ĐỨC MẸ FATIMA: Lời nhắn nhủ của Mẹ vẫn còn mang tính thời sự

J.B Lê Đình Nam

Ngày 13. 10 năm nay đánh dấu đúng 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima.  Con cái Mẹ khắp nơi sẽ mừng kính sự kiện đặc biệt này trong tâm tình tôn kính và mến yêu Mẹ.  Đây là dịp để mỗi người chúng ta bày tỏ tâm tình của mình lên Mẹ, cũng như nhìn lại sứ điệp mà Mẹ gửi đến cho toàn thế giới cách đây 100 năm.

Sự hiện ra tại Fatima không chỉ có ý nghĩa sâu sắc về mặt tôn giáo, nhưng hơn thế sự kiện đó còn mang những thông điệp quan trọng đến với toàn nhân loại trên cả phương diện xã hội lẫn chính trị.

Tại Fatima cách đây 100 năm, qua sự hiện ra với ba đứa trẻ, Mẹ đã mang đến cho con người những lời cảnh báo kèm theo những yêu cầu cần thiết để cứu vớt nhân loại khỏi biến động bất an, tai họa chiến tranh và sự diệt vong.

Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, chúng ta được mời gọi nhìn lại những lời kêu gọi của Mẹ dưới một vài khía cạnh trong đời sống của mỗi người cũng như của toàn nhân loại hôm nay.

ĐỨC TIN

Đức tin là cội nguồn và khởi đầu cho mỗi người và là lời kêu gọi đầu tiên mà Mẹ gửi đến nhân loại tại Fatima.

Nhìn chung, đức tin của con người trên thế giới đang xuống dốc một cách nhanh chóng.  Tỷ lệ chối bỏ đức tin đang ngày một tăng cao, và các phe nhóm chống Giáo Hội ngày càng tinh vi dưới nhiều hình thức.  Đức tin Công giáo đang giảm sút đáng kể trên nhiều nước, đặc biệt là Âu Châu.

Con người dần dần chối bỏ Thiên Chúa, khước từ Tin Mừng, chạy theo những ngẫu tượng và tôn thờ các giá trị vật chất.  Không còn đức tin, con người đi đến sự lạc giáo, mê tín và ảo tưởng.  Điều này khiến cho các giá trị tâm linh cũng như nhân phẩm con người  bị đảo lộn và lệch lạc.

Nhìn lại mới thấy sứ điệp Mẹ cách đây 100 năm còn mang tính cấp thiết cho thế giới hôm nay.  Thật thế, con người cần đức tin thực sự để tin tưởng vào một điều gì đó.  Tin vào Thiên Chúa để nhận ra những giá trị căn bản nơi cuộc sống.  Tin vào Thiên Chúa để nhận ra mỗi chúng ta là anh em của nhau và là con cái của Thiên Chúa.

Đức tin hướng dẫn con người đến với những giá trị chân – thiện – mỹ.  Đức tin đưa ta về với Chúa là cội nguồn của tình yêu.  Và cũng chính đức tin đưa ta về với nhau trong tình nghĩa anh em con cùng một Chúa.

HOÁN CẢI

Hoán cải là lời kêu gọi thực sự quan trọng cho con người hôm nay.  Mẹ Maria đã nhiều lần nhắc lại rằng: con người cần phải hoán cải.

Sự phát triển của thế giới không những đưa con người đến sự xa lìa Thiên Chúa mà con mang lại cho con người sự tự cao tự đại.  Con người đang chối bỏ Đấng Tạo Hóa, đi vào con đường tội lỗi, và đề cao chính mình.

Đón nhận Thiên Chúa vốn dĩ không dễ thì hoán cải để trở về với Thiên Chúa lại càng khó khăn hơn.  Con người ngày một xa dần Thiên Chúa.  Bao lâu con người xa Thiên Chúa thì bấy nhiêu khó khăn cho sự hoán cải trở về.  Những hệ lụy đau thương của sự không hoán cải đang ngày càng thấy rõ nơi cuộc sống nhân loại hôm nay.

Con người cần sự hoán cải để trở về với cội nguồn của mình là Thiên Chúa, trở về với những giá trị nhân linh của con người.  Từ đó sự hoán cải đích thực đưa con người xích lại gần nhau trong tình huynh đệ và tình thương.

BÌNH AN

Bình an là điều mà ai cũng ao ước, cách riêng là giữa một thế giới nhiều hỗn loạn như hôm nay.  Mẹ đã kêu gọi mọi người chuyên chăm cầu nguyện cho sự bình an của con người và của toàn thế giới.

Con người đang đối điện với sự bất bình an bởi khủng bố, bạo lực và chiến tranh đang hoành hành khắp nơi.  Kỳ thị tôn giáo, phân biệt chủng tộc, cũng như chủ nghĩa vật chất đang đưa thế giới đến sự thờ ơ, lãnh đạm và ích kỷ.

Con người đánh mất Thiên Chúa, đồng nghĩa với việc đánh mất những giá trị cao cả nơi con người. Vật chất thay thế những giá trị luân lý.  Tình thương bị thay thế bằng hận thù.  Hòa bình bị phá hủy bởi bạo lực.

Bình an chỉ đến với con người khi con người biết tìm về cội nguồn bình an là Thiên Chúa.  Khi bình an con người sẽ đi đến với nhau bằng tình thương và lòng nhân ái.  Mang trong mình sự bình an thì bạo lực và chiến tranh sẽ không còn chỗ để ngự trị nơi con người và xã hội.

HY VỌNG

Con người hôm nay đang dần đánh mất nhiều phẩm giá tốt đẹp, nhưng trên hết đó là đánh mất hy vọng.  Niềm hy vọng cũng là lời mời gọi được Mẹ nhắc đến trong sự hiện ra tại Fatima.

Trước nhiều khó khăn và thử thách, con người dường như sống một cuộc sống không có tương lai, chẳng mong chờ gì trong ngày mai!  Cuộc sống nổi trôi một cách vô định, bỏ mặc cho hoàn cảnh và số phận.

Thế giới với quá nhiều biến động, kèm theo thiếu niềm tin vào một tương lai phía trước, con người đang sống một cuộc sống vô nghĩa, không mối tương quan.  Để rồi giữa những lúc bế tắc, con người chỉ nghĩ đến việc kết liễu đời mình trong sự tuyệt vọng.  Và thực tế cho thấy, xu thế tự tử đang tăng một cách đáng báo động ở nhiều nước phương Tây.

Thật thế, niềm hy vọng như là nguồn lực cho cuộc sống một lối đi.  Hy vọng đưa mục đích và ý nghĩa vào cuộc sống.  Hy vọng là sức mạnh đưa con người ra khỏi những vũng lầy của thất vọng và động lực đưa con người đến với nhau.  Hy vọng trong cuộc sống sẽ đưa con người đến với Đức Kitô là Niềm Hy vọng đích thực của mỗi người chúng ta.

Sư điệp của Mẹ tại Fatima vẫn luôn mang tính thời sự đối với con người và nhân loại hôm nay.  Mẹ đã mời gọi chuyên cần cầu nguyện.  Cầu nguyện cho con người biết ăn năn và sám hối, biết hoán cải để trở về với một sống đời sống đức tin sâu sắc, và luôn mang trong tình một tia hy vọng lớn lao.  Nhờ đó, tình nghĩa huynh đệ được triển nở và bình an được hiện hữu nơi mỗi con người cũng như trên toàn nhân loại.

 Sứ điệp của Mẹ không chỉ dừng lại đối với những người Công Giáo, nhưng đó là lời mời gọi được dành cho cả nhân loại hôm nay.  Tình hình thế giới và nhân loại vẫn nguy kịch như xưa.  Lời Mẹ kêu mời càng tha thiết hơn xưa.

 Trước tình cảnh đó, chúng ta được mời gọi thực hiện ngay lời dạy của Mẹ: hãy ăn năn sám hối, hãy siêng năng lần hạt Mân Côi, hãy tôn sùng đền tạ Trái Tim Đức Mẹ, và hãy dâng loài người cho Trái Tim Mẹ.

 J.B Lê Đình Nam

Ngày ấy em như hoa sen

HẠNH PHÚC LANG THANG – Ngọc Lan

httpv://www.youtube.com/watch?v=6iz45Qtuli4

Chuyện Phiếm đọc trong tuần 28 thường niên năm A 15/10/2017

 

“Ngày ấy em như hoa sen”
Mang nhiều giáng hiền những khi chiều lên,
Ngày ấy em như sương trong,
Nép trên bông hồng, mượt trên cánh nhung.”
(Trần Ngọc Sơn – Hạnh Phúc Lang Thang)

 (1 P 2: 19-212)

 “Em như hoa sen ngày ấy”, ư? Nói thế có quá đáng không? Bởi, hoa sen chỉ đẹp ở chốn bùn lầy nước đọng mà thôi. Còn em đây, đâu đến thế? Thôi thì, bạn và tôi ta cứ hát những ca-từ như bên dưới có lẽ lại hay hơn:

 “Ngày ấy em như cung tơ,
Cho đời thẫn thờ, cho tôi dệt mơ
Đường khuya tay đan ngón tay,
Ước cho đời ước mơ dài.

Nhưng năm tháng vô tình,
Mà lòng người cũng vô tình,
Rồi mộng úa thay màu xanh,
Người yêu xa bến mộng,
Đò xưa đã sang sông,
Dòng đời trôi mênh mông,
Dáng xưa nay xa rồi,
Đường khuya mưa rơi rơi,
Phố xưa quên một người,
Bàn chân gieo đơn côi,
Gió mang theo cơn lạnh
Về rót lệ trên môi.”

(Trần Ngọc Sơn – bđd)

Vâng. Có lẽ là như thế. “Nhưng năm tháng vô tình, Mà lòng người cũng vô tình, Rồi mộng úa thay màu xanh…” Ôi thôi, đời là thế. Đấy này, lòng người là như vậy. Như thế và như vậy, cũng chỉ là tình người ở đời, mỗi thế thôi.

Vâng. Tình đời là như thế. Cũng vẫn là vần thơ “Bàn chân gieo đơn côi”. “Gió mang theo cơn lạnh, về rót lệ trên môi.”

 

Vâng. Người đời là như vậy. Vẫn cứ “Yêu em say mê”, Nhưng “tình ái không xanh như thơ”, hệt như ca-từ còn diễn tả, ở bên dưới:

“Ngày ấy yêu em say mê,
Tôi nào nghĩ gì đến câu từ ly
Tình ái không xanh như thơ,
Đến chung hơi thở, rồi trôi rất xa.

Hạnh phúc lang thang như mây,
Cho hồn héo gầy, khi ta còn đây,
Từng đêm qua trong giấc mơ,
Vẫn mong chờ có em về.”

(Trần Ngọc Sơn – bđd)

Vâng. Thế đó là âm nhac. Thế nhưng, cuộc đời thường nhật có giống như thế không? Chí ít, là sau khi bạn và tôi phát-giác ra điều gì đó ở trong người? Phát giác rồi mới thấy rằng “cuộc sống bây giờ là hai mặt của một vấn-đề”, như tác-giả “tự truyện” ở bên dưới kể lại cho người đọc nghe những điều như sau:  

 Đừng nghĩ bạn còn cả cuộc đời để sống’

Mắc ung thư giai đoạn cuối, Scott Riddle đau xót vì không thể chứng kiến ba con lớn lên, và không biết cuộc đời phía trước sẽ thế nào. 

 Scott Riddle là nhân viên 35 tuổi của Google ở Sydney, ông bố của ba đứa con, tám tháng tuổi, ba và năm tuổi.

Ba tuần trước, anh nhận được tin mình bị ung thư ruột già giai đoạn cuối.

 

Anh đã chia sẻ câu chuyện của mình trên trang cá nhân và không ngờ có hơn 70.000 người đọc.

Scott đưa ra thông điệp, khiến nhiều người phải suy ngẫm: “Bạn đừng nghĩ rằng mình còn có cả cuộc đời để sống”.

 Dưới đây là trích lược những chia sẻ của Scott Riddle:

“Chỉ ba tuần trước, mọi thứ vẫn tuyệt vờicho đến khi tôi nhận thấy thinh thoảng máu chảy bất thường và có một số thay đổi về thói quen đường ruột. Bác sĩ  còn không nghĩ đó là ung thư và nói chỉ cần khám nội soi. Nhưng tôi đã làm thêm một số xét nghiệm. Khi biết mình đang mắc ung thư ruột già giai đoạn cuối, tôi cảm giác như một con sóng đang ập tới.

 Trong sáu tháng tới, tôi sẽ tiến hành hóa trị và có hai cuộc giải phẫu, cắt bỏ phần ruột và loại bỏ hai khối u từ gan.

Điều này đối với một người chưa bao giờ bị bệnh nặng là một nỗi ám ảnh cực kỳ lớn.

 Cuộc sống có thể thay đổi chỉ sau một đêm.

 Đột nhiên, tôi không thể chắc chắn có thể tham gia sinh nhật thứ năm của con trai, và có lẽ cũng sẽ chẳng tham dự được ngày kết hôn của con gái lớn.

 Tôi có lẽ sẽ không biết những gì con tôi muốn thay đổi. Tôi cũng đang phải vật lộn với những suy nghĩ tôi sẽ trông thế nào trong tương lai, cuộc sống sự nghiệp.

 Nếu tôi có thể sống sót qua việc này, chắc tôi khó có thể trở về thế giới cũ của mình, vì quan điểm sống của tôi đã thay đổi cơ bản. 

 Cuộc sống bây giờ là hai mặt của một vấn đề.

 Một mặt tôi phải lạc quan, phải tin rằng mình có thể đánh bại căn bệnh ung thư này. Mặc khác tôi cần chuẩn bị cho một kịch bản khi phẫu thuật không thành công, và tôi sẽ được cho biết: tôi còn bao nhiêu thời gian để sống.

 

Là chồng và cha của ba đứa trẻ, kịch bản đó rõ ràng đáng sợ, nhưng là một thực tế tôi cần chuẩn bị. 

 Tôi có nhiều thông điệp muốn gửi tới mọi người, từ câu chuyện của tôi, từ tầm quan trọng của những chuyến thăm khám bác sĩ định kỳ.

 Hãy đặt những vấn đề thực dụng sang một bên, dừng ngay ý nghĩ bạn còn có cả cuộc đời, để làm bất cứ việc gì bạn muốn.

 Và dĩ nhiên bạn sẽ không bao giờ nghĩ rằng những điều tồi tệ sẽ xảy ra với bạn. Nhưng hãy để tôi nói với bạn: mọi điều có thể xảy đến bất cứ lúc nào, nó có thể lấy đi tất cả mọi thứ. 

 

Vì thế, bạn hãy luôn nhớ những điều đó trong tâm. Và xin vui lòng, ngừng phàn nàn về những điều nhỏ nhặt” (Đề nghị, trích từ bài viết ở trên mạng)

Và, đề nghị trên vẫn luôn là những cảm-nhận, ta có được sau những giây phút suy-tư về đời mình và đời người. Đề-nghị này, thật đúng để ta áp-dụng từng ngày/giờ, chí ít là khi có những tư-duy này/khác vẫn thấy xảy đến với mọi người trong Đạo, như sau:

“Nhìn vào nhà Đạo, ai cũng thấy dân con Đạo Chúa hôm nay có cả hai hình thức sống là nói và làm. Nhiều lúc, ta chỉ nói và nói, chứ không làm. Lại có lúc, ta vẫn làm nhưng chẳng nói, dù một lời. Điều này làm mọi người nhớ đến nhân vật trong phim dài nhiều tập có đầu đề “Cha Phó Xứ Đạo Dibley” luôn bắt đầu câu nói của ngài bằng những tiếng “Không! không! và không!” để rồi sau đó kết thúc bằng chữ “Có”. Có làm thực. Có hợp tác.

 Và đôi lúc nghĩ lại thấy mình từng nói “Có! có! Nhất định sẽ làm”, nhưng cuối cùng vẫn thành: Không! Không làm. Và cũng chẳng làm điều mình từng nói từng hứa, giống nhiều người trong ta.

 Đi vào thực tế, giống câu truyện ở nhà thờ xảy ra vào cuối thánh lễ, các vị chủ tế có thói quen ra đứng ở cuối nhà thờ rồi nói năng/chào hỏi hết mọi người. Có lần nọ, vị linh mục chủ tế hỏi một giáo dân: tuần sau có đi lễ không đó? Rất nhiều người cứ trơn tru trả lời: “Dạ thưa cha, có chứ!” Thưa thì thưa “có”, nhưng các tuần sau đó lại khó mà thấy mặt vì nhiều lý do. Chính đó, là hiện trạng của người đi Đạo ở trời Tây, hôm nay.

 Hôm nay đây, có thể cũng có người lúc đầu tình thật không dám nói, nhưng sau đó suy đi nghĩ lại, vẫn cứ đến. Có người coi đây là chuyện linh mục không nên hỏi, vì ai mà dám thưa.

 Các nghiên cứu khảo sát hôm nay nhiều khi cho thấy: thế hệ trẻ hôm nay, và cả người cao niên cũng thế, cứ tính chuyện lời lãi mỗi khi được hỏi, ở nhà thờ hay ngoài ngõ, về bất cứ chuyện gì cần lấy ý kiến. Nói chung, nhiều người chỉ muốn dính dự vào các cuộc khảo sát với phỏng vấn khi biết mình chắc chắn có lợi, nếu trả lời.

 Nói thế nghĩa là: những người này chỉ muốn làm người dưng, trên trời rơi xuống. Chẳng muốn dính vào chuyện gì, dù thuộc vấn đề trong Đạo.

 Quần chúng hôm nay ra như lạc lõng ở đâu đó. Chẳng muốn ai ngó ngàng hỏi han mình điều gì, dù là ý kiến riêng tư. Kín đáo. Hoặc ép buộc. Khi xưa, ở phương Tây, các linh mục còn có thói quen đến từng nhà thăm viếng, hỏi han về cuộc sống của mỗi người. Ngày nay, làm thế tức vi phạm đời tư, rất nguy hiểm và dễ bị ra toà.

 Nhiều năm trước, mỗi khi có đề tài cần hỏi han/góp ý hay tranh luận ở giáo xứ, còn có người chủ trương phóng khoáng, bảo thủ hoặc trung lập. Ngày nay, lại thấy những người như thế đi đâu mất tuốt; hoặc, họ vẫn có đó nhưng chẳng thiết tha gì chuyện bàn-luận hay tranh đấu cho sự sống còn của Hội thánh.

 Nói chung, người đạo hạnh hôm nay không còn muốn dính dự vào chuyện chung của Hội thánh. Nhiều vị vẫn lành thánh, chuyên chăm chuyện lễ lạy, đạo hạnh. Nhưng không còn thiết tha chuyện tham gia nhóm hội đoàn thể có sinh hoạt tập thể, năng nổ tích cực. Mà chỉ muốn rút vào vỏ sò, sống riêng rẽ, cho khoẻ.

 

Nhiều vị lại nhận ra rằng: thế giới nhà đạo mình đang sống, nay khác trước rất nhiều. Khác, với thế giới của người phàm thực tế luôn trong sáng, đầy dẫy những thông tin có đủ mọi chọn lựa. Thế nên, ai cũng sống hết mình với mọi người. Ngay tại sở làm, mọi người đều hăng say lãnh trách nhiệm. Vẫn làm vì chuyện chung. Nhưng trong Hội thánh, nhiều người đã bắt đầu ít nói. Không còn “cà kê dê ngỗng” như khi trước, dù về chuyện hội đoàn.

 Bởi thế nên, khi linh mục chủ tế hỏi: “Anh/chị tính sao? Có ý-định tham dự chầu Thánh Thể thứ sáu này chứ?” Câu trả lời thường là: “Không dám đâu! Tụi này bận lắm. Chẳng kiếm đâu ra giờ, để đi chầu!”

 Nếu hỏi: “Anh/chị tính sao? Có định tham gia biểu tình phản đối đôi ba chuyện chính phủ làm không?” Câu trả lời, chắc cũng thế. Giống như người hành tinh vừa chợt ghé bến. Không chuyện trò, cũng không trao đổi. Chẳng bước đi về nhiều phía.

 Ngày hôm nay, các câu Chúa hỏi hoặc nói ở Tin Mừng cũng đại loại như thế: “Các ông nghĩ sao?” Hỏi như thế, không có nghĩa Chúa yêu cầu ta bắt chước những người chỉ biết nói chứ không làm, hoặc chỉ làm chứ không nói. Chúa không có ý khen ngợi hai loại người nói trên. Ngài cũng chẳng giải thích tại sao Ngài không làm thế, hoặc Ngài vẫn làm như thế. Ngài chẳng nói hoặc có nói về bất cứ sự gì. Ngài không đi vào chi tiết để cho mọi người biết tại sao Ngài có lập trường như vậy.

 Dù, lập trường đó có là bê trễ, biếng nhác. Dù, đó có là kế hoạch, hoặc một cảnh tình nào đó khó đoán. Dù, đó là chuyện đáng quên hoặc chẳng lý gì về công kia việc nọ, cần tôn trọng. Điều Ngài hỏi chỉ là: “Các ông nghĩ sao?” mà thôi.

 Liên tưởng đến chuyện này, có thể là ta nghĩ mình đang đi vào loại hình nào đó của cuộc sống trong Hội thánh, vào một thời rất khác thường trong lịch sử. Một Hội thánh từng đòi rất ít ở dân con đi Đạo, một đòi hỏi về thời gian và thiện chí. Một Hội thánh không đòi hỏi những gì ngoại lệ, nơi con người. Một thánh hội từng học cách biết tôn kính hết mọi người. Tôn và kính, chuyện riêng tư của dân con đi Đạo. Học hỏi và trân trọng việc phục vụ dân con hơn là sắp xếp để họ phục vụ Thánh Hội, mà thôi.

 Phục vụ dân con, còn có nghĩa: không dùng bạo động để dính dự vào cuộc sống đích thực của dân con đi Đạo. Phục vụ, còn có nghĩa: tôn trọng phẩm cách tư riêng của mỗi người. Chính đó là nền tảng của việc yêu thương lẫn nhau. Nền tảng, của việc trở nên cộng đoàn dân con sống với nhau rất thân thương. Nền và tảng, để dân con sống lập trường hăng say mà nhận lãnh Thánh Thể Tình Yêu, ngày của Chúa.

 Đó, là những người con đang sống khác biệt. Sống rất đẹp, ở thế giới cuộc đời, rất thực. Một đời người, luôn tham gia giùm giúp hết mọi người. Trong đời…” (X. Lm Kevin O’Shea, Lời Chúa Sẻ San Chúa Nhật 26 thường niên năm A, nxb Tôn Giáo 2013, tr. 203-206)

Cuộc sống con người ở đời thường hay trong Đạo luôn có hai mặt. Có thể là như thế. Và, cũng có thể không là như vậy. “Có thể hay không thể” về nhiều việc, vẫn là hai mặt và/hoặc nhiều mặt của nhà Đạo trên thực tế. Một thực-tế, trải dài nhiều thế-kỷ qua các giai-đoạn thăng/trầm, trong lịch-sử.

Cuộc sống thăng trầm trong Đạo/ngoài đời vẫn là và sẽ là một thực tế để đời, khiến ta suy nghĩ suốt cuộc đời. Suy tư bằng nhiều cách thức rất đa dạng. Suy tư qua tâm niệm, hoặc hát hò, đọc truyện kể để nhớ mãi mà sống. Sống hân hoan, tiến tới bất kể sự việc xấu/tốt xảy đến với mình và với người, trong đời.

Trong suy tư như thế, nay đề-nghị bạn và tôi, ta cứ hiên-ngang hướng về phía trước mà tiến bước và rồi lại sẽ vui tươi cất tiếng hát vang những ca-từ đang hát dở ở trên, rằng:

“Ngày ấy em như hoa sen”
Mang nhiều giáng hiền những khi chiều lên,
Ngày ấy em như sương trong,
Nép trên bông hồng, mượt trên cánh nhung.

 Ngày ấy em như cung tơ,
Cho đời thẫn thờ, cho tôi dệt mơ
Đường khuya tay đan ngón tay,
Ước cho đời ước mơ dài.

Nhưng năm tháng vô tình,
Mà lòng người cũng vô tình,
Rồi mộng úa thay màu xanh,
Người yêu xa bến mộng,
Đò xưa đã sang sông,
Dòng đời trôi mênh mông,
Dáng xưa nay xa rồi,
Đường khuya mưa rơi rơi,
Phố xưa quên một người,
Bàn chân gieo đơn côi,
Gió mang theo cơn lạnh
Về rót lệ trên môi.”

(Trần Ngọc Sơn – bđd)

“Bàn chân gieo đơn côi”, “Gió mang theo cơn lạnh về rót lệ trên môi”, vẫn là những lời hát của người người ở đời. Hát thế rồi, nay xin khép lại câu chuyện phiếm Đạo/đời, để rồi cứ thế mạnh-dạn lên mà sống những ngày còn lại trong đời, đầy hứa hẹn.

Hứa hẹn rồi, nay đề nghị bạn/đề nghị tôi, ta trở về với vườn ngự uyển dẫy đầy giòng chảy tâm-tư làm đoạn kết những bảo rằng:

Thật vậy,

chấp nhận những nỗi khổ phải chịu một cách bất công

vì lòng tôn kính Thiên Chúa,

thì đó là một ân huệ.

Vì nếu có tội mà anh em bị đánh đập và đành chịu,

thì nào có vẻ vang gì?

Nếu làm việc lành và phải khổ

mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng,

thì đó là ơn Thiên Chúa ban.

Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế.”

(1 P 2: 19-212)

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn mong chờ sống cuộc đời  

đẹp như bao giờ.

Lấy đâu xe cưới ngời hoa trắng?

Suy Tư Tin Mừng tuần 2thường niên năm A 15/10/2017

Tin Mừng (Mt 22: 1-14)

Một hôm, Đức Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với các thượng tế và kỳ mục trong dân rằng: “Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ không chịu đến. Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi, và dặn họ: ‘Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!’ Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm nong trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà hành hạ và giết chết. Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng. Rồi nhà vua bảo đầy tớ: ‘Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới.’ Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.

“Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: ‘Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?’ Người ấy câm miệng không nói được gì. Nhà vua liền bảo những người phục dịch: ‘Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng! Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít’.”

& & &

 

“Lấy đâu xe cưới ngời hoa trắng?”

“với những mâm cau phủ lụa điều?”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

            Xe cưới ngời hoa trắng, nào thấy ai bước vào. Mâm cau phủ lụa điều, người dự nào thấy vui. Không vào dự, là nỗi niềm của dân con ngưòi Do thái đuợc kể ở trình thuật, rất hôm nay.

            Trình thuật, nay thánh sử kể một loạt 4 dụ ngôn: có truyện của hai người con hành xử rất khác biệt. Có, tá điền quái ác giết cả Chủ Vườn. Nay, đến tiệc cưới được mời cũng không người đến dự. Dụ ngôn nào, cũng biểu tỏ một bài học bóng bảy về luân lý. Và, dụ ngôn cũng biểu lộ phong thái phóng khoáng của Chủ Tiệc. Bởi thế nên, ta đừng hiểu ý/lời ở truyện kể theo nghĩa rất đen. Nhất là khi Vua quan sai quân hầu quở trách đám thực khách, xong rồi còn tống họ vào chốn tối tăm khóc lóc vì trang-phục mình mặc không đúng qui cách.

            Hãy nên xét kỹ dụng ý mà người kể muốn con dân hiểu rõ khi đọc truyện. Truyện dụ ngôn, còn trưng “lời mời” Chủ tiệc cho gửi đi rất sớm để người được mời kịp mà nhận lời đến dự theo đúng ‘nguyên tắc’ mà người Do thái vẫn có. Nguyên tắc đây, là thói quen lịch thiệp mà Chủ tiệc muốn khích lệ mọi người hãy nhanh chóng nhận lời mời. Nhận lời, mà xử thế hệt như thể người bệnh đến gặp bác sĩ chuyên khoa như đã hẹn.

            Nhận lời mời ở đây, là hành động cần thực hiện nhất thứ là khi Chủ tiệc lại là Vua quan quyền thế chốn gian trần muốn dân con mình vui hưởng an lạc. Nhận lời mời, không chỉ cổ võ người được mời tìm chốn an vui mừng lễ. Nhưng, còn để diễn bày lệnh truyền từ Chủ tiệc. Bởi thế nên, dân con nào từ chối lời mời của vua quan Chủ yến tiệc chắc chắn là hành động có ý bạo phản. Như thế, hậu quả sẽ nghiêm trọng.

            Cũng may là ở dụ ngôn, người được mời chỉ là phó thường dân hiền hoà vẫn cư xử theo qui cách của xã hội thời bấy giờ. Họ, là đám dân dã luôn thực hiện công tác xã hội theo qui cách chân phương, hiền lành. Tuy nhiên, ở trình thuật, người khước từ lời mời đến dự tiệc không giải thích lý do tại sao mình từ chối. Lại cũng chẳng đưa ra lời cáo lỗi nào, như khuôn phép mà người lịch sự vẫn hay làm.

            Làm như thế, là bởi vì: họ vốn là những người suốt ngày “bận rộn” với đủ thứ công việc, không thể dự đến dự tiệc như lòng mong muốn. Có thể là, họ bận vui chơi. Bận trông nom con cái, bận dọn dẹp nhà cửa, nấu nướng; hoặc trả biên lai tiền điện/nước, cắt cỏ, bởi thế nên không coi chuyện dự tiệc là việc ưu tiên “cần làm ngay”. Thời buổi này, người người thường lấy lý do sinh kế, hoặc chăm sóc gia đình để thoái thác mọi lời mời. Cũng may, trình thuật không coi việc nhận lời ở đây chuyện “cần làm” ngay tức thì.

            Tuy nhiên, Vua quan lại coi việc khước từ lời mời dự tiệc là hành xử khiếm lễ, nên đã sai quân hầu đi khắp chốn mời cho hết mọi người tốt/xấu, để thay thế. Giới thẩm quyền người Do thái xưa không cho phép những ai có vấn đề tâm thần hoặc tật bệnh đến hội đường. Cả những kẻ lôi thôi quần áo không chỉnh, cũng như đám người hôi hám, bẩn dơ được phép xuất hiện chốn liên hoan, tế tự. Bởi vào thời đó, làm gì đã có chương trình thanh lọc, rà soát, dõi theo như bây giờ!

            Đọc đến đây, hẳn có người sẽ đưa ra thắc mắc về ý của người viết trình thuật là gì?

Quả là, trình thuật muốn đem đến cho người đọc một số các điểm chính mà tác giả muốn nói đến. Đó, là lược sử quá trình ơn cứu độ gửi đến với dân con mọi người. Vua quan là chính Chúa. Người được mời là dân Do thái. Sứ giả là các ngôn sứ. Người Con là Đức Giêsu. “Thành bị phá huỷ” là Đền thờ Giêrusalem bị sụp đổ -hồi năm 70 khi thánh Mátthêu viết trình thuật này. Mọi chi tiết trong trình thuật là vấn đề tranh cãi khá nghiêm trọng trong cộng đoàn Mátthêu vào thời đó. Lúc mọi người đều thấy bối rối không biết rằng kế hoạch cứu độ của Chúa thực sự diễn tiến như thế nào.

            Đoạn cuối trình thuật tiếp tục câu truyện dụ ngôn về trang-phục mặc ở tiệc cưới. Có vị đến dự lại chẳng ăn vận cho phải phép. Dụ ngôn không nói những người đến dự có được ban phát “áo xống” này hay không. Chủ Tiệc có cung cấp cho họ không. Chắc là không! Thiên Chúa là Chủ tiệc có khi nào lại ấn định luật lệ về “áo xống” như thế?

            Về với thư của thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côlôsê trong đó có đoạn ghi: “Theo tư cách là thánh được Thiên Chúa chọn và yêu mến, anh em hãy mặc lấy lòng lân mẫn, chạnh thương, đức nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ, đại lượng…” (Cô 3: 12).

            Mỗi lần nói đến tín hữu đã được thanh tẩy, thánh Phaolô vẫn cứ bảo: Hãy mặc lấy Đức Kitô, như thứ trang-phục cần thiết. Xem như thế, đây chính là thứ trang-phục cần mặc ở tiệc cưới.

            Trang phục, là thái độ sống trong đời. Là, cung cách người tín hữu Đức Kitô cần có để sống đích thực là con cái Chúa. Cũng có thể, đây là ý chính mà lược sử ơn cứu độ muốn nói đến. Ơn cứu độ, là ơn sản sinh ra con người sống như thế. Dù, họ đến từ đâu. Dù, họ có thuộc về Hội thánh nào, hoặc nhóm hội/đoàn thể nào, cũng thế.

            Cuối trình thuật, thánh Mátthêu còn đưa ra cho người đọc một chân lý hiển nhiên được thánh nhân nhắc đi nhắc lại nhiều lần: “Kẻ được gọi thì nhiều, nhưng người được chọn thì ít.” (22: 14) Ở bản 70 Hy Lạp, đây là câu thơ hạp vận: nhiều người được gọi (kletoi), nhưng được chọn lại ít(ekletoi). Danh từ thần học của ta có cụm từ “chiết trung”. Người có tính “chiết trung” là người không phù hợp với mẫu mực đời sống ở quanh mình. Là, người mặc lấy cho mình thái độ sống từ nhiều nơi khác.

            Thánh Phaolô nói với những người hồi hướng trở về với cộng đoàn Hội thánh rằng họ là những người thực sự được chọn, nên phải sống đúng thực với quà tặng “nhưng-không” đặc biệt ấy. Thánh Mátthêu viết theo cung cách khác. Thánh nhân yêu cầu người đọc thực hiện lối sống đảm bảo họ là dân được chọn và được tặng ban đường lối sống khác biệt. Thánh nhân khích lệ người đọc tỏ ra mình khác biệt, vì được gọi theo cung cách mình là người của Chúa. Thánh nhân không tìm cách khiến họ lo sợ qua con số thống kê hoặc tỷ lệ những người được cứu. Thánh nhân hoàn toàn lạc quan về chuyện này.

            Vấn đề là nay ta tự hỏi: ta làm gì được với dụ ngôn và chân lý ấy. Lệnh truyền: “Hãy đi ra các ngã đường…” (Mt 22: 9) làm người đọc nhớ đến câu nói của thánh Phaolô, khi thánh nhân rời Tiểu Á qua ngõ nhỏ đi Châu Âu. Thị trấn đầu tiên thánh nhân đặt chân tới, là thị trấn Philiphê, một “ngã đường” trên chính lộ được mọi người biết.

            Thánh Phaolô cũng được gửi đi tới đó. Thoạt khi vừa đặt chân lên nơi đó, thánh Phaolô biết ngay là dân chúng nay chán ngấy cuộc sống dưới trướng của đế quốc La Mã. Và, họ cũng muốn về với Giavê Chúa của người Do thái, nhưng lại không muốn dấn bước trở thành người như họ. Thành thử, ta gọi họ là những người ‘rất chung chung’ luôn kiếm tìm. Những người rất “chiết trung”, được ghi nhận. Và, thánh Phaolô kêu mời họ để đưa về với tiệc Lời Chúa cũng là tiệc Thánh Thể.

            Vấn đề là: ngày nay đâu là giao lộ để ta đi? Ai là người rất “chiết trung” của ta?

            Thiết tưởng, họ vẫn là người luôn ưa chuộng lòng hào hiệp/chính trực hơn tôn giáo lớp lang, qui củ. Họ nhận ra rằng: sự xấu tự nó cũng bén rễ sâu như lòng hào hiệp. Và, họ cũng là người thấy được rằng chính lòng hào hiệp sẽ phá đổ được sự xấu để tiến tới. Họ, còn là người nhận thức biết rằng hư vô, lố bịch và cả đến cái chết cũng không là yếu tố nói lên được lời cuối cùng cho bất cứ một ai. Là người nhận ra hương vị của hạnh phúc, nhưng họ lại đánh mất hạnh phúc làm nơi nương náu.

            Những người như họ cũng biết chiêm ngưỡng/thán phục sự tốt đẹp lành thánh mà vui hưởng. Họ vẫn mong chờ mọi sự tốt đẹp đến với mình và khao khát đạt điều tốt đẹp như thế. Là, người kiếm tìm đất sống tốt đẹp mà không có sự khuynh loát, chiếm đoạt. Nơi, mà mọi người có tự do trở thành người tốt lành, biết yêu thương, giùm giúp hết mọi người.

            Tuyệt diệu thay, khi ta và mọi người đều nhân danh Chúa mà ra giao lộ để kiếm tìm mọi người và mọi sự tốt lành. Kiếm và tìm, để rồi sẽ đưa những người chiết trung mà mình vừa gặp mặt, được về với cộng đoàn tình thương, rất tốt lành, chuyên chăm lo, giùm giúp. Nếu được thế, cộng đoàn dân Chúa sẽ là Tiệc Cưới tuyệt diệu. Tiệc Thánh Thể đích thực, đúng ý của Chủ Tiệc vẫn mong đợi mọi người dự.

Trong tâm tình đó, cũng đề nghị mọi người ngâm tiếp vần thơ còn để ngỏ. Ngâm rằng:

“Chiều nay…thương nhớ nhất chiều nay,

Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy.

Tôi uống cả em và uống cả

một trời quan tái, uống cho say.”

(Nguyễn Bính – Một Trời Quan Tái)

Trời Quan Tái, là cõi trời mở ngỏ với mọi người. Trời Quan Tái, nay là cộng đoàn Nước Trời ở nơi đó ta vẫn sống mà uống cho say tình thương yêu tuyệt diệu, tốt lành. Rất Thánh Thể.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –  

              Mai Tá lược dịch. 

KINH MÂN CÔI – LỜI KINH KỲ DIỆU

KINH MÂN CÔI – LỜI KINH KỲ DIỆU

ĐGM Giuse Vũ Duy Thống

Ngày 16 tháng 10 năm 1978, trong lần xuất hiện đầu tiên trước công chúng sau khi đắc cử Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã ký thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ Maria và giới thiệu lại Kinh Mân Côi cho toàn thế giới như là “lời kinh diệu kỳ.”

Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân Côi,” một lần nữa ngài ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân Côi là lời kinh kỳ diệu.  Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.

Vâng, Kinh Mân Côi là kinh phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhưng đâu là nét kỳ diệu của Kinh Mân Côi?

1)      Kinh Mân Côi hệ tại việc gặp gỡ Đức Maria trong tình mẫu tử

Đành rằng lời kinh nào dâng lên Đức Maria cũng là dâng lên trong tình mẫu tử, như được thể hiện qua truyền thống cầu nguyện Việt Nam, nhất là trong lãnh vực ca nguyện.  Cứ thử làm một bảng liệt kê những ca khúc hát dâng Đức Mẹ ắt sẽ rõ.  Nhiều lắm.  Chỉ những ca khúc bắt đầu bằng chữ “Mẹ ơi” từ nốt bậc năm về nốt bậc một không phân biệt trưởng thứ cũng có thể làm thành một cuốn sưu tập không mỏng.  Nhưng vượt lên tất cả, riêng Kinh Mân Côi đã đẩy tình mẫu tử ấy lên một cung bậc diệu kỳ.

Phần đầu Kinh Kính Mừng dựa trên Phúc Âm là lời chào của sứ thần Gabriel phối hợp với lời mừng của bà Êlisabet làm thành lời xưng tụng Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng từ trời cao xuống thế làm người.  Phần sau Kinh Kính Mừng là lời xin ơn trợ giúp qua đó tín hữu xưng hô Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.  Và tổng hợp cả hai phần ngắn ngủi đọc lên chỉ trong mười lăm giây đồng hồ là cả một lời kinh kỳ diệu nối kết tâm tình con thảo vào với mầu nhiệm Đức Maria trên đỉnh vị thế là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ con người; Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của mỗi người chúng ta.

Nếu “nải chuối buồng cau, đường mía lau xôi nếp một” là ca dao tình mẹ ngọt ngào trong văn học dân gian Việt Nam, thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu ngọt ngào tình mẫu tử thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa Trời, nhưng vẫn cứ luôn gần gũi với người dương thế cho dẫu phận người hôm nay không đẹp đẽ gì, vì xét cho cùng chỉ là kẻ có tội “khi nay và trong giờ lâm tử.”  Chính vì thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi nơi.

2)      Kinh Mân Côi: Qua Mẹ để tới Chúa Kitô

Thật vậy, hình thức lời kinh trực tiếp dâng lên Đức Mẹ, nhưng nội dung chiêm niệm lại là mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu trải ra theo mười lăm ngắm truyền thống Vui Thương Mừng và năm mầu nhiệm sự Sáng do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề nghị.  Chả thế mà Đức Phaolô VI trong Tông huấn Marialis Cultus đã gọi Kinh Mân Côi là “cuốn Phúc Âm rút gọn”,  rất gọn không còn cách nào gọn hơn được nữa, để có thể ghi vào trong bộ nhớ sống, sẵn sàng bung ra làm việc trên màn hình máy tính cuộc đời.  Từ việc Chúa Giêsu sinh ra trong Máng cỏ đến việc Người biến hình trên Núi Tabor, rồi qua việc Người như bị Chúa Cha ruồng bỏ, để hiện hình sáng tỏ trong mùa Phục Sinh.

Tất nhiên người ta có thể đến với Chúa Giêsu bằng nhiều cách khác nhau như đọc Phúc Âm, rước Thánh Thể, thương giúp người…, nhưng đến với Chúa Giêsu bằng cung cách của Kinh Mân Côi thì quả là độc đáo; không phải là bí tích nhưng hiệu quả dọn đường cho bí tích; không phải là Phụng Vụ nhưng tâm tình rất cận kề Phụng Vụ; và nhất là được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng”, tức là “khẩu tụng” đều đều lời kinh Đức Mẹ và “tâm suy” dài dài cuộc đời Đấng Cứu Thế.

“Ad Jesum per Mariam” chính là đây, bằng phương thức tụng niệm tức là vừa đọc vừa suy niệm của Kinh Mân Côi.  Đó là kết cấu tinh thần.  Ngay trong kết cấu vật thể của tràng hạt Mân Côi, người ta cũng thấy rõ dụng ý này: năm mươi Kinh Kính Mừng kết thành tràng hạt, nhưng cả tràng hạt chỉ được kết thúc bằng tượng Chúa Giêsu chịu chết treo trên Thánh Giá.  Thật diệu kỳ được Đức Mẹ dẫn tới Chúa Giêsu.

3)      Kinh Mân Côi là phương thế giúp người người vững bước trên đường nên thánh

Khi nêu lên hiệu quả thánh hóa của Kinh Mân Côi trong nhịp sống Giáo Hội, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không quên gợi lại những chứng tích lịch sử, những khuôn mặt tiền nhiệm, những lời kêu gọi của Đức Mẹ trong những lần hiện ra tại Lộ Đức và Fatima, và nhất là chính kinh nghiệm bản thân gắn bó với chuỗi Mân Côi, ngày xưa còn bé cũng như trong sứ vụ hiện nay, và cách riêng qua biến cố ngài bị ám sát hụt ngày 13 tháng 05 năm 1981 kỷ niệm dịp Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima.  Kinh Mân Côi, như kiểu nói bình dân, chính là vũ khí giúp ta chống lại ba thù “ma quỷ, thế gian, xác thịt”, và là sinh tố tăng cường ba việc “nên thánh, mến Chúa, yêu người.”

Nếu nhân đức là việc tốt lành được tập tành lặp đi lặp lại thành thói quen phản xạ tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ và theo chân Chúa Giêsu từ Máng Cỏ ấp ủ qua Thập Giá, trui rèn tới Nhà Tạm chiêm ngưỡng.  Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân đức khơi gợi để theo lời kinh thả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng người được bớt bất xứng hơn, tạo điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên thánh.

Những nhà thông thái có sách vở chữ nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành, những nhà tu trì có bầu khí ổn định làm phương tiện, còn hầu hết chúng ta là những nhà “tu hành” nghĩa là tu thân bằng việc hành đạo như người giáo dân, hay đi tu mà vẫn phải đi tới đi lui, đi xuôi đi ngược ở giữa cuộc đời như các giáo sĩ triều, thì Kinh Mân Côi chính là một hành trang và phương tiện “bỏ túi” (hoặc đeo tay đeo cổ) gọn nhẹ giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội.  Theo định nghĩa này, Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời ta vào mạng sự sống thiêng liêng.

Tóm lại, Kinh Mân Côi, đúng như kiểu nói của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chính là lời kinh diệu kỳ dâng qua Đức Mẹ tới Chúa Giêsu để người đọc được vững bước đi trên đường thánh hóa.  Chúng ta quyết tâm đọc Kinh Mân Côi với nhiều xác tín hơn, để tâm hồn được bình an hơn, và nhất là từng người được nỗ lực sống thánh đức hơn.

ĐGM Giuse Vũ Duy Thống (trích trong “Từng Bước Một Thôi”)

Anh chị Thụ & Mai gởi

Tảng đá bị loại bỏ…không thương tiếc

Tảng đá bị loại bỏ…không thương tiếc

 

Khổng Nhuận 

Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường (Mt 21 : 42)

Tảng đá bị loại bỏ này là hình ảnh của một ngôn sứ đích thực.

Trước hết Ngôn sứ, người là ai??

Trong cuốn “Thánh Gioan Thánh Giá ”, tôi rất thích thú khi biết nguồn gốc của thuật ngữ Ngôn Sứ trong tiếng Hipri: (trang 20-21)

·                Ro’eh : Người nhìn thấy

·                Nabhi : Người công bố, Người làm chứng

Sứ điệp đầu tiên của vị Ngôn sứ là cuộc sống của ông,

là kinh nghiệm riêng tư của ông về Thiên Chúa,

chính kinh nghiệm riêng tư này chứng tỏ ông là một ngôn sứ đích thực

Như vậy, ngôn sứ đích thực phải là người nhìn thấy.

Nhìn thấy gì?

Nhìn thấy Chúa thực sự sống động trong lòng mình và niềm hạnh phúc mình đang vui hưởng,

lúc đó mình mới công bố điều mình đã khám phá, đã cảm nghiệm, đã sống ngay trong đời sống bình thường của đời mình.

Nhưng thực tế cho thấy, khi ngôn sứ chia sẻ kinh nghiệm riêng tư của mình về Thiên Chúa  ..thì hầu như chẳng ai chịu đón nhận.

Họ có thể nói thẳng ra rằng:

–  Không đủ thuyết phục, vì khác với điều họ đã được dạy từ thủa còn thơ…

  Lạ tai quá, khó có thể chấp nhận… so với niềm tin truyền thống.

  Coi chừng lạc đạo đến nơi rồi… vì nó khác với gì họ đang tin tưởng.

Tại sao vậy?

Đơn giản chỉ vì, những điều anh ta chia sẻ chẳng giống ai…thậm chí có vẻ còn khác với niềm tin của mọi người từ trước tới nay

Thí dụ như :

Ai cũng coi Chúa là đấng cao sang uy quyền, phải vừa Kính vừa Sợ (như sợ cọp)!!

Anh ta lại cảm nhận Thiên Chúa là nguồn sống Thần linh.

Hoặc là:  Ai cũng tin : Chúa ngự trên trời hoặc trong phép Thánh Thể

Anh ta lại cứ một mực quả quyết rằng : Chúa sống ngay trong lòng mình

Chính vì thế người ta hè nhau loại trừ anh ta bằng nhiều kiểu khác nhau:

Nghe cho vui, chẳng hề quan tâm..tôi cứ vừa Kính vừa Sợ Chúa… giống như người khác cho chắc ăn – ai sao tôi vậy –  có vẻ giống đàn cừu quá nhỉ???

Sau khi anh ta tuyên bố gì đó, với tư cách huynh trưởng, tôi vẫn cảm thấy có bổn phận buộc phải giáo huấn các thành viên phải tuân theo những gì đã được dạy, không thể suy nghĩ khác, không thể sống khác kẻo vi phạm truyền thống từ xưa tới nay…

Hoặc sau khi anh ta chia sẻ điều gì đó có vẻ khác với điều tôi tin tưởng, tôi lập tức đứng lên để chấn chỉnh ngay kẻo sợ rằng các thành viên đi lạc đường

Còn chuyện các thành viên có lớn lên trong Chúa hay không, tôi chẳng quan tâm.

Bằng chứng là khi mới gia nhập cộng đoàn, các thành viên có vẻ phấn khởi vì nhận được một vài điều mới mẻ.

Nhưng….sau khi gia nhập cộng đoàn 10 năm, các thành viên vẫn dậm chân tại chỗ. Chia sẻ Lời Chúa hàng tháng vẫn cứ như vịt nghe sấm hoặc chia sẻ như những anh mù sờ voi…

Cùng lắm chúng tôi chỉ có vẻ đạo đức hơn người… nhưng con người nội tâm đích thực vẫn như trẻ suy dinh dưỡng trường kỳ

Tóm lại, bỗng nhiên gặp một tay suy tư, ăn nói khác người, chúng tôi phải tìm cách triệt ngay kẻo anh ta làm rối loạn cộng đoàn, khiến cho các thành viên hoang mang

Thực vậy, với chiêu bài bảo vệ sự ổn định cộng đoàn…

Chúng tôi cùng nhau quyết chí ra tay loại bỏ tảng đá này… không thương tiếc

 

TAM VỊ TỔNG LÃNH THIÊN THẦN

TAM VỊ TỔNG LÃNH THIÊN THẦN

Tên các Tổng lãnh Thiên thần (TLTT) đều có tiếp vĩ ngữ “el”: Michael (Việt ngữ là Micae), Raphael, Gabriel.  “El” nghĩa là “trong Thiên Chúa” còn Angel là Thiên thần.  Tổng lãnh Thiên thần có thể xuất hiện cùng lúc ở nhiều nơi.  Trong các Tổng lãnh Thiên thần có 3 vị “nổi tiếng” là Micae, Raphael, và Gabriel được mô tả trong Kinh thánh.  Thế kỷ VIII, Kitô giáo đã biết tôn sùng các Thiên thần. 

Micae nghĩa là “Người giống Thiên Chúa” hoặc “Giống như Thiên Chúa”.  Micae là Thiên thần đầu tiên được Thiên Chúa tạo dựng, là vị trưởng trong các TLTT, có nhiệm vụ bảo vệ, khuyến khích, về sức mạnh, sự thật và chính trực.  TLTT Micae bảo vệ chúng ta về thể lý, tâm lý và tình cảm.  Ngài cũng giám sát mục đích sống của chúng ta.  Chức năng chính của ngài là loại bỏ những điều xấu.  TLTT Micae cầm gươm lửa để bảo vệ chúng ta khỏi Satan và những điều tiêu cực.  Khi có ngài ở bên, bạn có thể thấy lấp lánh ánh sáng xanh hoặc đỏ.  Hãy cầu xin TLTT Micae nếu bạn thấy mình bị tấn công về tâm lý hoặc thiếu can đảm giữ lời hứa, thiếu động lực, thiếu lòng tin, thiếu can đảm, mất phương hướng, thiếu nghị lực, thiếu sức sống, thiếu tự tin, và cảm thấy bất xứng.  TLTT Micae giúp chúng ta nhận biết mục đích sống và giúp bảo vệ.

Micae đã chiến thắng Satan (thiên thần sa ngã), ở trong Vườn Địa Đàng để dạy cho Adam cách gieo trồng và chăm sóc gia đình, nói với Môsê trên Núi Sinai, và năm 1950 ngài được tôn vinh là Thánh Micae, “bổn mạng của cảnh sát”, vì ngài giúp can đảm và anh dũng.  Ngài cũng có “bí quyết lạ” về sửa các thiết bị điện và máy móc, kể cả máy tính và xe cộ.  Nếu xe bị hư, hãy cầu xin TLTT Micae!  Ngài giúp chúng ta hành động theo sự thật mà không thỏa hiệp với tính liêm chính và giúp chúng ta tìm ra bản chất và vẫn là chính mình.  Ngài hay giúp đỡ nên khi gặp khó khăn trong công việc, khi bị chứng nghiện nào đó, khi bị bệnh, khi đau khổ, hoặc gặp ác mộng, hãy cầu xin TLTT Micae!

Raphael nghĩa là “Sức mạnh Chữa lành của Thiên Chúa” hoặc “Thiên Chúa chữa lành”.  Chữ Rapha trong tiếng Do Thái nghĩa là “bác sĩ” hoặc “người chữa lành”.  TLTT Raphael giúp chúng ta mau lành bệnh về thể lý và tinh thần nếu chúng ta cầu xin ngài.  Kinh thánh kể chuyện ông Abraham khỏi đau sau khi ông chịu phép cắt bì.  Bạn cũng có thể cầu xin TLTT Raphael thay cho người khác.  TLTT Raphael là người dễ gần gũi và vui vẻ nhất trong các Thiên thần.  Ngài thường được vẽ là người vui vẻ nói chuyện với người khác.  Ngài rất ngọt ngào, yêu thương, tử tế và hiền từ, khi bạn thấy những tia sáng xanh là ngài đang ở gần bạn.  Ngài thường hoạt động với TLTT Micae để trừ các thực thể xấu và luôn “hộ tống” mọi người ở khắp nơi.

Là người chữa lành, TLTT Raphael là “bổn mạng của các du khách” vì ngài đã giúp ông Tôbia trong cách hành trình.  Hãy cầu xin TLTT Raphael khi bạn đi du lịch hoặc đi đây đi đó để được bình an trong chuyến đi.  Ngoài ra, ngài còn giúp việc chuyên chở, cư trú và đồ đạc an toàn.  Ngài cũng nâng đỡ các chuyến hành trình tâm linh, giúp tìm kiếm chân lý và hướng dẫn.

TLTT Raphael dạy ông Tôbia cách làm hương liệu và dầu thơm bằng cá và đã chữa khỏi mù cho người cha của ông Tôbia.  Ngài được cầu xin giúp các y bác sĩ, các thầy thuốc, các nhà trị liệu và các bác sĩ phẫu thuật.  Hãy cầu xin ngài nếu bạn là sinh viên trường y hoặc đang học chữa bệnh và xin ngài giúp bạn học tập tốt.  Ngài không chỉ giúp chữa lành về thể lý và tâm lý, mà ngài còn chữa lành các vết thương lòng từ quá khứ.

Trong các lĩnh vực khác, TLTT Raphael còn giúp tìm lại những thứ bị thất lạc, giúp cai nghiện, giúp sáng suốt, tạo tình đoàn kết. Hãy cầu xin TLTT Raphael!

Gabriel nghĩa là “Sức mạnh của Thiên Chúa” hoặc “Thiên Chúa là Sức mạnh của tôi”.

Chỉ có TLTT Gabriel được mô tả là nữ giới trong nghệ thuật và văn chương, ngài là “sứ giả” và là một trong các TLTT có tên trong truyền thống Do Thái, được coi là một trong hai Thiên thần cao cấp theo truyền thuyết Do Thái giáo và Hồi giáo.  Ngoài TLTT Micae, TLTT Gabriel là Thiên thần duy nhất được nhắc đến trong Cựu ước.  Ngài là TLTT quyền thế và mạnh mẽ, những ai kêu cầu ngài sẽ cảm thấy muốn hành động và sẽ có kết quả tốt.

TLTT Gabriel là người đã truyền sứ điệp cho Thánh Êlidabét và Đức Mẹ Maria về việc thụ thai và sinh con, là Thánh Gioan Tẩy giả và Chúa Giêsu thành Nadarét.  Nếu bạn sắp lập gia đình, hãy cầu xin TLTT Gabriel giúp bạn trong việc thụ thai, sinh sản và dạy dỗ con cái.

TLTT Gabriel có thể giúp chúng ta về nghệ thuật và giao tiếp.  Ngài sẽ hành động như một huấn luyện viên, gợi cảm hứng và kích thích các nghệ sĩ, các nhà báo và những người làm việc về truyền thông, ngài giúp hành động một cách can đảm và mau mắn.

Ngài cũng giúp chúng ta nhận biết ơn gọi đích thực của mình.  Hãy cầu xin ngài hướng dẫn nếu bạn đi không đúng đường tâm linh, nếu bạn muốn hiểu cuộc sống và mục đích sống.  Nếu bạn dự định chuyển nhà, mua bán công to việc lớn hoặc muốn đổi nghề, hãy cầu xin TLTT Gabriel!

Cũng hãy cầu xin ngài nếu cơ thể bạn bị ngộ độc hoặc đầu óc nghĩ về những chuyện xấu, ngài sẽ giúp bạn thanh tẩy hồn xác.  Các phụ nữ bị hãm hiếp hoặc bị quấy rối tình dục, rồi cảm thấy mình ô uế, bị dằn vặt, hãy cầu xin TLTT Gabriel!

Trầm Thiên Thu
(Chuyển ngữ từ AngelFocus.com)

Ở cũng bâng khuâng, đi chẳng đành,

Suy Tư Tin Mừng trong tuần thứ 26 thường niên năm A 01/10/2017

(Mt 21: 28-32)

            Khi ấy Đức Giêsu nói với các thương tế và kỳ mục trong dân rằng:

“Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.” Nó đáp: “Con không muốn đâu!” Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: “Thưa ngài, con đây!” nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” Họ trả lời: “Người thứ nhất.” Đức Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.”

& & &

 “Ở cũng bâng khuâng, đi chẳng đành,”

“đêm trời, sao cũ sáng long lanh.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

  Mai Tá lược dịch. 

 Bâng khuâng đi chẳng đành, nên người đời có ra đi nhưng miệng mồm nào đã nói. Đêm trời sáng long lanh, nên đời người dù có hứa, nhưng chân mình rày chẳng buớc. Chẳng bước đi, dù miệng mình vẫn cứ nói. Nói và làm, trình thuật thánh sử viết hôm nay.

Trình thuật thánh Mát-thêu nay kể về dụ ngôn hai người con có những lời lẽ và lập trường thực hiện rất khác biệt. Cả hai hành xử kiểu đối nghịch. Người con đầu nói mình sẽ không làm điều cha muốn, nhưng cuối cùng vẫn thực hiện. Còn người kia, tuy nói làm nhưng lại không thực hiện lời mình nói. Tức, một người những nói và nói, nhưng không làm. Còn người kia, vẫn làm mà không cần nói. Dụ ngôn đây cho thấy: chính hành động nói nhiều hơn lời nói, ngoài cửa miệng.

Thời của Chúa, dụ ngôn được dùng như huấn dụ để khen ngợi những người hành động thiết thực hơn là nói. Bằng dụ ngôn này, Chúa bênh vực đám người bị khích bác, chê bai như đám đĩ điếm, dân thu thuế bệ rạc hơn giới thượng lưu, Pharisêu, ký lục chỉ nói và nói chứ chẳng làm gì để đổi thay con người mình. Thời của thánh Mát-thêu sau đó, dụ ngôn còn được dùng để đề cao người ngoại đạo hơn một số người Do thái cứ tự hào mình chuyên chăm đạo hạnh. Thế kỷ 20 lại dùng dụ ngôn hôm nay nhằm nâng đỡ đám người nghiện ngập dám làm sửa đổi chính mình hơn những người chỉ những nói và nói, khiến người khác bị khùng điên.

Áp dụng vào nhà Đạo, thấy dân con Đạo mình nhiều lúc có cả hai. Tức, nhiều khi ta những nói và nói, mà không làm. Có những lúc, ta vẫn làm mà chẳng nói, lấy một lời. Điều này làm ta nhớ về nhân vật trong phim dài nhiều tập có đầu đề “Cha Phó Xứ Đạo Dibley” luôn bắt đầu câu nói của ngài bằng những tiếng “Không! không! và không!” để rồi sau đó kết thúc bằng chữ “Có”. Có làm thực. Có hợp tác. Và đôi lúc nghĩ lại thấy mình từng nói “Có! có! Nhất định sẽ làm”, nhưng cuối cùng vẫn thành: Không! Không làm. Và cũng chẳng làm điều mình từng nói từng hứa, giống nhiều người trong ta.

Đi vào thực tế, giống truyện kể về cuối buổi lễ, các vị chủ tế có thói quen đứng ở cuối nhà thờ nói năng chào hỏi hết mọi người. Có lần, vị linh mục hỏi một giáo dân: tuần sau có đi lễ không đó? Rất nhiều người cứ trơn tru trả lời: “Dạ thưa cha, có chứ!” Thưa thì thưa “có”, nhưng các tuần sau đó lại khó mà thấy mặt vì nhiều lý do. Chính đó, là hiện trạng của người đi Đạo ở trời Tây, hôm nay. Hôm nay đây, có thể cũng có người lúc đầu tình thật không dám nói, nhưng sau đó suy đi nghĩ lại, vẫn cứ đến. Có người coi đây là chuyện linh mục không nên hỏi, vì ai nào dám thưa.

Nghiên cứu khảo sát hôm nay nhiều khi cho thấy: thế hệ trẻ hôm nay, và cả người cao niên cũng thế, lại cứ tính chuyện lời lãi mỗi khi được hỏi, ở nhà thờ hay ngoài ngõ, về bất cứ chuyện gì cần lấy ý kiến. Nói chung, nhiều người chỉ muốn dính dự vào các cuộc khảo sát với phỏng vấn khi biết mình chắc chắn có được lợi lộc, nếu trả lời. Tức là, họ chỉ muốn làm người dưng, trên trời rơi xuống. Chẳng muốn dính vào chuyện gì, dù thuộc vấn đề trong Đạo. Quần chúng hôm nay ra như lạc lõng ở đâu đó. Chẳng muốn ai ngó ngàng hỏi han mình điều gì, dù là ý kiến riêng tư. Kín đáo. Hoặc ép buộc. Khi xưa, ở phương Tây, các linh mục còn có thói quen đến từng nhà thăm viếng, hỏi han về cuộc sống của mỗi người. Ngày nay, làm thế tức vi phạm đời tư, rất nguy hiểm và dễ bị ra toà.

Nhiều năm về trước, mỗi khi có đề tài cần hỏi han góp ý hay tranh luận ở giáo xứ, còn có người chủ trương phóng khoáng. Bảo thủ. Hoặc trung lập. Ngày hôm nay, lại đã thấy những người như thế đi đâu mất. Hoặc, họ còn đó nhưng chẳng thiết tha gì chuyện bàn luận hay tranh đấu cho sự sống còn của Hội thánh. Nói chung, người đạo hạnh hôm nay không còn muốn dính dự vào chuyện chung của Hội thánh. Nhiều vị vẫn lành thánh, chuyên chăm chuyện lễ lạy, đạo hạnh. Nhưng không còn thiết tha chuyện tham gia nhóm hội đoàn thể có sinh hoạt tập thể, năng nổ tích cực. Mà chỉ muốn rút vào vỏ sò, sống riêng rẽ, cho khoẻ.

Nhiều người nhận ra rằng: thế giới nhà đạo họ đang sống nay khác trước rất nhiều. Khác nhiều thế giới của người phàm thực tế luôn trong sáng. Đầy dẫy thông tin. Đủ mọi chọn lựa. Nên, họ vẫn hết mình với mọi người. Nơi sở làm, ngừời người đều hăng say trách nhiệm. Vẫn cứ làm, vì chuyện chung. Nhưng trong Hội thánh, nhiều người đã bắt đầu ít nói. Không cà kê như trước. Dù, chuyện hội đoàn.

Thế nên, khi hỏi: “Anh/chị tính sao? Có định tham dự chầu Thánh Thể thứ sáu này chứ?” Câu trả lời thường là: “Không dám đâu! Tụi này bận lắm. Chẳng kiếm đâu ra giờ, để đi chầu!” Nếu hỏi: “Anh/chị tính sao? Có định tham gia biểu tình phản đối đôi ba chuyện chính phủ làm không?” Câu trả lời, chắc cũng thế. Giống như người hành tinh vừa chợt ghé bến. Không chuyện trò, cũng không trao đổi. Chẳng bước đi về nhiều phía.

Dụ ngôn hôm nay, câu Chúa hỏi cũng tựa như thế: “Các ông nghĩ sao?” Hỏi như thế, không có nghĩa Chúa yêu cầu ta bắt chước những người chỉ biết nói chứ không làm, hoặc chỉ làm chứ không nói. Chúa không có ý khen ngợi hai lớp người nói ở trên. Ngài cũng chẳng giải thích sao Ngài lại không làm thế. Hoặc, vẫn làm như thế. Ngài chẳng nói hoặc có nói, bất cứ thứ gì. Ngài cũng không đi vào chi tiết để cho biết tại sao Ngài có lập trường như vậy. Dù, lập trường đó có là bê trễ, biếng nhác. Dù, đó có là kế hoạch, hoặc cảnh tình nào đó khó đoán. Dù, đó là chuyện đáng quên đi. Hoặc, chẳng lý gì về công kia việc nọ, cần công chúng tôn trọng. Điều Ngài hỏi chỉ là: “Các ông nghĩ sao?”

Liên tưởng chuyện này, có thể ta sẽ nghĩ mình đang đi vào loại hình nào đó của Hội thánh, vào thời buổi rất khác trong lịch sử. Một Hội thánh từng đòi rất ít ở dân con trong Đạo. Đòi và hỏi, về thời gian và thiện chí. Một Hội thánh không đòi những gì là ngoại lệ, nơi con người. Một thánh hội từng học hỏi cung cách biết tôn kính hết mọi người. Tôn và kính, chuyện riêng tư của dân con nhà Đạo. Học hỏi và trân trọng, việc phục vụ họ hơn việc sắp xếp để họ phục vụ Hội thánh, mà thôi.

Phục vụ dân con, còn có nghĩa: không dùng bạo động để dính dự cuộc sống đích thực của dân con. Phục vụ dân con, còn có nghĩa: tôn trọng phẩm cách tư riêng của mỗi người. Chính đó là nền tảng của việc yêu thương lẫn nhau. Nền và tảng, của việc trở nên cộng đoàn dân con sống thân thương như thế. Nền và tảng, để dân con sống, với lập trường hăng say đi đến mà nhận lãnh Thánh Thể Tình Yêu đích thật, ngày Chúa Nhật. Đó là những người con đang sống rất khác biệt. Sống rất đẹp, ở thế giới cuộc đời, cũng rất thực. Một đời người, luôn tham gia giùm giúp rất đắc lực.

Bởi thế nên, lời Chúa ở dụ ngôn hôm nay với câu hỏi: “Các ông nghĩ sao?” sẽ là lời nhắc nhở về động thái ta phải có trong đời, với người đời. Dù, người đó có là bạn đạo hay bạn đời, cũng như thế.

Trong cảm nhận tình Ngài thương ta qua câu hỏi ấy, cũng nên ngâm lại lời thơ trên, để còn nhớ:

“Tôi cũng chưa đi hết dặm đường,

Đời dài, mới đến nửa sầu thương.

Một đêm trở bước cho lòng nghĩ,

Sao biếc rơi tàn mộng phấn hương.”

(Đinh Hùng – Đêm Khuya Trờ Bước)

Trở bước hay cất bước, để rồi đi. Đi rồi, sẽ nhớ lời Thầy dặn. Dù đời mình ra sao đi nữa, vẫn cứ bước. Cứ ra đi rao truyền lời Thầy vẫn hỏi và vẫn răn dạy. Để rồi, mọi người tin vào Thầy. Ở đây. Bây giờ.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn – 

 Mai Tá lược dịch. 

THỰC THI Ý CHÚA

 THỰC THI Ý CHÚA

      Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: “Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con.  Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha!”  Nó thưa lại rằng: “Con không đi.”  Nhưng sau nó hối hận và đi làm.  Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy.  Nó thưa lại rằng: “Thưa cha, vâng, con đi.  Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?”  Họ đáp: “Người con thứ nhất.”  Chúa Giêsu bảo họ: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông.  Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài.  Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài” (Mt 21:28-32)

 ****************************** **

Qua đoạn Tin Mừng trên chúng ta thấy Thiên Chúa đã trao ban cho con người sự tự do.  Và với sự tự do này, con người có thể bước theo Chúa nhưng cũng có thể quay lưng chống lại Ngài.  Con người có thể vâng theo thánh ý Chúa nhưng cũng có thể từ khước đường nẻo của Ngài.  Thế nhưng điều quan trọng hơn đó là Thiên Chúa sẽ xử sự với chúng ta tuỳ theo việc chúng ta có hay không thực thi thánh ý Ngài, chứ không tuỳ thuộc vào lời nói của chúng ta.

     Trong hai người con, người được coi là đã thực thi ý định của cha không phải là người đã mau mắn trả lời vâng trước lệnh truyền của cha, nhưng trong hành động thì lại không làm.  Mà chính là người tuy đã trả lời không, nhưng trong thực tế lại đi làm điều người cha truyền dạy.

     Trong xã hội thời Chúa Giêsu cũng như thời nay, vẫn có những hạng người tỏ ra ngoan đạo, công chính, siêng năng với các việc đạo đức, kinh hạt, nhà thờ nhà thánh.  Lời nói thì đầy vẻ thuần phục đối với các giáo huấn của Chúa, nhưng trong hành động lại chẳng có chút vẻ gì là ưng thuận đối với điều Chúa truyền dạy. Những người bề ngoài xem ra dễ bảo, nhưng thực chất lại là người khó dạy.  Họ đã có thể đánh lừa được dư luận vì cái mau mắn bên ngoài của họ.

     Trong xã hội thời Chúa Giêsu, những người này tượng trưng nơi hàng tư tế, đầu mục, nhóm biệt phái và thông luật.  Tuy đánh lừa được dư luận, nhưng thực ra, họ đã đánh mất chỗ của họ trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.  Thế vào chỗ của họ lại là những người thu thuế, những gái điếm, những người mà ai cũng biết là đang vi phạm ý Chúa, được bày tỏ trong lề luật và trong giới răn của Ngài.  Họ là những người qua lối sống của mình, đã nói không trước lệnh truyền của Chúa.  Nhưng một lúc nào đó, những người này đã nhận ra sự sai trái của mình, đã biết hối cải và đi làm điều Chúa truyền dạy.  Họ là những người được giáo huấn và những việc làm của Ngài lay động, làm thức tỉnh, thay đổi hẳn cuộc sống của họ.  Họ là người đàn bà xứ Samaria gặp Chúa bên giếng nước; là ông Giakêu được Chúa viếng thăm; là bà Maria xức dầu cho Chúa; là tên trộm cướp bị đóng đinh bên cạnh Chúa; là tất cả những kẻ tội lỗi biết hối cải.  Vấn đề chính yếu là làm theo ý Chúa. 

    Thế nhưng, người ta lại thường hay tự mãn với một nhãn hiệu, một dấu chỉ bên ngoài nào đó.  Chẳng hạn tự hào là người công giáo ngoan đạo, chúng ta khó mà nghĩ đến việc trở lại, mở rộng cửa tâm hồn đón nhận cái mới, cái bất ngờ, cái chưa được nghe biết bao giờ.

     Dụ ngôn cho chúng ta thấy trở ngại lớn nhất trên đường vào Nước Trời không phải là tội lỗi mà là sự ngủ mê giữa những tiêu chuẩn đạo đức được chúng ta dựng nên, sự sợ hãi phải đặt lại vấn đề những cái mà chúng ta đã xác tín.  Tuy nhiên, có đặt lại vấn đề như thế, chúng ta mới nhận biết được thánh ý Chúa và mới đi đúng con đường Chúa muốn chúng ta đi.

     Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết can đảm đặt lại vấn đề với chính mình, nhìn lại cách mình đang sống đạo để xem Chúa đang ở đâu trong đời sống chúng con.  Xin mở mắt tâm hồn để chúng con nhìn ra thánh ý Chúa và giúp chúng con hiểu rằng lắng nghe lời Chúa không chưa đủ, mà còn phải sống theo thánh ý Chúa muốn.  Amen.

 Sưu tầm

    From: KittyThiênKim & KimBang Nguyen

THỰC THI Ý CHÚA

THỰC THI Ý CHÚA

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: “Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con.  Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha!”  Nó thưa lại rằng: “Con không đi.”  Nhưng sau nó hối hận và đi làm.  Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy.  Nó thưa lại rằng: “Thưa cha, vâng, con đi.  Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?”  Họ đáp: “Người con thứ nhất.”  Chúa Giêsu bảo họ: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông.  Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài.  Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài” (Mt 21:28-32)

****************************** **

Qua đoạn Tin Mừng trên chúng ta thấy Thiên Chúa đã trao ban cho con người sự tự do.  Và với sự tự do này, con người có thể bước theo Chúa nhưng cũng có thể quay lưng chống lại Ngài.  Con người có thể vâng theo thánh ý Chúa nhưng cũng có thể từ khước đường nẻo của Ngài.  Thế nhưng điều quan trọng hơn đó là Thiên Chúa sẽ xử sự với chúng ta tuỳ theo việc chúng ta có hay không thực thi thánh ý Ngài, chứ không tuỳ thuộc vào lời nói của chúng ta.

Trong hai người con, người được coi là đã thực thi ý định của cha không phải là người đã mau mắn trả lời vâng trước lệnh truyền của cha, nhưng trong hành động thì lại không làm.  Mà chính là người tuy đã trả lời không, nhưng trong thực tế lại đi làm điều người cha truyền dạy.

Trong xã hội thời Chúa Giêsu cũng như thời nay, vẫn có những hạng người tỏ ra ngoan đạo, công chính, siêng năng với các việc đạo đức, kinh hạt, nhà thờ nhà thánh.  Lời nói thì đầy vẻ thuần phục đối với các giáo huấn của Chúa, nhưng trong hành động lại chẳng có chút vẻ gì là ưng thuận đối với điều Chúa truyền dạy. Những người bề ngoài xem ra dễ bảo, nhưng thực chất lại là người khó dạy.  Họ đã có thể đánh lừa được dư luận vì cái mau mắn bên ngoài của họ.

Trong xã hội thời Chúa Giêsu, những người này tượng trưng nơi hàng tư tế, đầu mục, nhóm biệt phái và thông luật.  Tuy đánh lừa được dư luận, nhưng thực ra, họ đã đánh mất chỗ của họ trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.  Thế vào chỗ của họ lại là những người thu thuế, những gái điếm, những người mà ai cũng biết là đang vi phạm ý Chúa, được bày tỏ trong lề luật và trong giới răn của Ngài.  Họ là những người qua lối sống của mình, đã nói không trước lệnh truyền của Chúa.  Nhưng một lúc nào đó, những người này đã nhận ra sự sai trái của mình, đã biết hối cải và đi làm điều Chúa truyền dạy.  Họ là những người được giáo huấn và những việc làm của Ngài lay động, làm thức tỉnh, thay đổi hẳn cuộc sống của họ.  Họ là người đàn bà xứ Samaria gặp Chúa bên giếng nước; là ông Giakêu được Chúa viếng thăm; là bà Maria xức dầu cho Chúa; là tên trộm cướp bị đóng đinh bên cạnh Chúa; là tất cả những kẻ tội lỗi biết hối cải.  Vấn đề chính yếu là làm theo ý Chúa.

Thế nhưng, người ta lại thường hay tự mãn với một nhãn hiệu, một dấu chỉ bên ngoài nào đó.  Chẳng hạn tự hào là người công giáo ngoan đạo, chúng ta khó mà nghĩ đến việc trở lại, mở rộng cửa tâm hồn đón nhận cái mới, cái bất ngờ, cái chưa được nghe biết bao giờ.

Dụ ngôn cho chúng ta thấy trở ngại lớn nhất trên đường vào Nước Trời không phải là tội lỗi mà là sự ngủ mê giữa những tiêu chuẩn đạo đức được chúng ta dựng nên, sự sợ hãi phải đặt lại vấn đề những cái mà chúng ta đã xác tín.  Tuy nhiên, có đặt lại vấn đề như thế, chúng ta mới nhận biết được thánh ý Chúa và mới đi đúng con đường Chúa muốn chúng ta đi.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết can đảm đặt lại vấn đề với chính mình, nhìn lại cách mình đang sống đạo để xem Chúa đang ở đâu trong đời sống chúng con.  Xin mở mắt tâm hồn để chúng con nhìn ra thánh ý Chúa và giúp chúng con hiểu rằng lắng nghe lời Chúa không chưa đủ, mà còn phải sống theo thánh ý Chúa muốn.  Amen.

 Sưu tầm

From langthangchieutim

12 TÔNG ĐỒ CÁC NGÀI SỐNG Ở ĐÂU VÀ CHẾT NHƯ THẾ NÀO SAU NGÀY CHÚA VỀ TRỜI

12 TÔNG ĐỒ CÁC NGÀI SỐNG Ở ĐÂU VÀ CHẾT NHƯ THẾ

NÀO SAU NGÀY CHÚA VỀ TRỜI

Trần Mỹ Duyệt

Những ngày xa xưa, buổi đầu của biến cố Tin Mừng được rao giảng. Chúa Giêsu đãđích thân tuyển chọn 12 người để cộng tác với Người trong việc rao truyền Tin Mừng cứu độ. Tin Mừng ghi:

“Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ: Ðó là Simon, mà Người đặt tên là Phêrô, và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là Nhiệt Thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt là kẻ phản bội.” (Luca 6:12-16)

Ngoại trừ một vài Tông Đồ được nhắc đến về số phận và cái chết của họ trong Tin Mừng như Phêrô, Gioan, ngay cả Giuđa, số còn lại ít ai được biết tới. Chúng ta muốn biết là sau khi Chúa Giêsu về trời thì số phận của họ như thế nào?!! Theo Thánh Kinh thì sau khi Chúa chịu chết, sống lại và về trời, đặc biệt, sau ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống thì đời sống của các Tông Đồ đã thay đổi hoàn toàn. Các ông không còn rụt rè, nhút nhát, sợ sệt, nhưng đã mạnh dạn, can đảm rađi để làm chứng nhân cho Tin Mừng. Vậy họ đã làm gì? Sống và chết ra sao?

Sau khi Chúa Giêsu về trời, các tông đồ trở lại Giêrusalem và cầu nguyện 10 ngày như Chúa Giêsu đã căn dặn (Acts 1:4). Các ông nhận lãnh Thánh Thần trong lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (Acts 2). Lịch sử của Giáo Hội đã khai mở, nhưng ngoài những gì được ghi trong các Phúc Âm, trong Tông Đồ Công Vụ, trong các Thánh Thư, đặc biệt là những thư của Phaolô, chúng ta biết rất ít về số phận các tông đồ, mặc dù chúng ta vẫn tin tưởng rằng các ông đã đi rất xa tận cùng tráiđất để rao giảng về Chúa Giêsu. Các ông đã đau khổ vì đức tin, và đã bị chết một cách đau đớn để trở thành những chứng nhân sống động cho Tin Mừng mà các ông rao giảng.

13 Tông Đồ gồm Matthias thay thế Giuđa, Phaolô, Tông đồ dân ngoại do Chúa Giêsu chọn trên đường đi Damas, đều được cho là đã hy sinh mạng sống mình vì danh Chúa Giêsu trong khi rao truyền danh thánh ấy cho muôn dân. Phaolô bị chặt đầu bằng gươm, vì ông có quốc tịch Rôma. Ông bị hành hình dưới thời hoàngđế Neron năm 33 AD. Cuộc đời của Phaolô, ơn gọi đặc biệt của ông, cuộc trở lại diệu kỳ của ông, hành trình truyền giáo của ông, cũng như những tư tưởng phi thường của ông đã được ghi rõ trong Tông Đồ Công Vụ và các thư do ông viết. Số còn lại:

1.Andrê – Ngư phủ từ Galilee, em của Phêrô. Nguyên thủy ông là môn đệ của Gioan Tẩy Giả (Mark 1:16-18). Sau khi cùng anh là Phêrô bỏ nghề chài lưới theo Chúa, ông thuộc số những tông đồ đầu tiên của Người.

Ông giảng đạo cho người Scythians và Thracians. Bị đóng đinh và an táng tại Patrae (Hy Lạp). Theo Hippolytus, Andrê giảng đạo tại Georgia/Bulgaria ngày nay, phần đất nối liền với Hắc Hải gần Thổ Nhĩ Kỳ. Ông bị đóng đinh tại Achaia, treo trên một cây Olive tại Patrae, thành Achaia, Hy Lạp và được an táng tại đây.Eusebius trong lịch sử của Giáo Hội đã dùng tài liệu của Origen để xác định rằng Andrê giảng đạo tại Scythia. Trong Chronicle of Nestor thêm rằng, ông giảng đạo dọc theo Hắc Hải (Black Sea) và sông Dnieper tới mãi tận Kiev, và từ đó di chuyển đến Novgorod. Do đó, ông trở thành Bổn Mạng của nước Ukraine, Romania và Nga. Theo tương truyền, ông lập tòa ở Byzantium (Constantinople và Istanbul sau này) năm 38 AD, mà sau này biến thành tòa thượng phụ Constantinople, và đã đặt Stachys là Giám Mục. Cả Andrê và thánh Stachys đều được coi là quan thầy của Tòa Thượng Phụ.

Andrê được miêu tả là bị đóng đinh ở Patras (Patrae) thuộc Achaea. Những tài liệu trước đó trong Công Vụ của Andrê (Acts of Andrew) như Gregory of Tours đã cho rằng ông bị trói chứ không phải bị đóng bằng đinh vào một loại thập giá gọi là thập giá Latin có hình chữ X. Cái chết của ông, theo nhà sử học thuộc thế kỷ 15, là Dorman Newman, khi ở Patras thuộc đông Hy Lạp năm 69 AD, vị Tổng Đốc Rôma là Aegeates ở đây đã tranh luận với ông về tôn giáo. Aegeates đã cố gắng thuyết phục Andrê từ bỏ Kitô giáo để tránh bị tra tấn và xử hình. Cuối cùng ông bị đánhđòn và sau đó bị đóng đinh. Ông đã sống thoi thóp trên thập giá 2 ngày, và không ngừng rao giảng Tin Mừng cho những người qua lại. Tại Hy Lạp gần Ethiopia vẫn còn dấu tích mộ của ông.

Ngoài ra, Scots cũng cho rằng Andrê cũng đã đến giảng đạo tại Picts (vì vậy họ dùng cây thập giá của Thánh Andrê trên quốc kỳ của họ).

2.Bathôlômêô – Ông là người từ Cana, Galilee với tên gọi Nathanael. Trong Lịch Sử Hội Thánh của Eusebius, sau khi Chúa về trời, Barthôlômêô sang truyền giáo tại Ấn Độ. Cũng có một truyền thuyết khác nói rằng ông đã truyền rao Tin Mừng tại Ethiopia, Mesopotania, Parthia, và Lycaonia. Nhưng phần đông vẫn cho rằng ông giảng đạo tại Ấn Độ, và sau này đến Greater Armenia.

Theo truyền tụng đại chúng của người Armenians, Tông Đồ Jude (Thaddaeus) là người đầu tiên đến truyền giảng Tin Mừng trong vùng này từ năm 43-66 AD. Năm 60 AD, Barthôlômêô đã đến cùng truyền đạo với ông. Khi đến nơi, ông đã mang theo Phúc Âm của Mátthêu, và đã dịch Phúc Âm này sang tiếng địa phương. Barthôlômêô tử đạo tại Albanopolis, Armenia năm 68 AD.

Nhiều tài liệu khác nhau về cái chết của ông, một số cho rằng ông bị chém đầu. Một số khác thì ông bị lột da sống và chịu đóng đinh ngược đầu do lệnh truyền của Astyages. Lý do vì ông đã cải đạo Polymius em của Astyages, vua xứ Armenia.

3.Giacôbê – Con của Alphaeus chứ không phải là con của Zebedee, và do đó, ông cũng không phải là anh em với Gioan. Tên của ông được xuất hiện trong Mt 10:1-3, Mark 3:14-19, Luca 6:13-16, và Acts 1:13. Mẹ của ông là Maria, một trong những phụ nữ ra viếng mộ Chúa Giêsu và thấy mộ trống trong buổi sáng Phục Sinh. Ôngđược gọi là Giacôbê Trẻ hay Giacôbê Hậu để phân biệt với Giacôbê Tiền hay Giacôbê Cả là anh của Gioan.

Cũng vì cha ông là Alphaeus, nên ông thường bị cho là anh em với Matthêu.

Sau khi Chúa về trời, ông truyền rao Tin Mừng trong phạm vy Giêrusalem. Ông là một trong những vị Tông Đồ sống lâu nhất, có lẽ còn hơn cả Gioan. Ông qua đời năm 94 tuổi. Trước hết bị đánh đòn, và bị ném đá. Sau đó bị đánh vào đầu bằng một cây gậy. Tuy nhiên, theo Hippolytus, thì ông bị người Do Thái ném đá tại Giêrusalem. Và ông được mai táng bên cạnh đền thờ năm 62 AD.

4.Giacôbê – Con của Zebedee người làng Bethsaida, và là anh của Gioan. Ông và em ông là anh em họ với Chúa Giêsu. Để phân biệt với Giacôbê con ông Alphaeus, ông được gọi là Giacôbê Cả. Tên của Ông không rời xa tên em Ông là Gioan trong Mark 1:19-20; Mt 4:21), và Luca 5:1-11). Ông là Tông Đồ đầu tiên bị tử đạo năm 44 AD.

Là ngư phủ sinh sống quanh Bethsaida, Capernaum và Giêrusalem. Ông cùng emđã bỏ chài lưới đi theo Chúa Giêsu khi Người gọi hai ông, lúc hai ông đang vá lưới dưới thuyền với cha mình. Ông và em ông được Chúa Giêsu đặt cho biệt danh là con sấm sét.

Rao giảng tại Giuđêa và bị quận vương Herod Agrippa chém đầu và được an táng ở Giuđêa (Tông Đồ Công Vụ 12:2). Hippolytus xác nhận cái chết của Ông. Eusebius đã diễn tả chi tiết hơn. Đầu tiên là Stêphanô bị ném đá, rồi tiếp đến là Giacôbê bị chém đầu.

Lý do ông bị chết vì Herod Agrippa, quận vương mới của Judea muốn chứng tỏ mình trung thành với người Rôma bằng cách bắt bớ những thủ lãnh các tôn giáo. Sau khi Giacôbê bị bắt và bị dẫn đi hành hình, người tố cáo ẩn danh ông đã xúc động do lòng can đảm của ông, nên không những đã xin theo đạo, mà còn xin được chết chung cùng với Giacôbê. Đề nghị đã được chấp thuận và cả hai đã bị chém đầu.

5.Gioan – Em của Giacôbê con ông Zebedee. Ông và anh mình được Chúa Giêsu đặt cho biệt danh “Boanerges”, có nghĩa là con Sấm Sét, khi hai ông xin Chúa cho lửa bởi trời xuống thiêu hủy dân làng Samaritan vì đã không đón tiếp Ngài (Luca 9:51-54) và tham vọng do người mẹ của hai ông muốn sắp xếp chỗ ngồi bên phải, bên trái Chúa (Mark 10:35-37). Nhưng ông cũng là người được Chúa Giêsu yêu cho dựa đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly, và trối Đức Mẹ lại trước khi Ngài tắt thở trên thập giá: “Này là mẹ con” (Gioan 19:24-27).

Theo Hippolytus, trong cuộc bách hại của Domitian và giữa năm 90, ông bị lưu đày qua đảo Patmos. Bị lưu đày tại đảo Patmos, nhưng ông qua đời ở tuổi già tại Ephesus khoảng 100 AD. Ông viết Phúc Âm và viết 3 lá thơ. Cũng trong thời gian lưu đày ở đảo Patmos, ông đã viết sách Khải Huyền là cuốn sau cùng chấm dứt bộ Tân Ước.

Ông là đầu của giáo hội tại Ephesus, và được diễm phúc phụng dưỡng Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu. Theo truyền thống Latin trước đó, ông được cho là đã thoát khỏi vạc dầu sôi sau khi bị vứt vào đó tại Rôma.

6.Matthêu – Matthêu hay cũng còn gọi là Levi, con của Alphaeus, vì thế ông bị cho là anh em với Giacôbê Trẻ. Trước khi được Chúa gọi, ông là người thu thuế ở Capernaum. Ông viết Phúc Âm cho người Do Thái. Với mục đích viết Phúc Âm cho người Do Thái, nên Phúc Âm của ông được viết bằng tiếng Do Thái. Ông chết tại Hierees, một thành của Parthia (Iran). Eusebius coi ông là giám mục Papias của Hierapolis, trước năm 110 A.D.

Cũng theo một truyền thuyết, ông giảng đạo và bị tử đạo tại Persia và Ethiopia. Ông bị đâm sau lưng bằng lưỡi đòng do một tên hành quyết được vua Hertacus cử tới bởi vì ông đã phê bình đời sống luân lý của vua.

7.Simon/Phêrô – Simon sinh tại Betsaida thuộc Galilee. Xuất thân ông là một ngư phủ chuyên nghiệp. Cha của ông cũng là ngư phủ chuyên nghiệp tên là Jona. Ông có người em là Andrê cũng là Tông Đồ trong nhóm 12 được Chúa Giêsu tuyển chọn. Căn nhà ông ở tại Capernaum vào thế kỷ thứ 5 người ta xây một thánh đường bao trên đó.

Sau 3 năm theo Thầy, và sau khi Chúa về trời, ông khởi đầu sứ vụ bằng bài giảng ngay trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống (Tông Đồ Công Vụ, Chương 2). Một bài giảng gây tiếng vang, và đã thu hút 3000 người xin chịu phép Rửa ngay ngày hồm đó. Ông chuyên chú vào người Do Thái, khác với Phaolô nhắm tới dân ngoại. Sau nhiều lần bị giam giữ tại Giêrusalem, ông đã tới Rôma, ở đó cùng với Maccô thư ký của ông đã biên Phúc Âm thứ nhất theo lời giảng của ông. Phần cá nhân, ông cũng viết 2 thư xuất hiện trong Tân Ước.

Ông được Chúa Giêsu đổi tên là Cephas (Phêrô) do lòng nhiệt thành của ông.Đó cũng là tên mà Chúa Giêsu nhắm tới việc xây dựng Giáo Hội của Ngài trên ông. “Con là Cephas nghĩa là đá, trên đá này Thày sẽ xây Giáo Hội Thầy” (Mt 16:18). Irenaeus (c.180A.D) dựa theo truyền thống, cho rằng Phêrô và Phaolô đã xây dựng Giáo Hội ở Rôma. Ông là vị Giáo Hoàng tiên khởi của Hội Thánh Công Giáo.

Phêrô, theo Phaolô ghi lại trong thư gửi giáo đoàn Galatians, thì cũng đã một lần viếng thăm Antioch (Galatians 2:11) và có thể ở Corinth (1 Corinthians1:12). Cũng trong Tông Đồ Công Vụ, ông đã giảng đạo cho Cornelius ở Caesarea. Người đầu tiên được ông hướng dẫn mà không phải Do Thái (Acts 10).

Theo truyền thuyết, hoàng đế Rôma là Nero đã ra lệnh giết Phêrô năm 66 AD, sau 33 năm Chúa về trời. Ông bị đóng đinh ngược và được an táng dưới hầm vương cung thánh đường Thánh Phêrô hiện nay ở Rôma.

8.Philip – Philip người Bethsaida là một trong số những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Rao giảng ở Phrygia, Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey). Ông bị đánh đòn, bỏ vào ngục và bị ném đá năm 80 AD tại Hierapolis, Thổ Nhĩ Kỳ.

Philip là người thứ sáu trong số 12 tông đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn (Gioan 1:43). Liền sau khi trở thành môn đệ Chúa, ông đã đi giới thiệu Chúa Giêsu cho Nathanael (Bartholomew). Khi khi thấy Nathanael ngần ngại, nghi ngờ, ông đã bảo bạn mình: “Hãy tới mà xem” (Gioan 1:46). Và Nathanael cũng được Chúa tuyển chọn làm Tông Đồ. Nhưng ông được Phúc Âm nhắc đến nhiều ở biến cố Chúa làm phép lạ bánh hóa nhiều, khi Người muốn thử xem ông phải làm gì (Gioan 6:5-6). Phúc Âm cũng nói đến việc những người Hy Lạp Do Thái trong dịp lễ Vượt Qua (Passover) tại Giêrusalem nhờ ông giới thiệu họ với Chúa Giêsu (Gioan 12:20-22). Nhưng xúc động nhất là câu hỏi của ông trong Bữa Tiệc Ly, khi đó ông xin Chúa Giêsu cho được thấy Chúa Cha (Gioan 14:8-11).

Sau khi Chúa về trời Tông Đồ Công Vụ ghi, ông đã tới Samaria ở đó rao giảng Tin Mừng và thực hiện những phép lạ (Acts 8:4-6). Ông đã cải đạo được cho Simon phù thủy (Acts 8:9-13). Trong khi nhận được lời truyền từ thiên thần, ông đã gặp một người Ethiopia tại Gaza, một vị hoạn quan quyền thế dưới quyền hoàng hậu Candace, và đã rửa tội cho ông này (Acts 8:26-39). Sau cùng ông sống tại Caesarea (Acts 21:8), cũng theo Tông Đồ Công Vụ thì Philip có 4 người con gái sống đời đồng trinh và đã được ơn nói tiên tri (Acts 21:9).

  1. Simon Nhiệt Thành – Giám mục Giêrusalem sau Giacôbê. Ông đến từ Cana và vì thế cũng được gọi là Simon người Canaanite, hoặc Simon Nhiệt Thành (nhưng không thuộc những người Do Thái nhiệt thành chống lại người Rôma). Ông là con của Clopas. Theo Hippolytus, ông là Giám Mục thứ hai của Giêrusalem kế vị Giacôbê. Thánh Demetrius thành Rostov đã xác nhận ông là Giám Mục thứ hai của Giêrusalem.

Ông qua đời hưởng thọ 120 tuổi. Ông được an táng tại Giêrusalem. Theo tài liệu thì ông đã bị đóng đinh như vị Giám Mục của Giêrusalem sau khi giảng Phúc Âm tại Samaria. Một tài liệu khác lại cho rằng khi truyền giáo tại Persia ông đã từ chối không dâng lễ vật cho thần mặt trời và đã bị giết. Cũng có tài liệu cho rằng ông bị cưa đôi khi ở Persia.

Nhưng các tài liệu không đồng nhất về những nơi nào ông đã rao giảng Tin Mừng. Có tài liệu nói là ông đã giảng đạo tại Anh. Cũng có tài liệu bằng tiếng Hy Lạp thì ông giảng đạo tại Hắc Hải (Black Sea), Ai Cập, và Bắc Phi. Nhưng tài liệu Latin “Passio Simonis et Judae”, ông làm việc tại Persia, và tử đạo tại Suanir, nhưng nơi an táng của ông không ai biết.

Truyền thống sau này cho rằng sau khi giảng đạo tại Ai Cập, ông và Juđa cùng nhau giảng đạo tại Persia và Armenia, hoặc Beirut, Lebanon. Cả hai cùng tử đạo năm 65 AD.

Giáo Hội Tây Phương kính ông cùng với Jude (Thaddaeus). Ngược lại, ở Đông Phương hai ngài được kính riêng. Ông làm quan thầy những người thuộc da.

10.Thaddaeus/Judas – Con của Giacôbê. Rao giảng Tin Mừng tới Edessa gần sông Euphrates và chung quanh khu vực Mesopotamian (Iraq, Syria, Turkey, Iran). Qua đời năm 72 AD. Ông bị bắn bằng tên tại Ararat.

Thánh Giêrônimô gọi Judas là “Trinomious” có nghĩa là người có 3 tên. Trong Mark 3:18 ông được gọi là Thaddeus. Trong Matthêu 10:3, ông được gọi là Lebbeus. Và tên Thaddeus (Trái tim được sưởi ấm). Trong Luca 6:16 và Tông Đồ Công Vụ 1:13, ông được xem như Juda anh em của Giacôbê.

Theo Hippolytus, sau khi Chúa về trời, ông ra đi rao giảng Tin Mừng cho người ở Edessa (bên trên Mesopotamica) và cả vùng Mesopotania. Qua đời tại Berytus (Lebanon, gần Syria và Thổ Nhĩ Kỳ), và được an táng tại đó.

Trong Tân Ước (John 14:22 NIV). Ông đã hỏi Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly, “Tại sao Chúa chỉ tỏ mình cho chúng con mà không cho thế giới”. Qua câu hỏi này ông muốn cho mọi người được biết Chúa Kitô.

11.Thomas – Rao giảng Tin Mừng cho người Parthians/Medes/Hyrcanians (Iran), Bactrians (Afghanistan). Tử đạo bằng 4 mũi đòng đâm vào người. Ông đã bị 4 người lính dùng giáo đâm chết tại Mylapore, Ấn Độ ngày 21 tháng 12 năm 72 AD.

Thomas cũng gọi là Didymus. Có thể là một ngư phủ, thường được nhớ như Thomas đa nghi. Trong lúc Chúa Giêsu nói với các tông đồ trong Bữa Tiệc Ly, ôngđã thẳng thắn hỏi Chúa: “Lạy Chúa, chúng con không biết Chúa đi đâu, thì làm sao biết được đường” (Gioan 14:5). Cũng trong Tin Mừng Gioan (20:25), khi nghe các Tông Đồ nói đã nhìn thấy Chúa sống lại, ông đã thẳng thừng từ chối, và cho rằng chỉ khi nào ông nhìn những vết đinh nơi tay Chúa, và thọc tay vào cạnh sườn Ngài, ông mới tin. Nhưng Chúa đã thỏa mãn sự nghi ngờ của ông và qua đó, chúc lành cho mọi người sau này không được diễm phúc nhìn thấy Chúa như ông nhưng vẫn tin: “Tôma vì con đã thấy thầy và đã tin. Nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin” (Gioan 20:29). Cũng do thái độ hoài nghi của ông mà sau này mới được biết về cái chết và việc Đức Mẹ về trời cả hồn lẫn xác.

Theo Hippolytus, Thomas là một nhà rao giảng nhiệt thành. Ông được biết là đã rao giảng Phúc Âm cho người Parthians (Iran), Medes (Iran), Persians (Iran), Hyrcanians (Iran), Bactrians (Afghanistan), và Margians. Ông có lẽ năng động nhất ở đông Syria. Truyền thống cho là ông đã giảng dạy mãi xa tận Ấn Độ, mà những Kitô hữu Marthoma xa xưa đón nhận ông như đấng sáng lập, Theo sử sách ghi lại,Thôma tử đạo tại Ấn Độ để lại một cộng đoàn ở đó cho đến khi người Bồ Đào Nha tới.

12.Matthias – Theo tiếng Hy Lạp, Matthias có nghĩa “Ân huệ của Giavê”. Ông là một trong 70 môn đệ theo Chúa Giêsu từ đầu, lúc Người chịu phép rửa bởi Gioan Tiền Hô trên sông Jordan cho đến khi Người về trời (Acts 1:21-22).

Sau khi Chúa về trời, Phêrô đã triệu tập 11 Tông Đồ trên căn thượng lầu và đã bỏ phiếu giữa Matthias và Giuse còn gọi là Barsabus, người có tên họ là Justus. Matthias được chọn thay thế cho Giuđa Iscariot để nâng con số các Tông Đồ thành 12, nhưng ông là Tông Đồ không do chính Chúa Giêsu tuyển chọn.

Ông được coi là đã tới Syria cùng với Andrê. Theo Nicephorus (Historia eccl., 2, 40), Matthias đầu tiên giảng Tin Mừng ở Judaea, rồi sau đó ở Aethiopia (miềnColchis, thuộc Georgia ngày nay), và bị ném đá chết.

Một truyền thống khác cho rằng ông bị người Do Thái ném đá tại Giêrusalem, sauđó bị chém đầu. (cf.Tillemont, Mémoires pour servir à l’histoire ecclesiastique des six premiers siècles, I, 406-7). Cũng theo Hippolytus, Matthias chết ở Giêrusalem năm 80 AD. Ông là Giám Mục Giêrusalem. Và một truyền thống khác cho rằng ông đã rao truyền Phúc Âm trên bờ biển Caspian và Cappadocia.

Những tin tức liên qua đến cuộc sống và cái chết của ông không rõ ràng. Theo Nicephorus (Lịch Sử Giáo Hội II.40), đầu tiên ông rao giảng Phúc Âm ở Judea, rồi tới Ethiopia, và ông bị đóng đinh. Theo Dorotheus thì Matthias rao giảng Tin Mừng cho những người man khai, mọi rợ ở trong Ethiopia, và hải cảng biển Hyssus, tại cửa sông Phasis. Ông qua đời tại Sebastopolis, và được an táng gần Đền Thờ Mặt Trời. Thánh Helena đã đem hài cốt của ông về Rôma.

Tài liệu tham khảo

———–

-Ken Curtis, Ph.D.

Church History Timeline

6000-1 BCAD 1-300301-600601-900901-12001201-15001501-16001601-17001701-18001801-19001901-20002001-Now

– Hippolytus of Rome – Birth unknown, died around 236 AD.

– Eusebius – Was the Bishop of Caesarea in Palestine, known as the “Father of Church History” because he wrote about the church history. Lived around 260-341 AD.

From vuisongtrendoi

NGU DỐT MỚI TIN VÀO ĐẠO THIÊN CHÚA ???

 
 
 
From facebook:  Buoc Theo Chua Kito shared Hung Tran‘s post.
 
 
 
Image may contain: 1 person, beard and text
Hung Tran

NGU DỐT MỚI TIN VÀO ĐẠO THIÊN CHÚA ???
——————————–

“Chỉ những người ít học, mê muội, dốt nát mới tin vào đạo”. Giáo sư đại học kết luận bài học.

Nghe xong câu kết luận đó, cả lớp học im phăng phắc, còn lòng tôi thì bực tức mà không nói nên lời.

Sự bực tức này có lẽ một phần vì nội dung mà vị giáo sư giảng dạy không chỉ đang đụng đến đức tin của người Công giáo như tôi mà còn xúc phạm đến người có đạo.

Phần nữa, tôi đau vì không đủ khả năng để đứng lên bảo vệ Đạo của mình.

Sau khi nghe xong phần trình bày của vị giáo sư đại học mà tôi nghĩ là ông không có thiện cảm gì với người Công giáo, tôi về nhà cố đi tìm câu trả lời cho riêng mình.

Và khi đã tìm hiểu xong, tôi quyết định tìm gặp và đối thoại với vị giáo sư này.

Câu hỏi đầu tiên mà tôi đặt ra cho ông đó là

“Thưa Thầy, thầy có thể cho biết, đất nước nào hiện nay văn minh nhất, giàu có nhất, hùng mạnh nhất, tiến bộ nhất thế giới”.

Vị giáo sư trả lời ngay “ Nước Mỹ”.

Tôi nói liền “ Vậy, thầy có thể cho em biết hiện nay nước Mỹ có bao nhiều người tin vào Thiên Chúa?”

Vị Giáo sư nhìn tôi và hỏi “Em hỏi vậy là có mục đích gì?”.

Tôi đáp “Vì Thầy nói “Chỉ những ai ít học, mê muội, dốt nát mới tin vào Thiên Chúa” nên em mới hỏi thầy câu này.

Ông chần chừ một lúc rồi nói “ Nước Mỹ là nước có số người tin vào Thiên Chúa khá đông”.

“ Đúng vậy. Em được biết tại nước Mỹ có tới 86% tin vào Thiên Chúa, còn 14% nhận mình là vô thần mà. Chẳng lẽ 86% này cũng là những người mê muội, ít học phải không thầy?”

Hơn nữa, em còn thấy những bác học lừng danh như Bacon, Isaac Newton, Albert Einstein, Louis Pasteur, 31-Georges Lemaître (1894-1966) Linh mục Công Giáo, người khai phá ra thuyết Big Bang.

Max Planck (1858-1947) Đoạt giải Nobel về vật lý và là cha đẻ của thuyết Quantum mechanics. Blaise Pascal (1623–1662) Thần đồng toán học, vật lý, và Lý Thuyết.

René Descartes (1596–1650) Nhà bác học về Hình học và Những con số bất biến. Người hướng dẫn cuộc Cách Mạng Khoa học của phương Tây.

Roger Bacon (c.1214–1294), người áp dụng phương pháp thực nghiệm và các phương pháp khoa học tân tiến. Viết về Luật Thiên Nhiên, cơ khí, địa lý và quang học. Johannes Kepler (1571–1630) Nhà vũ trụ học, tính toán sự di chuyển của các thiên hà. –

Isaac Newton (1643–1727) Nhà khoa học và toán học vĩ đại nhất của mọi thời đại và biết bao nhiêu nhà bác học khác đều là những ki tô hữu tốt lành.

Rồi Louis Pasteur- nhà y khoa nổi tiếng nữa

Chẳng nhẽ, những nhà bác học này cũng là những người dốt nát và mê tín sao thầy? Em thấy tiền đề thầy đưa ra xem ra không ổn tí nào.

Vị giáo sư như chùng xuống một lúc rồi nói “ Tôi cũng chỉ nói những gì mà sách vở và bổn phận tôi phải nói. Vì đó là nghề của tôi”.

Tôi đáp lại “ Vâng nếu thầy nói vậy thì em hiểu rồi. Có điều em cảm thấy thầy không có tự do khi truyền giảng cho sinh viên những kiến thức thực sự của thầy.

Nhưng còn một điều nữa khiến em cũng đang thắc mắc”. Ông nhìn tôi và hỏi “ Em còn muốn hỏi điều gì”.

“ Vâng, cũng chỉ liên quan đến điều thầy nói ở lớp thôi. Em muốn hỏi thầy có cái gì giả dối, mê muội nó tồn tại được lâu không thầy”. Tôi đáp lại.

Người thầy của tôi lúc này thong thả nói “ Người ta vẫn nói sự thật trước sau gì cũng là sự thật, sự giả dối có lừa được một số người, một số lần rồi sẽ có ngày lộ diện em ạ”.

“Cám ơn thầy. Thầy nói chí phải. Sự thật ma vật không đổ thầy nhỉ. Nếu Đạo Công Giáo mà giả dối sao nó lại tồn tại lâu quá vậy.

Nó không chỉ tồn tại mà còn phát triển khắp cả thế giới và đứng vững một cách chắc chắn phải không thầy!”.

Người thầy gật đầu và nói với tôi “ Thầy cảm phục tinh thần của em. Em là người có chính kiến và dám sống cho chính kiến của mình.

Thầy tin rằng em sẽ làm được những điều tốt lành cho đất nước cho xã hội.

Chỉ tiếc những người có chính kiến và bản lãnh như em nơi sinh viên không có nhiều lắm. Chúc em thành công”.

Tạm biệt người thầy mà tôi đã làm phiền quấy rầy.

Tuy thời gian gặp gỡ không dài những tôi hiểu được phần nào nỗi đau của nhiều người, nhất là những giáo sư, thầy giáo, dẫu biết được sự thật mà không dám nói sự thật .

Ước mong sao nơi giảng đường trường đại học sẽ có những cánh cửa của tự do để tri thức thật được lên tiếng.

Mùa Xuân Hà Nội 2017
Sv Hoa Anh Đào
Nguồn:Facebook Lm Nguyễn Ngọc Nam Phong

CÒN CHẦN CHỜ GÌ NỮA MÀ KHÔNG TIN VÀO CHÚA & THÀNH TÂM CHẠY ĐẾN VỚI NGÀI ?

TÔI TỰ HÀO LÀ NGƯỜI CÔNG GIÁO
TÔI HÃNH DIỆN CÓ CHÚA LÀ CHA

Cùng rủ nhau về góp một thành hai

Suy Tư Tin Mừng trong tuần thứ 25 thường niên năm A 24/9/2017

(Mt 20: 1-16)  

Khi ấy Đức Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn này:

Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng.”

Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy.6 Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: “Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?”

Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi.” Ông bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho! ” Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: “Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất.”

 Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.”

 Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. (Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.)

 &  &   &

“Cùng rủ nhau về góp một thành hai”

“Những bước chân người góp đi làm đến.”

(Dẫn từ thơ Nguyên Sa)

Mai Tá lược dịch.

 Trình thuật nay kể, là kể về dụ ngôn có tình tiết/lớp lang rất đời thường, ở mọi thời. Một thời, có đám công nhân càm ràm về công bằng với công lý mà người chủ thực hiện. Người chủ ở đây, quyết hiện thực đường lối chi trả rất khác lạ của riêng ông. Vào cuối ngày, ông gọi những người đến làm việc vào giờ chót và cho họ trọn lương hướng của nguyên ngày.

Đám thợ này, không phản đối đã đành và mừng khen chủ mình nhân hiền, rộng lượng. Họ lẳng lặng chấp nhận. Còn, đám thợ làm nguyên ngày cũng chỉ nhận bấy nhiêu thôi. Bởi thế nên, đó mới là duyên do ta nghe có tiếng phản đối đường lối xử sự khá bất công của người chủ.

Cứ tưởng tượng tình huống trong đó có người đứng suốt ngày ở đầu đường để tìm việc. Hoặc, những người cứ lân la nơi phòng tuyển dụng hoặc cơ sở từ thiện hòng được giúp đỡ, nên nếu có ai gọi tên mình vào giờ phút chót, cũng rất cám ơn. Thế nên, mấy người này thấy mình hạnh phúc hơn bao giờ hết. Bàn cãi chi cho nhiều, ai cũng thấy là những người lâu nay để mấtđi niềm hy vọng, nay được gọi đến cho việc làm, lại được trả lương hậu hĩnh, thì quả là không hạnh phúc nào lớn hơn thế.

Hãy liên tưởng đến trường hợp khác, trong đó có người thợ suốt ngày đổ mồ hôi sôi nước mắt, sẵn sàng chấp nhận đồng lương ít ỏi để sống qua ngày. Và người đó còn phải lo cho gia đình nheo nhóc đang trông chờ mình về. Thợ như thế, hay tính toán giờ giấc, giá cả cũng như loại hình lao tác mình có thể làm. Họ suy tính công việc có thể thương lượng được với chủ, để tiền mang về đủ nuôi sống nhiều miệng ăn. Họ làm việc có hợp đồng, luật lệ công minh như thường thấy ở nhiều nơi.

Nay, hãy liên tưởng đến người kiếm đồng lương có giao kèo/thoả thuận hẳn hòi, nhưng không tính đến khoản phụ trội, tưởng thưởng hoặc phụ thu hầu thêm mắm muối cho bữa cơm hằng ngày. Nhưng, những người này vẫn trông chờ những quà tặng không tên phụ vào ngân sách gia đình như:đồng lương tăng vì vật giá, lạm phát. Tiền mất giá. Không có các khoản này, người thợ sẽ không mấy hài lòng, dù tiền thưởng không hẳn là quà ngẫu nhiên, do người chủ rộng tay độ lượng.

Cũng nên liên tưởng đến giới thợ nào thấy mình chẳng bao giờ được hưởng những thứ đó, nên vẫn lảng vảng quanh phòng tuyển dụng, hoặc chốn nhà thờ. Những người này, sẽ hiểu công bằng/chính trực theo lẽ tự nhiên. Những điều, những lẽ ít thấy trong cõi đời. Thế nên, thái độ của họ là thái độ của người thợ làm việc theo cách tiêu cực, nghĩa là: chỉ làm theo mức tối thiểu, chỉ bỏ vào đó đủ sức lao động của mình, thôi. Hoặc, những người suốt ngày cứ chống cằm lên bàn, khi thấy không có ai dò xét, để ý. Vì họ cứ nghĩ: mình dại gì mà làm cho lắm, chỉ lợi cho chủ, thôi.

Những liên tưởng ở trên, không chỉ xảy ra nơi sở làm hoặc công trường lao động, mà thôi. Nhưng nó vẫn xảy đến cả trong Hội thánh nữa. Xưa nay, nhiều người đi Đạo vẫn ao ước có được nhiều quyền, nhiều tiền và nhiều qui chế dễ thở để được hưởng thụ, nhiều hơn nữa. Với hàng giáo sĩ, thì nhiều vị phục vụ nhiều năm trong âm thầm/tăm tối, nay muốn về giáo xứ/họ đạo sung túc, hoặc đông đúc bổn đạo cho bõ công ngày tháng chôn vùi đời mình trong bóng tối. Nên, hễ thấy thế hệ trẻ mới ra trường lại có được chỗ tốt thơm, mới đem lòng căm tức và nhìn xuống đám trẻ bằng đầu mũi.

Với hàng ngũ giáo dân, có người lại chỉ muốn có chân trong hội đồng giáo xứ/mục vụ, để ưu tiên hưởng được nhiều thứ. Là thành viên ca đoàn, có người chỉ thích hát những lễ nào đông người dự. Hoặc, hát vào các giờ lễ thích hợp giờ giấc của mình thôi. Những người có kinh nghiệm mục vụ trong giáo xứ/giáo đoàn, thấy mình tài giỏi hơn người mà chẳng bao giờ được giao phó công việc tốt. Trong khi đó, những người được điều động từ nơi khác đến chưa từng có lấy kinh nghiệm lao tác/hục vụ, lại được giao phó những công việc khó,đòi nhiều kinh nghiệm, thấy cũng lạ.

Đời sống thiêng liêng, cũng thế.Nhiều vị ngỡ rằng chỉ mỗi mình là người được Chúa cho lên thiên đàng thẳng cánh. Những người như thế, những tưởng rằng chỉ mình họ, vốn nhiều năm chuyên chăm làm điều tốt, nên dễ bất bình khi thấy mình không được ưu đãi hơn người khác, nên nghĩ rằng Chúa cũng thiên vị, khi Ngài ban ơn lành cho kẻ xấu, tức cho cả những người chẳng bao giờ làm điều tốt lành hết. Thế nên, nhiều vị lại hay ganh tương/tị nạnh với kẻ biếng nhác chẳng lo chuyện đạo hạnh, mà vẫn được Hội thánh trọng dụng, bởi vì họ biết hoán cải, vào cuối đời.

Dụ ngôn hôm nay khuyên ta nên thay đổi não-trạng vẫn có xưa nay. Dụ ngôn thử thách ta cởi bỏ những động thái/tưtưởng nào không cần thiết cho Nước Trời. Thử và thách, chuyển đảo mọi giá trị, do ta đặt ra.

Nơi thế giới của những người chỉ tính chuyện làm ăn và với các thánh hội chỉ những lo toan chuyện làm ăn/ăn làm, không bận tâm gì chuyện thiêng liêng/đạo đức của dân con đi Đạo, cũng như thế. Tức, cũng suy tính về những gì hoặc những việc không có Chúa dính dự, ngự trị. Trường hợpấy, Chúa chẳng khi nào lập toà hoá giải, cũng không có toà kháng án, hoặc văn phòng công lý/khiếu kiện, để mình xin.

Khi nghĩ rằng Chúa ban ơn lành cho hết mọi người, ai cũng hiểu Ngài ban theo kiểu rủi may, giống xổ số. Cứ nghĩ rằng, có thể là ân huệ mình nhận được chắc cũng ít, hoặc rất kém. Bởi, họ lại nghĩ:Chúa đã rộng tay ban phát cho nhiều người, thì còn đâu mà cho mình. Thật ra, ân huệ Chúa ban vẫn dư dật, tràn đầy. Dư và đầy, đến độ ai cũng có phần. Chẳng ai là người thua thiệt, tủi phận hết.

Ân huệ Chúa ban là điều ta có được ngoài mức tưởng tượng, đợi trông. Rất nhưng-không. Chúa không nợ nần gì ai. Và, ta cũng chẳng có công gì để đáng được nhận nhiều hơn người khác. Lâu nay ta nhận ân huệ dồi dào, vì Chúa thương yêu hết mọi người. Ngài yêu thương vô điều kiện. Không bớt xét. Thế nên, tất cả mọi người trước sau gì cũng được. Tất cả đều là ân huệ. Tất cả đều được ơn.

Đọc dụ ngôn hôm nay, nhiều người thường hiểu vườn nho mà thánh sử đề cập ở trình thuật, chỉ là nước Do thái hoặc thánh hội rất Công giáo. Người làm vườn, là kẻ được mời đến chốn thánh thiêng, các văn phòng hoặc thánh bộ. Thật ra, không phải thế. Chúa đâu cần thợ ở vườn nho. Ngài cũng không cần công nhân lao động ở mọi chốn. Điều Ngài muốn và cần, là mọi người được mời đến để Ngài tặng ban ơn lành, cách nhưng-không. Để rồi, ta nhắn nhủ mọi người hãy trao cho nhau tình thương yêu ân huệ ấy. Chí ít, những người đang cần được ta thương yêu.

Đó là sứ mệnh phục vụ. Đó, không là món hời dễ ăn. Nhưng, là tương quan hai chiều. Và ta được mời đến để phục vụ.Phục vụ, ở nơi ta đang sống hoặc ở chốn miền ta hoạt động rất lao lực. Bất kể ta là ai. Bởi cuối cùng, rồi ra người được mời cũng sẽ ngạc nhiên/thích thú được ban và nhận ơn như thế.

Trong thời gian đợi chờ Chúa ban ơn, ta hãy trở về với công việc liên quan đến mỗi người, và mọi người. Chúa vẫn để tâm chăm sóc đến ta khi ta kết thúc một ngày lao động đường dài. Ngài chẳng kỳ thị ai, hoặc bất công với ai trong lao động. Ngài là Đấng Nhân Hiền Độ Lượng, luôn rộng ban ơn lành cho hết mọi người. Chắc chắn ta sẽ nhận dù không là những gì mình đáng hưởng vì công của mình, nhưng nhận rất nhiều. Nhiều hơn cả những điều ta dự đoán.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –  

Mai Tá lược dịch.