“Cánh cửa ngang qua thế giới buồn”

Suy Tư Tin Mừng sau lễ Hiện Xuống năm A ngày 04/6/201

 Tin Mừng (Ga 20: 19-23)

Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”

 “Cánh cửa ngang qua thế giới buồn”

“tống biệt hồng, sang tống biệt đen.

Em mang điệp khúc về đâu đó,

Ta tưởng chừng như giã biệt em.”

(dẫn từ thơ Nguyên Sa)

Mai Tá lược dịch.

Thế giới buồn, có phải vì tống biệt hồng/tống biệt đen, người em nơi cánh cửa? Điệp khúc vui, phải chăng em mang về từ đâu đó như giã biệt, từ Đức Chúa? Ngài giã biệt, nhưng thay vào đó, Ngài đã gửi Thần Khí Thánh đến với ta.

Trình thuật thánh Gioan, nay ghi lại cùng một tình tự có giã biệt, thân thương Ngài gửi đến với dân gian, thế giới buồn. Sau ngày Chúa chịu nạn trên thập giá, Ngài trỗi dậy từ cõi chết và thăng tiến về Trời, khiến đồ đệ dân con cứ phân vân không biết sự việc gì rồi sẽ xảy đến, ngay sau đó? Một số vị, quay về với nghề cũ, những thả lưới với buông câu. Có vị, nhớ mình từng gửi Chúa những câu hỏi, rất tương tự. Hỏi thì hỏi, nhưng vẫn chờ câu giải đáp khả dĩ xứng hợp với ưu tư của chính mình.

Thay vào đó, Thày bảo: về với thế-giới-mới, Thầy sẽ gửi Thần Khí đến mọi người, vào thời sau. Và lời Ngài, nay đã thành hiện thực. Tương tự một tình huống trong đó có người thổ lộ: mình lo không biết có đạt chốn thiên đường được không đây? Nghe vậy, Thầy bèn trấn an dân con mình: đừng lo toan/thắc mắc. Bởi, thiên đường tự khắc đến với mình, cũng chóng thôi. Lời Thầy còn nhắn nhủ: đạt chốn thiên-đường thì ai cũng đạt! Ngài lại thêm: Thiên đường mà người người lo không đạt, chưa hẳn là kết cục của thế giới. Bởi, thế giới nay còn những chuyện lớn lao, quan trọng hơn.

Thiên đường mà người đời những mong tưởng, nay xuất hiện ở đây, ngay nơi này, củng rất sớm. Điều quan trọng, là: dân con mọi người phải sẵn sàng kiên trì sống. Tức, chấp nhận qui cách sống đúng sứ mệnh Ngài trao ban. Dù biết Thiên đường là nơi đây vá chốn này. Thế mà, đồ đệ Chúa vẫn không hiểu điều Thầy tỏ lộ. Và, cả ta nữa, chừng như vẫn không hiểu hết điều Chúa tỏ bày cho ta và mọi người.

Nên, Ngài phải nói thêm: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thần Khí, khi Người ngự xuống trên anh em.” (Cv 1: 8) Chính Thần Khí Chúa sẽ giúp mọi người trở nên giống Thầy, khi đạt thế-giới-mới. Vào Lễ Ngũ Tuần, Thần Khí đến, người người sẽ dùng ảnh hình để nói lên những gì mình cảm nhận, từ Ngài.

Cảm nhận Thần Khí là đón nhận Luồng Gió Mới cực mạnh, nay thổi đến. Như, Lửa Ngọn dũng mãnh tạo sự sống. Như gà mẹ khống chế trạng huống hỗn độn quanh ổ, rồi mới đẻ. Tức, tạo môi trường thích hợp để sinh hạ sự sống mới. Thần Khi đến, là như: sói dữ ở bên chiên lành. Như, nguồn sống tạo yên hàn không bạo lực. Thần Khí đến, bảo đảm cho an bình, thịnh vượng. Cho, niềm thuỷ chung qua nhẫn cưới, ngày hứa hôn. Ngài là Thần Khí, Đấng giúp ta đi vào thế-giới-mới, rất sẵn sàng.

Xuất Hành về với Đất Hứa, dân con Do thái đều đã nhận được lời hứa hẹn đạt thế-giới-mới chốn thiên đường. Chốn Đất Lành miền Canaan, như vẫn gọi. Nhưng trước đó, họ cảm nghiệm một hành trình xuyên suốt, có cột mây che nắng ban ngày. Có, cột lửa soi sáng ban đêm. Và, họ cảm nhận kinh nghiệm có Chúa ở cùng, chung sức sống.

Trong hành trình di rời thế giới cũ về với Thế-giới-mới, Chúa hứa ban không chỉ mỗi đất lành miền Canaan, nhưng toàn thế giới, vũ trụ. Vũ trụ ta, là thiên đường. Có trời đất giao hoà, đầy Thần Khí. Có Năng Lượng Chúa cao cả, nạp cho ta. Cao cả, nhưng Ngài không là con đường rất chung chung, không thể đến. Ngài cho ta nếm trước hương vị của thiên-đường-thế-giới-mới, không phải mây trời hoặc cột lửa; mà là Thần Khí. Chính Thần Khí ấp ủ thế-giới-mới, để nuôi ta. Đó, là sáng-thế nguyên-thủy. Là, Thần Khí đến với mọi người, rất hôm nay.

Thần khí đến với ta. Với từng người. Ngài đến, theo cung cách thế-giới-mới-rất-thiên-đường, với hình thể nhỏ của vũ trụ. Xem thế, tất cả chúng ta là dân con đã được dựng. Dân con của Thần Khí. Xem thế, thì: Thiên-đường-tràn-đầy-Thần-Khí đã đến với ta và ở với ta. Ngài đi vào cuộc sống của chính ta. Và mọi sự nơi ta nữa.

Có thể, có người bảo: đó kìa, những người “sống vô gia cư chết vô địa táng”, đâu như thế. Hoặc tôi đây, cũng chẳng giống vậy. Có thể, có nhiều chuyện vô lý và bi thảm, vẫn xảy đến trên con đường, mình đang sống. Cả nơi khu vực phía sau nhà, nhiều chuyện xảy đến cũng khiến ta khó mà tin. Thánh Phaolô là vị thánh từng trải nhiều về chuyện này, khi thánh nhân bảo: ta là “đền thờ của Thần Khí”, ngay khi thánh nhân còn đang rao giảng ở Côrinthô, kinh đô đồi truỵ của Hy Lạp. Là, vùng cấm địa của Achaia có đền Aphrodite, đền thờ nữ-thần nhục-dục, đầy thác loạn. Nhưng, thánh nhân vẫn nhận biết điều ấy, cũng rất thật.

Suy niệm sự kiện Chúa Về Trời, ta nghĩ ngay đến “thiên-đường”, không theo nghĩa bầu trời, nhưng theo nghĩa thế-giới-mới, Chúa tạo dựng. Và, Đức Chúa cũng từ thế giới này, đến với ta. Ngài tập họp mọi người vào với thế-giới ấy. Ngài gửi Thần Khí đến với ta như dấu ấn mới, rất an bình. Tuyệt mỹ.

Nhưng, làm sao biết được điều ấy sẽ xảy đến? Lấy gì làm bằng để thấy được là: Thần Khí sống với ta? Và, đâu là bằng chứng Ngài ban trước thiên-đường-thế-giới-mới ấy? Xin thưa: bằng chứng, nằm ở cuộc sống rất đẹp, của mọi người. Ở, mối ưu tư/quan ngại về công lý và an bình, khi vẫn còn nhiều người đang bị chèn ép. Áp bức. Ngay chính ta, cũng đã trải nghiệm nhiều nét đẹp của sự sống. Nhưng nhiều lúc, ta và Hội thánh lại quên mất cung cách phải có, để giáp mặt với sự-sống-rất-đẹp. Để rồi, đôi lúc biến nó thành vật vô giá trị. Và, lẩn tránh tất cả những gì là Chân-Thiện-Mỹ, ở đời. Thay vào đó, ta chỉ thích mỗi cung cách hành đạo cứng ngắc, vụ hình thức rất ngán ngẫm.

Thực tế ở đời, nhiều vị vẫn còn đang làm công việc tuyệt vời, trong đời. Ví dụ ư? Đấy kìa, những vị đang làm rất nhiều điều kỳ diệu, mà ít ai chịu làm. Đích thị là, Thần Khí đang làm những điều kỳ diệu rất “thiên-đường”, nơi người ấy. Chắc chắn rằng, Thần Khí Tuyệt Mỹ cùng hiện diện, ở nơi họ.

Ưu tư/quan ngại về công lý và bình an, còn thấy nơi nhiều người. Đó cũng là mối quan tâm lo lắng cho số phận của người nghèo. Để rồi, hẹn sẽ tìm cách thực hiện cho bằng được sự bình an, rất công lý. Ví dụ ư? Đừng nên tìm ví dụ nơi thể chế chính trị xã hội của loài người. Bởi lẽ, không chỉ mỗi các nhà từ thiện mới có khả năng thực hiện được công việc tuyệt mỹ/tuyệt diệu ấy. Phải nói rằng, chính Thần Khí đang thực hiện công lý và bình an nơi con người và môi trường. Khi đó, Thần Khí Công Lý và An Bình, sẽ còn hiện diện mãi, nơi họ và với họ.

Chắc chắn, Công Lý và Sự Tuyệt Mỹ/Tuyệt Diệu đang kết-thân-làm-một để bừng nở như bông hoa mới chớm ở thế-giới-mới. Với ta, đó là khởi đầu của sự kiện đất-trời-hoà-hợp do Thần Khí ban cho ta. Đang diễn ra.

Lâu nay, nhà Đạo mình nói nhiều đến Thần Khí Chúa ở cùng Hội thánh. Nay, có lẽ nên thêm: Thần Khí Chúa đang ở với và ở cùng ta. Và, thế giới. Cầu mong sao, Ngài ở với và ở trong Hội thánh ta nữa. Bởi, Hội thánh là chốn thánh thiếng từ đó ta thấy được mọi sự đang diễn tiến, đến với ta cùng một lúc.

Với tinh thần lạc quan sẵn có, ta sẽ ngâm vang lời thơ buồn, nhưng hy vọng của nghệ sĩ:

“Chết một ngàn năm chắc phải sầu,

Nhưng này thương nhớ lúc xa nhau.

Mịt mù nhân thế trôi biền biệt,

Giữa vị sầu nghe có vị đau.”

(Nguyên Sa – A Tỳ)

Bằng vào lời thơ, thi nhân thấy “có vị đau”, giữa vị sầu. Về với thiên-đường, người người đều cảm nhận Thần Khí, rất mỹ quan. Mỹ quan thiên đường Ngài trao ban, sẽ cùng với mọi người sống cuộc đời đẹp rất đáng sống, với mọi người.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn 

Mai Tá lược dịch.

“Chúa yêu trần thế, đã chết cho đời, và đã sống lại,”

Chuyện Phiệm Đọc Trong Tuần sau lễ Hiện Xuống năm A 04/6/2017

Alleluia hát lên người ơi

https://www.youtube.com/watch?v=8bR9e-zxAak

“Chúa yêu trần thế, đã chết cho đời, và đã sống lại,”

hát lên người ơi! Alleluia!
Hát lên người ơi!

Sáng tươi huyền diệu,

là một kiếp người,

được Chúa thương yêu.”

(Thành Tâm/Sỹ Tín, CSsR –  Hallêluyah! Hát Lên Người Ơi!)

(Thư 1 Côrinthô 15: 12-14)

Ở giáo-xứ mà bần đạo bầy tôi đây sống đến 25 năm, có cái tên thanh-tao/nhè nhẹ của Anh Cát Lợi, vào mỗi độ nhà Đạo mừng Chúa trỗi dậy, ca-đoàn lễ Việt tuy có hát nhạc-bản ở trên, nhưng vẫn không tạo được khí thế của Ban Hallêluyah thời niên 1960’. Không biết có phải, vì khi ấy bọn tôi hát là hát cho những người “xuôi triền thất-vọng”, “ôm niềm đau” hay sao đó, những là: 

 “Mừng hát hỡi những ai xuôi triền thất vọng.

Mừng hát hỡi những ai ôm niềm đau.

Vì có Chúa Tình Yêu đang ở với ta.

Mừng hát hỡi những ai lê đời khó nghèo.

Và ai trơ trụi ngay trên giường chết.

Vì có Chúa Trời Đất đang ở với ta.”

(Thanh Tâm/Sỹ Tín, CSsR – bđd)

Ấy chết! Nói thì nói thế, chứ ở đâu mà chẳng có những người thất-vọng, khổ đau giống như thế. Vâng. Ở trời Tây bên này, tuy không là chốn “Tây Phương cực-lạc”, nhưng vẫn có quyền hát và nói những lời sau đây:    


“Mừng hát hỡi những ai mong cuộc đổi đời.

Và ai đang dựng-xây cho trần-giới.

Vì có Chúa Tạo Hóa đang ở với ta.

 Mừng hát hỡi những ai mơ mùa thái-hòa.

Và ai đang mạnh tay tắt lửa chiến.

Vì có Chúa Bình Yên đang ở với ta.

Lá lá la la la la là!

(Thanh Tâm/Sỹ Tín, CSsR – bđd)

Vâng. Đúng thế. Nếu bạn và tôi, ta cứ dõi theo lời trần-tình của đấng thánh-hiền khi trước đã từng nói, hẳn ta cũng sẽ cảm-nghiệm được những ý/lời thêm một lần được trích-dẫn, như sau:

Nhưng nếu chúng tôi rao giảng rằng

Đức Kitô đã từ cõi chết trỗi dậy,

thì sao trong anh em có người lại nói:

không có chuyện kẻ chết sống lại?

Nếu kẻ chết không sống lại,

thì Đức Kitô đã không trỗi dậy.

Mà nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy,

thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng,

và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng.”

(Thư 1 Côrinthô 15: 12-14)

Vâng. Rất không sai. Dẫu có “ôm niềm đau” hoặc “mong cuộc đổi đời” hay sao đó, người người và bầy tôi đây vẫn có lập-trường lạc-quan ở mức tối-thiểu, để còn vui sống theo kiểu “rất trỗi dậy” với muôn người. Và mọi người.

Vâng. Đúng là như thế. Dông-dài dẫn-nhập chuyện “phiếm” hôm nay, chỉ cốt để phân-bua với bầu bạn rằng: vừa rồi, bần đạo bầy tôi đây lục-lọi chồng sách/báo cũ để tìm chất-liệu viết thêm về những gì có liên-quan đến lễ hội Phục Sinh, bèn bắt chộp được câu hỏi/đáp từ người giáo dân gửi cố đạo Sydney những lời sau đây:

“Thưa cha. Có thể nào cha viết cho bà con đi Đạo biết được lý-do tại sao người Công-giáo và Chính-thống-giáo lại mừng lễ Phục Sinh không bao giờ cùng một ngày cả vậy?Thêm nữa, có bao giờ Giáo hội đôi bên tìm cách đồng-thuận với nhau để cùng mừng lễ hội trọng đại như thế không?” 

Hỏi gì chứ, hỏi những câu mang tính giáo-sử có ghi tháng ngày rõ rệt để lập nên phụng-vụ, quả đúng với “nghề của chàng”. Nhất thứ, “chàng” đây là bậc thày ở Sydney chuyên tìm-tòi ngày tháng niên-lịch ở sách vở, để giúp đỡ bà con nào không có thì giờ lục tìm, mà thôi. Và, sau khi lục tìm ngày tháng với ý-nghĩa, đức thày ở huyện nhà Sydney bèn có câu đáp-trả sau đây:

“Trả lời câu đầu-tiên anh/chị hỏi, tôi thấy có lý để ta mừng và vui mà chia thành 3 phần rõ rệt. Với Giáo-hội thời tiên-khởi, thì: ngày mừng Phục Sinh được định ra theo cách sao đó hầu ăn khớp với Lễ Vượt Qua của Do-thái-giáo, tức: dứt-khoát phải rơi vào ngày thứ 14 tháng Nissan âm-lịch, là ngày trăng tròn. Khi xưa, Lễ hội Phục Sinh được tổ-chức chỉ ít ngày sau lễ Vượt Qua, cốt để Lễ-hội này được rơi vào bất cứ ngày thường nào, trong tuần cũng đều được.

 Quyết-định tổ-chức Lễ Hội Phục Sinh luôn vào ngày của Chúa, là vì Đức Chúa của ta đã phục hồi sinh lực từ cõi chết đúng vào ngày Chúa Nhật, chuyện đó bắt đầu từ Công Đồng Nicê do hoàng-đế Constantine triệu-tập vào năm 325.

 Công-đồng đây, quyết-định rằng: Lễ Hội Phục Sinh phải được tổ-chức mỗi năm vào Chúa Nhật đầu  sau hội trăng tròn đến sau ngày Xuân phân vùng Bắc Bán Cầu. Ngày xuân phân, xảy ra một năm hai lần qua đó, mặt trời băng ngang đường Xích-đạo và vì thế ngày và đêm có thời-gian dài bằng nhau trên toàn thế-giới. Và, Xuân phân bao giờ cũng rơi vào mùa Xuân.

 Để cho dễ định trước ngày Lễ Phục Sinh rơi vào ngày nào mỗi năm, Giáo-hội đã quyết rằng ngày Xuân phân sẽ luôn rơi vào ngày 21 tháng Ba, dù theo ngôn-ngữ thiên-văn-học, ngày ấy có thể rơi vào ngày 20 tháng Ba năm ấy, cũng vậy. Thế nên, ngày tháng tổ-chức Lễ Phục Sinh có thể định ra từ 22 tháng Ba đến 25 tháng Tư.

 Nhiều thế kỷ cứ thế trôi, tiếp theo sau Công-đồng Nicê, tất cả các Giáo-hội dù Đông Phương hay Tây Phương, kể cả Giáo-hội Chính-thống phương Đông cũng mừng Phục Sinh vào cùng một ngày. Nhưng kể từ năm 1582 trở đi, sự việc đã thay đổi. Đến năm ấy, toàn thế-giới Rôma lại theo lịch do Hoàng Đế Julius Cesar chọn đưa vào từ năm 46 trước Công Nguyên. Lịch này gồm 365 chia cho 12 tháng cộng một ngày trội dư, cứ 4 năm một lần, sẽ rơi vào tháng Hai dương-lịch.

 Và, để sửa đổi, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô 13 đã cải-tổ niên-lịch, bỏ đi 10, để rồi Thứ Năm 4 tháng Mười trong lịch của Julius Cesar sẽ kéo theo sau là Thứ Năm 15 tháng Mười theo lịch mới Grêgôriô. Trong khi toàn-thể phương Tây đã chọn lịch Grêgôriô, thì kể từ sau năm 1582, phương Đông lại vẫn tiếp tục theo lịch của Julius Cesar. Kết quả là, ngày tháng của họ đi trễ 10 ngày sau lịch Grêgôriô… Từ ngày ấy đến nay, có rất nhiều cuộc tranh-cãi/bàn luận trong đó Giáo-hội Công-giáo có tham-dự nhưng không đi đến thoả-thuận chung nào hết.

 Thành thử, nỗi niềm mơ ước của ta hôm nay và mai ngày là: nên tiếp tục có các cuộc thương-thảo Đông-Tây để mỗi năm ta mừng Đại Lễ Phục Sinh cùng ngày với nhau. Để được thế, cũng nên liên-lỉ nguyện cầu sao cho ước-mơ của mọi người sẽ thành hiện-thực, rất mau chóng.” (X. Lm John Flader, The Date of Easter, The Cathoplic Weekly 15/4/2012 tr.10)       

 Tổ chức cách sao đó cho ăn khớp với Lễ Vượt Qua của Do-thái-giáo”, cũng tựa như xác-quyết của người xưa, cứ bảo rằng: “Bê Lem, chốn Chúa sinh ra đời”, là cốt để ứng-nghiệm lời Ngôn-sứ nọ bảo: “Bê Lem hỡi, người không là thị-trấn nhỏ, bởi Đấng Cứu Tinh đã sinh ra trong thôn làng bé nhỏ của ngươi, kia đấy!”

Nói cách khác, các Lễ “lạy” hoặc Lễ “lạc” ở Đạo Chúa, chỉ bắt đầu vào các thế-kỷ sau này, khi các cụ đạo nghiên-cứu tháng ngày hoặc mà định ngày tổ-chức Lễ, là lấy từ Do-thái-giáo ra mà thôi. Còn nhớ, khi xưa, nhiều đấng thánh-hiền nhà Đạo cũng đưa ra nhiều xác-chứng, tựa như thế.

Như thế, là cốt để bà con mình còn giữ được tập-tục và lễ nghi trong Đạo, hệt như Do-thái-giáo. Có làm thế, ta mới hy-vọng đi dần vào chủ-trương “Đại kết các giáo-phái cùng thờ-phượng Đức Kitô là Đức Chúa; cùng kêu gọi mọi người hãy kết-đoàn trong tình thương-yêu của Đức Chúa. Bởi, Thiên-Chúa là Đức-Chúa-của-Tình-Yêu, rất thương yêu phải như thế, cũng dễ hiểu.

Về việc tái-tạo tinh-thần đoàn-kết đã có từ xưa, đấng bậc nọ trong Đạo Chúa từng có lời khẳng-định như sau:

Một trong các cuộc chiến do người Do thái nổi lên chống lại cường quyền La Mã, đã kéo dài chiến tranh suốt từ năm 66 đến 70 sau công nguyên, phá hủy thành thánh Giêrusalem và Đền Thờ của Chúa. Cho nên các Kitô hữu sống ở thành thánh, cũng thưa dần. Đến một lúc, bị biến mất chỉ để lại Galilê và Syria, dấu vết của tình tiết đấu tranh/tranh giành vai vế, lẫn địa vị. Chỉ mỗi cộng đoàn Phaolô của kiều dân Do thái là còn sống sót. Và, ràn chiên Hội thánh hôm nay là hậu duệ của cộng đoàn này.

 Chẳng mấy chốc, sau đó đã xảy đến với cộng đoàn một vấn đề rất mới, là: các thánh nay ngóng chờ Chúa sẽ lại quang lâm lần nữa, rất bất ngờ. Dù, việc này không xảy đến ngay tức khắc, nhưng các thánh cũng đã duy trì được căn tính của cộng đoàn, nhờ tái tạo nguồn nảy sinh tinh thần đoàn kết từ việc đọc Sách thánh viết bằng tiếng Do thái, và theo các giới lệnh, truyện kể có liên quan đến các anh hùng dân tộc.

 Và, nhờ cộng đoàn Phaolô vẫn nhớ đọc thư từ/bài viết do thánh nhân gửi các cộng đoàn, ở khắp nơi. Và, nảy sinh nhiều nhóm hội, trong đó, có nhiều vị thiên về nhóm theo Do thái. Có nhóm vẫn phụ trợ thánh Phaolô, rất mực. Nên, tính đa dạng càng phát triển mạnh nơi cộng đoàn tin Chúa Chiên Lành, là Đức Giêsu.

 Suốt thế kỷ thứ 2, kẻ tin vào Đức Kitô gần như biến dạng khỏi xã hội. Mãi cho đến đầu thế kỷ thứ ba, mới thấy một số tín đồ sở hữu đất đai, xây dựng các hang toại đạo để ẩn lánh, và cuối cùng dựng xây nhà thờ/đền thánh thiết lập chốn thánh thiêng cho cộng đoàn thờ tự. Xem như thế, ràn chiên Hội thánh mang tính cách hiệp nhất đích thực và chính tông của Đức Giêsu, đến rất chậm và khá trễ, lúc ấy lại thấy các giải thích về nhà Đạo, cũng đã khác.

 Đến giữa thế kỷ thứ ba và đầu thế kỷ thứ tư, cũng lại thấy một vài cuộc bách hại quyết loại trừ các Kitô hữu khỏi hiện trường tín thác. Cho đến năm 313, khi hoàng đế Constantin ra tay nhân nhượng người tín hữu ở phương Đông lẫn phương Tây, cho phép mọi người được tự do lựa chọn tôn giáo nào mình tin tưởng.

 Từ đó, Kitô giáo đã trở-thành thực-thể xã-hội đối với quần-chúng. Tuy nhiên, đó chỉ là một trong các cung cách dẫn giải niềm tin vào Đức Kitô được hoàng-đế Constantin chấp nhận. Mọi qui-cách khác đều đi vào chốn “thầm-lặng”, rất bí mật. Và vì thế, phần đông đã mất dạng.

 Thời kỳ hậu-Constantin, chỉ một đạo-giáo mang tính nguyên-thuỷ, rất chính-cống. Và chỉ mỗi phái nhóm chính-tông/chính-cống này khả dĩ triển-khai lời dạy công-nhiên rằng Đức Giêsu Kitô vừa là Chúa, vừa là người. Và, Thiên Chúa rất Ba Ngôi cũng từ lúc đó, được quan-niệm. Vào cuối thế kỷ thứ hai, duy chỉ mỗi Đạo nguyên thủy-chính tông mới tồn tại. Số còn lại, đều trở-thành “lịch-sử”, lùi vào quá-khứ.

 Người Công-giáo, nay biết rất ít hoặc chẳng có ý-niệm gì về quá-trình lịch-sử của Đạo mình. Có vị chỉ có ý-tưởng khá mơ-hồ về lịch-sử, lại đã cho rằng: công cuộc Phục-Hưng thời Trung-cổ đã khiến Hội-thánh thêm rạn nứt.

 Và, rồi nghĩ rằng: ta thừa-hưởng được “lề phải” rất đúng đắn từ các tranh-luận về ràn chiên, một Chúa Chiên. Còn mọi giáo-phái khác đều có sai sót. Và, họ cũng cho rằng, Chúa Chiên Lành, là Chủ Chăn, chỉ nhân-hậu với đạo-giáo rất chính-tông là Công-giáo mình, thôi.” (X. Lm Kevin O’Shea CSsR, Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinhwww.suyniemloingai.blogspot.com

 Nói khác đi, thì chuyện định ra tháng ngày tổ-chức Lễ Hội Phục Sinh, cũng chỉ để bà con trong Đạo nhớ mà thực-thi cuộc sống sao cho “ứng-nghiệm với tinh-thần của người xưa trong Cựu Ước” hoặc dã-sử Do-thái-giáo, mà thôi.

Ngõ hầu “ứng-xử” và “cảm-nghiệm” tinh-thần kết-đoàn giữa mọi người trong cùng một đạo-giáo, có lẽ thi-thoảng ta cũng nên làm như thế.

Để chứng-thực và minh-hoạ cho xác-quyết này, có lẽ cũng nên mời bạn và mời tôi, ta đi vào vùng trời truyện kể mang nhiều ý-nghĩa tinh-tế về thương yêu, đùm bọc rất kết-đoàn như sau:

“Có cậu bé nọ mồ côi cha mẹ từ bé. Cậu có một ước mơ nho nhỏ thôi, đó là có một mái ấm gia-đình để mà yêu thương để mà nương tựa. Hằng đêm mỗi khi nhắm nghiền đôi mắt và ngủ thì cậu luôn luôn mơ đến việc được nằm cuộn tròn trong vòng tay của cha, được mẹ hôn lên trán mỗi buổi sáng. Nhưng giấc mơ thì vẫn chỉ mãi là giấc mơ. Sự thật rành rành trước mắt là cậu không hề có gia đình hay một mái ấm thật sự nào.

 Cha mẹ cậu đã bỏ rơi cậu ngay từ khi cậu mới vừa sinh ra. Nhưng không vì thế mà cậu ghét họ chút nào, mà lại còn ngược lại nữa cơ. Cậu luôn tự nhủ với mình rằng: “Chắc là vì một lý-do nào đó họ mới làm vậy thôi ,chứ họ không hề muốn như thế”. Cứ thế cậu cứ thầm nói với lòng mình, tự an ủi chính mình như một thằng ngốc, mặc cho số phận cứ trôi nổi mãi, nhưng đối với cậu, nó là một con số không to và tròn trĩnh hơn bao giờ hết. Cha mẹ cậu chưa một lần thiết-tha nhớ đến cậu ,dù chỉ là một giây.

 Ngay từ hồi còn nhỏ, cậu bé lớn lên trong nhà thờ. Và được “cha sở” cùng các xơ đặt cho cái tên rất có nghĩa, là Bình-Minh. Đơn-giản, chỉ vì họ mong sau này, dù có ở nơi nào đi nữa thì cậu bé vẫn mãi mãi tỏa sáng.

 Hằng ngày, các xơ cùng với cha sở luôn luôn lo lắng và chăm sóc cho cậu, dành hết tình thương của mình để bù đắp phần nào nỗi đau mất mát lớn trong lòng cậu. Để cậu không bao giờ cảm thấy tủi thân và mặc cảm với mọi người rằng mình không có cha mẹ như bao trẻ em khác. Cậu hiểu rõ điều đó lắm chứ, cậu biết là cha và các xơ yêu cậu lắm đấy. Nhưng cậu vẫn thấy có cái gì đó nhói ngay trong chính trái tim mình mỗi lần đêm đến.

 Và cứ mỗi lần như thế, đêm nào cậu cũng ngồi bật dậy, đứng trước bàn thờ Chúa mà cầu nguyện. Vì cậu nghĩ: “Chắc chắn một ngày nào đó cha mẹ sẽ tìm được mình và đưa mình về nhà, mình sẽ có một gia đình hạnh phúc. Mình tin rằng như vậy”. Thế đấy, cậu cứ tự lừa dối chính bản thân mình, tự lừa dối  chính mình, rồi cảm thấy “Mình thật là ngốc!”

 Vẫn như thường lệ cuộc sống trong nhà thờ, đối với cậu, đã là một niềm vui. Tưới cây quanh khu vườn, rồi đọc kinh thánh cùng các xơ, để cảm thấy vui hơn và có niềm tin vào cuộc sống. Vì hôm nay là chủ nhật, nên mọi người đi nhà thờ rất đông. Mới sáng ra, mà đã có nhiều người đến rồi.

 Cậu ra mở cổng, rồi quay vào trong. “Trời hôm nay đẹp thật, không một gợn mây, thích thật” Vừa đi cậu vừa nghĩ lẩn thẩn như thế; bỗng có chú nhóc vô tình va phải cậu. Thấy thế cậu liền bảo:

_Lần sau em nhớ cẩn thận hơn nhé

Nó cười te toét bảo cậu:

_Vâng, cảm ơn anh!

Cậu hơi thắc mắc không biết người thân của chú nhóc đó đâu vội hỏi:

_Nhóc này! mẹ em đâu?

_Dạ ,ở đằng kia ạ! Nói vừa dứt câu, một người phụ nữ có một khuôn mặt hiền-hậu bước tới bảo:

_Nãy giờ con đi đâu thế, làm mẹ lo quá, cứ tưởng là con đi lạc!

Thấy những cử chỉ ngọt ngào của mẹ cậu bé thế ,cậu hơi buồn buồn một tí ,nhưng rồi giật mình khi nghe tiếng nhóc con la lên”

_Mẹ ơi hồi nãy con té, anh này đỡ con lên đấy mẹ ạ!

_Thế à! Người phụ nữ liền nhìn cậu rồi nói:

_Cảm ơn cháu nhé !Nói rồi người phụ nữ đó xoa đầu cậu rồi bước đi.

 Cậu trở về với thực tế, nãy giờ cậu cứ ngỡ là mình đang ở trên thiên đàng. Nhưng rồi cậu lại lủi thủi bước vào vườn tưới cây, bỗng thấy một bàn tay bóp nhẹ vai mình, thì ra đó là xơ Anne.Thấy cậu buồn, xơ liền hỏi:

_Sao con buồn thế, Minh?

_Có gì đâu xơ, chỉ là con cảm thấy…. nhớ mẹ thôi! Vừa nói cậu vừa mếu máo như một đứa trẻ, thấy vậy xơ liền ôm cậu vào lòng nói:

_Nín đi con ,dù sao hôm nay xơ cũng có tin vui cho con đấy.

_Con nhìn này, đây là Linh, từ nay bạn ấy sẽ là bạn của con. Do bố mẹ bạn ấy đi làm bận bịu nên gửi vào đây, chiều bố mẹ sẽ đón bạn về. Linh chỉ ở lại mỗi ngày chủ nhật thôi. Nên con phải hòa đồng với bạn đấy nhé. À! còn Linh nữa, đây là Minh! hai con làm quen với nhau nhé!

_Dạ con biết. Cả hai đồng thanh nói.

_Tốt lắm thế vậy …Xơ đi đây !

 Nói rồi cậu tiếp tục tưới vườn, cứ tưới tưới rồi tỉa lá cho cây hồng mình yêu quý mà không để ý rằng Linh đang đứng đó .Thấy cậu im lặng Linh liền bắt chuyện hỏi:

_Vậy cậu tên là Minh, nhưng mà cái gì Minh thế, tớ hỏi cho biết được không?

Cậu cười mỉm với Linh rồi bảo:

_Mình là tên là Bình Minh, 14 tuổi, mình sống trong nhà thờ này từ khi còn bé. Còn cậu?

_Mình là Mai Linh. Cũng 14 tuổi như cậu.

 Nói rồi cậu bảo:

_Vậy à! Cậu có muốn ra vườn với tớ không, tớ sẽ chỉ cho cậu xem cái này hay lắm.

Nói rồi, cả hai cùng đi dạo ra vườn, vừa đi Linh vừa hỏi:

_Tớ vẫn còn thắc mắc sao cậu lại sống trong nhà thờ từ bé thế? Linh trố mắt hỏi cậu:

_À ! Là vì …tớ ..mồ côi!

_Vậy à! Tại tớ không biết nên mới hỏi, xin lỗi nhé! Từ nay tớ sẽ là bạn thân nhất của cậu.

_Ừ! Đang nói bỗng cậu la toáng lên.

_Tới rồi! Đây là đài phun nước, đẹp không cơ chứ?

_Ừ đẹp thật. Cám ơn đã chỉ cho tớ xem. Còn bây giờ thì.. .vừa nói Linh vừa cầm vòi xịt lên bảo:

_Chết cậu rồi nhé!

_Không, đừng đùa kiểu đấy!

_À há! Không à! Vừa nói Linh vừa xịt nước vào người cậu cả hai ướt nhẹp như con chuột lột. Bị mấy xơ la cho một trận tơi bời.

 Thấy thế, Linh liền ra mặt nói thay cho bạn:

_Tại con đấy! Các xơ đừng la Minh.

_Hai cái đứa này. Sơ có la cũng chỉ muốn tốt cho hai đứa thôi.

_Được rồi vào thay đồ đi, nếu không lại cảm lạnh bây giờ!

_Dạ! Cả hai nói tiếng “dạ” thật nhỏ ra vẻ như đã hối lỗi.

_Thấy chưa! tớ đã bảo, mà không nghe!

_Biết rồi đừng la nữa, lần sau không làm như thế nữa, được chưa?

_Sao cũng được. Tuần sau, cậu đến nữa không?

_Có! Chắc chắn mà.

 Cứ thế thời gian thấm thoát trôi nhanh, cũng gần một tháng, cậu bé và Linh ngày càng thân thiết với nhau hơn. Có lần, cậu bé còn được bố mẹ Linh đối đãi như con trong nhà. Cậu cảm thấy rất vui. Một hôm Linh bảo:

_Nếu có một điều ước, cậu sẽ ước gì?

_Tớ ước sẽ có bố mẹ như cậu.

_Vậy à! Đơn giản chỉ thế thôi sao?

_Ừ! Tại cậu không biết đó thôi, chính mái ấm gia-đình là nơi giúp con người ta trưởng-thành nên người và thành-công trong cuộc sống, cho nên tớ chỉ ước có được bố mẹ giống như cậu, có một gia-đình để được yêu thương như cậu, là tớ mãn nguyện lắm rồi.

_Thế tớ sẽ nói với bố mẹ tớ nhận cậu làm con nhé! Lúc đó tớ sẽ có một người anh là cậu rồi nhỉ?

_Nhưng ….liệu có được không?

_Tớ cũng không biết, cứ thử xem sao. Bố mẹ tớ cũng thương người lắm. Đừng lo!

_Tớ chỉ sợ …..

_Cậu sợ gì? Linh ngơ ngác hỏi.

_Bố mẹ cậu lấy tiền đâu ra để nuôi cả hai đứa mình đây? Lại còn tiền học, tùm lum hết!

_Chuyện đó, cậu đừng lo! Bố mẹ tớ xoay xở được mà.

_Nếu được thế, thì cảm ơn cậu nhiều lắm.

_Có gì đâu

 Linh cười với bạn, bỗng chợt nghe có tiếng xe bên ngoài cổng nhà thờ. Thì ra, là bố của Linh. Linh định ra mở cửa nhưng cậu bé vội níu tay lại bảo:

_Để tớ đi cho!

_Cũng được.

_Ồ là cháu đấy à Minh.

_Dạ cháu chào bác.

_Ừ ngoan lắm, phải chi con Linh nhà Bác được một phần như cháu.

 Lúc đó Linh bước ra nũng nịu với bố mình, rồi bảo:

_Bố nói xấu con nhé! Con giận bố luôn.

_Đó con thấy chưa, hơi một tí là giận người lớn, thiệt là ….

_Bố khen bạn ấy hoài à, con hỗng chịu đâu.

_Thôi được, vậy bác về cháu nhé

 Tối hôm đó, cậu bé trằn-trọc mãi không ngủ được; không biết Linh có xin được bố mẹ bạn ấy nhận cậu làm con nuôi không nữa? Thầm nghĩ thế, nên cậu cứ thấy lồm cồm, nôn nao trong bụng. Một tuần lễ đã lặng lẽ trôi qua, mà cậu bé chưa gặp được Linh, không biết có chuyện gì xảy ra không nữa. Hay là do sợ phải nhận cậu làm con, nên họ không cho Linh đến đây chơi với cậu nữa? Vậy là cậu mất bạn rồi sao. Cậu cứ lo như thế mãi không ngủ được đến mấy ngày liền.

 “Hơn hai tuần rồi, mà sao chưa thấy tin tức gì của Linh và bố mẹ bạn ấy đâu hết. Chắc là, họ không chấp-nhận nên không cho Linh qua đây rồi?”

 Đang suy nghĩ, bỗng cậu bé thấy có người lại gần, thì ra là xơ Anne và xơ James. Họ lần lượt hỏi:

_Sao mấy ngày nay không thấy con Linh nó tới, hai đứa có gì giận nhau sao? Xơ có nghe nó bảo là: nó sẽ về nói với bố mẹ về việc nhận con làm con nuôi, nhưng ….không biết có được không?

 Cậu im lặng không nói gì, chẳng lẽ Đức Chúa Trời không cho cậu có được ước-mơ kia lại bắt cậu từ bỏ con bé đó sao? Trời đất thật phũ phàng và bất công! Vậy là, ước mơ của cậu bé đi tong theo gió rồi.

 Thấy vậy hai xơ không nói gì thêm, mỗi bảo rằng:

_Thôi đừng buồn con à, sẽ có dịp khác thôi. Xơ đi vô đây. Cố lên con nhé! Cuộc sống, còn nhiều cơ hội mà!

Nghe thế, cậu bé chỉ lặng im, chẳng biết nói sao bây giờ, bỗng nghe có tiếng la lớn.

_Minh ơi, ra mở cửa cho tớ với!

_Trời đất! Mới nhắc, đã tới thật sao? À thì ra là Linh. Cậu bé vội ra mở cửa xem ai, xém té u đầu.

_Cậu đây rồi, xin lỗi nhé hai tuần rồi, tớ không tới được là bởi vì tớ phải dọn nhà.

_Thế hả? Cậu bé trơ mặt ra, không hiểu chuyện gì bèn hỏi ngay:

_Dọn nhà? Sao, có chuyện gì thế?

_Có cả tin vui lẫn tin buồn đây, cậu muốn nghe tin nào trước?

_Tin buồn trước.

_Được, thế thì cố nghe cho kỹ đây. Từ nay, cậu sẽ chính thức là anh của tớ. Tớ sẽ tha hồ bắt nạt cậu!

_Là sao, tớ vẫn chưa hiểu?

_Có nghĩa là: bố mẹ tớ chịu nhận cậu làm con nuôi rồi chứ sao với trăng gì, cậu khờ thế?

_Thiệt không?

_Chứ chả lẽ tớ nói xạo với cậu à? vừa mới nói xong, Linh vội vàng lôi cậu bé vào bên trong, bảo:

_Thu xếp đồ đạc đi!

_Nhưng …nhưng, tớ phải chào tạm-biệt các xơ và cha sở đã chứ.

_Ừ lẹ lên đi!

 Nói rồi, cậu bé vọt vào nhà trong. Thế là, từ nay cậu đã có cha/có mẹ như bao người khác rồi, Ông Trời đã không bỏ mặc cậu, Ngài đả biến ước-mơ của cậu thành hiện-thực rồi. Dù không là cha mẹ ruột, nhưng miễn sao cậu bé có được gia đình để yêu thương, nương tựa là cậu vui rồi. Từ nay, mình sẽ không còn buồn và cô đơn nữa. Cuộc sống mới, đang chờ đợi mình ở đằng trước.

 Trong lúc thu xếp đồ đạc, cậu bé chạy lại ôm các xơ và cha sở mà chào tạm-biệt họ, bỗng có một bàn tay khác ôm cậu vào lòng đó là mẹ của Linh và bố cậu ấy. Thế vậy, là đúng rồi đây! Không phải là giấc mơ nhưng là sự thực. Trên đời này, vẫn còn có người tốt như bố mẹ của Linh. Họ đã chấp-nhận cậu làm con rồi. Cậu bé vui mừng biết bao khi nghe tin ấy. Bởi thế nên, cậu đã tự hứa với lòng mình là: từ nay sẽ sống tốt và hết mực yêu thương bố mẹ “mới “ của mình .

 Và tiếp theo là lời bàn của người kể: “Thế đấy các bạn ạ! Cuộc sống luôn chứa-đựng nhiều mơ ước của các bạn nhỏ như chúng ta. Và, nhiều bạn còn bất hạnh hơn ta nhiều. Họ luôn khao-khát có được một gia đình như ta. Bởi thế nên, các bạn cũng phải biết yêu thương bố mẹ của mình và luôn tôn-trọng những gì mình đang có được, như hôm nay. Hãy sống cho thật tốt nhé, hỡi bạn mình!” (Truyện kể rút trên mạng)

 Suy và gẫm qua truyện kể như thế rồi, nay ta hãy cùng với ban Hallêluyah của Học-viện Dòng Chúa Cứu Thế  Đà Lạt vào thập niên 1960’, mà hát tiếp:

“Mừng hát hỡi những ai xuôi triền thất vọng.

Mừng hát hỡi những ai ôm niềm đau.

Vì có Chúa Tình Yêu đang ở với ta.

Mừng hát hỡi những ai lê đời khó nghèo.

Và ai trơ trụi ngay trên giường chết.

Vì có Chúa Trời Đất đang ở với ta.”

“Mừng hát hỡi những ai mong cuộc đổi đời.

Và ai đang dựng-xây cho trần-giới.

Vì có Chúa Tạo Hóa đang ở với ta.

Mừng hát hỡi những ai mơ mùa thái-hòa.

Và ai đang mạnh tay tắt lửa chiến.

Vì có Chúa Bình Yên đang ở với ta.

Lá lá la la la la là!

 Chúa yêu trần-thế…

Đã chết cho đời, và đà sống lại, hát lên người ơi!

Hallêluyah!”

(Thành Tâm/Sỹ Tín CSsR– bđd)

Trần Ngọc Mười Hai

Lúc nào cũng muốn hát

Những ý/lời của nhạc-bản

Rất như thế.          

NGÔI SAO TRUYỀN THÔNG, LINH MỤC CA NHẠC SĨ, MARCELO ROSSI ĐÃ NHẬN LÃNH GIẢI THƯỞNG “HỒNG Y NGUYỄN VĂN THUẬN” .

NGÔI SAO TRUYỀN THÔNG, LINH MỤC CA NHẠC SĨ, MARCELO ROSSI ĐÃ NHẬN LÃNH GIẢI THƯỞNG “HỒNG Y NGUYỄN VĂN THUẬN” .

Tổng Hợp Báo Chí

Tác giả: Phan Sinh Trần

 

Là một linh mục, tuy nhiên cha Marcelo Rossi lại trở thành một ngôi sao sáng, một hiện tượng nổi bật trên các phuong tiện truyền thông đại chúng vào cuối những năm 1990. Là nghệ sĩ Ki tô giáo lớn nhất ỏ Châu Mỹ La tinh, Cha đã có trên 11 triệu album nhạc bán ra tính đến thời điểm này. Marcelo Rossi được biết nhiều bởi các nhạc điệu nhẹ nhàng, thanh thoát, vui tươi của Ngài, trình bày trong các dĩa nhạc, CD, DVD. Ngài thường xuyên xuất hiện trên các chương trình TV phát đều đặn nhiều buổi khác nhau trong các ngày cuối tuần, chương trình trên radio có tới 3 triệu người lắng nghe hàng ngày, một con số mà hiệp hội ký giả truyền thanh Brazil phải công nhận là điều kỳ diệu.

Ngài đã phát hành 27 dĩa album nhạc kể từ năm 1997.

Năm 2003, Cha Marcelo làm phim đầu tay “Maria, Mẹ Thiên Chúa”, bộ phim gây bão tố trong các rạp chiếu phim ở Brazil, đứng hạng thứ bẩy về doanh thu trong các rạp. Các Film sau đó cũng gây được nhiều chú ý, thành công về doanh số.

Năm 2006 được đánh dấu bằng dĩa nhạc “Ơn phúc của tôi – Minha Bencao” phát hành bởi hãng Sony BMG, là dĩa nhạc bán chạy nhất trong hai năm liền (dĩa kim cương), đến năm 2008, Cha phát hành các dĩa hát “Hòa Bình vâng – Paz Sim”, đứng hạng nhì, dĩa “Nói không với Bạo lực -Violencia Nao” hạng sáu về doanh số bán (dĩa bạch kim).

Linh mục Rossi, tuy có doanh số dĩa hát, phim ảnh, sách viết bán chạy hạng nhất ở Ba Tây và các nơi khác, trị giá hàng mấy chục triệu mỹ kim nhưng ngài lại sống rất đơn sơ và nghèo khó về tiện nghi vật chất. Cha thường xuất hiện trên sân khấu trong chiếc áo dòng cũ hơi bạc màu.Toàn bộ số tiền thu được đều dành cho việc xây dựng nhà Chúa, đóng góp cho quỹ truyền thông Tin Mừng và trao tặng cho người nghèo.

Xuất xứ từ thành phố Sao Paolo, nơi Ngài được sinh ra trong một gia đình Công Giáo trung lưu, cha Ngài ông Antonio Rossi, làm việc nhiều năm trong cương vị quản lý ngân hàng, mẹ, bà Wilma nội trợ. Được cha mẹ nuôi nấng tốt nhưng đến năm 16 tuổi, bị khủng hoảng đức tin, anh Marcelo quyết định không đi nhà thờ nữa, đến năm 22 tuổi, tốt nghiệp nghành giáo dục thể lý tại đại học Sao Paolo. Cùng khoảng thời gian đó, anh Rossi rất đau buồn vì hai biến cố lớn xảy ra dồn dập trong đời mình, anh mất người anh em họ trong một vụ tai nạn xe hơi rồi tiếp đến, người cô quí mến nhận được kết quả xét nghiệm với bịnh ung thư bưới ở đầu. Hai thảm kịch gia đình làm cho Marcelo quá đau xót và thương tổn nhiều, nhưng biến cố đó lại đem anh đến, kết hiệp với  Chúa, anh quay về với Hội Thánh nhờ liên hệ, sinh hoạt với một nhóm cầu nguyện Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo nọ, tiếp tục lớn lên trong ơn sủng, Marcelo bắt đầu tham gia sinh hoạt trong giáo xứ, một năm sau đó, hứng khởi bởi loạt phim truyền hình về cuộc đời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolo đệ nhị, anh quyết định dâng hiến cuộc đời cho Chúa,  tu học tại phân khoa tâm lý học ở đại học Nossa Senhora da Assunção và thần học ở đại học Salesiana de Lorena. Cha được thụ phong vào ngày 1 tháng 12 năm 1994. Cha kể:

–          Khi tôi tái khám phá Đức Tin thì Giáo Hội (Brazil) đang chìm đắm trong các vấn đề chính trị, bởi vì ảnh hưởng của Thần Học Tự Do, dạng thần học chắc chắn đã có vai trò tích cực trong thể chế độc tài, và cũng để lại khoảng trống tâm linh cho tín hữu. Đó là lúc tôi bị mất người em họ, và tôi liền đi tìm Lời Chúa để giải thoát, nhưng khi tôi đến nhà thờ thì lại phải nghe họ nói  về chính trị. Từ lúc này, tôi nhận biết ra mình phải làm gì, nghĩa là trở về với điều thiết yếu, trở về với cội nguồn của sự tốt lành, trở về với Tin Mừng đồng thời công bố Tin Mừng bằng các phương tiện truyền thông, cá biệt là âm nhạc, sợi dây dẫn truyền tốt nhất và rộng rãi nhất trong việc chia sẻ tình cảm, ngôn từ trong đời sống hàng ngày của người dân. Sử dụng âm nhạc để đáp ứng cho sự khát khao được biết Chúa, đánh thức tình yêu dành cho Hội Thánh, cho Mẹ Maria, sự sốt mến  Bí Tích Thánh Thể, tình yêu này vốn đã bị bào mòn vì sự truyền bá của các nhóm Tin Lành Ngũ Tuần và các hệ phái khác.

 

Cha trẻ Marcelo bắt đầu tăng tiến và nhiệt thành trong việc rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, như người thợ gặt cần mẫn, Cha thu hoạch được rất nhiều hoa trái đức tin, có đông những đoàn người đổ về để tham dự thánh lễ do Ngài dâng tại giáo xứ Thánh Rosalia, vùng Santo Amaro, Sao Paolo. Càng ngày con số tham dự thánh lễ càng đông, lên đến số chục ngàn, việc phụng vụ thánh lễ được dời đến và cử hành ở những chỗ có sức chứa càng lớn hơn, cứ thế giáo dân tham dự đông đúc, tăng trưởng lên, cho đến khi Ngài phải sử dụng đại lộ Liên Hiệp Quốc ở thủ đô, và ngay cả đến các sân vận động như Maracana (sân vận động có sức chứa gần 200 ngàn người, lớn nhất thế giới).

hoặc sân Morumbi (72.000 chỗ ngồi),  như là quảng trường tập họp cho các thánh lễ Misa của Ngài vốn là cao điểm của các kỳ tĩnh tâm, hội thảo truyền giảng Tin Mừng và ca ngợi Chúa. Năm 1999, đoàn đoàn, lớp lớp tín hữu cùng nhau đi tham dự buổi tập họp thờ phượng, ca ngợi có tên là “Tưởng nhớ thì có, buồn bã thì không”, con số tham dự lên đến sáu trăm ngàn người.

Năm 2011 Cha Rossi khánh thành thánh đường ở vùng ngoại ô thành phố Sao Paolo, là trung tâm thờ phượng lớn nhất Châu Mỹ La tinh. Nhà thờ chứa được 100.000 người, bao gồm 25.000 chỗ bên trong mái thượng, 75.000 chỗ bên ngoài trong một khuôn viên rộng 30 mẫu tây.

         

        

Ø  Điều gì đã khiến giáo dân tuôn đến các buổi thờ phượng và thánh lễ do cha chủ xướng. Đó là sự phấn khởi và vui thích khi mọi người có dịp “nói yêu” Chúa bằng hết con tim trong các Bài hát Tôn Vinh Chúa, có dịp đắm chìm trong tình sốt mến nồng nàn dành cho Bí tich Thánh Thể, và sự an hòa trong tình con thảo dành cho Mẹ Maria. Họ đến và nhìn xem sự đơn sơ và thánh thiện toát ra trên khuôn mặt và đời sống của Cha. Giống như đặc điểm của các buổi thờ phượng Canh Tân Đặc Sủng, tinh thần vui tươi, đơn sơ, thánh thiện bao trùm trong các buổi lễ, trong giờ chầu Thánh Thể.

            Bạn có thể cùng tham dự ở đây:

               https://www.youtube.com/watch? v=Bi_-m8WpvRA

o   “Được cùng Cha Ca Ngợi Chúa thì niềm tin củng cố, đau khổ được an ủi và vơi đi nhiều”, đó là chia sẻ của một giáo dân đang tham dự lễ đã nói với phóng viên của đài truyền hình CNN.

o   Các tham dự viên nói “Cha làm cho người ta được cháy lên lủa sốt mến”

           Làm sao cha có được ơn kỳ diệu ấy, theo chị Maria một người công giáo toàn tòng, “sự mầu nhiệm là ở trong năng lực, niềm vui và sức mạnh”, 

           những điều này chỉ có thể có được khi hoàn toàn đâm rễ tâm linh sâu và sâu thẳm trong giòng suối ơn của Chúa Thánh Thần.

o    Có nhiều tín hữu đã khóc trong sung sướng khi mình thánh Chúa do cha rước đi qua chỗ đứng của họ. Một phụ nữ trẻ gạt nước mắt nói, “Tôi đến để tạ ơn vì lời cầu nguyện của tôi đã được đáp lại, tôi vừa có được việc làm. Tôi đến thẳng đây khi tôi vừa hoàn tất xong việc từ sở làm”

Thuở ban đầu, không phải Cha Marcelo không gặp nhiều khó khăn từ phía các đấng bề trên, do mục vụ có vẻ cách tân của ngài, Các Đức Giám Mục biết sự nguy hiểm tiềm ẩn của mục vụ đang hình thành, có thể dễ dàng biến dị thành sự phụng vụ trong mớ tình cảm thái quá giống như các giáo phái tin mừng diễn dịch. Nhưng đồng thời các Ngài cũng ý thức được các kinh nghiệm của Cha Marcelo Rossi là quan trọng, bởi vì đó là phương cách đáp ứng đàu tiên trên diện rộng lớn có thể dùng để chống lại sự tan biến, thưa di, mất dần dân số Công Giáo trong lịch sử của Brazil. Chính hồng y Claudio Hummes đã nói “ Ở Brazil, người công giáo giảm dần tỉ lệ 1% mỗi năm, Năm 1991 có 83 phần trăm, nay chỉ còn 67%. Cứ một linh mục công giáo thì có 2 mục sư Tin Lành …”

Brazil được mệnh danh là quốc gia Công Giáo lớn nhất thế giới với 126 triệu tín hữu, chiếm 11% tổng số tín hữu công giáo toàn cầu. Tuy nhiên Hàng Giáo Phẩm, Hội Thánh địa phương vẫn đang phải phấn đấu với các giáo phái diễn dịch phóng khoáng Tin Mừng, những kẻ nói nhanh trên các chương trình TV lôi kéo người nghèo bị bỏ rơi vào trong các đền xây cất xô bồ, lan trân ra khắp nơi, phát triển nhiều giống như các chi nhánh của tiệm bán đồ ăn nhanh “fast food”. Họ luôn kêu gọi, khuyến dụ các bà con nghèo khổ, trong các buổi nhóm, dốc hết túi tiền khiêm nhượng của mình để giao cho họ sử dụng, họ khuyến dụ rằng, bỏ tiền cúng càng nhiều càng tốt, để được Chúa lại quả, cho nhiều hơn gấp bội.Tin Mừng đối với họ, là sự hướng dẫn mà khán giả nên làm theo, nên đầu tư tiền bạc, công sức, để được thu lợi “một vốn mười bốn lời”, mục đích đi theo Tin Mừng chỉ nhằm để có được nhiều tiền của và súc khỏe ỏ đời này, họ không lưu ý đến ơn Cứu Độ vốn là cốt yếu của Tin Mừng… Chính ở đây, Cha Marcelo và nhà thờ lớn của Ngài đã vào cuộc, phản kích những gì lạc xa ý nghĩa thực của Tin Mừng.

Vi linh mục giảng thuyết  và cũng là tác giả của những quyển sách tu dưỡng tâm tánh bán chạy nhất tại Brazil, đang trấn giữ cho Công Giáo Brazil bằng cách làm cho hội thánh Brazil được trở nên thu hút hơn, bằng cách tiếp cận sự vui tươi,thanh thản của Tin Mừng Cứu Độ. Cha nói:

–          Hầu hết các giáo xứ của chúng ta như thuộc về thế kỷ thứ tư, kiểu cách trong phụng vụ không có gì thay đổi và giáo dân cứ tản mát đi.

Và rồi, cha làm lay chuyển những thói quen cũ bằng sự giới thiệu Tin Mừng qua nhạc rock, bằng các buổi cầu nguyện giống như trên sàn của rạp hát, và dùng hết kỹ năng thông tin cách xuất sắc,  gây được ấn tượng cho cả các người chuyên nghiệp. Cha tiếp:

–          Chúng ta không thể cứ ngồi chờ cho mọi người đến nhà thờ, hội thánh phải đi ra gặp gỡ và đem họ trở về.

 Theo thời gian, khi mọi sự đã rõ ràng hơn, Giáo Hội càng ngày càng thông cảm, công nhận và chúc lành cho công việc mang tính Canh Tân Đặc Sủng của Cha Marcelo, ngày 21, tháng 10, năm 2010 Đức Thánh Cha Bê nê đic tô thứ 16 trao giải thưởng “Hồng y Nguyễn Văn Thuận – Liên đới và Phát triển 2010” cho Cha nhằm công nhận “sự tận tụy dâng hiến cho Công Giáo như một nhà truyền giảng Phúc Âm hiện đại”.

Có lẽ phần thưởng lớn nhất Chúa ban cho Cha là được cùng với Đức Thánh Cha và các bạn trẻ khắp thế giới ca ngợi Chúa Giê Su, và ngài được toại nguyện về điều này trong dịp hè năm 2013, Cha cùng với các linh mục Canh Tân Đặc Sủng chia sẻ niềm vui của sự Ca Ngợi, Thờ phượng trước hàng mấy triệu bạn trẻ qui tụ về Rio de Janeiro để tham dự ngày giới trẻ thế giới – World Youth Day.

Ngay cả trong hoạn nạn đời người, thì Chúa cũng biến nó thành niềm vui rạng rỡ cho người con yêu của Chúa. Số là khi cha tập thể dục trên máy chạy bộ thì bị tai nạn chấn thương, phải làm lễ ngồi, trên chiếc xe lăn tay, thời gian còn lại, Bác sĩ không cho phép hoạt động để hồi sức và giúp cho vết thương được mau lành. Thời gian tĩnh lặng này là lúc cha được linh hứng viết các sách mới “Đức Ái – Agape” và “ Thời quyết định – Kairos”, sách ngay lập tức được đón nhận nồng nhiệt, số bán là 10 triệu bản cho sách “Đức Ái” và 2 triệu bản cho “Thời quyết định”. Xếp hạng kỷ lục trong lich sử xuất bản của nhà Editora Globo. Toàn bộ tiền bán sách dành hết cho công tác xây dựng đền thánh “Maria Mẹ Thiên Chúa – Theotokos”

Ta biết rằng: Với những ai yêu mến Thiên Chúa, thì Người đồng công cộng tác biến mọi sự nên lành, tức là những ai đã được Người kêu gọi theo ý định của Người. (Roma 8,28 ).

Thánh lễ mới đây của cha :       https://www.youtube.com/watch? v=1QUfwE23D-c

         Nghi thức phụng vụ mới mà cha Marcelo diễn tả không chỉ dừng lại trong việc chọn lựa nhạc dùng trong phụng vụ mà đi ra ngoài luật lệ kinh điển, tạo nên một cộng đoàn Tin Mừng, khá thuần khiết, để những ai mơ ước về một giáo hội canh tân đặt nền tảng trên các cộng đoàn và sự lưu ý đến người nghèo khó, lẽ thường họ vốn không thể vượt qua vì có vô số các chia rẽ, phân cách trong các tầng lớp xã hội bao gồm từ người giầu sang cho đến người bần cùng ở đô thị, thì nay, họ có thể đến, họp thành cộng đoàn mới.

·         Ngày nay vị linh mục thể thao, người đã thiết lập kết cấu mục vụ Tin Mừng truyền thông bằng mấy ngàn cộng tác viên, người tự tay thiết lập hệ thóng “Globo” truyền hình để quảng bá niềm vui của Tin Mừng, Cha không còn phải đơn độc nữa, ngược lại, cha có nhiều bạn hữu cùng chung chí hướng. Từ những bước đi ban đầu của Cha, đi theo có nhiều các linh mục ca sĩ, nhạc sĩ, văn sĩ sáng tác khác, như linh mục dòng Thánh Tâm Fabio de Melo, hay linh mục Hewaldo Trevisan, Reginaldo Mazotti, các ngài đều trong độ tuổi tứ tuần và có bề ngoài thánh thiện đáng mến cũng như cách nói làm hứng khởi, làm phát sinh hy vọng.

·         Kỷ niệm kim khánh Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo, chúng con  Xin Chúa Giê Su kính yêu cho giáo hội các nơi và Việt Nam của chúng con cũng có thật nhiều linh mục thánh thiện như  cha Marcelo Rossi. Xin Mẹ Maria cầu cho chúng con có rất nhiều linh mục hiếu thảo trọn tình với Mẹ như cha Rossi.

Xin Thần khí Chúa canh tân bộ mặt trái đất của chúng con qua tác vụ của những tôi tớ tận tụy của Ngài!

(Phan sinh Trần, tổng hợp bài viết của News Week, USA today, Washington Post, CNN, Tạp Chí Công Giáo,… về cha Marcelo Rossi.) 

Bức hình Ðức Mẹ Guadalupe, một thách đố đối với khoa học hiện đại

Bức hình Ðức Mẹ Guadalupe, một thách đố đối với khoa học hiện đại

VATICAN CITY – Với những kỹ thuật khoa học hiện đại còn trưng bày ra nhiều sự kỳ diệu về bức hình Ðức Mẹ Guadalupe được in trên áo chòang của Thánh Juan Diego vào ngày 12 tháng Chạp năm 1531: sự cấu kết của bức hình đến nay vẫn làm cho nhiều nhà chuyên môn kinh ngạc.

Vào năm 1936, Friz Hahn, giáo sư ở Mexico, lấy hai sợi chỉ từ tấm áo gởi cho Tiến sĩ Richard Kuhn, Khoa trưởng Phân khoa Hóa học Ðại Học Kaiser Wilhelm và là người được giải thưởng Nobel về Hóa học, sau khi nghiên cứu cùng với các giáo sư của phân khoa đã đi đến kết luận là màu sắc của các sợi chỉ không nằm trong danh sách những màu sắc mà họ đã nghiên cứu và hiểu biết. Năm 1951, họa sĩ Charles Salinas de Chavez quan sát bằng kính lúp một bức hình được chụp lại. Bất chợt ông tìm thấy trong mắt phải của bức hình có hình bán thân của một người đàn ông.

Ông liền tin cho Bác sĩ Rafael Lavoignet Torija, một nhà giải phẫu, ông này đã quan sát, nghiên cứu bức hình trong hai năm liền từ tháng bảy 1956 đến tháng năm 1958. Ông đã viết một bản tường trình chính thức là đã tìm thấy trong mắt của bức hình Ðức Mẹ Guadalupe, hình ảnh của một người đàn ông có râu đứng cách xa khỏang 40 centimet đúng theo như định luật quang học hiện đại. Con mắt đã thâu hình ảnh với những nét cong phản chiếu trong con ngươi như trong mắt của một người thường đang sinh sống.

Hình ảnh trong mắt của bức hình cũng được bác sĩ Javier Torroella Bueno nghiên cứu kỷ lưởng và cũng đi đến kết luận là chiếc áo choàng của Thánh Juan Diego đã chớp lại hình của Ðức Mẹ theo như định luật quang học và chớp ảnh. Chiếc áo đã như tấm phim chớp lại hình ảnh Ðức Mẹ khi Thánh Juan Diego đứng trước mặt Ðức Mẹ.

Một chuyên viên về thần kinh hệ, Bác sĩ Jorge Alvarez Loyo, muốn dàn dựng lại khung cảnh, dùng môt người đóng vai trò thánh Juan Diego một người đóng vai Ðức Mẹ. Ông sắp đặt đúng hệt như trong bản nghiên cứu và xem chiếc áo như là tấm phim cuả máy hình để thử nghiệm công trình của mình và ông đã kết luận đây là một sự lạ huyền nhiệm.

Như cánh bướm có nhiều màu sắc rực rỡ. Những cuộc nghiên cứu tiếp theo sau này cho biết bức hình không có nét vẻ mà chỉ có những màu sắc được in vào như chớp ảnh. Với lọai vải dùng làm áo choàng thời đó thường không thể lưu giữ lâu hơn 20 năm. Riêng chỉ việc bền bỉ lâu dài của chiếc áo với thời gian đối với người Mexico cũng là một phép lạ.

Màu sắc của chiếc áo làm cho các khoa học gia ngỡ ngàng. Năm 1789, Bác sĩ Bartolache đã cho sao chép lại bức hình trên vào những áo chòang cùng một loai vải, dùng những màu sắc pha chế bằng khoáng chất, loài vật và thảo mộc. Tất cả các bản sao được thực hiện bởi những họa sĩ tài danh khác nhau, xong đem so sánh với màu sắc chiếc áo nguyên thủy. Những màu sắc trên chiếc áo nguyên thủy luôn bền vững in hình Ðức Mẹ Guadalupe, trong khung cảnh ở Tepeyac và đã được giữ lại không phai lạt, hư hỏng qua nhiều thế kỷ, bởi vậy khoa học kỹ thuật tiến bộ cũng không thể nào giải thích được.

Năm 1975, bản tường trình của Bác sĩ Eduardo Turati thêm vào những nhận xét là ở những nơi vải bị mòn và rách vì đã dùng lâu ngày, người ta cũng tìm thấy màu sắc đã được in vào rất rõ ràng dù đã sờn rách. Màu sắc đó không phải được vẽ lên mà được in chụp vào.

Cuối cùng năm 1979, giáo sư Philip Serna và Jody Brant Smith dùng quang tuyến X để thí nghiệm. Dưới những nét vẽ tô chồng thêm bên ngoài ở những thời kỳ khác nhau đã bị nứt nẻ với thời gian: những nét màu hồng trên áo, những vành trên giải thắt lưng và trên vòng cung mặt trăng cũng đã được tô thêm theo thời gian và những nét tô thêm đó đều bị nức nẻ. Tóm lại những nét tô thêm sau này rất dể nhận thấy, nhưng dưới lớp tô chồng thêm, những nét tiên khởi vẫn rõ ràng không thể giải thích được.

Màu xanh trên khăn chòang của Ðức Mẹ trông như mới, mặc dù sức nóng của khí hậu nhiệt đới, màu hồng của chiếc áo phản chiếu ánh sáng tuyệt đẹp, trên nét mặt có những nét hòa hợp của người bản xứ và Tây phương với những nét đậm đà và trắng trẻo, sáng láng và tỏa ra màu rực rở như cánh bướm. Ðôi mắt đen nhánh và làn tóc của người Mẹ bé nhỏ (Morenita) cũng đầy những huyền nhiệm.

Bức hình tự chính mình cũng có khả năng tự vệ chống lại những phá hoại vô ý, vụng về cũng như có ác ý. Ví dụ điển hình là khi lau chùi khung kính bao che bức hình họ đã làm đổ chất acít nitric ở góc trái áo choàng đến nay vẫn còn nhìn thấy được, nhưng chiếc áo không hề bị hư hại bởi chất acít mà dấu acít cứ mờ dần với thời gian.

Sáng ngày 14 tháng 11 năm 1921 váo lúc 10 giờ 30, Luciano Perez, một người thợ, mang đến một bó hoa đặt dưới bàn thờ trong thánh đường trước tượng Ðức Mẹ. Anh ta vừa bước ra khỏi thánh đường thì quả bom dấu trong bó hoa phát nổ. Sức nổ làm sập bàn thờ, các chân đèn, các bình hoa và làm vở các cửa kính các dảy nhà lân cận, nhưng vòm kính bao che tượng Ðức Mẹ vẫn nguyên vẹn. Ðức Mẹ vẫn ở đó như lời Ðức Mẹ hứa qua bao thế hệ, Người Mẹ bé nhỏ của người Mexico, đày lòng thương xót, vẫn mãi bày tỏ lòng từ bi vô biên, và trở nên Ðấng Phù Trì che chở tòan lục địa Mỹ Châu.

Phó tế J.B. Huỳnh Mai Trác

CẢM TẠ CHÚA VÌ ĐỨC TIN

 CẢM TẠ CHÚA VÌ ĐỨC TIN

  1. Năm nay tôi đã 90 tuổi. 90 năm đời tôi là một chuyến đi tương đối dài. Chuyến đi ấy được đánh dấu bằng nhiều biến cố quan trọng. Những biến cố đó được coi như nhữngbến đợi, mà Chúa đã đến gặp tôi, để sai tôi đi. Chúa sai tôi đi vì Chúa muốn, mặc dầu tôi sợ hãi, xin được rút lui, mà không được.

Do vậy, lễ thụ phong linh mục, nhất là lễ thụ phong Giám mục của tôi đã được tổ chức hết sức đơn giản.

  1. Vâng phục thánh ý Chúa mà dấn thân vào nhiệm vụ đầy gian nan, tôi ý thức mình rất yếu hèn tội lỗi.Nhưng tôi tin vào Đấng đã sai tôi.

Hơn bao giờ hết, những ngày cuối đời, nhìn lại những ơn Chúa đã ban, tôi thấy tôi phải cảm tạ Chúa một cách đặc biệt vì đức tin.

  1. Thực vậy, đức tin đã đem lại cho tôi sự bình an, sức mạnh và hạnh phúc trong suốt hành trình ơn gọi đầy gian khổ.
  2. Chúa đã ban đức tin cho tôi, và chính Chúa dạy tôi sống đức tin ấy.Sống đức tin đó là như thế nào?Hôm nay tôi xin phép mô tả vắn tắt theo kinh nghiệm dựa vào những chỉ dẫn của vài vị thánh.
  3. Theo thánh Augutinh, sống đức tin là đón nhận Chúa.

Trong cuốn Tự Thú, quyển X, đoạn 27, thánh nhân viết:

“Chúa đã gọi con, Chúa đã kêu con, Chúa đã bẻ gẫy cái điếc của con.

“Chúa đã soi sáng, Chúa đã toả sáng và Chúa đã đánh tan sự mù tối của con.

“Chúa đã xức dầu thơm cho con. Con đã hít vào và thao thức nghẹn ngào, con thở về Chúa.

“Con đã nếm và con thấy đói, thấy khát.

“Chúa đã đụng tới con và con được cháy lên vì sự bình an của Chúa”.

Với những lời tự thú trên đây, thánh Augutinh cho thấy ngài tin Chúa là ngài đón Chúa. Ngài đón bằng tai, mắt, mũi, lưỡi và tay. Chúa vào trong ngài. Ngài cảm thấy Chúa là suối nguồn bình an, bởi vì Chúa là tình yêu thương xót.

  1. Khi tôi sống đức tin theo gương thánh Augutinh, tôi thấy cái đẹp, cái thiện, đều phát xuất từ Chúa.Tin Chúa là đón nhận Chúa bằng tất cả con người mình, để rồi cũng bằng tất cả con người của mình, tôi ca tụng Chúa.
  2. Cùng với gương sáng của thánh Augutinh, tôi cũng sống đức tin theo gương sáng củaĐức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

Tôi được may mắn ở bên Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhiều lần, tại bàn thờ, tại bàn giấy, tại bàn ăn của ngài.

Đâu đâu, tôi cũng nhận thấy thánh nhân luôn sống kết hiệp với Chúa. Đối với ngài, sống đức tin là sống mật thiết với Chúa, như lời Chúa Giêsu dạy: “Hãy ở lại trong Thầy” (Ga 15,9). Mật thiết “như cành nho gắn với thân cây nho” (x. Ga 15,4).

  1. Thêm vào các gương sáng trên đây, tôi cũng học sống đức tin nơithánh nữ Têrêsa Calcutta.

Thánh nữ dạy tôi sống đức tin là hãy nhìn thấy Chúa Giêsu trong những người nghèo khổ, và hãy tránh kết án bất cứ ai.

  1. Sau cùng, sống đức tin của tôi đã chịu ảnh hưởng rất nhiều từFatima, nơi Đức Mẹ đã nhắc nhở đếnsự sám hối ăn năn. Sống đức tin hôm nay là hãy khiêm tốn nhận mình là kẻ cần phải ăn năn đền tội,cho mình và cho thế giới đang lâm nguy.
  2. Với mấy nét chính trên đây, tôi đã và đangsống đức tin như một cuộc gặp gỡ với Chúa. Gặp gỡ riêng tư, gặp gỡ thân mật, gặp gỡ thường xuyên.

Sống đức tin như thế một cách mãnh liệt trong suốt cuộc đời, nhất là cuộc đời Giám mục.

Tôi nói sự thật đó, chỉ để cảm tạ Chúa và cũng để chia sẻ trách nhiệm với cộng đoàn, mà tôi gắn bó.

  1. Sống đức tin, nếu phải là như trên đây đã gợi ý, thì lúc này, thiết tưởng chúng ta nên xem xét lại chính mình. Đây là vấn đề quan trọng, để làm chứng cho đức tin trong tình hình phức tạp hôm nay, và nhất là để cứu lấy chính mình.
  2. Nhờ đức tin, Chúa sẽ cứu chúng ta khỏi tội và khỏi lửa hoả ngục. Nhưng đức tin phải là đức tin mà Chúa muốn, chứ không phải đức tin mà mỗi người có quyền tạo dựng nên.

Đức tin là ơn trọng đại quý giá do Chúa ban. Chúa ban đức tin cho những ai khiêm nhường, nghèo khó, bé nhỏ.

Nếu hôm nay, chúng ta coi mình là những người đạo đức, thánh thiện, được quyền đào tạo đức tin với niềm tự đắc tự hào, thì đúng là chính chúng ta đã rơi vào một cuộc khủng hoảng về đức tin.

  1. Khủng hoảng về đức tin xảy ra trong chính những người tự nhận là nhân chứng của đức tin, thì hậu quả sẽ ra sao?

Cách đây đã mấy chục năm, tôi có dịp đi La Salette, để hành hương cầu nguyện với Đức Mẹ khóc. Bởi vì tại La Salette, Đức Mẹ đã hiện ra dưới hình một phụ nữ ngồi ôm mặt khóc. Đức Mẹ khóc, để cảnh báo về một tình hình đức tin sa sút lúc đó đang xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là tại Pháp.

  1. Cảnh báo về tình hình đức tin sa sút, đó là việc Đức Mẹ đã làm bằng nhiều cách,kể cả bằng nước mắt của Mẹ.

Nhớ lại cảnh Đức Mẹ khóc ở La Salette, tôi cầu xin Đức Mẹ đoái thương đến tôi và Hội Thánh tại Việt Nam. Xin Mẹ đừng để xảy ra cảnh đức tin sa sút, do biến chất hay do bất cứ nguyên nhân nào. Nếu chẳng may sa sút, thì xin Mẹ thương cứu. Đức Mẹ sẽ cứu, nhưng cần chúng ta biết đón nhận với lòng khiêm nhường cậy trông.

Tình hình hiện nay là rất phức tạp. Đức tin chân thực sẽ cứu chúng ta.

  1. Xem xét lại tình hình đức tin của mình, đó là việc Chúa muốn, mà mỗi người chúng ta nên làm trong năm nay, kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima.

Việc xem xét tình hình đức tin là việc không dễ chút nào. Rất cần ơn Chúa. Xin Mẹ Maria thương giúp chúng con. Amen.

Long Xuyên, ngày 19.5.2017.

+ Gm. Gioan B BÙI TUẦN

http://www.vongtaysongnguyen.com/cam-ta-chua-vi-duc-tin/

 

——-

From:  VÒNG TAY SONG NGUYỀN

KHO TÀNG CỦA TẠO HÓA

KHO TÀNG CỦA TẠO HÓA

“Chúng ta phải cầu nguyện luôn mà không biết mệt mỏi, vì sự cứu rỗi của nhân loại không phụ thuộc vào sự thành công về vật chất, và cũng không dựa trên khoa học mà làm mờ đi sự minh mẫn.  Và nó cũng không phụ thuộc vào vũ khí và các nghành công nghiệp của con người, nhưng nó chỉ dựa vào một mình Chúa Giêsu” – 
 

Thán h Frances Xavier Cabrini

Đọc những lời lẽ khôn ngoan của các thánh chúng ta hiểu được các ngài đã tìm được kho tàng mà Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ trong Phúc Âm Luca chương mười hai, “kho tàng của anh em ở đâu thì lòng anh em ở đó.”  Kho tàng mà các thánh tìm được chính là thứ mà mỗi người chúng ta được sinh ra để đi tìm; thế nhưng tại sao những người tìm thấy được nó thì chẳng có bao nhiêu?  Không biết các bạn có bao giờ đọc tiểu sử của các thánh và suy tư về cuộc đời của các ngài thật sự như thế nào chưa?  Nếu các bạn chưa từng thực hiện điều này, tôi mời bạn hãy đi tìm đọc một mẫu chuyện nhỏ của một vị thánh quen thuộc với bạn và suy tư về kho tàng họ tìm được.  Và nếu bạn đã từng đọc qua nhưng chưa bao giờ suy tư  xin hãy dừng lại chốc lát và suy tư về lối nhìn và cách sống của các ngài.  Một loạt những câu hỏi sẽ được đặt ra: các ngài đã nhìn thấy gì?  Cái gì đã thúc đẩy các ngài để đi tìm kho tàng đó mà các ngài đã bỏ hết cuộc đời để tìm kiếm?  Nói một cách khác, kho báu của các thánh là gì?  Phải chăng đó chỉ vỏn vẹn là một Thiên Chúa mà chúng ta cùng được biết và được mời gọi chia sẻ kho tàng vô giá ấy?  Nếu những gì các thánh đã nhận ra đều được tỏ lộ cho chúng ta qua nhiều thế kỷ, tại sao chúng ta lại không nhận thấy?  Phải chăng chúng ta là những người như Chúa đã nói trong Phúc âm, “có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe?”

Các thánh là những người có tầm nhìn xa và họ không lu bu với những bận rộn xung quanh, bởi thế cuộc sống của các ngài không chỉ luẩn quẩn với những công việc hàng ngày.  Nhưng các ngài luôn dành thời gian để trèo lên đỉnh núi của tâm hồn để quan sát lại tầm nhìn và hướng đi của mình.  Thật sự trên đỉnh núi chúng ta sẽ nhìn mọi sự rõ ràng hơn.  Ở đó, chúng ta không chỉ nhìn thấy được những gì liên quan đến chính mình, nhưng còn nhìn thấy cả một thế giới rộng lớn đang bao trùm lấy ta và ta là một phần tử nhỏ trong thế giới sống động ấy.  Lúc đó chúng ta sẽ nhận ra rằng phải có một sức mạnh siêu nhiên làm chủ và điều khiển tất cả, và con tim của chúng ta sẽ nhận ra sự tài tình của Thiên Chúa cũng như sự hiện diện của Ngài trong vũ trụ này.  Chính ở trên đỉnh núi của tâm hồn mà các thánh nhận ra được sự nhỏ bé của mình và tìm được kho tàng quý báu của các ngài – là chính Chúa Giêsu, kho tàng của mọi tạo vật.

Nhìn lại kinh nghiệm sống của mỗi người, có lẽ chúng ta đã có dịp trèo núi hay được đi núi.  Trong kinh nghiệm đó chúng ta nhận ra rằng con đường đi đến đỉnh núi không dễ dàng và chúng ta phải dồn hết sức lực mới đến được nơi mà ta muốn đến.  Và khi đến nơi, ta hẳn quên đi sự mệt mỏi của chặng đường đã qua và chỉ biết kinh ngạc trước sự hùng vĩ của thiên nhiên.  Nơi đó trước khung cảnh thiên nhiên, chúng ta cảm thấy mọi sự như mới mẻ, như chúng ta được tiếp sức, và chúng ta cảm thấy mình thật nhỏ bé và được bao bọc trong sự quan phòng của Thiên Chúa.  Trên đỉnh núi đó, chúng ta được nhắc nhở rằng chúng ta không làm chủ bất cứ gì nhưng được mời gọi để sống và thưởng thức sự hùng vĩ và cảnh đẹp của thiên nhiên.

Hành trình của tâm hồn mỗi người chúng ta cũng tương tự.  Chúng ta phải dồn hết sức lực để trèo, để tìm, để khám phá.  Hành trình của mỗi người chúng ta là tìm ra kho báu của đời mình, một kho tàng mà Thiên Chúa đã trao ban cho riêng từng người chúng ta.  Các thánh là những người đã đi trước và các ngài đã tìm được và đã hướng dẫn chúng ta biết cách tìm đến kho tàng vô giá đó.  Sự chọn lựa là do chúng ta và nằm trong tầm tay của mình.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy dùng chút thời gian trong ngày để tìm hiểu những con đường các thánh đã đi qua, hầu giúp chúng ta biết trèo lên đỉnh núi thiêng liêng của con tim, định hướng lại con đường trước mặt và tiếp tục tìm kiếm vì chúng ta không thể quên rằng chúng ta được sinh ra để đi tìm kho tàng quý báu dành cho chúng ta – đó chính là Ngôi Hai Thiên Chúa.  Nguyện xin các thánh – là những người đã dành hết cuộc đời của các ngài để đi tìm kho tàng quý báu ấy, và khi tìm được rồi các ngài đã can đảm đánh đổi tất cả để được nó – dạy cho chúng ta biết bắt chước các ngài và luôn đi tìm Thiên Chúa trong cuộc sống hàng ngày.

Củ Khoai

****************************** **************

Con đã tìm hạnh phúc từ lâu,

đôi khi như người điên, người mất trí,

với sự đam mê, với lòng tham lam

tiền bạc, quyền hành, quyền lực…

con đã nếm mùi chút ít những điều đó,

nhưng lạy Chúa, con không tìm được niềm vui.

 Con đã tìm hạnh phúc trong sự khôn ngoan,

Khôn ngoan như thế gian đề nghị

kiến thức, khoa học, tiếng tăm,

biết hết về lòng người,

hiểu hết về định mệnh thế giới,

nhưng đâu cũng vậy, con không thấy chi cả.

 Con cũng đã tìm thành công, lạy Chúa

Trong đời con, trong nghề nghiệp, trong gia đình,

được đứng nhứt mọi nơi, được mọi người nghe,

được mọi người nhìn nhận, nhưng con không gặp chi cả.

 Hôm nay, lạy Chúa, Chúa mời con lắng nghe Chúa.

Chúa không đợi con nơi công trạng và thành công.

Chúa chờ con giữa cuộc đời,

một đời người thật đơn giản, thật nhỏ bé.

Và chính nơi đó, Chúa tự biểu lộ để sau cùng

Con tìm thấy trong sự hiện diện của Chúa

Ý nghĩa của đời con.

“Ai có tai thì nghe.” (Mt 11, 15)

Hiền Hòa chuyển dịch

From: Langthangchieutim

“Sài Gòn ơi! Tôi mất người như người đã mất tôi,”

Chuyện Phiếm Đọc sau lễ Thăng Thiên năm A 28/5/2017

“Sài Gòn ơi! Tôi mất người như người đã mất tôi,”

“như trường xưa mất tuổi thiên-thần,

Hy-vọng xa hay mộng ước gần

Đã lìa tan.”

(Nguyễn Đình Toàn – Nước Mắt cho Sàigòn hay: Sàigòn Niềm Nhớ Không Tên)

(Thư Êphêsô 5: 6)  

Trần Ngọc Mười Hai

“Sàigòn ơi! Tôi mất người như người đã mất tôi”… tất cả cũng đều là mất mát. “Mất tuổi thiên-thần”, “Mất niềm vui, tiếng hỏi, câu chào”,  còn mất cả cái tênKhông bao giờ quên. Vâng. Có mất cả cái tên hay quên cả cái tuổi, thì bạn và tôi, ta cũng đừng bao giờ mất đi ân huệ trời cho con người, đấy bạn ạ.

Mấy hôm nay, bần đạo ngồi buồn gặm bút, cứ muốn viết cho thật nhiều về nỗi niềm nhung nhớ mất đi rất nhiều thứ. Cả những thứ có tên, có tuổi hoặc có ý-tứ, ý-từ rất muốn nói ra, nhưng lại quên mất. Cũng may cho bần đạo, chợt mở máy ra nghe nhạc thấy Khánh Ly cứ là rỉ-rả những lời trần-tình mất mát của một Sàigòn đã mất tên từ lâu, nghe rất buồn.

Sao không buồn được, khi nghe đi nghe lại những câu “mất mát” khôn nguôi, khó tả đến như sau:

“Sài Gòn ơi! Đến những ngày ôi hè phố xôn xao

trong niềm vui tiếng hỏi câu chào

sáng đời tươi thắm vạn sắc màu

nay còn gì đâu…

 Ai đã xa nhớ hàng me già, thu công viên hoa vàng tượng đá

thôi hết rồi mộng ước xa xôi, theo giòng đời trôi…

 Sài Gòn ơi! Đâu những ngày mưa mùa khoác áo đi

tay cầm tay nói nhỏ câu gì

Những quầy hoa quán nhạc đêm về

Còn rộn ràng giọng hát Khánh Ly

 Sài Gòn ơi! Thôi hết rồi những ngày hát nhớ nhau

Nhớ Phạm Duy với tình ca sầu

mắt lệ rơi khóc thuở ban đầu

Còn gì đâu

(Nguyễn Đình Toàn – bđd)

 Buồn là thế, chắc hẳn cũng do người viết nhạc có những tâm sự xuất tự tâm can của một nhà thơ nay không còn dịp viết và hát về Sài gòn với cái tên “cúng cơm”, cũng đẹp nhiều hơn nữa:

 “Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên

mất từng con phố đổi tên đường

khi hẹn nhau ta lạc lối tìm

ôi tình buồn như đã sống thêm.”

Sài Gòn ơi! Tôi mất người như người đã mất tôi

như trường xưa mất tuổi thiên thần

hy vọng xa hay mộng ước gần

Đã lìa tan

Trăng ơi trăng có còn chăng là

Sao ơi sao, sao mờ lệ nhớ”

Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên

như hàng cây lá đỏ trông tìm

Mắt trời trong cánh nhỏ chim hiền

Đã ngậm sầu ngang môi lắng im

Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên

như mộ bia đá lạnh hương nguyền

Như trời sâu đã bỏ đất sầu.

Còn gì đâu…

(Nguyễn Đình Toàn – bđd)

Vâng. Có lẽ người viết nhạc hôm nay buồn nhiều nên mới viết ra những lời ai oán đến độ thế. Vâng. Như ai đó từng diễn-giải một nhận-định về “Lời nói”, qua một bài viết mà bần đạo vừa nhận được trên điện thứ hôm ấy vào tháng 5 /2017 như sau:

“Lời ăn, tiếng nói của mỗi con người là biểu hiện chính cuộc sống và con người họ. Nếu bạn gặp một người ăn nói xấc xược, bạn có muốn nói chuyện lần thứ hai không?

Muốn biết một người có vận mệnh tốt hay không, chỉ cần xem cách họ nói chuyện là biết!

Lời nói chính là biểu hiện rõ rệt nhất của một người có đức hay không, lời nói cần giữ thủ đức, có như vậy mới giữ được phúc báo.

Mệnh của con người có tốt hay không có thể nhìn cách người đó nói chuyện là có thể nhận biết. Hàng ngày không nhất định đều phạm phải việc tổn đức, nhưng nói chuyện thốt ra những điều khó nghe, làm tổn thương người khác thì đương nhiên sẽ mất đi phúc báo.

Người có vận mệnh tốt là người ăn nói có chừng mực, mỗi lời nói đều thể hiện là người có đạo đức, họ không dùng ngôn từ mạnh để phê phán, chê bai người khác, không dài dòng nói từ chuyện nọ sang chuyện kia, không kể công của bản thân mình sau khi đã giúp ai đó. Lời nói của họ luôn chân thành, với tâm ý động viên, khích lệ người khác.

Biết rõ về một người, không cần nhất thiết phải tận nói, hãy lưu lại cho người ta ba phần khoảng trống, đây cũng là lưu lại chút “khẩu đức” cho mình.

Trách một người không cần phải tận trách, hãy lưu lại cho người ba phần khoảng trống, đây cũng là lưu được chút độ lượng cho mình.

Có công không cần đòi hỏi tận cùng, hãy lưu lại cho người ba phần khoảng trống, đây cũng là lưu được chút khiêm nhượng cho mình.

Đúng lý cũng không cần đoạt tận, hãy lưu lại cho người ba phần khoảng trống, đây cũng là lưu được chút khoan dung cho mình.

Tài năng đừng quá ngạo mạn, hãy lưu lại cho người ba phần khoảng trống, đây cũng là lưu chút đức khiêm hư cho mình.

Ngày tháng tích tụ, bao nhiêu phúc báo cũng từ cái miệng mà đi hết nếu cứ thường xuyên gây khẩu nghiệp. Lời nói không hay sẽ làm tan vỡ mọi mối quan hệ, dù trước đó phải khó khăn để xây đắp. Thực tế là không người chồng nào muốn về nhà nếu có một cô vợ thường xuyên chì chiết, trách móc; không có đứa con nào hạnh phúc nếu có cha mẹ không nói lời dịu dàng mà chỉ quát nạt, la mắng; không có người bạn nào hứng thú giao thiệp với người hay nói lời cay độc, bình phẩm ác ý…

Cổ nhân nói: ‘Lời nói do tâm sinh’, một người có tâm tính như thế nào thì sẽ nói ra những lời như thế. Người có lòng bao dung lời nói ra sẽ nhẹ nhàng hòa ái, người trong tâm đầy oán hận, lời nói ra sẽ hung hăng, cay nghiệt. Người khiêm nhường lời nói ra sẽ chừng mực nhã nhặn. Người tự cao lời nói thường khoa trương phách lối.

Con người ta có vận mệnh tốt và giàu có ở kiếp này là vì người đó đã tích được nhiều đức ở các kiếp sống trước. Tích đức thường được hiểu là cần phải làm được việc gì đó tốt, giúp đỡ được ai đó. Tuy nhiên, không hề đơn giản khi làm được việc gì đó tốt cho ai đó. Bạn có thể phải mất rất nhiều công sức, tiền của khi giúp ai đó, tuy nhiên cũng không hề chắc chắn rằng những nỗ lực mà bạn bỏ ra hoàn toàn đem lại kết quả tốt đẹp.

Trong cuộc đời của mỗi người, không phải ai cũng sẵn lòng làm việc gì tốt cho người khác nhưng họ lại rất dễ nói những lời khó nghe với những người xung quanh. Chính những lời nói khó nghe đó khiến cuộc sống của họ không hề bằng phẳng, mà trái lại, không biết chừng lại gập ghềnh chông gai.”  

Vâng. Rất đúng. Nhận-định như thế, cũng được đấng thánh-hiền thuở trước, cũng từng viết như sau:

“Đừng để ai lấy lời hão huyền

mà lừa dối anh em,

chính vì những điều đó

mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống

những kẻ không vâng phục.”

(Thư Êphêsô 5: 6)   

Thành ra, lời nói phát ra từ cửa miệng con người, cũng có thể là những lời khiêm nhu, tử tế tích-tụ điều tốt, có tâm-phúc. Nhưng cũng có thể là những lời hão huyền, xuất phát tự tâm can đầy lừa dối khiến cho “cơn thịnh-nộ của Thiên-Chúa giáng xuống những kẻ không vâng phục.”  

Lại có những “lời nói” không phát ra từ cửa miệng con người, như từ tâm can, mà mọi người lâu nay vẫn gọi đó là “tiếng nói của lương tâm”. Lương tâm, không nói bằng lời lẽ những tự-vựng khác nhau như con người hằng nghe biết, mà là nói cùng một thứ tiếng không bằng “lời”, mà bằng “lẽ” hoặc còn gọi là “lý lẽ” khiến mọi người phải nghe theo.

Tuy nhiên, “tiếng nói” của lương tâm có là và vẫn là quy-tắc khiến con người phải nghe theo, như luật lệ hay không? Đó chính là vấn-đề được nhiều người đặt ra cho chính mình và cho người khác nữa.

Vấn-đề này, từng được một độc-giả của tờ The Catholic Weekley ở Sydney hỏi ý-kiến, với những lời sau đây:

“Thưa Cha,    

Hôm nay con có hai chuyện muốn hỏi cha về tiếng nói của lương tâm. Thứ nhất, là: ta có phạm tội gì không, nếu không làm theo tiếng nói lương-tâm bảo ta phải làm thế chứ? Thứ hai nữa là: ta có buộc phải tuân theo tiếng nói của lương tâm, khi lương-tâm của ta bị sai sót, không?” (Lại một lá thư không chữ ký)     

 Dù có chữ ký bên dưới câu hỏi hay không, đấng bậc nhà Đạo chuyên giải đáp các thắc mắc trên Báo Đạo ở Sydney vẫn đáp-trả bằng những lời như sau:

“Phải nói ngay đây rằng: anh/chị vừa đưa ra câu hỏi xác-đáng, nên cần phải hiểu rõ câu trả lời bên dưới mới được.

 Trước nhất, ta có biết lương-tâm của ta hoạt-động thế nào, không? Thật ra, ta hay có khuynh-hướng nghĩ rằng lương-tâm luôn chỉ cách cho ta phải làm gì và không được phép làm điều gì. Chẳng hạn như, nó dạy ta hãy ngồi dậy và ra khỏi giường, bởi đã đến giờ thức dậy đi nhà thờ tham-dự thánh-lễ với mọi người, ngày của Chúa, vv…

 Và, lương-tâm cũng khuyên ta đừng nên làm điều gì; không nên xem chương-trình truyền-hình đặc-biệt nào đó; hoặc không nên tiếp cận trang chủ hoặc địa-chỉ nào trên mạng; bởi chúng sẽ đưa ta vào tình-trang phạm lỗi. Lương-tâm cũng khuyên ta chớ có nói dối, không được lưu-manh, ăn cắp/ăn trộm tài-sản của người khác, vv… Trong mọi trường-hợp, lương-tâm đều ra lệnh hoặc cấm-đoán ta không được làm điều nào đó.

 Đôi lúc, lương-tâm chỉ cho phép hoặc đề-nghị ta làm điều gì đó nhưng không áp-đặt ràng buộc nào cả. Chẳng hạn, có thể nó cũng cho phép ta xem chương-trình truyền-hình này/họ hoặc xem báo nào đó, đài số mấy, nên ăn thứ này, không nên nhúng môi chạm miệng thứ kia, món nọ, vv…

 Trở về lại câu hỏi của anh/chị thật ra cũng có trường hợp này khác trong đó ta cũng có thể phạm tội nếu không nghe theo tiếng nói của lương-tâm. Đây là trường-hợp khi lương-tâm của ta tỏ ra chắc chắn để khuyên bảo hoặc cấm đoán ta có hành-động nào đó.

 Như ta đã thấy, không phải lúc nào lương-tâm cũng ra lệnh hoặc cấm-đoán ta  hành-động, nhưng khi cần, ta buộc phải nghe theo nó, bằng không ta sẽ vi phạm lỗi/tội. Lý-do của nó đơn giản là ngang qua các xét-đoán của lương-tâm, ta biết được chất-lượng đạo-đức nơi hành-động của ta. Khi ta biết được rằng một số hành-động phải thực hiện hoặc không nên thực-hiện, ta hiểu rằng đó là điều Thiên-Chúa muốn ta làm hoặc không làm việc đó; và/hoặc đi ngược lại luật lệ Ngài ban mà phạm lỗi…

 Khi lương-tâm có điều gì nghi-ngờ, ta thường do dự và không nắm chắc sự việc. Trong trường-hợp đó, lương-tâm của ta sẽ thực-sự báo cho ta biết được mà giải-quyết mối nghi-nan bằng cách tìm đến cố-vấn hoặc tìm sách theo dõi vấn đề hoặc mở sách Giáo-lý ra mà tìm-hiểu, vv…Ta phải làm như thế mỗi khi thấy có nghi-nan, ngờ-vực kẻo làm mất lòng Chúa trong những chuyện quan-trọng tạo nguy-hại cho việc cứu rỗi, hoặc ít ra kéo dài ngày hơn trong chốn luyện tội….

 Thành thử, ta cũng nên để lòng lắng nghe tiếng nói của lương-tâm, đặc-biệt khi nó ra lệnh hoặc cấm cản ta có hành-động nào đó, cả vào khi nó chỉ mỗi đề-nghị hoặc khuyên ta làm điều gì đó nhỏ bé, thôi…” (X. Lm John Flader, Consciensce: the voice we should always listen to and heed, The Catholic Weekly 12/2/2017 tr. 20)

Lương tâm hoạt-động trong cuộc sống của mỗi người. Đó là điều mọi người đều biết rõ, không cần phải chứng minh. Nếu có, cũng chỉ cần minh-chứng bằng những truyện kể ở đời thấy được trong cuộc sống. Và, đây là một trong những câu truyện đại-để giống như thế, cũng rất cần. Vậy thì, mời bạn và mời tôi, ta đi vào vùng trời truyện kể để quan-sát sẽ thấy vai trò của lương-tâm ẩn-tàng ở trong đó.

“Truyện rằng:
Nhiều khi chúng ta sống mà quên bẵng đi là mình có thể chết bất cứ lúc nào. Ta hối hả sống, vui, buồn, khỏe, yếu, ta cứ lướt qua rồi không ngoái đầu lại nhìn chuỗi ngày tháng ta đã tiêu hao của một đời người.

 Cho đến khi có một người bạn vừa ngã bệnh, bệnh nặng, không biết sẽ mất đi lúc nào, lúc đó ta mới xa, gần, hốt hoảng gọi nhau. Tưởng như chưa từng có người bạn nào “Chết” bao giờ. Hay ta có một người thân trong gia đình, đang rất khỏe vừa báo tin bị bệnh hiểm nghèo. Gia đình, họ hàng cuống lên, sợ hãi như chưa nghe đến ai nói về cái chết bao giờ, chưa chứng kiến cảnh vào bệnh viện, cảnh tang ma bao giờ.

 Cả hai người trên có thể đã ngoài 70 tuổi. Lạ thật! Cái tuổi nếu có chết thì cũng đã sống khá lâu trên đời rồi, sao những người chung quanh còn hoảng hốt thế. Hóa ra người ta, không ai muốn nghe đến chữ “Chết” dù chữ đó đến với mình hay với người thân của mình.

 Hình như không ai để ý đến mỗi sáng chúng ta thức dậy, nhìn thấy mặt trời mọc (nếu còn để ý đến mặt trời mọc) là chúng ta đã tiêu dùng cái ngày hôm qua của đời sống mình. Có người vì công việc làm ăn, cả tuần mới có thời giờ ngửng mặt nhìn lên mặt trời.

 Buổi sáng còn tối đất đã hấp tấp ra đi, buổi chiều vội vã trở về lúc thành phố đã lên đèn, làm gì nhìn thấy mặt trời. Nhưng mặt trời vẫn nhìn thấy họ, vẫn đếm mỗi ngày trong đời họ. Họ tiêu mất cái vốn thời gian của mình lúc nào không biết. Tiêu dần dần vào cái vốn Trời cho mà đâu có hay.

 Rồi một hôm nào đó bỗng nhìn kỹ trong gương, thấy mình trắng tóc. Hốt hoảng, tiếc thời gian quá! Khi nghe tin những người bạn bằng tuổi mình, bệnh tật đến, từ từ theo nhau rơi xuống nhanh như mặt trời rơi xuống nước, họ vừa thương tiếc bạn vừa nghĩ đến phiên mình.

 Thật ra, nếu chúng ta bình tâm nghĩ lại một chút, sẽ thấy “Cái chết” nó cũng đến tự nhiên như “Cái sống” . Đơn giản, mình phải hiểu giữa sống và chết là một sự liên hệ mật thiết, vì lúc nào cái chết cũng đi song song từng ngày với cái sống.

 Dẫu biết rằng, đôi khi có những cái chết đến quá sớm, nhưng ta cũng đâu có quyền từ khước chết.

Tôi biết có người mẹ trẻ, con của bạn thân tôi. Chị bị ung thư, chị cầu xin Thượng Đế cho sống đến khi đứa con duy nhất của mình vào Đại Học. Chị không cưỡng lại cái chết, chị chỉ mặc cả với Thượng Đế về thời gian vì con chị lúc đó mới lên 3 tuổi. Thượng Đế đã nhận lời chị. Ngày con chị tốt nghiệp Trung Học, chị ngồi xe lăn đi dự lễ ra trường của con và tuần lễ sau chị qua đời. Trong suốt mười mấy năm trị bệnh, chị vẫn làm đủ mọi việc: chị đội tóc giả đi làm, đến sở đều đặn, lấy ngày nghỉ hè và ngày nghỉ bệnh đi trị liệu.

 Những bạn làm chung không ai biết chị bị ung thư, ngay cả xếp của chị. Khi họ biết ra, thì là lúc chị không đứng được trên đôi chân mình nữa. Chị sửa soạn từng ngày cho cái chết với nụ cười trên môi. Vẫn vừa đi làm, vừa cơm nước cho chồng con, ân cần săn sóc cha mẹ, hiền hòa giúp đỡ anh em trong nhà, chị mang niềm tin đến cho tất cả những người thân yêu của mình. Sau ba năm chị mất, cậu con trai mỗi năm vẫn nhận được một tấm thiệp sinh nhật mẹ viết cho mình (Mẹ đã nhờ qua người dì gửi hộ). 

Hôm sinh nhật 21 tuổi của cậu cũng vào ngày giỗ năm thứ ba của Mẹ, cậu nhận được tấm thiệp mừng sinh nhật mình, với dòng chữ nguệch ngoạc, chị viết cho con: Mừng sinh nhật thứ 21 của con. Hãy bước vui trong đời sống và nhớ rằng mẹ luôn luôn bên cạnh con. Tôi đọc những dòng chữ mà ứa nước mắt.

 Tôi nghĩ đến chị với tất cả lòng cảm phục. Chị là người biết sống trong nỗi chết. Khi không thắng được bệnh tật, chị biết hòa giải với nó để sống chậm lại với nó từng ngày cho con mình. Chắc “Cái chết” cũng nhân nhượng với chị, thông cảm với chị như một người bạn.

 Một chị bạn kể cho nghe về một bà bạn khác. Bà này mới ngoài sáu mươi, nhanh nhẹn, khỏe mạnh và tính nết vui vẻ, yêu đời. Nhưng khi nào đi ra khỏi nhà bà cũng mang theo một bộ quần áo đặc biệt, đủ cả giầy vớ bỏ vào một cái túi nhỏ riêng trong va-li. Hỏi bà, sao lại để bộ này ra riêng một gói vậy, bà thản nhiên nói:“Nếu tôi chết bất thình lình ở đâu, tôi có sẵn quần áo liệm, không phiền đến ai phải lo cho mình.”

 Bà mang theo như thế lâu lắm rồi, tôi không biết có khi nào bà ngắm nghía mãi, thấy chưa dùng tới, bà lại đổi một bộ mới khác cho ưng ý không? Giống như người phụ nữ sắp đi dự tiệc hay cầm lên, để xuống, thay đổi áo quần sao cho đẹp. Đi vào cái chết cũng có thể coi như đi dự một đám tiệc.

 Tôi nghĩ đây là một người khôn ngoan, sẵn sàng cho cái chết mà bà biết nó sẽ đến bất cứ lúc nào. Bà đón nhận cái chết tự nhiên, giản dị như đi dự tiệc, hay một chuyến đi xa, đi gần, nào đó của mình.

 Nhưng không phải ai cũng nghĩ về cái chết giản dị như vậy. Phần đông muốn được sống lâu, nên bao giờ gặp nhau cũng thích chúc cho nhau tuổi thọ. Thích hỏi nhau ăn gì, uống gì cho trẻ trung mãi. Loài người nói chung, càng ngày càng thích sống hơn chết. Họ tìm kiếm đủ mọi phương thuốc để kéo dài tuổi thọ. Người ta ức đoán, trong một tương lai rất gần, loài người có thể sống đến 120 tuổi dễ dàng với những môn thuốc ngăn ngừa bệnh tật và bồi dưỡng sức khỏe.

 Rồi người ta sẽ còn tạo ra những bộ phận mới của nội tạng để thay thế cho những bộ phận gốc bị nhiễm bệnh. Gan, ruột, bao tử v.v, sẽ được thay như ta thay những phần máy móc của một cái xe cũ. Chúng ta, rồi sẽ sống chen chúc nhau trên mặt đất này.

 Chỉ tiếc một điều là song song với việc khám phá ra thuốc trường thọ người ta cũng phải phát minh ra những người máy (robot) để chăm sóc những người già này, vì con cháu quá bận (chắc đang chúi đầu tìm thuốc trường sinh) không ai có thời giờ chăm sóc cha mẹ già. Theo tôi, ngắm nhìn hình ảnh một cụ ông hay một cụ bà lưng còng, tóc bạc, đang cô đơn ngồi trong một căn buồng trống vắng, được một người máy đút cơm vào miệng, thật khó mà cảm động, đôi khi còn cho ta cái cảm giác tủi thân nữa.

 Nhưng sống như vậy mà có người vẫn thích sống. Một người đàn ông ngoài bẩy mươi, bị bệnh tim nặng, đang nằm trong phòng đặc biệt (ICU) lúc mơ màng tỉnh dậy, nhắn với các con cháu là khi nào vào thăm không ai được mặc áo mầu đen. Ông kiêng cữ mầu của thần chết. Ông quên rằng thần chết, đôi khi, có thể đến với chiếc áo mầu hồng. Thật ra, chính nhờ “cái chết” cho ta nhận biết là “cái sống” đẹp hơn và có giá trị hơn, dù có người sống rất cơ cực vẫn thấy cuộc đời là đẹp.

 Những bậc thiên tài, những nhà văn lớn đã tự tìm về cái chết khi họ bắt đầu nhìn thấy cái vô vị trong đời sống như nhà văn Ernest Hemingway, Yasunari Kawabata và họa sĩ Vincent van Gogh, v.v… Chắc họ không muốn sống vì thấy mình không còn khả năng hưởng hết vẻ đẹp của “cái sống” nữa. Họ là một vài người trong số nhỏ trên mặt đất này sau khi chết để lại tên tuổi trên những trang sử, lưu lại hậu thế, còn phần đông nhân loại, sau khi chết một thời gian, không để lại một di tích nào. Con cháu có thờ cúng được một hai thế hệ, sau đó tên tuổi mờ dần, mất hẳn theo ngày tháng, vì chính những kẻ thờ phụng đó lại tiếp theo nằm xuống cùng cát bụi.

 Ðời sống con người chóng qua như cỏ, như bông hoa nở trong cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích.(Thánh Vịnh)

 Thượng Đế khi đem mình vào đời, có hỏi ý kiến mình đâu. Nên chắc chắn là khi Ngài gọi mình đi cũng chẳng cần thông báo trước.

 Chúng ta cứ thong thả sống từng ngày, khi nào chết thì chết, mặt trời mọc rồi mặt trời lặn, bông hoa nở rồi bông hoa tàn, thế thôi.

 Tại sao ta phải cay cú với cái chết? Hãy dùng trí tưởng tượng của mình, thử hình dung ra một thế giới không có cái chết.

 Chắc lúc đó chúng ta sẽ không còn không khí mà thở chứ đừng nghĩ đến có một phiến đất cho bàn chân đứng.” (Truyện kể trích từ điện thư do bạn bè gửi cũng đã lâu)

Sống mà quên bẵng không lý gì đến lương tâm con người, còn là sống bê tha, cẩu thả, không mục đích. Sống như thế, cũng giống như là không sống.Hay còn gọi là sống dở chết dở, nửa đời người. Sống cho ra sống, đúng như tiếng nói lương tâm hằng kêu gọi, chính là cuộc sống lý-tưởng của mỗi người và mọi người.

Đó lại cũng là tâm-tình rất sống-động hôm nay và mọi ngày, ở mọi nơi. Trong đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Còn đó những lý-tưởng

Của đời người

Nằm mãi ở lương tâm.

NƠI CHÂN TRỜI VÀ MẶT ĐẤT GIAO NHAU

 NƠI CHÂN TRỜI VÀ MẶT ĐẤT GIAO NHAU

Có hai nhà đạo sĩ kia, một hôm đọc thấy trong một cuốn sách khảo cổ cho biết: có một nơi chân trời và mặt đất giao nhau.  Hai nhà đạo sĩ bèn quyết định lên đường đi tìm cho được nơi chân trời và mặt đất giao nhau như trong sách đã cho biết.  Hai ông còn thề nguyền sẽ không trở về bao lâu chưa tìm được nơi trời đất giao nhau đó.  Bởi vì hai ông được biết ở nơi đó sẽ có một cánh cửa mở ra chân trời.  Khi cửa mở ra, người ta sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.

Sau một cuộc hành trình lâu dài và gian khổ, hai nhà đạo sĩ đã tìm được nơi chân trời và mặt đất giao nhau.  Hai ông cũng đã mở được cánh cửa trời…  Nhưng đến lúc bước vào cửa trời, hai ông hết sức bỡ ngỡ, vì hai ông gặp lại chính căn phòng quen thuộc của mình…  Lúc ấy hai ông mới hiểu: con đường lên trời bắt đầu từ mặt đất này, trong đời thường, nơi mình đang sống hằng ngày.

Anh chị em thân mến, đường lên trời bắt đầu từ mặt đất này, nơi “Trời Mới Đất Mới” sẽ xuất hiện trong ngày Chúa chúng ta “trở lại cũng một cách y như Ngài đã lên trời.”  Chúa lên trời không có nghĩa là Ngài ra đi.  Bởi vì ra đi là để lại sự vắng mặt.  Đàng này, Chúa không để chúng ta đơn độc, Ngài còn “ở lại với chúng ta mãi cho đến tận thế.”

Chúa lên trời là Chúa “khuất dạng”, không còn hiện diện bằng xương bằng thịt trước mắt chúng ta nữa, để bắt đầu một sự hiện diện ẩn khuất, nghĩa là Chúa vẫn có mặt đó mà chúng ta không thấy được.  Ngài vẫn ở giữa chúng ta, trong những nơi mà Ngài đã dạy chúng ta biết để nhận ra Ngài: trong Lời Chúa, trong các bí tích, trong anh chị em, trong những người nghèo khổ…  Ngài không chỉ hiện diện mà còn ở, còn cư ngụ.  Một chỗ ở có ý nghĩa sâu sắc hơn một sự hiện diện: Người ta có thể hiện diện trên đường phố, còn ở thì chỉ ở trong nhà mà thôi.  Thiên Chúa chỉ muốn có một chỗ ở, một ngôi nhà riêng của Ngài và ngôi nhà đó là chính chúng ta: “Ngài ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”, Ngài ở với chúng ta như ở trong ngôi nhà của Ngài.

Khi nói “Chúa lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” hay khi cầu nguyện: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, chúng ta đừng tưởng Chúa ở xa cách chúng ta.  Ngài ở trên các tầng mây xanh.  Không!  Nếu đóng khung Chúa ở trên trời là chúng ta bắt Ngài phải di tản.  Chúng ta đánh mất Ngài!  Nhưng qua kiểu nói tượng hình của Kinh Thánh, chúng ta hãy hiểu việc Chúa lên trời là một cuộc thăng quan tiến chức, được thêm uy quyền, hiệu năng, và do đó được hiện diện một cách sâu đậm, thắm thiết hơn, chứ không phải một cuộc thăng thiên xét theo không gian, khiến Ngài xa lìa thế giới chúng ta.

Vì vậy, thiên sứ phải lay tỉnh các môn đệ đang mải mê nhìn lên trời: “Hỡi các ông, người Galilê, thôi đừng đứng đó mà nhìn lên trời nữa!”  Nhưng hãy đi mở mang Nước Chúa và sự hiện diện của Ngài bằng cách hoàn thành công trình đang dang dở của Ngài ở trần gian này: “Hãy đi đến với muôn dân, làm phép Rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.  Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em, để muôn dân trở nên môn đệ của Thầy.”  Đó, như thế Chúa lên trời là để khởi đầu sứ vụ của Giáo Hội: Các môn đệ phải ra đi làm chứng về sự sống lại của Chúa Giêsu, không phải chỉ ở Giêrusalem và nơi những người Do Thái mà thôi, mà còn ở khắp nơi, cho đến tận cùng trái đất và nơi tất cả dân tộc.

Anh chị em thân mến, từ ngày Chúa lên trời, sứ mạng của chúng ta là phải đi vào trần gian, trở về với thực tế, nhìn kỹ vào cuộc sống của nhân loại, của mọi người anh em trên mặt đất này, để cùng với mọi người ra sức xây dựng Nước Trời đang thành hình ngay trong trần thế này, giữa thế giới hôm nay, tùy theo mức độ chính thế giới này có thể hiện được tình thương, có phản ảnh được tình yêu vô biên của Thiên Chúa hay không.  Đúng theo tinh thần của Tin Mừng: Nước Trời không phải chỉ là chuyện đời sau, mà còn phải là thực tế hiện tại: như hạt cải trong thửa vườn, như men trong bột, như muối cho đời: “Nước Trời ở giữa anh em.”

Như thế, thưa anh chị em, Thiên Chúa không đóng đô ở riêng một chỗ nào trong không gian, trên các tầng trời.  Ngài ở bất cứ nơi nào có tình yêu thương.  Nếu cứ luyến tiếc nhìn lui lại quá khứ, hãy mải mê ngước mắt lên trời, chúng ta sẽ quên rằng Thiên Chúa đang ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.  Thiên Chúa đang hiện diện bất cứ nơi nào có tình yêu thương nhau, đùm bọc nhau, chia sẻ cho nhau.  Và chỗ nào có một cộng đoàn, một xã hội như vậy, lớn hay nhỏ, đang thành hình thì từ chỗ đó, Nước Trời đang bắt đầu hiện diện.

Trái lại, chỗ nào người ta còn giành giựt nhau, còn áp bức, khai thác, bóc lột nhau, còn coi nhau như thù nghịch, thì khỏi cần tìm địa ngục ở đâu xa hơn nữa: địa ngục đang bắt đầu từ chỗ đó.  Thiên đàng hay địa ngục, chúng ta đang bắt đầu xây dựng hay đào sâu ngay từ trong cuộc sống chúng ta hôm nay.

Vậy, ngày Chúa lên trời, thay vì chỉ mải mê nhìn lên trời, thụ động trông chờ ngày Chúa trở lại, chúng ta hãy nhìn xuống mặt đất, hãy cùng nhau góp sức xây dựng con đường lên trời ngay từ mặt đất này; vì chính từ mặt đất này mà “Trời Mới Đất Mới” sẽ xuất hiện trong ngày Chúa chúng ta “trở lại cũng một cách y như Ngài đã về trời.”

Công đồng Vaticanô II đã nói: “Vẫn biết rằng quê hương vĩnh cửu của chúng ta không phải ở trần gian này và chúng ta chỉ đi qua để về quê hương trên trời, nhưng thực là sai lầm, nếu vì đó mà nghĩ rằng mình có thể xao lãng nghĩa vụ của mình ở trần gian” (Mv 43,1b).  Vì thế, trông đợi “Trời Mới Đất Mới” không những không làm giảm bớt mà còn tăng thêm nơi chúng ta ý chí xây dựng trời đất hiện tại này.  Bởi vì xây dựng trời đất hiện tại là xây dựng “Trời Mới Đất Mới” (MV 39,2a), là xây dựng quê hương vĩnh cửu của chúng ta vậy.

Trích trong “Niềm Vui Chia Sẻ”

****************************** ********

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó.  Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người.  Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.  Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân chúng con tiến về bên Chúa.  Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.  Amen!

Langthangchieutim gởi

PHÉP LẠ TRÀNG CHUỖI MÂN CÔI .


PHÉP LẠ TRÀNG CHUỖI MÂN CÔI .

(Hãy lần hạt Mân Côi mỗi ngày, Bạn và tôi sẽ bình an và hạnh phúc)

Tình ưu ái đặc biệt Đức Mẹ MARIA dành cho Tràng Chuỗi Mân Côi được tất cả mọi tín hữu Công Giáo ghi nhận trải qua không biết bao nhiêu biến cố diệu kỳ xảy ra suốt dòng thời gian.

Xin giới thiệu một trong những biến cố này.
Biến cố diễn ra trong tháng 5 năm 1961. Ông Bellis là một tín hữu Công Giáo vô cùng đạo đức và là nhân viên sở hỏa xa làm việc nơi một trong những ga xe xửa nổi tiếng nhất nước Ý.
Ngày 15-5-1961 như thường lệ, ông lái xe lửa từ thủ đô Roma trực chỉ Milano ở miền Bắc nước Ý. Bỗng chốc – do sự lầm lẫn vô ý – ông trông thấy từ đàng xa một chiếc xe lửa khác đang ngược chiều chạy thẳng về hướng của mình. Chỉ còn vỏn vẹn vài phút nữa thôi và tất cả sẽ là tai nạn thảm khốc nhất xảy ra.
Ông bắt đầu hãm tốc độ với trọn sức lực, nhưng hai chiếc xe lửa cứ lao đầu vào nhau mỗi lúc một gần hơn. Thế là ông Bellis – với tâm tình của một tín hữu Công Giáo nhiệt thành nhất – liền cho tay vào túi rút ra Tràng Chuỗi Mân Côi và siết chặt trên ngực van xin khẩn nài Đức Trinh Nữ Rất Thánh Mân Côi ra tay cứu giúp, rồi ông nhắm chặt đôi mắt lại. Nhưng khi ông mở mắt ra thì tất cả xong xuôi hết rồi. Hai chiếc xe lửa ngừng lại đối đầu nhau trong một khoảng cách chỉ vỏn vẹn gần một thước.
Tất cả mọi hành khách trên cả hai chiếc xe lửa vội vàng nhào xuống reo hò mừng rỡ trước một sự kiện quá lạ lùng. Họ đồng thanh kêu lên:
– Đúng là Phép Lạ!
Trong khi đó ông Bellis, với quả tim đập liên hồi và khuôn mặt trắng nhợt vì cảm động, tìm kiếm Tràng Chuỗi Mân Côi vì không còn trông thấy nó nữa. Không hiểu nó rơi mất nơi đâu. Ông vô cùng ngạc nhiên bởi lẽ trước đó ông còn nắm chặt Tràng Chuỗi Mân Côi trong tay đặt trên ngực rõ ràng mà! Vậy thì nó biến mất nơi đâu???
Đang đưa mắt đảo quanh tìm kiếm Tràng Chuỗi Mân Côi thì một bé trai lôi kéo sự chú ý của ông cũng như của tất cả các hành khách khác. Mọi người vẫn còn trầm trồ chiêm ngưỡng khoảng cách thật gần của hai chiếc xe lửa thì nghe cậu bé reo lên:
– Hãy đến mà xem! Hãy đến mà xem! Hãy nhìn kỹ có vật gì đó nằm giữa hai đầu chiếc xe lửa kìa!
Cậu bé la to như thế. Mọi người nhốn nháo đặt câu hỏi:
– Vật gì thế?
Thì ra trên đường rầy nằm giữa đầu hai chiếc xe lửa là Tràng Chuỗi Mân Côi của ông Bellis. Mọi người ngỡ ngàng kinh ngạc hỏi nhau:
– Làm thế nào mà Tràng Chuỗi Mân Côi lại rơi ngay chính giữa hai chiếc xe lửa như thế này???
Trước một phép lạ tỏ tường như thế tất cả mọi người đều hiểu rõ đây là cử chỉ ưu ái cách riêng Đức Trinh Nữ Rất Thánh Mân Côi dành để cứu sống người con dấu yêu và cùng với ông, cứu sống tất cả các hành khách của cả hai chiếc xe lửa.

Câu chuyện thứ hai mang nét đẹp dịu hiền khác. Trong niên sử của Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU (1873-1897) người ta đọc thấy câu chuyện sau đây.
Vào năm 1911 một mục sư tin lành người Tô-cách-lan sau khi đọc cuốn ”Truyện Một Tâm Hồn” của Thánh nữ Têrêxa liền đem lòng mộ mến vị Thánh trẻ tuổi và thường kêu xin Thánh nữ trợ giúp. Tuy nhiên, một hôm Thánh nữ Têrêxa hiện ra và nói:
– Sao Mục sư cứ xin tôi cầu nguyện cho Mục sư mà lại không muốn biết đến và khẩn cầu cùng Đức Mẹ MARIA???
Vị mục sư Tin Lành thông minh hiểu ngay rằng thật là chuyện vô lý khi khẩn cầu cùng vị thánh trẻ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU mà lại lơ-là lòng sùng kính Đức MARIA, Mẹ THIÊN CHÚA.
Kể từ ngày ấy, vị Mục sư luôn luôn thân thưa cùng Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA và cảm nghiệm trong tâm hồn tràn ngập một Tình Yêu dịu hiền khôn tả xiết. Tình Yêu mỗi ngày một lớn mãi cho đến một ngày vị Mục sư quyết định gia nhập Giáo Hội Công Giáo thánh thiện duy nhất tông truyền và trở thành vị đại tông đồ rao giảng lòng sùng kính Đức Mẹ MARIA, Hiền Mẫu Thiên quốc.

(”La Mia Messa”, volume II, 1 Aprile – 30 Giugno 2014, Anno VIII/A, Casa Mariana Editrice, trang 337-338/298)

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

“Trông thấy ta, cả cõi đời kinh hãi”

Suy Tư Tin Mừng Chúa nhật thứ 6 Phục Sinh 21/5/2017

 Tin Mừng (Ga 14: 15-21)

Hôm ấy, Đức Giêsu nói với các môn-đệ rằng: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.18 Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em. Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống. Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em.21Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.”

“Trông thấy ta, cả cõi đời kinh hãi”

“Dòng sông con, nép cạnh núi biên thuỳ”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mai Tá lược dịch.

Trông thấy ai, mà kinh hãi cả cõi đời? Đời cô đơn, thi sĩ nép cạnh núi biên thùy, tựa giòng sông. Vốn hy vọng, nhà Đạo chẳng kinh hãi với âu lo. Bởi, Thầy Chí Thánh đã uỷ lạo, tạo niềm tin, nơi mọi người.

Niềm tin, thánh Gioan diễn tả ở trình thuật hôm nay, là tình tự thân yêu Chúa dặn dò, trước ngày Ngài về với Cha. Tình tự Ngài để lại, là chúc thư cuối về sự sống còn của dân con đạo Chúa. Chúc thư tuy hơi lạ, nhưng là lời khuyên dân con tuân giữ mọi qui định Ngài từng phán quyết. Phán và quyết, một giới lệnh rất mới, nếu áp dụng triệt để, người người sẽ sống rất hạnh phúc. Chúc thư Thầy để lại, còn là lời nhắn nhủ giản đơn Thầy cương quyết: “Hãy yêu thương nhau”. 

Hãy yêu thương nhau, là câu nói người người đều nghe biết. Nhưng thường thì, không phải tất cả mọi người đều hiểu rõ ý nghĩa Lời Ngài muốn căn dặn. Bởi, ý nghĩa ấy không chỉ bao gồm mỗi một việc, là: hãy đối xử tử tế với mọi người. Nhưng còn hơn thế nữa. Hơn, là bởi: có như thế người người mới thủ đắc nhiều điều lợi của xã hội. 

Hãy yêu thương nhau, không chỉ thực hiện với nhóm/phái của mình, thôi. Bởi nhóm/phái, đoàn thể thường vẫn chỉ khép kín trong vòng khoanh bé nhỏ, của chính mình tuyệt nhiên không để lọt ra ngoài, nên người ngoài cuộc luôn bị coi là người xa lạ. Muốn gia nhập nhóm/phái, tuyệt đối phải đăng ký/ghi danh, mới được vào. Vào được rồi, kể như mình đã nắm chắc là người đồng đội sẽ yêu thương giùm giúp rất tích cực. Kẻ ở ngoài, vẫn bị coi là người ngoại cuộc chuyên gây phiền toái.

Khi Chúa bảo: Hãy yêu thương nhau, là Ngài có ý khuyên: “hãy yêu thương hết mọi ngườiKhông chỉ mỗi người cùng phe, cùng nhóm với mình, thôi. Mà, cả người những ở ngoài, như: đám Pharisêu, Ký sự, đám người La Mã, lẫn cả thượng tế, đám đông quần chúng, bất cứ ai. Yêu hết mọi người, là yêu toàn thể chúng sinh, nhân loại. Bởi thế nên, khi Ngài sai phái các thánh ra đi là để các thánh đi đến với mọi người, bằng sứ vụ mới. Sứ vụ, biến mọi người không còn là người dưng khách lạ, hoặc ngoại cuộc nữa.

Điều đó còn có nghĩa: Hội thánh, cho đến nay, vẫn chưa thực hiện đúng mức sứ vụ Chúa ban hành. Đôi khi chính mình còn đi ngược lời dạy cùng bảo ban của Chúa, nữa. Đi ngược, là bởi quá gắn chặt với tinh thần phe/nhóm của giáo hội riêng mình. Ví dụ cụ thể thấy rõ nơi Giáo Hội Công giáo Úc lâu nay vẫn thủ thế, suốt ba bốn thập niên qua.

Vì thủ thế, nên Giáo hội ở đây chưa thực hiện đủ lời Chúa dạy bảo khi phải đối xử tử tế với những người mới tới từ các nơi. Chí ít, là những người ngoài Đạo. Vì thế nên, lời Chúa hôm nay đích thị gửi đến Hội thánh Công giáo nơi đây phải ra đi thực hiện lời khuyên “yêu thương hết mọi người” cả những người dưng khác Đạo, vừa mới tới.

Lễ Chúa Thăng Thiên ở Úc, thường được tổ chức rất trùng hợp với ngày “Nhớ Ơn Mẹ”. Tức, một ngày có lời khuyên, rất tương tự. Lời khuyên rất lành và rất thánh: “Hãy yêu thương” Mẹ thánh Giáo hội và cung kính Đức Maria, Mẹ Hiền của Thiên Chúa. Mẹ rất Hiền, vì Mẹ là mẹ đích thực, vẫn nối kết/duy trì mọi thành viên trong gia đình. Thôi thúc mọi người hãy đến với nhau trong yêu thương. Mẹ, là trung tâm của gia đình. Là, người luôn đem đến với gia đình, bầu khí yêu thương, liên kết. Yêu thương, để mọi người sẽ đến với nhau mà giùm giúp, đỡ đần, trong mọi lúc.

Mẹ là Mẹ Thánh rất hiền, vì là Từ Mẫu của Chúa, Mẹ còn làm nhiều điều hơn thế. Mẹ hiền ở nhà cũng làm thế. Bà đem tình người mẹ trong gia đình đến với người ngoài cuộc, tức: những người cần tình thương hơn ai hết. Thấy ai cần tình thương, mẹ hiền ở nhà chẳng bao giờ bỏ qua, hoặc nề hà điều chi. Mẹ hiền ở đời, vẫn từ tâm với mọi người. Không chỉ người trong nhà mình, mà thôi.

Trái lại, mẹ hiền vẫn từ tốn, nhẫn nại và bươn chải không chỉ lo cho gia đình mình thôi, mà mẹ còn đến với người chòm xóm kẻ khốn khó, ốm đau ở đâu đó, tức những người cần tình thương. Nhiều khi, chỉ một ngụm trà ấm nóng. Có lúc, chỉ một đường chổi nhẹ để dọn dẹp tiếp đón người dưng khách lạ, cần đón tiếp.

Rất thường tình, mẹ cũng đóng góp vài đồng giúp đỡ kẻ túng bấn, những người nghèo khổ. Có khi, chỉ cần để mắt ngó chừng đàn trẻ xa quê, vắng bóng mẹ mình. Có thể nói, mẹ hiền ở nhà là người thực thi lời Chúa, rất yêu thương. Bởi, mẹ là người không chỉ biết thương yêu mỗi con mình thôi, mà cả người dưng khách lạ nữa.

Trên thực tế, phụ nữ là những người luôn quên mình đi, để có thể yêu thương giúp đỡ hết mọi người, bất kể ai.Các bà, là những người thường xuyên có mặt ở nhà thờ, vào mọi lễ. Các bà còn yêu thương hội thánh đến độ không ngại phê bình tính bè phái, rẽ chia của hội thánh mình, ở địa phương. Các bà vẫn muốn Hội thánh ra đi mà tỏ bày tình thương yêu với những ai cần đến Chúa, đến tình thương của Ngài. Các bà vẫn chứng tỏ cho hội thánh mình biết cách tuân phục lời Chúa dạy, hôm nay. Chứng tỏ, bằng gương thương yêu giúp đỡ. Tỏ bày, bằng cung cách nhẹ nhàng/thuỳ mị nhưng đạt hiệu quả hơn nam giới.

Trong lễ hôn phối, có lời cầu Chúa chúc phúc cho đôi tân hôn bằng những lời lẽ thiết thực dành cho các bà mẹ tương lại, rất ý nghĩa:

 “Lạy Cha là Thiên Chúa, Đấng gìn giữ anh/chị trong tình thương yêu tỏ bày cùng nhau để bình an của Đức Kitô sẽ ở mãi với anh/chị hiện diện ngay tại nơi ăn chốn ở của anh/chị. Xin cho con cái của anh/chị chúc phúc anh chị. Cho bạn bè ủi an anh/chị và mọi người sống yên vui hiền hoà với anh/chị. Xin Chúa cho cho anh chị luôn trở thành chứng nhân cho tình yêu của Ngài đến với thế gian, để những người buồn phiền nhận ra được anh/chị là những người bạn rất ngoan hiền, đại độ. Và tất cả sẽ đón chào anh/chị vào với niềm vui của Nước Trời.”

Tham dự Tiệc Lòng Mến hôm nay, cầu mong sao giới lệnh của Chúa sẽ là niềm chúc phúc gửi đến mọi người trong nhà, và hội thánh. Cầu và mong, cho toàn thể dân con Hội thánh biết noi gương các Bà Mẹ được vinh danh trong ngày “Nhớ Ơn Mẹ” năm nay, sẽ thực hiện chúc thư yêu thương với mỗi người và mọi người trong/ngoài Hội thánh.

Trong tâm tình ấy, tưởng cũng nên ngâm tiếp lời thơ vương vấn một nhắc nhở:

“Ôi ngơ ngác, một lũ người vong bản,

Mất tinh thần, từ những thuở xa xôi!

Ta về đây, lạ hết các ngươi rồi,

Lạ tình cảm, lạ đời chung cách sống.”

(Đinh Hùng – Bài Ca Man Rợ)

Gọi đó là “Bài Ca Man Rợ”, phải chăng nhà thơ muốn ám chỉ cung cách của người từng nghe biết lời khuyên yêu thương, nhưng vẫn dửng dưng như kẻ mất gốc, rất vong bản? Mất, cả bản gốc yêu thương của người con. Mất, cả tình mặn nồng, chung sống nơi nhà của Chúa của chính mình.

 Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –

Mai Tá lược dịch.

Tôi hay nhớ về quê nhà vào buổi chiều.

httpv://www.youtube.com/watch?v=zyVMjRpJdgs

Video : Khóc Một Dòng Sông – Ngọc Lan

Chuyện Phiếm Đọc Trong Tuần thứ 6 Phục Sinh năm A 21/5/2017

“Tôi hay nhớ về quê nhà vào buổi chiều.” 
“Nhất là những buổi chiều mưa rơi.
Cũng may Cali trời mưa ít không như Sài Gòn
Nếu không tôi đã khóc một giòng sông.”

(Đức Huy – Khóc Một Giòng Sông)

(Luca 24: 25-26)

Khóc gì không khóc, sao anh lại cứ “khóc một giòng sông”? Nhất thứ, là khi anh lại khóc khi hát câu ca “Tôi hay nhớ về quê nhà vào buổi chiều”. Thế đấy là văn-chương thi-tứ, rất âm-nhạc. Còn đây là văn-hoá riêng tây của Đạo cũng có nhớ, có gào, nhưng không khóc. Khóc sao được, khi tôi và bạn những nhớ nhiều về một buổi chiều Đức Chúa của mình đã “trỗi dậy từ cõi chết”, mà người người có thói quen gọi là “Sống lại”.

Còn nhớ, có đấng bậc nọ khi giảng về sự “trỗi dậy” của Lazarô bạn-hiền của Đức Chúa, có bảo rằng: “Lazarô dù đã “sống lại” vào ngày hôm ấy, nhưng anh cũng chỉ sống thêm được ít năm, sau đó cũng chết tốt!”  

Thế thì, “sống lại” hay “trỗi dậy” cụm-từ nào đúng, tự vựng nào lại không đúng, nhưng vẫn cứ dùng. Một lần nữa, khi đặt bút hoặc gõ máy những giòng chữ như trên, bần đạo bầy tôi đây chả dám tranh-luận văn-chương hay nghệ-thuật sử-dụng từ-vựng đúng hay sai, nhưng chỉ muốn nói/muốn bàn về âm-hưởng một buổi chiều vàng có nhiều nỗi nhớ, cũng rất thương.

Nỗi nhớ của bần đạo, hôm nay, không phải về những buổi chiều mưa nhiều/ít ở Sài gòn hay Cali, rồi lại khóc. Nhưng, nhớ nhung/nhung nhớ hôm nay lại nhớ rất nhiều về “một buổi chiều” Đức Chúa của mình từng “Phục sinh” hay “trỗi dậy” một lần là mãi mãi. Nhớ nhung/nhung nhớ của bần đạo, nhân một buổi chiều nghe người nghệ sĩ hát cho mình nghe ca khúc có nỗi xót xa, ở bên dưới:         

“Không chi xót xa cho bằng thân phận người
Xa nhà sống một mình đơn côi.
Cũng may thời gian qua vun vút không như Sài Gòn
Nếu không tôi đã khóc một giòng sông.
Khóc một giòng sông, tôi đã khóc một giòng sông.
Một giòng sông dài, nhớ cha, nhớ mẹ.
Nhớ anh, nhớ chị.
Khóc một giòng sông, tôi đã khóc một giòng sông.
Một giòng sông dài, những chiều mưa tôi khóc.
Khóc một giòng sông.

(Đức Huy – bđd)

Đấy thấy không? Nghệ sĩ nhà mình chưa kịp hát đã muốn khóc rồi. Khóc thật nhiều, để rồi lại sẽ xót xa thân phận người phàm những là “xa nhà sống một mình đơn côi…”

 Thế còn, nhà Đạo mình mỗi lần nhớ về lễ hội Phục Sinh, Đức Chúa của mình đã “trỗi dậy từ cõi chết”, thì tôi và bạn lại đã nhớ gì? Có nhớ tập tục mà người xưa ở chốn trời “Tây Phương cực lạc” ấy đã mừng kính cũng rất mực, rồi đưa vào văn-hoá Đạo Chúa để rồi trở thành Lễ-Hội Phục Sinh chăng? Nếu không, xin đề-nghị bạn và tôi, ta thử để mắt cứu-xét mục hỏi/đáp trên tờ Tuần Báo Sydney có những lời lẽ rất như sau:

“Thưa Cha, Tôi nhớ có đọc ở đâu đó có nói rằng: cụm-từ “Phục Sinh” có gốc nguồn sử-dụng từ dân ngoại. Điều có có thật không, xin cha cho biết để con đây khỏi tranh-luận, đỡ mất lòng”.

 Vâng. Cha cố nào cũng thế. Hễ nghe đàn con ít đọc sách sử, chí ít là Giáo-sử, cũng sẽ nhanh chân đáp trả ngay kẻo con cái nhà Đạo mình thua cuộc trong cãi cọ, cũng không tốt. Và, câu trả lời của đấng bậc vị vọng, chắc chắn như thế này:

“Trước khi tìm hiểu nguồn-gốc phát-sinh ra cụm-từ “Phục Sinh”, ta cũng nên tự nhắc nhở mình rằng: khi mừng kính Phục Sinh, dù ta có gọi đó bằng tên gọi thế nào đi nữa, vẫn là việc mừng kính Đức Kitô Sống Lại và cùng với sự việc này, ta còn mừng Ngài cứu chuộc tất cả mọi người chúng ta.

 Đây là hội lễ quan-trọng nhất trong năm đối với tín-hữu Đức Kitô và là ngày vui đích-thực, như Thánh vịnh từng có câu như sau: “Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ (Tv 118: 24).  Xem thế thì, điều quan-trọng không nằm ở chỗ: ta coi sự việc ấy vui đến thế nào, mà là: Qua dự-kiện này, ta mừng kính những gì đây?    

 Quay về lại với danh xưng ngày lễ hội, thì: với ngôn-ngữ trời Tây và ở cả vài nước bên Đông Phương, thì tên gọi “Phục Sinh” xuất-phát từ cụm-từ “Vượt Qua”, tức lướt vượt rồi ngang qua . Hồi tưởng lại thời-kỳ người Do-thái lưu-đày từ đất Ai Cập lạc-loài trở về, họ được dạy là hãy giết cừu non bôi máu lên cửa ra/vào nhà mình, để rồi tối đến thần chết ghé ngang qua sẽ chỉ giết sạch trẻ đầu lòng người Ai-cập không có vết máu bôi lên đó, mà thôi.

 Ta có thói quen sử-dụng tự-vựng Vượt Qua là để qui về Đức Kitô, là chiên con đích-thực ngày Vượt Qua, nhờ cái chết và sự sống lại của Ngài, ta được giải-thoát khỏi ách nô-lệ đoạ-đày của tội lỗi, cái chết và ác-thần sự dữ nữa. Thánh Phaolô có viết lá thư đầu cho giáo-đoàn Côrinthô có gọi điều này bằng những lời sau đây: “Quả vậy, Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta.” (1 Côrinthô 5: 7)

Thành thử, đối với nhiều ngôn-ngữ trên thế-giới Phục Sinh đích-thực là Lễ Hội Vượt Qua. Bên tiếng Pháp, mọi người không phân-biệt tôn-giáo vẫn mừng chúc nhau “Niềm Vui Vượt Qua” (“Joyeuse Pâques”), trong khi đó, tiếng Tây Ban Nha cũng mang một ý-nghĩa tương-tự, lại đã dùng ngữ-âm giống như thế, tức: “Felices Pascuas”, tiếng Ý thì gọi: “Buona Pasqua”, ngay cả tiếng Inđô cũng phiên-âm cùng một cụm-từ như”Selamat Paskah”. Trong khi đó, người Bắc Âu cũng làm một việc tương-tự như bên tiếng Hoà-Lan, ta có “Vroliik Pasen”, tiếng Na-Uy lại cũng nói: “God pãske: và tiếng Thuỵ Điển, cũng giống hệt thế, tức: cũng phát lên âm-vực gọi là “Glad Pãske”.

 Còn, hỏi rằng bên tiếng Anh sao lại gọi là “Easter”, nghe cũng lạ. Thì, thánh Bede là thày dòng (672-735) khi xưa có viết về tháng “Eostre” tức tháng Tư, vì đại lễ này được mừng để nhân-danh vị nữ-thần này đúng vào tháng Tư mang tên nữ-thần “Eostre” hoặc “Ostra” mà tiếng Đức có nghĩa là tên của thần rạng đông, mặt trời mọc. Nữ-thần này được mừng kính sau nhiều tháng ngày mùa Đông đen tối che phủ khắp cõi miền ở phương Đông, tức: vị thần mang lại sự sống phục hồi gia-tăng từ bóng tối, tức: sự chết.

 Thật dễ hiểu, khi thấy Kitô-hữu chúng ta nối kết cụm-từ Phục Sinh với Lễ Hội Phục-hồi Sinh-lực, khi ta cử hành mừng sự việc Đức Giêsu trỗi dậy từ sự chết đem ánh-sáng của sự sống đến với thế-gian. Đức Kitô luôn được coi như Mặt Trời của sự Công-Chính và Ngài được nối-kết với trời Đông, rất ý-nghĩa…

 Thành ra, ta có thể nói rằng: bẵng đi từ nhiều thời-đại thần Eostre được coi là nữ-thần của dân ngoại, nhưng cụm-từ “Phục-Sinh” (tức: Easter) lại rất phong-phú về ý-nghĩa đối với. Thế nên, ta cũng đừng tỏ ra quá ưu-tư phiền-sầu về tên gọi, nhưng tốt hơn hãy mừng kính niềm vui của Đức Kitô đã Phục-hồi Sinh-lực từ bóng tối sự chết, thế nên có gọi là Phục-sinh cũng thật rất đúng.”                 (Xem Lm John Flador, Pagan origins of “Easter” and the Christian bent of building on culture The Catholic Weekly 16/04/2017 tr. 32)

 Thế đấy, là lời hỏi/đáp của đấng bậc về Phục Sinh rất thật hay không thật. Còn, về lý lẽ mà nhiều người vẫn cứ đem ra để cãi vã hoặc tranh-luận, lại cũng có vài điểm tích-tụ nghe hơi khác, khiến đấng bậc thày dạy ở Úc có lời biện-luận, như sau:

“Nhiều thành viên Hội thánh xem ra vẫn cãi tranh, giành giựt mọi thắng lợi để thuyết phục mọi người chấp nhận lý lẽ mình đưa ra. Về sống lại, nhiều sự kiện xảy đến với Chúa, không theo hướng quen thuộc, nên nếu người người sử dụng ngôn ngữ bình thường để suy-tư nghĩ-ngợi, ắt thấy khó mà tin. Khó, nhưng đó là việc có thật, từng xảy đến. Chúa sống lại, tuy gây dao-động, nhưng đã tạo cho mọi người xác tín rằng niềm tin chính là quà tặng Chúa ban để mọi người có dịp suy nghĩ. Suy và nghĩ, những gì xảy đến với Chúa, rất hợp tình hợp lý chẳng nghi nan.

 Xét bề ngoài, ta thấy nhiều việc xảy đến với Chúa xem ra khá mâu thuẫn. Nên trên thực tế, không phải ai ai cũng đều công nhận Chúa đã sống lại làm người thường. Nhưng, nếu Ngài sống lại bằng cách mặc lấy xác phàm làm người thường, thì sau đó, chắc Ngài sẽ phải chết thêm lần nữa. Sự thật, không phải thế.

 Trình thuật hôm nay, thánh Luca mô tả việc Chúa đến đồng hành với môn đệ bằng hình hài ta thấy và sờ chạm được bằng chân tay, nhưng không thể tưởng tượng được là: Ngài sẽ phải chết, thêm lần nữa. Thật ra, không thể có chuyện như thế. Điều, thánh Luca kể ở Tin Mừng, là để nói lên ý nghĩa nào đó mà nhiều vị gọi là truyện “Đường Emmaus, hành trình với môn đệ”.

 Về thể lý, một khi đã chết rồi, thì những gì là xác thân hoặc vật thể vũ trụ, đều rữa nát, vỡ tan. Không ai có thể trở lại sống với xác thân có xương thịt vẹn toàn như khi trước. Chẳng người nào lại có thể duy trì cùng một xác thân, suốt miên trường. Khi đã chết rồi, mà lại tái sinh với nguyên vẹn hình hài như khi trước, thì đó chỉ có thể là vòng chuyển luân, luẩn quẩn hết kiếp này đến kiếp khác, khoanh tròn quanh thành vòng quay sống-chết/chết-sống, không lối thoát.

 Truyện hai môn đệ hướng về thành đô Giêrusalem được thánh Luca ghi chép, còn để nói lên rằng: Đức Giêsu được đồ đệ nhận ra Ngài đích thực là Đức Chúa Ngôi Hai, vẫn tồn tại với mọi người. Ngài chẳng là quỉ ma hiện hồn theo qui cách của người thật. Nhưng, Ngài hiển hiện qua hình hài sao đó, rất sống động (Mc 16: 12).

 Ở đây nữa, khi viết Tin Mừng Phục Sinh, thánh Luca tập trung nhấn mạnh vào điểm, bảo rằng: Chúa tỏ cho mọi người thấy hình hài của Ngài theo qui cách rất khác, nên khi gặp lại Ngài, đồ đệ thấy mình sợ hãi, đến khiếp kinh (Lc 24: 37). Vì kinh khiếp, nên đồ đệ mới nói năng những điều chẳng có nghĩa. Theo nhà chú giải Kinh thánh Herbert McCabe, thì: khi đồ đệ gặp Thầy Chí Ái, các thánh cứ tưởng Thầy là Vị đồng hành chẳng hề quen biết. Kịp đến khi Thầy nhắc lại toàn bộ chi tiết về lịch trình cứu độ, các thánh mới vỡ lẽ ra đó là Thầy.

 Xem thế thì, Phục Sinh là điều mà người phàm xác thịt chúng ta chẳng thể nghiệm ra bằng lý lẽ của đời thường, để kiểm chứng. Bởi, dù biết Chúa sống lại thật, các thánh vẫn không coi đó như một chứng cứ hiển nhiên, tựa khi Ngài còn sống. Nhận biết hình hài Chúa rất nhãn tiền, điều đó có nghĩa: các thánh đã có động thái tin-yêu rất khác thường, trong cuộc sống.

 Và, đây là thực tại chỉ xảy đến với những người cũng trỗi dậy như Chúa và với Chúa bằng niềm xác tín yêu thương của người vẫn tin. Tin, theo quy cách và ý nghĩa khác. Khác ra sao, đó là vấn đề. Là, sự thực. Thực ra sao? Cũng nên suy xét.

 Trở về với lập trường chú giải của các tổ phụ thuộc Giáo hội Đông phương thời tiên khởi, như: Thượng phụ Origen, Grêgôriô thành Nyssa… khi gọi sự việc gì là ‘cảm nhận linh thiêng’, các ngài có ý nói về cảm xúc thiêng liêng, sốt sắng. Điều mà các đấng bậc trên nói đến, có ý bảo rằng: tất cả chúng ta đều mang trong người cung cách yêu thương có nhận thức sự vật mà não-bộ-thần-kinh-thuộc-mé-trái không thể lĩnh nhận.

 Nhờ yêu thương như thế, con người ‘định hình’ sự vật thành những ảnh hình như do chính mình tạo ra. Làm như thế, là để tác tạo thực thể như mọi người vẫn làm cho chính mình, nơi phần sâu thẳm của con người. Làm như thế, là để nhận thức rằng: thực thể ấy có thật. Vượt quá phạm vi và qui cách của ảnh hình. Nói theo ngôn từ triết học, thì các triết gia gọi đó là “tiềm thức”. Coi đó là giòng chảy sống, rất diệu kỳ. Là, sờ chạm thế giới nguyên uỷ không hư nát, mà thường ra, ta không sống ở trong đó.

 Nhận thức sự vật như thế, giống hệt cảm giác thấy được ‘lửa ngọn’ rực cháy trong người mình. Lửa rực cháy, khiến mình sống yêu thương, hạ mình. Thúc bách mình sống bừng sáng luôn tiến về phía trước. Có tiến như thế, mới cảm nhận được ‘lửa ngọn bừng bừng’ đang trào dâng với mức độ rất mới mẻ. Khác thường. Có kinh nghiệm từng trải rồi, người người sẽ nhận ra cuộc sống lại thực sự đang dâng trào nơi con người mình.

 Đó là cung cách mà dân con đồ đệ dám sử dụng thơ văn như chưa từng làm, và cũng chẳng ai nghĩ tới để diễn tả tình huống Chúa Phục Sinh hiện hình với dân con của Ngài, thật như thế. Có thể nói, các thánh đã sờ chạm Chúa. Cảm nhận được nhịp đập nơi tim mạch cùng vết thương đầy máu của Ngài. Thấy được Thầy mình bẻ bánh rồi cầm lên ăn. Các thánh không thể quên được vị ngọt nơi bánh thánh Thầy trao tặng. Tự thân, các thánh đều biết rõ chính Thầy là Đấng đã bẻ bánh phân phát cho người nghèo hèn, rất đói kém. Tương lai mai ngày, rồi ra các ngài cũng sẽ tạo nên thơ/văn như thế để kể về Thầy đến với mình, nơi nào đó.” (X. Lm Kevin O’Shea, Có Lần Tôi Thấy Một Người Đi,Lời Chúa Sẻ San Năm A, nxb Tôn Giáo 2013, tr. 115118)  

Nói cho cùng, có suy-tư nghiền ngẫm các sự-kiện Chúa “trỗi dậy” theo thơ văn/nghệ-thuật hay sao đó, cũng vẫn là chuyện nhung-nhớ những gì Đức Chúa dẫn dụ qua thơ văn/truyện kể rất Tin Mừng, rằng:

“Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông rằng:

“Các anh chẳng hiểu gì cả!

Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ!

Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế,

rồi mới vào trong vinh quang của Ngài sao?”

(Luca 24: 25-26)

 Chậm tin hay không vào “lời các ngôn-sứ”, vẫn là tình-trạng của nhiều người Đạo Chúa rất lâu nay. Chậm hay mau, tin hay không, vẫn là tình trạng “khóc lóc” rất nhiều về một giòng sông đang chảy xiết, để rồi bạn và tôi ta lại hát những lời như:

“Nếu không tôi đã khóc một giòng sông.
Khóc một giòng sông, tôi đã khóc một giòng sông.
Một giòng sông dài, nhớ cha, nhớ mẹ.
Nhớ anh, nhớ chị.
Khóc một giòng sông, tôi đã khóc một giòng sông.
Một giòng sông dài, những chiều mưa tôi khóc.
Khóc một giòng sông.

(Đức Huy – bđd)

Thế nhưng, để dung-hoà một tình-tự nhung nhớ, có “khóc ròng” một giòng song, cũng xin đề nghị bạn/đề-nghị tôi ta đi vào vùng tưởng nhớ có truyện kể để kết luận như sau:

“Ngày xưa có 3 cái cây mọc gần nhau trong rừng. Chúng thường nói rì rào với nhau về ước mơ và những hy vọng của mình.

 Cây thứ nhất bảo: “Tớ muốn được trở thành một hộp gỗ quý, được đựng trong lồng một kho báu đầy vàng bạc đá quý”. Cây thứ hai cũng nói: “Tớ muốn được trở thành một con tàu vĩ đại, sẽ đưa các vị vua và nữ hoàng vượt biển. Cuối cùng thì cây thứ ba nói: Tớ muốn mọc thành cái cây cao nhất trong rừng. Như thế, mọi người sẽ nhớ đến tớ”.

 Sau nhiều năm, người ta vào rừng đốn cây. Nhìn cây đầu tiên, một người nói:

– Cây này gỗ có vẻ tốt, tôi sẽ đốn nó bán cho bác thợ mộc gần nhà. 

Cây rất vui vì tin rằng bác thợ mộc sẽ biến nó thành hộp đựng vàng bạc. 

 Người thứ hai vỗ vỗ vào thân cây thứ hai:

-Cây này cũng được, tôi sẽ đốn nó bán cho bác thợ đóng thuyền.

Cây thứ hai rất mừng vì nghĩ rằng bác thợ thuyền sẽ đóng nó thành một con tàu lớn.

 Khi người thứ ba đến gần cây thứ ba, cây này rất thất vọng và lo sợ, vì biết rằng một khi người ta đốn nó xuống, tức: giấc mơ của nó sẽ không bao giờ thành hiện thực nữa. Y như rằng, người thứ ba bảo:

-Tôi cũng sẽ đốn cây này.

 Cây thứ nhất được bán cho người thợ mộc, bác ta đục nó thành một cái như nôi trẻ con nhưng vì không vừa ý nên lại quẳng nó ra sân, thậm chí còn nhét cỏ khô vào. Sự thể đã không như cây tưởng tượng!

 Cây thứ hai được người thợ thuyền đóng thành cái thuyền câu cá bé tẹo. Nó nghĩ giấc mơ trở thành con tàu lớn chở vua và hoàng hậu đá tan tành… Người đốn cái cây thứ ba chẳng có mục đích gì nên ông cứ kệ nó ở trong kho.

 Nhiều năm trôi qua, những cây ấy đã quên đi ước mơ của mình khi xưa. Một buổi tối rét buốt, có hai vợ chồng nghèo đi qua nhà bác thợ mộc. Họ bế một đứa bé mới sinh, đang khóc vì lạnh.Mà mẹ nhìn thấy cái nôi đầy khỏ khô ngoài hiên nên đặt đứa bé vào đó. Được ấp ủ trong cái nôi cỏ, đứa bé thôi khóc, cây thứ nhất –nay là cái nôi– cảm nhận được sự quan trọng của mình lúc đó và biết rằng mình đang được đựng trong lòng một kho báu lớn hơn tất cả vàng bạc đá quí :một sinh linh bé bỏng và tình thương yêu cua bố mẹ em bé.

 Ít lâu sau, người thợ đóng thuyền dùng chiếc thuyền nhỏ đóng băng cái cây thứ hai đi chơi và ngủ thiếp đi. Không may một lúc sau trời trở gió và nổi dông. Thuyền bắt đầu chao đảo, vô cùng nguy hiểm. Bỗng một người dân trên bờ nhìn thấy, vội chèo thuyền của mình thật nhanh tới chỗ người thợ đang ngủ. Bác thợ đóng thuyền tỉnh dậy ú ớ hoảng hốt, nhưng người dân kia đã bỏ thuyền của mình nhẩy sang thuyền của người thợ và lấy hết sức chèo vào bờ.

 Lúc đó cây thứ hai nay là cái thuyền-đã biết rằng mình đang chở một vị vua của lòng dũng cảm. Cuối cùng cây thứ ba, sau một thời gian nằm trong kho tối tăm thì có người đến hỏi mua nó. Người này biến cây thành một cái cột nhỏ rồi vác lên đỉnh đồi, đóng xuống để sắp tới bắc đường dân điện-lần đầu tiên tới vùng hẻo lánh này. Đến khi người ta mắc đường dây điện,cái cây thứ ba- nay là cái cột điện-hiểu rằng mình đang đứng trên đỉnh đồi, cao hơn rất nhiều các cây khác và thực hiện một nhiệm vụ lớn lao khiến ai cũng có thể luôn nhớ tới.

 Và người kể lại cũng có những lời bàn như sau: “Khi mọi việc diễn ra không theo ý bạn mong muốn không có nghĩa là giấc mơ của bạn đã tan tành rồi. Trong cuộc sống luôn có những “kế hoạch dài hạn”, người ta có thể có được những cái mà mình mong ước, nhưng không chắc là đúng như những gì người ta tưởng tượng. Vì vậy, đừng bao giờ thôi mơ ước và hy vọng vào những điều tốt đẹp bạn nhé!” 

Thật ra, truyện kể ở trên không để nói rằng cây cối biết nói lên những gì là tốt/xấu trong đời người. Nhưng, người kể chỉ muốn nói về ý-nghĩa của niềm hy-vọng để ta tin vào sự thật rồi thực hiện ước vọng sống sự thật ấy trong đời mình. Sự thật ở đây, hôm nay, là mơ ước được gặp gỡ Ngài như hai tông đồ từng gặp trên đường Emmaus, nếu tất cả chúng ta quyết thực-hiện những điều Ngài dạy ở Kinh Sách.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những sự kiện tương tự

Khi nhớ đến bài hát

Tôi đã khóc một giòng sông.       

CHÚA CỨU CHỮA CHO NGÔI TRƯỜNG BỊ XUỐNG CẤP TRẦM TRỌNG.

 CHÚA CỨU CHỮA CHO NGÔI TRƯỜNG BỊ XUỐNG CẤP TRẦM TRỌNG.

Phan Sinh Trần

Năm 1974, cha Michael Scanlan, thuộc dòng Phan-xi-cô khó khăn, nhận chức chủ tịch trường cao đẳng Steubenville thuộc hệ thống Đại Học Cao Đẳng của Hội Thánh Công Giáo Hoa Kỳ, trường đang trong tình trạng bị xuống cấp thảm hại, bị lỗ lã tài chánh, sinh viên của trường, ngoài giờ học thường dùng thời gian để làm các điều phản luân lý như tụ tập đàn đúm rồi làm tình với nhau, rủ rê lôi kéo chúng bạn sử dụng chích choác ma túy, và cùng nhau đi la cà các quán bar để nốc rượu cho đến lúc say khướt. Tình hình tệ hại tới mức các ứng viên cho chức vụ chủ tịch hội đồng trường Steubenvilled, những người nộp đơn trước cha Scanlan, khi được phỏng vấn ứng viên cho công việc làm này, họ đều có chung một nhận định, đó là, nếu được trở thành chủ tịch thì họ sẽ đóng một hoặc nhiều bộ phận trong trường, duy chỉ có Cha Scanlan là chủ trương cải tổ nhà trường thay vì phải đóng cửa nó. Được hội đồng nhất trí bầu chọn làm vị chủ tịch hội đồng quản trị mới, Cha Scanlan liền bắt tay vào việc cải tổ ngôi trường.

 Trong ba tháng đầu tiên, ngài thường dùng bữa ngay tại các nhà ăn sinh viên, chơi tennis, banh bầu dục, banh chầy, bóng rổ với các bạn sinh viên, Ngài tham dự bất kỳ buổi họp mặt party vui choi nào mà Ngài biết được dù họ có muốn mời ngài đến tham dự hay không mặc kệ, kinh nghiệm này cho Cha sự hào hứng nhưng cũng cho thấy tình trạng bết bát của môi trường, ngài càng đoan chắc một cách tỏ tường rằng những đề nghị cải cách là tuyệt đối cần kíp cho đời sống sinh viên của nhà trường:

–          Trường Cao Đẳng Steubenville cần sự đổi mới, canh tân theo đức tin công giáo một cách sâu sắc và sự trỏ về với căn tính (theo tinh thần thánh) Phan-xi-cô của mình.


Vốn có nhiều kinh nghiệm về Canh Tân đổi mới, Cha liền tổ chức các nhóm Canh Tân Đặc Sủng, tương tự như các tập thể nhỏ mà Cha từng tổ chức khi ngài còn là một giám đốc Chủng viện của dòng thánh Phan-xi-cô. Đây sẽ là các nhóm hạt nhân cho công trình cải tổ của Trường. Cha cũng giành lấy công tác phụng vụ của ngày Chúa Nhật, trong các Thánh Lễ, ngài kết hợp việc ca ngợi Canh Tân Đặc Sủng với các bài giảng thuyết có sức tác động làm lay tỉnh tấm lòng người tham dự. Ngài thiết lập chế độ  “tổ dân phố” đòi hỏi sinh viên tham gia, chương trình này có tính bặt buộc cho mọi sinh viên của Trường, đó là các nhóm nhỏ chuyên chú vào việc phát triển cá nhân và cộng đoàn. Tổ trưởng là các em sinh viên tích cực, đạo dức hoặc nhân viên của Trường. Cha cũng thiết lập một trung tâm Canh Tân Đặc Sủng ở ngay trong khuôn viên trường, làm nơi tổ chức các khóa tĩnh tâm, hội thảo giúp sinh viên tiến xa trong sự hiểu biết về Chúa và đâm rễ sâu trong đức tin Công Giáo. Trung tâm bắt đầu tổ chức các buổi hội thảo vào mùa hè, thu hút được người trẻ đang theo học trong trường cao đẳng đến tham dự, Cha Scanlan thường xuyên nói chuyện ở các buổi hội thảo này.

Khởi đi từ năm 1975 ngay tại khuôn viên trường, Cha Scanlan tổ chức hội thảo hè dành cho các linh mục và trong năm sau, tổ chức hội thào phúc âm công giáo cho giới trẻ học sinh trung học. Từ ngày đó cho đến hôm nay, sinh hoạt trở thành đều đặn mỗi năm, hè về, đã có 55.000 ngàn học sinh và người lớn tham dự các trại hè thảo luận ở 31 đại học Phan-xi-cô trên 16 tiểu bang của Hoa Kỳ và Gia nã đại.

Mặc dù đã có những sự thay đổi chiến lược nêu trên, tuy nhiên, trường cao đẳng Steubenville vẫn còn phải tiếp tục tranh đấu để sống còn. Sau năm đầu tiên, tính từ lúc Cha Scanlan về nhận chức chủ tịch hội đồng và áp dụng các cải cách, tình trạng không khả quan hơn, con số tân sinh viên ghi danh theo học đã ở mức thấp nhất trong lịch sử của trường, đã có 5 nhân viên cao cấp nhất hoặc họ chán nản xin từ chức hoặc bị cho nghỉ việc, các phân khoa bắt đầu mất dần niềm hy vọng cuối cùng nơi tài lãnh đạo của linh mục Scanlan. Mặc cho khó khăn chồng chất, Cha Scanlan càng kiên trì trông cậy nơi ơn không ngoan soi sáng của Chúa Thánh Thần dành cho mình và cương quyết tiếp tục thúc đẩy việc cải cách nhà trường, đặc biệt là về nội dung các khóa học, ngài cũng giới thiệu trở lại phân khoa Thần Học với chương trình học phong phú, Thần Học mau chóng trở thành môn chánh được sinh viên tìm đến ghi danh nhiều nhất ở trường. Ngài cũng trực tiếp trông coi việc phát triển các chương trình hậu đại học, với học vị tiến sĩ cho môn Kinh Tế Quản trị và Thần học, điều này giúp cho trường được công nhận danh hiệu Đại Học vào năm 1980. (Năm 1985 trường được đổi tên là Đại học Phan-xi-cô của thành phố Steubenville).

Cha Scanlan nhận định “Trường Cao Đẳng phải thường xuyên làm mới lại mình. Nó được kêu gọi để tự diễn tả một cách liên tục những giá trị vinh cửu trong thời hiện tại, cho những con người thời nay vốn đối diện với cuộc sống hiện đại. Chính đây là nơi  mà một trường cao đẳng có thể đáp ứng cho các nhu cầu mà các cơ quan tôn giáo khác không làm được. Nguyên tắc đổi mới ở Steubenville được đặt căn bản trên tố chất luôn mới mẻ của Chúa”.

Từ đó, Đại Học Phan-xi-cô đã tiếp tục phát triển và có thêm nhiều uy tín, sĩ số sinh viên theo học được gia tăng và lên đến con số trên 2600 sinh viên hàng năm, Trường tổ chức hàng trăm buổi hội thảo giúp canh tân đổi mới đời sống, làm gia tăng thêm niềm tin Đạo, lòng yêu mến cuộc đời nơi các bạn trẻ. Steubenville nổi tiếng vì giúp tạo nên vài Nhà Thần Học, Chuyên viên Giáo Lý và Doanh Nhân lớn, tầm cỡ thế giới. Hiện nay,  trường có chuyên khoa Thần Học với các bộ môn học thuộc vào loại phong phú nhất trong số các trường đại học Công Giáo  Hoa Kỳ. Ngày nay, ngôi trường Steubenville nhỏ bé được ghi danh trên bản đồ là địa chỉ của một nhà trường Công Giáo cách tân của Hoa Kỳ. Nó cũng được dùng làm tiêu chuẩn cho các trường đại học khác noi theo.Đến phiên mình, các trường này tiếp tục công việc huấn luyện nên các nhà lãnh đạo công giáo trứ danh, hầu hết đều vươn tới cùng một kết quả tốt đẹp giống như những gì trường Phan-xi-cô đã làm được. Steubenville đã có một ảnh hưởng tuyệt vời cho nền văn hóa Công Giáo ở Hoa Kỳ và trên thế giới. Làm sao mà sự thay đổi tốt đẹp này đã diễn ra? Điều này đã cần đến một linh mục sẵn lòng đáp trả sự thôi thúc của Chúa Thánh linh để chuyển đổi ngôi trường của hội hè, chơi bời thành ra một trương đại học công giáo tốt nhất thời nay.

Cha Vincent Michael Scanlan là ai mà tạo nên một kỳ tích tuyệt diệu như vậy?

Cha Scanlan thuộc dòng Phan-xi-cô khó khăn, Ngài đã ở cương vị chủ tịch đại học công giáo Phan-xi-cô, Steubenville, tiểu bang Pennsylvania trong 26 năm trường.

Khi còn bé Scanlan tuy rất thông minh nhưng lại không chú tâm vào thứ hạng xuất sắc đầu lớp cho bằng cậu muốn được có thêm các sinh hoạt hào hứng được tổ chức trong cộng đồng. Tuy nhiên các sư huynh dòng Thánh Tâm đã có một ảnh hưởng tốt tới đức tin, tính hạnh của Scanlan, đặc biệt là sư huynh Bertin Ryan, người mà Scanlan cho rằng “đã kết hợp tiêu chuẩn cao nhất về đức hạnh, học vấn uyên thâm trong một phong cách đáng mến, với một sức mạnh thân thiện khôn cưỡng”. Được ảnh hưởng trong một thời gian lâu dài bới sư huynh Bertin, em Scanlan mau chóng để cho đức tin làm chuyển hóa và thay đổi cuộc sống của mình. Sự thay đổi toàn diện này làm cho em Scanlan vượt qua bản tính thờ ơ và nhanh chóng tiến đến vị trĩ đứng đầu lớp. Scanlan tốt nghiệp hạng danh dự ở trường trung học Coindre Hall và sau đó theo học tại trường cao đẳng Williams.

Tuy nhiên, tại đây anh bị khủng hoảng đức tin khi chứng kiến sự hoài nghi, và tình trạng thiên về hiện thực trần thế của các giáo sư, Scanlan bắt đầu nghi ngờ sự hiện hữu của Thượng Đế, rồi trong một thời điểm bị hoang mang lòng tin, Scanlan đã rời khỏi sân trường, anh tiến bước, đi vào một khu rừng bên cạnh trường, anh ở lại trong nơi thanh tịch đến nửa ngày, anh thề hứa sẽ không đi ra khỏi đó cho đến khi Chúa cho anh ơn biết phân định, ơn nhận biết tỏ tường về sự hiện hữu thật của Chúa. Chính vào buổi chiều tối hôm đó, Scanlan cảm nhận có sự hiện diện rất sống động và tốt lành của Chúa, kinh nghiệm này định hướng toàn bộ cuộc đời của anh, nó cũng giúp cho anh tìm về lại đức tin Công Giáo với một nguồn sinh lực mới mẻ.

Tiếp tục việc học, Scanlan theo học tại đại học luật Havard, trong niên học thứ hai, Một hôm nọ, đang khi đi bộ từ nhà nguyện để trở về trường sau thánh lễ sáng, Scanlan lại cảm thấy sự hiện diện của Chúa một lần nữa.Trong giây phút đó, Scanlan biết rằng Chúa muốn kêu gọi anh trở thành một linh mục Công Giáo. Anh rất ngỡ ngàng trước sự mạc khải của Chúa nhưng anh đã thưa vâng không do dự, anh cũng biết rằng mình cần phải hoàn thành việc học luật trước đã.

Ra trường, phục vụ trong không lực, nha quân pháp, làm việc rất giỏi, luật sư Scanlan chưa hề bị thua một vụ kiện nào, anh mau chóng trở thành một quan tòa của Không lực Hoa Kỳ. Cho dù đang thành công lớn trong nghề nghiệp, Scanlan cảm thấy ý muốn của Chúa cho mình là ra đi và gia nhập một dòng tu để phục vụ cho cộng đoàn dân Chúa. Một lần nữa anh Scanlan thưa vâng với Chúa, anh đi thăm dò để có một nơi chốn tu trì và phục vụ dân Chúa thích hợp với ơn gọi của mình, tìm hiểu ở dòng Tên, dòng Đa Minh và cuối cùng theo ý Chúa, anh chọn dâng hiến đời mình trong dòng Phan Sinh. Tháng 5, năm 1964 Scanlan thụ phong linh mục dòng ba của thánh Phan-xi-cô khó khăn.

Năm1970,  cha nhận được thêm ơn Chúa Thánh Linh trong dịp tĩnh tâm Ngũ Tuần tại Đan Viện Ann Arbor và bắt đầu trở nên lãnh đạo hàng đầu của làn sóng ngũ tuần, tiền thân của phong trào Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo, Cha có một đời sống dồi dào ân sủng Chúa Thánh Linh, trong tình yêu bền chặt với Chúa Giê Su, ngài thường dành thời gian ưu tiên tối đa cho việc cầu nguyện kết hợp với Chúa, dành nhiều giờ, nhất là vào lúc bắt đầu một ngày mới, trước Thánh Thể Chúa. Ngay từ khi còn là một sinh viên ngài luôn tìm cầu ý Chúa trong bất kỳ việc gì cần giải quyết. Cha Davis, bề trên tỉnh dòng Phan Sinh, trong cùng cộng đoàn với Cha Scanlan, kể lại:

–          Cha dậy sớm hơn và trước hầu hết mọi người trong nhà của chúng tôi, ngài ở lại trong nhà nguyện trước giờ chầu Thánh Thể sớm hôm. Ngài luôn có bản Chương Trình Công tác của Ngày hôm đó, Ngài sẽ chăm chú cầu nguyện hỏi Chúa “Rồi con sẽ làm gì với điều này đây?” Bất cứ quyết định nào của Cha luôn bắt nguồn, xuất xứ từ Chúa.

Niềm vui Canh Tân Đặc Sủng của Cha luôn trào dâng ra cho người khác và tạo nên một phản ứng dây chuyền làm vui tươi, thánh hóa cả môi trường, Giáo sư dạy môn thần học của trường, tiến sĩ Hann cho biết:

–          Hồi đó, vợ tôi chưa phải là người Công Giáo, cô ta bị xảy thai, Cha Scanlan cầu nguyên đặt tay cho cô. Kết quả bất ngờ là …không những chỉ có người vợ của tôi mà cả gia đình, chả bao lâu sau, đều được hồi phục sức khỏe thể lý và tinh thần. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, vợ tôi tin phục và có cảm nghiệm tốt về đạo Công Giáo, Kimberly vốn chưa phải là một tín hữu công giáo, nay cô muốn cải đạo và xin trở thành một tín hữu Công Giáo. Hann nói tiếp:

–          Ngài có trực giác nhạy bén, sức mạnh siêu nhiên từ gốc nguồn (của Chúa) xuất ra. Ngài như đang cai quản 12 chi tộc của Steubenville, giống như tổ phụ Gia Cóp khi xưa đã chăn dắt dân tộc Israel, Ngài luôn dẫn dắt mọi sinh hoạt, nào là công tác cho sinh viên, điều hợp các phân khoa, nào giúp linh hướng, linh đạo , giải tội, đặt tay cầu nguyện cho bất kỳ ai có ước muốn… Ngài là một người luôn ở trong sự cầu nguyện và điều này có ảnh hưởng lan tỏa ra cho người khác”   

 

Sau đây là các chia sẻ của Sơ Ann, cộng tác viên của Cha Scanlan, Sơ cho biết:

–          Việc đầu tiên của Cha là luôn đặt Chúa ở trước hết, và luôn tìm ý Chúa trong mọi quyết định về phát triển của ngôi trường. Ngài dặn dò người thư ký, xin hoãn lại tất cả các giờ hẹn cho đến khi Ngài cầu nguyện xong, cho đến khi Chúa chỉ rõ các yêu cầu cần thiết của ngày hôm đó…

–          Cha luôn hỏi Chúa “Làm sao con làm cho nó hoạt động đây?” không phải là cha không có tài, không có năng khiếu, và khả năng. Ngài có thể sử dụng chúng, nhưng điều cốt yếu là Ngài luôn muốn được lệ thuộc vào Chúa. Điều này ghi khắc dấu ấn về thái độ tin thác vào Chúa của Cha, sâu đậm trong tâm tôi, trong mọi việc tôi làm giờ đây, tôi không thể làm mà không có giờ lâu trước nhan thánh Chúa để lãnh hội ý Chúa và biết rõ tôi dành ưu tiên cho công việc theo cách thế đúng đáng nhất.

    … ngõ hầu Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự. (1Corinto 15:28)

Cha Scanlan mất ngày 7 tháng 1 năm 2017 sau một thời gian đau ốm. Cha Sheridan, chủ tịch đương nhiệm của đại học Phan-xi-cô, kể lại rằng:

–          Cha Scanlan đã làm chương trình “ Đại Học Phan-xi-cô tường trình” trên đài truyền hình Công Giáo “Lời Vĩnh Cửu”, EWTN (Đài TV công giáo lớn nhất thế giới được truyền dẫn đến 250 triệu gia đình, trong 140 quốc gia khắp năm châu) trong mười tám năm trường, đến nay thì chương trình đã được 23 tuổi, là chương trình thảo luận về thần học lâu đời nhất của đài EWTN. Ngài viết 16 quyển sách về các đề tài tâm linh, là lãnh đạo tiêu biểu của Phong Trào Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo, Ngài đã thuyết giảng hàng ngàn buổi ở Hoa Kỳ và hải ngoại, dẫn dắt vô số người vào trong mối tương quan mật thiết với Chúa Giê Su Ki tô và Hội Thánh Công Giáo. Điều mà có lẽ, tất cả chúng ta sẽ nhớ nhiều nhất, với thái độ biết ơn, dành cho người cha tinh thần quý mến của chúng ta.

Ông George Weigel, một chuyên viên cao cấp, giám đốc trung tâm nghiên cứu Công Giáo về Đạo Đức và Chính Sách Công đã phát biểu ý kiến:

–          Cha Michael Scanlan là một máy phát năng lượng Phúc Âm, người biết rằng việc canh tân giáo dục cao học Công Giáo là yếu tố rất thiết yếu của công trình Tân Phúc Âm hóa. Tư cách chứng nhân, cách sống quá nhiệt thành, và khả năng nói Tin Mừng một cách hoan hỉ đã là đóng góp chính không chỉ cho đại học Phan-xi-cô nhưng là cho Hội Thánh Công Giáo ở Hoa Kỳ và cho hội thánh trên toàn thế giới

Sơ Ann sau mấy mươi năm làm việc chung với Cha Scanlan, trong mục vụ Canh Tân tại trường Steubenville đã tóm gọn về phương cách Cha đã tiến hành để có thể thay đổi hoàn cảnh cho một người như sau:

–          Một là ngài luôn dâng đương sự và tình trạng của họ lên cho Chúa trong một thời kỳ cầu nguyện liên lỉ sâu dài.

–          Hai là ngài có cách để đem người đó tới với Chúa Giê Su làm gia tăng Đức Tin của họ, và đến phiên họ sẽ lại đi giúp đỡ cho người khác.                    

Ngài xây đắp tình thân của họ cùng với Chúa Giê Su và trong Chúa Giê Su. Ngài không giảng dậy, Ngài sống điều cần giảng.

 Vì chúng tôi không rao giảng chính mình, song là Đức Kito Giê Su, Ngài là Chúa, còn chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em,  vì Đức Giê Su (2Cô rin tô 4:5)

Xin Chúa Giê Su qua tác vụ của Chúa Thánh Linh, cho Hội Thánh Việt Nam, Hội Thánh Toàn Cầu có thêm nhiều linh mục khả kính như cha Michael Scanlan.

Bạn có thể tìm hiểu thêm về hoạt động của Cha Scanlan ở đây:

http://www.ncregister.com/ daily-news/the-man-who- rebuilt-steubenville

https://franciscan.edu/ FatherMike

http://www.iccrs.org/en/fr- michael-scanlan-tor-may-rest- in-peace/

https://www.youtube.com/watch? v=M1G1e1zFzBM