Làm phúc có… tội!

Làm phúc có… tội!

Người ta vẫn thường nói: “Làm phúc phải tội”. Một câu tương đương khác:“Làm ơn mắc oán”. Thậm chí người ta còn so sánh: “Cứu vật, vật trả ơn; cứu nhân, nhân trả oán”. Nếu như vậy thì con người không bằng con vật. Và chắc hẳn rằng chẳng ai xa lạ gì với các kiểu nói “nhoi nhói” như vậy. Làm phúc mà có tội, làm ơn mà bị oán. Ôi, thế thái nhân tình, thế gian nó gian thế đấy!

Trình thuật Ga 5:1-3a, 5-16 có đề cập vấn đề này. Thánh Gioan kể…

Sau đó, nhân dịp lễ của người Do Thái, Đức Giêsu lên Giêrusalem. Tại Giêrusalem, gần Cửa Chiên, có một hồ nước, tiếng Híp-ri gọi là Bết-da-tha. Hồ này có năm hành lang. Nhiều người đau ốm, đui mù, què quặt, bất toại nằm la liệt ở đó.

Ở đó, có một người đau ốm đã ba mươi tám năm. Đức Giêsu thấy anh ta nằm đấy và biết anh sống trong tình trạng đó đã lâu thì nói: “Anh có muốn khỏi bệnh không?”. Bệnh nhân đáp: “Thưa Ngài, khi nước khuấy lên, không có người đem tôi xuống hồ. Lúc tôi tới đó thì đã có người khác xuống trước mất rồi!”. Đức Giêsu bảo: “Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi!”. Người ấy liền được khỏi bệnh, vác chõng và đi được. Hôm đó lại là ngày sa-bát.

Người Do Thái mới nói với kẻ được khỏi bệnh: “Hôm nay là ngày sa-bát, anh không được phép vác chõng!”. Nhưng anh đáp: “Chính người chữa tôi khỏi bệnh đã nói với tôi: Anh hãy vác chõng mà đi!”. Họ hỏi anh: “Ai là người đã bảo anh vác chõng mà đi?”. Nhưng người đã được khỏi bệnh không biết là ai. Quả thế, Đức Giêsu đã lánh đi, vì có đám đông ở đấy. Sau đó, Đức Giêsu gặp người ấy trong Đền Thờ và nói: “Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!”. Anh ta đi nói với người Do Thái: Đức Giêsu là người đã chữa anh khỏi bệnh. Do đó, người Do Thái chống đối Đức Giêsu, vì Người hay chữa bệnh ngày sa-bát.

Là Kitô hữu, cách riêng là tín hữu Công giáo, ai cũng biết rõ rằng Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng thương xót, luôn chạnh lòng thương những người hèn mọn, bé nhỏ, khốn khổ (hồn và xác), thậm chí Ngài cũng không ngại lân la tới gần những kẻ bị xã hội chê trách hoặc lánh xa, những người bị người ta công khai coi là xấu xa, là “phường tội lỗi”.

Làm điều xấu mà bị người ta ghét đã đành, làm phúc hoặc làm ơn mà cũng bị người ta ghét. Điều đó chứng tỏ rằng không thể làm vừa lòng mọi người. Nghèo thì bị khinh, giàu thì bị ghét, dốt thì bị đì, giỏi thì bị triệt. Cỡ nào cũng… chết. Chết chắc!

Đau ốm vài ngày cũng đủ cảm thấy mệt mỏi lắm rồi, huống chi bệnh nhân nằm chờ ở hồ Bết-da-tha kia đã chịu đựng bệnh tật hành hạ suốt ba mươi tám năm. Nửa đời người rồi chứ ít gì! Chúa Giêsu thấy anh ta bị như vậy nên Ngài chạnh lòng thương. Ngài hỏi vì muốn anh ta có dịp xác định niềm tin, chứ Ngài biết rõ là anh ta rất muốn thoát cảnh “tù sống” như thế. Có ai lại không muốn khỏi bệnh? Bị bệnh nặng thì sống mà có khác chi chết đâu? Cái gì cũng phải nhờ người khác, buồn lắm. Mà nào chỉ như vậy, nhờ người ta mà người ta vui vẻ giúp thì còn được an ủi. Chắc chắn có những lúc anh rất khổ tâm vì bị người ta mỉa mai, xa lánh, nguyền rủa,… Cuộc sống cho chúng ta thấy điều đó. Đã và đang không ít người thân đã khó chịu hoặc miễn cưỡng khi giúp người thân bị bệnh tật hoặc già yếu.

Có câu danh ngôn thế này: “Đừng cố gắng trở thành người thành công, mà hãy cố gắng trở thành người có giá trị”. Thật chí lý! Tuy nhiên, người ta chỉ thích là người thành công và nổi tiếng, vì được tán dương, chứ mấy ai thực sự mong muốn trở thành người hữu ích và có giá trị – cho chính mình và cho tha nhân?

Quả thật, đúng như Chúa Giêsu đã từng nguyền rủa nhóm Pharisêu (Biệt Phái), các Kinh Sư và giới Luật Sĩ là giả hình, là mồ mả tô vôi, cùng với các lời chúc dữ: “Khốn cho quý vị…!” (Mt 23:13-32; Mc 12:40; Lc 6:24-26; Lc 11:39-48; Lc 20:47). Ước mong không ai trong chúng ta phải chịu lời nguyền rủa nào nặng nề như vậy!

Chúa Giêsu luôn làm phúc và làm ơn, thế nhưng lại bị người ta ghét cay ghét đắng, ghét đến nỗi họ đã “đồng hóa” Ngài với những tên tội phạm khét tiếng và nguy hiểm nhất trong xã hội loài người, thậm chí Ngài còn bị họ rắp tâm a dua với nhau, quyết liệt phản đối và đòi giết chết Ngài bằng hình phạt ghê gớm nhất thời đó: đóng đinh vào thập giá. Quả thật, họ đã coi tử tội Baraba còn “tốt lành” hơn Chúa Giêsu, vì thế họ mới tha tội chết cho hắn mà lại kết án tử đối với Ngài. Thật tồi tệ!

Cuộc đời cho chúng ta thấy rằng người ta ưa bề ngoài, thích bề nổi, khoái hình thức, tương tự kiểu giả hình nhưng là loại “giả hình tinh vi”. Dù không là Kitô hữu, nhưng Khổng Tử có 7 lời khuyên độc đáo này:

  1. Tâm còn chưa thiện, phong thủy vô ích.
  2. Bất hiếu cha mẹ, thờ cúng vô ích.
  3. Anh em bất hòa, bạn bè vô ích.
  4. Làm việc bất chính, đọc sách vô ích.
  5. Làm trái lòng người, thông minh vô ích.
  6. Không giữ nguyên khí, thuốc bổ vô ích.
  7. Thời vận không thông, mưu cầu vô ích.

Mẹ Thánh Teresa Calcutta chia sẻ: “Không phải tất cả chúng ta đều làm được những điều vĩ đại. Nhưng chúng ta có thể làm những điều nhỏ nhặt với tình yêu vĩ đại. Việc tốt là những mắt xích tạo nên sợi xích tình yêu. Lời tử tế ngắn gọn dễ nói nhưng âm vang của nó thực sự vô tận. Việc tốt bạn làm hôm nay sẽ bị quên lãng vào ngày mai, nhưng dù sao thì bạn hãy cứ làm việc tốt”. Những ý tưởng rất giản dị, dễ hiểu, thế nhưng lại vô cùng thâm thúy!

Xin được ghi lại lời khắc trên nền cũ của Đại Giáo Đường Liibeek (Đức) như một lời nhắc nhở và cảnh báo Chúa Giêsu dành cho mỗi chúng ta – đặc biệt trong Mùa Chay Thánh này:

Con gọi Ta là Tôn Sư nhưng con chẳng vâng lời Ta.

Con gọi Ta là Ánh Sáng nhưng con chẳng thèm nhìn Ta.

Con gọi Ta là Chính Lộ nhưng con chẳng thèm đi trên đó.

Con gọi Ta là Nguồn Sống nhưng con chẳng ước muốn Ta.

Con gọi Ta là Thượng Trí nhưng con chẳng theo Ta.

Con gọi Ta là Tuyệt Mỹ nhưng con chẳng yêu Ta.

Con gọi Ta là Phú Quý nhưng con chẳng xin Ta.

Con gọi Ta là Vĩnh Cửu nhưng con chẳng tìm Ta.

Con gọi Ta là Ân Sủng nhưng con chẳng tin Ta.

Con gọi Ta là Quyền Quý nhưng con chẳng phục vụ Ta.

Con gọi Ta là Uy Quyền nhưng con chẳng tôn vinh Ta.

Con gọi Ta là Công Chính nhưng con chẳng bảo dưỡng Ta.

Con gọi Ta là Thiên Chúa nhưng con chẳng thờ lạy Ta.

Con gọi Ta là Tình Yêu nhưng con chẳng khao khát Ta.

Con gọi Ta là Dũng Lực nhưng con chẳng kính sợ Ta.

Con gọi Ta là Đấng Thánh nhưng con chẳng noi gương Ta.

Con gọi Ta là Nhân Lành nhưng con chẳng tự hạ.

Nếu Ta kết án con, con không thể trách Ta được!

Lạy Thiên Chúa, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con Thần Khí Thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con (Tv 51:12-14).

TRẦM THIÊN THU

Miền Chay Tịnh – 2017

From: hnkimnga & Anh chị Thụ Mai gởi

CON CÓ UỐNG NỔI CHÉN THẦY SẮP UỐNG KHÔNG?

 CON CÓ UỐNG NỔI CHÉN THẦY SẮP UỐNG KHÔNG?

Thầy yêu mến;

 Có một câu chuyện được kể lại trong Thánh Kinh như sau: “Bấy giờ bà mẹ của các con ông Dê-bê-đê đến gặp Đức Giê-su, có các con bà đi theo; bà bái lạy và kêu xin Người một điều.  Người hỏi bà: “Bà muốn gì?” Bà thưa: “Xin Thầy truyền cho hai con tôi đây, một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong nước Thầy.” Đức Giê-su bảo: “Các người không biết các người xin gì.  Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” Họ đáp: “Thưa uống nổi.” Đức Giê-su bảo: “Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được.”(Mt 20, 20-23)

Thầy kính mến!  Hơn lúc nào hết, chính lúc này đây trong tâm tình của những tuần mùa chay thánh này, con cũng đang nghe bên mình câu hỏi của Thầy Giê-su: “Con có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” (Mt 20, 22).  Câu hỏi đó giống như là:

Lời mời gọi bước theo dấu chân của Thầy Chí Thánh.

Mùa Chay là thời giờ mà Giáo Hội dành tặng cho con để con có thể tái khám phá khuôn mặt Đức Giê-su qua những đau khổ của anh chị em xung quanh con.  Và nhắc nhở con đứng dậy để “trở về” với tình yêu của Thiên Chúa bằng việc từ bỏ những thói hư tật xấu của bản thân và những gì có thể ngăn trở việc tiến về Chúa.  Để cho chúng con được trở nên một với Ngài.

            Trước những đau khổ và phiền muộn của kiếp người, con được mời gọi dâng những “chén đắng” trong hành trình trần thế của con kết hợp với những nỗi thống khổ Chúa Giê-su đã chịu trên Thánh Giá xưa.  Để cho chúng con được trở nên một với Ngài.

            Hơn thế nữa, Mùa Chay, Giáo Hội cũng dạy cho con biết: Thiên Chúa Đấng toàn năng đã chết thật vì tội lỗi của loài người thế nhưng Ngài đã chiến thắng sự chết và đã trỗi dậy thật.  Ngài yêu nhân loại cho đến độ hy sinh mạng sống mình và lại còn khiêm nhường ở lại trong tấm bánh trắng nhỏ bên hòm chầu hàng ngày.  Con được mời gọi để chia sẻ “tình yêu cao vời” hơn cả trời xanh ấy với anh chị em con.  Để cho chúng con được trở nên một với Ngài.

            Thầy yêu mến; Thầy mời gọi con uống chung một chén với Thầy để con có thể trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy trong một tình yêu duy nhất.  Xin ban cho con có một Đức tin cứng cáp, lòng cậy vững vàng để con có thể trỗi dậy sau những lần gục ngã mà không để ngọn lửa Đức tin bị lụi tàn.

Và… Câu trả lời của con.

Thầy kính mến; câu hỏi của Thầy sẽ mãi là câu hỏi mà cuộc hành trình trần thế của người Ki-tô hữu như con là chính câu trả lời.  Câu trả lời ấy chính là sự đáp trả lại tình yêu của Đức Giê-su bằng việc chia sẻ tình yêu của Thiên Chúa với những người anh em xung quanh cuộc sống hàng ngày.  Điều đó có thể chỉ là những lời ủi an người anh em khi họ đang trong cơn đau khổ.  Cũng có thể chỉ là ngồi lắng nghe ai đó chia sẻ nỗi đau với một trái tim cảm thông và yêu mến.  Đôi khi cũng là chia san chén nước mát với người lữ khách đang khát.  Con xin nguyện làm khí cụ trong tay Ngài.

Thầy yêu mến, câu trả lời chính là sống với tâm tình tạ ơn, chia sẻ tình yêu Thầy với những người anh em nghèo khó và kể câu chuyện cổ tích tình yêu mà Giê-su đã chết trên thập giá xưa chỉ vì “yêu”.

 Con DomStone

From: ngocnga_12  & Anh chị Thụ & Mai gởi

Khi tỉnh lại, trông thấy trời sáng lạn,

Suy Tư Tin Mừng Chúa nhật Phục Sinh 16/4/2017

Tin Mừng Phục Sinh Gioan 20: 1-9

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.”

Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.0 Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà.

 &      &     &

“Khi tỉnh lại, trông thấy trời sáng lạn,

“con đường đi bừng nở ánh muôn hồng.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mai Tá lược dịch.

            Chợt lúc tỉnh, nhà thờ thấy đất trời đã sáng lạn. Khi vụt sống, nhà Đạo lại thấy đời mình mãi cứ vui. Đất trời đời mình vẫn rất vui vì người người cùng Chúa nay sống lại. Và từ nay, mọi con đường ở phía trước đều bừng sáng ánh muôn hồng.

            Trình thuật thánh Gioan hôm nay cũng diễn tả ý tưởng về ánh muôn hồng bừng nở ở con dân nhà Đạo, khắp muôn người. Sự việc Chúa bừng nở Phục Sinh, đã làm ánh hồng toả sáng cõi dân gian vũ trụ, rày thấy rõ. Dân gian vũ trụ vừa cùng Chúa trải nghiệm cuộc khổ nạn đã theo Ngài đi vào mộ phần, trong lịm tắt, để Vượt Qua. Ngài vượt từ trạng thái sống ở đời tạm qua cuộc sống vĩnh cửu rất khác biệt. Vượt qua, là Ngài vượt trở ngại của cuộc sống phàm trần đầy chết chóc để về với Cha, nhờ Phục sinh, quang vinh theo đúng kế hoạch Cha giao phó.

Nhờ trỗi dậy từ cõi chết, Đức Giêsu đã thực sự trở thành Con Thiên Chúa, rất tràn đầy. Từ đầu, Ngài sinh bởi Thiên Chúa là Cha, nhờ Thánh Thần. Và, suốt cuộc đời trần thế, Ngài chấp nhận thân phận của Người Con, để rồi ngày qua ngày, sống tiến trình Phục Sinh quang vinh ấy, trong hiện thực. Tiến trình, bao gồm việc chuyển đổi và thăng hoa nỗi chết để sống lại. Nói cách khác, Ngài nhận thức Mình là Con Thiên Chúa, luôn sống lại và tăng trưởng Phục Sinh thăng hoa mọi người.

Ơn cứu độ đến không phải bằng hành động do Ngài định sẵn, nhưng ở Bản vị Ngài quan hệ với Cha. Ngài không kết hợp với tội lỗi mà chỉ phối kết với người phàm dễ phạm tội. Điều này xảy ra không do lý luận nào từ bộ não của phàm nhân đầy tội lỗi. Nhờ vào bản chất Con Thiên Chúa và do Cha đặt để, Ngài giáng hạ với trần thế và để cho Cha Ngài tạo dựng thế trần trong cung cách bí nhiệm của những sinh hạ tục phàm, giống như thế.

Tựa như tiến trình sinh hạ nơi con người, Phục sinh là con đường trải nghiệm việc hạ sinh rời bỏ cung lòng người mẹ, để trở thành một bản thể khác, rất tuyệt đối. Tiến trình này thành tựu, như một thể thức nguyện cầu rất mới mẻ. Tiến trình, có được là nhờ Thánh Thần Chúa phú ban, để rồi khi Phục Sinh quang vinh, Đức Giêsu ở vào vị trí hoàn tất lịch sử. Và, Ngài trở thành Đấng lại đến vào mỗi khoảnh khắc của lịch sử còn diễn tiến. Trên thực tế, Tiệc Thánh Thể là nhiệm tích cho thấy Ngài hiện diện như Bản Thể hiện hữu ở mọi nơi, vào mọi thời.

Hiểu Phục Sinh theo cách này, người đọc Tin Mừng Sống Lại sẽ nhận ra Thánh Thần Chúa là Quyền Uy Sức Mạnh thánh thiêng đã và đang thực hiện việc sản sinh nơi mọi loài, vào mọi thời. Và Thánh Thần Chúa đầy Quyền Uy Sức mạnh nay trao ban cho ta cũng một uy quyền sinh sản hệt như thế vào lúc này, ngày Phục Sinh.

Muốn hiểu Phục Sinh một cách trung thực, đừng nên hiểu đó như buổi cử hành Phụng vụ do Hội thánh thực hiện trong ít tiếng đồng hồ chỉ mỗi thế. Để rồi, người nông nổi sẽ lại trở về với cuộc sống bình thường, chẳng biến thái cũng không đổi thay.

Tìm hiểu Phục Sinh, không thể và không nên hiểu như người vừa chầm chậm trỗi dậy về với thế giới đời người, sau một giải phẫu đầy kịch tính. Cũng chẳng nên hiểu Phục Sinh như phản ứng của người thưởng lãm bi hài kịch nhiều tập ở truyền hình, đã thấy nhân vật chính nay bị giết, tức hết chuyện. Bởi, tình trạng hậu-Phục Sinh nơi mọi người, ở khắp chốn, không là chuyện bình thường giống hệt khi trước, tức: đã Phục Sinh rồi, mà chẳng đổi thay tâm can, lòng Đạo. Hoặc chẳng có quyết tâm.

Cả 4 tác giả Tin Mừng không kể lại chuyện Chúa Phục Sinh như kết hậu của bi hài kịch đầy tình tiết rất ủy mị. Nhưng, các thánh vẫn viết và kể về một khởi đầu có “ánh muôn hồng, trời sáng lạn”.

Kể Phục Sinh, các thánh sử kể ra 3 chi tiết rất lớp lang, quan trọng ở Giao Ước, tức: đất miền Galilê, đá tảng lấp mộ và niềm tin khởi đầu.

Galilê đây, không là địa danh mang tính chất thể lý, mà là chốn miền đầy những tinh thần tượng trưng cho việc Thiên-Chúa-là-Cha đang chờ đón Chúa Con về lại với Ngài. Về lại Galilê, là về chốn miền của người nghèo đang có nhu cầu thực tế mà cuộc sống thực tiễn chưa hề khoả lấp. Người người về Galilê, không để ngóng chờ thị kiến gặp gỡ Chúa mà hội luận về sự kiện sống lại. Nhưng, là đi vào hành động giống như Chúa từng thực hiện, tức: gột bỏ mọi chết chóc, trầm cảm và sầu buồn, để rồi đem đến cho dân gian người người niềm vui chữa lành và hy vọng. Làm như thế, người người sẽ cảm nhận uy quyền Phục Sinh rất sống động ở nơi mình, hệt như thánh Phaolô từng nói: “Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh.” (Phl 3: 10)

Đá lấp mồ mô tả ở trình thuật, là trở ngại vẫn cản ngăn ta làm những việc cần làm để sống đích thực điều Chúa dạy. Đá lấp mồ, có thể là bạn bè/người thân. Là: niềm cô đơn, bệnh tật. Là, thế giới đang cản ngăn người người thực hiện một Phục Sinh trong đời mình. Đá lấp mồ, là trở ngại khiến các nữ phụ thăm viếng xác của Thầy mình, phải lăn qua một bên để vào đó mồ bôi xức dầu thơm tẩm xác người thân, cho phải phép. Các chị đến thăm xác Chúa, thấy đá lấp mồ bị lăn, nên đã nghĩ có người uy lực lắm mới làm nổi việc như thế.

Đá lấp mồ, còn là chính nỗi chết từng ngăn chặn mọi người muốn sống tiếp. Lăn đá tảng qua một bên, việc này hàm ngụ ý nghĩa chối bỏ cái chết của người thân thuộc. Hàm ngụ một phiền toái, đem nỗi chết đến với cuộc sống của mọi người. Đá lấp mồ, có thể là kinh nghiệm ta từng trải qua, khiến mình cứ phải sống với ưu tư/lẫn lộn trong quá khứ. Với kế hoạch sống lại Cha đưa ra, không thể có “đá lấp mồ” nào khả dĩ gây trở ngại khiến Ngài không thực hiện được ý định của Chúa Cha.

Đá lấp mồ nay bị lăn đi, cũng hàm ngụ một hãi sợ khác, nơi người sống. Hãi sợ về cuộc sống khác thường ở chốn nào đó rất khác biệt. Khác, với cuộc sống hiện tại, ở thế trần. Cuộc sống khác thường ấy không còn nỗi chết nào khác ám ảnh nữa. Cuộc sống mới ấy, sẽ không phải trải nghiệm bất cứ một hạn chế nào. Cuộc sống ấy, không do bản mình tạo nên. Sống như một quà tặng, khiến người người an vui, không sợ chết. Cuộc sống mới, đã khởi đầu niềm tin rất sáng. Chính đó là sống Phục Sinh của Đức Chúa.

Tin Mừng thánh Gioan đặt nặng vào niềm tin mới khởi đầu, nhiều bừng sáng. Tin Mừng thánh nhân viết có nhắc đến đồ đệ khác, cũng bước vào mộ phần, rồi nhận định: “Ông thấy mọi sự việc xảy đếnVà, ông tin.” (Ga 20: 8-9). Đồ đệ ấy, chính là bản thân người viết đã đạt trọn niềm tin vào Chúa lúc đến thăm và Ngài ban cho các ông chính Thần Khí của Ngài, là Đấng giúp các thánh tin vào sự Sống mới.

Bởi thế nên, người người có đi về Galilê mà vực dậy những người đang chết, cũng đừng nói về cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhưng, cứ tin vào cuộc sống mới. Là, sống chính cuộc đời mình. Sống, biết sẻ san sự sống. Và, để cho quyền năng rất sống lại cứ tràn xuống niềm tin ta đang có, mà vực dậy một ai đó. Để rồi, bằng bằng động thái thân thương/giùm giúp sẽ đưa họ bước vào cuộc sống rất phục sinh, quang vinh.

Truyền thống cổ theo khuynh hướng của thánh Gioan quan niệm rằng: có thể Đức Giêsu chưa hoàn tất sự sống lại của Ngài cho đến khi ta vực dậy một ai đó, khỏi nỗi chết. Cái chết trong lỗi phạm. Phải chăng đó cũng là ý nghĩa Tiệc Thánh ta cử hành, mỗi Chúa Nhật? Phải chăng sự kiện Chúa sống lại sẽ rõ nét hơn ở gia đình/cộng đoàn này hơn là nhóm hội/đoàn thể khác?

Truyền thống của đồ đệ thánh Gioan có thói quen gọi thời điểm Phụng vụ mùa này, tức thời gian từ Chúa Nhật Phục Sinh cho đến Lễ Hiện Xuống, là mùa Hiện xuống của Tinh thần rất mới mẻ ấy. Nói cho cùng, Chay kiêng Tuần thánh là mùa Vượt qua, để ta vượt và qua giai đoạn sự sống hiện tại đến sự sống mới. Hiện Xuống, mới là Phục sinh hiệu năng, rất sở đắc. Và, nay cũng là lúc để ta nguyện cầu cho tinh thần ấy thành hiện thực nơi ta và mỗi người thời Phục Sinh năm nay.

Trong nguyện cầu như thế, ta lại reo vang lời ca của thi sĩ trích ở trên, mà ngâm rằng:

“Khi tỉnh lại, trông thấy trời sáng lạn,

con đường đi bừng nở ánh muôn hồng.

Em tuyệt trần đã mở lối thiên cung,

tôi sửng sốt hái nụ tình phong nhụy.”

(Đinh Hùng – Giáp Mặt Phù Dung)

Phục sinh, vẫn là mùa để người người “sửng sốt hái nụ tình”, niềm vui sáng lạn. Hái nụ tình, ai cũng sẽ hái để mọi người đích thực sống đổi mới, cả tinh thần lẫn xác thân rất tuyệt vời một Phục Sinh.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –

Mai Tá lược dịch.

Người về người đi, hoàng hôn một lối.

ĐẠI LỘ HOÀNG HÔN – Y Vân – Nguyễn Anh Huy – Kim Phụng – BP

httpv://www.youtube.com/watch?v=aDgtogsXXYw

Chuyện Phiếm Đọc Trong Tuần Phục Sinh  năm A 16/4/2017

 “Người về người đi, hoàng hôn một lối!”

“Đường một đưòng hai chiều đưa vào tối.

Trời cao và gió đầy

Hàng cây cùng ghế dài

Nào ai lẻ bóng? Nào ai thành đôi?”

(Y Vân – Đại Lộ Hoàng Hôn)

(Giacôbê 5: 10-11)

 Trần Ngọc Mười Hai

Gọi đó là “Đại-lộ hoàng-hôn” sao? Bạn có hát những câu như thế, chắc chỉ muốn nói rằng: đời người, có nhiều lối đi. Những lối/đường để đi, còn tuỳ đường/lối mình quyết chọn. Kết quả, rồi thì hoặc bạn sẽ  “lẻ bóng” hoặc “thành đôi lứa”, cũng thế thôi.

Nhìn vào nhà Đạo để xem xét những chuyện nổi cộm vừa mới xảy ra qua việc nhận/đón Mình Chúa ở Tiệc Thánh Thể lâu nay vẫn là đầu đề câu chuyện chia-phôi, lẻ bóng rất đôi ngả. Một ngả, khá cứng-cỏi như luật phụng-vụ hoặc Giáo-luật. Còn ngả kia, là lập-trường khá xứng-hợp về mục-vụ do Đức Phanxicô đưa ra.

Trước khi cùng đấng bậc “lờ mờ” ở Sydney phân-tích ý-chủ của Đức Giáo Hoàng, nay mời bạn và mời tôi, ta đi vào vùng trời truyện kể, nói về “Hai con hổ” để rồi sẽ thấy đời mình và đời người cũng có những điều mới lạ, như người kể từng nhận-định. Truyện đây, là truyện kể nhẹ mỗi thế này:

“Có hai con hổ, một con ở trong chuồng, một con nơi hoang-dã với núi rừng trùng-điệp.Hai con hổ đều cho rằng hoàn-cảnh bản thân mình không tốt, đôi bên đều ngưỡng mộ đối phương, thế là chúng quyết-định san/đổi cho nhau thân-phận của mỗi con. Lúc đầu, cả hai con đều vô cùng vui-thích, nhưng không lâu sau đó, cả hai con đều chết cả: một con vì đói mà chết, còn con kia vì u-sầu mà chết tốt, cũng như thế.” 

Và lời bàn của người kể, lại như sau: “Có những lúc, mọi người đều nhắm mắt làm ngơ đối với hạnh-phúc của chính bản thân mình, rồi cứ để mắt chú ý đến hạnh-phúc của người khác. Thật ra thì, những gì ta đang có, lại chính là những điều khiến người khác phải ngưỡng-vọng. “Đời người là như thế. Nhiều chuyện xảy ra theo cách ta không thể ngờ trước được. Cứ đọc các truyện kể đại loại như thế này, rồi suy-nghĩ để tự nhắc nhở mình, thôi.” (theo Tiểu Thiên/cmoney)  

 Nghe truyện rồi, nay thấy giống như nhạc-bản tríchở  trên, có những lời lẽ rất như sau:

“Đời mình là con tàu qua nhiều lối.

Mà thăng trầm như trùng dương nổi sóng.

Trời mây một lớp thành

Biển khơi một nỗi niềm,

Bàn tay còn trắng,

Lòng không tình thương.

 Gió băng gối mộng,

Sương trắng chăn mơ.

Gió khua ngõ hồn,

Mưa ướt tâm tư.

Biết ai tâm sự?

Ghế lạnh lùng chờ.

Những chiều vàng mờ.

 Đại lộ hoàng hôn, hồn hoa ngập nắng.

Thời gian thường vô tình theo đời sống.

Ngày xanh thì khuất dần.

Chiều rơi nhuộm tóc vàng.

Mà trong lòng thấy còn thiếu tình thương.”

(Y Vân – bđd)

Con tàu đời người lại vẫn trải qua nhiều lối rất thăng trầm như trùng dương nổi song. Vâng. Chính đó là một triết-thuyết rất chí tình. Triết-thuyết đây, lại là lý lẽ mang tính triết-học ở đời người gồm nhiều học-thuyết dân-gian lẫn bác-học. Học, thứ triết-lý uyên-bác cho mình và cho đời, cũng tốt thôi.

“Đại lộ hoàng hôn, hồn hoa ngập nắng.Thời gian thường vô tình theo đời sống.” Vâng. Đúng đấy. Nếu đứng từ góc cạnh hoặc tầm nhìn rất đạo của ta mang nhiều đường lối sống trong đời đi vào đời mà sống đúng đường lối lễ-giáo, đạo-hạnh/lành thánh có nghi-thức/thói quen mang nhiều ý-nghĩa khá để đời.

Và, nay trong Đạo làm người của con người, lại thấy có cái gì đó tựa như câu hát tiếp: “Ngày xanh thì khuất dần. Chiều rơi nhuộm tóc vàng. Mà trong lòng thấy còn thiếu tình thương.”

Vâng. Dựa vào câu hỏi/đáp của người trong Đạo rất sống đạo, nay lại thấy xảy ra một vài thắc mắc cũng khá khó, những bảo rằng:

“Thưa Linh mục. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã viết trong Tông-thư Amoris Laetitia có bảo rằng: Tiệc Thánh Thể “không phải là phần thưởng cho người tốt lành, nhưng là môn thuốc cực mạnh và là chất dinh-dưỡng dành cho kẻ yếu mềm.” Ngài nói thế, phải chăng có ý nhắn-nhủ rằng việc Hiệp Thông Rước Lễ đã tha-thứ cho các lỗi tội, cả đến tội trọng mình mắc phải. Môn thần-dược được ban cho những ai đang ở vào tình-trạng mắc tội trọng/chết người, chăng?”

 Người đi Đạo và giữ đạo lâu nay vấn sống vui vẻ, giờ lại nghe phán quyết có tính-cách hỗ-trợ kẻ yếu mềm, kể cũng hay hay. Tuy nhiên, hay hay hoặc tốt đẹp cỡ đi nữa, hãy cứ để đấng bậc “lờ mờ” ở Sydney luận-bàn ra sao, thế nào, rồi hãy tính. Bàn luận của đức ngài đặc-biệt như sau:

“Văn-bản mà anh/chị vừa rút tỉa là đoạn trích từ lời chú thích số 351 ở thông-tư do Đức Giáo Hoàng viết vào độ trước, ngang qua Tông-thư khác mang tên là “Evangelii Gaudium” (tức: Niềm vui Tin Mừng) phát-hành vào năm 2013, ở đoạn 47. Điều ngài nói, là truyền-thống giáo-huấn của Hội-thánh bấy lâu nay. Hiệp-thông Rước lễ là môn thuốc cực mạnh có khả-năng tha-thứ mọi lỗi/tội nào không phải là tội trọng.      

 Hai đoạn viết trong Tông-thư “Evangelii Gaudium”, là ý-tưởng do Đức Phanxicô rút từ sách các Giáo-phụ viết trước đây. Một, của thánh Ambrôsiô từng nói: “Tôi phải rước Chúa vào lòng suốt đời tôi, để được tha thứ hết mọi tội. Giả như tôi cứ liên-hồi phạm tội suốt như thế, tôi cần tìm ra thuốc chữa, mới được.” (X. De Sacramento, IV 6, 28) Đoạn trích thứ hai cũng rút từ văn-bản nói trên, đã từng viết: “Ai ăn Manna từ trời đổ xuống thảy đều chết tốt, còn ai đón nhận Mình Chúa vào lòng sẽ được thứ tha hết mọi tội.” (IV, 5, 24)

 Có Giáo-phụ khác là thánh Cyrillô thành Alexandria lại cũng bảo: những ai tìm cách xa lánh việc Hiệp thông Rước lễ vì thấy mình không xứng đáng, nên đã nói: “Tôi tự xét thấy mình không xứng đáng để làm thế. Với những người nói những câu như thế, thì tôi bảo: cho đến khi nào anh/chị mới mình xứng đáng đây?

 Phải chăng đó là lúc anh/chị ra trình-diện trước mặt Đức Kitô? Và giả như tội lỗi của anh/chị cản-ngăn không cho anh/chị đến gần Ngài, và anh/chị chẳng bao giờ thôi không còn sa ngã –bởi, như lời Thánh vịnh có câu rằng: con người biết gì về các tội mình phạm? – và anh/chị sẽ ra sao nếu không tham-gia trở nên lành thánh Chúa ban cho sự sống đời đời?” (Xem In Joh. Evang.IV, 2)

 Năm 1905, Toà Thánh La Mã có trích sắc lệnh “Sacra Triđentina”, qua đó có khuyên mọi người hãy đón nhận Mình Chúa mỗi ngày và dạy rằng: Việc Hiệp thông Rước Lễ không là phần thưởng cho nhân-đức ta có, nhưng đúng hơn, là phương-thuốc chữa-lành mọi tội. Sắc-lệnh này, lại đã bảo rằng việc thường xuyên rước Chúa vào lòng nhằm mục đích “giúp tín-hữu kết-hợp với Chúa ngang qua các Bí-tích, và nhờ đó có được sức mạnh chống-trả mọi thứ đam-mê xác thịt để rửa sạch con người mình khỏi bị các vết nhơ tội lỗi mắc phạm hằng ngày; như thế, mới tránh được các tội nặng do sự yếu mềm con người thường mắc phải.

 Có người hỏi rằng: việc Hiệp thông Rước lễ có tha hết mọi tội trọng cùng tội nhẹ không? Câu trả lời , là: Không! Bởi, việc tha tội trọng là nhờ Bí tích Thanh-tẩy. Trường-hợp kẻ mắc tội là người lớn, thì cần đến Bí-tích Hoá-giải mới được tha. Thế nên, ta không thể nhờ việc Hiệp thông Rước Chúa mà tha ban cho những người đang ở trong tình-trạng vướng/mắc tội trọng, được.

 Sách Giáo Lý Hội thánh Công-giáo có dạy rằng: Không thể nhờ vào việc ban phát Mình Chúa để tha thứ các tội trọng mà con người từng mắc phải; đó là kết-quả của Bí tích Hoá giải. Mình Chúa đích-thực là Bí-tích dành cho những ai ở trong trạng-thái kết-hợp hài-hoà với Giáo-hội.” (X. GLHTCG đoạn 1395).

Và, Sách Giáo Lý Hội thánh cùng với giáo-huấn của các thánh Giáo-phụ thời trước lại đã dạy: “Việc Hiệp thông Rước Chúa sẽ tha hết các tội nhẹ ta mắc phải và bổ sức để ta tránh tình-trạng mắc tội trọng. Chính vì lý-do này mà Tiệc Thánh Thể không thể kết-hợp ta với Đức Kitô mà đồng thời lại không tẩy sạch các tội ta phạm trước đó, cũng như gìn giữ ta khỏi mọi tội lỗi ta vướng mắc trong tương-lai.” (X. GLHTCG đoạn 1393, thư 1 Corinthô 11: 26)

Các giáo-huấn đây là những điều khiến ta được giải-khuây rất nhiều. Mọi người, ai cũng có lúc phạm tội. Và, điều làm ta phấn-khởi hơn cả là biết rằng: ta không cần và dĩ nhiên là không được phép xa rời việc rước Chúa chỉ vì ta từng mắc phải nhiều tội nhẹ. Thành thử, Hiệp-thông Rước Chúa, cũng giống như các hành-vi tốt đẹp khác, đã thứ-tha các tội lỗi ấy và giúp ta tăng-trưởng trong tình-yêu của Chúa và yêu thương người đồng-loại. Và như thế, ta được củng-cố thêm sức mạnh để không còn sa-ngã hoặc mắc phạm tội trọng nào nữa. Thế nên, ta phải hiệp thông rước lễ càng thường xuyên càng tốt.” (X. Lm John Flader, Receiving the Lord in the Eucharist helps us to become truly free,The Catholic Weekly 25/12/2016 Question Time, tr. 32)

Nói theo bài bản, sách vở hoặc luật-lệ thì như thế. Nhưng Đức Phanxicô vẫn có lý khi ngài, đứng trên cương vị của đấng bậc chí cao trong Hội-thánh làm mục-vụ. Thành ra, vấn-đề đặt ra cho mỗi người và mọi người, là: nếu ta cứ cứng ngắc tuân-thủ luật lệ của Hội thánh hoặc uyển-chuyển vâng nghe lời đấng bậc chăn dắt mình, trong Giáo hội đây?

Có lẽ cũng là điều hay và nên làm, là: cùng nhau quay về với Lời khuyên của đấng thánh-hiền mà Giáo-hội lâu nay lại coi là “Lời Chúa”, rất như sau: 

“Vậy đây là điều tôi nói với anh em,

và có Chúa chứng giám,

tôi khuyên anh em: đừng ăn ở như dân ngoại nữa,

vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ.

Tâm trí họ đã ra tối tăm,

họ xa lạ với sự sống Thiên Chúa ban,

vì lòng chai dạ đá khiến họ trở nên dốt nát.

Họ đã mất ý thức nên đã buông thả,

sống phóng đãng đến mức làm mọi thứ ô uế cách vô độ.

Còn anh em, anh em đã chẳng học biết về Đức Kitô như vậy đâu;

ấy là nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giêsu và được dạy dỗ theo tinh thần của Ngài,

đúng như sự thật ở nơi Đức Giêsu.

Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa,

là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối,

anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em,

và phải mặc lấy con người mới,

là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa

để thật sự sống công chính và thánh thiện.”

(Êphêsô 4: 17-24)

Thật tình mà nói, “sự sống công-chính và thánh-thiện” mới đúng là mục-tiêu sống-động của người đi Đạo và sống đạo làm người. Sống công-chính/thánh-thiện trong cả cuộc đời bình-dị chứ không chỉ thực-hiện việc Hiệp-thông Rước Chúa vào lòng mà thôi.

Thế nhưng, vấn đề đặt ra là: làm sao ta có thể gọi cuộc sống của ai đó là sống công-chính/thánh-thiện? Câu trả lời đây, thật cũng khó. Khó, là bởi mỗi người mỗi ý. Mội vị một lập-trường. Và lập-trường người nào cũng hay cũng tốt hết. Duy, có áp-dụng vào cuộc sống thường-nhật được hay không, đó mới phải.

Để có thể thu-thập và sống thực lập-trường thánh-thiện, bần đạo vừa “chộp” được quan-điểm/lập-trường của một thàn-học-gia tên tuổi, từng viết như sau:

“Nếu hỏi rằng: đối với tôi, lành-thánh/hạnh-đạo là gì? Thì tôi sẽ nhanh chóng trả lời: Đó là lòng muốn/ý-định của Thiên-Chúa chuyển đến với con người trần-tục. Ta có bổn-phận phải đi tìm những gì tốt lành/hạnh đạo cả trong cuộc sống. Ta phải trải-nghiệm mà sống sao cho lành thánh/hạnh-đạo.

 Lành thánh, và ý-thức biết rõ Thiên Chúa hiện-diện một cách nhưng-không và tuyệt-đối. Đó, là sự chính-trực toàn-vẹn của con người, nhưng được cất nhắc đưa vào tình-trạng thâm-giao với Thiên Chúa. Nói thế, tôi không có ý bảo rằng việc sống thực Đạo Chúa và trở-thành con người thực-thụ là chuyện tương-đồng bởi lẽ ta không thể trở-thành con người mà lại không có tương-quan sinh-động với Thiên Chúa, được.

 Thế nhưng, sự lành thánh/hạnh-đạo là bản-chất nhân-đạo của người trần-tục được cất-nhắc đem vào với sự sống thần-thiêng của Thiên-Chúa. Lành-thánh và đời sống thần-thiêng hoặc đời sống có huệ-lộc cũng cùng một thứ. Đời sống thần-thiêng giả-định trước và đảm-trách sự sống có đạo-đức, thế nhưng sự thần-thiêng lại hơn cả luân-thường đạo- đức và đời sống Kitô-hữu không hề bị giảm-thiểu thành đời sống có luân-thường đạo-đức, tức là mấu chốt đời sống của tín-hữu Đức Kitô.” (X. Edward Schillebeeckx, I Am a Happy Theologian, SCM Press Ltd 1994, tr. 60)

Nhận-định thế rồi, nay ta quay về với lời vàng đấng thánh từng bảo ban hết mọi người lành-thánh/hạnh-đạo, cho ra người:    

“Thưa anh chị em,

nếu có người nào trong anh chị em lạc xa chân lý

và có ai đưa người ấy trở về,

thì anh chị em hãy biết rằng:

kẻ nào làm cho một tội nhân bỏ đường lầm lạc mà trở về,

thì cứu được linh hồn ấy khỏi chết

và che lấp được muôn vàn tội lỗi của mình.”

(Giacôbê 5: 19-20)

Ấy đó, cũng là một lời khuyên lành-thánh của bậc hiền-nhân hạnh-đạo. Lại cũng có những lời chân-tình của người thường trong đời vẫn kể cho nhau nghe các tình-huống có thực trong cuộc đời người, bằng truyện kể rất dễ nghe và dễ thực hiện, như sau:

  “Một ngày kia, có đại-gia trung-niên tướng mạo xấu xí, dẫn theo một kiều-nữ đến một cửa hàng chuyên buôn bán những chiếc túi xách hàng hiệu cao-cấp.

 Ông ta đã chọn một túi xách trị giá đến 18.000 USD cho cô gái. Khi trả tiền, người đàn ông lấy ra cuốn chi phiếu, chẳng ngần ngại điền số tiền tương ứng vào một tờ chi phiếu, nhân viên cửa hàng có phần khó xử. Người đàn ông nhìn thấu tâm tư của cô nhân viên, nên hết sức bình tĩnh nói với người bán hàng: “Tôi cảm thấy dường như cô đang lo sợ đây là một tờ chi phiếu khống, phải không?

 Hôm nay lại là Thứ Bảy, ngân hàng không mở cửa. Thôi thì tôi đề nghị cô hãy giữ tờ chi phiếu và cả cái túi xách này lại. Đợi đến đầu tuần tới, sau khi đổi được tiền rồi, thì xin cô hãy gửi túi xách này đến nhà của vị tiểu thư xinh đẹp này, cô thấy như vậy có được không?”

Cô nhân viên cửa hàng nghe xong hoàn toàn yên tâm, vui vẻ chấp nhận lời đề nghị này, lại còn hào hứng cam đoan rằng chi phí gửi túi xách sẽ do cửa hàng này đảm nhiệm.

 Sáng Thứ Hai, nhân viên cửa hàng đem tấm chi phiếu đến ngân hàng thanh toán, kết quả tờ chi phiếu này quả thật là tờ chi phiếu khống! Người nhân viên vô cùng tức giận, liền gọi điện cho người đàn ông đó, người đàn ông nói với cô rằng: “Chuyện này có gì to tát lắm đâu, tôi và cô cả hai đều không bị tổn thất gì cả.

 Hôm Thứ Bảy đó, tôi cuối cùng đã chiếm hữu được cô gái đó rồi! Thật lòng cảm ơn sự hợp tác của cô”.Câu chuyện này nói với chúng ta rằng:Những gì mà chính bản thân ta “nhìn thấy tận mắt” cũng chưa chắc đã là thật.Tham hư vinh thì phải trả một cái giá rất đắt.

 Cô kiều nữ kia cho rằng cái túi xách trị giá hàng nghìn USD đó sẽ được giao đến tận cửa nhà vào sáng Thứ Hai, nên tự nhiên cũng đã buông lơi cảnh giác, cho rằng đầu tư như vậy thật là xứng đáng. Cô vốn đã không biết rằng bản thân mình đang chơi trò mạo hiểm, chẳng có gì đảm bảo cho mình sự thật sẽ như thế.

 Trên đời này, lắm người vẫn làm những chuyện trái-khuấy khiến người khác không còn tin tưởng một ai khác. Những người như thế, nhất-định không thể là người lành-thánh/hạnh đạo được. Để minh hoạ cho khẳng định này, tưởng cũng nên nghe thêm một truyện khác cũng rất được.

Truyện rằng:

Con cáo nọ phát hiện ra cái chuồng gà ở gần nhà. Nhưng cáo ta vì quá mập, không thể chui lọt qua hàng rào nhà người ta để ăn gà. Thế là, nó nhịn đói suốt ba ngày, cuối cùng cũng lọt vào được. Tuy nhiên, sau khi ăn no nê rồi, chiếc bụng phình to, nên cáo ta lại không thể ra khỏi chuồng gà ấy được, đành phải bắt đầu nhịn đói lại ba ngày mới ra được.

 Cuối cùng, nó xót xa than-thở rằng: “Bản thân mình ngoài chuyện nhất thời sướng miệng ra, trên cơ bản hoàn toàn là phí công vô ích”.

Và lời bàn của người kể truyện, vẫn nghĩ rằng: “Đời người không phải cũng như vậy sao. Đến trần truồng mà ra đi cũng trần truồng. Không ai có thể mang theo tài sản và danh vọng mà mình đã vất vả kinh doanh một đời để theo cùng.Dùng tuổi trẻ để kiếm tiền, nhưng tiền lại không mua lại được tuổi trẻ. 

Dùng mạng sống để kiếm tiền, nhưng tiền lại không mua lại được mạng sống;Dùng hạnh phúc để đổi lấy tiền, nhưng tiền lại không mua lại được hạnh phúc. Dùng thời gian để kiếm tiền, nhưng tiền lại không mua lại được thời gian.

Cho dù có dùng cả cuộc đời để có được tất cả tiền bạc của cả thế giới, nhưng tiền bạc của cả thế giới cũng không mua lại được cuộc đời của bạn.Vậy nên những lúc nên làm việc thì hãy làm việc, những lúc nên nghỉ ngơi thì hãy nghỉ ngơi, vui vẻ làm việc, tận hưởng cuộc sống, trân quý tất cả những gì mà mình có được, hãy yêu thương những người mà bạn yêu thương, vui vẻ mà sống trọn từng ngày. 

Sống một ngày vui vẻ là sống một ngày, Sống một ngày không vui vẻ cũng là sống một ngày…….Vậy tại sao chúng ta lại không trân quý hết thảy, vui vẻ mà sống trọn một ngày chứ!”(St sưu tầm) 

Lời bàn của người kể thật ra cũng có thể áp-dụng vào chủ-đề mà bạn và tôi, ta đang bàn. Giúp người khác sống lành-thánh/hạnh đạo, đâu là chuyện cứ khuyến-khích người khác đi nhà thờ dự Tiệc Thánh, nhưng không được Hiệp thông Rước Chúa nếu đã phạm tội nhẹ hay trọng.

Bởi, nếu thế thì, đâu là ý-nghĩa đích-thực của Tiệc Lòng Mến? Tham-dự Tiệc chay hay mặn mà lại không được tiếp-nhận vào mình Thiên-Chúa-Là-Tình-Yêu biểu-trưng Tiệc Tình-Yêu qua Bánh Thánh và Rượu Thánh, thì có lẽ ở nhà mà sống yêu-thương người chòm xóm, thích hơn chăng?

Câu hỏi của bạn bè thân quen nay gửi đến với bạn đọc trong ngoài Hội-thánh tức nhóm hội của những người cho rằng mình vẫn lành-thánh/hạnh đạo. Và, câu trả lời xin dành để cho bạn và cho tôi, bây giờ và mai sau, khi còn sống hay lúc đã qua một đời người, ở mọi thời. 

Trần Ngọc Mười Hai

Và những câu hỏi tương-tự

Vẫn chờ câu trả lời                

dù không thoả-đáng. 

TÌNH YÊU TRỌN HẢO

TÌNH YÊU TRỌN HẢO

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Với kinh Vinh Danh được long trọng xướng lên trong thánh lễ chiều nay, chúng ta cùng với Giáo Hội bước vào Tam nhật thánh.  Khởi đi từ căn nhà nay được gọi là “Nhà tiệc ly”, Chúa Giêsu bắt đầu bước vào cuộc khổ nạn.

Bức tranh do danh họa Leonardo Da Vinci, người Italia, mang tựa đề “Tiệc Ly” hay “Bữa tối cuối cùng – Last supper” là bức tranh sơn tường đầu tiên được khởi vẽ năm 1495 và hoàn thành năm 1498, trên bức tường của một phòng ăn tập thể ở Nữ tu viện Santa Maria delle Grazie, Milan, Ý.  Đây là một tác phẩm bất hủ đã góp phần đem lại danh tiếng cho nhà họa sĩ.  Các tông đồ được chia làm bốn nhóm, mỗi nhóm ba người.  Mỗi vị tông đồ đều được diễn tả trong tâm trạng ngỡ ngàng đến mức thất kinh, hoảng sợ.  Họ vừa nghe Chúa nói: “Có một kẻ trong anh em sẽ nộp Thày ”(Ga 13,22).  Riêng Giuđa, kẻ bán thày, thì vẫn thản nhiên.  Sự lạnh lùng được thể hiện rõ trên khuôn mặt.  Không những thế, họa sĩ còn thể hiện khuôn mặt Giuđa với màu sậm.  Phải chăng, ông muốn diễn tả, sự giảo quyệt gian dối hiện rõ cả nơi khuôn mặt của người tông đồ phản bội?

Trong bối cảnh đó, Đức Giêsu được diễn tả như một người bình thản.  Người điềm tĩnh giữa phong ba, như Người vẫn điềm tĩnh khi thuyền gặp bão trên biển hồ, khi phải đối diện với Philatô, với Hêrôđê, với những người biệt phái và dân chúng bị kích động đang căm ghét Chúa.

Chính trong bối cảnh này, Chúa Giêsu hiến mình làm của ăn của uống cho các môn đệ, và qua các môn đệ, Chúa Giêsu nuôi dưỡng ngàn thế hệ mai sau.  Người ta thường trao quà tặng trong lúc vui vẻ hạnh phúc và cho những người trung thành có công trạng.  Chúa Giêsu trao ban chính mình trong một bữa ăn mà mọi người tham dự đều có tâm trạng hoảng loạn và có người phản bội.  Chúa trao ban thân mình để bày tỏ tình yêu thương và giúp họ can đảm đón nhận mầu nhiệm thập giá gần kề.

Ngày hôm nay, hai mươi thế kỷ sau biến cố Tiệc ly, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục trao ban thân mình cho nhân loại.  Mỗi khi linh mục dâng lễ, qua lời truyền phép, bánh trở nên Mình Chúa, rượu trở nên Máu Chúa.  Bức tranh “Tiệc ly” cũng vẫn đang thể hiện cuộc đời này.  Trước lời mời gọi đến đón nhận Mình Thánh Chúa Giêsu, có nhiều người nhiệt thành sốt sắng, nhưng cũng có những kẻ dửng dưng lạnh lùng, thậm chí có người lại lộng ngôn phạm thượng.  Tại “Bàn-tiệc-cuộc-đời” này, tôi mang khuôn mặt nào trong số các tông đồ?  Trong “cõi người ta” đầy bon chen bận rộn, Thánh Thể vẫn hiện diện, âm thầm và sâu lắng, như bằng chứng của một tình yêu tự hiến, yêu cho đến cùng, yêu hết mọi người dù gặp nhiều phản bội dối gian.

Thánh Thể là Bí tích của tình yêu thương.  Ai đón nhận bí tích này đều được mời gọi thực hành đức bác ái.  Người tín hữu không có đức bác ái sẽ đi ngược với ý nghĩa của bí tích này.  Trong khi các tông đồ hoảng loạn thất kinh, Chúa Giêsu đã làm một việc không ai ngờ tới: Người bưng chậu nước đi rửa chân cho từng người trong họ, kể cả chân Giuđa, người tông đồ phản bội.  Chúa không chỉ rửa chân cho những người luôn ở bên cạnh Chúa như Phêrô, Gioan và Giacôbê mà bỏ rơi những tông đồ khác.  Đó là cách hành xử của con người theo kiểu sòng phẳng có trao có nhận.  Chúa bao dung và nhân hậu với hết mọi người.  Cử chỉ rửa chân được chính Chúa lý giải liền sau đó: “Nếu Thày là Chúa, là Thày, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.  Thày đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thày đã làm cho anh em” (Ga 13,14-15).  Như thế là đã rõ, cử chỉ của Chúa Giêsu vừa là nghĩa cử khiêm nhường yêu thương, vừa là một bài học nêu gương và một lệnh truyền cho các tông đồ hãy bắt chước người.

Hãy thinh lặng âm thầm cầu nguyện bên Thánh Thể để học sống yêu thương và hy sinh cho người khác.  Chúa Giêsu hiến thân vì con người, nhưng con người lại quá so đo tính toán khi hiến thân cho Chúa.  Đức Thánh Cha Phanxicô, trong Sứ điệp Mùa Chay năm 2015, đã nói đến sự dửng dưng vô cảm của con người đối với Thiên Chúa và đối với đồng loại.  Thiên Chúa không bao giờ dửng dưng trước nỗi đau của con người.  Chúng ta hãy học nơi Thánh Thể tình yêu thương và sự hy sinh, phục vụ vì hạnh phúc của những người xung quanh.

Sống màu nhiệm Thánh Thể không dừng lại ở việc rước Mình Thánh Chúa, mà còn được thể hiện qua những nghĩa cử yêu thương, tha thứ, hài hòa trong cách đối xử với tha nhân.  Đó là tình yêu trọn hảo và là lời mời gọi của thánh lễ chiều thứ Năm Tuần thánh.

Gm Giuse Vũ Văn Thiên 

Langthangchieutim goi

TĨNH TÂM MÙA CHAY 2017 – Lm Nguyễn Trọng Tước SJ

CỘNG ĐOÀN CÔNG GIÁO VIỆT NAM TÂY ÚC.
Video TĨNH TÂM MÙA CHAY 2017
Chủ đề: ĐI TÌM CĂN TÍNH ĐỊNH MỆNH
do Lm Nguyễn Trọng Tước. SJ thuyết giảng.

httpv://www.youtube.com/watch?v=8SGFNHecPyE

TĨNH TÂM MÙA CHAY 2017 – ĐI TÌM CĂN TÍNH ĐỊNH MỆNH Phần 1 – Lm Nguyễn Trọng Tước SJ

httpv://www.youtube.com/watch?v=DOf-Tu7nC2g

TĨNH TÂM MÙA CHAY 2017 – ĐI TÌM CĂN TÍNH ĐỊNH MỆNH Phần 2 – Lm Nguyễn Trọng Tước SJ

httpv://www.youtube.com/watch?v=F7U3QGO6YCI

TĨNH TÂM MÙA CHAY 2017 – ĐI TÌM CĂN TÍNH ĐỊNH MỆNH Phần 3 – Lm Nguyễn Trọng Tước SJ

NGÔI MỘ TRỐNG

NGÔI MỘ TRỐNG

(Gioan 20,1-9 – CN PHỤC SINH – Ban ngày)

Lm FX Vũ Phan Long, ofm

1.- Ngữ cảnh

Chúng ta đã sang phần ii của TM Ga, gọi là “Sách về Giờ của Đức Giêsu” với hai phần chính: (1) Đức Giêsu cáo biệt khi đến Giờ (tại Bữa tối cuối cùng) (Ga 13–17); (2) Giờ của cuộc Khổ Nạn-Chết-Sống lại của Đức Giêsu (18,1–20,29).

Phần ii có cấu trúc như sau:

A (18,1-14+) : Đức Giêsu uy nghi toàn năng trước Giuđa kẻ phản bội và nhóm đi bắt Người.

B (18,12-27) : Đức Giêsu bị xử trước thượng tế và các lần Phêrô chối tư cách môn đệ.

C (18,28–19,16b) : Cuộc xử án và kết án Đức Giêsu, vua dân Do Thái, do Philatô thực hiện.

C’(19,16c-42) : Vua dân Do Thái chịu đóng đinh, chết và được an táng trên đồi Gôngôtha.

B’(20,1-18) : Phêrô và người môn đệ Chúa yêu tại mồ trống và Đức Giêsu hiện ra với Maria Mácđala.

A’(20,19-29) : Các lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và Tôma người không tin.

2.- Bố cục

Bản văn Ga 20,1-10 có thể chia thành hai phần:

1) Thời gian: Sáng sớm ngày thứ nhất, Maria Mácđala ra mộ (20,1-2);

2) Hành động chính: Phêrô và Gioan ra mộ (20,3-10).

3.- Vài điểm chú giải

– lúc tảng sáng (1): Prôi, dịch sát là “lúc sớm trong buổi sáng”. Đây là canh cuối theo cách chia của người Rôma, từ 3-6 giờ sáng (người Rôma tính giờ bắt đầu từ nửa đêm).

– Maria Mácđala (1): TM Ga chỉ nêu tên một mình bà Maria Mácđala; Mt nêu tên hai bà; Mc nêu ra ba bà; còn Lc (24,10) nêu tên ba bà “cùng với các phụ nữ khác”. Có lẽ truyền thống Nhất Lãm sát thực tế hơn, bởi vì khó mà cho rằng một phụ nữ lại dám đi một mình trong lúc trời còn nhá nhem đến nơi hành hình ở bên ngoài tường thành. Với lại chính câu nói của bà: “Và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” gợi ý là có nhiều phụ nữ ở với bà. Ngoại trừ Lc 8,2 đã đặt bà Maria Mácđala vào thời gian Đức Giêsu hoạt động công khai và giới thiệu như là người được trừ khỏi bảy quỷ, bà chỉ được nhắc đến trong liên hệ với cuộc đóng đinh và với mộ trống mà thôi. Biệt danh của bà cho thấy là rất có thể bà xuất thân từ thành Mácđala, ở về phía bờ biển tây bắc của Hồ Galilê, cách Caphácnaum khoảng bảy dặm về phía tây nam.

– đi đến  mộ (1): Ga không xác định lý do. Mc và Lc cho biết là các phụ nữ mang dầu thơm đến để tẩm liệm thi hài Đức Giêsu. Mt chỉ nói là các bà đến để nhìn xem mộ, có lẽ vì Mt đã kể là mộ có lính canh nên các bà không thể vào mộ được.

– bà … thấy (1): TM IV có bốn động từ để diễn tả cái nhìn, từ cái nhìn thể lý nhất đến cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc nhất, đó là: blepeintheôreintheasthai, horan [idein]. Các chuyên viên cho rằng “thấy” ở đây là blepein, cấp thấp nhất, nói về cái nhìn mang tính vật chất, cái nhìn bằng mắt thịt (x. ch. 9; 21,9), và như thế blepein không có một ý nghĩa đặc biệt. Dù vậy, vẫn có những ngoại lệ: 5,19 (Đức Giêsu thấy Chúa Cha) và 9,39 (hẳn là tác giả có ý chơi chữ ở đây: dùng một động từ với hai nghĩa).

Theôrein có nghĩa là nhìn tập trung, tức là phải có nhiều thì giờ hơn blepein, do đó cũng hàm ý một sự hiểu biết sâu xa hơn; cái nhìn này đưa đến chỗ chấp nhận Đức Giêsu là một con người đặc biệt, có khả năng làm các việc kỳ diệu, nhưng chưa phải là đức tin tròn đầy (x. 2,23; 4,19; 6,2.19;20,12.14). Tuy nhiên cũng có ngoại lệ: 6,40; 17,24; còn 14,17 có lẽ là một kiểu chơi chữ với hai nghĩa.

Horan (idein) có nghĩa là cái nhìn kèm theo sự hiểu biết đích thực, tức đưa tới đức tin (20,8.25). Câu 16,16 có cách dùng các động từ như thế: “Một ít nữa, anh em sẽ không thấy Thầy (= theôrein), rồi một ít nữa, anh em sẽ xem thấy (= horan) Thầy”. Xem thêm 1,34.50.51; 3,11.32; 11,40; 14,7.9; 19,35.37; 20,29. Tuy nhiên, cũng có ngoại lệ, khi horan được dùng theo nghĩa thể lý: 1,39; 5,6; 4,45.48; 6,14.22.24.30.36; 7,52; 12,9 (horan = theôrein).

Theasthai được một vài nhà chú giải dịch là “chiêm ngưỡng”, với nghĩa là hiểu ý nghĩa sâu xa của các sự việc đang xảy ra (x. 1,14; 4,35) và nếu dựa vào 1 Ga 1,1, dường như horan là cấp thấp hơn theasthai (“điều chúng tôi đã thấy [horan] tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng [theasthai]”). Tuy nhiên, ở 1,38  và 6,5, theasthaidường như chỉ có nghĩa là nhìn thấy thể lý; ở 1,32 (= 1,34); 11,45, theasthai lại được dùng đồng nghĩa với horan. Bởi vì theasthai không được dùng nhiều và phong phú như horan, chúng tôi tạm xếp theasthai vào cấp thứ ba.

– tảng đá (1): Tác giả viết y như thể độc giả biết rõ tảng đá này. Cũng như tác giả Lc, tác giả Ga không nói đến việc niêm phong tảng đá (x. Mt 27,66) hay niêm phong ngôi mộ bằng một tảng đá.

– đã cất khỏi mồ (1 – NTT): Các TMNL nói là “đã được lăn ra” (Mc 16,4; Mt 28,2; Lc24,2 dùng động từ apokyliô, “lăn đi xa”, ở thái bị động); Ga thì nói “đã được cất (êrmenos] khỏi mồ”. Ngành khảo cổ xứ Paléttina cho thấy là có những ngôi mộ nằm ngang và cửa vào các ngôi mộ này nhỏ hẹp, có khi cao chỉ gần một thước, nên người lớn thì phải trườn mà vào. Người ta có thể niêm mộ bằng một tảng đá chắn ngay cửa vào. Nhưng cũng có những ngôi mộ rộng hơn thì cửa được chắn bằng một tảng đá có thể lăn tròn theo một cái rãnh ở ngang cửa vào, giống như một cánh cửa lùa. Ngôi mộ rộng bên trong có thể có một gian ngoài; gian trong mới dành để mai táng người quá cố. Có nhiều cách mai táng: có khi người ta khoét những cái hầm đục vào sâu trong vách đá và đẩy thi hài vào trong đó, đầu đi trước; có khi người ta lại đẽo vào đá để làm thành những tầng có những cái ổ bán cung (như một cái kệ) cách mặt đất chừng nửa thước để đặt thi hài vào; có khi người ta đặt một băng bằng đá sát vách và đặt thi hài lên. Dường như Đức Giêsu được mai táng trong một ngôi mộ rộng và theo cách cuối cùng.

– Bà liền chạy về (2): Maria Mácđala đã nhìn vào mộ nên phát hiện ra là thi hài không còn ở đó nữa, hay là bà suy diễn ra từ sự kiện ngôi mộ không còn bị niêm phong? Người ta thường theo giả thuyết thứ nhất vì hiểu theo lẽ thường; nhưng cứ theo bản văn TM IV thì phải hiểu theo giả thuyết thứ hai, bởi vì trời còn tối và bởi thông tin là đến c. 11, bà mới “cúi xuống nhìn vào trong mộ”. Nhiều người giải quyết khó khăn này bằng cách cho rằng lúc đầu c. 11 đi theo c. 1.

– gặp ông Simôn Phêrô (2): Người ta thường cho rằng Maria đi tìm Phêrô vì ông là thủ lãnh các môn đệ Đức Giêsu. Nhưng đơn giản hơn, nên nhớ rằng Phêrô không chạy trốn với các ông khác và ông ở gần Đức Giêsu khi Người bị giới chức Do Thái thẩm vấn (Ga 18,27).

– người môn đệ Đức Giêsu thương mến (2): Dung mạo bí ẩn “người môn đệ Chúa thương mến” được đưa vào đột ngột ở Ga 13,23, lúc mà truyện sắp lên tới cao đỉnh, lúc mà Đức Giêsu quy tụ các môn đệ thân tín lại để chia sẻ một bữa ăn tạ từ và ban những giáo huấn cuối cùng (x. Ga ch. 13–17). Điều này khiến ta hiểu rằng người môn đệ Chúa thương mến là một dung mạo được cộng đoàn tác giả quen biết. Là người không được nêu tên và cứ tiếp tục ở trong tình trạng vô danh cho đến hết Tin Mừng, người môn đệ này được sống một tình thân mật với Đức Giêsu đặc biệt hơn cả nhóm: ông được mô tả là người môn đệ Đức Giêsu yêu thương, người nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu (en tô kolpô tou IêsouGa 13,23; x. 13,25; 21,20 [epi to stêthos]). Kiểu thân mật này gợi nhớ tình thân mật giữa Đức Giêsu và Chúa Cha: Đức Giêsu, được Chúa Cha yêu thương (Ga 15,9; 18,26), là người Con Một, ở trong lòng Chúa Cha (ho ôn eis ton kolpon tou patrosGa 1,18). Đến Ga 18,15, thì xuất hiện “một môn đệ khác”, có lẽ cũng vẫn là người môn đệ Đức Giêsu yêu thương đã được Simôn Phêrô làm hiệu hỏi Đức Giêsu trong bữa tối cuối cùng (Ga 13,24). Tại chương 19, người môn đệ ấy xuất hiện bên cạnh thân mẫu Đức Giêsu (Ga 19,26). Đến chương 20, tác giả đồng hóa “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” (20,2) với “người môn đệ kia” (20,4.8). Simôn Phêrô và “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” lại xuất hiện bên nhau trong chương cuối cùng (21,7.20).

Người môn đệ này là ai? Tác giả Ga đã nhấn mạnh 5 lần rằng nguồn của ngài chính là “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” (13,23; 19,26; 20,2; 21,7.20). Các học giả đã nghĩ tới nhiều nhân vật: Gioan, con ông Dêbêđê; Ladarô; Gioan Máccô (x.Cv 12,12); Trưởng lão Gioan; một dung mạo tượng trưng. Cho đến nay giả thuyết mạnh nhất (R.E. Brown) vẫn là coi người môn đệ ấy là Gioan, con ông Dêbêđê và là tác giả TM IV (trừ hoặc kể cả chương 21)[1]. J.A. Grassi[2] đã viết một quyển sách nhỏ để chứng minh: (1) Dựa vào TM Ga, người môn đệ này là một người có thật, nhưng không phải là Gioan, con ông Dêbêđê và một trong Nhóm Mười Hai. (2) Đây là một dung mạo vừa có những nét giống với Giacóp vừa có những điểm giống với Giuse con yêu quý của Giacóp. (3) Đây là người môn đệ trẻ vô danh đã cùng với Anrê đến với Đức Giêsu bên bờ sông Giođan. (4) Người môn đệ này xuất thân từ miền Giuđê, có lẽ thuộc một gia đình tư tế ở Giêrusalem. (5) Người môn đệ này là “em bé” đã tặng năm chiếc bánh và hai con cá. (6) Người môn đệ này có vị trí ưu tiên trong bữa tối cuối cùng, biết trước bí mật thâm sâu của Đức Giêsu về chuyện bị phản bội và phải chết, vì ông là người kế thừa thầm kín có sứ mạng giúp cho thế gian hiểu thật sâu cuộc sống và đặc biệt cái chết của Người. (7) Bản văn trọng yếu là vào lúc đứng dưới chân thập giá, người môn đệ này chứng kiến và hiểu ý nghĩa của cái chết của Đức Giêsu. Dù thế nào, có thể nói người môn đệ này là người thừa kế đích thực của Đức Giêsu. Chương 21 này khiến ta nhớ lại những bản văn có nhân vật này, và nhắc lại các điểm này: người nào phải kế tục Đức Giêsu thì phải được chọn phù hợp với ý muốn của Đức Giêsu và tương ứng với sự chọn lựa bằng tình yêu. Đến cuối chương 21 này, ta thấy rõ ơn gọi của hai người môn đệ: người môn đệ Chúa thương mến có ơn gọi làm chứng, còn Phêrô có ơn gọi điều khiển cộng đoàn hoặc ơn gọi chăn dắt đoàn chiên.

Các học giả chưa đạt tới tiếng nói chung về nhân vật này. Dù sao, chúng tôi nghĩ kiểu gọi “người môn đệ Chúa thương mến” hẳn không phải là kiểu gọi của chính người môn đệ ấy, nhưng của các môn đệ của người ấy[3]. Đến đây cứ cho đi là một người có thật, nhưng khi không có tên như thế, người môn đệ ấy đã trở thành biểu tượng cho mọi môn đệ của Đức Giêsu. Điều này được diễn tả rõ ràng trong hoạt cảnh trên Đồi Sọ, khi Đức Giêsu ký thác “người môn đệ mình thương mến” cho thân mẫu: “Thưa Bà, đây là con của Bà”. Đặc biệt được đặt tương phản trong tình thế đầy kịch tính với Phêrô, người môn đệ Chúa thương mến tượng trưng đức tin tinh trong của cộng đoàn tác giả, còn Phêrô của TM IV tượng trưng các môn đệ của Đức Giêsu trong tình trạng hàm hồ về tư cách môn đệ, một đức tin còn pha trộn nơi các Họi Thánh thời các tông đồ.

– đem Chúa (2): Có lẽ bây giờ viết trong giai đoạn hậu Phục Sinh, tác giả đã sử dụng danh hiệu “Chúa” (kyrios) này như một cách diễn tả niềm tin của cộng đoàn Kitô hữu.

– và chúng tôi (2): Chỉ có một mình Maria Mácđala ở ngoài mộ. Thế mà bà lại nói là “chúng tôi”. Người ta giải thích nhiều cách: (1) Có các bà khác, nhưng tác giả đơn giản hóa, chỉ nói đến bà Maria Mácđala thôi; (2) Từ “chúng tôi” là để dung hòa TM IV với các TMNL (Wellhausen và Spitta); nhưng vấn đề là vì sao TM IV khác các TMNL ở rất nhiều chi tiết, mà lại ráng dung hòa tại một chi tiết nhỏ, tinh tế như thế? (3) Bultmann và vài tác giả khác nghĩ rằng từ “chúng tôi” chỉ là một cách diễn tả Sêmít để nói “tôi”; nhưng dù sao chúng ta cũng lấy làm lạ là trong truyện tiếp theo, Maria lại nói lại câu này, mà lần này ở số ít (c. 13).

Có lẽ cách giải thích đầu tiên là tốt nhất và tự nhiên nhất.  

– chạy mau hơn (4): Cha Lagrange cho rằng vì “người môn đệ kia” còn trẻ hơn và nhanh nhẹn hơn Phêrô nên chạy mau hơn. Ishodad de Merv cho rằng vì ông chưa lập gia đình! Có tác giả cho rằng vì tình yêu đã làm cho ông chạy nhanh. Nhưng hợp lý là cho rằng vì ông biết cách chạy hơn Phêrô.

– nhưng không vào (5): Nhiều nhà chú giải cho rằng “người môn đệ Chúa thương mến” không vào vì kính trọng Phêrô là đàn anh, hay là vì kinh ngạc, hoặc vì sợ hãi (sợ ma!), hoặc muốn tránh sự lây nhiễm theo nghi thức khi chạm vào một xác chết. Những kiểu giải thích như thế không hòa hợp được với dung mạo đã được lý-tưởng-hóa của người môn đệ này trong TM. Có lẽ cách giải thích tốt nhất là nói rằng tác giả đã ghi lại mộtchi tiết không đáng kể như thế, là vì đã xảy ra đúng như thế. Khi kể lại một biến cố quan trọng, ngài lại nhớ lại cả một chi tiết nhỏ bé như thế, và ghi lại trong TM của ngài để gợi lên trung thực điều ngài đã sống (Guillemette). 

– Ông cúi xuống và nhìn thấy (5): “Thấy” ở đây là blepô.

– Phêrô theo sau (6): Phêrô bước theo (akolouthôn) người môn đệ Chúa thương mến như là môn đệ? Động từ “bước theo” rất hiếm khi được dùng theo nghĩa này; thông thường người ta chỉ “bước theo” Đức Giêsu. Ai muốn đặt đối lập Phêrô với người môn đệ Chúa thương mến thì nhắm vào cách sử dụng trên. Nhưng thật ra như thế là phóng đại.

– Ông vào … thấy (6): Simôn Phêrô “thấy”: động từ được dùng là theoreô, tương tự  người môn đệ Chúa thương mến.

– khăn che đầu (7): Soudarion là một cái khăn giống như nhưng có lẽ to hơn cái khăn tay. Có thể người ta dùng chiếc khăn này để bọc lấy cằm và thắt lại trên đầu để cho miệng người chết khỏi mở ra.

– các băng vải (7): Khác với Ladarô (11,43), khi sống lại, Đức Giêsu không cần ai giúp cả. Sự kiện “băng vải để ở đó, và khăn che đầu xếp riêng ra một nơi” loại trừ giả thuyết là có một cuộc đánh cắp thi hài, bởi vì không kẻ nào lại còn nghĩ đến việc lột trần thi hài ra.

– Ông đã thấy và đã tin (8): “Thấy” ở đây là horan, một cái nhìn đưa tới đức tin. Từ cấp “thấy thấp nhất bằng cặp mắt thể lý (blepô, c. 5), người môn đệ khác đã đạt tới cấp “thấy” cao nhất (horan) bằng đức tin. Câu văn hẳn cho phép được hiểu: đã thấy (eiden, thì quá khứ aorist của horan= đã tin (episteusen, aorist của pisteuô).

4.- Ý nghĩa của bản văn

Các môn đệ biết rằng Đức Giêsu đã chết và đã được mai táng. Ngôi mộ và thi hài là dấu vết cuối cùng của Đức Giêsu trần thế. Tất cả những gì tác giả TM IV quy chiếu đến ở đây, đều tiến đi từ ngôi mộ này và liên hệ đến thi hài của Đức Giêsu. Đối với các môn đệ, chặng cuối cùng của Đức Giêsu là ngôi mộ; các phụ nữ cũng như các ông đều không hề quay hướng về cuộc Phục Sinh của Người: chẳng hạn phản ứng của  Maria Mácđala ở đây chứng tỏ bà nghĩ rằng Đức Giêsu đã chết thật. Họ không hề hiểu những loan báo Người đã cung cấp, cũng chẳng hiểu những gì được viết trong Kinh Thánh. Ở đây, tác giả cho thấy những bước đầu đưa các môn đệ đi từ ý thức là Đức Giêsu đã chết đến hiểu biết là Người đã sống lại. Con đường đi từ nỗi kinh ngạc này đến nỗi kinh ngạc khác, và không phải tất cả các môn đệ đều đạt tới mục tiêu cùng mộtlúc.

* Thời gian: Sáng sớm ngày thứ nhất, Maria Mácđala ra mộ (1-2)

Trong cả bốn Tin Mừng, các môn đệ của Đức Giêsu, dù nam hay nữ, đều tỏ ra kính trọng ngày sa-bát. Chúng ta thấy các ông đã hạ thi hài Đức Giêsu khỏi thập giá trước khi bắt đầu ngày sa-bát (Ga 19,31 và các bản văn song song), còn các phụ nữ chỉ đi ra một sau ngày sa-bát (Ga 20,1 và các bản văn song song).

Lúc tảng sáng, Maria Mácđala đã đi ra mộ Đức Giêsu. Chúng ta tự hỏi là vì sao bà lại ra mộ khi trời chưa sáng hẳn? – Tác giả trung thành với biểu tượng ánh sáng đã nói đến ngay trong Lời Tựa (1,9), rồi ở 8,12 khi Đức Giêsu tuyên bố Người là “ánh sáng cho trần gian”, rồi Giuđa bỏ Người là đi vào bóng tối (13,30). Ở đây, vì Đức Giêsu đã chết, nên ánh sáng đã tắt. Tuy nhiên, trời đã tảng sáng như là một dấu chỉ xa xa cho biết Đức Giêsu sắp sống lại và Maria Mácđala sẽ gặp được Người.

Đến nơi, bà thấy (blepei) là tảng đá đã được lăn khỏi mộ và cửa mộ đã mở. Dựa vào điểm quan sát đó, bà giải thích: bà nghĩ rằng thi hài của Đức Giêsu đã được mang đi khỏi mộ. Đó là lời giải thích hợp lý nhất, theo những tiêu chí loài người, khi đứng trước một ngôi mộ đã mở và trống không. Một thi hài thì ở thế hoàn toàn thụ động: đã được người ta đưa vào đặt trong mộ, nay có thể lại đã được người ta đưa đi.

Vì hết sức bận tâm tìm biết là ai đã mang xác Đức Giêsu đi và nay đã đặt ở đâu, Maria đi tìm Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Lối xử sự này chứng tỏ bà rất thương yêu Đức Giêsu. Nhưng trong khi bà còn bận tâm về thi hài Đức Giêsu, Người đã sống lại rồi. Khởi đi từ ngôi mộ của Người, các môn đệ còn phải đến gặp Người trên nẻo đường mà chính Người đã đi qua. Hai người môn đệ đến mộ là hai người đặc biệt gắn bó với Người khi Người còn sống: Phêrô là người đã được Đức Giêsu đổi cho một tên mới (1,42) và luôn được để ý trong nhóm các môn đệ (6,68-69; 13,6-10.35-38); người môn đệ kia là người đặc biệt gần gũi với Đức Giêsu (13,23-24; 18,15-16; 21,20-23).

* Hành động chính: Phêrô và Gioan ra mộ (3-10)

Tin tức Maria Mácđala đưa đến khiến các môn đệ hốt hoảng. Phêrô và người môn đệ Chúa thương mến muốn chính mình đi kiểm chứng sự việc, hai ông chạy ra mộ. Tốc độ khác nhau không có nghĩa là lòng nhiệt thành khác nhau, nhưng là khả năng thể lý khác nhau. Các hành động tiếp đó của hai ông đan quyện vào nhau và càng lúc càng vượt xa điều Maria Mácđala đã quan sát được. Người môn đệ Đức Giêsu yêu thương đến mộ trước. Ông không chỉ nhìn từ bên ngoài, mà còn nghiêng mình nhìn vào bên trong và thấy (blepei) những băng vải. Phêrô đi vào trong mộ, thấy (theôrei) các băng vải và khăn liệm gấp lại để riêng ra một góc. Những gì Phêrô ghi nhận được thì đi ngược lại với cách giải thích của Maria: không thể cho rằng người ta mang mộtthi hài đi mà lại tháo gỡ các tấm vải bọc thi hài ra trước, và còn gấp lại để riêng ra. Gỡ mình khỏi các tấm vải liệm là hành vi ngược lại với việc bọc thi hành trong các tấm vải (x. 19,40). Như thế, việc tẩm liệm đã thành vô ích rồi. Ngôi mộ trống và các dải vải cuộn để riêng không phải là một bằng chứng, nhưng là một dấu chỉ cho biết rằng Đức Giêsu đã rời bỏ ngôi mộ và đã chiến thắng cái chết.

Phêrô ghi nhận chính xác tình huống, nhưng có tin chăng, bản văn không khẳng định minh nhiên. Người môn đệ kia đi vào mộ sau ông, cũng thấy tình cảnh như thế và thực hiện được một bước xa hơn: đã thấy (eiden) và đã tin (episteusen) (c. 8). Dường như tác giả TM IV chia sẻ với Lc 24,12 ý tưởng là Phêrô không bị thuyết phục bởi cuộc thanh sát ngôi mộ trống, nhưng cách ngài trình bày về tình trạng Phêrô thiếu đức tin thì tinh tế hơn là tác giả Lc. Tác giả TM IV không nói là Phêrô không tin. Ngài chỉ kể rằng người môn đệ Chúa thương mến “đã thấy và đã tin”. Các động từ này là tiêu biểu củaTM IV, nhưng đều ở số đơn, tức về ngữ pháp thì tương phản với dạng số phức ở các câu trước (“Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra [êrchonto] mộ. Cả hai người cùng chạy [etrechon]”) và ở các câu sau (“hai ông chưa hiểu [êdeisan] Kinh Thánh, rằng…”). Hai môn đệ đã đi ra mộ; nay chỉ một người rời mộ như là người tin: đó là người môn đệ Chúa thương mến. So với người ấy, thì phải nói Simôn Phêrô còn thiếu đức tin.

Dù sao chỉ những lần Đấng Phục Sinh hiện ra mới làm cho dấu chỉ mộ trống không còn mang tính hàm hồ nữa và sẽ đưa tất cả các môn đệ đến chỗ tin vào Người.

“Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà”: Làm sao có thể thản nhiên trở về nhà sau một kinh nghiệm như thế? Rất có thể đây là chuyện đã xảy ra. Sau một kinh nghiệm quá mạnh như vậy, các ông cần thì giờ để phản ứng. Các ông không reo hò cũng không ca hát: các ông trở lại với đời sống thường ngày.

+ Kết luận

Những điều vừa được kể ở đây đã được kiểm chứng vào “lúc tảng sáng” (20,1). Trong TM IV, giờ và các biến cố tương ứng với nhau. Vào lúc tảng sáng, có nhiều điều tiên báo một sự thay đổi tận căn: đêm đang qua đi, chân trời rạng sáng dần, các sự vật rõ nét thêm. Ai chưa bao giờ thấy mặt trời, thì không thể biết điều gì đã gần kề. Mặt trời lên soi sáng tất cả và làm cho mọi điều đã được tiên báo nên sáng tỏ. Các môn đệ còn đang ở trong tình trạng tranh tối tranh sáng, ở trong tình trạng gồm những dấu chỉ tiên báo và chờ đợi. Chỉ khi họ gặp Đấng Phục Sinh, mặt trời mới mọc lên cho họ, mọi sự mới nên sáng tỏ. Đêm đen và bóng tối, cái chết và niềm đau, sự bần khốn và yếu đuối đều được ánh sáng của Đấng Phục Sinh, được vinh quang của sự sống vĩnh cửu của Người, chiếu rọi.

Không còn thi hài của Đức Giêsu trong mộ nữa. Điều này rất quan trọng đối với sự phục sinh: Bởi vì người ta không thể tìm ra xác ướp của Đức Giêsu hay một vài vết tích, vài mảnh rơi rớt của thi hài, mà lại khẳng định về sự Phục Sinh được. Bởi vì Phục Sinh không phải là một hiện tượng thiêng liêng nào đó chỉ liên hệ tới phần hồn, nhưng sự Phục Sinh đặt dấu ấn lên trên toàn thể con người: thân xác và linh hồn, và biến đổi cách vĩnh viễn toàn thể con người. Vậy không bao giờ được hiểu Phục Sinh chỉ là sự hồi sinh của một người chết như chẳng hạn trường hợp Ladarô, vì sau này ông cũng lại đã chết. Sự Phục Sinh là việc chuyển sang một cuộc sống bên kia cái chết, sang một cuộc sống không cùng, nghĩa là một đời sống vĩnh cửu.

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Trong cuộc sống, có lắm phen chúng ta nếm cảm những thất bại đau đớn, chúng ta muốn buông xuôi, y như ngôi mộ đã được mộttảng đá niêm phong lại, chẳng còn gì để hy vọng, ngoài mộtniềm nuối tiếc khôn nguôi. Nhưng “tảng đá đã lăn ra khỏi mộ”! Chính Thiên Chúa đã lăn tảng đá ra khỏi mộ Đức Giêsu, thì Ngài cũng lăn được những tảng đá đang chắn cuộc đời chúng ta lại, miễn là chúng ta đừng nhất định bám cứng vào những tảng đá đó.
  2. Tác giả TM IVviết: “Ông đã thấy và đã tin”. Đó là mộtlời chứng, nhưng cũng là một lời thú nhận là ngài đã không thể hiện được trọn vẹn mối phúc Đức Giêsu công bố: “Phúc thay kẻ không thấy mà tin” (20,29). Chỉ có Đức Maria, Thân Mẫu Đức Giêsu, mới đạt được mức độ đức tin ấy: tại Cana, trước khi Đức Giêsu làm phép lạ đầu tiên, Mẹ đã tin cách nào đó, nên mới cho Con biết là tiệc hết rượu. Quả thật, tin không phải là một chuyện dễ dàng hay dễ dãi, trốn tránh trách nhiệm, như nhiều người vẫn nghĩ.
  3. Các Tông Đồ chỉ có thể làm chứng rằng các ông đã biết Đức Giêsu trước khi chịu chết, đã gặp lại Người đang sống; nhưng các ông không thể nói về cách thức Đức Giêsu đã sống lại. Niềm tin của Kitô hữu hôm nay cũng khẳng định Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, nhưng không thể trả lời những câu hỏi về cách thức diễn tiến sự Phục Sinh. Nhưng không thể phủ nhận được sự Phục Sinh, bởi vì chính sự hiện diện và hoạt động của Đức Kitô Phục Sinh trong đời người Kitô hữu đang làm thay đổi con người họ, và họ đang trải nghiệm điều đó. Họ có thể làm chứng, chứ họ không thể giải thích, vì đây là mộtmầu nhiệm, nhưng là mộtmầu nhiệm làm cho sống.
  4. Nếu như hai môn đệ đã ghi nhớ và tin những lời Đức Giêsu đã nói trước về cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Người, các ông đã chẳng phải chạy trên nẻo đường đưa tới mộ, đưa tới cõi chết, đưa tới sự tuyệt vọng, trong khi Thầy của các ông đã sống lại, và nay đã “lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (20,17). Tuy nhiên, thái độ của hai ông lại là bài học quý cho chúng ta hôm nay, vì chúng ta cũng vẫn có thể rơi vào tình trạng tiêu cực ấy.
  5. Trong một Bài giảng được gán cho thánh Gioan Kim Khẩu (? 345-407), có đoạn: “Xin đừng có một ai buồn sầu về sự nghèo khó của mình, bởi vì Vương Quốc đã hiện ra cho tất cả mọi người; xin đừng có một ai than thở về các lỗi lầm của mình, bởi vì ơn tha thứ đã trào vọt ra từ ngôi mộ; xin đừng có một ai sợ hãi cái chết, bởi vì cái chết của Đấng Cứu thế đã giải thoát chúng ta. Người đã tiêu diệt cái chết, Đấng mà cái chết đã bóp nghẹt, Người đã tước đoạt hỏa ngục, Đấng đã xuống âm phủ…

Isaia đã tiên báo điều này khi nói: « Vì ngươi, âm phủ dưới vực sâu cũng rung động để ra đón ngươi vào” (14,9). Âm phủ đã ngập tràn cay đắng…, vì nó đã bị đánh ngã; bị sỉ nhục, vì nó đã bị giết chết; bị quỵ ngã, vì nó đã bị triệt tiêu. Nó đã bắt lấy một thân xác và đã ra trước nhan Thiên Chúa; nó đã nắm lấy trái đất và đã gặp trời; nó đã bắt lấy cái gì nó thấy, và đã té ngã vì Đấng Vô Hình. “Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của người? Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi?” (1 Cr 15,55). Chúa Kitô đã sống lại và người bị đánh bại! Chúa Kitô đã sống lại và ma quỷ đã ngã xuống! Chúa Kitô đã sống lại và các thiên thần hân hoan vui mừng! Chúa Kitô đã sống lại và đây sự sống hiển trị! Chúa Kitô đã sống lại và không còn kẻ chết trong mồ nữa, bởi vì Chúa Kitô, sống lại từ kẻ chết, đã trở thành hoa quả đầu mùa của những ai đã an giấc. Vinh quang và uy quyền thuộc về Người đến muôn thuở muôn đời. Amen”.

Lm FX Vũ Phan Long, ofm

[1] Xem cách lý luận của R.E. Brown, The Gospel according to John, I, xciii-xcviii.

[2] J.A. Grassi, The Secret Identity. Có thể xem ch. 13, từ trang 115.

[3] Dù người môn đệ này là ai, rất có thể tác giả của Ga 21 cũng là tác giả của 2 Ga và 3 Ga. Ngoài ra, chúng ta thấy dấu vết của cùng một bàn tay tác giả ở 3 Ga 12; Ga 19,35 và Ga 21,24 (x. 15,27: “anh em”).

Anh chị Thụ & Mai gởi

ÔNG GIUĐA BÁN CHÚA

ÔNG GIUĐA BÁN CHÚA

GM Bùi Tuần

    Trong Thiên Chúa giáo, việc ông Giuđa phản bội Chúa Giêsu là việc nổi tiếng.  Nổi tiếng ở chỗ ông bán chính Thầy mình với giá 30 đồng bạc (Mt 27,3).

    Trong Mùa Chay, nhất là trong Tuần Thánh, tên ông Giuđa được nhắc tới nhiều lần với ý nghĩa xấu.

    Tôi thấy việc hiểu nhân vật này là chuyện không đơn giản.

    Cho dù ông bị mọi người của mọi thế hệ kết án là người phản bội, thì rõ ràng sự phản bội của ông cũng đã trở thành một biểu tượng lớn cho nhiều thứ phản bội khác của bao nhiêu người khác.  Biết đâu trong số đó có chúng ta.

    Vì thế, tôi xin trình bày vài suy nghĩ của tôi.  Suy nghĩ riêng tư, nhưng cũng dựa trên Phúc Âm.

  

 

 

 

 

 

 

  

 

Được chọn và được trọng dụng.

    Ông Giuđa là người thuộc nhóm 12 môn đệ Đức Kitô.

    Nhóm 12 này được coi là những người được Chúa Giêsu tuyển chọn cách riêng.

    Bốn Phúc Âm đều nhắc đến tên ông Giuđa này, biệt danh là Giuđa Ítcariốt  (Lc 6,16).  Điều hơi đặc biệt là tên ông được nhắc tới không dưới 10 lần.  Đang khi một số môn đệ khác chỉ được nói tới phớt qua.

    Thuộc nhóm 12 đã là một vinh dự lớn.  Thêm vào vinh dự lớn đó, ông Giuđa còn được trao trọng trách giữ tiền.  Với nhiệm vụ giữ tiền chung, ông được coi như người quản lý lo về vật chất và phác họa các kế hoạch cho các di chuyển và việc ăn ở hằng ngày của cộng đoàn.  Nếu gọi ông là người lập kế hoạch cho nhóm về phương diện vật chất, thì cũng không quá đáng.

    Như vậy, ông Giuđa là người tháo vát.  Trong một thời gian dài, ông được Chúa Giêsu tin tưởng và được các bạn tín nhiệm.

    Trước biến cố Chúa Giêsu nạp mình bị bắt, bầu khí trong cộng đoàn không có dấu chỉ nào cho phép dự đoán xấu về ông, khiến các môn đệ phải nghi ngờ ông.

      Tự hào với ý riêng.

    Ông Giuđa, được tiếp cận với Chúa Giêsu kể như thường xuyên, được nghe Người giảng dạy, được chứng kiến nhiều phép lạ Người làm, hơn hữa, ông lại là người Chúa chọn cách riêng.  Nên không thể nghi ngờ về đức tin của ông.

    Trái lại, theo thiển ý của tôi, ông thuộc trường phái Zêlốt gồm những người nhiệt thành về đạo.  Ông rất khao khát Đấng Cứu thế đến.  Ông rất thao thức với việc thiết lập Nước Trời.  Ông tin giờ hạnh phúc đó đã tới gần.

    Bởi vì chính Đức Kitô cũng thỉnh thoảng nói về thời giờ đã gần tới.  Người còn dạy phải cầu nguyện cho Nước Cha trị đến.

    Ông rất tin Thầy mình là Đấng quyền năng.  Ông tin tình hình đã tới lúc đổi mới.  Ông chứng kiến cảnh từng vạn người từ khắp nơi đổ về thủ đô, để tung hô đón Thầy mình từng bừng.  Họ tôn vinh Thầy mình là vua (Mt 24,8-10).  Ông thấy Thầy mình mạnh tay đuổi những kẻ buôn bán khỏi đền thờ (Mt 21,12-13).  Người tỏ mình là Đấng cứu dân (Mt 21,14-17).  Vì thế ông tự hào về hy vọng của ông bao năm hằng ấp ủ.

    Nhưng, chính lúc đó, ông lại thấy Thầy mình tỏ ra không hào hứng chút nào.  Trái lại, Người còn nói xa nói gần về một cái gì u ám sắp xảy ra.  Như “Còn hai ngày nữa là đến lễ Vượt qua, và Con Người sắp bị nộp, để chịu đóng đinh vào thập giá” (Mt 26,2).  Vì thế, ông Giuđa nghĩ rằng: Mình cần phải có một kế hoạch, để việc đắc thắng của Thầy trò mình nhất định phải thực hiện cho bằng được, càng sớm càng tốt.  

    Rơi vào những sai lầm trầm trọng.

    Thế là ông đưa ra kế hoạch, ép Chúa Giêsu phải sớm tỏ ra uy quyền và vinh quang, ép Người phải sớm thiết lập một Nước Trời đầy công bình và vâng phục luật Chúa, ép Người phải chứng tỏ mọi hy vọng của ông về Chúa là đúng, là chính đáng.

    Thế là, ông mưu đồ bán Chúa.  Đây chỉ là một chiến lược.

    Nhưng, Giuđa đã sai lầm trầm trọng.

       Sai lầm thứ nhất là ông tưởng Chúa Giêsu, khi bị bắt, sẽ thoát khỏi tay quân dữ một cách dễ dàng. Uy quyền Chúa sẽ tràn lan.  Nhưng Chúa Giêsu lại không làm như ông muốn.

       Sai lầm thứ hai là ông tưởng việc thiết lập Nước Chúa sẽ được thực hiện bằng quyền lực, bằng những thành công rực rỡ lẫy lừng.  Nhưng thánh ý Chúa rất khác.  Nước Chúa sẽ đến qua con đường khiêm tốn, yêu thương tự hạ hy sinh.  Chúa và các môn đệ Người sẽ phải chịu mọi cực hình cho đến chết trên thánh giá để làm chứng nhân cho tình yêu cứu độ.

       Sai lầm thứ ba là ông thiếu khiêm nhường và tỉnh thức trước các lời Chúa khuyến cáo.  Ông tự cao, cứ bám chặt vào cái nhìn chủ quan của mình.

       Sai lầm thứ tư là sau khi sự Chúa bị bắt và bị nhục hình đã đánh thức lương tâm ông, thì ông lại vội thất vọng về Chúa và về chính mình.  Ông tưởng chỉ còn một lối duy nhất để giải quyết lỗi lầm của ông, là treo cổ tự tử.  Ông không nhớ, hoặc không tin vào lòng thương xót của Chúa.  Ông không đủ khiêm nhường, để theo Chúa đến thánh giá, đến mộ, và trở về với nhóm 12.  Họ cũng là những người bội phản, kẻ cách này, người cách khác.  Nhưng họ khiêm tốn vẫn tin theo Chúa trong tâm hồn.  Sau cùng, họ đã gặp Chúa sống lại, và đã được Người thứ tha mọi lỗi lầm, yếu đuối.

  Những bài học.

    Với mấy suy nghĩ trên đây, tôi nghiêng về hướng không buộc tội ông chỉ vì tham tiền mà phản bội Chúa.  Thực ra, chỉ có Chúa mới là Đấng có thẩm quyền xét xử ông.

    Riêng tôi chỉ muốn rút ra cho mình những bài học hữu ích.

    Qua sự kiện Giuđa, Chúa Giêsu dạy tôi luôn phải bắt chước Người, trong việc vâng phục thánh ý Chúa Cha.  Vâng phục với tâm tình phó thác tuyệt đối.

    Tôi phải rất thận trọng trong các việc mình tự cho là để làm sáng danh Chúa.  Bởi vì rất nhiều trường hợp, ý Chúa lại rất khác ý ta.  Việc tôi làm tưởng là việc tốt, nhưng trước mặt Chúa lại là một thứ phản bội ơn gọi làm chứng nhân cho Đấng Cứu thế khiêm nhường, khó nghèo, hy sinh.

    Tôi tin Nước Trời sẽ đến.  Nhưng Nước Trời như một hạt giống gieo vào lòng đất.  Hạt giống đó sẽ phát triển và mọc dần dần (Mc 4,26-29).  Chứ Nước Trời không được thiết lập bằng bất cứ quyền lực nào.

    Sự tin cậy phó thác của tôi nơi Chúa mở ra trong tôi một cái nhìn mới.  Tôi tin vào Cha giàu lòng thương xót.  Cha thì biết cái gì là tốt hơn cho con.  Nên trước những xung đột nội tâm, tôi vững tâm nói với Cha lời Chúa Giêsu đã nói ở vườn Cây Dầu: “Cha ơi, Cha có thể làm được mọi sự.  Xin cho con khỏi uống chén này.  Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mc 14,36).

    Nhất là tôi đặt hết tâm tình tôi vào lời phó thác “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).  Lời phó thác đó là lời sau cùng Chúa Giêsu nói trên thánh giá.  Còn đối với tôi, đó là lời phó thác của mọi ngày, mọi giờ, mọi phút, suốt cả đời tôi.

    Sau cùng, tôi xin Chúa thương giúp tôi biết sử dụng đúng sự tự do, địa vị và các tài năng của mình.  Giuđa đã sử dụng sai các ơn Chúa ban.  Nhưng Chúa không ngăn cản.  Hơn nữa, Chúa còn ưu ái ông.  Vì thế, ông đã đi xa, chìm sâu trong lầm lạc.  Về phương diện này, có thể nói tội phản bội của Giuđa vẫn tái diễn.  Đến nỗi, còn có thể nói thêm: Nếu không biết khiêm nhường tỉnh thức, thì trong mọi người chúng ta vẫn thấp thoáng bóng một Giuđa phản bội.

    Hy vọng đừng ai coi thường tiềm năng phản bội đó nơi chính mình.

GM Bùi Tuần

Từ một giấc mơ

httpv://www.youtube.com/watch?v=P6221NQ9M00

 Từ Một Giấc Mơ-Mai Anh Việt-Duy Trác

Chuyện Phi ếm Đọc Trong Tuần thánh năm A 09/4/2017

“Từ một giấc mơ

tôi gặp em niềm vui vỡ bờ”

“Từ một giấc mơ, tôi về trên ngõ cũ ngày nào

Trông vời em dáng áo nhạt màu

Cho lòng thấy đời tôi còn em như giấc mơ.

(Anh Việt Thu – Từ Một Giấc Mơ)

(Mt 21: 28-32)

 Trần Ngọc Mười Hai

Giấc mơ ấy. Ước vọng này. Hôm nay, vẫn quay về với người trong cuộc ở ngoài đời và trong Đạo. “Giấc Mơ” nào đây, hỡi nghững người “về trên ngõ cũ ngày nào” trong đời sống. Để thấy “đời tôi còn em như giấc mơ.” Giấc mơ hay mộng ước, cũng đều là những mộng và những ước mọi sự trở thành hiện thực. Giấc mơ, của người nghệ-sĩ thì thế này:

“Em như trái cấm đậu vườn thiên thai

Ngập ngừng chân ai quên chiều nay đời du tử

Em như tiếng suối dạt dào khôn nguôi

Tràn ngập tim tôi một trời xa xôi

Khi bờ môi còn khô tiếng cười

Tôi như nắng cháy ngoài đồng khô khan

Cỏ buồn hoang mang mong giọt mưa về thăm hỏi

Tôi như cánh lá rụng vàng quanh sân

Chiều nào gió đến một mình bâng khuâng

Bao giờ mang tình tôi tới người.

(Anh Việt Thu – bđd)

Còn, giấc mơ của đấng bậc vị vọng trong chốn chóp bu của Giáo-hội, lại được diễn-tả như sau:

“Hôm ấy, đọc xong Tin Mừng theo thánh Mátthêu đoạn 21 câu 28-32, Đức Phanxicô đã diễn-giải về thiên-chức linh-mục với lời căn-dặn, bảo rằng: Linh-mục nào thấy chỉ mỗi mình làm đúng lẽ phải, rồi tìm cách tri-thức-hoá tôn-giáo, thì các vị ấy rồi ra cũng sẽ kết-thúc đời mình bằng những sự/việc gây tổn-thương và khai-trừ người phạm tội, khi họ thực-sự hối-lỗi. Đức Giáo-hoàng cũng nói: các linh-mục/tư-tế như thế chỉ biết chống-đỡ cho các luật do mình tạo, nhưng lại xoá sạch lề-lối Thiên-Chúa lập ra khi Ngài truyền cho Abraham: hãy ra đi khi Ta đang hiện-diện và sống không chút tì-vết nào hết.” (X. Carol Glatz, Priestly Vanity Ruins Mission: Warns Francis, The Catholic Weekly 25/12/2016 tr. 20)

“Từ một giấc mơ” hay từ một ước vọng là mình sẽ đi đến hiện-thực, là cả một quãng đường dài cũng rất khó. Khó đo đạc hoặc cân đong cả với thời-gian và không-gian, lẫn ý-chí rất đường dài. Đo hay đếm, vẫn là những thứ cần thực-hiện bằng lời nguyện cầu, khá thâm sâu.

Và hôm nay, đi vào thực-hiện “một giấc mơ” nhờ nguyện-cầu là thực-trạng tâm-linh có nguyện và có cầu thật, nhưng không âu-sầu, ủ-rũ. Trái lại, vẫn quyết-tâm đeo đuổi một “giấc mơ” hoặc “ước vọng” rất mong chờ. Mong và chờ, sự thể mình vẫn ước-nguyện được trở-thành hiện-thực.

Nguyện-cầu cho ước vọng “từ một giấc mơ” của mình thành hiện-thực, lại có đấng bậc khác cũng rất tên tuổi trong Đạo Chúa từng có lời nhận-định như sau:

“Thế nào là nguyện cầu cho ước vọng của mình ư?

Nguyện cầu bao giờ cũng mang khía-cạnh thần-thoại, bí-ẩn hết. Nói cách khác, thì đó là trải-nghiệm về sự hiện-diện của Thiên-Chúa. Như thế, tức là: công-nhận Thiên-Chúa đích-thực hiện hữu. Như thế đã là nguyện cầu. Thế nhưng, nguyện cầu lại cũng có khía cạnh của một thỉnh-nguyện, như ta thấy rõ ở “Kinh Lạy Cha”.

Khi ta khẩn cầu và nguyện-ước Thied6n-Chúa cho Nước Trời của Ngài mau đến; ta lại mong ước Ngài thực-hiện ý-định của Ngài; rồi ta yêu-cầu Ngài thứ-tha mọi lội tội và cầu mong cho có đủ thức ăn bổ dưỡng hằng ngày, thì đó là yêu cầu, là mộng ước. Nguyện cầu ở các đạo độc-thần luôn mang đặc-trưng của những yêu-cầu và đòi hỏi. Ta thường đòi hỏi nhiều điều và nhiều thứ cho chính mình khi ta yêu cầu Nước Trời mau đến, tức những phúc hạnh của con người và cho con người, nhưng hoàn toàn bỏ mặc sự hiện-diện tuyệt-đối của Thiên-Chúa. Trong nguyện cầu, có hai khía-cạnh luôn có ở đó: một, là ngợi ca Thiên-Chúa bằng việc chấp-nhận Ngài hiện-diện cách tuyệt-đối, và khía-cạnh kia là đòi hỏi thứ gì đó cho mình và cho người.”  (X. Edward Schillebeeckx, I am a Happy Theologian, SCM Press Ltd 1993, thì đó là sự trải-nghiệm r. 60)

Thế đó là nguyện và cầu, xuất “từ một giấc mơ”. Thế đó là sự thật về những nguyện và cầu rất ước và rất mơ. Thật ra thì, mỗi khi nguyện và cầu, ít co ai để ý đến vế trước, tức: chuyên chăm ngợi ca Thiên-Chúa mà chấp-nhận Ngài hiện-diện cái đã, rồi mới đi vào hiện-thực việc gì đó cho người đời.

Lại có một sư thật khác nữa, là: khi nguyện cầu, người người thường có thói quen chạy đến với Mẹ Hiền là Đức Maria. Người người lại cứ coi Mẹ Hiền nhiều quyền-thế hơn cả Người Con, tức Đức GIêsu rất Con Người. Và, đấng bậc vị vọng nói ở trên, lại đã định-nghĩa Đức Maria rất thương mến như Chị Cả của tín-hữu, như sau:

“Sau khi Công Đồng Vatican II kết thúc, Giáo-hội ta cũng ít bàn về Maria-học. Nay, thì Giáo hội nhấn mạnh nhiều vào tương-quan giữa Đức Maria và Chúa Thánh Linh. Đức Maria đây, là Đức Maria ở Tin Mừng qua các câu truyện về thời thơ-ấu của Đức GIêsu. Từ các truyện ấy, ta có nền-tảng của ngành Maria-học, đặc biệt là Tin Mừng thánh Gioan đề-cập nhiều về mối tương-quan giữa Đức Maria và Thánh Thần Chúa. Đây lại là mẫu số chung thấy được ở các giáo-hội khác nữa. Sự thật thì các danh-xưng chỉ về Đức Maria đều là tên gọi của Giáo-hội. Mọi tước hiệu trong các kinh cầu lâu nay cũng qui về Giáo-hội của Chúa. Đối với riêng tôi, thì danh-xưng của Giáo-hội đều xuất từ danh-xưng có từ thuyết thần-linh, mà thôi. (X. Edward Schillebeeckx, sđd, tr. 61-62)

Kể cũng lạ. Nghệ-sĩ nhà mình đã đoán già/đoán non về một tình-huống thân quen của người đời đi Đạo, cũng xục-xạo khắp chốn để tỏ-bày về “một Giấc Mơ” đối với Mẹ Hiền hoặc Người-Cha-Trên-Trời, bằng lời thi-ca đậm-đà tình-tiết, rất như sau:

“Em nhung với gấm về từ xa xăm.

Làm đẹp nhân gian, nên vườn tôi còn xanh mãi.

Tôi ôm phiến đá ngồi chờ trăm năm.

Ngày ngày khắc dấu thành từng câu ca.

Trên đồi son tình tôi đã già.

Tôi mơ thấy dáng người về trong tranh.

Huyền hoặc mong manh, hương từ hoa là hơi thở.

Yêu em đã hoá thành tù chung thân.

Từng chiều vui chân đợi chờ không lâu.

Tôi và em tình yêu bắt đầu.”

(Anh Việt Thu – bđd)

“Từ Một Giấc Mơ”, có thể là ước vọng nói chung của toàn thể nhóm/hội Đạo Chúa. Giấc mơ hay ước vọng, có được các đấng bậc vị vọng trên cao trong nhà Đạo biết xin lỗi người khác, dù người ấy có là người đen-đủi/thấp hèn mãi tận châu Phi hay đâu đó, như sự việc mới xảy ra trong Giáo hội của Chúa, sau đây:

“Đức Thánh Cha xin tha thứ vì những lỗi lầm của Giáo hội 

ĐTC Phanxicô kêu gọi sự tha thứ đối với ‘những lỗi lầm cũng như thất bại’ của Giáo hội trong suốt cuộc diệt chủng Rwanda. 

Tòa Thánh đã công bố báo cáo sau cuộc gặp gỡ của ĐTC Phanxicô với Tổng thống Paul Kagame. 

Hôm nay, thứ Hai 20/3, ĐTC Phanxicô đã kêu gọi sự tha thứ đối với “những lỗi lầm cũng như thất bại của Giáo Hội và các thành viên của mình” trong cuộc diệt chủng năm 1994 của Rwanda đồng thời phát biểu với tổng thống Rwanda rằng Ngài hy vọng lời xin lỗi của Ngài sẽ giúp đất nước này có thể được chữa lành. 

Trong một tuyên bố ngoại thường sau cuộc gặp gỡ của ĐTC Phanxicô với Tổng thống, ông Rwanda Paul Kagame, Tòa Thánh thừa nhận rằng một số linh mục và nữ tu Công giáo “đã bị đè bẹp bởi hận thù và bạo lực, để rồi phản bội lại sứ mệnh Phúc Âm của mình” bằng cách tham gia vào cuộc diệt chủng. 

Trong cuộc diệt chủng kéo dài 100 ngày, hơn 800.000 người thuộc dân tộc Tutsis và Hutus ôn hòa đã bị các phần tử cực đoan người Hutu giết hại. 

Nhiều người trong số các nạn nhân đã bị sát hại dưới bàn tay của các linh mục, tu sĩ và nữ tu, theo tường thuật của những người sống sót, và chính phủ Rwanda cho biết nhiều người đã phải thiệt mạng trong các nhà thờ nơi họ tìm kiếm nơi ẩn náu. 

Tòa Thánh cho biết ĐTC Phanxicô “đã bày tỏ ước muốn rằng sự thừa nhận khiêm tốn về những lỗi lầm cũng như những thất bại của thời kỳ đó – vốn chẳng may đã làm biến dạng diện mạo của Giáo hội – có thể góp phần làm ‘thanh lọc những kí ức đau buồn’ đồng thời có thể thúc đẩy – bằng niềm hy vọng và canh tân sự tin tưởng – một tương lai Hòa bình”. 

Tuyên bố của Tòa Thánh đã được chính các Giám mục Công giáo Rwanda đưa ra trong năm qua sau lời xin lỗi chính thức năm ngoái vì “tất cả những sai lầm mà Giáo hội đã mắc phải”. 

Trong những năm sau đó, Giáo Hội Công giáo địa phương đã phản đối những nỗ lực của chính phủ và các nhóm nạn nhân nhằm thừa nhận sự đồng lõa của Giáo hội trong các vụ giết người hàng loạt, đồng thời cho biết các quan chức Giáo hội – những người gây ra các tội ác trên – đã hành động một cách riêng lẻ. 

Tòa Thánh cho biết ĐTC Phanxicô đã bày tỏ nỗi buồn sâu sắc của Tòa Thánh và Giáo hội đối với tội diệt chủng đồng thời bày tỏ sự liên đới với các nạn nhân. 

“Gợi nhớ cử chỉ của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong suốt Đại Năm Thánh 2000, một lần nữa ĐTC Phanxicô đã nài xin sự tha thứ của Thiên Chúa đối với những lỗi lầm cũng như những thất bại của Giáo Hội và các thành viên của Giáo Hội”.  (Minh Tuệ – theo Catholic Herald)

“Từ Một Giấc Mơ”, là những giấc mộng khá lơ-mơ/lờ mờ không ra đâu vào đâu. Nhưng đó vẫn là những giấc “mộng/mơ” của nhiều người. Có thể là những người chỉ biết mộng và biết mơ, mà thôi. Mộng, là ước mộng những sự tốt đẹp trở thành hiện thực. Và, mơ là mơ một trời mới/đất mới trong đó mọi người sống gần nhau, bên nhau trong cõi mộng nhưng lại rất mơ về cuộc đời thực-tế ở chốn gian trần.

“Từ Một Giấc Mơ” đây, cũng có thể là nội-dung/ý-nghĩa rất thực của truyện kể nhẹ ở bên dưới:

“Truyện rằng:

Có hai anh chàng thanh niên sống ở nhà quê cùng rủ nhau lên tỉnh thành lập nghiệp vì họ thấy rằng cuộc sống ở quê nhà chỉ vừa đủ ăn, không dư giả, Sau thời-gian dài phấn đấu hơn 30 năm ở tỉnh thành, hai người đã tạo lập được một cuộc sống sung-túc về vật chất. Anh A trở-thành chủ một hang xe đò, anh B có hơn 2/3 cổ-phần trong một nhà máy dệt. 

Vì là bạn nối khố từ nhỏ nên sau khi thành-công trên đường sự nghiệp, hai người vẫn tiếp-tục chơi thân với nhau. 

Một hôm, hai người bỗng này ra ý-định trở về quê nhà nơi họ chôn nhau cắt rốn, trước là để thăm lại đình làng bé nhỏ trước kia, sau là để thực-hiện giấc mơ hồi hương áo gấm về làng như những quan Trạng ngày xưa. 

Khi xe hơi chở họ về đến đầu làng, cả hai cùng rủ nhau xuống đi bộ vừa ngắm cảnh vừa chuyện trò. Đến trước đình làng, hai người gặp một ông lão mặc áo trắng, tay cầm chiếc phèng la. Anh A cất tiếng hỏi:

-Ông lão ơi, ông đang làm gì vậy?

Ông lãi điềm nhiên trả lời:

-Ta là Thành hoàng giữ phúc phần cho làng này, ngoài việc giữ yên ổn cho dân làng, ta cũng cai quản vấn đề sinh tử của mọi người nữa. Ta đến báo cho hai người biết là mạng sống của các người chỉ còn ba ngày. Ba ngày sau ta sẽ đến đón hai người về cõi âm. Khi ta nổi một hồi phèng la thì hai người phải đi theo ta để về trình-diện ngài Diêm-vương mà không được chậm trễ. 

Nói xong, ông lão biến mất để lại hai anh chàng đứng ngẩn người như ngây như dại. Thử tưởng-tượng ngày áo gấm về làng cũng là ngày biết được cuộc đời chỉ còn ba ngày cuối cùng thì ai không đâm ra hoảng-hốt. 

Anh A thấy rằng cuộc đời nhạt-nhẽo không còn gì gọi là thú vị, 30 năm phấn đấu để cuối cùng đổi lấy cái chết cận kề trong khoảnh khắc. 

Về đến nhà, anh ta ăn không ngon ngủ không yên, mà cũng chẳng lo sắp xếp được gì cả. Đến lúc bấy giờ anh mới nghiệm ra rằng dù tiền bạc có nhiều ức vạn đi nữa cũng không thể nào đánh đổi được sinh mạng đáng quý. 

Chưa đến ba ngày, thần sắc của anh bơ-phờ như một thây ma, mặt anh đầy những vết nhăn, râu ria mọc lún phún, cặp mắt thì đờ đẫn, thất thần. Ngày thứ ba, anh thức dậy thật sớm, lựa ra bộ đồ sang trọng đắt tiền nhất mặc vào người và đứng trước cửa đợi lão tử thần đến trước. 

Chiều tối hôm đó, quả thật anh thấy ông lãi mặc áo trắng, tay cầm phèng la ngày hyo6m trước xuất-hiện. Ông lão chưa kịp going lên hồi phèng là thì anh A đã lăn đùng ra chết. Vì quá khẩn trương nên ba ngày cuối cùng của anh đã mỏi mòn trong sự chờ đợi, do đó khi thấy thần chết xuất-hiện là anh xuất hồn đi theo ngay lập tức. 

Trở lại phần anh B, sau khi nghe vị thần chết tuyên bố bản án tử-hình, anh cũng thấy mủi lòng. Thế nhưng, tánh tình của anh B vốn rất an-phận, anh nghĩ rằng nếu như số mạng của anh có đi đến chỗ chấm dứt thì không có cách nào thoát được. Vì nghĩ như vậy, nên anh mang tất cả tiền bạc đã tạo dựng trong 30 năm ra làm của bố thí. Trước hết, anh cất một trường học ở quew6 nhà để giúp cho trẻ em nghèo khổ có nơi học hành. Sau đó, anh giao tiền cho quí vị hội-đồng xã xây-dựng một bệnh-xá nhằm giúp những người dân quê không có tiền lên tỉnh thành trị bệnh. 

Của cải còn lại, anh mang ra phụ giúp việc xây đường, dựng cầu mang lại tiện-ích cho cuộc sống của người dân thôn-dã. Anh cũng trích ra một phần để giúp đỡ những gia-đình đông con không đủ sống đang cần sự trợ giúp tức thời. 

Những công việc này đã tốn hết thời gian của anh. Anh B không còn thì giờ để nghĩ đến cái chết sắp sửa xảy ra cho anh nữa. Những người dân nghèo khổ trong làng đột nhiên nhận được bố thí lơn láo nên họ rấy lấy làm cảm kích. Những người được giúp đỡ, đã tỏ lòng biết ơn họ bằng cách tổ-chức buổi hát ngoài trời, trước là để tạ ơn thần, sau là để tri-ân nhà mạnh-thường-quân tốt bụng. Đoàn múa lân của trẻ trong làng đã đến trước nhà anh B tưng bừng múa giúp vui. Khi mọi người đang hoan hỉ đứng xem thì ông lão tử-thần xuất-hiện vì đã đến giờ ông ta đến đón anh B về âm-phủ.  

Thế nhưng, không hí trước nhà anh B lúc đó quá vui nhộn cho nên mọi người, kể cả anh B cũng không chú ý đế sự xuất-hiện của người lạ mặt này. Thậm chí có một chàng trai trong làng thấy ông lão tay cầm phèng la đã tưởng nhầm ông là một thành-viên của đoàn múa lân nên kéo ông ta sắp vào hang ngũ những người đánh trống thổi kèn.  

Ông già tử-thần gióng thêm một hồi phèng la gọi hồn, thế nhưng vì không khí đang huyên-náo cho nên tiếng phèng la của ông bị tiếng trống múa lân át mất. Ông già tử-thần cố gắng thử thêm ba lần nữa cũng chẳng ai them chú ý đến. Vì đã đến giờ nên ông buộc lòng phải ra đi. Anh B suốt đêm hôm đó được dân làng đãi đằng ăn uống thật thịnh-soạn.  

Dân chúng trong làng lâu nay mới có một dịp cùng nhau vui vẻ cho nên ai ai cũng liên-hoan cho đến sáng. Sáng ngày hôm sau, anh B cứ tiếp-tục thực-hiện những công việc dở-dang mà anh sắp xếp để phục-vụ cho dân trong làng. Công việc bận rộn liên-tục đã khiến anh quên khuấy mất cái hẹn ba ngày của ông Thành hoàng. Mãi hai ba hôm sau, khi sực nhớ lại, anh lấy làm lạ tại sao đã quá hạn-kỳ mà không thấy thần-chết xuất-hiện. 

Anh đâu biết rằng ông lão có đến nhưng không ai them nghe hồi phèng la của ông nên đã buộc lòng phải bỏ đi. Nhờ vậy mà anh B mới còn tiếp-tục sống dài dài ra đó.” (Người viết truyện: Lâm Thanh Tuyền- Đài Loan)  

Và tiếp theo, là lời bàn của người kể: “Đây là câu chuyện ngụ ngôn rất có ý-nghiã, nói lên chân-lý cuộc sống của con người là phải phấn-đấu từng giây mãi cho đến phút cuối của cuộc đời. Xu-hướng tiến lên sẽ đưa ta đi về đâu? Dĩ nhiên là ta sẽ đi đến chỗ ta hằng mong muốn. Phật-giáo đồ sẽ đi đến thế-giới Cực lạc, còn con chiên Thiên-CHúa giáo sẽ lên Thiên-đàng… 
Thật ra thì, triết-lý cuộc đời không hẳn chỉ như thế. Nhưng, truyện kẻ ở đây cũng nói lên được thái-độ của mỗi người là “Từ Một Giấc Mơ” nào đó, cho đời mình. Thế đó, là ý-nghĩa của câu hát thời thượng “Từ Một Giấc Mơ”… rất hôm nay. Và suốt mọi ngày trong cuộc đời, của bạn và tôi.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những ý-tưởng cũng xuất phát    

Từ Một Giấc Mơ

Như bao giờ.

ĐỊNH MỆNH AN BÀI!

 ĐỊNH MỆNH AN BÀI!  

Thời gian nào cũng là thời gian.  Nhưng không phải thời gian nào cũng giống thời gian nào.  Mỗi người sẽ trải qua những giây phút cực kỳ quan trọng. Đức Giêsu đã biết trước những giây phút đó. Cuối đời Người là một chuỗi vinh nhục.

TÌM MỘT CON ĐƯỜNG.

Dù khi vinh quang vào thành Giêrusalem hay tơi tả dưới làn mưa rơi, Đức Giêsu chỉ biết vâng theo thánh ý Chúa Cha mà thôi.  Đó là con đường dẫn tới vinh quang.  Con đường phục vụ luôn sáng chói giữa những tương quan chằng chịt và biến cố bất ngờ.  Tương quan trần gian thật mỏng manh.  Có ai đáng tin cậy hơn các môn đệ?  Thế mà ông Phêrô “chối Chúa trước mặt mọi người” (Mt 26,71).  Giuđa “nộp Đức Giêsu.” (Mt 26,16.48)  “Các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết” (Mt 26,56).  Cháy nhà mới ra mặt chuột!  Nhưng Đức Giêsu không lệ thuộc vào con người mỏng dòn.  Chỗ dựa không phải là con người.  Sức mạnh cũng không phải là gươm giáo gậy gộc, nhưng là “Cha Thầy” với “mười hai đạo binh thiên thần” (Mt 26,53).  Bởi vậy, Người mới có thể đứng vững trước bao thử thách.  Qua bao đoạn đường gập ghềnh, Người vẫn thẳng bước, vì mục tiêu đã được xác định dứt khoát.

Mục tiêu đó chính là vinh quang Thiên Chúa.  Có lúc vinh danh Chúa Cha và Chúa Con không tách lìa.  Chính lúc vào thành Giêrusalem, Đức Giêsu tưởng như đã lên chín tầng mây với Chúa Cha khi dân chúng tung hô: “Hoan Hô Con vua Đavít!  Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!  Hoan hô trên các tầng trời.” (Mt 21,9)  Nhưng Người cũng thấy vinh quang Chúa Cha tràn ngập ngay cả lúc nghe những lời nhục mạ: “Ông Kitô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó?” (Mt 26,68), hay khi “lính của tổng trấn quì gối trước mặt Người mà nhạo rằng: Vạn tuế Đức Vua dân Do Thái!” (Mt 26,29).  Một nguồn bình an khôn tả khỏa lấp con tim ngay giữa cảnh “kẻ qua người lại đều nhục mạ Người” (Mt 27,39).  Vinh quang vẫn lóe lên ngay trong đêm đen hận thù: “Nếu mi là Con Thiên Chúa… Hắn là Vua Israel!  Hắn đã nói: Ta là Con Thiên Chúa!” (Mt 27,40.42.43).  Đã đến lúc Cha làm vinh danh Con.  Đứng trước các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng, Người vẫn khẳng quyết mình “là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa” (Mt 26,65), và trước mặt tổng trấn Philatô, Người xác nhận mình là “vua dân Do Thái” (Mt 27,11).  Đứng giữa đám đông khát máu đang gào thét: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Mt 27,23.25.26), Đức Giêsu vẫn nghiễm nhiên vươn lên như Đấng “Kitô” (Mt 27,22)

Tất cả xảy ra không ngoài “ý cha” (Mt 26,39).  Những lúc “làm thinh” (Mt 26,63) hay “không trả lời một tiếng” (Mt 27,12) là những lúc Đức Giêsu kiên cường bất khuất trước cường lực đối phương.  Người như chìm sâu trong tình yêu Thiên Chúa để tìm một lối thoát cho những bế tắc hiện tại.  Càng nhìn lên cao, Người càng không thấy lý do phải đối đầu với những toan tính thấp hèn như thế.  Chấp nhận cái chết nhục nhã để thi hành thánh ý Cha, chứ không chịu uốn cong ba tấc lưỡi để tìm đường chạy trốn khỏi định mệnh.  Nếu chối bỏ sự thật về mình, chắc chắn Người đã không khơi bùng ngọn lửa căm hờn trong lòng các thượng tế và dân chúng.  Nhưng Đức Giêsu đã không hèn nhát đi tìm một con đường dễ dãi như thế.  Ngay cả khi giang tay trên thập giá, Người cũng không chấp nhận những thách thức rẻ tiền để chứng minh mình là “Con Thiên Chúa” (Mt 27,43).  Không thể tìm thấy chân lý nơi những ồn ào phức tạp đó.  Chính trong thinh lặng và cầu nguyện, Đức Giêsu đã khám phá được tất cả nét hào hùng và dịu ngọt của tình yêu Thiên Chúa.

Tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đức Giêsu đã có thể mạc khải mầu nhiệm Thiên Chúa tình yêu ngay giữa lúc tâm hồn đang cay đắng vì cảnh Giuđa “nộp Người” (Mt 26,48) và “tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy” (Mt 26,31).  Chính khi mọi tương giao nhân loại bị bứt tung, Đức Giêsu lại mạc khải “đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28).  Máu Thầy đem lại sự giải thoát cho toàn thể nhân loại.  Tất cả kế hoạch thâm hiểm của con người vô tình đã làm cho máu Thầy đổ ra theo đúng chương trình tình yêu của Thiên Chúa.

Khám phá và chấp nhận tất cả chương trình tình yêu Thiên Chúa đòi nhiều sáng suốt và can đảm.  Chính vì vậy, trước khi nộp mình vào tay các quân lính thượng tế và kỳ mục, Đức Giêsu đã cầu nguyện ba lần trong vườn Ghếtsêmani.  Trước giờ phút cực kỳ quan trọng đó, các môn đệ vẫn vô tình như đã vô tình từ trước đến nay.  Lúc nào họ cũng chỉ quan tâm đến quyền lợi riêng.  Họ có thể dùng chính những mỹ từ thân thương và cử chỉ âu yếm để che giấu sự phản bội (x. Mt 26,49).  Những dấu chỉ tình yêu đó và những lời khẳng quyết “không chối Thầy” (Mt 26,35) đều mất hết ý nghĩa.  Có nhiều lúc ngôn từ không mang nổi nội dung diễn đạt.  Nhưng nếu cố tình phản bội nội dung ngôn từ, con người sẽ phải trả giá.  Sau khi nuốt lời hứa, ông Phêrô “ra ngoài, khóc lóc thảm thiết” (Mt 26,75).  Giuđa cũng hối hận không kém: “Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan.” (Mt 27,4), rồi “Giuđa ném số bạc vào Đền Thờ và ra đi thắt cổ” (Mt 27,5).  Hối hận đến thế vẫn chưa đủ sao?  Tại sao phải thắt cổ mới xứng với việc đền bù?  Thật là một mầu nhiệm.  Giuđa đã trả giá quá mắc!  Chúa có đòi vậy đâu!

NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÂN CHÍNH.

Điều Chúa đòi là người môn đệ phải chân thành với chính mình.  Sau khi chối Chúa, ông Phêrô đã “khóc lóc thảm thiết” vì thấy mình quá yếu đuối.  Còn ông Giuđa không hề khóc lóc, chỉ giận dữ lên án chính mình và tự xử cho mình, không kiên nhẫn đợi giây phút trở về với Cha nhân lành.  Từ chỗ ồn ào hăm hở trả giá Thầy, ông đã đụng đầu một cái tôi rối loạn đến nỗi không còn nhận ra sự thật về mình.  Muốn tránh được tai họa thảm khốc đó, “trên hết trong xã hội tục hóa ngày nay, cần phải có một mục tiêu rõ ràng và một ý chí kiên vững, trực tiếp phát sinh từ những nguồn mạch Phúc âm chân chính” (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 18.03.2002).  Sống với Thầy suốt một quãng đường dài, nhưng ông Giuđa không hề một lần kinh ngạc về thực tại trước mắt.  Thói quen và lối sống hằng ngày đã bưng mắt không cho người môn đệ thấy sự thật về Thầy.  Mọi sự đương nhiên phải như thế!

Thực tế mọi sự chẳng sẵn sàng như ta tưởng.  Chính Thầy cũng không hiện diện đấy như một thực thể nằm sẵn trong tầm tay.  Không coi Thầy như một giá trị tuyệt đối, không thể khám phá Thầy như một chân lý giải thoát.  Nhất là trong thế giới ngày càng xa lạ với Thiên Chúa hôm nay, con người không biết mình là ai và tại sao mình sống.  Triết lý sẽ giúp con người khám phá ra chiều kích sâu xa đó.  Nhưng chỉ “khi triết lý gặp gỡ Đức Kitô trong Tin Mừng, thì Tin Mừng thực sự mới bắt đầu lan tỏa khắp thế giới.” (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 19.03.2002).  Hiện nay, công bố Phúc âm ngày càng gặp nhiều khó khăn vì hoàn cảnh văn hóa phức tạp (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 19.03.2002).  Trong thế giới quá ồn ào hôm nay con người không còn thời giờ khám phá những giá trị vô cùng quan trọng và cần thiết cho cuộc sống.  Nếu không thấy mình có “bổn phận nặng nề phải chuyển đạt những giá trị nhân bản, tinh thần và thiêng liêng cho các thế hệ trẻ,” (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 19.03.2002) cha mẹ và nhà giáo sẽ không thể cung cấp cho xã hội tương lai những con người chân chính và đầy trách nhiệm đối với xã hội.

Chỉ trong xã hội đầy những con người như thế mới có thể loan báo Tin Mừng về Đức Giêsu như Đấng cứu độ duy nhất cho toàn thể nhân loại.

Sưu tầm

Langthangchieutim gởi

Thông cáo của Uỷ ban Giáo lý Đức tin / HĐGMVN về điều được gọi là “Sứ điệp từ trời”

GIÁO HỘI HIỆN THẾ 2017

Thông cáo của Uỷ ban Giáo lý Đức tin / HĐGMVN về điều được gọi là “Sứ điệp từ trời”

 

Uỷ ban Giáo lý Đức tin / HĐGMVN

Thông Cáo trên đây được lấy từ Website của chính HĐGMVN và của TGP Sài Gòn dưới đây:

   Thông cáo của Ủy ban Giáo lý Đức tin / HĐGMVN về điều được gọi là “Sứ điệp từ trời” |

Nếu cần biết rõ hơn thì xin xem thêm bài nhận định riêng biệt sau đây:

Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục VIệt Nam đã lên án Phong trào SỨ ĐIỆP TỬ TRỜI qua Thông Cáo đề ngày 14 tháng 4 năm 2015. Để rõ hơn về lịch sử hình thành và những điểm sai lạc của phong trào nầy, xin kính gởi bài viết “ Nhận định về phong trào Sứ điệp từ trời” dưới đây của linh mục Lm Giuse Lâm Văn Sỹ, Dòng Đa Minh, để anh em tham khảo.

Kính,

Lê Thiện Sĩ.

29-3-2017 

Nhận định về phong trào “Sứ điệp từ trời”

Lm Giuse Lâm Văn Sỹ, OP

Phong trào mệnh danh là “Sứ điệp từ trời” đã xuất hiện từ tháng 11 năm 2010 tại Châu Âu, và cho đến nay đã được quảng bá hầu như rộng khắp trên toàn thế giới.

Chắc hẳn nhiều người trong chúng ta đã nghe nói hoặc đã từng đọc qua các “Sứ điệp từ trời”. Điều đó ít nhất cũng cho thấy tầm ảnh hưởng và tính chất thu hút của phong trào mới này. Điều đáng nói là có nhiều người đã tin và đang góp phần quảng bá cho các “Sứ điệp trời”.

Riêng tại Việt Nam, phong trào “Sứ điệp từ trời” cũng đang rộ lên như một hiện tượng đáng quan ngại. Tại nhiều giáo xứ, người ta thấy xuất hiện các hội cầu nguyện Mân Côi, nhưng thực chất là hội quảng bá các “Sứ điệp từ trời”.

Điểm nổi bật của các hội này là thái độ chống Đức Giáo hoàng, và đây cũng là một trong các chủ đề thường gặp trong các “Sứ điệp từ trời”. Nhiều tín hữu đã “lỡ” đọc các “Sứ điệp từ trời” thì cảm thấy hoang mang vì rơi vào cảnh “tiến thoái lưỡng nan”.

Nếu không tiếp tục đọc thì sẽ có nguy cơ bị án phạt như các sứ điệp đã đe dọa, còn nếu tiếp tục thì không biết các sứ điệp sẽ dẫn mình tới đâu. Bởi vậy, sau khi đã tìm hiểu các “Sứ điệp từ trời” và tham khảo một số bài viết được phổ biến trên mạng internet, chúng tôi muốn viết bài nghiên cứu này như một sự góp phần soi sáng vấn đề, và cũng để cung cấp ít nhiều tư liệu cho những vị có thẩm quyền hầu có thể thẩm định vấn đề cách khách quan.

Trong phần trích dẫn các sứ điệp, đôi khi vì yêu cầu chính xác của văn bản, chúng tôi phải dịch lại từ nguyên bản tiếng Anh thay vì lấy từ trang <<sudieptutroi.com>> bằng tiếng Việt.

  1. GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT VỀ PHONG TRÀO “SỨ ĐIỆP TỪ TRỜI”.
  1. Người sáng lập phong trào “Sứ điệp từ trời” là ai ?

Phong trào “Sứ điệp từ trời” gắn với một cái tên mà hiện nay đã trở thành nổi tiếng: “Maria Lòng Chúa Thương Xót”[1]. Đây chính là người sáng lập phong trào. Thoạt đầu, hầu như không ai biết được được đích xác Maria Lòng Chúa Thương Xót là ai. Trên trang mạng chính thức của phong trào, nhân vật này đã tự giới thiệu mình là một phụ nữ Châu Âu, theo đạo Công Giáo, đã có gia đình, và là một doanh nhân. Theo bà, tên gọi “Maria Lòng Chúa Thương Xót” không phải tên thật, mà chỉ là một biệt danh. Bà cho biết rằng Chúa Giêsu muốn bà giữ kín danh tánh để bảo đảm sự an toàn cho gia đình, cũng như để người ta chỉ tập trung vào các sứ điệp mà thôi. Dầu vậy, cũng có người đã cố tìm hiểu xem bà là ai; và hiện nay người ta đã xác định được khá chắc chắn rằng bà là một phụ nữ Ái Nhĩ Lan, hiện sống tại thành phố Dublin. Thậm chí có người còn biết rõ tên tuổi thực của bà.

Theo Maria Lòng Chúa Thương Xót, Chúa Giêsu đã tỏ cho bà biết rằng bà là vị Sứ Giả thứ bảy, tức vị Thiên Sứ thứ bảy, được phái đến để mặc khải cho thế gian nội dung của các Ấn trong sách Khải Huyền. Đây là những Ấn mà chỉ mình Con Chiên Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, mới có quyền mở. Chính Ngài sẽ lần lượt mở các Ấn đó; và mỗi lần mở Ấn nào thì Ngài đều mặc khải cho bà để bà thông đạt lại cho người khác. Cũng vì vậy, Đức Giêsu đã xác định với bà rằng bà là vị ngôn sứ của thời cuối cùng (Sứ điệp ngày 13-07-2012).

Kể từ tháng 11 năm 2010, bà Maria Lòng Chúa Thương Xót đã liên tục nhận được các sứ điệp từ trời. Các sứ điệp này chủ yếu do Chúa Giêsu tỏ cho biết, nhưng cũng có khi do Chúa Cha hoặc do Đức Trinh Nữ Maria. Tính đến nay đã có hơn 1.100 sứ điệp khác nhau. Nội dung chính của các sứ điệp xoay quanh việc cảnh cáo thế giới tội lỗi, kêu gọi ăn năn hối cải, và tiên báo sự gần kề của ngày Chúa trở lại. Theo bà Maria, các sứ điệp nhằm chuẩn bị cho thế giới sẵn sàng chờ đón ngày Chúa trở lại, sau khi đã trải qua thời kỳ cảnh cáo và thanh luyện. Cho đến nay, bà vẫn không ngừng nhận được các sứ điệp mới.

  1. Việc quảng bá Phong trào Sứ điệp từ trời.

Nhờ vào các phương tiện thông tin đại chúng, cho đến nay phong trào Sứ điệp từ trời đã được quảng bá rộng rãi trên toàn thế giới. Trang FaceBook “Chúa Giêsu đối với nhân loại” (Jesus to Mankind) của bà Maria Lòng Chúa Thương Xót đã thu hút khá nhiều người đọc. Tính đến nay, bà đã nhận được hơn 17.000 ý kiến yêu thích. Ngoài ra, bà còn lập trang mạng <<www.TheWarningSecondComing. com>> để quảng bá các sứ điệp của mình. Có một nhóm thiện nguyện viên người Việt đã dịch trang mạng này sang tiếng Việt và cập nhật liên tục, với tên gọi <<sudieptutroi.com>>. Các sứ điệp đã công bố còn được sưu tập lại và xuất bản thành sách. Cho đến nay đã có ba tập sách (I, II và III) lần lượt được xuất bản với tựa đề “Sách sự thật” (The Book of Truth)

Nhờ trang mạng bằng tiếng Việt nói trên, ngay tại Việt Nam, có khá nhiều người, thậm chí cả ở vùng quê, đã biết đến phong trào này và thường xuyên theo dõi các sứ điệp mới trên trang mạng của phong trào. Tại nhiều giáo xứ, bắt đầu xuất hiện các nhóm cầu nguyện mệnh danh là “Hội cầu nguyện Mân Côi” nhưng thực chất là các nhóm quảng bá các sứ điệp từ trời. Thậm chí các sứ điệp từ trời còn được phổ biến trên một số tòa giảng. Hiện tượng này một mặt cho thấy tính chất lôi cuốn của phong trào mới, nhưng mặt khác cũng đồng thời là một hiện tượng đáng báo động cho các cơ quan có thẩm quyền trong Hội Thánh.

  1. PHÂN TÍCH NHỮNG ĐIỂM SAI LẠC VỀ ĐẠO LÝ TRONG SỨ ĐIỆP TỪ TRỜI.

Như đã nói trên đây, nội dung chính của sác Sứ điệp từ trời xoay quanh ba chủ đề chính: cảnh cáo thế giới tội lỗi, kêu gọi ăn năn hối cải, loan báo sự gần kề của biến cố Chúa tái lâm. Nếu chỉ nhìn thoáng qua thì những nội dung ấy cũng chẳng có gì là mới lạ và cũng không đi ngược lại với giáo lý chung của Hội Thánh. Tuy nhiên, nếu tìm hiểu kỹ nội dung cụ thể của các sứ điệp, người ta thấy lộ ra rất nhiều điểm sai lạc về giáo lý. Điều nguy hiểm ở đây, đó là những điểm sai lạc này trộn lẫn với những giáo lý chân thực, tạo nên tình trạng “vàng thau lẫn lộn”, khiến những ai không tinh ý có thể dễ dàng nhiễm phải nọc độc của chúng. Ở đây chúng tôi chỉ giới hạn trong việc nêu lên những sai lầm tỏ tường và nghiêm trọng mà thôi. Để dễ nắm bắt vấn đề, chúng tôi phân chia các điểm sai lạc này thành những đề mục khác nhau tùy theo những khía cạnh liên quan. Tuy nhiên, việc sắp xếp này cũng chỉ có tính chất tương đối, vì các sai lạc trong khía cạnh này có thể cũng liên hệ đến khía cạnh khác, do mối liên hệ chặt chẽ của tổng thể các chân lý đức tin Kitô giáo.

  1. Những điểm sai lạc liên quan đến Mặc Khải.
  1. a) Lập trường “duy Kinh Thánh”(sola scriptura). Đây là lập trường có nguốn gốc từ Phái Tin Lành do Luther khởi xướng. Cách chung, lập trường này cho rằng chỉ duy mình Kinh Thánh mới là quy chuẩn của đức tin. Những gì không trực tiếp bắt nguồn từ Kinh thánh thì không có giá trị ràng buộc về phương diện đức tin và luân lý. Lập trường này hiển nhiên cũng chối bỏ giá trị quy phạm của Thánh Truyền cũng như Quyền Giáo huấn của Hội Thánh. Một lập trường như thế đã được thể hiện dưới những hình thức khác nhau trong các Sứ điệp từ trời. Chẳng hạn, sứ điệp ngày 25-12-2010 tuyên bố như sau: “Bất kỳ giáo lý nào không bắt nguồn từ Kinh Thánh mà lại tự cho là có thẩm quyền công bố chân lý thì đều là dối trá. Đây là tội chống lại Ta [Chúa Giêsu] và là sự chống báng nặng nề đối với Ta và Chúa Cha Hằng Hữu của Ta”. Quan điểm này cũng được lặp lại trong sứ điệp ngày 13-09-2011 với những lời như sau:“Đừng bao giờ cho phép mình chấp nhận bất kỳ sự thật nào khác ngoài những điều có trong Kinh Thánh”.

Hẳn nhiên, một lập trường như thế đi ngược lại với giáo lý của Hội Thánh Công Giáo vốn nhìn nhận Thánh Kinh cùng với Thánh Truyền làm nên một kho tàng đức tin duy nhất. Ngoài ra, đức tin Công Giáo cũng tin nhận Hội Thánh là thầy dạy chân lý, có thẩm quyền chính thức để giải thích những gì chứa đựng trong kho tàng Mặc khải được chính Chúa Kitô ủy thác cho Hội Thánh (xc. GLHTCG, số 80; 85).

  1. b) Coi các mặc khải tư ngang hàng với Kinh Thánh. Một sai lầm nghiêm trọng khác của các Sứ điệp từ trời, đó là coi các mặc khải tư như là có giá trị ngang hàng với Kinh Thánh. Thực ra, việc thẩm định các sứ điệp của bà Maria có phải là mặc khải tư hay không, đó là điều còn phải xem xét. Tuy nhiên, xem ra bà Maria đã tự nhận những sứ điệp của mình là mặc khải tư; và thậm chí bà còn coi “cái gọi là mặc khải tư” này ngang hàng với Kinh Thánh.

Thật vậy, trong một số sứ điệp được được bà Maria phổ biến, người ta đọc thấy rằng Chúa Giêsu đã truyền cho bà viết một cuốn sách; cuốn sách này thực ra không phải do bà viết, nhưng là do chính Chúa viết. Cuốn sách đó có giá trị ngang với Kinh Thánh và là một phần của Kinh Thánh. Lời khẳng định này được lặp lại nhiều lần trong các sứ điệp khác nhau với những lời lẽ hơn kém. Chẳng hạn sứ điệp ngày 12-11-2010 nói như sau: “Con phải dồn hết tâm lực để viết cuốn sách. Cuốn sách này sẽ giúp cải biến cuộc đời nhiều người, sẽ cứu rỗi các linh hồn; và đây là điều đã được báo trước. Đúng vậy, cuốn sách là điều đã được tiên báo. Con là người viết. Ta là Tác giả. Con đừng ngạc nhiên hoặc choáng ngợp, vì đây là một trách vụ thiêng thánh, và con đã được chọn để làm việc này cùng với Ta. Con sẽ phải mất ba tháng để hoàn tất. Ta muốn con xuất bản cuốn sách trên toàn thế giới. Cuốn sách đó phải được phổ biến rộng khắp, đầy sức mạnh, và được hằng triệu người tìm đọc cũng như sách Kinh Thánh vậy. Này con gái của Ta, con có thể xuất bản cuốn sách dưới danh nghĩa ‘cuộc đối thoại với vị ngôn sứ bí mật’. Con cứ việc làm như thế” (có thể xem thêm sứ điệp ngày 09-02-2013).

Người viết ra sứ điệp trên đây hẳn đã hiểu không đúng về bản chất của Kinh Thánh cũng như vị thế của mặc khải tư. Kinh Thánh là chính Lời Thiên Chúa được mặc khải cho con người và được ghi lại dưới tác động linh hứng của Thánh Thần. Do vậy, chính Thiên Chúa là tác giả thực sự của Kinh Thánh. Về phần bà Maria, việc bà tuyên bố cuốn sách bà sẽ viết có Thiên Chúa là tác giả thì cũng đồng nghĩa với việc cho rằng cuốn sách đó được viết ra với ơn linh hứng chẳng khác gì Kinh Thánh vậy. Đây quả là một sự mạo nhận có tính chất phạm thượng.

Theo giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, mặc khải công đã nên hoàn trọn cách viên mãn cùng với sự xuất hiện của Đức Giêsu Kitô. Kể từ đây, nhân loại không còn phải trông đợi mặc khải nào khác. Bởi đó, những gì liên quan đến đức tin được Thiên Chúa tỏ bày sau này cho các thánh hay một ai đó thì được gọi là mặc khải tư. Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo xác định như sau: “Theo dòng lịch sử, đã xuất hiện những điều gọi là ‘mặc khải tư, một số trong đó được thẩm quyền của Hội Thánh công nhận. Tuy vậy, những mặc khải đó không thuộc kho tàng đức tin. Chức năng của chúng không phải là “cải thiện” hoặc “bổ sung” mặc khải vĩnh viễn của Đức Kitô, nhưng để giúp người ta, vào một thời điểm lịch sử nào đó, sống mặc khải của Đức Kitô cách trọn vẹn hơn” (số 67).

  1. Những sai lầm liên quan đến Đức Kitô
  1. a) Sai lầm về mục đích của việc nhập thể. Sứ điệp ngày 24-12-2010 đã bộc lộ một quan niệm sai lạc về mục đích của việc Con Thiên Chúa nhập thể làm người. Bằng một lối diễn tả mơ hồ, sứ điệp này cho rằng việc Con Thiên Chúa nhập thể làm người và cuối cùng chịu chết trên thập giá chỉ nhằm khai lòng mở trí, hay thức tỉnh lương tâm của con người để họ nhận biết ơn cứu độ mà Chúa Cha từ ngàn xưa đã hứa ban cho toàn thể nhân loại. Như vậy, việc nhập thể và cái chết của Đức Giêsu chỉ có giá trị giáo huấn và gương mẫu chứ không đem lại hiệu quả là ân sủng tha tội và tái sinh con người vào đời sống mới. Đây quả là một cái nhìn thiếu sót về công trình cứu độ của Đức Giêsu. Có thể trưng ra đây những lời tiêu biểu trong sứ điệp này như sau: “Việc Ta đến trần gian đã được sắp đặt như một cơ hội cuối cùng để thức tỉnh thế gian, ngõ hầu mọi người nhận ra rằng Thiên Chúa tha thứ mọi tội lỗi. Vai trò của Ta là để chỉ cho các con con đường lên Trời, nhờ vào giáo huấn và cái chết của Ta trên thập giá”.
  1. b) Quan niệm sai lạc về cuộc Quang lâm của Chúa. Các sứ điệp của bà Maria còn quảng bá một quan niệm hết sức sai lạc về biến cố Quang lâm của Chúa. Các sứ điệp này cho rằng sau khi thời kỳ cảnh cáo và thanh luyện kết thúc thì sẽ là thời Chúa Kitô tái xuất hiện trên địa cầu. Tuy nhiên, cuộc tái lâm này chưa phải đánh dấu thời cùng tận của thế giới để rồi khai mào cảnh “Trời mới đất mới” kéo dài đến thiên thu vạn đại. Trái lại, theo sứ điệp của bà Maria, thời kỳ khai mào cùng với cuộc Quang lâm của Chúa cũng chỉ kéo dài 1.000 năm. Đó là thời kỳ mà Chúa Kitô cai quản địa cầu, và quyền lực Satan bị bứng tận gốc khỏi trần gian. Đây chính là sự mô phỏng lại lạc thuyết “ngàn năm” vốn đã bị Hội Thánh phi bác từ xưa. Thuyết “ngàn năm” này được thể hiện rõ ràng trong sứ điệp ngày 20-05-2011, trong đó có những đoạn như sau:

“Nhiều bối rối tồn tại trên thế giới liên quan đến biến cố này. Nhiều người tin rằng Cuộc Quang Lâm của Ta chỉ ra rằng thời tận cùng của thế giới đã đến. Nhưng không phải như vậy, thay vào đó Cuộc Quang Lâm của Ta có nghĩa nói về thời kỳ cuối khi Satan và thuộc hạ của hắn, những kẻ đã tạo ra những đau khổ không kể xiết trên thế giới, sẽ bị trục xuất khỏi Trái Đất trong vòng 1.000 năm.

Con gái của Ta, Ta sẽ cai trị trái đất trong 1.000 năm. Hãy biết chắc rằng giờ đây Ta đang trông coi các biến cố khi chúng xảy ra trên thế giới. Giờ đây Ta đã chuẩn bị đường lối cho Vương Quốc Mới của Ta trên trái đất và thời gian đó đã gần đến rồi, gần hơn rất nhiều so với những gì người ta có thể nhận ra. Hãy hân hoan vì tin tức này sẽ được tất cả mọi người đón nhận. Đau khổ trên thế giới này sẽ chấm dứt. Một nguồn tình yêu và vinh quang để sẻ chia cho tất cả con cái của Ta, sẽ trào dâng”.

Cần lưu ý rằng thuyết “ngàn năm” này từng bị các vị thánh tiến sĩ thời danh như Augustinô, Tôma Aquinô lên tiếng phi bác. Huấn quyền của Hội Thánh cũng minh nhiên kết án lạc thuyết này, như thấy trong Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo: “Sự đánh lừa của tên Phản Kitô đã được phác họa trên trần gian mỗi khi người ta cho rằng mình thực hiện được trong lịch sử niềm hy vọng về Đấng Mêssia, một niềm hy vọng vốn chỉ có thể được hoàn thành vượt quá giới hạn lịch sử, nhờ cuộc phán xét cánh chung: Hội Thánh đã bác bỏ sự giả mạo này về Vương quốc tương lai, và cả dưới một hình thức giảm nhẹ của sự giả mạo đó, có tên là thuyết ngàn năm, nhất là dưới một hình thức chính trị của một chủ thuyết Mêssia đã bị tục hóa ‘đồi bại tự bản chất’” (số 676).

  1. Những điểm sai lạc liên quan đến Hội Thánh.
  1. a) Chối bỏ quyền giáo huấn của Hội Thánh. Bằng những cách khác nhau, bà Maria đã chối bỏ thẩm quyền bất khả ngộ của Hội Thánh xét như thầy dạy chân lý. Như chúng tôi đã phân tích trên đây, qua lập trường “duy Kinh Thánh”, bà Maria cũng đồng thời hoặc ít nhất là gián tiếp phủ nhận quyền giáo huấn của Hội Thánh. Sự phủ nhận quyền giáo huấn có tính quy phạm của Hội Thánh dường như còn được diễn tả cách mặc nhiên qua việc bà chủ trương theo kiểu cào bằng rằng “ …không một ai trong các con xứng đáng để phán xét hoặc tra xét về người khác. Không ai có quyền hạn hoặc hiểu biết thiêng liêng để đưa ra bất cứ sự đánh giá nào về đạo đức nơi người khác” (Sứ điệp ngày 06-04-2011).

Mặt khác, bà Maria còn đưa ra những lời nhận định sai lạc hoặc những lời cáo buộc thiếu căn cứ về cách thức Hội Thánh thực thi vai trò giáo huấn. Trong nhiều sứ điệp và cụ thể là sứ điệp ngày 26-01-2012, bà Maria xem ra muốn ám chỉ rằng Tòa Thánh đang bị một số phần tử xấu lũng đoạn, cho nên những gì mà các cơ quan thẩm quyền của Tòa Thánh giảng dạy chỉ là bóp méo sự thật về giáo huấn của Chúa; những canh tân Phụng vụ, nhất là nghi thức thánh lễ chỉ là phương pháp phượng tự Công Giáo bất xứng, xúc phạm đến Chúa Giêsu và Chúa Cha. Cũng trong sứ điệp này, bà còn cho rằng Hội Thánh không dạy sự thật; Hội Thánh đã không bao giờ giảng dạy về tính chất nghiêm trọng của tội lỗi (xem thêm các sứ điệp ngày 18-02-2013; ngày 30-09-2013). Thực ra, bà Maria nói như thế tức là bà đã không hiểu rằng Hội Thánh không chỉ là cơ chế hữu hình được vận hành bởi con người, mà trên hết còn là một thực tại thiêng thánh được Thánh Thần hướng dẫn.

  1. b) Chối bỏ quyền của Hội Thánh trong việc quản lý và phân phát các mầu nhiệm thánh. Thật vậy, sứ điệp ngày 31-01-2012 đã cho thấy một quan niệm sai lạc về việc ban các ân xá. Theo sứ điệp này, việc ban ân toàn xá không phải do Hội Thánh mà là do chính Chúa Giêsu ban cho một số người được tuyển chọn để kêu gọi người khác hoán cải. Việc nhận ơn toàn xá này đi kèm với điều kiện phải đọc một kinh đặc biệt trong bảy ngày liền. Kinh này cũng được xác định rõ trong sứ điệp. Thực ra, những điều nói trong sứ điệp này thực chất chỉ là một sự mạo danh Chúa Giêsu để tự dành cho mình quyền ban ân xá, chứ Chúa Giêsu chẳng bao giờ làm điều đó.

Thật vậy, những điều trong sứ điệp này hoàn toàn trái ngược với ý định của Chúa Giêsu trong việc thiết lập Hội Thánh như là trung gian của ơn thánh (Mt 16,19; 18,18). Chúa Giêsu không ủy thác cho một thẩm quyền nào khác ngoài Hội Thánh được ban các ân xá cũng như quy định các điều kiện đi kèm. Chắc hẳn Chúa Giêsu sẽ không phá đổ hay làm ngược lại những gì Ngài đã thiết lập. Về điểm này, Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo dạy như sau: “Ân xá là việc tha thứ trước mặt Thiên Chúa khỏi những hình phạt tạm đáng chịu vì những tội lỗi đã phạm, dù những tội đó đã được tha thứ. Để hưởng nhờ ân xá, Kitô hữu phải hội đủ những điều kiện được thẩm quyền của Hội Thánh quy định, vì với tư cách là thừa tác viên của Ơn cứu chuộc, Hội Thánh có thẩm quyền phân phát và chia sẻ kho tàng công phúc của Đức Kitô và các thánh” (số 1471).

  1. c) Đưa ra những phán đoán sai lạc về các Đấng kế vị Thánh Phêrộ Trước khi xảy ra biến cố Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI tuyên bố từ nhiệm, bà Maria, trong nhiều sứ điệp, đã từng tiên báo rằng Đức Giáo hoàng sẽ bị hạ bệ bởi một âm mưu đen tối trong Giáo triều Rôma (chẳng hạn các sứ điệp ngày 18-01-2012; ngày 11-02-2012; ngày 20-03-2012; ngày 26-05-2012). Nếu các sứ điệp trên đây tiên báo việc Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI kết thúc sứ vụ đại diện Chúa Kitô là do một thế lực xấu xa cưỡng ép ngài, thì chúng ta sẽ phải hiểu sao về những lời tuyên bố của ngài về lý do của việc từ nhiệm? Trong tuyên bố ngày 11-02-2013, ngài đã xác định việc từ nhiệm là do tuổi cao và sức khỏe kém, và việc từ nhiệm là một quyết định tự do. Như vậy, phải chăng chúng ta phải tin vào các sứ điệp của bà Maria để kết tội Đức Giáo hoàng là một kẻ dối trá? Hay phải nói ngược lại là các sứ điệp của bà Maria chỉ là trò dự đoán đầy tà ý và cảm tính?

Bên cạnh đó, bà Maria còn phủ nhận sự chính đáng của việc Đức Giáo Hoàng Bênêđictô từ nhiệm cũng như tính hợp thức của vị Giáo hoàng sẽ kế vị. Trong sứ điệp ngày 22-07-2013 có những lời lẽ như sau: “Chỉ có một vị chủ chăn của Giáo Hội trên Trái Đất được Con Mẹ trao quyền, người vẫn cứ phải là Giáo Hoàng cho đến chết. Bất cứ ai khác là kẻ giành quyền ngồi trên Ngai Tòa Thánh Phêrô đều là kẻ mạo danh”.

Đang khi đó, việc các vị Giáo hoàng từ nhiệm, mặc dù hiếm nhưng cũng đã từng xảy ra trong lịch sử Hội Thánh. Cho nên, đó không phải là điều bất khả. Chính bộ Giáo luật 1983, điều 332, §2 dự liệu như sau: “Nếu xảy ra trường hợp Đức Giáo hoàng Rôma từ nhiệm, việc từ nhiệm phải được tự do và phải được bày tỏ cách hợp thức thì mới hữu hiệu, nhưng không cần được bất cứ ai chấp nhận”.

Có một điều mà ai đọc các sứ điệp của bà Maria cũng đều dễ nhận thấy, đó là sự chống báng mạnh mẽ nhắm vào người kế vị Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, tức là Đức Giáo hoàng đương kim Phanxicô. Chiều hướng này xem ra cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nhóm cầu nguyện do bà phát động. Trong nhiều sứ điệp khác nhau, bà đã dùng những lời lẽ chống báng rất gay gắt đối với Đức Phanxicô.

Từ trước khi xảy ra biến cố Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI từ nhiệm, trong sứ điệp ngày 12-04-2012, bà Maria đã tiên báo một người sẽ được bầu lên thay Đức Bênêđictô. Tuy nhiên, bà phủ nhận tính hợp pháp của cuộc bầu vị Giáo hoàng mới. Bà gọi cơ mật viện Hồng y bầu giáo hoàng mới là những người theo bè Tam điểm, là tổ chức độc ác của Satan. Bà gọi vị Giáo hoàng mới là ngôn sứ giả, là kẻ mạo danh. Điều này nằm trong cùng một chiều hướng với việc bà cho rằng Đức Bênêđictô XVI là vị giáo hoàng đích thực cuối cùng trên trần gian. Trong nhiều sứ điệp khác nữa, bà thường xuyên lặp đi lặp lại cụm từ “ngôn sứ giả” được gán cho người kế vị Đức Bênêđictô. Cũng có khi bà gán cho vị này những “nhãn hiệu” xấu xa khác, như “đầu của Con Mãng Xà” (sứ điệp ngày 13-11-2012); “kẻ mạo danh” (sứ điệp ngày 22-07-2013); “cái sừng nhỏ, kẻ huênh hoang tự đắc ngồi trên Tòa Phêrô” (sứ điệp ngày 18-02-2013); “con của Satan …kẻ mạo danh trên ngai tòa Phêrô …tên phản Kitô” (sứ điệp ngày 25-02-2013); và còn nhiều điều khác tương tự.

Thái độ chống Giáo hoàng của bà Maria một mặt cho thấy bà không tin rằng Thánh Thần của Chúa Kitô vẫn đang hiện diện và hoạt động trong Hội Thánh, không ngừng hướng dẫn Hội Thánh đạt đến chân lý toàn vẹn của Chúa Kitô. Mặt khác, thái độ đó còn cho thấy một cái nhìn giản lược về bản chất của Hội Thánh vốn chỉ còn là một cơ chế phàm trần của những tranh giành phe nhóm, những toan tính kiêu căng, mưu đồ thống trị … Cần nhớ rằng Hội Thánh tiên vàn là một mầu nhiệm. Hội Thánh dù bao gồm các tội nhân, nhưng tự bản chất là thánh thiện vì được chính Đức Kitô thánh hóa để trở thành Hiền Thê không tì ố của Ngài (xc. Cđ. Vat. II, Hiến chế về Giáo Hội, số 1-8). Thái độ chống Giáo hoàng của bà Maria có thể coi là một dạng thức của tội ly giáo, khi bà không ngừng rêu rao rằng vị Giáo hoàng đương nhiệm là ngôn sứ giả, là Giáo hoàng mạo danh … (xc. GLHTCG, số 2089).

  1. Những điềm sai lầm về luân lý.
  1. a) Sai lầm trong quan niệm về luân lý tính dục. Trong sứ điệp ngày 06-04-2011, bà Maria tỏ ra dung túng cho một lối sống tự do về tình dục. Nội dung chính của sứ điệp này xoay quanh việc đừng lên án những người khác tôn giáo, tín ngưỡng hay khác về những sở thích tính dục (sexual preferences). Hẳn nhiên, cần phân biệt giữa tội lỗi và con người. Chúng ta không có quyền lên án các tội nhân, cho dù họ phạm những tội nặng nề nhất. Thế nhưng, cách diễn tả mơ hồ của sứ điệp khiến người đọc có cảm tưởng rằng cũng không nên phê phán sự sai trái của những xu hướng lệch lạc về tính dục. Điều đáng nói ở đây là cụm từ “sở thích về tính dục” được lặp đi lặp lại nhiều lần như một sự nhấn mạnh. Cách dùng cụm từ này thật đáng ngờ! Xem ra nó hàm ý rằng những xu hướng tính dục như đồng tính chẳng hạn, cũng chỉ nên coi là chuyện sở thích cá nhân chứ không phải là một sự lệch lạc về luân lý. Thế nhưng, đây lại là điều đi ngược lại với Giáo lý của Hội Thánh vốn coi các hành vi đồng tính luyến ái tự bản chất là vô trật tự, và nghịch với luật tự nhiên (xc. GLHTCG, số 2357).
  1. b) Quan niệm sai lạc về việc áp dụng án tử hình.Bà Maria còn đưa ra một quan niệm sai lạc về việc áp dụng án tử hình khi bà lên án theo cách cào bằng vô điều kiện mọi hình thức giết người, chỉ trừ ra hành động tự vệ. Sứ điệp ngày 26-01-2012 có những lời như sau: “Ngươi không được giết người có nghĩa là ngươi không được giết người khác. Điều này không có ý nói về sự tự vệ nhưng về bất kỳ trường hợp nào khác. Không ai được biện minh cho việc giết người – dù là phá thai, hành hình hay trợ tử. Không người nào được phép” (sứ điệp ngày 15-07-2011 cũng có những lời tương tự).

Hẳn nhiên, Hội Thánh luôn dạy rằng phá thai, trợ tử và những hành động giết người cố ý và không có lý do chính đáng đều là những tội ác nghiêm trọng về luân lý. Tuy nhiên, đối với án tử hình, mặc dù Hội Thánh luôn kêu gọi các chính quyền thực thi lòng khoan dung và giảm thiểu hết mức có thể việc áp dụng án tử hình, nhưng Hội Thánh vẫn luôn công nhận quyền chính đáng của các chính quyền dân sự trong việc áp dụng án tử hình cho những tội phạm hết sức nguy hiểm cho xã hội mà xét thấy không còn cách chọn lựa nào khác. Như vậy, việc áp dụng án tử hình không phải luôn luôn là hành động vô luân, nhưng là điều chính đáng trong một số hoàn cảnh nhất định. Giáo lý này thuộc về truyền thống lâu đời của Hội Thánh, từng được các vị thánh Tiến sĩ thời danh giảng dạy, và nhất là được khẳng định trong Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo như sau: “Giáo huấn truyền thống của Hội Thánh, sau khi đã xác minh đầy đủ căn tính và trách nhiệm của phạm nhân, không loại trừ việc kết án tử hình, nếu đây là con đường khả thi duy nhất để bảo vệ hữu hiệu mạng sống con người khỏi bị xâm phạm cách bất công” (số 2267).

  1. c) Quan niệm sai lạc về ơn tha tội. Trong sứ điệp ngày 09-07-2012, bà Maria còn quảng bá một quan niệm sai lạc về ơn tha tội khi cho rằng người nào đọc kinh đọc đặc biệt (do bà chỉ dẫn) trong 7 ngày liên tục thì được ơn xá giải mọi tội lỗi. Điều này hẳn nhiên đi ngược với giáo lý của Hội Thánh vốn cho rằng ơn tha tội được ban thông thường bằng việc lãnh nhận bí tích giao hòa, hoặc trong trường hợp khẩn cấp, bằng việc ăn năn tội cách trọn, chứ không chỉ đơn thuần bằng việc đọc bất kỳ kinh đọc nào (xc. GLHTCG, số 1446; 1452).

Cũng trong sứ điệp nói trên, bà còn đề xuất một kinh đọc đặc biệt khác để xin ơn tha tội cho những người chết trong tình trạng mắc tội trọng. Điều này rõ ràng đi ngược lại với giáo lý của Hội Thánh vốn dạy rằng những ai chết trong tình trạng mắc tội trọng thì sẽ rơi vào sự hư mất đời đời. Do vậy, tất cả những sự hy sinh, công phúc, lời cầu nguyện của người sống cũng không làm thay đổi được phần số của những người đã chết ấy (xc. GLHTCG, số 1035).

  1. Những điểm sai lạc về kỷ luật bí tích.

Trong các sứ điệp, bà Maria còn chủ trương những điều sai lạc liên quan đến cách thức thực hành hoặc lãnh nhận các bí tích. Hẳn nhiên, Hội Thánh không có quyền thay đổi bản chất của các bí tích, vì các bí tích là do Chúa Kitô thiết lập. Tuy nhiên, Hội Thánh, xét như là người quản lý các Bí Tích và thừa tác viên của ơn cứu độ, có thẩm quyền đưa ra những quy định về hình thức cử hành các bí tích. Những quy định này vì không đụng chạm đến bản chất của Bí tích, nên có thể được canh tân khi cần thiết để thích ứng với những hoàn cảnh mới.

Ở đây, chúng tôi muốn nói đến hai quy định cụ thể của Hội Thánh trong việc lãnh nhận các bí tích. Đó là việc cho phép tín hữu rước lễ bằng tay và luật buộc xưng các tội trọng một năm ít là một lần. Việc Hội Thánh cho phép tín hữu rước lễ bằng tay được xác định rõ ràng trong các văn kiện sau đây: Tông thư Ecclesia de Eucharistia của Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II và Huấn thị Redemptionis Sacramentum của Bộ Phụng tự và Bí tích. Còn việc xưng các tội trọng một năm ít là một lần thì được xác định trong Giáo luật 1983, điều 989.

Đáng tiếc là các sứ điệp của bà Maria đã minh nhiên phủ nhận tính hợp pháp của hai quy định trên đây của Hội Thánh. Thật vậy, sứ điệp ngày 06-07-2011 nói như sau: “Bí Tích Thánh Thể Chí Thánh phải được đón nhận trên lưỡivà không được phép đón nhận một cách ô nhơ bởi bàn tay con người. Tuy nhiên, điều này chính là những gì các tôi tớ đã được thánh hiến của Ta đã và đang thực hiện. Các lề luật này đã không được thông qua bởi Ta trong thần khí. Các tôi tớ đã được thánh hiến của Ta đã bị dẫn dắt trên một con đường không phù hợp với các Giáo Huấn từ các tông đồ của Ta”.

Còn sứ điệp ngày 09-07-2012 lại khẳng định rằng: “Đối với những người Công Giáo, các con phải lãnh nhận bí tích Hòa Giải hai tuần một lần nếu các con muốn tiếp tục sống trong Ân sủng”. Đây vừa là một quan niệm sai lạc về tình trạng ân sủng vì cho rằng tình trạng ân sủng không tùy thuộc vào tình trạng sạch tội trọng và lòng mến Chúa, nhưng tùy thuộc vào nhịp độ nhất định của việc thực hành bí tích. Mặt khác, nó còn chuẩn hóa một lối thực hành bí tích trái với quy định chung của Hội Thánh.

III. THẨM ĐỊNH VỀ PHONG TRÀO SỨ ĐIỆP TỪ TRỜI.

  1. Phản ứng từ phía Giáo quyền.

Kể từ khi phong trào “Sứ điệp từ trời” khai sinh và được phổ biến rộng rãi, nhiều vị Giám mục thuộc các châu lục khác nhau đã lên tiếng cảnh báo về sự nguy hiểm cũng như sự lầm lạc của phong trào này. Có thể kể ra một số vị tiêu biểu như:

Đức Tổng Giám mục Denis J Hart, Giáo phận Melbourne, Úc;

Đức Giám mục Fabbro, Giáo phận London, Ontario, Canada;

Đức Giám mục Stephen Secka, Giám mục phụ tá Giáo phận Spisska, Slovakia;

Đức Giám mục Richard. J. Malone, Tổng Giáo phận Buffalo, NY;

Đức Tổng Giám mục Mark Coleridge, Giáo phận Brisbane, Úc;

Đức Giám mục Greg ÓKelly SJ , Giáo phận Port Pirie, Nam Úc;

Đức Giám mục Andreas Laun of Salzburg, Giám mục Phụ tá Giáo phận Áo.[2]

Vì bà “Maria Lòng Chúa Thương Xót” được cho là người đang sống tại Dublin, nên cuối cùng Đức Tổng Giám mục Tổng Giáo Phận Dublin, tức vị chủ chăn có thẩm quyền trực tiếp đối với bà, cuối cùng cũng đã lên tiếng. Mới đây trong một bản Tuyên cáo ra ngày 16-04-2014, Đức Tổng Giám mục Diarmuid Martin tuyên bố như sau:

Tòa Tổng Giám mục Dublin đã nhận được nhiều thỉnh nguyện thư xin xác minh về tính chân thực của những điều tự nhận là thị kiến và sứ điệp do một người tự xưng là “Maria Lòng Chúa Thương Xót” nhận được, và người này được cho là đang sống tại Tổng Giáo phận Dublin.

Nay Tổng Giám mục Diarmuid Martin muốn khẳng định rằng các sứ điệp này cũng như các thị kiến đi kèm không được Hội Thánh chuẩn nhận, và nhiều điều trong các bản văn đi ngược lại với thần học Công Giáo.

Vậy, không được phổ biến hay sử dụng các sứ điệp này trong các hội đoàn thuộc Hội Thánh Công Giáo.[3]

  1. Một vài nhận định chung thay lời kết.

Sau khi đã tìm hiểu phong trào “Sứ điệp từ trời”, chúng tôi nhận thấy rằng các bản văn tự nhận là “sứ điệp từ trời” không thực sự phản ảnh giáo lý tinh tuyền của Hội Thánh Công Giáo, nhưng chỉ là một thứ giáo thuyết hỗn tạp được góp nhặt hoặc chịu ảnh hưởng từ những nguồn mạch khác nhau, vừa là Công Giáo, Tin Lành, và cả khuynh hướng hành đạo theo nghi lễ cổ điển trước Công đồng Vaticanô II. Mặt khác, các sứ điệp của bà Maria còn chứa đựng rất nhiều điều bất nhất hoặc mâu thuẫn. Chẳng hạn, khi thì bà chủ trương phải khoan dung với những người “khác về sở thích tính dục”, khi khác lại lên án cách gay gắt những cuộc hôn nhân đồng tính; khi thì bà chủ trương phải cầu nguyện cho những người đã chết trong tình trạng mắc tội trọng, khi khác bà lại cho rằng hình phạt hỏa ngục là đời đời, không thay đổi được (sứ điệp ngày 12-01-2014). Trong các sứ điệp, bà Maria đã từng cảnh báo về một “thứ tôn giáo mới phá hoại Hội Thánh”, do một số phần tử xấu trong Giáo triều đang tìm cách gầy dựng (chẳng hạn sứ điệp ngày 20-07-2012). Phải chăng lời kết án ấy trước tiên đã ứng nghiệm vào chính cái giáo thuyết hỗn tạp mà bà đang ra sức phổ biến?

Có nhiều yếu tố khiến người ta nghi ngờ về tính khả tín của các sứ điệp từ trời do bà Maria phổ biến.

Trước hết là sự ẩn danh của bà. Mặc dù sự ẩn danh này đã được bà giải thích lý do, nhưng xem ra lý do bà đưa ra không thực sự thuyết phục. Trong phần lớn các trường hợp, sự ẩn danh thường đi đôi với việc không dám nhận trách nhiệm cũng như những hệ lụy về những gì mình nói hoặc làm. Một lá thư nặc danh thường không được coi là có giá trị. Trong lịch sử Hội Thánh, những nhà thần bí, những người nhận mặc khải tư chân chính không bao giờ ẩn danh, mà trái lại, họ sẵn lòng chịu thử thách, hiểu lầm, nghi kỵ, thiệt thòi vì những gì họ nói ra, bởi vì họ thực sự xác tín về những gì mình nói.

Yếu tố thứ hai khiến người ta nghi ngờ về tính khả tín của các sứ điệp, đó là những lời tiên báo của bà Maria thường không ứng nghiệm. Cũng có khi những lời tiên báo đó xem ra ứng nghiệm, nhưng chỉ ứng nghiệm cách nửa vời, như trong trường hợp bà tiên báo về việc Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI từ nhiệm mà chúng tôi đã phân tích trên đây. Còn những gì bà tiên báo về người kế vị Đức Bênêđictô XVI thì hoàn toàn ngược lại với những gì người ta đang chứng kiến nơi vị Giáo hoàng đương kim, Đức Phanxicô. Nếu quả thực các sứ điệp của bà phát xuất từ Thiên Chúa thì hẳn là không thể tiên báo những điều viển vông như vậy.

Yếu tố sau cùng khiến người ta có đủ cơ sở để phủ nhận tính khả tín của các sứ điệp do bà Maria quảng bá, đó là những điểm sai lầm nghiêm trọng về đạo lý chất chứa trong các sứ điệp của bà. Thông thường Hội Thánh rất cẩn trọng trong việc xác định những mặc khải tư nào được coi là chân thực; và một trong những tiêu chí quan trọng hàng đầu được dựa vào để thẩm định, đó là mặc khải tư ấy không bao hàm những điều sai lạc đi ngược lại với giáo lý chung của Hội Thánh. Chỉ nguyên tiêu chí này cũng đủ cho thấy những sứ điệp tự nhận là “từ trời” hay “mặc khải tư” của bà Maria chỉ là ngụy tạo. Những sứ điệp đó không đến từ Thiên Chúa, mà chỉ là sản phẩm của con người. Điều tai hại là chính người tạo ra các sứ điệp ấy lại gán cho chúng một giá trị ràng buộc gần như tuyệt đối mà tự thân chúng không có. Điều này đã gây hoang mang cho không ít các tín hữu đơn thành: có buộc phải tin các “sứ điệp từ trời” hay không? Nếu không tin sẽ phải chuốc lấy những tai họa hay những hình phạt khủng khiếp sẵn sàng ập xuống. Còn nếu tin thì sẽ kéo theo bao nhiêu hệ lụy thực hành do các sứ điệp đề xướng; và rồi, liệu làm như thế có rơi vào tội rối đạo hay không? Bằng ấy câu hỏi đặt ra cũng là lời thỉnh nguyện để các cơ quan thẩm quyền trong Hội Thánh địa phương sớm đưa ra câu trả lời chính thức để soi sáng cho các tín hữu có được sự lựa chọn đúng đắn trong vấn đề này.

Lm Giuse Lâm Văn Sỹ, OP.

(giaolyductin.org 11.06.2014)

[1] Tên tiếng Anh là “Maria Divine Mercy”. Trong trang mạng <<sudieptutroi>>, tên này được dịch sang tiếng Việt là “Maria Tông Đồ Lòng Chúa Xót Thương”.

[2] Có thể tham khảo thêm ở trang <<sudieptutroi-trueorfalsẹblog spot.com>>

[3] Nguyên bản tiếng Anh trong trang mạng chính thức của Tổng Giáo phận Dublin.

Anh chị Thụ & Mai gởi

GIỜ CHIẾN THẮNG VINH QUANG

GIỜ CHIẾN THẮNG VINH QUANG

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà    

 (Suy niệm Chúa nhật Lễ Lá)
Đức Giê-su gọi giờ tử nạn là giờ Ngài được tôn vinh: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh (Gioan 13, 31)

Vinh quang ở đâu mà chỉ thấy bị bắt bớ, xét xử, bị vu cáo đủ điều, rồi lại bị kết án, bị đòn vọt, bị vác thập giá và cuối cùng là cái chết thảm thương ô nhục trên đồi Can-vê!
Vậy vinh quang của Chúa Giê-su ở đâu? Vì sao Chúa Giê-su gọi đây là giờ Ngài được tôn vinh?

Đối với người không am hiểu, cái chết của Chúa Giê-su trên thập giá là một thất bại não nề; nhưng suy cho kỹ, cái chết đó là một chiến thắng rất oanh liệt và vinh quang.
           
Đây là nơi Chúa Giê-su chiến thắng hận thù bằng lòng bao dung

Đối diện với cuộc kết án bất công, đứng trước những thượng tế, kỳ mục muốn huỷ diệt mình cho bằng được, đối diện với đám đông cuồng nộ đòi đóng đinh kết liễu đời mình, trước những kẻ chế giễu nhạo cười với bao lời thách thức, đứng trước đội quân hành quyết dã man tàn bạo… Chúa Giê-su vẫn không may may oán hận! Ngài chiến thắng sự hận thù bằng lòng bao dung vô bờ bến. Ngài nhìn họ với ánh mắt thương xót, vẫn yêu họ bằng trái tim khoan nhân… Rồi vì sợ Chúa Cha đánh phạt họ vì tội lỗi ngất trời của họ, Ngài tha thiết cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây đau khổ và kết án tử cho Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Luca 23, 34). Đó là tâm tình đẹp nhất, cao thượng nhất trên cõi đời nầy.

 
Đây là nơi Chúa Giê-su chiến thắng tính khiếp nhược và lòng tham sinh uý tử bằng sự dũng cảm rất cao cường

Là người ai không sợ chết. Chính Chúa Giê-su cũng  đã trải qua những giờ phút kinh hoàng trước viễn ảnh cái chết đau thương sắp đến khi cầu nguyện trong vườn Dầu, thế nhưng Ngài không bị khuất phục bởi cái chết. Ngài đã chổi dậy để dũng cảm đương đầu với nó. Ngài đã chấp nhận chết cách can trường và đã huỷ diệt sự chết để hồi sinh.
Đây là nơi Chúa Giê-su chiến thắng đau đớn thể xác và đau khổ tinh thần

Là người ai cũng sợ khổ và tìm cách lánh thoát khổ đau. Nhưng Chúa Giê-su đã đón nhận những cực hình đau thương khủng khiếp nhất cách can đảm phi thường. Qua thập giá, Ngài đã hoàn toàn chiến thắng tính khiếp nhược của phận người.

                                                               
Qua cách thức Chúa Giê-su đương đầu với cuộc khổ nạn, ta thấy không một thách thức nào làm cho Ngài lùi bước; không một đe doạ nào làm cho Ngài khiếp sợ; không một sỉ nhục nào làm cho Ngài nổi giận hay mất bình an; không hận thù nào tiêu huỷ được lòng bao dung vô bờ bến của Ngài …

Ngài thắng được bản năng tham sinh úy tử; Ngài vượt lên trên nỗi sợ mọi thứ khổ đau; Ngài thắng được lòng hận thù có thể bùng lên khi bản thân mình bị sỉ nhục và bị đối xử rất dã man và tàn ác…  Trong cuộc khổ nạn của mình, Đức Giê-su chiến thắng hoàn toàn bản thân mình, vượt qua các thách thức từ mọi phía để hoàn thành mỹ mãn sứ mạng Chúa Cha đã trao ban.
Chiến thắng cả thiên hạ không bằng chiến thắng chính bản thân mình.  Chúa Giê-su đã thực sự chiến thắng bản thân mình, hoàn toàn làm chủ con người mình, bắt thân xác phải vâng phục tinh thần như chiên ngoan. Oai hùng thay! Vinh quang thay!
         
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô,

Chúa vô cùng dũng cảm và hùng mạnh nên đã chiến thắng tử thần và đẩy lùi mọi cuộc tấn công của nó, xin nâng đỡ chúng con là những kẻ đớn hèn khiếp nhược, đừng để chúng con chào thua trước tội lỗi cách dễ dàng nhưng giúp chúng con kiên cường chiến đấu chống lại tội lỗi và thói hư, để mai ngày được khải hoàn vinh quang như Chúa.
 
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà