh cho biết: “Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói rằng: Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4:17). Nhận biết Chúa Giêsu sẽ bắt đầu sứ vụ, ma quỷ đã ráo riết tấn công Ngài, nhưng Ngài không thoái chí. Khi ban bắt đầu bất cứ một hành trình tâm linh nào, ma quỷ sẽ tấn công để phá hoại và làm cho bạn chia trí khi cố gắng sống thân mật với Thiên Chúa và mở rộng sứ vụ của Đức Kitô. Đừng để ma quỷ chiến thắng bạn!

  1. KHI BẠN BỐI RỐI

Ma quỷ sẽ tấn công bạn khi bạn thất vọng ê chề. Trong cuộc tấn công tinh thần, ma quỷ dùng nhiều mưu kế để đè nén tâm trí bạn và làm cho bạn cảm thấy thất vọng. Khi bạn ở trong vòng vây của nó, có thể bạn cảm thấy mình gặp nguy hiểm, lo lắng hoặc bối rối. Những lúc đó, cuộc đối thoại đơn giản với  người khác (cha mẹ, vợ chồng, bạn bè,…) có thể chuyển thành xung đột, và  ý tưởng đơn giản trong đầu của bạn có thể biến thành cảm xúc tiêu cực. Bạn cũng có thể cảm thấy  không còn là mình như trước. Điều này không chỉ ở trong đầu của bạn. Trong những lúc như vậy, điều quan trọng là bạn phải cố gắng tập trung vào Thiên Chúa.

  1. KHI BẠN ĐAU KHỔ

Ma quỷ sẽ tìm cách  quyến rũ bạn mau chóng chữa trị khi bạn đau đớn và đau khổ. Nó muốn bạn tin nó có mọi cách thức, chứ không phải Thiên Chúa. Nếu bạn gặp rắc rối trong các mối quan hệ, nó sẽ  cho bạn các lời lẽ và tư tưởng tồi tệ về người kia để làm cho mối quan hệ rạn vỡ nhiều hơn. Nếu bạn đang chiến đấu với bệnh tật, nó sẽ cố gắng làm cho bạn tin rằng   Thiên Chúa không hiện diện và chẳng quyết tâm những gì bạn đang chịu đựng. Nếu bạn tìm kiếm Thiên Chúa trong những lúc đó, ma quỷ sẽ làm cho bạn nghi ngờ rằng không biết Thiên Chúa thực sự có tốt lành hay không.

  1. KHI BẠN MỘT MÌNH

Ma quỷ sẽ tấn công bạn khi bạn có một mình   vì nó biết rằng bạn rất yếu đuối khi không có mặt người khác. Nó cũng cho rằng   đó là lúc bạn dễ sa ngã nhất. Kinh Thánh cho biết: “Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa để chịu quỷ cám dỗ” (Mt 4:1). Ma quỷ biết Chúa Giêsu ở một mình nên nó cám dỗ Ngài. Ma quỷ có thể biết được khi nào bạn cảm thấy cô đơn. Những lúc đó, nó muốn bạn tin rằng bạn hoàn toàn đơn độc. Đôi khi bạn cảm thấy như ma quỷ không bỏ mặc bạn một mình, rất cần phải nhớ rằngThiên Chúa luôn ở bên bạn!

  1. HÃY NHÌN LÊN THIÊN CHÚA

Nếu bạn là chi thể trong Nhiệm Thể của Đức Kitô, hãy chắc chắn rằng ma quỷ luôn cố gắng hủy hoại bạn. Khi mọi thứ không thể đổ lỗi cho ma quỷ, có nhiều điều chứng tỏ hậu quả công việc của nó và phải nhận biết khi nào ma quỷ hoạt động trong cuộc sống của bạn. Nếu bạn không cảnh giác, nó có thể hủy diệt bạn và tách rời chúng ta ra khỏi Chúa Cha. Không có gì để ma quỷ yêu thương, nhưng khi bạn được bảo vệ và được canh giữ, bạn có sức mạnh để đẩy lui mọi cuộc tấn công của ma quỷ.

LESLI WHITE

TRẦM THIÊN THU

(chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

Chuẩn bị Mùa Chay – 2017

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Cùng chiến đấu với Chúa Giê-su

 Cùng chiến đấu với Chúa Giê-su

(Suy niệm thứ tư lễ tro)

 Con người vốn mang xác thịt nặng nề, là mục tiêu cho ma quỷ và dục vọng tấn công và xâu xé. Chỉ một phút yếu lòng, thiếu canh phòng là con người bị sa ngã, bị hư hỏng và ươn thối.

Vua Đa-vít vốn là một vị vua khôn ngoan, sáng suốt, tài năng đức độ được liệt vào hàng thánh vương, thế mà chỉ vì hình ảnh của một phụ nữ xinh đẹp là Bát-sê-ba lọt vào tâm trí cũng đủ làm nhà vua chao đảo, rồi sa ngã, phạm tội cướp vợ người khác và giết luôn cả người chồng là U-ri-gia, đang khi anh ta đang anh dũng chiến đấu ngoài chiến trường để bảo vệ ngai vàng của vua! (II Samuen 11)

THU TU LE TRO

Ngay cả Sa-lô-môn, một vị vua có tiếng là khôn ngoan vô tiền khoáng hậu, nhưng cũng vì chiều chuộng các người vợ ngoại giáo nên đã xiêu lòng theo các tà thần của dân ngoại, xây đền thờ cho họ đối diện với núi thánh Giê-su-sa-lem và đã làm sự dữ trước mắt Gia-vê (I Vua 11, 1-13).

Nói chung, dù ở bất cứ địa vị nào, đẳng cấp nào trong xã hội và tôn giáo cũng có những con người danh giá cao trọng đã phải ngã gục thảm thương và hư thối: hư thối vì lòng tham, hư thối vì những bê bối tình dục, hư thối vì lạm quyền, độc đoán…

Thân phận giòn mỏng của con người

Triết gia Platon diễn tả thân phận con người “như cỗ xe có hai ngựa kéo.” Một con ngựa trắng kéo ta về đường lành, đang khi con ngựa đen luôn lôi kéo ta về điều dữ. Thế là con người luôn bị giằng co xâu xé bởi hai thế lực đối kháng nhau.

Ngay cả thánh Phao-lô là vị tông đồ rất nhiệt thành và thánh thiện cũng cảm thấy những dục vọng đen tối làm xáo trộn tâm hồn của ngài. Ngài than thở: “Điều lành tôi muốn, tôi lại không làm; trong khi tôi lại làm những điều tôi gớm ghét …thật khốn thân tôi!” (Roma 7,16)

Thân phận con người cũng như những viên bi tròn được đặt trên những mặt phẳng nghiêng. Sức nặng của viên bi lôi kéo nó lăn xuống thế nào thì cũng chính sức nặng của xác thịt và bản năng hư hèn cũng thường xuyên lôi kéo chúng ta xuống bùn như thế.

Thân phận con người cũng như thân phận chiếc thuyền bơi ngược dòng nước, nếu không vững tay lái, không mạnh tay chèo thì vô vàn đam mê, dục vọng và tham muốn thấp hèn như những dòng nước ngược chảy xiết sẽ dìm chúng ta vào trong dòng xoáy của chúng và xô đẩy chúng ta xuống vực thẳm.

Hãy cùng chiến đấu với Chúa Giê-su 

Sống là tranh đấu. Bao lâu còn chiến đấu, con người mới có thể tồn tại như một con người. Khi ngừng chiến đấu, con người sẽ bị suy thoái và không còn giữ được phẩm chất cao đẹp của mình.

Khi làm người, Chúa Giê-su cũng mang thân phận con người có xác thịt hoàn toàn y như chúng ta. Ngài cũng từng bị cám dỗ y như ta. Những cơn cám dỗ mà hôm nay chúng ta đang phải chịu thì Ngài cũng đã từng chịu, có khác là Ngài đã chiến đấu rất anh dũng, rất kiên cường, không bao giờ lùi bước trước mọi cám dỗ và thử thách. Nhờ đó Ngài luôn luôn chiến thắng và chiến thắng rất vinh quang. Thư Do-thái viết: “Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4, 15).

Lạy Chúa Giê-su,

Ý chí chúng con bạc nhược; xác thịt thì ươn hèn; trong khi đó, các đam mê tội lỗi thì mạnh như vũ bão cuồng phong… nên tự sức mình, chúng con không thể nào vượt thắng các thách thức và cám dỗ.

Vì thế, trong mùa chay nầy, xin cho chúng con tìm đến với Chúa nhiều hơn, gặp gỡ Chúa thường xuyên hơn qua việc cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận bí tích Sám hối và Thánh thể, để nhờ Chúa ban ơn trợ lực, chúng con khỏi bị ngã gục thảm thương nhưng được vững mạnh chống trả ác thần.

Linh mục Inhaxiô Trần  Ngà 

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

BƯỚC VÀO MÙA TẬP LUYỆN CHIẾN ĐẤU THIÊNG LIÊNG

BƯỚC VÀO MÙA TẬP LUYỆN CHIẾN ĐẤU THIÊNG LIÊNG

Lễ Tro, khai mạc Mùa Chay Thánh, bằng nghi thức làm phép tro và mỗi người nhận tro trên đầu, cùng lúc đó sẽ nghe được một trong hai câu Lời Chúa: Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng, hoặc: Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi (SLRM).

Mỗi khi Mùa Chay về, chúng ta nghe văng vẳng bên tai lời Chúa mời gọi: “Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van” (Joel 2,12).

LE TRO

Như thế, hai ý tưởng trong Mùa Chay Thánh luôn song hành với nhau, thứ nhất: chúng ta là những con người yếu đuối, tội lỗi; thứ hai: Thiên Chúa là Người Cha giàu lòng thương xót, Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài sẵn sàng tha thứ và ban cho chúng ta sức mạnh với tình thương.  Vì yếu đuối nên cần đến ơn Chúa, vì tội lỗi nên muốn được Chúa thứ tha, nhưng để lãnh nhận được ơn tha thứ thì cẩn phải trở về với Thiên Chúa trong cầu nguyện, trong chay tịnh và nước mắt, hướng tới tha nhân.  Đó là ba việc phải làm trong Mùa Chay Thánh:

Ăn chay

Cầu nguyện

Và bố thí

Là ba việc cần phải làm trong Mùa Chay, vì nó diễn tả ba chiều kích, ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em.  Tương quan với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay.  Ba tương quan này đồng hành với nhau và thể hiện cùng một lúc trong đời sống thường nhật của người kitô hữu.

Để ba tương quan này gắn kết với nhau, điều kiện đã được Chúa Giêsu nói rõ đó là: nội tâm.  Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay xuất phát từ sâu thẳm của tâm hồn hướng lên Thiên Chúa và hướng đến anh em, chứ không phải là hình thức bên ngoài.  Vì thế, ăn chay, cầu nguyện cũng như bố thì là những việc được làm vì đẹp lòng Chúa, chứ không phải cho người ta thấy.

Trước hết phải khiêm nhường

Ăn chay, tiếng La tinh là jejunium, nghĩa là: “tự nhịn bất kỳ thức ăn nào.”  Khi nhịn chay, con người nhận ra mình lệ thuộc vào Thiên Chúa, “hạ mình” trước mặt Chúa, vì cảm thấy mình mỏng giòn, yếu đuối  như tác giả Thánh vịnh nói: “Phần tôi, những ngày chúng đau yếu, tôi đã từng khoác áo nhặm vào thân, lại ăn chay để hãm mình phạt xác, lòng tôi ấp ủ câu kinh lời nguyện” (Tv 34, 13).

Khiêm nhường khi ăn chay còn để Chúa thấy rằng chúng ta chẳng là gì nếu không có Chúa và thiết tha kêu cầu Chúa: “Bấy giờ tất cả con cái Ít-ra-en và toàn dân đã lên Bết Ên; họ ngồi khóc tại đây trước nhan Ðức Chúa.  Hôm ấy họ ăn chay cho đến chiều.  Rồi họ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an lên trước nhan Ðức Chúa” (x. Tl 20, 26); “Vua Ða-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất; Vua trả lời: “Bao lâu đứa bé còn sống, ta ăn chay và khóc lóc vì ta tự bảo: “Biết đâu Ðức Chúa sẽ thương xót ta và đứa bé sẽ sống!” (2 S 12, 16.22), nhất là nhận biết mình là tội lỗi, là hư vô và cầu xin ơn Chúa thứ tha: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van” (Dn 9, 3).  Việc giữ chay thể xác chỉ có ý nghĩa khi nhịn ăn đi kèm với việc trách xa tội lỗi: “Chúng nói: “Chúng tôi ăn chay, sao Ngài không thấy, chúng tôi hãm mình, sao Ngài chẳng hay?”…  Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế?  Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Ðức Chúa?  Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc,trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? ” (x. Is 58, 1-12), nếu không nó chỉ là phô trương.

Đừng phô trương

Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Các người hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để cho thiên hạ trông thấy… khi các người bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng…  Các ngươi có bố thì, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc ngươi bố thí được giữ kín.  Và Cha ngươi, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho người” (Mt 6, 1-6).

Trong Kinh Thánh, Chúa tố cáo mạnh nhất cái vẻ bề ngoài, hay là giả hình.  Vi khi giả hình, con người giáng cấp Thiên Chúa, họ đặt Ngài xuống hàng thứ hai, đặt tạo vật, công chúng lên chỗ nhất: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thí thấy tận đáy lòng” (1 Sm 16, 7).  Trau dồi dáng vẻ bên ngoài của chúng ta hơn tâm hồn chúng ta có nghĩa là coi người phàm trọng hơn Thiên Chúa.

Như vậy, vẻ bề ngoài hay sự giả hình tự bản chất là một sự thiếu đức tin: nhưng đó cũng là một sự thiếu đức bác ái đối với tha nhân theo nghĩa nó có xu hướng qui những con người thành những kẻ say mê.  Sự giả hình không công nhận phẩm giá thích đáng của họ, nhưng thấy họ tùy thuộc hình ảnh của chính mình.  Thiếu đức tin và thiếu đức bác ái, việc làm sẽ trở nên vô ích, nên không có được công phúc gì.

Sống cậy trông vào Chúa

Sai lầm lớn nhất của nền văn hóa hiện nay là tin rằng con người có thể có hạnh phúc mà không cần Thiên Chúa.  Như thế khi loại bỏ điều sâu thẳm trong con người, người ta chối bỏ điều liên kết con người với Thiên Chúa là Đấng ban sự sống… theo Đức Thánh Cha Phanxicô, đó là một tội ác, vì tước mất của người nghèo sự hiện diện của Thiên Chúa, mà cũng vì xem rằng con người có thể sống như thể không có Thiên Chúa, phủ nhận chiều kích thụ tạo và sự lệ thuộc của con người vào Thiên Chúa, không cậy dựa vào Chúa (x. Sứ điệp Mùa Chay 2014).

Người nghèo bị tước mất Thiên Chúa, và người giầu không cần đến Thiên Chúa, cả hai hạng người này đều được Giáo hội quan tâm.  Giáo hội nhìn đến những ai đang thiếu thốn, không chỉ do nỗi khốn khổ về tâm linh, vốn thường ẩn chứa trong lòng mọi người và làm cho họ day dứt, dù họ có nhiều của cải…  Khốn khổ vật chất là sống trong điều kiện không xứng với phẩm giá con người.  Khốn khổ luân lý là nô lệ cho thói xấu và tội lỗi, có thể dẫn đến khốn khổ vật chất, và luôn đi đến chỗ khốn khổ tâm linh, đó là khi người ta xa rời Thiên Chúa, khước từ tình yêu của Ngài.

Đó là lý do mùa chay năm nay Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi chúng ta suy tư lời của thánh Phaolô : “Thực vậy, anh chị em biết lòng quảng đại của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta: Ngài giàu sang, nhưng đã trở nên nghèo vì anh chị em, để anh chị em trở nên giàu sang nhờ cái nghèo của Ngài” (2 Cr 8,9).  Sự giàu có đích thực của Chúa Giêsu là phận làm Con Thiên Chúa, đã nên người nghèo khó để chúng ta được làm con Thiên Chúa, trở nên giàu có nhờ sự khó nghèo của Ngài.  Con người giầu vì được làm con Thiên Chúa theo bản tính.  Con Thiên Chúa thấy cái nghèo của chúng ta, nên đã thi hành ý Chúa Cha, hạ mình nhập thể, chịu chết, sống lại để cứu chuộc chúng ta.  Chúng ta cũng thế, làm sao để cái nghèo của anh em chạm đến con tim chúng ta, hầu chúng ta có thế giúp người anh em ta đang khao khát ơn cứu độ (x. Sứ điệp Mùa Chay 2014).

Xin Chúa Thánh Thần nâng đỡ những quyết tâm của chúng ta trong suốt hành trình của Mùa Chay Thánh này cho nên.  Amen.

Antôn Nguyễn Văn Độ

Langthangchieutim gởi