LỜI CHÀO HUYỀN DIỆU

LỜI CHÀO HUYỀN DIỆU 

Chào hỏi là cử chỉ đầu tiên khi hai người gặp gỡ nhau.  Tùy theo cách thức chào hỏi mà người ta nhận ra mối tương quan giữa hai người, cũng như địa vị của họ.  “Ave Maria – Kính chào Bà Maria” là lời chào của Sứ thần Gabrien trong ngày truyền tin.  Lời chào ấy, vừa thể hiện sự kính trọng, vừa là lời tôn vinh các nhân đức của Đức Trinh nữ.  Lời chào thân thương ấy đã trở thành lời kinh quen thuộc của người Công giáo chúng ta.

Thánh Luca là tác giả duy nhất ghi lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Sứ thần Gabrien và Đức Trinh nữ thành Nagiarét.  Sự kiện này được chính Đức Maria kể lại cho tác giả như một dấu ấn đặc biệt trong cuộc đời mình.  Gabrien là vị sứ thần được Chúa sai từ trời xuống chào kính Đức Trinh nữ và loan báo mầu nhiệm Nhập Thể.  Đây thật là lời chào huyền diệu, hàm chứa những ý nghĩa sâu xa.  Lời chào này không chỉ khởi đầu cho cuộc gặp gỡ giữa cá nhân, mà còn là khởi đầu của công cuộc Nhập thể cứu độ trần gian.

Trong Cựu Uớc, nhiều cuộc gặp gỡ giữa các thiên sứ (hay người của Thiên Chúa) với người phàm được ghi lại, như trường hợp của ông Abraham hay các ngôn sứ.  Tuy vậy, không có một cuộc gặp gỡ nào được diễn tả với thể thức chào hỏi kính trọng, như lời chào của Sứ thần Gabrien.  Lời chào của Sứ thần là lời chào của chính Thiên Chúa, Đấng sai Sứ thần đến gặp Đức Trinh nữ Maria.  Sứ thần có sứ mạng chuyển tải một thông điệp, với nội dung như Đấng sai mình đã truyền dạy.

“Ave Maria”, đây là lời chào của Đấng sáng tạo ngỏ với thụ tạo của mình.  Lời chào diễn tả sự khiêm nhường của Thiên Chúa.  Vào thời ban đầu của lịch sử, Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ, trời đất và muôn vật muôn loài.  Trong các loài thụ tạo, Chúa dựng nên con người và trao cho họ thay mặt Ngài làm chủ đất đai, canh tác vũ trụ.  Một tác giả đã viết: “Khi sáng tạo, Thiên Chúa giống như nước thủy triều, khiêm nhường thu mình lại để nhường chỗ đất khô cho con người và các loài thụ tạo.”  Nay, Ngài lại có sáng kiến cứu độ con người.  Để thực hiện chương trình ấy, Thiên Chúa mời gọi sự cộng tác của một người phụ nữ đơn sơ khiêm hạ.  Dường như Ngài chờ đợi sự đồng ý của Trinh nữ.  Nếu Thiên Chúa hạ mình chào một thụ tạo, thì Trinh nữ thành Nagiarét cũng diễn tả sự khiêm nhường qua câu trả lời: “Này tôi là tôi tớ Chúa.”  Đức Maria khiêm tốn ý thức mình chỉ là tôi tớ thấp hèn trước sự cao cả thánh thiện của Chúa.  Nếu Mẹ nhận được những đặc ân cao cả, là do lòng thương xót của Chúa.  Mẹ đã phó thác hoàn toàn theo ý Chúa, vì Mẹ xác tín rằng, những gì Chúa muốn đều tốt cho nhân loại và tốt cho những ai có liên quan.  Khi suy ngắm mầu nhiệm thứ nhất của Mùa Vui, chúng ta xin cho được sự khiêm nhường, như sự khiêm nhường của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu độ trần gian.  Chúng ta cũng cầu xin cho được noi gương Đức Trinh nữ, khiêm hạ trước mặt Chúa và sẵn sàng cộng tác với Ngài.

“Ave Maria”, lời chào đi liền với lời ca tụng nhân đức của Đức Trinh nữ Maria.  Sứ thần đã ca tụng Mẹ là “Đấng đầy ơn phúc.”  Đây không phải là một lời khen xã giao theo kiểu người đời.  Đây cũng không phải là một lời khen tặng mà con người dành cho nhau, nhưng đây chính là lời của Thiên Chúa tôn vinh Đức Mẹ.  “Đầy ơn phúc” là cách diễn tả một người toàn vẹn, thánh thiện, hoàn hảo, đầy đủ mọi đức tính tốt đẹp.  Đức Mẹ có vẻ đẹp thể xác lẫn tâm hồn, vừa đẹp lòng Thiên Chúa vừa đẹp lòng con người.  Vì Đức Mẹ không mắc tội tổ tông, nên Đức Mẹ tinh tuyền, như bà Evà trước khi phạm tội. Tâm hồn và thể xác Đức Mẹ phản ánh sự thánh thiện vẹn toàn của Thiên Chúa, nhờ vậy mà Mẹ được tôn vinh hơn hết mọi phụ nữ trên trần gian.  Lời chào của Sứ thần cũng thường được dịch là “Hãy vui lên!”  Một người đầy ơn sủng sẽ luôn hân hoan vui mừng vì cảm nhận sâu sắc sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời.  Thiên sứ mời gọi Đức Mẹ hãy vui lên, như tâm tình hân hoan vui mừng của nữ ngôn sứ Sophonia trong Cựu ước, bởi lẽ Thiên Chúa sẽ thực hiện những việc kỳ diệu trong lịch sử, để thể hiện quyền năng và tình thương của Ngài.  Niềm vui tràn đầy của Đức Mẹ đã thể hiện qua kinh Magnificat sau đó.  Niềm vui của Đức Trinh nữ là niềm vui toàn diện, cả linh hồn và thần trí.

“Ave Maria”, lời chào đánh dấu một giai đoạn mới trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.  Tác giả thư Do Thái đã viết: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với chúng ta qua các Tổ phụ và các ngôn sứ.  Đến thời sau hết này, Ngài nói với chúng ta qua người Con” (Dt 1,1).  Với lời thưa “Xin vâng” của Đức Trinh nữ, Ngôi Lời đã hóa thành xác thịt và cư ngụ giữa chúng ta.  Đấng từ trời cao đã giáng thế.  Thiên Chúa với con người đã nên một.  Từ nay, Thiên Chúa không còn là Đấng cao xa vời vợi, nhưng Ngài đã mang lấy bản tính nhân loại và chọn trái đất là quê hương.  Ngài cũng chọn con người là anh chị em, để cùng chia ngọt sẻ bùi trong cuộc đời dương thế.

Người tín hữu Công giáo lặp lại lời chào “Ave Maria” mỗi khi lần hạt Mân Côi.  Lời chào này đã trở thành lời cầu nguyện thân thuộc, đi liền với tình suy niệm những biến cố quan trọng của cuộc đời Chúa Cứu Thế.  Kinh Mân Côi giúp chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Giêsu và mở lòng đón nhận giáo huấn của Người.  Hai mươi mầu nhiệm Mân Côi phác họa chân dung Đấng Cứu Thế, đồng thời giúp ta nhận ra chính thân phận và cuộc đời mình giữa những biến cố Vui, Sáng, Thương, Mừng đan xen với nhau.

“Ave Maria”, ước chi lời chào này luôn vang lên nơi môi miệng và tâm hồn chúng ta, lúc vui cũng như lúc buồn, khi hạnh phúc cũng như khi đau khổ, tuổi thanh xuân cũng như khi xế bóng, để xin Đức Mẹ đồng hành với chúng ta mọi giây phút của cuộc đời.  Khi đọc kinh “Kính Mừng”, người tín hữu Công giáo thể hiện tâm tình phó thác cậy trông nơi lời cầu bầu của Đức Mẹ và kêu xin: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử.”  Đây là lời cầu nguyện của Công đồng Êphêsô vào năm 431, sau khi đã tuyên bố tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa” như một tín điều.

“Ave Maria”, lời ca tụng hôm nay nơi trần thế, cũng là lời ca tụng giữa triều thần thánh trên thiên đàng, để rồi cùng với Đức Mẹ, chúng ta sẽ được hân hoan ca tụng Chúa muôn đời.

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Vatican phong thánh hai ’em nhỏ’ chứng kiến Đức Mẹ hiện ra ở Fatima

Vatican phong thánh hai ’em nhỏ’ chứng kiến Đức Mẹ hiện ra ở Fatima

Hàng trăm ngàn người tham dự buổi lễ phong thánh hai ’em nhỏ’ chứng kiến Đức Mẹ hiện ra ở Fatima. (Hình: Getty Images)

FATIMA, Bồ Đào Nha (AP) – Đức Giáo Hoàng Francis hôm Thứ Bảy vừa thêm hai trẻ chăn cừu vào danh sách những vị thánh của người Công Giáo. Những em này từng chứng kiến sự hiện ra của Đức Mẹ Maria tại ngôi làng Fatima ở Bồ Đào Nha cách đây 100 năm.

Francisco và Jacinta Marto được Đức Giáo Hoàng phong thánh lúc bắt đầu buổi thánh lễ đánh dấu 100 năm sự chứng kiến của hai em, tổ chức tại Fatima.

Nửa triệu người tham dự buổi lễ, tập trung tại quảng trường rộng mênh mông, phía trước thánh đường. Nhiều người lần chuỗi mân côi và cầu nguyện trong suốt nhiều ngày tại Fatima, trước tượng Mẹ Madona. Họ vỗ tay khi Đức Giáo Hoàng tuyên đọc quyết định phong thánh.

Bà Agnes Walsh từ Killarney, Ireland, cho biết bà từng cầu nguyện cho em Francisco Marto suốt 20 năm qua, bà nói: “Thật là điều tuyệt diệu. Như thể lời cầu xin của mình được trả lời vì tôi luôn có cảm tưởng rằng các em sẽ được phong thánh.”

Đức Giáo Hoàng rời Fatima chiều hôm Thứ Bảy, sau khi lưu lại gần 24 tiếng. Từ chiếc xe đặc biệt dùng để chở giáo hoàng, ngài đưa tay chào hằng ngàn người đứng dọc hai bên đường, đang reo hò, vẫy cờ và hô to “Đức Thánh Cha Vạn Tuế!”

Francisco và Jacinta, 9 và 7 tuổi, và chị họ Lucia, 10 tuổi, hôm 13 Tháng Ba, 1917, thuật lại rằng Đức Mẹ Đồng Trinh Maria cho các em được trông thấy chừng sáu lần trong khi các em đang chăn cừu.

Các em nói, Đức Mẹ cho các em biết ba điều bí mật, mặc khải về hình ảnh địa ngục, chiến tranh, chủ nghĩa cộng sản và cái chết của một Đức Giáo Hoàng, và khuyên các em hãy cầu nguyện cho hòa bình và sám hối tội lỗi.

Vào lúc bấy giờ, Châu Âu đang trải qua cuộc Thế Chiến Thứ Nhất, và Giáo Hội Bồ Đào Nha bị bức hại vì luật chống giáo sĩ của chính quyền cộng hòa khiến nhiều giám mục và linh mục phải sống lưu đày. (TP)

Một người đã từng khinh miệt những người đi lễ nhà thờ – bây giờ trở thành linh mục.

Giuse Thẩm Nguyễn
 

(EWTN News/CNA) Mặc dù vào lứa tuổi thanh thiếu niên, Juan Jose Martinez đã mang trong lòng mối thù hận chống lại Giáo Hội, nhưng hôm nay Juan Jose Martinez đã trở thành một linh mục và nói rằng mình đã khám phá ra “Thiên Chúa thật sự hiện hữu và muốn trở thành một linh mục của Chúa.”

Hiện nay cha Juan Jose đang phục vụ tại Giáo Phận Almeira, Tân Ban Nha, nhớ lại rằng “Vào những buổi sáng Chúa Nhật tôi thường đứng ở hành lang trên lầu nhà mình và nhổ nước miếng xuống những người đi lễ. Tôi nói với họ rằng Giáo Hội là một giáo phái chỉ muốn tiền.”

Cha mẹ của Juan Jose không phải là người Công Giáo và cũng chẳng bao giờ dạy dỗ con mình về tôn giáo cả. Cha Juan Jose đã nói rằng thực ra mình cũng chẳng biết tại sao lại ghét đạo như vậy dựa trên cái ý niệm là Giáo Hội và Thiên Chúa chỉ là “một tổ chức đa quốc gia với nhiều chi nhánh ở khắp mọi nơi để kiếm tiến, giống một giáo phái vậy.”

“Tôi nhất định chống đạo. Tôi là học sinh đầu tiên trong trường tôi và trong thành phố Carboneras, thị trấn Almeria không bao giờ chịu học về tôn giáo và môn thay thế tôn giáo của tôi là môn Đạo đức. Cuối cùng cả lớp đều học môn Đạo đức, không còn ai học môn Tôn giáo cả.”

Cha Juan Jose đã không thể ngờ được rằng mình lại chính là người giúp các bạn cũ trở về với Giáo Hội. Cha nhớ rất rõ cái ngày đầu tiên cha tới một nhà thờ Công Giáo với ý định là đến để diễu cợt những người đã mời mình.

“Một ngày vào tháng Giêng năm 1995, một số bạn cùng lớp rủ tôi tham dự một buổi cầu nguyện Canh Tân Đặc Sủng. Dĩ nhiên tôi nói với họ là tôi không đi vì tôi không muốn họ tẩy não tôi. Nhưng họ cứ kiên trì mời tôi mãi cả tháng trời, cuối cùng thì tôi nể tình mà đi theo họ. Tôi nhớ hôm đó là vào ngày Thứ Năm của Tháng Hai, năm 1995, lần đầu tiên tôi bước vào nhà thờ.”

Một cái hộp vàng.

Khi tới nơi tôi thấy rất nhiều các bạn của tôi cũng có mặt ở đó và tôi rất đỗi ngạc nhiên là “tất cả họ đều chăm chú nhìn vào chiếc hộp vàng đặt ở phía cuối nhà thờ. Tôi không biết là hộp gì nhưng cứ nghĩ chắc là hộp đựng tiền của linh mục giáo xứ.”

Sau này tôi biết chiếc hộp vàng đó chính là Nhà Tạm.

Cha Juan Jose nói rằng mình muốn chọc quê các bạn bởi vì “tôi nghĩ họ đã bị điên rồi. Tôi muốn chọc cười họ lắm nhưng vì lịch sự nên tôi cố nén lại và tôi quyết định sẽ trở lại vào Thứ Năm tuần kế tiếp để tìm dịp diễu cợt họ.”

Và cứ thế, qua nhiều ngày Thứ Năm tham dự, cha Juan Jose đã không còn ác cảm với Giáo Hội và tôn giáo nữa.

Cha Juan Jose đã tâm sự với đài CNA rằng “Vị linh mục chính xứ lúc ấy là người rất khôn ngoan giúp đỡ mọi người và dần dần tình yêu của Chúa đã thấm nhập vào tâm hồn tôi. Và rồi vào tuổi 15, tôi bắt đầu hát lễ, điều này có nghĩa là tôi sẽ tham dự Thánh Lễ vào những ngày Thứ Bẩy. Tôi lại cảm thấy thích ngồi trước Nhà Tạm và dần dà tôi nhận ra sự hiện diện của Chúa và Chúa yêu tôi. Tôi bắt đầu yêu Chúa. Nhóm Canh Tân Đặc Sủng, nhóm mà tôi đến để diễu cợt đã giúp tôi rất nhiều.”

“Mắt tôi được mở ra và tôi đã thấy Thiên Chúa không phải là truyện thần thoại, nhưng Chúa hiện hữu, Ngài nâng đỡ và hướng dẫn tôi. Tôi cảm nghiệm rằng Thiên Chúa yêu tôi rất nhiều và chính Ngài đã gọi tôi.”

“Con là của Chúa để Chúa dùng con theo ý Ngài”

Cha Juan Jose đã được rửa tội và rước lễ lần đầu theo mong ước của ông bà nội nhưng mà vẫn chưa cảm thấy gắn bó với Chúa nhiều. Cho mãi đến khi được chịu phép Thêm Sức thì “tôi mới cảm thấy có sự hoán cải và đó chính là món quà tuyệt vời Chúa ban. Tôi đã thưa với Chúa rằng: Con là của Chúa để Chúa dùng con theo ý Ngài! Hôm ấy có sự hiện diện của mẹ tôi, nhưng cha tôi thì không đến. Đó chính là giây phút tuyệt vời trong đời khi tôi lãnh nhận Chúa Thánh Thần và biết phó thác đời mình cho Chúa.”

Thế rồi chàng thiếu niên Juan Jose đã không ngớt trăn trở với tiếng gọi để trở thành linh mục. Chàng đã thưa với Chúa rằng “Con không muốn và xin đừng quấy rầy con nữa.” Cuối cùng thì Juan Jose đã đầu hàng và quyết định theo Chúa để trở thành linh mục.

Cha Juan Jose nhớ lại vào một buổi chiều Thứ Bẩy, chàng thanh niên 17 tuổi lúc ấy, nói với bố mình là muốn đi tu. Thế là ông bố nổi giận đánh cho một trận và đe rằng “muốn chết thì hãy làm linh mục.”

Gia đình của Juan Jose không hiểu được vì sao mà ngài lại muốn trở thành linh mục. Ông bố hứa sẽ trả tiền học phí để Jose theo học đại học ở Hoa Kỳ nhưng sẽ không cho tiền nếu vào học ở chủng viện.

Trong lúc khó khăn như thế, cha Juan Jose đã nhớ lại lời cầu xin của Thánh Teresa of Avila “Xin đừng để bất cứ điều gì làm bạn bị phiền lo, làm bạn sợ hãi. Chỉ Thiên Chúa thôi mới thỏa mãn tất cả những gì bạn cần” và khi ông bố đã nguôi cơn nóng giận thì cha đến ôm hôn bố mình và nói “Con biết là bố sẽ phản ứng như thế, nhưng con cũng biết là một ngày nào đó bố sẽ hiểu.”

Đón chào.

Ông bố của Jose còn phản ứng mạnh hơn nữa là đe đọa sẽ tố cáo cha xứ nếu ngài còn tiếp tục giúp con ông suy tư về ơn gọi tu trì. “Bố tôi đã cố gắng làm mọi thứ để ngăn cản tôi, nhưng Thiên Chúa mạnh mẽ hơn nhiều.”

Để nghe lời bố, cha Juan Jose đã không vào chủng viện, nhưng bắt đầu học ngành sư phạm tại Đại Học Almeria. Qua nhiều năm kiên trì tiếp tục với ơn gọi làm linh mục, vào một ngày của tháng Năm, năm 1999, mẹ của cha báo tin là ông bố đã đồng ý cho cha vào chủng viện. Khi nghe tin vui cha đã bật khóc và “Tôi còn nhớ là khi tôi đến báo tin cho cha xứ, ngài đã ôm chầm lấy tôi.”

Thế là vào tháng Chín, năm 2000, Jose đi vào chủng viện.

Vào năm 2006, cha Juan Jose đã được thụ phong Linh Mục tại nhà thờ chính tòa Almeria, có cả bố của ngài cũng tham dự.

Cha Juan Jose chia sẻ, “Dĩ nhiên bố tôi không muốn tôi làm linh mục vì ông cố chấp lắm, nhưng khi thấy tôi hạnh phúc theo lý tưởng của mình thì bố tôi cũng phải chấp nhận dù ông không thể hiểu nổi.”

Đặc biệt là cách đây hai năm,trước khi chết, “ bố tôi đã nhận phép sức dầu cho bệnh nhân và chính tôi là người đã ban phép sức dầu cho ông.”

“Khi có ai đó nói với tôi là họ không tin vào Thiên Chúa, tôi luôn nói với họ rằng cả tôi cũng đã không tin vào Ngài. Nhưng đó là sự sai lầm của tôi bởi vì tôi đã khám phá ra niềm hạnh phúc tuyệt vời mà Thiên Chúa ban cho tôi. Nếu bạn cảm thấy không hạnh phúc, thì hãy xin Chúa giúp bạn bởi vì chỉ có Chúa mới ban cho bạn niềm hạnh phúc thật mà thôi.”

Giuse Thẩm Nguyễn

100 NĂM FATIMA: CÂU CHUYỆN ĐỨC MẸ HIỆN RA VẪN RẤT CUỐN HÚT

 100 NĂM FATIMA: CÂU CHUYỆN ĐỨC MẸ HIỆN RA VẪN RẤT CUỐN HÚT

Các cuộc hiện ra của Đức Mẹ ở Fatima một thế kỷ trước, vẫn tiếp tục thu hút các tín hữu và cả những người không cùng niềm tin.

 

Trong khi trọng tâm của thông điệp Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha cách đây 100 năm đó là “hoán cải” và “cầu nguyện”, thì những phép lạ và hiện tượng không thể giải thích được đi kèm sự kiện ấy vẫn tiếp tục kích thích sự tò mò đối với đông đảo các tín hữu cũng như những người không cùng niềm tin Kitô giáo.
Các cuộc hiện ra của Đức Maria tại Fatima năm 1917, không phải là sự kiện siêu nhiên đầu tiên được biết đến tại Fatima – bởi hai năm trước khi Mẹ hiện ra với ba trẻ chăn cừu là Lucia dos Santo và hai người em họ Jacinta và Francisco Marto, thì các em đã thấy một cảnh tượng kỳ lạ khi lần chuỗi Mân Côi ở đồng cỏ.  Điều này ghi lại trong nhật ký của nữ tu Lucia, người sau này trở thành nữ tu dòng Carmen.

“Thật khó để bắt đầu [lần chuỗi] khi chúng tôi nhìn thấy trước mắt mình, một cái gì đó giống người đứng lơ lửng trên không khí phía trên trên những cái cây.  Nó trông giống một bức tượng tuyết, gần như trong suốt trước những tia nắng mặt trời.”  Nữ tu Lucia miêu tả những gì họ đã thấy vào năm 1915.

Năm 1916, Francisco và Jacinta được phép chăn đàn gia súc trên cánh đồng của gia đình, và Lucia cũng tham gia công việc này với hai người em họ của mình.  Vào chính năm này, nhân vật bí ẩn xuất hiện một lần nữa và gần hơn.  Nên các em thấy được rõ hơn.

“Đừng sợ! Ta là Sứ Thần Hòa Bình.  Hãy cùng ta cầu nguyện.” – Nữ tu Lucia nhớ lại lời thiên thần nói.
Ba em không nói với ai về cuộc viếng thăm của thiên thần, và các em cũng không thấy hiện tượng lạ nào nữa cho đến ngày 13 tháng 5 năm 1917.  Khi ấy các em đang chăn cừu và vui đùa cùng nhau, thì bị giật mình bởi hai lần sét đánh.

Khi xuống dốc, các em nhìn thấy một “phụ nữ mặc áo trắng” đứng trên trên ngọn cây nhỏ.

Đây là lần đầu tiên trong sáu lần Đức Mẹ hiện ra với các em.  Và mỗi lần hiện ra, Đức Mẹ đều ban thông điệp và những mạc khải.  Sau đây là lịch sử các cuộc hiện ra của của Đức Mẹ như sau:

– Ngày 13 tháng 5 năm 1917: Khi được hỏi: Bà là ai và bà từ đâu đến?  Người phụ nữ trả lời bà đến “từ trời” và sau này bà sẽ tiết lộ danh tính của mình.  Bà dặn các em trở lại Cova da Iria vào ngày 13 mỗi tháng, trong sáu tháng tiếp theo.  Bà cũng xin các em cầu nguyện mỗi ngày với chuỗi Mân Côi, đ ể “thế giới có được hòa bình” và Chiến tranh thế giới lần I được kết thúc.

– Ngày 13 tháng 6 năm 1917: Người phụ nữ nói bà sẽ đưa Francisco và Jacinta về thiên đàng sớm, còn Lucia sẽ ở lại thế gian một thời gian để truyền bá việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội.

– Ngày 13 tháng 7 năm 1917: Người phụ nữ nói sẽ tiết lộ danh tính của mình vào tháng Mười và sẽ “thực hiện một phép lạ để mọi người nhìn thấy và tin tưởng.”  Sau khi phán bảo các em hãy hãm mình hy sinh để cầu nguyện cho kẻ có tội, bà tiết lộ ba bí mật.  Hai trong ba bí mật này đã không được công khai cho đến năm 1941, và bí mật thứ ba do nữ tu Lucia viết và gửi tới Tòa thánh Vatican, đến tận năm 2000 mới được công bố.
Bí mật đầu tiên là thị kiến về Hỏa ngục.  Ở thị kiến này, các em nhìn thấy “biển lửa” với ma quỷ và linh hồn con người đang hét lên “đầy đau đớn và thất vọng.”  Trong hồi ký, nữ tu Lucia kể lại những người đứng gần đó – người dân khi ấy đã bắt đầu tụ tập xung quanh ba trẻ vào ngày 13 hàng tháng – đã nghe thấy những “tiếng khóc” của Lucia trong thị kiến đáng sợ này.

Bí mật thứ hai là Chiến tranh thế giới thứ lần I sẽ kết thúc, nhưng sẽ “có một cuộc chiến tệ hại hơn nổ ra” nếu con người tiếp tục xúc phạm đến Thiên Chúa.  Tuy nhiên tai ương sẽ được ngăn chặn, nếu nước Nga được dâng hiến cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội.  Mặc dù nữ tu Lucia xác nhận rằng, Đức Giáo hoàng Piô XII vào năm 1942 và Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II vào năm 1984, đã thực thi việc dâng hiến nước Nga, nhưng nhiều người sùng mộ Fatima vẫn cho rằng yêu cầu đó của Đức Mẹ chưa được thực hiện.

Bí mật thứ ba và cũng là bí mật cuối cùng: Bí mật này được công b ố 83 năm sau khi Đức Mẹ hiện ra ở Fatima.  Bí mật này là thị kiến về một “vị giám mục mặc áo trắng” bị bắn giữa đống gạch đá của một thành phố đổ nát.  Vatican đã đưa ra cách giải thích chính thức, và đã thảo luận với nữ tu Lucia trước khi công bố cách giải thích này.  Vatican nói bí mật thứ ba đề cập đến cuộc bức hại các Kitô hữu vào thế kỷ 20, và cụ thể là vụ ám sát Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II bất thành vào năm 1981.

Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, sau này là Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, khi ấy là Tổng trưởng của Bộ Giáo Lý Đức Tin khi bí mật thứ ba được công bố vào năm 2000.  Khi công bố và giải nghĩa bí mật cho báo chí, ngài nói mục đích của thị kiến, không ph ải để cho thấy một “tương lai không thể thay đổi”, nhưng là để “huy động các nguồn lực giúp thế giới thay đổi theo đúng hướng.”

– Ngày 13 tháng 8 năm 1917: Một lần nữa, người phụ nữ nói bà sẽ thực hiện một phép lạ vào tháng Mười và yêu cầu tiền quyên góp của những người hành hương sẽ được sử dụng để xây dựng một nhà nguyện trên địa điểm hiện ra.

– Ngày 13 tháng 9 năm 1917: Người phụ nữ yêu cầu các em tiếp tục cầu nguyện với chuỗi Mân Côi để “thế giới chấm dứt chiến tranh.”  Bà nói rằng Chúa Giêsu, Thánh Giuse, Đức Mẹ Sầu Bi và Đức Mẹ núi Camêlô sẽ xuất hiện trong phép lạ vào tháng Mười tới.

– Ngày 13 tháng 10 năm 2017: Mặc dù trời đổ mưa, hàng chục ngàn người đã đến Cova da Iria để chứng kiến phép lạ được chờ đợi từ lâu.

Người phụ nữ đã công bố mình là Đức Mẹ Mân Côi.  Mẹ cũng cho biết, chiến tranh sẽ kết thúc và những người lính sẽ trở về nhà.  Sau khi yêu cầu mọi người ngừng xúc phạm Thiên Chúa, Đức Mẹ mở tay ra và làm phản chiếu ánh sáng về phía mặt trời.

Nữ tu Lucia reo lên: “Hãy nhìn mặt trời!”  Khi đám đông nhìn lên, mặt trời dường như nhảy múa và thay đổi màu sắc.  Các em cũng thấy Chúa Giêsu, Thánh Giuse và Mẹ Maria như Đức Mẹ đã hứa.  Nỗi ngạc nhiên trước cảnh tượng “mặt trời nhảy múa” biến thành hoảng sợ khi mặt trời dường như lao mạnh về phía trái đất.  Nhiều người lo sợ tận thế đến, nên đã la hét và chạy toán loạn, một số người tìm chỗ trốn trong khi số còn lại vẫn quỳ gối, và cầu xin Chúa thương xót.  Sau đó, mặt trời trở về như bình thường.

Mười ba năm sau khi Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, giám mục giáo phận Leiria đã tuyên bố việc ba trẻ chăn cừu thấy Đức Mẹ hiện ra là “đáng tin” và cho phép tôn kính Đức Mẹ Fatima.  Tuy nhiên, vị giám mục không công nhận hiện tượng mặt trời nhảy múa là phép lạ.

Anna Huê (theo Catholic Herald)

Nguồn: nhathothaiha

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Từ đảng viên Cộng sản đến Linh mục

 Từ đảng viên Cộng sản đến Linh mục

Theo cơ quan Tín Vụ Á Châu thì ơn gọi linh mục và tu sĩ ở Trung Cộng đang tăng tiến, bất chấp việc tuyền truyền chủ nghĩa cộng sản vô thần và tình hình mất tự do tôn giáo. Một cuộc nghiên cứu được thực hiện bởi Viện Các Khoa Xã Hội Học ở Bắc Kinh cho thấy trên 60% sinh viên ở Bắc Kinh và Thượng Hải tỏ ra thiên về Kitô giáo. Ở vào một thời điểm Đảng Cộng Sản ở Trung Hoa đang trải qua cơn khủng hoảng về căn tính của nó thì chỉ còn một ít người tin tưởng vào những lý tưởng của Mao Trạch Đông mà thôi, chứ nhiều người thuộc đảng này đang âm thầm tỏ ra chú trọng tới tôn giáo và đức tin Kitô giáo.

Sau đây là một câu truyện có thật về một đảng viên cộng sản năng nổ, một sinh viên thuộc miền bắc xứ sở này, đã trở thành một vị linh mục Công giáo (vì mục đích an ninh nên các địa danh và tên tuổi xin được giữ kín). (Nhân dịp Thủ Tướng Phan Văn Khải của nhà nước Việt Nam vừa chấm dứt chuyến viếng thăm Hoa Kỳ tuần thứ bốn của Tháng Sáu 2005 vừa rồi theo lời mời của Tổng Thống Bush, câu truyện đây được phổ biến vào lúc này thật là thích hợp, để cho thấy rằng hạnh phúc đích thực của con người nói riêng và của xã hội loài người nói chung không phải chỉ nguyên bởi bánh : kinh tế và chính trị mà chính là bởi niềm tin, bởi Đấng Tối Cao, bởi Đấng làm chủ lịch sử loài người, Đấng được ĐTC GPII gọi là “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần”).

Tên tôi là Bao Yuanjin và là một linh mục ở miền bắc Trung Hoa. Tôi làm linh mục mấy năm trước đây. Tôi được rửa tội 11 năm trước. Trước đó, tôi là một người vô thần, và thực sự là một tay năng nổ của Đảng Cộng Sản Trung Hoa. Ở đại học, tôi đã lãnh đạo các thành viên Cộng Sản trẻ thuộc phân khoa của tôi. Lòng tôi có nhiều dự án và tư tưởng cho tương lai, thế nhưng không có một sự nào trong những thứ ấy liên quan tới Thiên Chúa hết, bởi vì, đối với tôi, Ngài thậm chí không hiện hữu. Gia đình tôi chỉ có bà của tôi theo Tin Lành mà thôi. Khi tôi còn là một đứa nhỏ, tôi đã có lần nghe bà nói về Giêsu: Bà nói rằng Giêsu là con Thiên Chúa. Thế nhưng tôi chẳng có chú ý gì tới tôn giáo. Vấn đề giáo dục theo vô thần là những gì bắt buộc ở Trung Hoa, từ tiểu học lên đến đại học. Tâm trí của tôi đầy những lý thuyết về vô thần và tôi nghĩ rằng vấn đề tin tưởng vào Thiên Chúa là một cái gì đó trẻ con, thậm chí là một cái gì đó hơi ngu ngốc nữa.

Vào năm thứ tư đại học của mình, tôi đã gia nhập đảng Cộng Sản. Dân chúng ở Trung Hoa ghi danh nhập đảng này theo niềm xác tín chẳng có bao nhiêu, hầu hết để “làm bạn” hầu một ngày kia có thể giúp họ tìm việc làm hay giúp họ khi họ gặp rắc rối. Đời sống của tôi trong tổ Cộng Sản chẳng tốt cũng không xấu. Nhóm sinh viên chúng tôi tỏ ra tử tế với mọi người, chăm chỉ chuyên cần và khéo léo tổ chức tất cả mọi loại sinh hoạt.

Thế nhưng, tôi đã bị dội lại bởi sự kiện là, ở Đảng Cộng Sản này, tất cả những vấn đề ấy, cho dù là tốt đẹp đi nữa, vẫn thực hiện không phải cho người khác mà là cho chính mình mà thôi, cho việc thăng tiến nghề nghiệp của mình mà thôi. Rồi vấn đề dối trá nữa: đặc tính chính yếu của chúng tôi là dối trá, ở chỗ, hết mọi người đều nói dối và hết mọi người đều biết đến những thứ dối trá ấy, song tất cả chúng tôi vẫn cứ dối trá như nhau. Chẳng hạn, ở hết mọi cuộc họp tổ đều có giây phút để thú nhận và tự kiểm (được gọi chính xác là “phê bình kẻ khác và phê bình bản thân”). Thực ra chẳng có vấn đề tự kiểm gì cả và cũng chẳng có ai thực sự là phê bình kẻ khác nữa.

Có một loại trao đổi chính thức đã được ấn định, một thứ trao đổi thậm chí có thể trở thành hình thức tâng bốc xua nịnh. Chẳng hạn, người ta có thể nói với người trưởng tổ rằng: ‘Thưa tổ trưởng, tôi cần phải phê bình một điều tổ trưởng không làm đúng. Tổ trưởng đã làm quá nhiều cho chúng tôi. Đúng thế, làm việc là điều quan trọng, nhưng sức khỏe của tổ trưởng cũng quan trọng nữa. Tổ trưởng cần phải để ý đến sức khỏe để còn làm việc hơn nữa cho cộng đồng”. Vào những lúc như thế, từ lòng tôi vang lên tiếng nói: “Thật là điêu ngoa, đúng là dối trá!”. Thế nhưng, tôi cũng phải làm như vậy thôi.

Sau đó ít lâu tôi bị bệnh. Tôi thường có những cơn ác mộng làm tôi thức giấc. Vào một đêm kia, tôi đã mơ thấy rằng tôi tìm thấy được một cái hộp; tôi đã mở ra và thấy một cuốn sách trong đó. Đó là một cuốn Thánh Kinh, sáng rực. Tôi tỉnh dậy và nhớ lại rằng bà của tôi là người duy nhất đã nói với tôi về Thánh Kinh. Tôi nhớ lời bà nói rằng Giêsu là đấng toàn năng. Bởi thế tôi nghĩ rằng nếu Giêsu là đấng toàn năng thì ngài có thể chữa tôi lành. Và vì vậy tôi đã tìm đến một nhà thờ trong vùng và thấy một ngôi nhà thờ Tin Lành. Tuy nhiên, một đảng viên cộng sản bị cấm không được tin tưởng vào bất cứ một tôn giáo nào. Nên tôi đã kín đáo đi gặp những người Tin Lành. Vừa ra trường, nhờ Đảng đỡ đầu, tôi mau chóng tìm được một việc làm ngon lành ở một thành phố lớn. Trước khi nhận nhiệm vụ, hãng đó đã cho tôi lấy 1 tháng về thăm gia đình của tôi thuộc một miền khác. Vào cuối tháng nghỉ hè này, có một người bạn – sau này tôi mới khám phá ra là Công giáo – đã trao cho tôi 10 cuốn băng nhựa ghi những bài giảng của một vị linh mục Trung Hoa. Sau khi nghe những cuộc băng nhựa ấy, một trận chiến đã bắt đầu giằng co trong tâm khảm của tôi: tôi nghĩ rằng có lẽ Thiên Chúa thực sự hiện hữu; có lẽ Công giáo thực sự là một đạo đích thật…Thế nhưng, đồng thời tôi nhớ đến tất cả mọi lý thuyết về vô thần đã được học hỏi ở học đường và đại học. Tôi bị khống chế bởi một cơn buồn thảm đồng thời sợ rằng nếu tôi chấp nhận đức tin Công giáo tôi sẽ liều mình mất việc làm của tôi. Tôi không biết phải làm sao. Đó là ngày tôi phải trở về thành phố để thi hành công việc của mình. Tôi đã mua vé xe buýt rồi.

Lần đầu tiên trong đời tôi hướng về Đức Bà và nói cùng người rằng: “Hỡi Thánh Maria, nếu bà thực sự hiện hữu, nếu đức tin Công giáo là những gì chân thực, nếu bà muốn tôi trở thành người Công giáo, thì xin ban cho tôi một dấu hiệu, đó là, ngày mai, trong chuyến đi của tôi, hãy để cho một cái gì đó quan trọng xẩy ra, một tai nạn chẳng hạn, mà tôi còn sống sót, thì tôi sẽ tin”. Giờ đây, tôi nghĩ rằng tôi đã rất ư là điên khùng khi thách đố Thiên Chúa, đã thử ngài kiểu đó. Thế nhưng, vào lúc bấy giờ thì đó là lời cầu nguyện duy nhất nẩy lên trong tâm trí tôi mà thôi.

Ngày hôm sau, một tai nạn thực sự đã xẩy ra, ở chỗ, bánh xe ở đằng trước phía bên phải của chiếc xe buýt nổ tung khi chúng tôi đang đi xuống dốc với tốc độ nhanh. Chiếc xe buýt đâm vào lề và lật ngược bốn bánh lên trời. Tất cả chúng tôi đều sống sót, thế nhưng chúng tôi đã phải gắng gõi hết sức để chui ra khỏi chiếc xe bẹp dúm qua những cửa sổ của nó. Tôi kinh hoàng trước tai nạn này, nhưng tôi không chú ý lắm tới dấu hiệu đó. Sau vài tiếng đồng hồ chờ đợi, hãng xe buýt cho một chiếc xe khác tới và chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình của mình. Tuy nhiên, tai nạn ấy đã làm cho chúng tôi mất thời gian tính. Khi chúng tôi tới được trạm xe buýt – chuyến đi của tôi vẫn phải tiếp tục bằng xe lửa – thì đã quá trễ và vé xe lửa đã bán hết sạch. Người ta sắp hàng dài trước quay bán vé, và mọi người nói với chúng tôi rằng chỉ còn có những vé cho chuyến xe lửa trong vòng 3 ngày nữa thôi.

Tôi cảm thấy mất tinh thần và chán nản, vì tôi quá trễ việc làm đầu tiên của mình và vào ngày đầu tiên làm việc của mình. Tôi nghĩ đến việc cầu nguyện cùng Đức Bà một lần nữa rằng: “Xin giúp tôi mua được vé xe lửa. Nếu bà giúp tôi lần này nữa, tôi thề sẽ theo bà!” Trong khi chờ đợi ở một hàng dài, tôi đã mất hết hy vọng. Đùng một cái, một người đàn ông xuất hiện hô to lên rằng: “Đây là vé cho thành phố … Vé cho ngày hôm nay. Ai muốn mua tấm vé này?” Đó là điểm đến của tôi. Tôi liên mua ngay lập tức. Người này nói rằng ông ta vừa lấy được vé ấy cho một người bạn vừa gọi cho ông ta nói rằng họ không thể đến đúng giờ. Người bạn ấy xin ông ta hãy trả vé lại, thế nhưng, vì chuyến xe lửa sẽ rời trong vòng 40 phút nên quá trễ để được hoàn tiền lại do đó mà ông ta đã hỏi quanh quanh xem để cố gắng bán tấm vé đó cho người nào đó. Đó là một dấu hiệu nhỏ, nhưng là dấu hiệu ban đầu – bước đầu tiên cho cuộc trở lại của tôi.

Sau khi nhận việc, tôi đã tìm đến một Nhà Thờ Công Giáo để dự Lễ, song bao giờ cũng âm thầm kín đáo. Dần dần, tôi hiểu thêm về đức tin Công giáo, để rồi cuối cùng tôi đã xin rửa tội. Khi tìm được đức tin Công Giáo, tôi đã tìm thấy một cộng đoàn dân chúng đơn thành và tốt lành, nơi không có gì là gian dối. Tôi đã tìm được một số bạn bè thực sự. Tôi đã được giải thoát, ở chỗ, tôi không còn cần phải dối trá nữa. Dân chúng thực sự kiểm điểm họ và thậm chí nhận định về vị linh mục nữa. Tôi bắt đầu thấy được ánh sáng và hiểu rằng tôi đã thấy được ý nghĩa của cuộc sống. Tuy nhiên, để rửa tội, tôi cần phải thắng vượt một trở ngại lớn, đó là việc tôi làm thành viên của Đảng Cộng Sản.

Một đảng viên Cộng Sản là một người vô thần; một Kitô hữu là người tin vào Thiên Chúa: không thể nào vừa là người Công giáo vừa là đảng viên Cộng Sản. Ngay cả vị linh mục dạy đạo cho tôi cũng nói rằng tôi cần phải rời bỏ Đảng Cộng Sản. Thế nhưng, tôi không đủ can đảm để làm điều này, bởi vì, tôi sợ rằng việc rời bỏ Đảng tôi sẽ phải chấp nhận những hậu quả khủng khiếp, ở chỗ có thể bị mất việc làm hay thậm chí có thể bị bách hại nữa. Đảng Cộng Sản ở Trung Hoa kiểm soát tất cả mọi sự, bởi thế, để dứt tình với nó có nghĩa là một cách nào đó làm mất đi tất cả mọi niềm hy vọng được sống một cuộc đời yên hàn; có nghĩa là cảm thấy như mình trở thành một kẻ xa lạ. Trong Đảng Cộng Sản Trung Hoa có một qui luật là mỗi đảng viên đóng góp một số tiền hằng tháng nào đó cho Đảng. Nếu một người không đóng góp trong vòng 6 tháng liền thì bị trừng phạt và đôi khi còn bị đuổi ra khỏi Đảng nữa. Vì tôi không đủ can đảm để công khai rời bỏ Đảng nên tôi đã nghĩ đến cách ra khỏi đảng bằng cách ấy, bởi thế tôi đã không đóng góp gì trong vòng 6 tháng. Thế nhưng lại chẳng có gì xẩy ra cả, vì không hề cho tôi biết, người tổ trưởng, vì thấy tôi không đóng đã đóng cho tôi! Tôi không biết tại sao anh ta lại làm thế. Anh ta là một loại người bình thường, không tốt cũng chẳng xấu. Có lẽ anh ta nghĩ rằng tôi đã quên và ứng trước để tôi trả lại cho anh ta sau chăng; có lẽ anh ta không muốn các viên chức cấp trên của anh ta thấy rằng có những “kẻ chểnh mảng” ở tổ của anh ta, khiến anh ta bị phê bình khiển trách hay chăng. Cuối cùng, tôi chỉ còn một chọn lựa duy nhất đó là đi theo đường lối chính thức, và tôi đã viết một bức thư để xin bỏ Đảng. Tuy nhiên, tôi đã không đủ can đảm để nộp bức thư này. Tôi đã quyết định nhiều lần trình bức thư ấy, để rồi cuối cùng tôi đã không thực hiện nổi. Có lần tôi đã vận dụng tất cả lòng can đảm của mình để đi thẳng tới viên chức Đảng mà trao bức thư của mình cho người này. Ông ta không nói được một lời nào, vì đó là lần đầu tiên ông ta thấy có một người dám từ chối ở lại trong CCP (Đảng Cộng Sản Trung Hoa). Ông ta hoàn toàn không thể nào hiểu nổi.

Cuối cùng tôi đã được lãnh nhận phép rửa. Và với bí tích này, tôi đã bắt đầu hoan hưởng được niềm an bình sâu xa. Sau đó ít lâu, tôi đã gặp một người bạn cũ trong tổ của mình. Chúng tôi đã là bạn với nhau ngay cả trước khi gia nhập Đảng nữa. Anh ta nghe rằng tôi đã rời Đảng và trở thành một Kitô hữu. Anh ta bảo tôi rằng tôi rất can đảm và thêm rằng anh ta sẽ không bao giờ có thể can đảm như thế.

Sau khi trở thành một người Công Giáo, tôi đã tiếp tục tham dự Thánh Lễ mỗi Chúa Nhật, thế nhưng với một cộng đồng hầm trú không được chính quyền nhìn nhận. Có lần một nữ tu nói với tôi rằng: Tại sao em không theo Chúa Giêsu trọn vẹn hơn để làm linh mục? Tôi đáp ngay là “không”. Không có ai tin tưởng ở trong gia đình tôi cả và việc trở thành linh mục là việc khó khăn. Là người con trai đầu lòng, theo truyền thống Trung Hoa, tôi buộc phải nâng đỡ cha mẹ tôi khi các vị về già. Việc tôi vào chủng viện, thì kẻ thù đầu tiên của tôi sẽ là cha mẹ tôi.

Sáu tháng sau, khi đang cầu nguyện trong phòng, tôi nghe thấy tiếng gọi: “Hãy theo Ta”. Bấy giờ không có ai trong phòng cả. Tận đáy lòng tôi hiểu rằng chính Chúa Giêsu đã gọi tôi, thế nhưng tôi quá ư là run sợ, bởi vì, việc trở thành linh mục – thuộc Giáo Hội hầm trú – nghĩa là từ bỏ tất cả mọi sự, từ bỏ gia đình, việc làm, lao mình vào nguy hiểm, ôm lấy Thập Giá, chịu khổ ải, bị tù đầy. Tôi đã đáp lại là không. Thế nhưng, vì việc từ chối này mà tôi không còn được bình an nữa, khi tôi trở thành một kẻ khắc khoải khôn nguôi và mất đi tất cả mọi niềm vui. Tôi không muốn theo Chúa Giêsu vì tôi có một công ăn việc làm tốt, một đời sống bình lặng. Thế nhưng, tôi đã không thể nào chống cưỡng được tiếng Chúa gọi. Thế là tôi đã cầu xin cho được một việc làm khác ở một thành phố xa xôi. Có thế, tôi mới có thể bỏ việc làm của tôi một cách âm thầm kín đáo hơn, và mới có thể nhập chủng viện. Tôi đã làm việc ở thành phố ấy gần 2 năm trời, để kiếm được nhiều bao nhiêu có thể, dành dụm mọi sự để giành tiền cho cha mẹ tôi, rồi cuối cùng theo tiếng gọi của Chúa Giêsu. Tôi biết rằng tôi yếu đuối nên tôi đã nguyện cầu rằng: “Lạy Chúa Giêsu, nếu Chúa muốn, Chúa có thể làm con trung thành sống đời môn đệ của Chúa đến muôn đời. Điều này sẽ là một phép lạ rất cả thể”.

Tôi đã sống 5 năm ở chủng viện thuộc Giáo Hội hầm trú. Đời sống rất ư là khó khăn và nguy hiểm. Thức dậy vào lúc 5 giờ sáng. Sau buổi suy niệm nửa tiếng, chúng tôi cử hành Thánh Lễ và nguyện kinh thần vụ. Sau điểm tâm, chúng tôi thu dọn và bắt đầu học. Chúng tôi lên giường nghỉ vào lúc 10 giờ đêm. Đời sống ở chủng viện chui là một đời sống khá khó khăn, ở chỗ, chúng tôi sống ở một ngôi nhà miền quê của một tín hữu giành cho chúng tôi.Thế nhưng, khi chúng tôi nghe tin cảnh sát khám phá ra chúng tôi thì chúng tôi buộc phải thoát thân và định cư ở một nơi khác. Trong năm năm, chúng tôi đã đổi chỗ tất cả là 3 lần. Chủng sinh chúng tôi chẳng những phải lo thu dọn mà còn phải nấu nướng, dọn bữa cho mọi người nữa. Về vấn đề vật chất, cuộc sống thật là khó khăn: lương thực thì ít, rau cũng ít, hiếm khi có thịt ăn; phòng ở chật chội, không có chỗ nào là dư thừa cả. Thế nhưng, lòng tôi lại cảm thấy bằng an, thậm chí hết sức vui vẻ, khác với những gì tôi cảm thấy trước đó. Chủng sinh với nhau rất thân thiện và sống tình huynh đệ với nhau. Một khi mọi người lúc nào cũng tỏ ra yêu thương nhau thì việc thắng vượt khó khăn thật là dễ dàng.

Sau 5 năm học hỏi, ngày chịu chức linh mục đã tới. Bấy giờ tình hình căng thẳng xẩy ra trong giáo phận của tôi, và chúng tôi liều mình bị cảnh sát tống giam. Bởi thế chúng tôi đã cử hành lễ truyền chức vào lúc 4 giờ sáng. Lúc ấy mọi người ở Trung Hoa đang ngủ, kể cả cảnh sát nữa. Cho dù đời sống là người Công Giáo có khó khăn, đức tin của chúng tôi thực sự kiên cường. Điều này cũng là nhờ gương sáng của các vị linh mục trong ngục tù. Một thí dụ nhỏ, đó là, ở tỉnh của tôi, vào năm 1983, khi Trung Hoa bắt đầu thực hiện những cải cách cả thể về kinh tế, chỉ có 3 gia đình Công giáo. Giờ đây, sau gần 20 năm, con số đã lên tới trên 4 ngàn. Thật sự là máu tử đạo trở nên hạt giống mọc lên các Kitô hữu mới. Đối với cả tôi nữa, sức mạnh của tôi chính là Chúa Giêsu. Người đã nói rằng “Không phải các con đã chọn Thày, song Thày đã chọn các con” (Jn 15:16). Dọc theo con đường này, tôi gặp Thập Giá, nhưng cũng gặp cả niềm vui và an bình nữa. Với ơn Người trợ giúp, tôi mãi mãi theo Người, thắng vượt bất cứ những gì là khó khăn xẩy ra cho tôi. 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 26/6/2005

Anh chị Thụ & Mai gởi

Đức Thánh Cha Phanxicô ban Ơn Toàn Xá Kỷ Niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima.

Đức Thánh Cha Phanxicô ban Ơn Toàn Xá Kỷ Niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima.

        WHĐ– Bản tin này, về việc “Đức Thánh Cha Phanxicô ban ơn toàn xá kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima” đã được đăng trên trang tin điện tử của Hội đồng Giám mục Việt Nam ngày 09-01-2017. Nay chỉ còn gần một tuần nữa là đến ngày lễ kỷ niệm, chúng tôi xin đăng lại bản tin theo yêu cầu của một số bạn đọc.

* * * *

      Theo hãng tin Công giáo Bồ Đào Nha Agencia Ecclesia, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chấp thuận lời thỉnh cầu của Đền Thánh Đức Mẹ Fatima về ơn toàn xá – với những điều kiện thông thường do Giáo hội quy định – ban cho các tín hữu hành hương nhân Năm Toàn Xá kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra, bắt đầu từ 26 tháng Mười Một 2016.

     “Xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức giáo hoàng” là những điều kiện dành cho các tín hữu hành hương, trong tinh thần “thống hối và bác ái”, để có thể lãnh nhận ơn tha mọi phần phạt được Giáo hội gọi là “ơn toàn xá”. Giáo hội ban ân xá, vì xét theo Kitô học, dựa vào nguồn công nghiệp vô biên của Chúa Kitô, Giáo hội ban ơn tha tội và tha mọi hậu quả của tội.

      Do đó, giáo phận Leiria-Fatima khuyên các tín hữu hãy sốt sắng tham dự một Thánh lễ hoặc một buổi cầu nguyện kính Đức Mẹ, đọc kinh Lạy Cha, kinh Tin Kính, và khẩn cầu Đức Mẹ Fatima.

     Hơn nữa, ơn toàn xá cũng được ban cho các tín hữu Công giáo tham dự Thánh lễ hoặc một buổi cầu nguyện kính Đức Mẹ Fatima tại một đền thờ khác có trưng bày ảnh Đức Mẹ, vào ngày kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra, tức vàongày 13 mỗi tháng, từ tháng Năm đến tháng Mười 2017.

    Còn những ai, vì những lý do nghiêm trọng không thể di chuyển được, giáo phận xác nhận rằng họ cũng được ơn toàn xá khi cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ Fatima, với những điều kiện đã nêu trên, bao gồm việc ăn năn tội.

Ngày 13 tháng Năm 2013 Đức hồng y José da Cruz Policarpo, Thượng phụ giáo chủ Lisbon kiêm Chủ tịch Hội đồng giám mục Bồ Đào Nha, đã dâng triều đại của Đức Thánh Cha Phanxicô lên Đức Mẹ để xin Mẹ gìn giữ, vào cuối Thánh lễ tại đền thờ Fatima, kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra lần thứ nhất năm 1917.

  Đức thượng phụ đã đặc biệt cầu xin: “Lạy Đức Mẹ là Mẹ của Hội Thánh, chúng con dâng lên Mẹ sứ vụ của Đức tân giáo hoàng: xin cho trái tim ngài được tràn đầy lòng nhân từ của Thiên Chúa, để ngài lấy tình yêu của Chúa Giêsu Kitô, Con Chí Ái của Mẹ, mà dang tay đón nhận mọi người nam nữ của thời đại này”.

     Trong sứ điệp gửi đền thờ Fatima, Đức Thánh Cha đã bày tỏ lòng “biết ơn” về sáng kiến này và “cảm kích sâu xa vì ý nguyện của ngài đã được thỏa mãn, đồng thời hiệp ý cầu nguyện với mọi tín hữu hành hương Fatima”.

    Vào ngày 13 tháng Mười năm đó, tại Roma, Đức Thánh Cha đã đứng trước ảnh Đền Thánh Đức Mẹ Fatima và dâng lời cầu nguyện lên Đức Mẹ.
Đức Thánh Cha sẽ tông du Fatima trong hai ngày 12 và 13 tháng Năm 2017, nhân kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại đây.
(Nguồn: Zenit)

Thành Thi chuyển ngữ

KittyThiênKim  & Nguyễn Kim Bằng gởi

ĐƯỜNG GIÊSU

ĐƯỜNG GIÊSU

Băn khoăn về nguồn cội con người, thắc mắc về ý nghĩa cuộc đời, thao thức truy tìm cứu cánh của đời người đã tiếp nối bằng bao thế kỷ mà không có được câu trả lời thoả đáng.  Con người bơ vơ giữa ngã ba không biết phải đi về đâu.  Khi xuống trần, Chúa Giêsu đã cho ta biết nguồn cội của Người là Đức Chúa Cha, ý nghĩa đời Người là thi hành thánh ý Chúa Cha, và cùng đích đời Người là trở về với Chúa Cha.  Muốn về với Đức Chúa Cha, ta phải theo một con đường.  Đường ấy có tên là GIÊSU.  Đường này chắc chắn an toàn đi đến nơi về đến chốn vì Chúa Giêsu là người mở đường.  Người chính là con đường và Người là tâm điểm của đích tới.

Chúa Giêsu là người mở đường.

 Đi đâu cũng cần có đường.  Không con đường nào tự nhiên có.  Phải có người mở đường.

Có người mở ra những con đường vật chất, nhờ có óc phiêu lưu mạo hiểm, có tầm nhìn bao quát, có óc tính toán thực tế.

Có người mở ra những con đường suy tư triết học, sáng tác nghệ thuật, nhờ trí tuệ thông minh xuất chúng, có tư duy sáng tạo, có trực giác bén nhạy, có trí tưởng tượng phong phú.

Nhưng không ai có thể mở con đường lên trời.  Đường lên trời hoàn toàn vượt khả năng con người.  Phải có Đấng, ấy là Chúa Giêsu, Người đã đến từ Đức Chúa Cha, nay Người trở về cùng Đức Chúa Cha.  Người lại hứa dọn chỗ cho ta trong Nhà Cha.  Với những thông tin như thế, Người đã cho ta biết Trời chính là Nhà Cha.  Quê Trời trở thành Quê Cha.  Nước Trời trở thành một cõi đi về thân thương của con người.  Con đường đi về ấy, chính Chúa Giêsu đã mở.

Chúa Giêsu là đường.

 Không chỉ là người mở đường.  Chúa Giêsu chính là con đường.  Để về Nhà Cha, ta không chỉ đi theo, đi với mà còn phải đi trong Người.  Không chỉ đi trong đường lối, trong tinh thần, nhưng trong chính bản thân Người.  Như cành nho gắn liền với thân nho và sống bằng sự sống của thân nho.  Như bánh rượu tan hòa vào trong máu thịt trở nên thành phần của bản thân ta.  Như bản tính Thiên Chúa kết hợp với bản tính loài người trong bản thân Người.  Đi trong Người để ta ở trong Người như Người ở trong Chúa Cha.  Đi trong Người để ta mang hình ảnh của Người, để ai thấy ta cũng như thấy Người, như “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”.

Chúa Giêsu là đích tới của con đường.

 Đi trong Chúa Giêsu là một hành trình dài.  Đi suốt cả đời chưa chắc đã tới.

Để đi trong Chúa Giêsu ta phải từ bỏ hết những gì của bản thân mình, kết hiệp trọn vẹn với Người, cũng như Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, để trở nên một với Chúa Cha.

Khi đã hoàn toàn từ bỏ hết ý riêng và trở nên một với Người cũng là lúc ta đạt tới đích điểm, là lúc ta gặp được Chúa Cha, là lúc ta ở trong Nhà Cha, là lúc ta đạt tới Quê Hương yêu dấu trên trời.

Lạy Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin cho con biết đi trong con đường của Người.

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

From Langthangchieutim

LỜI TỰ THUẬT CỦA TU SĨ ANANDA

LỜI TỰ THUẬT CỦA TU SĨ ANANDA

Tôi là một trong những tu sĩ Phật giáo kỳ cựu trong nước thuộc ngành Phật Sinhala.  Tôi còn là thành viên của Hội đồng tu sĩ Phật Giáo.  Một cách vắn tắt có thể nói tôi là một trong những tu sĩ được những Phật tử ngoan đạo sống trong những vùng chung quanh “kính thờ.”

Nhưng một điều đáng buồn là tôi không nhận được sự an bình thật sự qua cách sống và luôn dõi tìm một lối thoát, dĩ nhiên một lối thoát hiểu theo nghĩa giải thoát thiêng liêng.  Tôi không muốn từ bỏ chiếc áo cà sa, nhất là tôi rất yêu chuộng giáo huấn Dhamma của Đức Phật Tổ, nhưng một hạnh phúc trong an bình thật sự tôi vẫn chưa nhận được.  Tôi biết rằng niềm hạnh phúc này hiện hữu và con người có thể đạt được nó, nếu chịu khó tìm tòi.  Nhưng coi sự tịch diệt như là cứu cánh tối hậu, hay tiêu diệt đi mọi ước muốn trần thế trong con người đều không phải là những điều có thể tạo cho tôi sự an bình thiêng liêng.

Như là một việc đã được sắp xếp từ bao giờ.  Vào khoảng năm 1961, tôi gặp một Linh mục Công giáo, không phải vì chiếc áo dòng ông đang mặc hấp dẫn tôi, nhưng có lẽ vì cái nhân cách đặc biệt thoát ra từ con người ông, và tấm lòng nhân ái vị tha của ông đối với mọi người.  Tôi không ngần ngại làm quen với ông.  Theo tôi nhận xét, ông có thể là người đã tìm thấy hạnh phúc thật thể hiện rõ ràng qua cách sống.

Ông bạn mới này của tôi dường như hiểu biết rất nhiều về giáo thuyết nhà Phật.  Thế mà trái lại, kiến thức của tôi về Công giáo gần như không có.  Những gì tôi biết chỉ là những điều tôi đã được nghe do những người Phật tử phán đoán, giải thích, phê bình chủ quan về Công giáo.  Tôi biết rằng đó chỉ là những thành kiến sai lầm về Giáo hội này.

Do sự chủ quan khi nhìn vào những ngôi nhà thờ xây cất theo Tây phương và lối sống Âu hóa của các Linh mục, tôi vẫn còn ngần ngại trong việc tìm hiểu thêm về Kitô giáo.  Tôi cho rằng một tôn giáo không hoà mình được với phong hoá và lề thói địa phương thì làm sao có thể loan truyền được chân lý cho dân tộc đó, và vì vậy làm sao có thể đáp ứng được sự giải thoát thật sự tôi đang kiếm tìm.

Tuy nhiên, tôi vẫn không bỏ qua những cơ hội để có thể bàn luận và chất vấn Cha X trong tình thân hữu tôi đã có được với Cha, nhất là để thử nghiệm những điểm đối kháng chống lại các Thày tu Công giáo.   Đối với tôi, các Linh mục Công giáo chỉ là những người đánh cá ra khơi với chiếc bụng lép xẹp, dụ dỗ những con cá ngây thơ bằng miếng mồi giả tạo.

Nhưng chỉ ngay sau đó thôi, tôi thấy rằng mình sai lầm, vì tôi khám phá ra rằng ông Linh mục này không hề mảy may có ý định khuyến dụ tôi về với tôn giáo ông đang theo.  Trái lại, trong sự ngạc nhiên của tôi, ông Linh mục này lại còn bày tỏ ao ước được thử sống lối sống của các tu sĩ Phật giáo nữa.  Ông cho biết, ông chấp nhận một số những nguyên tắc của Phật giáo và ông đã từng áp dụng phương thế Dhammapada để tĩnh tâm.  Ông lại còn là người theo chủ trương ahimsa (không dùng bạo lực) với các sinh vật thụ tạo nữa.

Khi đã thân hơn với ông, tôi cho ông biết về những điều tôi đã nghe phê bình về Giáo hội Kitô giáo.  Tôi tưởng ông sẽ nổi giận, lên tiếng bênh vực cho giáo hội.  Nhưng trái lại, với một thái độ hết sức bình thản ông nói rằng ông không hề trách oán những người đã phê bình Giáo Hội Công giáo.  Có thể có những sai quấy trong Giáo hội, nhưng tất cả nhờ vào sự soi sáng thiêng liêng của Chúa, Giáo hội đã không đi lạc lối và tan rã.

Khi đề cập đến những khuyết điểm của Giáo hội hay chính là những khuyết điểm của những con người trong Giáo Hội, ông nhấn mạnh đến sự hiện diện của ơn Chúa.  Khi bắt đầu thi hành những phương thế sống, người ta nghĩ rằng họ đang làm những việc lành tốt, nhưng khi kết thúc nó có thể đưa đến những thiệt hại nào đó.  Chính sự hiện diện của quân đội Bồ đào Nha tại Sri Lanka đã là trở ngại cho những nhà truyền giáo trong công việc rao giảng Tin Mừng tại quốc gia này.  Thật là một điều tự nhiên, người ta phán xét về một tôn giáo qua sự tiếp xúc bề ngoài với những người theo tôn giáo ấy.  Điều này tôi có kinh nghiệm trong đời sống: Phái Dhamma cực lực chống lại giai cấp quí tộc, nhưng phái Sangha lại chấp nhận và tán thành giai cấp này.

Ông bạn Linh mục của tôi không phải chỉ sửa đổi lại những nhận thức sai lầm của tôi về Giáo hội Công giáo, nhưng dần dần đã giúp tôi hiểu biết nhiều hơn về giáo huấn của Giáo hội và cách sống đạo.   Ông không nói bằng lời, nhưng nói bằng chính đời sống của ông.  Ông biểu tỏ một hạnh phúc thật sự khi được sống trong đời sống nhiệm nhặt của tu viện.  Ông cho biết rằng chính đời sống khổ hạnh của nhà Chúa là yếu tố rất cần thiết cho Giáo Hội Công giáo tại Sri Lanka.  Ông muốn Kitô giáo hòa nhập vào lối sống địa phương để Tin Mừng của Chúa Kitô có thể được thể hiện và chấp nhận dễ dàng hơn cho những người đã sẵn có một lề lối sống đạo, biết tôn trọng luân lý.  Tôi nghĩ rằng đây có thể được coi là một cách thế thật tốt thể hiện vai trò chứng nhân của Chúa Kitô trong một xã hội Phật giáo.

Một ngày nọ, tôi có dịp hỏi ông về “niềm hạnh phúc thật.”  Ông cho rằng đây là do Ơn Chúa.  Chợt nhận thấy tôi không hiểu danh từ “Ơn Chúa”, ông vội giải thích thêm: “Để hiểu về nguồn ơn thiêng liêng này, người ta cần cảm nhận được nó trước đã”.

“Cảm nhận và nhận chân được chân lý một sự vật” là một cứu cánh của con người.  Từ thuở thiếu thời, tôi đã được Phật Tổ khích lệ để kiếm tìm, nhưng hôm nay đây sự khích lệ đó đã đổi chiều khiến tôi hướng về Kitô giáo.

Sau buổi nói chuyện, ông trao cho tôi cuốn Kristu Anusaraya, Bản dịch của Sinhala, tác phẩm Gương Chúa Giêsu của Thomas à Kempis.  Tôi đọc cuốn sách này thật kỹ và nhận ra rằng nó đã giúp tôi tiến được một bước thật xa, xa hơn bước tiến tôi đã có được trong suốt những năm tĩnh tâm trong nhà Chùa.  Tác giả diễn giải sự hy sinh với một nhãn quan cao hơn.  Đặt căn bản vào Sách Phúc Âm, tác giả cho thấy tình yêu của Thiên Chúa là động lực chính của sự hy sinh.

Tôi nhận ra rằng, người Kitô hữu quan niệm Thiên Chúa là tối thượng so với tất cả thụ tạo, và tình yêu vĩ đại nhất của con người so với tình yêu thiêng liêng của Thiên Chúa chỉ là một hạt bụi vì Ngài là Đấng Sáng tạo.  Như thế, khi người Kitô hữu hy sinh, họ không hy sinh vì phần rỗi cá nhân họ mà họ hy sinh cho tình yêu của Người-Yêu-Thương-Họ.  Điều này khiến tôi an lòng.  Sự an lòng này, tôi nghĩ phải chăng là Ơn Chúa?  Vâng, chính là Ơn Chúa trong tôi.

Rồi, ông bạn dìu tôi vào Tân Ước, nhưng tiếc rằng Sách Tân Ước chưa được dịch toàn bộ sang tiếng Sinhala, mà vốn liếng Anh ngữ của tôi lại quá nghèo nàn.  Học thêm Anh ngữ, tôi đọc sách của các tác giả Kitô giáo.  Ngay cả trong những bài thơ cũng đầy dẫy những hình ảnh về Thiên Chúa: Nào là Thiên Chúa Ba Ngôi, Sự Giáng Sinh của Con Một Thiên Chúa, Mẹ Maria, Thiên Đàng-Địa Ngục v.v…  Đầu tiên, những ngôn từ này làm tôi chán ngán, ông bạn Linh mục khuyến khích tôi, những lời giải thích chấm dứt bằng hai chữ “mầu nhiệm”  khiến tôi như Phaolô nhưng gặp chướng ngại vật cản bước trên “Đường đến Damascus” gặp Chúa.  Tôi may mắn lại được tác phẩm “Lead, Kindly Light” của Đức Hồng Y Newman nâng đỡ.

Một Phật tử không ưa những mầu nhiệm, hơn nữa “mầu nhiệm” tiếng Sinhala là “abirahasa” không có nghĩa giống chữ “mầu nhiệm” của Giáo hội Công giáo, nó chỉ có nghĩa là “một bí mật tuyệt đối”.

Tuy nhiên, với sự giải thích rõ ràng của ông bạn Công giáo, tôi dần dần vượt qua được những khó khăn này.  Ông giải thích rằng cho đến bây giờ, đối với các nhà khoa học với kỹ thuật tân kỳ hiện đại, cơ thể con người vẫn còn là một bí nhiệm.  Đó là nói về phần thân xác, vậy thì phần tinh thần của con người còn phải vượt xa trí óc của nhân loại đến như thế nào?

Con đường tôi tìm hiểu về Đức Tin Kitô giáo như thế đó.  Không phải là một Đức Tin mù quáng, mà là một Đức Tin với tất cả sự hiểu biết, lý luận.  Hơn nữa, nó còn giải đáp thỏa đáng trong quan niệm tự nhiên về con người.  Nhờ đó, tôi nhận biết được bản tính nhân loại trong con người của Đấng Cứu Thế.

Điều làm tôi khâm phục nhất trong Giáo Hội đó là sự lo lắng của những người Kitô hữu đối với tha nhân: Những người ốm đau, những kẻ bần cùng, những người tội lỗi…  Tôi quyết định đi theo Chúa để thực hiện giới răn “yêu người như yêu chính bản thân mình.”

Rồi tôi nhận thấy đời sống tôi thay đổi, không còn bị giam trong bốn bức tường chật hẹp nữa, tôi hít thở bầu không khí tự do.  Tôi nhìn thấy một ngôi sao từ trên cao đang chờ dẫn đường cho tôi đến một chân trời hạnh phúc vĩnh cửu.  Tôi suy niệm mỗi ngày bằng Sách Phúc Âm và cuốn “Gương Chúa Giêsu.”

Năm 1963, tôi đậu kỳ thi nhập học và theo học tại Đại học.  Anh văn của tôi khá hơn khiến tôi đã có thể đọc được Sách Phúc Âm và các sách khác về Kitô giáo bằng Anh ngữ.

Một cuốn sách giá trị tôi được đọc trong khoảng thời gian này đó là cuốn sách ghi lại Công Đồng Vaticanô thứ Hai.  Cho đến lúc đó tôi mới thật sự thấy rằng việc tôn giáo phải thay đổi hợp với thời đại là quan trọng, đặc biệt cho các thế hệ trẻ ngày nay.

Công việc học dù bận rộn, nhưng cũng không khiến tôi chấm dứt việc tìm hiểu thêm về Giáo Hội.   Tôi học rất chăm và được các giáo sư khen ngợi.   Tôi thấy đời sống sao ý vị quá, đặc biệt khi trong đời sống đó ta biết phục vụ mọi người qua việc hy sinh chính con người mình.

Sau khi tốt nghiệp, tôi không còn ý định trở lại tu viện nữa.  Không phải vì tôi có thể tìm được một công việc tốt hay lý do nào khác, nhưng lý do chính để tôi cởi bỏ chiếc áo cà-sa, đó là tôi đã tìm ra Chúa Kitô.  Người là Thiên Chúa và là Thày tôi.  Người đã đến tìm tôi, chỉ cho tôi con đường cứu rỗi với hạnh phúc vĩnh cửu…  Tôi biết, quyết định của tôi sẽ đưa đến việc tôi phải đối diện với những khó khăn khi đi tìm việc làm.

Tôi không có khả năng để diễn đạt hết những cảm xúc của tôi trong quá trình trở lại với Chúa.  Bao nhiêu những khó khăn vất vả, nhưng tôi không thể chờ đợi được nữa rồi.  Ý Chúa là như thế.  Tôi học hỏi về Giáo lý, về cách sống đạo và sẵn sàng.

Tìm được sự bình an là kết quả đầu tiên của con đường tôn giáo.  Chắc chắn tôi sẽ có được sự bình an này khi tôi được nhận vào Giáo Hội.  Nếu tôi phải tóm tắt lại một cách ngắn gọn những gì Giáo hội có thể đã cho tôi khi tôi trở thành con cái Chúa thì tôi chỉ nói được đó là “Đời Sống”.  Tôi muốn nói một đời sống mới, được soi sáng và hướng dẫn do ân sủng thiêng liêng.

Ananda

Langthangchieutim gởi

HAI LINH MỤC VÀO “HANG CỌP” ĐÒI QUYỀN TỰ DO TÔN GIÁO

From facebook:  Cat Bui shared Tin Mừng Cho Người Nghèo‘s video.
 

 
 
64,785 Views
 
Tin Mừng Cho Người Nghèo

HAI LINH MỤC VÀO “HANG CỌP” ĐÒI QUYỀN TỰ DO TÔN GIÁO

#GNsP – Sáng ngày 06.04.2017 Linh mục Anton Đặng Hữu Nam và JB Nguyễn Đình Thục vào trụ sở huyện Quỳnh Lưu để nạp đơn của tất cả các linh mục trên địa bàn phản đối công văn 333. Tất cả lực lượng công quyền được huy động chỉ nhằm đối phó với vài con người can đảm.

Người dân đã không cho hai cha đi vì chẳng khác nào “vô hang cọp”. Nhưng cha Nam đã nói: “không vào hang cọp sao bắt được cọp con”

Phim “The Confession” (Xưng Tội)

 Phim “The Confession” (Xưng Tội), thuyết minh Tiếng Việt, đoạt giải phim ngắn hay nhất trong liên hoan phim Công giáo quốc tế

httpv://www.youtube.com/watch?v=2kcg5Abi4sk 

Nhóm phiên dịch Mai Khôi giới thiệu bộ phim “The Confession” (Xưng Tội), bộ phim đoạt giải phim ngắn hay nhất trong liên hoan phim Công giáo quốc tế. 

“Đây là một trong những phim ngắn Hàn hay nhất, và cũng là một trong số những bộ phim làm về đề tài tôn giáo thú vị nhất mà tôi từng coi”. Đây là nhận định chung của một số bạn trong nhóm, do vậy, chúng tôi quyết định chuyển dịch và làm thuyết minh ngay để mọi người cùng thưởng thức. 

Đây là bộ phim khá mới vì bản gốc, có phụ đề tiếng Anh xuất hiện trên trang của đạo diễn vào những ngày cuối năm 2016 vừa qua. 

Dù Năm Thánh Lòng Thương Xót đã qua rồi, nhưng nhắc nhớ và sống lòng thương xót luôn là một đòi hỏi căn bản. Xem bộ phim này bạn sẽ nhận ra thông điệp ấy. Bộ phim quá tuyệt, gọn ghẽ với những cảnh quay hầu như chỉ thu gọn trong khung cảnh một toà giải tội, nhưng cũng đầy kịch tính với những nút thắt và cao trào rất hợp lý. 

Xin trân trọng giới thiệu và mời các bạn coi phim. 

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

NIỀM VUI PHỤC SINH

NIỀM VUI PHỤC SINH

Tôi rất thích câu Kinh Thánh: “Khi Chúa Giêsu thấy Maria Mađalêna khóc ở cửa mộ thì Ngài hỏi: Này chị, sao chị khóc?” (Ga 20:15).  Lúc đó Ngài không hỏi một câu văn hoa bóng bẩy.  Ngài muốn biết lý do chúng ta lo âu, khóc lóc và phiền muộn khi niềm hy vọng tiềm ẩn trong mọi sự – nếu chúng ta lưu ý.

Phục sinh mang ý nghĩa giải thoát, rầt ý nghĩa đối với một người như tôi, vì tôi luôn cảm thấy buồn sầu và tiêu cực.  Mừng lễ Phục sinh là dịp để chúng ta nói: “Vâng, lạy Chúa Giêsu, con tin.”  Khi làm vậy, hãy nắm bắt niềm hy vọng có sẵn đó.

  1. Tiến Lên Và Chạm Vào Ngài

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và nói: “Sao anh em phiền muộn?  Sao anh em nghi ngờ?  Hãy sờ vào Thầy và xem đây, ma không có xương thịt như anh em thấy Thầy.”

Nếu tôi là một trong số họ, tôi không chỉ phiền muộn mà chắc rằng tôi sẽ không đến gần sờ thử.  Tôi nghi ngại.  Nhưng tôi tìm thấy sự an tâm trong sự bảo đảm của Chúa Giêsu rằng sự phục sinh của Ngài là thật.  Chúa Giêsu là thật, sự phục sinh là thật, do đó mà các lời hứa của Ngài là thật.  Nghĩa là chúng ta khả dĩ tin Ngài khi Ngài nói với chúng ta rằng Ngài sẽ ở với chúng ta đến tận thế (Mt 28:20).

  1. Thiên Chúa Tốt Lành

Trước khi chịu chết, Chúa Giêsu nhắc lại rằng Ngài được sai đến nhân danh Chúa Cha.  Thật vậy, qua nhiều phép lạ, nhất là việc cho Ladarô sống lại, cho thấy tính tốt lành của Thiên Chúa: “Vì Cha yêu Con và cho Chúa Con thấy mọi sự Người làm, và Người sẽ cho Chúa Con thấy những việc vĩ đại hơn vậy, đến nỗi anh em có thể ngạc nhiên” (Ga 5:20).

Chân phước Angela Foligna, thế kỷ 14, là người mẹ và người vợ, rồi là người viết xuất chúng về các điều thần bí, đã viết: “Bước đầu tiên mà linh hồn phải có khi đi vào con đường yêu thương là biết Thiên Chúa qua chân lý, nhờ đó mà muốn đạt tới Thiên Chúa…  Biết Chúa qua chân lý là biết Ngài như chính Ngài, hiểu sự xứng đáng của Ngài, vẻ đẹp của Ngài, sự ngọt ngào của Ngài, sự tuyệt luân của Ngài, sức mạnh của Ngài, sự tốt lành của Ngài, bản chất cực tốt lành của Ngài.”

Tôi nghĩ rằng tin Chúa tốt lành là điểm phục sinh.  Thiên Chúa có tốt lành?  Có.  Chúng ta có thể nói vậy với niềm xác tín vào sự Phục sinh.

  1. Phó Thác

Hãy phó thác ý muốn và cuộc đời mình cho Chúa quan phòng.  Thánh Thomas Tiến sĩ viết: “Tính thánh thiện không gì hơn là quyết định dứt khóat, một hành động anh dũng của một linh hồn phó thác cho Thiên Chúa.  Nhờ ý muốn thẳng thắn mà chúng ta yêu mến Chúa, chạy về phía Chúa, đạt tới Ngài và sở hữu Ngài.”

Mỗi khi chúng ta nói với Chúa: “Hãy lấy điều đó khỏi con,” chúng ta đang sống niềm vui Phục sinh, vì chúng ta đang nhớ lời hứa của Chúa rằng Ngài sẽ cung cấp cho chúng ta, Ngài không bỏ chúng ta, và dù chúng ta nghi ngờ thì Ngài vẫn thực sự đáng tin.

  1. Loại Bỏ Sợ Hãi

Trong trình thuật của thánh Mát-thêu, thiên thần Chúa hiện ra với Maria và một Maria khác ở nơi mộ trống, rồi nói với họ: “Đừng sợ, vì tôi biết các chị đang tìm Giêsu bị đóng đinh.  Ngài không còn ở đây.  Ngài đã sống lại như Ngài đã nói.”  Sau đó Chúa Giêsu gặp các chị và lặp lại: “Đừng sợ!” (Mt 28:10).

Có thể điều Chúa Giêsu nói ở đây là đừng sợ.  Loại bỏ sợ hãi là điều không dễ làm.  Nhưng nếu chúng ta có thể loại bỏ sợ hãi, dù loại bỏ dần dần, chúng ta sẽ tránh xa nỗi buồn thập giá và đến gần sự tuyệt vời của ngôi mộ trống.

Cố tu sĩ Thomas Merton, dòng Trap, viết: “Nỗi sợ hãi thu hẹp lối vào trái tim, co rút khả năng yêu thương và làm đóng băng khả năng trao tặng chính mình.”

  1. Công Khai

Mệnh lệnh của Chúa Giêsu là rao giảng công khai.  Cho dù bạn có thể giống như kẻ khờ dại, cứ nói với người ta rằng sự sống lại đã xảy ra thực sự.  Không nhất thiết chúng ta phải là người rao giảng Tin Mừng từ xa.  Chúng ta khả dĩ làm và nói mọi thứ, ngôn ngữ và hành động của chúng ta luôn trở lại với sự Phục sinh, truyền niềm hy vọng cho mọi người chúng ta gặp.

  1. Khiêm Nhường

Nếu Chúa Giêsu là Thiên Chúa, và chỉ có một Thiên Chúa, điều đó nghĩa là không ai trong chúng ta là Thiên Chúa.  Đó là sự thật quan trọng khác về sự sống lại: Thiên Chúa trở nên con người, con người không thể trở nên Thiên Chúa.  Tôi biết tôi thường lẫn lộn hai điều đó, nhất là khi tôi nói qua điện thoại với nhân viên bảo hiểm y tế, vì tôi cảm thấy mình có quyền hơn người đó.

Thánh nữ Catarina Siena viết: “Hãy nhỏ bé và khiêm nhường.  Hãy nhìn vào Thiên Chúa, Ngài tự hạ làm con người.  Đừng làm mình bất xứng với những gì Thiên Chúa đã làm cho chúng ta.”  Với sự khiêm nhường, chúng ta sẽ có khả năng hơn nhờ sự phục sinh.  Điều đó như sự bù đắp những gì chúng ta không thể có, nhưng Thiên Chúa khả dĩ cung cấp cho chúng ta nếu chúng ta tin rằng ngôi mộ trống.

  1. Hành Trình Emmaus

Tôi luôn được đánh động bởi trình thuật của thánh Luca về hành trình Emmaus.  Hai môn đệ trên đường đi Emmaus, Chúa Giêsu đến gần và hỏi họ đang nói chuyện gì.  Một người nói: “Sao ông hỏi vậy?  Ông không nghe xôn xao chuyện gì ư?”  Và họ chợt nhận ra Ngài khi Ngài cùng ngồi ăn với họ.  Nhưng ngay khi họ nhận ra Ngài thì Ngài biến đi.

Hằng ngày chúng ta có dịp đi Emmaus nếu chúng ta đồng ý với thánh Leo Cả: “Chia sẻ sự phục sinh của Chúa Kitô là không bị ràng buộc bởi những gì tạm thời, nhưng chỉ ràng buộc bởi sự sống vĩnh hằng mà Ngài trao ban cho chúng ta…  Sự phục sinh đã khởi sự nơi Đức Kitô, và Ngài muốn dẫn chúng ta đến sự viên mãn của sự sống và sự chữa lành.”

  1. Cầu Nguyện Liên Lỉ

Trong trình thuật của thánh Luca, tôi thích câu: “Họ hỏi nhau: Lòng chúng ta không sốt sáng khi Ngài nói chuyện với chúng ta trên đường đi và giải nghĩa Kinh thánh cho chúng ta sao?” (Lc 24:32).

Hành trình tới Emmaus là lời cầu nguyện, các nhiệm vụ nhỏ mọn của chúng ta hằng ngày cũng là những lời cầu nguyện.  Thánh bổn mạng của tôi, Têrêsa Hài đồng, đã định nghĩa: “Lời cầu nguyện là điều bộc phát từ đáy lòng, là ánh mắt hướng về trời cao, là lời tạ ơn, là tình yêu giữa cơn thử thách và giữa niềm vui.”  Đó là cách cầu nguyện khi chúng ta sống niềm vui Phục sinh.

  1. Nhận Biết Chúa Trong Mọi Sự

Nếu mùa Chay là sống tĩnh lặng để lắng nghe tiếng Chúa thì lễ Phục sinh là ca vang Alleluia với Ngài.  Và nếu 40 ngày bắt đầu bằng thứ tư lễ Tro là tách mình ra khỏi ai đó, nơi nào đó và thương mình hơn thì lễ Phục sinh là đón nhận mọi người, mọi nơi, mọi thứ gì thúc đẩy sự tốt lành, vẻ đẹp và tình yêu thương.  Thánh GH Gioan-Phaolô II đã viết: “Chúng ta có thể tìm thấy Chúa trong mọi sự.  Chúng ta có thể hiệp thông với Ngài trong mọi sự và qua mọi sự.”  Thiên Chúa hằng sống và hiện hữu khắp nơi.

Hãy sống niềm vui Phục sinh ở mọi nơi và mọi lúc.  Hãy cầm lấy, tạ ơn, bẻ ra và trao cho người khác chính cuộc đời mình!

Therese Borchard

Kha Đông Anh 

(chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

NIỀM VUI TRONG ĐAU KHỔ

NIỀM VUI TRONG ĐAU KHỔ

Một cặp vợ chồng vừa cho chào đời một đứa trẻ bị cụt cả tứ chi, đã có tâm sự thật cảm động như sau. Chúng tôi muốn nói với các bạn một điều: ngày đứa con đầu lòng của chúng tôi mới chào đời, nhìn con chúng tôi bị cụt cả hai tay hai chân chúng tôi xúc động mạnh lắm, những giọt nước mắt của đứa trẻ vừa mở mắt chào đời bị cụt tứ chi làm chúng tôi cảm thấy xót xa như dao cắt cõi lòng. Nhưng chúng tôi có thể nói bằng nụ cười của một đứa trẻ bị cụt tay chân từ lúc mới sinh. Không còn gì an ủi cho bằng ẵm lấy đứa trẻ bị cụt tay chân vào lòng, không còn gì sâu sắc hơn ánh mắt của đứa trẻ tật nguyền ấy. Chúng tôi có thể nói với các bạn rằng khi nhìn đứa bé tật nguyền ấy với cặp mắt tràn lệ sung sướng nó như muốn nói với bạn rằng: “Cám ơn ba má đã thương yêu con và đã muốn con được hạnh phúc”. Lúc đó, bạn sẽ bắt đầu hiểu những gì bạn chưa bao giờ hiểu trước đó.

Nếu bạn nhìn lên Chúa Giêsu chết treo trên thập giá, bạn sẽ nhìn lại và nhìn thẳng vào ánh mắt của Ngài, Ngài cũng hầu như không còn tay chân nữa, bởi vì cả hai tay chân Ngài đã bị đinh sắt đâm thâu, bị bất động và bị đóng chặt vào gỗ thánh giá. Rồi bạn hãy nhìn chăm chú không phải vào tay chân bị cụt mất của đứa con yêu dấu tật nguyền của bạn, nhưng bạn hãy nhìn vào ánh mắt của con, vào trái tim và vào tâm hồn của nó nếu bạn có thể nhìn được. Và rồi bạn sẽ sung sướng khám phá ra những gì cặp mắt của thân xác bạn không thể nhìn thấy, đó là người con yêu dấu bất hạnh của bạn đang chiếm hữu hạnh phúc bất diệt của thiên đàng.

***

Chứng từ của cha mẹ đứa bé tàn tật trên đây nói lên lòng tin vững mạnh vào Mầu Nhiệm Ðau Khổ. Ðó cũng là cách mà các tín hữu tiên khởi suy niệm khi nhớ lại lời giảng của Chúa Giêsu. Những lời nói thật chói tai nhưng có sức đánh động tâm hồn họ hơn cả: “Phúc thay ai sầu khổ vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5:5) hay “Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc9:23).

Cái chết khổ hình thập giá của Chúa Giêsu đã làm cho dân Do Thái phải kinh ngạc: Qua những phép lạ lớn lao tay Ngài thực hiện, nào là cho bánh hoá nhiều, chữa lành bệnh tật, kẻ chết sống lại; thế mà đến lúc cuối đời, dù bị oan ức, tra tấn sỉ nhục và chết cách dã man trên thập giá, Ngài cũng không làm một phép lạ nào để tự cứu mình khỏi khổ đau.

Ngài đã lau khô nước mắt của những người đau khổ, đã biến những nỗi khổ đau thành niềm vui, nhưng Ngài không hoàn toàn khử trừ đau khổ khỏi mặt đất! Bởi vì mầu nhiệm của đau khổ và sự chết vẫn là một thực tại được tiếp diễn qua mọi thời đại. Nhưng việc Phục sinh khải hoàn của Chúa Giêsu chính là sự bảo đảm và là lời minh chứng hùng hồn về giá trị của đau khổ.

Ðau khổ không phải là cùng đích của đời sống con người, cũng chẳng phải là con đường cùng; nhưng đối với những kẻ tin vào sứ mệnh cứu độ của Chúa Giêsu thì bên kia bóng tối của sự chết và đau khổ, chính là ánh sáng của sự sống vĩnh cửu và của hạnh phúc bất diệt.

***

Lạy Chúa, con có thể tìm Chúa trong mọi nẻo đường và nơi các sự vật, con cũng có thể gặp Ngài ngay trong những đau khổ chồng chất của đời con. Vâng, con tin chắc rằng khi con gặp được Chúa là con gặp được sự ủi an, hạnh phúc và niềm vui. Xin Chúa giúp con luôn xác tín rằng ơn cứu độ của Chúa sẽ biến đổi những đau khổ chóng qua của con hôm nay thành hạnh phúc bất diệt cho con ngày mai trên Nước Trời. Amen.

Thầy Uông Đai Bằng gởi