CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA GIÊSU

CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA CHÚA GIÊSU

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Linh mục Henri Nouwen, ngòi bút thiêng liêng nổi tiếng có chia sẻ về một lần cha đến bệnh viện thăm một người đang hấp hối vì bệnh ung thư.  Người này còn khá trẻ và là một người rất năng động, làm nhiều việc sinh hoa kết trái.  Ông là người cha chăm lo tốt cho gia đình mình.  Ông là giám đốc điều hành một công ty lớn chăm lo tốt cho cả công ty lẫn các nhân viên của mình.  Hơn nữa, ông còn đóng góp trong nhiều tổ chức khác, kể cả giáo xứ, và với năng lực lãnh đạo, ông thường là người phụ trách, người đứng đầu.  Nhưng bây giờ, con người một thời rất năng động, con người đã từng điều hành mọi sự, lại đang nằm trên giường bệnh chờ chết, không thể tự lo cho các nhu cầu căn bản tự nhiên của mình.

Và khi cha Nouwen đến bên giường bệnh, ông cầm lấy tay cha. Tôi thấy cần phải nhấn mạnh đến sự nản lòng quá đỗi của ông: “Cha ơi, cha phải giúp con!  Con đang chết, và con đang cố bình tâm với chuyện này, nhưng còn có một điều khác nữa: Cha biết con mà, con luôn là người phụ trách, con chăm lo cho gia đình mình.  Con chăm lo cho công ty.  Con chăm lo cho giáo xứ.  Con chăm lo hết mọi chuyện!  Mà giờ con nằm đây, trên giường này, và con không thể tự lo cho mình.  Con không thể tự đi vệ sinh.  Chết là một chuyện, nhưng đây là chuyện khác nữa!  Con bất lực!  Con không thể làm được gì nữa!”

Dù rất giỏi trong việc mục vụ, nhưng cha Nouwen cũng như bất kỳ ai trong chúng ta ở trong hoàn cảnh này, đều bất lực trước lời van lơn của người đàn ông này.  Ông đang trải qua tình trạng bị động đau đớn khổ sở.  Ông bây giờ là một bệnh nhân.  Ông đã từng rất năng động, là người đứng đầu, và bây giờ, như Chúa Giêsu trong những giờ hấp hối, ông bị hạ xuống thành một bệnh nhân, một người để cho người khác làm gì thì làm.  Về phần mình, cha Nouwen cố gắng giúp cho ông thấy mối liên kết giữa những gì ông đang trải qua với những gì Chúa Giêsu chịu trong cuộc thương khó, đặc biệt là ý nghĩa của thời gian bất lực, yếu đuối, và bị động này chính là thời gian để chúng ta có thể trao cho những người quanh mình một điều gì đó thâm sâu hơn.

Cha Nouwen đọc to trình thuật Thương khó trong Tin mừng cho ông nghe, vì những gì ông đang trải qua tương đồng rất rõ với những gì Chúa Giêsu chịu trong những giờ sắp chết của Ngài, mà Kitô hữu chúng ta gọi là “Cuộc Thương khó của Chúa Giêsu.”  Chính xác thì Cuộc Thương khó của Chúa Giêsu là gì?

Là Kitô hữu, chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã trao ban cho chúng ta cả đời sống lẫn cái chết của Ngài. Nhưng, chúng ta lại quá thường không phân biệt được giữa hai điều này.  Chúa Giêsu trao ban đời sống của Ngài cho chúng ta theo một cách tích cực và chủ động hành động, nhưng Ngài trao ban cái chết của Ngài cho chúng ta theo một cách khác, là qua sự bị động, và thương khó của mình.

Chúng ta thường dễ hiểu lầm ý nghĩa của Cuộc Thương khó của Chúa Giêsu.  Khi dùng từ Thương khó (Passion) đế nói đến đau khổ của Chúa Giêsu, chúng ta tự nhiên liên kết Thương khó với đau đớn, nỗi đau bị treo trên thập giá, bị hành hạ, bị đánh đòn, bị đóng đinh và bị sỉ nhục trước đám đông.  Cuộc Thương khó của Chúa Giêsu có nói đến những điều này, nhưng chúng ta cần hướng từ “Thương khó” đến một trọng tâm khác nữa. Thương khó (Passion) có gốc La Tinh là passio, nghĩa là bị động, và đây chính là ý nghĩa thực sự.  Từ bệnh nhân (patient) cũng từ gốc này mà ra.  Do đó, trình thuật Thương khó mô tả lại sự bị động của Chúa Giêsu, mô tả việc Ngài trở nên một “bệnh nhân.”  Ngài trao ban cái chết của mình cho chúng ta qua sự bị động của Ngài, cũng như trước kia Ngài trao ban đời sống cho chúng ta qua sự chủ động của Ngài.

Thật vậy, Tin mừng theo thánh Matthêu, Máccô, và Luca đều có thể chia thành hai phần riêng biệt: Trong mỗi Tin mừng, chúng ta có thể chia tất cả mọi chuyện trước khi Chúa Giêsu bị bắt trong vườn Giếtsêmani về một bên, và gọi phần Tin mừng này là: Sự chủ động của Chúa Giêsu Kitô.  Rồi phần còn lại mà chúng ta gọi là “cuộc Thương khó” có thể gọi là: Sự bị động của Chúa Giêsu Kitô.  Điều này thực sự sẽ giúp làm rõ một đặc nét quan trọng là: Chúa Giêsu trao ban đời sống của mình cho chúng ta qua sự chủ động, nhưng lại trao ban cái chết của mình cho chúng ta qua sự bị động.  Do đó: Cho đến trước khi bị bắt, Tin mừng mô tả Chúa Giêsu chủ động, làm mọi sự, là người dẫn dầu, rao giảng, dạy dỗ, làm các phép lạ, an ủi dân chúng.  Nhưng từ sau khi bị bắt, tất cả mọi động từ đều chuyển sang thể bị động: bị lôi đi, bị giới cầm quyền hành hạ, bị đánh, được vác đỡ thập giá, và cuối cùng là bị đóng đinh vào thập giá.  Sau khi bị bắt, như một bệnh nhân trong phòng nan y liệt giường, Chúa không còn làm gì nữa, nhưng là người khác làm cho Ngài và làm với Ngài.  Ngài bị động, là một bệnh nhân, và trong sự bị động đó, Chúa Giêsu trao ban cái chết của Ngài cho chúng ta.

Trong chuyện này, có nhiều bài học cho chúng ta, trong đó có một sự thật rằng: sự sống và tình yêu được trao ban không chỉ trong những gì chúng ta làm cho người khác, nhưng có lẽ thâm sâu hơn, còn là trong những gì chúng ta nhận lấy những khi chúng ta bất lực, khi chúng ta không còn lựa chọn nào khác ngoài là một bệnh nhân, một người bị động.

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Tĩnh Tâm Thánh Linh, Mùa Chay Lưới Về Nhiều Cá Lớn.

Tĩnh Tâm Thánh Linh, Mùa Chay Lưới Về Nhiều Cá Lớn.

 Tác giả: Tân Trần

Ba ngày tĩnh tâm M ùa Chay vào ngày 24, 25, 26 th áng ba năm 2017, tại Houston được Chúa cho tới 3 con cá lớn thuộc loại nặng ký và ngoại cỡ, kế đến số cá nhỡ cũng đến chục con, còn loại cá con như trường hợp của chúng tôi, có lẽ không thể kể cho hết. Cám ơn Chúa về một kỳ bội thu. Cuộc tĩnh tâm được tổ chức như thường lệ tại Giáo xứ St. Christopher, thành phố Houston, Texas, do Cha Giuse Lê Thu làm chánh xứ. Phụ trách chương trình, Cha Phê rô – Ma ri a Bùi Công Minh, giảng thuyết có quý cha Duy An Nguyễn Hùng, Cha Đoàn đình Bảng, Cha Trần Sơn Steven, Dòng Chúa Cứu Thế, Cha Andre Đỗ Hiến.

Các Cha nhấn mạnh đến sự kiện Chúa Cha đã chọn chúng ta và để ý đến ta từ muôn thuở, trước khi ta được sinh ra. Chúa Cha gởi Người Con duy nhất trên Thiên Đàng đến trần gian chịu vô vàn sỉ nhục, đau đớn để gánh tội cho ta. Ngài đem đến vô số cơ hội để mở sự mù lòa cho ta, chữa tình trạng bại hoại của ta, được có Chúa và ơn cứu độ của Ngài là một niềm vui lớn lao rất tuyệt vời. Niềm vui đó ở đây ngay vào giờ này dành cho bất kỳ ai mở lòng đón nhận ơn, Chúa đang chờ đợi ta, Mẹ đang khuyến khích ta hãy đến, hãy quay về với địa vị làm con Thiên Chúa vốn rất giầu có và phong phú …

Tĩnh tâm đã thu vào lưới nhiều cá, con cá kình loại một là trường hợp của một em thanh niên khoảng 16 tuổi vô thần, không tin vào sự hiện diện của Thượng Đế. Em vẫn thường tuyên bố “ làm gì có Thượng Đế hiện hữu, there is no God existing”. Tuy nhiên, em nể Mẹ và bà Ngoại thường xuyên năn nỉ em rằng, hãy đi tham dự tĩnh tâm mùa Chay. Em chịu  đến cho có vì tham dự một kỳ tĩnh tâm nói tiếng Việt mà em “không hiểu gì mấy”, em thấy có đông “người Việt Nam, họ đang ca ngợi Đức Chúa” trong tinh thần hăng say quá, không khí cũng hào hứng và vui cho họ, nhưng không thoải mái lắm đối với em. Nhưng rồi, khi tiến lên đến gần bàn thờ, nơi đang để mặt nhật chầu Chúa Thánh Thể, thì em cảm thấy nơi đây không bình thường như mình nghĩ, có sự hiện diện thật của một ai đó mà sức nóng ấm lan tỏa trong luồng ánh sáng chói, cho dù đèn chiếu ở hội trường không được mạnh lắm. Sự hiện diện của vị này là thực vì có một quyền năng nào đó đang hiện diện chung quanh em rất khó diễn tả cho đủ. Rồi khi em được Cha đặt tay thì em ngả ra và được nghỉ ngơi ra trong Chúa. Em cảm được như có ai đó đang nói với em, “Chúa Giêsu yêu em – Jesus love you” kèm theo có quà tặng là sự vui mừng và bình an bao phủ, làm cho em không thể nào phủ nhận được sự hiên diện của Chúa Giêsu kính yêu. Em hứa từ nay sẽ luôn đi theo Chúa giống như trường hợp của Mẹ và Bà Ngoại vốn là đạo Phật nhưng nay đã theo Chúa. Em cảm thấy “Chúa Giêsu thật là cool !”

Con cá to thứ hai là một chị trẻ tuổi, đang chuẩn bị đám cưới theo chồng tương lai. Chị làm chứng về hành trình đức tin của mình:

  • Tôi vốn xuất thân từ một gia đình rất sùng mộ Đạo Phật, Mẹ tôi đi Chùa và tụng kinh, làm công quả thường xuyên. Tôi thề là không bao giờ làm dấu thánh giá hay cầu nguyện với Chúa cho dù có yêu Anh và phải lấy chồng theo đạo Công Giáo. Năm ngoái, tôi và Anh gặp khó khăn trong việc làm, chúng tôi đi tìm kiếm việc khắp nơi nhưng không làm sao cho Anh có việc làm, dù đã cầu trời khẩn Phật nhiều. Kẹt quá, tôi đành nghe lời mấy chị bạn Thánh Linh đi tham dự tĩnh tâm. Các chị nói, “em có mất gì đâu, hãy cứ đi cho biết sự linh nghiệm của Chúa”. Tôi đi và thực sự tôi đã có niềm vui gặp gỡ Chúa, rồi sau kỳ tĩnh tâm, người chồng tương lại có được việc làm mà anh ước muốn. Chúa cho tôi được biết sự hiệu nghiệm của việc cầu khấn với Chúa và gia nhập Đạo Chúa thật là tốt, Chúa rất linh nghiệm. Tôi đã có lúc bằng lòng đi theo Chúa như đã hứa nguyện với Chúa khi trước, nếu Chúa giúp giải quyết cho công việc của Anh được như ý thì tôi xin theo làm con của Chúa. Tuy nhiên, ma quỷ cũng đánh phá chúng tôi không ngớt. Khi tôi xin đi học lớp Giáo lý Công Giáo Tân Tòng thì bao nhiêu là khó khăn, thử thách dồn nhau tuôn đến, rắc rối nhiều quá. Lớp thì tôi bị gia đình mình ngăn cản theo Đạo Công Giáo.  Tôi tự nhủ, theo Chúa phiền phức quá, bị đánh phá dữ dội quá, cho nên tôi dừng lại, thôi không muốn theo Chúa nữa. Rồi các chị trong nhóm Thánh Linh ở Austin Texas, năm nay lại đến, rủ rê tôi tham dự Khóa Thánh Linh lần thứ hai. Ngày đầu tôi né, không muốn Cha dặt tay, không muốn mình bị ngã té và đầu phục Chúa vì theo Chúa bị đánh phá khổ quá. Sang đến ngày thứ hai thì có niềm vui và an tịnh ở trong tôi. Khi Cha cho mọi người bịt mắt bằng một giải nhựa đen và diễn lại cảnh của người mù khi xưa đã được Chúa cho thấy trở lại, được sáng mắt… Tôi được các anh chị phục vụ dẫn đường, giống như người mù ở gần thành Giê ri cô khi xưa, tôi đi từ ghế, dò dẫm tiến lên và  đụng chạm vào ảnh Lòng thương xót Chúa thì tôi bừng mở trí hiểu là Chúa yêu tôi và các thử thách đang gặp phải có là gì đâu so với tình yêu và quyền năng của Chúa. Từ lúc đó, tôi muốn được Chúa thay đổi tôi, lòng bức rứt vì đã mù lòa không thấy Chúa, rồi bỏ Chúa là đấng lúc nào cũng yêu tôi và mong tôi quay về với tình yêu thương của Chúa. Tôi đã khóc rất nhiều, ăn năn vì sự bội nghĩa, vô ơn và thiếu lòng tin của mình. Tôi chịu để cho Cha đặt tay cầu nguyện, khi Cha đặt tay, có một luồng điện nóng chạy qua đầu tôi, rồi Chúa cho tôi được ngả ra, nằm khóc hồi lâu trong sự vui mừng vì có Chúa yêu mến tôi. Đêm hôm đó tôi ngủ một giấc thật là ngon không còn trăn trở nữa. Giờ đây, tôi lâng lâng như đang ở trên mây. Tôi biết là dù có khó khăn nào, Chúa cũng đi cùng với tôi và giúp tôi vượt qua trở ngại, giúp tôi được làm người con hiếu thào của Chúa. Tôi như được sáng mắt và biết rõ là mình sẽ không thể nào sống mà không có Chúa và tình yêu của Đáng đáng kính yêu. Lúc trước tôi theo Chúa vì có chuyện cần nhờ, xong chuyện thì thôi “đường con con đi, đường Chúa, Chúa đi”. Còn bây giờ, tôi theo Chúa vì tôi yêu Chúa, yêu sự dậy dỗ của Lời Chúa và không thể thiếu vắng Người trong gia đình tương lai của tôi.

Con cá lớn thứ ba của vụ mùa thu hoạch là một chị đã theo Chúa một thời gian độ mươi năm, nhưng nay không còn tin vào Chúa như xưa. Lòng tin mai một và sa sút gần hết, gia đình Chị M. không được vui vẻ, thường xuyên gây gỗ và giữa vợ chồng không còn một chút quyến luyến nào. Không khí trong gia đình rất ngột ngạt, căng thẳng, nhạt nhẽo, lạnh lùng, không thể nào chịu nỗi, chị bị căng thẳng thần kinh và mất ngủ thường xuyên, uống thuốc an thần vẫn không ngủ được, đau buồn dồn nén làm cho chị không còn muốn sống nữa. Chị tự nhủ:

  • Khi nào đứa con út lên đại học thì chị sẽ tự kết liễu cuộc đời vô nghĩa của mình. Cuộc sống này vô vị và đau khổ nhiều quá mà.

Chị được một Chị bạn lôi kéo đi tham dự tĩnh tâm. Ngay trong giờ phút đầu tiên, các bài hát của Ca Đoàn sao mà diễn tả đúng tâm trạng của Chị “Con cần Chúa giữa bao đau khổ tiếp nối triền miên”. Khi Cha cho mọi người bịt mắt để diễn cảm  lại tình trạng người mù thành Giê ri cô được Chúa cho sáng mát, Chị bừng tỉnh và tự hỏi tại sao mình không tìm đến Chúa và đặt trọn vẹn hoàn cảnh của mình vào tay vị Cứu tinh và Bác sĩ tài giỏi số một là Chúa Giêsu. Chị cảm thấy mình quá dại dột khi bỏ Chúa, nước mắt tuôn không dứt. Khi được Cha đặt tay, thì chị ngã ra và cảm thấy có Chúa ôm ấp như Ngài an ủi cho các đau thương của mình. Một sự bình an xâm chiếm tâm hồn làm cho chị dễ dàng tha thứ cho người chồng mà chị nghĩ rằng đã và đang gây đau khổ quá sức chịu đựng của mình. Đã mấy năm qua, chị chưa bao giờ cảm thấy thư thái như hiện giờ. Đêm đó, chị ngủ một giấc đã đời không cần đến thuốc men sau nhiều đêm không ngủ đủ giấc cho dù đã sử dụng nhiều loại thuốc ngủ. Sáng ngày sau khi Chị đang ngồi ca nguyện nhớ đến Chúa, một chị trong Nhóm Thánh Linh chạy đến, thủ thỉ vào tai “Chị bị đau lưng lâu năm rồi, phải không? Để em cùng cầu nguyện với Chị”, ‘nói rồi chị ôm tôi và cầu nguyện trong tiếng lạ. Lưng của tôi nhẹ tênh và nay tôi có thể nhảy múa ca ngợi Chúa mà không thấy đau hay nhức mỏi nữa. Chúa chữa lành cho tôi cả về thể lý lẫn tinh thần. Tôi sẽ không dám bỏ Chúa nữa”.

TINH TAM THANH LINH

Vể việc Chúa chữa lành bịnh trong thân xác trong kỳ tĩnh tâm Canh Tân Đặc Sủng này, đã có một bác đau chân rất nặng đến nỗi con cái, bác sĩ  khuyến cáo không nên bước ra khỏi gường nhưng về phần Bác, Bác nói  “không đi ca ngợi Chúa thì thèm khát không chịu nổi” và Bà cố lết đi. Lạ thay đến nơi Bác nhảy múa, tôn vinh Chúa hăng hái, mà chẳng thấy cơn đau trước đây vốn dĩ, luôn bộc phát mỗi khi cử động, nay bác có thể nhảy mừng, đi khắp phòng và quì gối mà không bị đau đớn. Bác lên trước cử tọa làm chứng và hoan hỉ tung hô quyền nằng kỳ diệu của Chúa dành cho hết mọi người tham dự trong đó có Bác.

Kỳ công khác của Chúa, Ngài chữa cho một thiếu nữ bị bệnh trầm cảm được có cảm giác trở lại. Em kể, trước đây đã mấy năm, tự nhiên em cảm thấy buồn chán, cô độc. Người Em không có cảm giác gì, ngơ ngơ như không có hồn, Em phải nghỉ học, nghỉ làm, Có khi sực tỉnh, em chỉ ước sao được trở lại đời thường như các bạn cùng trang lứa mà không được. Không có đêm nào Em ngủ được an giấc vì sợ hãi. Khi được Cha đặt tay cầu nguyện thì Chúa cho em tỉnh táo, không còn tư lự và buồn bã nữa. Em thấy mình luôn có niềm vui nhẹ nhàng và chạy quanh mong giúp cho mọi người qua việc chụp hình giúp họ lưu lại những thời khắc đáng ghi nhớ của một mùa Tĩnh Tâm đầy ắp sự phấn khich, chụp ảnh vào trong chính iphone, smart phone của mỗi người. Em thật là tươi tắn, một ngày qua, lúc nào Em cũng cười, ăn ngon và ngủ thẳng giấc. Trông Em xinh xắn như một cô thiếu nữ mười tám, đôi mươi.

CHA BUI C MINH

Có ba Chị thuộc diện “Một Mẹ nuôi con – Single Mom”, do chồng qua đời hay bỏ nhà ra đi, tham dự trong khóa Tĩnh Tâm. Các Chị được ơn bằng an, yêu mến Chúa và quyết tâm giới thiệu về Chúa sau khóa tĩnh tâm cho con cái, cho chúng biết đấng nào làm cho họ không còn sợ hãi, buồn bã, thất vọng, không còn than thân trách phận nhưng can đảm, vui mừng, bằng an vác thánh giá theo chân Chúa trong việc phục vụ người thân yêu. Họ muốn làm chứng là chỉ có Chúa mới có thể làm cho họ nên vui tười như vậy mà thôi, không người phàm hay thần thánh nào khác có thể làm điều tương tự.

Một Bác trai lên chia sẻ với cử tọa rằng mình đã từng phạm tội trong mẫy chục năm trường với con số nhiều hơn hết mọi người trong phòng cộng lại, nhưng ngày thứ hai Bác đã khóc ăn năn, đến ngày thứ ba thì khóc vì cảm kích sự nhân từ của Chúa và chấp nhận để cho Chúa tẩy rửa, thay đổi mình hoàn toàn trong đời sống mới. Bác cho biết đã bị đốn ngã sự cao ngạo và chai lì trong tội nhờ sự thương xót vô bờ bến của Chúa, chính thực đây cũng là ơn đổi mới đời sống trong thần khí Thiên Chúa, ơn tiêu biểu mà hâu hết mọi người tham dự đều lãnh nhận đươc trong niềm vui phấn khởi:

  • Nhưng ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rôma 5:20).

Kế đến, Chúa ban cho một bác được khỏi bệnh đau đầu. Một anh thanh niên to cao, lực lưỡng trông rất mạnh mẽ, hai cánh tay anh xâm trổ nhiều hình, nhưng lại hiền khô, luôn mỉm cười tươi vì được ơn yêu mến Chúa và ơn hiền hòa vui mừng. Ba thanh niên khác được Chúa chữa khỏi căn bệnh thế kỷ, “ghiền xì ke” trong các khóa tĩnh tâm Thánh Linh trước đây cũng đứng lên làm chứng cho tình thương xót của Chúa.

Thiết nghĩ, cũng phải kể đến ơn an bài của Chúa qua sự yểm trợ của cả Giáo Xứ St. Christopher về tinh thần và vật chất, sự hy sinh, ân cần của các Bác, các Anh Chị Em trong nhóm phục vụ nhà ăn, họ làm các món ăn vừa ngon vừa nóng sốt và phong phú hấp dẫn với lệ phí hoàn toàn tùy lòng hảo tâm, không có lệ hạn. Công việc phục vụ được chuẩn bị quá chu đào từ 5-6 tuần trước đó. Món ăn rất vừa miệng, thực khách ai cũng khen tấm tắc.

Trong dịp tĩnh tâm này, các em thanh niên thuộc thế hệ thứ hai của nhóm Canh Tân giáo xứ Ngôi Lời chúng tôi đến tham dự khá đông đủ. Họ đều được chịu phép rửa trong Chúa Thánh Linh hoặc được gia tăng tình yêu Chúa cao độ, chúng tôi rất kỳ vọng ở điều này vì Nhóm rất cần sự mới mẻ, tươi trẻ để thay đổi sự xưa cũ và chậm chạp của cả nhóm, kết quả là, theo sự sắp đặt của Chúa, Ngài gởi các em trẻ trung, mới toanh tới với các Nhóm. Các em nhận được các câu Lời Chúa ý nghĩa trong Thánh Lễ.

Tôi vừa cất tiếng kêu lên cùng CHÚA, Chúa liền đáp lại từ núi thánh của Người.

Tôi nằm xuống và tôi thiếp ngủ, rồi thức dậy, vì CHÚA đỡ nâng tôi. (Thánh Vịnh 3: 5-6)

Rồi ra, tôi sẽ có dịp trở lại với quí Bạn, tường trình, một khi trong ơn Chúa các em mới, trẻ trung nảy sinh muôn vàn hoa trái Thánh Linh thánh thiện, vui tươi, hiền hòa , tiết độ nhất là các hoạt động mới mẻ  tạo sinh khí cho cả Nhóm Thánh Linh chúng tôi ở Giáo Xứ Ngôi Lời.  Cám ơn Chúa, tôi tin chắc rằng mình sẽ có dịp hầu chuyện cùng quí Bạn !

Cũng không quên hẹn gặp nhau trong kỳ tĩnh tâm tháng 9, 2017 dịp lễ Lao Động tại giáo xứ Đức Mẹ La Vang, Houston.

 Xin Chúa Thánh Thần ban muôn vàn hoa trái Canh Tân Đặc Sủng trên chúng mình.

God bless you

thanks,

Tân Trần

CHẾT NHƯ CHÚA GIÊSU – ĐỨC TIN VÀ NỖI SỢ

CHẾT NHƯ CHÚA GIÊSU – ĐỨC TIN VÀ NỖI SỢ

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Một người lính thường chết mà không sợ hãi, còn Chúa Giêsu chết trong sợ hãi.  Iris Murdoch đã viết những dòng này và sự thật này có thể khiến bạn thấy khó chịu.  Tại sao lại thế?  Nếu ai đó chết với đức tin sâu đậm, không phải người đó chết với một sự điềm tĩnh và tin tưởng nhất định nhờ đức tin hay sao?  Chẳng phải ngược lại cũng hợp lý, chẳng phải một người chết mà không có đức tin thì sẽ chết với tâm hồn sợ hãi hơn sao?  Và có lẽ bối rối nhất là: Tại sao Chúa Giêsu, mẫu mực của đức tin, lại chết trong sợ hãi, kêu lên trong đau đớn như thể mất đức tin?

Vấn đề nằm ở trí hiểu của chúng ta.  Có lúc chúng ta có thể rất ngây thơ về đức tin và động lực của đức tin, nghĩ rằng tin vào Chúa là tấm vé cho sự bình an và hân hoan đời này.  Nhưng đức tin không phải là con đường đến với sự êm đềm dễ dãi, cũng không bảo đảm rằng chúng ta sẽ ra khỏi cuộc đời này trong êm đềm.  Và điều này có thể làm chúng ta bối rối lung lay. Một ví dụ là:

GIESU DONG DINH

Ngòi bút thiêng liêng trứ danh, Henri Nouwen, trong quyển sách “Trong Ký ức” đã chia sẻ một câu chuyện quay quanh cái chết của mẹ ngài.  Cha Nouwen, một người gốc Hà Lan, đang dạy học ở Hoa Kỳ, thì được tin mẹ ngài đang hấp hối ở quê nhà.  Trên chuyến bay từ New York về Amsterdam, ngài suy ngẫm về đức tin và đức hạnh của mẹ mình, và kết luận bà là một phụ nữ Kitô nhất mà ngài từng biết.  Với suy nghĩ đầy khuây khỏa đó, ngài hình dung mẹ sẽ chết thế nào, những giờ cuối đời của bà sẽ đầy đức tin và êm đềm, và đức tin êm đềm đó sẽ là lời chứng cuối cùng của bà cho gia đình.

Nhưng, sự thật không phải vậy.  Không những không êm đềm không sợ hãi, những giờ cuối cùng của mẹ ngài dường như bị kìm kẹp trong một bóng tối không giải thích được, một sự bất an nội tâm sâu sắc, và một đều gì đó có vẻ như đối lập với đức tin.  Điều này khiến cha Nouwen quá bối rối.  Tại sao lại thế?  Tại sao mẹ ngài lại bất an trong khi cả cuộc đời mẹ là người với đức tin quá mạnh mẽ?

Ban đầu điều này khiến ngài hoang mang sâu sắc, cho đến khi một nhận thức sâu sắc hơn về đức tin mở ra.  Mẹ ngài là một phụ nữ đã cầu nguyện mỗi ngày, xin Chúa ban ơn để bà sống như Chúa đã sống, và chết như Chúa đã chết.  Vâng, có vẻ như lời cầu nguyện của bà đã được lắng nghe.  Bà đã chết như Chúa Giêsu. Dù có đức tin vững như đá, nhưng Chúa Giêsu đã đổ mồ hôi máu khi nghĩ đến cái chết của mình, và trên thập giá, Ngài đã kêu lên thống thiết, cảm giác rằng Chúa Cha đã bỏ mình.  Nói tóm lại, lời cầu nguyện của bà đã được nhậm lời.  Bà đã xin Chúa Giêsu cho bà chết như Ngài đã chết, và với sự mở lòng đón nhận của bà, lời nguyện xin của bà đã được nhậm lời, dù cho gia và bạn bè cảm thấy thật bối rối vì họ tưởng mọi chuyện sẽ khác thế kia.  Đây cũng là cách mà Chúa Giêsu đã chết, và cũng là những gì mà gia đình và các môn đệ của Chúa cảm thấy.  Đây không phải là những gì mà người ta tưởng tượng về cái chết của một con người đầy đức tin.

Nhưng một nhận thức thâm sâu hơn về đức tin lại đảo ngược cái lập luận ấy của con người. Nhìn vào cái chết của mẹ cha Henri Nouwen, câu hỏi đặt ra không phải là, làm sao chuyện này lại xảy đến với bà như vậy?  Vấn đề nằm ở chỗ khác kia.  Tại sao điều này lại không xảy ra với bà chứ?  Đây là những gì bà đã cầu nguyện xin, và là một đấu sĩ thiêng liêng xin Chúa gởi đến cho mình thử thách cuối cùng, vậy tại sao Chúa lại không ban cho bà cơ chứ?

Điều này cũng tương tự như những hoài nghi đau khổ của Mẹ Teresa.  Khi nhật ký của mẹ được xuất bản và cho thấy đêm tối linh hồn của mẹ, nhiều người đã bị sốc mà hỏi nhau: Làm sao chuyện này lại xảy ra với mẹ chứ?  Tôi tin rằng, một nhận thức thâm sâu hơn về đức tin sẽ hỏi khác đi: Tại sao điều này lại không xảy đến với mẹ chứ, bởi mẹ có đức tin và hoàn toàn mong mỏi được đi vào những cảm nghiệm của Chúa Giêsu một cách trọn vẹn?

Nhưng, vẫn có những phức tạp khác.  Có lúc, một người có đức tin sâu sắc lại không chết như thế, mà ra đi trong êm đềm không sợ hãi, được đức tin nâng đỡ như chiếc phà che chở trong cơn bão.  Tại sao điều này lại xảy đến với một số người, số khác thì không?  Chúng ta không có câu trả lời.  Đức tin không đặt tất cả chúng ta vào cùng một băng chuyền.  Có lúc những người với đức tin sâu sắc, chết như Chúa Giêsu đã chết, trong bóng tối và sợ hãi, và có lúc người có đức tin sâu sắc chết trong bình an và êm đềm.

Elizabeth Kubler-Ross cho rằng mỗi một người chúng ta đi qua năm giai đoạn rõ ràng của hấp hối, cụ thể là: chối bỏ, giận dữ, thương lượng, khủng hoảng, và chấp nhận.  Kathleen Dowling Singh lại cho rằng những gì mà Kubler-Ross gọi là sự chấp nhận, cần có một sắc thái sâu hơn nữa.  Theo Singh, phần gay go nhất của sự chấp nhận này, là một sự quy phục hoàn toàn, và trước sự quy phục đó, một số người sẽ trải qua bóng tối nội tâm thâm sâu mà người ngoài nhìn vào sẽ thấy như sự tuyệt vọng.  Chỉ sau khi đó, họ mới cảm nghiệm niềm vui và hân hoan.

Tất cả chúng ta đều cần học bài học mà cha Nouwen đã học được bên giường hấp hối của mẹ mình.  Cũng như đức mến, đức tin có nhiều thể thức, và có lẽ không thể phán định đơn giản từ bên ngoài.

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Langthangchieutim gởi

“Đẹp lắm! Trên đời những vấn vương,”

Suy Tư Tin Mừng Trong tuần thứ 5 mùa Chay năm A 02/4/2017

 Tin Mừng: (Ga 11: 3-7,17.20-27.33b-45)

Hồi đó, hai cô cho người đến nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng.” Nghe vậy, Đức Giêsu bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.”

Đức Giêsu quý mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô.

Tuy nhiên, sau khi được tin anh La-da-rô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở. Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ: “Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê! “

Khi đến nơi, Đức Giêsu thấy anh Ladarô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi.

Vừa được tin Đức Giêsu đến, cô Mácta liền ra đón Người. Còn cô Maria thì ngồi ở nhà. Cô Mácta nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.” Đức Giêsu nói: “Em chị sẽ sống lại!” Cô Mácta thưa: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.” Đức Giêsu liền phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?” Cô Mácta đáp: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.”

Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến. Người hỏi:”Các người để xác anh ấy ở đâu?” Họ trả lời: “Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem.” Đức Giêsu liền khóc.36 Người Do-thái mới nói: “Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!” Có vài người trong nhóm họ nói: “Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư?” Đức Giêsu lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại. Đức Giêsu nói: “Đem phiến đá này đi.” Cô Mácta là chị người chết liền nói: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày.” Đức Giêsu bảo: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giê-su ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.” Nói xong, Người kêu lớn tiếng: “Anh Ladarô, hãy ra khỏi mồ!” Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Đức Giêsu bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.”

Trong số những người Do-thái đến thăm cô Maria và được chứng kiến việc Đức Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người.

&    &   &

Đẹp lắm! Trên đời những vấn vương,

Chao ôi! Thiên lí một con đường.”

(dẫn từ thơ Lưu Trọng Lư)

Mai Tá lược dịch.

Bởi vấn vương, nên đời người vẫn là con đường của thiên lý. Của, những vấn vương, thương tình bầu bạn rải khắp nhân gian, như trình thuật nay còn nói.

Trình thuật, nay thánh Gioan lại nói đến tình bạn, Chúa vấn vương nhiều tình thương. Lòng Chúa xót thương, vấn vương tình người bạn vừa mới còn đó nay khuất bóng đi vào chốn ngủ vùi, khiến Ngài phải ra tay chữa chạy. Nhưng thiên lý đời người vẫn phải đương đầu với nỗi chết, theo cung cách khác biệt. Khác biệt ở chỗ: người có kinh nghiệm về chết chóc lại đã đặt cuộc đời mình vào niềm tin vô bờ bến. Nhờ có tin, con người mới thấy được chân lý của sự sống đang đi dần vào chốn ngủ vùi rất miên viễn. Nhờ niềm tin, người người mới hiểu được nhiệm tích vượt qua là để sống lại. Sống, bằng một hành trình băng qua thế giới khác. Hành trình đó, là cởi bỏ những lớp vỏ bọc bên ngoài để rồi người người dám đón nhận nỗi chết đang trờ tới.

Không kể về yếu tố siêu nhiên, đạo giáo, người người sẽ nhận ra nỗi chết chính là con đường thiên lý rất tự nhiên buộc Lazarô khi xưa và nay là mọi người phải đi qua. Tựa như hạt cải có rơi xuống đất và chết mục, nó mới đạt được hành trình tiến triển để vươn thành cây cải cao lớn. Cứ sự thường, con người vẫn có khuynh hướng chối bỏ khiá cạnh bình thường/tự nhiên con đường thiên lý vốn dẫn tới nỗi chết dần mòn, ở con người.

Thiên Chúa ban cho mỗi người quà tặng quý giá là chính sự sống, để ta tôn trọng. Khi tặng ban, Ngài cũng kèm theo đó một hệ thống biến cải để hoàn thiện sự sống của mỗi người bằng việc chết dần mòn như một tiến trình tăng trưởng cần có, ở mọi loài. Quà Chúa ban, Ngài không chỉ ban tặng cho cá nhân riêng một ai để rồi mỗi người cứ khư khư giữ nó suốt đời mình. Quà Ngài ban, là ban tặng cả và trời đất vũ trụ, theo qui cách rất tự nhiên, thực tiễn. Quà Ngài ban, đã hiện tỏ cả vào lúc trước khi ta lọt lòng mẹ. Và, nơi quà tặng bình thường/tự nhiên ấy, luôn có qui luật của sự chết dần mòn ngõ hầu sẽ còn diễn tiến suốt đường thiên lý, của cuộc đời.

Là hữu thể sống, con người không mặc lấy cho mình qui trình khép kín, tự thấy mình đầy đủ, nhưng vẫn là qui trình mở để sống với hệ thống mở rộng khác còn lớn nhiều, là thiên nhiên. Chính vì thế mỗi cá nhân riêng lẻ tự thấy không thể tập trung mọi sự, kể cả sự sống, cho riêng mình. Tức, có sống là phải có chết. Ít ra, là chết dần mòn. Bởi, mỗi cá nhân là thành phần của cộng đồng vũ trụ, trong đó sự chết là chuyện bình thường, rất tự nhiên. Cá nhân con người không thể chối từ tính bình thường/tự nhiên của sự chết. Chí ít, là chết dần mòn.

Ở tuần thánh, tín hữu Đức Kitô thường suy tư cùng một kiểu như thế khi nghĩ về cái chết của Đức Giêsu. Đó là thói quen cho rằng: chắc vì sự cố nào đó xảy đến khiến Chúa mới bị bắt và bị bách hại cho đến chết, đến dần mòn. Có người còn nghĩ: Chúa chết là do bọn xấu tra tay làm chuyện tày trời để Ngài phải tức tưởi đi vào chốn ngủ vùi. Và, họ coi cái chết của Chúa là do lỗi tội của con người mà ra. Thực tình, ít ai hiểu được tính bình thường/tự nhiên của con đường “thiên lý” những chết dần Chúa chấp nhận. Ngài chấp nhận, để thực hiện ý Cha khi Cha muốn tạo dựng sự sống cho muôn loài.

Chúa chấp nhận liệt mình vào với những người bé nhỏ, rất dễ chết. Thực sự, Chúa chấp nhận đường thiên-lý-những-chết-dần chẳng vì bọn xấu dám ra tay trừ khử Ngài, cho bằng Ngài không muốn thay mặt loài người sửa đổi luật bình thường/tự nhiên mà Cha Ngài tạo ra. Ngài chết dần, là vì yêu thương con người. Ngài muốn trở thành giống hệt người phàm. Nhất quyết không rút lui khi thấy có khó khăn, bực bõ, chết chóc. Và, bằng vào việc chấp nhận đường-thiên-lý-rất-chết-dần như con người, Ngài mới tỏ cho mọi người thấy Ngài yêu thương họ biết chừng nào.

Ốm đau tật bệnh, cũng như thế. Bệnh là khủng hoảng cá nhân. Tật, là ngõ bí khó tránh thoát. Khi mắc phải tật/bệnh, ta không còn thấy mình là mình nữa, nhưng đã mất đi cái ‘mình’ ấy và cứ hy vọng sẽ đạt trở lại tính chất ‘riêng tây’ của cái “mình” ấy. Có thể đạt được hoặc không thì vẫn là chuyện bình thường, tự nhiên.

Người mắc phải tật/bệnh sẽ cảm thấy may mắn nếu có ai ở cạnh, không nói ra, những vẫn gửi cho mình thông điệp nào đó để nói rằng: sự việc xảy ra như thế là chuyện bình thường, dễ hiểu. Kinh nghiệm thương đau là cái gì có thật, ai cũng biết. Chẳng riêng gì chỉ mình thôi. Đến khi bạn bè hỏi han/thăm viếng mới vỡ lẽ ra rằng thông điệp của đường thiên-lý-rất-chết-dần được đón nhận rất thông suốt. Cũng chẳng có gì phải sợ. Chẳng sợ đau đớn, cô đơn cho đến chết.

Điều người bệnh cần, không phải ai cũng có thể tâm tình, dù riêng tư. Cũng chẳng do người chạy chữa đưa ra lý lẽ để “giải thích” về căn bệnh. Nhưng, chỉ cần người khẳng định: đó là tiến trình rất bình thường/tự nhiên của trời đất. Đã là người, ai ai cũng đều phải ngang qua con đường thiên-lý-chết-dần ấy.

Nhà thương, thường là nơi người người tìm đến giải pháp kỹ thuật y-tế cho mọi trường hợp tật bệnh. Nơi đó còn là cơ ngơi để giúp những người đang còn yếu hiểu được qui luật như thế. Nhuốm bệnh, là tình trạng không thể sống sót mà không có người giúp đỡ. Là, chết dần chết mòn suốt đoạn đường thiên lý, rất trớ trêu. Nhà thương, còn là nơi có người thương yêu chăm nom săn sóc cho người đau yếu thấy dễ chịu. Chăm nom săn sóc từ cái ăn thức uống, rất vệ sinh. Là nơi, để người đau yếu kềm chế cơn đau. Nơi, để người còn khoẻ chăm sóc liên tục, rất đặc biệt. Nơi, bảo đảm kỹ thuật nay an toàn.

Với tật bệnh, tuy vẫn cần giải pháp kỹ thuật để chữa chạy. Nhưng với con đường thiên-lý-rất-chết-dần, thì vô phương. Và, khi ấy quyết định có nên đưa người đau yếu vào nhà (để) thương hoặc viện (để) dưỡng lão hay không, lại là quyết định của người khoẻ, chứ không phải người đau yếu, tật bệnh. Người đau và yếu khi ấy đã mất đi khả năng kiểm-soát các quyết-định như thế. Và, bên dưới sự việc, thì chính thiên nhiên là kẻ trợ đắc tiến trình bình thường/tự nhiên, “thiên lý” ấy.

Người đau yếu đang rơi vào tiến trình rất “thiên-lý-chết-dần” tại nhà, hoặc ở nhà thương, là người đang thực hiện một sự việc bình thường/tự nhiên rất chết dần. Họ muốn được đối xử như sự việc bình thường. Và, họ vẫn muốn làm thành phần trái đất và không muốn để mất tiêu chuẩn hoặc bị đào thải khỏi chốn miền đầy yêu thương ấy. Họ không chối bỏ sự thật. Cũng chẳng muốn bạn bè quên đi sự việc là họ đang trên đường thiên-lý-rất-chết-dần. Và không muốn ai làm ầm ỹ. Nói tóm, họ là người bình thường muốn được bình tĩnh khi cái chết chợt đến, như chuyện bình thường/tự nhiên, trong đời.

Ta đang đi vào tuần thánh là tuần để suy tư về sự chết dần của Đức Chúa-làm-người. Phúc Âm trình bày việc Chúa đi vào cái chết là về lại cùng Cha. Ngài về lại, sau khi hoàn tất sứ vụ của Ngài ở nơi này. Nơi, con đường thiên-lý-có sự chết, trên trái đất. Và, ý tưởng của thánh Gioan hôm nay nói về tính bình thường/tự nhiên của sự chết Chúa chấp nhận. Điều đó áp dụng cho ta, cho người thân của ta nữa.

Tác giả Sarah Coakley có lần từng viết: “Đã có e ngại thời hiện đại lôi cuốn nhiều người hiểu rằng: chết dần mòn, sự tắt lịm của ‘lịch trình tiến hoá’ chính là điều tệ hại nhất xảy đến với mọi người, và mọi sự. Nếu là tôi, tôi sẽ biện luận rằng… cơn hấp hối sâu xa nhất của Đức Chúa là sự mất mát phí phạm thấy rõ trong tạo dựng của Thiên Chúa sẽ được đo lường bằng lời loan báo của Chúa Thánh Linh về một hy vọng sống lại.” (x. Harvard Divinity Bulletin, 2002)

Xem như thế, có chết “bất đắc kỳ tử” hoặc chết dần mòn, thì sự chết vẫn là để loan báo sự sống lại rất tự nhiên như qui luật bình thường của sự sống.

Với tư thế hướng về sự sống lại ngay khi chết, ta cũng nên về với lời thơ trên mà ngẫm nghĩ:

“Đẹp lắm! Trên đời những vấn vương,

Chao ơi! Thiên lí một con đường

Đi trong trời đất từ duyên ấy

Sớm tối không rời một chữ thương.”

(Lưu Trọng Lư – Đi Giữa Vườn Nhân)

Cũng một chữ “thương” ấy, giải quyết hết mọi chuyện rất bình thường. Chuyện sống, chuyện chết và sống lại của Đức Chúa và con người trong trời đất thân thương. Bình thường. Tự nhiên.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –

Mai Tá lược dịch.

Giòng đời trôi, bao tháng năm qua rồi,

httpv://www.youtube.com/watch?v=Qmcki0l6zSQ

Mong Chờ Giêsu

Chuyện Phiệ’m Đọc Trong Tuần thứ 5 mùa chay năm A 02/4/2017

“Giòng đời trôi, bao tháng năm qua rồi,”

Chuyện buồn chuyện vui, cho tôi mãi mong chờ.

Lòng chờ mong không biết đến bao giờ được gặp Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Lòng chờ mong không biết đến bao giờ

được gặp Giêsu.”

(Nhạc: Maranatha – Lời: Lm Vũ Khởi Phụng DCCT – Mong Chờ Giêsu)

 (Amos 4: 12 / Mt 8: 34)

 Trần Ngọc Mười Hai

Trên đây, là lời ca vãn có những yêu cầu kéo dài mãi đến vô cùng vô tận. Yêu cầu, là nỗi niềm mong mỏi “được gặp Giêsu”, đồng thời được gần cận mãi với tạo cho bạn bè/người thân, trong cuộc đời. Đó là trải-nghiệm có được khi nghe người anh em đồng môn đọc lời bạt do chính anh viết ở dĩa nhựa Chuyện Phiếm Đạo Đời số 8, trên “Sound Cloud”..

Và dưới đây, lại thêm một cảm-nhận chân-tình của người anh em khác cùng Dòng gửi đến bạn bè đồng song sau chuyến ra đi của thân mẫu, vừa xảy đến:

Quí anh chị rất mến thương,

Không có ngôn-từ nào có thể diễn tả đươc tấm lòng của gia đình trước nghĩa-cử thật yêu thương mà quí anh chị đã dành cho gia đình trong dịp tang lễ của mẹ vừa qua. Xin anh chị em nhận nơi đây lòng biết ơn thật sâu xa của bần đệ và gia quyến.

Lời cầu nguyện của anh chị em trong các Thánh lễ, nhất là những tâm tình chia sẻ trong giờ cầu nguyện tại nhà quàn đã nhắc cho bần đệ, các em và các cháu trong tang quyến được phép ngẩng đầu lên mà hãnh diện về mẹ. Và đây cũng là nguồn động-lực giúp gia đình từ từ vượt qua nỗi đau thương để đón nhận.

Xin anh chị em đã thương thì thương cho trót bằng cách là tiếp tục cầu nguyện với, cùng và cho linh hồn Anna.

Thân ái trong Chúa Cứu Thế.

(trích điện thư của Lm Mai Văn Thịnh, CSsR gửi anh em trong gia đình An-Phong qua anh Mai Tá lá thư đề ngày 04/3/2017)

“Vượt qua nỗi đau thương để đón-nhận..”, chính đó là ý-nghĩa và mục tiêu mà mọi người trong Đạo đều nhắm đến. Lời ca cảm-nhận hay câu vãn có yêu cầu, vẫn là những lời tụng ca đầy ý-nghĩa như còn thấy ở nhiều chỗ khác, có bài hát rất như sau:

“Giòng đời trôi theo nắng sớm mưa chiều.

Tìm gần tìm xa, nghe như vẫn tiêu điều.

Rồi ngày nao tôi sẽ yêu thương nhiều vì gặp Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Rồi ngày nao tôi sẽ yêu thương nhiều vì gặp Giêsu.

Cuộc trần ai đưa nát tan cho đời.

Người người biệt ly, bao sông núi chia lìa.

Rồi ngày nao từ bốn phương quay về gặp được Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Rồi ngày nao từ bốn phương quay về gặp được Giêsu.

Người ở đâu mang mác bốn phương trời.

ngàn trời mây, muôn hoa lá mong người.

Và hằng đêm tôi vẫn khêu ngọn đèn đợi chờ Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Và hằng đêm tôi vẫn khêu ngọn đèn đợi chờ Giêsu.”

(Nhạc: Maranatha – Lời: MONG CHỜ GIÊSU bđd)

“Rồi ngày nao tôi sẽ yêu thương nhiều vì gặp Giêsu”, đó còn là mục-tiêu mà mọi người “cần vượt qua để đón nhận”. Đón và nhận, sự-kiện “gặp Giêsu” nơi những người đang sống quanh mình vào mọi lúc. Không chỉ vào lúc cùng ta quây quần bên người thân thuộc vừa quá vãng mà thôi, nhưng còn là và phải là mọi lúc, trong đời người.

Và, “ngày nao tôi sẽ yêu thương nhiều vì được gặp Giêsu.” Ôi! Đây chính là ý-nghĩa của cuộc sống vào dạo trước và cả vào thời mai hậu, như lời khẳng định của thần-học-gia tên tuổi là Edward Schillebeeckx từng nói đến như sau:

“Bản thân con người phàm-trần bao giờ cũng mang tính-chất sử-học, đưa vào lịch-sử để làm nên lịch-sử. Vì thế nên, hành trình mà con người còn rong ruổi lại chính là hành-trình được thiết-lập với Thiên-Chúa. Bởi lẽ, con người là tạo-vật do Thiên-Chúa thiết-dựng. Nhưng, có thể đó cũng là hành-trình không có Chúa đi cùng hoặc vào thời-điểm con người cứ mải kình-chống Thiên-Chúa nữa.

 Con người là hữu-thể phàm-tục có chất sử luôn sống trong tương-quan với Thiên-Chúa vĩnh-cửu. Tương-quan đây, là hành-trình rong ruổi được thể-hiện giữa bản-thể con người với Thiên-Chúa vĩnh-cửu đã dấy lên vấn-đề cánh-chung-luận. Bởi lẽ, cuộc sống con người là sự sống phụ thuộc vào thứ gì có khởi-đầu và kết-đoạn hẳn-hoi.

 Vậy nên hỏi rằng: con người có thể tồn-tại mãi không? Ta thấy những gì được thêm vào đây? Có chăng sự sống sau khi chết? Có chăng thiên-đàng dành cho những người làm điều tốt lành? Có chăng luyện-ngục là nơi chốn dành cho những người luôn làm việc gian-ác?

 Vấn-đề này được lịch-sử đặt ra cho con người phàm-trần. Cánh-chung-luận là câu đáp trả của Đạo Chúa với những câu hỏi đại-loại như thế. Sự sống vĩnh-cửu không là thứ gì dính-liền với bản-chất của hữu-thể hạn hẹp và bất ngờ. Cả ở trường hợp bản-thể người có linh-hồn thiêng-liêng, ta cũng không thể nào bảo là: tính-chất thần-thiêng nơi linh-hồn con người lại là nền-tảng của sự sống sau khi chết…” (X. Lm Edward Schillebeeckx, I Am a Happy Theologian, SCM Press Ltd 1994, tr. 63)

 Rõ ràng là, thần-học-gia Schillebeeckx những muốn chứng-tỏ trong cuốn “Tôi là nhà thần-học phúc-hạnh” vốn dĩ bảo rằng: sự sống và nỗi chết của con người vẫn cứ là trạng-huống của hữu-thể hạn-hẹp, chứ không là khúc/đoạn của không gian và thời, bao giờ hết.

Bản thể “người” luôn ưu-tư/quan-ngại về những hạn-chế của không-gian và thời-gian, nên mới sáng-tạo ra các phạm-trù đầy ấm-ức bằng các cụm-từ như: thiên đàng, luyện-ngục, trần-gian hoặc chốn vĩnh-hằng.

Thế nhưng, thực sự thì các phạm-trù đó có ý-nghĩa gì đáng để ta lưu-tâm, bàn-thảo hay không? Đáp trả bằng những quan-niệm vững chãi, lại xin mời bạn và mời tôi, ta tiếp-tục đi vào giòng chảy đầy phân-tích của thần-học-gia tên tuổi ở trên, đã xác định bằng những ý-tưởng sau đây:

“Thiên-đàng và hoả-ngục là những sự, những việc có thể xảy đến với con người. Tôi thường biện-bạch rằng: ta luôn có tính-chất rất đối-xứng giữa ý-niệm về thiên-đàng và quan-niệm về hoả-ngục: cả hai đều không thể đặt chung vào cùng lãnh-vực được. Giả như nền-tảng của sự sống sót là tương-quan sống động như thế với Thiên-Chúa, tôi vẫn tự hỏi xem những gì xảy đến khi tương-quan với Thiên-Chúa không sống-động cách nào hết, nghĩa là: khi người nào đó làm chuyện gian ác cố ý đến cùng tột.

 Ta không thể biết được là có hay không những người làm điều gian-ác theo cung-cách nhất-định, bác-bỏ mọi ân-huệ Chúa tha thứ cho họ, nữa. Và, đây chỉ là giả-thuyết bảo rằng: nếu trên đời này lại có những người không có tương-quan thần-thánh với Thiên-Chúa, thì những người như thế sẽ không có nền-tảng về sự sống vĩnh-cửu.

 Và, hoả-ngục là kết-đoạn cho những ai làm điều gian ác theo cung-cách nhất-định, thì cái chết thể xác và kết đoạn cuộc đời nơi họ sẽ là điều tuyệt-đối. Thành thử, từ một quan-điểm cánh-chung-luận, ta nói được là chỉ có thiên-đàng mà thôi.” (X. Lm Edward Schillebeeckx, I Am a Happy Theologian, SCM Press Ltd 1994, tr. 64)

Nếu thế thì, các phạm-trù ở trên được sáng-chế là để đề-nghị ta và mọi người hãy cùng nhau nghe lại khẳng-định làm nền nơi ca-từ đã trích có những lời vang vọng mãi:

“Giòng đời trôi, bao tháng năm qua rồi,”

Chuyện buồn chuyện vui, cho tôi mãi mong chờ.

Lòng chờ mong không biết đến bao giờ được gặp Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Lòng chờ mong không biết đến bao giờ

được gặp Giêsu.”

(Maranatha – Vũ Khởi Phụng DCCT – bđd)

Nếu thế thì, trọng-tâm cuộc sống hay nỗi chết vẫn cứ là “đợi chờ để được gặp Giêsu”, một khẳng-định được tác-giả Marcus J. Borg lại cũng quả-quyết như sau:

“Tất cả mọi người chúng ta, trước đây đều đã gặp gỡ Đức Giêsu. Phần đông chúng ta gặp Ngài hồi còn thơ ấu. Điều này, hà tất là chuyện có thật, đối với những ai được nuôi dưỡng trong lòng Giáo-hội và nhất là những người lớn lên ở vùng trời có nền văn-hoá Tây phương. Ở đó, mọi người đều có cùng một ấn-tượng về Đức Giêsu, theo cách nào đó như ảnh-hình về Ngài tuy lu-mờ nhưng rất đặc-biệt.

 Với nhiều người, ảnh-hình về Đức Giêsu mà họ có từ thời ấu-thơ, vẫn hoàn-hình cả vào lúc trưởng-thành. Với người khác, ảnh-hình này được giữ gìn bằng những xác-tín đậm-sâu, đôi khi còn nối-kết cả với lòng sủng-mộ tư-riêng đầm ấm và nhiều lúc còn kết chặt vào với lập-trường đầy học-thuyết cứng ngắc, nữa.

 Một số người khác, cả ở bên trong lẫn bên ngoài Giáo-hội, thì ảnh-hình về Đức Giêsu thời ấu-thơ còn trở-thành vấn-đề, tạo nên nhiều bối rối/ phức-tạp và ngờ-vực, có khi lại dẫn đến tình-huống dửng-dưng đối với Giáo-hội hoặc chống-đối cái Giáo-hội của thời con trẻ mà họ từng sống.

 Quả là, đối với nhiều tín-hữu Đạo Chúa, đặc-biệt là các thành-viên Giáo-hội chính-cống, có lúc xảy ra thời-kỳ trong đó ảnh-hình Đức Giêsu thời son trẻ không còn mang ý-nghĩa gì to tát cả. Và, rất nhiều người trong số đó, không cảm thấy cần thay thế nó. Với họ, gặp gỡ Đức Giêsu thêm một lần nữa lại sẽ như chỉ mới gặp Ngài lần đầu tiên, tức là lúc họ cảm thấy tràn-ngập ảnh-hình mới mẻ về Ngài.

 Thật sự mà nói, ý-niệm nền-tảng sẵn có trong đầu nhiều người là sự nối kết mạnh mẽ giữa ảnh-hình Đức Giêsu và nét phác hoạ về đời sống tín-hữu Đạo Chúa thật rõ nét. Nối kết đây, là sự tương-giao giữa những điều mọi người người nghĩ về Đức Giêsu và những gì mọi người trong chúng ta suy-tư về cuộc sống phải có của người đi Đạo. Ảnh-hình ta có về Đức Giêsu vẫn luôn tạo ảnh-hưởng lên nhận-thức ta có về cuộc sống của người tín-hữu theo hai cách: một, là cung-cách tạo nên hình-dạng cuộc sống người tín-hữu Đạo Chúa; và cách kia, là quyết-tâm biến Đức Chúa trở-thành đạo-giáo đáng tin hoặc không đáng tin.

 Xem như thế, thì người đi Đạo lâu nay nhiều ít vẫn cứ tin Đức Giêsu mà mình được gặp tựa như ảnh-hình mình duy-trì từ thời niên-thiếu. Dù ảnh-hình ấy có do Giáo-hội nhồi nhét vào đầu óc son trẻ của mình hay không.” (X. Marcus J. Borg, Meeting Jesus Again for the First Time, HarperCollins1994, tr. 1-2)

 Lòng chờ mong không biết bao giờ được gặp Giêsulại là sự mong chờ được gặp Đức Giêsu của thời trưởng-thành. Ảnh-hình của một Đức Giêsu-thực vừa là người thực như ta, vừa là Đấng được toàn-thể Hội-thánh nâng-nhấc lên thành Ngôi Hai Thiên-Chúa.

Chờ mong một gặp gỡ như thế để làm gì? Phải chăng là để như lời hiền-nhân ngôn-sứ khi xưa trong Cựu Ước từng khuyên-bảo như sau:

“Hỡi Israel,

ngươi hãy chuẩn bị

đi gặp Thiên Chúa của ngươi.”

(Amos 4: 12)

Đó là người đời thời Cựu ước. Còn thời Tân Ước, sau khi chứng kiến Đức Giêsu làm việc lạ lùng, khi trừ tà, người trong làng lại cũng tụ-tập để gặp Ngài sau đó thì mời Ngài ra đi như Tin Mừng Mát-thêu còn nói rõ:

“Bấy giờ,

cả thành ra đón Đức Giêsu,

và khi gặp Ngài,

họ xin Ngài rời khỏi vùng đất của họ.”

(Mt 8: 34)

Thành ra, cũng là chờ mong/mong chờ “được gặp Giêsu”, nhưng mỗi thời và mỗi người lại có ý khác nhau. Chờ và mong “được gặp Giêsu” như bài hát trên lại mang một ý-nghĩa khác hẳn:

“Rồi ngày nao tôi sẽ yêu thương nhiều vì gặp Giêsu.

Cuộc trần ai đưa nát tan cho đời.

Người người biệt ly, bao sông núi chia lìa.

Rồi ngày nao từ bốn phương quay về gặp được Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Rồi ngày nao từ bốn phương quay về gặp được Giêsu.

Người ở đâu mang mác bốn phương trời.

ngàn trời mây, muôn hoa lá mong người.

Và hằng đêm tôi vẫn khêu ngọn đèn đợi chờ Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Và hằng đêm tôi vẫn khêu ngọn đèn đợi chờ Giêsu.”

(Nhạc: Maranatha/Lời: Lm Vũ Khởi Phụng DCCT – bđd)

Có mong/có chờ rồi mới thấy. Có chờ và có đợi rồi sẽ hay. Duy, có điều là: khi gặp Ngài rồi, thì bản thân người chờ đợi cũng như người xục xạo kiếm tìm sẽ ra sao? Có mãn nguyện không? Người mãn-nguyện rồi, lại sẽ có quyết-tâm như thế nào? Phải chăng như lời lẽ người anh em vừa viết trong bức thư tâm-tình đầy tri-ân, vang vọng mãi rằng: “Những tâm tình chia sẻ trong giờ cầu nguyện tại nhà quàn đã nhắc cho bần đệ, các em và các cháu trong tang quyến được phép ngẩng đầu lên mà hãnh diện về mẹ.” (X. tâm-thư trích-dẫn ở trên)

Với mẹ ruột, mà người con còn hãnh-diện đến độ “sẽ ngẩng đầu lên” như thế. Thì, với Đức Giêsu được nâng-nhắc thành Thiên-Chúa Ngôi Hai, chắc người người sẽ còn ngẩng cao đầu ghi dấu ấn đến mãn đời, nữa mới phải.

Dấu ấn ấy. Cảm-nghiệm đây, còn là và sẽ là những cảm và nghiệm của đời người vẫn có niềm vui bất tận của những người đã và đang trên đường kiếm tìm hoặc từng mong chờ nay được gặp. Tâm tình ấy, nay hoà-đồng vào với tình-tiết của câu truyện kể đầy cảm-tính như dưới đây:

“Một chuyến tàu ngoài khơi gặp bão và bị đắm. Có hai người giạt đến một hoang đảo. Cả hai đã nhiều lần làm thuyền nhưng không lần nào thành công. Cuối cùng, họ đồng ý với nhau là cùng ngồi cầu nguyện. Mỗi người sẽ ở một nửa hòn đảo xem lời cầu nguyện của ai sẽ linh nghiệm.

 Đầu tiên, người thứ nhất cầu nguyện có được thức ăn. Sáng hôm sau, người thứ nhất tìm thấy một cây có nhiều quả rất ngon nên anh ta không còn phải lo lắng đi tìm thức ăn nữa. Ở phần bên kia hòn đảo, đất vẫn khô cằn và người thứ hai không tìm được gì cả.

 Hết một tuần, người thứ nhất cầu nguyện cho có bầu bạn. Chỉ sau một ngày, ở bên đảo của người thứ nhất có một chiếc tàu khác bị đắm và một người phụ nữ giạt vào. Hai người chuyện trò cho bớt cô đơn, còn ở phần bên kia hòn đảo, người thứ hai vẫn không có gì khác.

 Liên tục những ngày sau đó, người thứ nhất cầu nguyện được căn nhà, quần áo ấm và nhiều thức ăn hơn. Phép mầu lại xảy ra. Những gì anh ta ước thường xuất hiện ngay vào buổi sáng ngày hôm sau. Tuy nhiên, vẫn không có gì khác xảy ra ở phần đảo của người đàn ông thứ hai.

 Cuối cùng, người thứ nhất và người phụ nữ – nay đã là vợ anh ta- cầu nguyện có một chiếc tàu. Sáng hôm sau, một chiếc tàu lớn xuất hiện trên bãi biển. Người thứ nhất dẫn vợ mình lên tàu và quyết định bỏ người thứ hai ở lại trên đảo. Anh ta nghĩ rằng người kia không đáng được nhận bất kỳ thứ gì anh ta có được từ những lời cầu nguyện riêng của anh ta.

 Khi chiếc tàu chuẩn bị rời bến, bỗng người thứ nhất nghe thấy có tiếng nói vang lên từ không trung: “Tại sao con lại bỏ bạn mình?” Người thứ nhất thản nhiên cao giọng: “Tất cả mọi thứ đều do tôi cầu nguyện mà có. Anh ta cầu nguyện nhưng chẳng được gì cả nên không xứng đáng để đi cùng với tôi.”

 “Con lầm rồi” – giọng nói vang lên  – “Từ đầu đến cuối, anh ta chỉ ước có một điều và Ta đã thực hiện cho anh ta điều ước ấy.” Người thứ nhất rất ngạc nhiên: “Anh ta đã ước gì?”

 “Anh ta đã ước rằng những lời cầu nguyện của con được biến thành sự thật!” (truyện do St sưu tầm)

 Tâm tình của người chờ mong, nay được gặp Đấng mà mình mong ước, lại sẽ hằn in nơi ca-từ nhè nhẹ được nghe thêm một lần nữa làm kết-đoạn cho bài luận-phiếm về một “chờ mong/mong chờ được gặp Giêsu” rất hôm nay. Câu hát nhẹ ấy, cứ từ từ đi vào lòng người nghe với những lời lẽ gọn gàng như sau:

“Rồi ngày nao từ bốn phương quay về gặp được Giêsu.

Người ở đâu mang mác bốn phương trời.

ngàn trời mây, muôn hoa lá mong người.

Và hằng đêm tôi vẫn khêu ngọn đèn đợi chờ Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Và hằng đêm tôi vẫn khêu ngọn đèn đợi chờ Giêsu.”

(Nhạc: Maranatha/Lời: Lm Vũ Khởi Phụng DCCT – bđd)

 Trần Ngọc Mười Hai

Với những tình-tự hằn in nơi tâm-khảm

Khi nghe bài

“Giòng đời trôi” với lời ca

Lã chã, êm ả, rất mong chờ

Được gặp Giêsu.

LƯỠI HÁI HAY CHÌA KHÓA VÀNG?

LƯỠI HÁI HAY CHÌA KHÓA VÀNG?

 

Thánh Charles Borrômê sống ở Italia trên 400 năm trước đây (1538-1584).  Khi còn trẻ, Borrômê đầy những tước vị, danh vọng.  Nhưng một lúc Borrômê đã nhận ra ngày nào đó, Ngài sẽ phải bỏ tất cả.  Ngài muốn ghi khắc điều đó, nên nhờ một họa sĩ nổi tiếng vẽ bức bích họa trong tư thất để diễn tả cái chết.  Bức họa hoàn thành: họa sĩ trình bày thần chết theo lối cổ điển: một bộ xương người nắm chặt lưỡi hái trong tay.

 

Borrômê ngạc nhiên: “Tại sao họa sĩ hình dung cái chết bằng chiếc lưỡi hái?”

 Họa sĩ đáp: “Vì thần chết cắt hái mọi cuộc sống.  Cái chết hủy hoại mọi cuộc đời.”

 “Đồng ý”, Borrômê nói, “nhưng thần chết cũng mở cửa Nước Trời nữa chứ.  Cái chết là cửa ngõ vào đời sống tốt đẹp hơn.  Vì thế, tôi đề nghị họa sĩ xóa chiếc lưỡi hái đi và đặt vào tay thần chết chiếc chìa khóa vàng.”

 Phải, Chúa Kitô đã chết và đã sống lại. Thập giá là chìa khóa Nước Trời. Thần chết đã buông lưỡi hái và cầm lấy chiếc chìa khóa vàng. Cửa Trời đã mở ra cho con người vào Nhà Cha.

 Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là sự sống lại và là sự sống”.  Lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Lagiarô sống lại là một trong những lời “lạ tai” nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Thiên Chúa giáo và những người không tin ngày nay.  Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó chính là nền tảng và hy vọng của cuộc đời.

Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi là sự sống.  Ai đang sống mà tin tôi sẽ không bao giờ chết.”  Chúa không nói đùa.  Chúa không thể đùa với sự chết, vì nó hoàn toàn trái nghịch với Ngài.  Là sự sống và đến để đem lại sự sống, Chúa không thể muốn sự chết cho con người.  Phép lạ cho ông Lagiarô sống lại làm chứng rằng Ngài có quyền ban sự sống.  Không phải sự sống như đám đông bao quanh Ngài thầm nghĩ – sống một thời gian rồi chết – cũng không phải sống lại ngày tận thế mà thôi, như Matta tin tưởng, mà là sống ngay bây giờ và sống đời đời, như Ngài đã nói: “Ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã sai Tôi thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống” (Ga 5,24).

VERITAS

Vậy là có một sự sống khác.  Có một sự sống thật.  Sự sống ấy đã bắt đầu từ bí tích Rửa Tội và tiếp tục mãi đến đời đời.  Sự sống thật này không mất đi khi con người chết, nhưng chỉ mất đi bởi tội lỗi (Ga 8,21).  Tội lỗi mới là cái chết thật.  Và ngược lại, cái mà chúng ta coi là sống chưa hẳn là sống.

Chỉ khi nào sống bằng chính sự sống của Chúa thông ban cho, lúc đó mới là sống thật và bảo đảm sống đời đời ngang qua cái mà chúng ta gọi là chết.

Thánh Phaolô, trong bài đọc 2 hôm nay (Rm 8,8-11) đã nói đến tình trạng những người “sống mà như chết” và “chết mà vẫn sống” đó: “Ai sống theo xác thịt, tội lỗi, thì dù có sống cũng như chết; ngược lại, ai sống theo Thánh Thần thì dù có chết cũng vẫn sống; hơn nữa, một ngày kia, Đấng đã cho Đức Kitô phục sinh cũng sẽ cho thân xác của những kẻ sống theo Thánh Thần được sống lại”.

Một người nhắm mắt xuôi tay từ giã cõi đời này được coi là chết.  Nhưng nhiều người đang sống vẫn tự coi mình đã chết.  Vì sống mà không có hy vọng, sống không tình thương, sống mà bị đời bạc đãi, phản bội, sống không ra con người, và nhất là sống trong tội ác.  Sống như vậy, con người không cần đợi đến chết mới là chết.  Chúng ta khóc thương người chết, nhưng biết đâu người sống lại chẳng đáng khóc thương hơn?

Bất cứ ai đã thoát khỏi tội lỗi và sống trong ân sủng thì đang sống trong sự sống đời đời rồi.  Sự chết thể xác không làm gián đoạn được sự sống thân thiết với Thiên Chúa trong Nước Trời.  Sự sống lại ngày tận thế, sự sống vinh quang đời sau đã bắt đầu ở hiện tại như cây trái đã bắt đầu trong hạt giống.

Từ Lời Chúa hôm nay, chúng ta mới có được một cái nhìn lạc quan hơn về thân phận con người chúng ta.  Là tội nhân, là loài người phải chết, nhưng chúng ta đã được Con Thiên Chúa xuống thế làm người mạc khải tình yêu thương của Thiên Chúa cho chúng ta và Ngài đã thực hiện công việc cứu chuộc của Thiên Chúa giữa chúng ta và cho chúng ta.  Cuối cùng, bằng chính cái chết và cuộc Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi chết đời đời và cho chúng ta được tham dự vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa.

Như thế, đối với chúng ta, những người đã tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế và đang cố gắng sống Lời Chúa dạy, thì sống hay chết, không thành vấn đề, mà chỉ có một thực tại duy nhất là sống, sống trong Chúa, sống cho Chúa, sống thuộc về Chúa.  Cái chết chẳng qua chỉ là bước vượt qua từ đời sống trần gian đến đời sống vinh quang vĩnh hằng với Chúa Cha trên trời.  Chính vì có sự liên tục giữa hai cuộc sống mà đời sống trần gian này mới có ý nghĩa và mới quan trọng, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải sống làm sao cho cuộc sống trần gian này là khởi điểm, là bảo đảm, là dấu chứng cho cuộc sống mai sau.

Trước khi bước vào Tuần Thánh là đỉnh cao của mầu nhiệm Khổ Nạn Phục Sinh, Giáo Hội đọc bài Tin Mừng hôm này nhằm kêu gọi chúng ta tin vào Đấng là sự sống lại và là sự sống.  Niềm tin ấy thắp sáng lên trong chúng ta một hy vọng mà trần gian này dù đen tối đến đâu cũng không thể nào dập tắt được.  Đức tin không chuẩn chước cho chúng ta khỏi những tang chế đau thương, những chia ly mất mát hay sự sợ hãi khi đối diện với cái chết.  Nhưng đức tin là chấp nhận hiểu và sống các biến cố hiện tại dưới ánh sáng của sự sống siêu việt mà Đức Giêsu Kitô, Đấng là nguồn cội sự sống đã loan báo.

“Tôi là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Tôi sẽ không chết bao giờ.”  “Matta, con có tin điều đó không?”  Chúa Giêsu hỏi.

“Vâng, thưa Thầy, con tin.”  Matta nói lên niềm tin của chị cũng là niềm xác tín của chúng ta: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian.”

Chớ gì khi tuyên xưng: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”, trong kinh Tin Kính chúng ta sắp đọc, niềm tin ấy không chỉ được phát biểu cách máy móc ngoài môi miệng, nhưng sẽ trở nên sức mạnh giúp chúng ta đứng vững trước mọi đau khổ thử thách, ngay cả cái chết.  Đồng thời niềm tin ấy thúc đẩy chúng ta đến với anh em, để góp phần mang lại sự sống dồi dào cho anh em.

R. Veritas.

Trích trong “Niềm Vui Chia Sẻ”

Langthangchieutim gởi

YÊU CHO ĐẾN CÙNG

YÊU CHO ĐẾN CÙNG
thap_gia
Tại nhà thờ chánh tòa Nuzburg trong miền Baviere, Tây Đức, có một tượng thánh giá rất nổi tiếng được chạm trổ vào khoảng thế kỷ thứ 14. Hai cánh tay đã rút khỏi lỗ đinh và vòng ra phía trước như ôm một con người.

Tương truyền rằng có một tội nhân hết lòng sám hối ăn năn, xin Chúa thứ tha tội lỗi. Nhưng vì tội ông quá lớn, quá nhiều nên ông vẫn còn nghi ngờ lòng thương xót của Người. Chúa liền đưa tay ra ôm chầm lấy ông trong vòng tay âu yếm để bày tỏ lòng Chúa khoan dung hải hà.

***

Trong suốt cuộc đời công khai rao giảng, rất nhiều lần, Đức Giêsu đã bày tỏ tấm lòng yêu thương con người: Người đã thực hiện các phép lạ, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ, dạy dỗ dân chúng, âu yếm trẻ thơ, và tha thứ cho tội nhân. Hôm nay, Người quyết định bước vào đoạn cuối của tình yêu, đỉnh cao của dâng hiến, Người quyết định yêu cho đến cùng, bằng cuộc khổ nạn và cái chết đau thương của Người.

Nhưng trước hết, Người phải chịu một cơn cám dỗ cuối cùng. Cơn cám dỗ mà Luca đã báo trước: “Quỉ rút lui để chờ dịp khác” (4,13). Dịp ấy, hôm nay đã đến. Satan nhập vào Giuđa, để người môn đệ bất trung tham của này dùng cái hôn để nộp thầy. Satan sàng Phêrô và các môn đệ như sàng gạo, để Phêrô thì chối thày, còn các ông khác thì bỏ trốn. Vườn Giệtsimani quả thật là nơi giao tranh giữa Đức Giêsu và quyền lực tối tăm, giữa sự thiện và cái ác. Người dùng phương thế hữu hiệu là cầu nguyện để thắng cám dỗ. Nhưng dường như trong cuộc chiến nội tâm của Người rất căng thẳng, nên Người đã xin Chúa Cha tha cho Người khỏi uống chén này. Người lên cơn xao xuyến bồi hồi đến nỗi mồ hôi như những giọt máu rơi xuống đất.

Thế nhưng, Người vẫn nhân từ, thực hiện nghĩa cử yêu thương cuối cùng, trước khi hoàn toàn dâng hiến trên thập giá: Người hiền hòa ra đón Giuđa, và dịu dàng nhắc nhở ông về tình nghĩa thầy trò. Người chữa lành tên đầy tớ bị Phêrô chém đứt tai. Người quay nhìn Phêrô với ánh mắt tha thứ khi ông chối Thầy. Người an ủi những phụ nữ thương khóc Người. Người xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh Người. Người ban thiên đàng cho tên trộm biết sám hối.

Cuối cùng, Người hoàn toàn dâng hiến trên thập giá để cứu chuộc tất cả muôn người. Sinh thời Người đã nói: “Không có tình yêu nào cao quí cho bằng người hy sinh mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15,13). Vậy, Người đã yêu thương con người cho đến giọt máu cuối cùng. Thánh Gioan viết: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về người mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng (GA 13,1b).

***

Lạy Chúa Giêsu, chính vì vâng theo thánh ý Cha và cũng vì yêu chúng con mà Chúa đã sẵn lòng vác thánh giá, vui chịu mọi khổ đau nhục hình. Xin cho chúng con từ nay cũng biết yêu Chúa hơn yêu bản thân, và yêu Chúa chỉ vì Chúa chứ không mong phần thưởng nào khác. Xin cho chúng con nhận ra thánh giá của Chúa trong mọi đau khổ của cuộc đời chúng con, và vững bước theo Chúa trên đường thánh giá, miễn là chúng con đang chu toàn thánh ý Chúa. Amen!

 Thiên Phúc

Anh chị Thụ & Mai gởi

THANH TẨY ĐỀN THỜ

THANH TẨY ĐỀN THỜ
Mahatma Gandhi, vị thánh của dân tộc Ấn Độ, trong nhật ký tự thuật của mình, ông kể rằng khi còn theo học ở Nam Phi, ông rất thích đọc KinhThánh, đặc biệt là “Bài giảng trên núi”. Ông xác tín rằng Kitô giáo chính là giải đáp cho hệ thống đẳng cấp đã gây thương tổn cho đất nước Ấn Độ của ông từ bao thế kỷ. Ông thực sự nuôi ý định trở thành Kitô hữu.

Ngày kia, ông vào một nhà thờ để dự lễ và nghe giảng. Người ta chặn ông lại ở cửa nhà thờ và nhẹ nhàng cho ông hay rằng nếu ông muốn dự lễ, xin mời ông đến một nhà thờ dành riêng cho người da đen.

Ông ra đi và không bao giờ trở lại.

***

Tin Mừng hôm nay thuật lại Đức Giêsu xua đuổi những người bán chiên bò, chim câu và những người đổi tiền ra khỏi Đền Thờ. Chắc chắn Người không hề xua đuổi những con người thành tâm thiện chí. Nhà thờ là nơi tôn nghiêm, qui tụ các tín hữu, cử hành phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể, mọi người chung một niềm tin, một lời cầu tôn vinh Thiên Chúa. Nhà thờ chính là Hội Thánh thu nhỏ, không phải là ngôi nhà kín rào lũy cấm, trái lại phải mở rộng để đón tiếp mọi người.

Hôm nay Đức Giêsu phải xua đuổi người ta ra khỏi Đền Thờ, vì Người không muốn nơi thánh thiêng trở thành cái chợ, Người không muốn nhà Cha Người bị xúc phạm. Người thấy cần phải thanh tẩy Đền Thờ. Thái độ quyết liệt của Đức Giêsu đòi chúng ta phải xét lại chính mình.

Dường như không khí chợ búa vẫn vương vấn đâu đây: Người ta hẹn hò vào các giờ lễ, họ đi nhà thờ nhưng mắt trước mắt sau, họ lo trình diễn áo quần kiểu tóc.

Có kẻ đến nhà thờ để thắp sáng hào quang cho chính mình hơn là cho Chúa.

Có những đám cưới yêu cầu bật sáng mọi bóng đèn trong thánh đường.

Có những đám ma nhà thờ phải treo cờ tang phướn rũ như một biển tím, một rừng tang. Đồng tiền đã che mờ nét tôn nghiêm nhà Chúa.

“Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây”. (Ga 2,16). Lời bất bình đó của Đức Giêsu vẫn như còn đang nói với chúng ta hôm nay. Người muốn các nhà thờ phải là nơi thờ phượng, nơi tĩnh lặng để con người gặp gỡ Thiên Chúa. Không cần ồn ào, nặng phần trình diễn, cũng không nên máy móc, buồn tẻ khi cử hành các nghi thức phụng vụ.

Nếu mỗi thánh lễ là tái diễn Hy lễ Thập Giá của Đức Giêsu, Đấng đã yêu cho đến cùng, thì mỗi thánh lễ cũng mang một sức sống mới của Đấng Phục Sinh. Người chính là Đền Thờ mới, nơi nhân loại sẽ thờ phượng Thiên Chúa Cha cách đích thực.

***

Lạy Cha, Mùa Chay là mùa thanh tẩy các đền thờ: đền thờ vật chất là những thánh đường và đền thờ thiêng liêng là mỗi người chúng con. Xin giúp chúng con biết thanh tẩy những nhơ nhớp trong tâm hồn, hầu xứng đáng đến thờ phượng Cha trong Đền Thờ mới là Đức Giêsu, con cha. Amen!

Thiên Phúc

Ngọc Nga sưu tầm

CÁN CÂN TÌNH YÊU

CÁN CÂN TÌNH YÊU
Một linh mục thuộc giáo phận New York bên Hoa Kỳ chuyên lo mục vụ cho các tù nhân đã kể lại kinh nghiệm như sau:

Một hôm, ngài được mời đến thăm một thanh niên da đen sắp sửa bị đưa lên ghế điện vì đã giết người bạn gái của mình. Như thường lệ, mỗi khi gặp một tử tội sắp bị hành quyết, vị linh mục thường khuyên nhủ, giải tội và trao ban Mình Thánh Chúa.

Sau khi đã lãnh nhận các bí tích cuối cùng, người thanh niên da đen bỗng trầm ngâm suy nghĩ như muốn nói lên một điều gì rất quan trọng. Cuối cùng, với tất cả cố gắng của một người biết mình sắp lìa cõi đời này, anh mới thốt lên với tất cả chân thành:

– Thưa cha, con đã làm hư hỏng cả cuộc đời. Con chưa hề học được một điều gì hữu ích ngoài một điều duy nhất đó là đánh giày. Xin cha cho con được phép đánh bóng đôi giày của cha. Như thế, con sẽ hài lòng vì nhận được sự tha thứ của Chúa, bởi vì con không biết làm gì để tạ ơn Chúa trước khi con gặp lại người bạn gái của con trên thiên đàng

Và không đợi cho vị linh mục trả lời, người thanh niên đã cúi gập người xuống và bắt đầu đánh bóng đôi giày của vị linh mục… Cử chỉ ấy khiến cho vị linh mục nhớ lại hình ảnh của người đàn bà đã quỳ gối bên chân Chúa Giêsu, đổ dầu thơm trên đầu, trên chân của Ngài và dùng tóc của bà để lau chân Ngài. Chúa Giêsu đã nói với bà: “Tội của con dù có nhiều đến đâu cũng được tha, bởi vì con đã yêu nhiều”.

***

Sám hối, ăn chay, đền tội, đó là những khẩu lệnh mà mỗi người chúng ta đều nghe lặp đi lặp lại trong suốt Mùa Chay này. Theo quan niệm công bình và thưởng phạt của chúng ta, kẻ có tội ắt phải đền tội. Toà án của loài người thường cân lường tội trạng của người có tội để tìm ra một hình phạt cân xứng.

Chúng ta không thể áp dụng một thứ cán cân như thế vào trong mối tương quan giữa tội lỗi của chúng ta với sự công bình của Thiên Chúa. Nơi Thiên Chúa chỉ có một trái tim duy nhất: đó là lòng nhân từ. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và tha thứ tất cả tội lỗi của chúng ta bằng lòng nhân từ vô biên của Ngài.

Do đó, khi nói đến ăn chay đền tội, chúng ta không thể cân lường tội lỗi của chúng ta để rồi tìm ra một lượng đền tội cho cân xứng. Có hy sinh nào tương xứng được với tội trạng của chúng ta? Có án phạt nào cân xứng với sự xúc phạm của chúng ta?

Thiên Chúa không chờ đợi nơi chúng ta điều gì khác hơn bằng chính tình yêu của chúng ta. Với tình yêu, thì dù một cử chỉ nhỏ mọn cũng trở thành một lễ dâng đẹp lòng Chúa. Những gì chúng ta dâng lên Chúa, không phải là của cải chúng ta có, những bố thí chúng ta làm cho người khác, những khổ chế chúng ta tự áp đặt cho bản thân… mà chính là lòng yêu mến của chúng ta.

“Tội của con dù có nhiều đến đâu cũng được tha, bởi vì con đã yêu nhiều”.

Ước gì lời của Chúa Giêsu nói với người đàn bà tội lỗi cũng là lời ngọt ngào mà chúng ta tiếp nhận trong suốt Mùa Chay này.

***

Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết hối cải ăn năn. Xin soi sáng cho mỗi người chúng con biết ăn năn hối cải và tăng cường việc bác ái yêu thương, hầu chế ngự mọi tính mê tật xấu. Nhờ đó, chúng con được sạch tội, và thêm lòng sốt sắng thông phần cuộc khổ nạn của Đức Kitô, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen!

Lm. LG. Huỳnh Phước Lâm

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Xưng Tội Rước Lễ Mùa Phục Sinh

XƯNG TỘI RƯỚC LỄ MÙA PHỤC SINH

… Câu chuyện xảy ra tại một bệnh viện ở nước Ý trong những ngày cuối Mùa Chay chuẩn bị mừng đại lễ Phục Sinh.

Theo thói quen lành thánh vẫn có nơi các nhà thương ở Ý, trong Mùa Chay, Cha Tuyên Úy đặc biệt rảo qua các phòng, đến từng giường để viếng thăm và khích lệ các bệnh nhân chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh. Vị Linh Mục chúc lành, ban ơn tha thứ và nói lời an ủi.

Thông thường các bệnh nhân sẵn sàng tiếp đón Cha Tuyên Úy. Chỉ duy nhất người bệnh nơi giường số 17 cương quyết quay mặt vào tường. Ông càu nhàu cau có nói:
– Con quạ không mổ được tôi đâu!

Đó là một người thợ ở tuổi 60 bị ung thư không phương thuốc chữa trị.

Trước thái độ ngoan cố khước từ của ông, vị Linh Mục Tuyên Úy cảm thấy con tim đau nhói. Cha tự nhủ:
– Chẳng lẽ chết mà không chịu các phép sau hết sao?

Y tá trưởng phụ trách khu vực ấy là Chị Santina một nữ tu trẻ tốt lành thánh thiện. Chị đã kín đáo nhét vào cái gối của bệnh nhân một ảnh vảy phép lạ (ảnh Đức Mẹ ban ơn). Chị tha thiết cầu nguyện và đợi chờ cơ hội thuận tiện để ra tay hành động. Thế nhưng, vừa khi nữ tu nhẹ nhàng khéo léo nhắc đến bí tích Giải Tội thì bệnh nhân phản ứng ngay. Ông lớn tiếng chửi thề:
– Hãy để tôi yên! Tôi sống như con chó thì cũng muốn chết như con chó!

Dầu vậy, Chị Santina vẫn kiên trì không thất vọng. Chị tiếp tục nói lời dịu dàng nhắc nhở. Nhưng lời nhỏ nhẹ của chị lại trở thành dầu đổ vào đám lửa đang bốc cháy. Bệnh nhân nổi sùng hét:
– Hãy gọi Ông Giám Đốc nhà thương đến đây. Tôi tố cáo các người là vi phạm nội qui của bệnh viện và cưỡng ép lương tâm bệnh nhân!

Đúng vào lúc ấy thì vị bác sĩ trưởng đi ngang qua hành lang. Bệnh nhân lớn tiếng gọi đến và nói:
– Thưa bác sĩ, tôi không muốn ở đây nữa!

Vị bác sĩ ân cần hỏi:
– Ông cảm thấy mệt phải không? Hay là ông bị tăng áp huyết? Ông có bị sốt không?

Bệnh nhân tức giận trả lời:
– Đúng là sốt Ai-cập! Nơi đây người ta không tôn trọng nội qui! Người ta tước đoạt quyền tự do lương tâm! Chị nữ tu này muốn ép buộc tôi phải xưng tội!

Quay sang nữ tu, vị bác sĩ hỏi:
– Có phải Chị là người cả gan dám nói chuyện xưng tội với ông này không?

Chị Santina nhỏ nhẹ đáp:
– Đúng thế! Tôi có nói nhưng không phải ép buộc mà chỉ nhắc là đang có cơ hội thuận tiện, nếu muốn thì ông có thể xưng tội.

Vị bác sĩ trưởng lập lại câu hỏi một lần nữa và khi nghe người bệnh tái khẳng định thì ông nghiêm nghị nói với nữ tu:
– Chị làm một chuyện không đúng chút nào hết! Chị không biết là các con chó thì không bao giờ xưng tội sao? Vậy tốt hơn cả là đừng bao giờ nói về tôn giáo với các thú vật!

Quay sang người bệnh, vị bác sĩ trưởng nói:
– Xin ông an tâm! Kể từ giờ phút này, không một ai sẽ đề cập với ông về vấn đề xưng tội!

Nói xong, vị bác sĩ bỏ đi. Người bệnh tỏ ra chưng-hửng! Nhiều người cất tiếng cười vang. Trong khi Chị Santina lặng lẽ rút lui.

Nhưng chỉ mấy phút sau người ta nghe tiếng chuông rung nơi giường người bệnh số 17. Một y tá vội vàng chạy đến xem ông cần gì thì nghe bệnh nhân nói:
– Làm ơn gọi cho tôi Chị Santina!

Cô y tá đáp:
– Nữ tu đang đọc kinh ở nhà nguyện.

Người bệnh van nài:
– Không sao hết! Xin mời nữ tu đến cho tôi gặp!

Chị Santina vội vàng chạy đến với khuôn mặt tái xanh và đôi mắt long lanh giọt lệ. Chị ân cần hỏi:
– Ông cảm thấy mệt phải không?

Người bệnh trả lời:
– Thưa Chị không! Tôi chỉ muốn xin lỗi Chị. Chị biết không, tôi không phải là một con chó! Vì thế, tôi muốn xưng tội!

Đức Trinh Nữ MARIA mà Chị Santina tha thiết cầu xin đã chiến thắng! Ảnh vảy Đức Mẹ ban ơn đã làm phép lạ! Đức Mẹ MARIA ban thưởng bội hậu cho Chị nữ tu trẻ tuổi trọn lòng tín thác nơi Đức Mẹ và yêu thương chăm sóc phần rỗi linh hồn của các bệnh nhân.

Lễ Phục Sinh năm ấy, bệnh nhân giường số 17 đã sốt sắng rước lễ lần thứ hai trong đời!

Kể sao cho xiết niềm vui bao la của nữ tu Santina! Chị hết lòng tri ân Đức Mẹ MARIA và dâng lời chúc tụng THIÊN CHÚA từ bi!

… ”Hãy tìm THIÊN CHÚA khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên. Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với THIÊN CHÚA – và Người sẽ xót thương – về với THIÊN CHÚA chúng ta, vì Người sẽ rộng lòng tha thứ. Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các con, và đường lối của các con không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các con chừng ấy” (Isaia 55,6-9).

(”La Mia Messa”, 1 Aprile 2012 – 30 Giugno 2012, Anno VI/B, vol.II, Casa Mariana Editrice, trang 124-126)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

BÂY GIỜ TÔI ĐÃ THẤY

BÂY GIỜ TÔI ĐÃ THẤY

Mark Link

“Bí tích rửa tội cất đi sự mù loà tâm linh của chúng ta và mở mắt cho chúng ta được nhìn thấy Chúa Giêsu.”

Vào thập niên 1960, John Howard Griffin ngụy trang thành một người da đen đi chơi vòng quanh miền Nam.  Ông muốn trực tiếp cảm nghiệm được sự kiện phải làm người da đen trong những năm ầm ĩ về vấn đề chủng tộc này.  Griffin mô tả lại cảm nghiệm của mình trong một cuốn sách nhan đề Black Like Me (đen như tôi).  Cuốn sách này về sau được dựng thành phim.

Tuy nhiên còn một khía cạnh khác trong cuộc đời của John Howard Griffin mà rất ít người biết đến: trong thế chiến thứ hai, John đã bị mù trong một vụ nổ máy bay suốt 12 năm sau đó, ông không trông thấy gì cả.  Một hôm, trong khi bước xuống con phố cạnh nhà bố mẹ ông ở Texas, thình lình John bỗng thấy được “cát đỏ” (red sand) trước mắt ông.  Thị giác của ông đã phục hồi trở lại mà chẳng hề báo trước.  Về sau, một bác sĩ chuyên khoa mắt cắt nghĩa cho ông là vết máu tụ thần kinh thị giác do vụ nổ gây ra được khai thông, vì thế thị giác ông phục hồi trở lại.  Khi bình luận về kinh nghiệm này, Griffin đã kể lại cho một phóng viên báo chí như sau:

“Quí bạn không cảm nghiệm được những gì mà một ông bố cảm nghiệm khi nhìn thấy con cái mình lần đầu tiên đâu.  Cả bố với con đều tuyệt vời hơn tôi nghĩ rất nhiều”

Giai đoạn bi đát trong đời Griffin giúp anh ta đánh giá sâu sắc hơn câu chuyện của bài Phúc âm hôm nay, nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn cảm giác người mù từ lúc mới sinh khi anh ta được Chúa Giêsu chữa lành thật kỳ kiệu như thế nào.

Tuy nhiên, trong câu chuyện người mù trên còn có một phép lạ thứ hai.  Phép lạ này còn tuyệt diệu hơn: đó là đức tin hay còn gọi là ánh sáng thiêng liêng mà Đức Giêsu ban cho người mù ấy, chính phép lạ thứ hai này tức ân sủng đức tin đã khiến cho anh quì gối xuống nói với Đức Giêsu với tư cách là “Chúa”.  Thánh Gioan đã nhấn mạnh phép lạ thứ hai này tức ân sủng đức tin một cách thâm thuý trong bài Phúc âm hôm nay.

Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn về điểm này.

NGUOI MU DA THAY

Điều đầu tiên chúng ta để ý đến trong phép lạ này là phép lạ ấy diễn ra từ từ không xảy ra ngay tức khắc.  Chẳng hạn, phản ứng đầu tiên của anh mù đối với Đức Giêsu là anh ta xem Đức Giêsu cũng giống như người bình thường khác.  Vì thế, khi vài người hỏi anh ta về sự lành bệnh của mình, anh liền trả lời: “Cái ông có tên là Giêsu ấy lấy một ít bùn bôi lên mắt tôi và bảo tôi tới hồ Silôê rửa mặt.  Thế là tôi đi và ngay khi rửa xong tôi liền được trông thấy.”

Đầu tiên gã mù chỉ coi Đức Giêsu như một người tuy khá đặc biệt nhưng dầu sao cũng chỉ là một con người.

Thế rồi anh ta bước qua nhận thức thứ hai về Đức Giêsu khi đám Pharisêu điều tra anh: “Mày bảo ông Giêsu chữa cho mày khỏi mù à! Vậy mày cho rằng ông ấy là ai?” anh ta liền đáp: “Ông ấy là một tiên tri”.  Câu trả lời trên đây chứng tỏ rõ ràng nhận thức của anh mù về Đức Giêsu đã nhảy vọt một bước vọt khổng lồ về phía trước.  Càng suy nghĩ đến sự kiện xảy ra, gã ta càng xác tín Đức Giêsu không chỉ là một người như những người khác mà Ngài còn là một vị tiên tri.  Điều này dẫn chúng ta đến nhận thức sau cùng của anh mù về Đức Giêsu.

Cuối ngày anh mù mới được gặp mặt đối mặt với Đức Giêsu, vì khi anh mù đi rửa mắt ở hồ Silôê về, thì Đức Giêsu, không còn quanh quẩn đó nữa.  Lúc này, khi gặp lại anh mù, Đức Giêsu nhìn thẳng vào mắt và nói: “Anh có tin vào CON NGƯỜI” không?  Anh ta trả lời: Thưa Ngài, xin nói cho tôi biết vị ấy là ai để tôi tin.  Đức Giêsu trả lời: “Anh đã thấy vị ấy rồi, vị ấy chính là kẻ hiện đang nói chuyện với anh”.  Anh đáp ngay: “Lạy Chúa, con tin!” vừa nói anh vừa quì gối xuống trước mặt Đức Giêsu.

Như thế, nhận thức của anh về Chúa Giêsu đã nhảy bước cuối cùng về phía trước.  Anh nhận ra Đức Giêsu không phải chỉ là một người bình thường hoặc một vị tiên tri, mà Ngài còn là Thiên Chúa, vị Chúa mà “muôn loài trên trời dưới đất, cả trong địa ngục phải quì gối” (Pl 2: 10).  Ân sủng đức tin, hay “ánh sáng tâm linh” mà Đức Giêsu ban cho anh mù còn kỳ diệu hơn sự phục hồi thị giác cho anh nữa.

Không cần bàn bạc quá nhiều về ân sủng đức tin nơi anh mù nọ, chúng ta nên nhớ lại chúng ta cũng đã nhận được ân sủng đức tin này do Đức Giêsu ban cho trong bí tích rửa tội.

Trước khi thanh tẩy trong nước rửa tội, chúng ta cũng bị “đui mù tâm linh” như anh mù trong Phúc âm hôm nay.  Nhưng sau khi được rửa tội, Đức Giêsu trở nên quí báu hơn nhiều đối với chúng ta.  Ngài trở thành một kẻ hết sức thân mật đối với chúng ta.

Điều này dẫn đến điểm tương tự thứ hai giữa chúng ta và anh mù trong Phúc âm hôm nay.  Ngoài việc nhận lãnh ân sủng đức tin, nhận thức của chúng ta về Chúa Giêsu cũng dần dần lớn lên giống như nơi anh mù ấy.  Chẳng hạn khi còn rất bé chúng ta thường mường tượng Đức Giêsu là một con người phi thường.  Đến lúc lớn lên.  Nhận thức của chúng ta về Ngài cũng trưởng thành hơn.  Cuối cùng nhận thức ấy đạt được hình thức viên mãn nhất: chúng ta nhận ra Ngài đúng như bản chất thực sự về Ngài, là Con Thiên Chúa.  Điều thú vị là khi chúng ta càng học hỏi về Đức Giêsu thì Ngài càng trở nên cao cả hơn đối với chúng ta.  Thông thường, có sự kiện đáng buồn trong các mối tương giao khác là càng tìm hiểu về kẻ khác chúng ta càng nhận khiếm khuyết của kẻ ấy.  Nhưng trong trường hợp Đức Giêsu thì không như thế.  Càng hiểu biết về Ngài, chúng ta càng thấy Ngài tuyệt diệu và vinh hiển hơn.

Để kết thúc, chúng ta hãy trích lại lời Albert Schweitzer ở cuối cuốn sách của ông nhan đề The Quest for The Historical Jesus (Tìm kiếm Giêsu Lịch sử) Schweitzer từng là nhạc sĩ dương cầm thính phòng ở Âu Châu.  Ông đã từ bỏ nghề nghiệp âm nhạc của mình để trở thành một bác sĩ, và ông đã đến sống ở Phi châu với tư cách một thừa sai.  Schweizer viết: “Chúa Giêsu đến với chúng ta như một người vô danh, chẳng khác nào thưở xưa người đến với các tông đồ trên bờ biển.  Ngài nói với chúng ta cũng chính những lời Ngài đã từng nói với họ: “Hãy theo Ta!”  Và bất cứ ai chấp nhận lời mời gọi của Ngài thì dù họ thông thái hay tầm thường, trẻ trung hoặc già nua, Chúa Giêsu đều mạc khải chính Ngài cho họ ngay trong những truân chuyên và đau khổ của họ.  Và qua kinh nghiệm riêng của mình, họ sẽ biết được “NGÀI là ai?”

Mark Link

ĐỐI THOẠI TRUYỀN TIN

ĐỐI THOẠI TRUYỀN TIN

 LM Giuse Nguyễn Hữu An

Thiên Sứ Gabriel truyền tin cho Đức Maria là một cuộc đối thoại.  Để thấy được sự trang trọng, độc đáo của cuộc đối thoại Truyền Tin, cần so sánh khung cảnh truyền tin của Thiên sứ Gabriel cho Ông Zacaria và cho Đức Maria.

Về địa điểm: Thiên sứ hiện ra với Zacaria ở đền thờ Giêrusalem, trung tâm tôn giáo của Israel, giữa làn khói hương nghi ngút.  Với Đức Maria, Thiên sứ đến gặp Mẹ tại Nazareth, một thôn làng chẳng mấy ai biết đến (Ga1,46; 7,41).  Nazareth thuộc miền đất Galilê, gần vùng dân ngoại (Is 8,23; Mt 4,14).

Về nhân vật: Zacaria là tư tế thuộc giòng Abia, Isave thuộc giòng Aaron.  Cả hai ông bà thuộc thành phần có địa vị xã hội.  Hai ông bà tuân giữ lề luật chu đáo (Lc 1,6).  Họ tượng trưng cho người công chính theo Cựu ước.  Còn Maria chỉ là một thôn nữ tầm thường, một người nghèo của Giavê.

Đi vào nội dung đối thoại thì hoàn toàn đảo ngược.

Thái độ của Thiên sứ: Với Zacaria: Thiên sứ coi mình như chủ nhà.  Giọng nói Thiên sứ như ra lệnh, thị oai.  Thiên sứ phạt Zacaria khi ông tỏ dấu nghi ngờ.  Với Maria: Thiên sứ là khách, đi đến nhà của Maria, một làng quê hẻo lánh.  Thiên sứ tỏ vẻ kính cẩn vì nhìn thấy nới thôn nữ mộc mạc dáng vẻ oai nghi của “Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng”

Công trạng và ân huệ: Với Zacaria: Thiên sứ bảo rằng: Lời cầu nguyện của ông đã được Chúa chấp nhận, vợ ông sẽ thụ thai (Lc 1,13).  Như vậy tất cả đều dựa trên công trạng phúc đức của con người, đúng theo hình ảnh Cựu ước.  Với Đức Maria: Tất cả đều là Ân huệ của Chúa.  Thiên sứ chào Maria là “người được Thiên Chúa yêu thương chiếu cố” (Lc 1,28), tất cả đều là ân huệ và tình thương của Chúa.

 Kết quả: Zacaria bị quở trách vì “không chịu tin vào Lời Chúa” (Lc 1.20).  Maria được ca ngợi vì “đã tin rằng Lời Chúa sẽ thực hiện” ( Lc 1,45.38).  Isave được cưu mang Gioan “sẽ làm lớn trước mặt Chúa” (Lc 1,15).  Maria cưu mang “Con Đấng Tối Cao” (Lc 1,32); “Con Thiên Chúa” (Lc 1,35).

Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Đức Maria, ta thầy rằng: công cuộc vĩ đại của Thiên Chúa là cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời được bắt đầu một cách rất âm thầm.  Một cuộc đối thoại Truyền Tin tại một làng quê, giữa Thiên Sứ với một thôn nữ chẳng mấy người biết.  Chúa Giêsu đã diễn tả sự khởi đầu bé nhỏ nhưng thành quả lại lớn lao qua dụ ngôn hạt cải: “Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất.  Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng” (Mc 4,31-32). Thiên Chúa thường khởi sự những việc hết sức lớn lao bằng những việc hết sức bé nhỏ, với những con người cũng hết sức nhỏ bé.  Như thế người ta mới thấy quyền năng của Ngài, mới thấy Ngài là một Thiên Chúa vĩ đại: “Những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh”(1Cr 1,27).

TRUYEN TIN

Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria, ta thấy Thiên Chúa chọn những ai sống đẹp lòng Ngài.  Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ.  Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9,12.16), và cũng vì Maria đẹp lòng Thiên Chúa.  Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận.  Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ân huệ nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.  Thiên sứ nói với Đức Maria: “Quyền năng của Đấng tối cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế Đấng Thánh con của bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc.1, 35).  Tiếng quan trọng ở trong câu đó là “bao trùm lên” hay “bao phủ lên.”  Lều tạm nơi dân Do Thái để hòm Giao Ước.  Câu Xh 40,34 nói rằng bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện”.  Việc Luca chọn và dùng từ “bao trùm lên” có ý nghĩa thâm sâu.  Luca so sánh thân thế Đức Maria với lều tạm nơi đặt Hòm Giao Ước của Thiên Chúa.  Luca so sánh cung lòng Đức Maria nơi Đức Giêsu sẽ tới cư ngụ với Hòm Giao Ước nơi đặt hai phiến đá có ghi 10 điều răn của Thiên Chúa.  Như vậy nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria, thì có “Thiên Chúa hiện diện” trong Mẹ.  Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài trong “lều tạm.”  Sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria chính là sự hiện của Đức Giêsu bằng xương bằng thịt.

Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria, ta thấy Đức Maria đã tự do đáp tiếng “Xin vâng”. Trong Hiến Chế Lumen Gentium số 56, Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa quan trọng của câu chuyện Truyền Tin và sự ưng thuận tự do của Đức Maria: “Các thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để Ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của Ngài.  Thực vậy, Thánh Irênê nói : “Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở thành nguyên nhân ơn cứu độ cho bản thân Mẹ và cho toàn thể nhân loại.”  Và cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân phục của bà Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria; điều mà trinh nữ Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, thì Trinh Nữ Maria đã tháo ra nhờ lòng tin.”  Và so sánh với Evà, các Giáo phụ gọi Đức Maria là “Mẹ các sinh linh” và thường quả quyết rằng: “Bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống.”  Trong Sứ điệp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ Lần Thứ 18 năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói với giới trẻ rằng: Trong biến cố Truyền Tin, Đức Maria trao ban bản tính nhân loại cho Con Thiên Chúa trong cung lòng Mẹ với lời tự do chấp nhận: “Này tôi là tôi tớ Chúa.”  Dưới chân Thánh Giá, nơi thánh Gioan, Đức Maria đón nhận toàn thể nhân loại vào tâm hồn mình: “Hỡi bà, này là con bà.”  Là Mẹ Thiên Chúa ngay từ lúc đầu tiên của biến cố Nhập Thể, Mẹ đã trở thành Mẹ loài người trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu, Con Mẹ.  Cuộc đối thoại Truyền Tin là khoảnh khắc Thiên Chúa “bật mí” cái bí mật từ ngàn đời.

Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi muốn trở thành một con người giữa nhân loại.  Và Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria là để Ngài sai Con Một Ngài đến giữa chúng ta, thực hiện chương trình cứu độ của Ngài đối với trần gian.  Giây phút Mẹ tự do đáp lời “Xin vâng” là khởi đầu bình mình ơn cứu độ cho thế nhân.

Mẹ Maria đã đáp “Xin vâng” không chỉ một lần mà còn nhiều lần trong đời.  Mẹ Maria mãi mãi là tấm gương cho chúng ta soi trong cuộc đối thoại lắng nghe Lời Chúa và đáp trả Lời Chúa.  Thiên Chúa đã chứng tỏ nơi Mẹ điều không thể để trở nên điều có thể.  Vì “cái gì cũng có thể đối với người có lòng tin” (Mc 9,23).

 LM Giuse Nguyễn Hữu An

Langthangchieutim gởi