Tôi chia em trọn kho tàng

Kho tàng của chúng ta (Nguyễn Trung Cang) – Elvis Phương

httpv://www.youtube.com/watch?v=tHjz8T2-3Cc

Chuyện Phiếm đọc trong tuần 25 thường niên năm A 24/9/2017

“Tôi chia em trọn kho tàng. “
Tôi chia anh trọn kho tàng.
Niềm quý mến nhau là xâu chuỗi mầu,
Buồng tim yêu thương là châu báu.”

(Nguyễn Trung Cang – Kho tàng của chúng ta)

(Thư Rôma 6: 17)

  Trần Ngọc Mười Hai

“Kho tàng của chúng ta” sao? Ối chà chà, là bài hát! Ối giời ơi, là câu ca. Ca với hát cho hay, cũng chỉ đến như thế mà thôi! Bởi, còn gì hay bằng khi nghe lại những ca-từ đầy kim-cương/vàng bạc như sau:

 “Kim cương đây là môi cười.
Tôi xin chia phần cho người.
Từng ánh mắt vui, từng câu ấm lòng,
Từng câu yêu thương hằn trên môi.

Ta sẽ chia kho tàng

tình yêu cho anh em cùng dòng máu.
Ta sẽ chia kho tàng

tình thương cho khắp quê hương.”

(Nguyễn Trung Cang – bđd)

Chưa hết đâu. Chia kho tàng, tình thương khắp quê hương thôi, cũng chưa đủ. Nghệ sĩ nhà mình còn mua bán cả những “căm thù” nữa, vẫn ở đây:


“Tôi xin mua lại căm thù.

Tôi xin mua lại lao tù.

Bằng những cánh hoa cài trên áo người.

Bằng đôi tay non còn rướm máu.

 

Tôi dâng anh vạn chân tình.

Tôi dâng em trọn tim mình.

Đời sống sẽ vui dù ta có nghèo.

Người vui ta cùng vui theo.”

(Nguyễn Trung Cang – bđd)

 

Lời lẽ trên đây, chính bần đạo bầy tôi này từng nghe được vào thập niên 1950s khi nhóm nhạc trẻ ABC, Ba Con Mèo và/hoặc Ba Trái Táo cứ là nhộn nhịp với ca nhạc và hát hò, vui khôn kể.

Thế còn, niềm vui nhà Đạo thì sao? Có “chia nhau trọn kho tàng”? Hoặc: “dâng anh vạn chân tình” không thế? Điều này không rõ, chỉ rõ có một điều là các đấng bậc nhà mình đã và đang bận tâm với vấn đề “Hôn-nhân đồng giới tính” xảy ra ở đây đó, như một nhận-định trên các “Bản tin Giáo xứ”, như sau:

“Hậu quả việc Quốc hội Úc tái định-nghĩa Hôn-nhân như sự kết-nối giữa hai con người dù đồng tính: 

 -mất tự do ăn nói: Không được đả động đến chuyện này

-mất tự do tín ngưỡng: chấp nhận đám cưới cho đồng tính 

-mất tự do lập hội: không được phản đối đám cưới của họ  

-mất tự do lương tâm: vì phản đối các đám cưới như thế

-giới-tính không còn xứng-hợp trong xã-hội

-tự-vựng “Mẹ” và “Cha” sẽ biến mất trong tự-điển

-sẽ có thay-đổi trong giáo-dục giới-tính

-bất an về giới tính sẽ gia-tăng nhanh-chóng

-quyền-hạn của bậc cha mẹ sẽ bị giỡ bỏ

-trường học nào không chịu dạy về đồng-tính luyến-ái và hôn-nhân đồng-tính sẽ phải đóng cửa.

 Việc bỏ phiếu tái định-nghĩa hôn-nhân là tự-nguyện, nên Đức TGm Anthony yêu-cầu các giáo-xứ hãy tham-gia đầu phiếu. Ai mới thay đổi địa chỉ với Uỷ-Ban Bầu-Cử Úc cần cập-nhật lại từ nay đến 24/8/17 bằng không sẽ trễ tràng nếu không được cập-nhật. Có thể cập-nhật địa chỉ ở trên mạng…” (Trích Tin Vắn trên Bản Tin Giáo Xứ Fairfield, NSW Úc ngày 2/8/2017)

Đồng giọng với Lm Michael de Stoops là chánh xứ nói ở trên, còn thấy có đấng bậc vị vọng nổi cộm của Tổng Giáo Phận Sydney, NSW Úc từng giải đáp thắc mắc của bổn đạo đặt ra như thế này:

“Thưa Cha,

Con trai con đã ngưng không còn thực-thi niềm tin đi Đạo cách nay nhiều năm rồi; và nay thì cháu nó đang sống trong tội lỗi với bạn gái của cháu. Cháu còn tuyên-bố rằng cháu không còn cầu nguyện gì được và cũng chẳng muốn đi nhà thờ dự lễ gì nữa hết. Đôi khi, lại vẫn nghĩ rằng cháu đã để mất đi sự tự-do quan-hệ với Chúa rồi, phải thế không thưa cha? Xin cho con vài lời chỉ dẫn.

 Gì chứ, chỉ vài lời chỉ-dẫn từ đấng bậc thôi, sẽ có ngay lập tức, như bên dưới:

“Để trả lời chị cho đúng phép, tôi nghĩ trước tiên ta phải làm cho sáng tỏ định nghĩa thế nào là “Tự do”, mới được. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo định nghĩa: “đó là quyền-uy/sức mạnh cắm rễ sâu nơi lẽ phải và ý-chí để hành-động hoặc không hành-động, để làm việc này hoặc việc kia và có thế mới thực-hiện hành-động một cách cân-nhắc có trách-nhiệm .” (Sách GLHTCG đoạn 1731).

Loài người đều có lý-trí, thông minh và ý muốn tự do, thế nên ta có thể chọn lựa quá-trình diễn biến hành-động rất khác-biệt. Loài thú không có được những thứ này, Chúng không có trí thông minh lý-luận cũng chẳng có chút tự-do nào hết, thành ra chúng không thể có được chọn-lựa theo tự-do. Thú vật chỉ biết làm theo bản-năng của chúng, mà thôi. 

Ở nơi loài người, ta có thể nhận ra sự khác-biệt giữa tự do mang tính chất bản-thể hoặc căn bản mà mọi người, với  tư cách là bản-thể người đều có được tự-do hiện-sinh, thực-thụ như mình có. Theo định-nghĩa đầu, con người có lý-trí và ý-chí tự-do, nên ai cũng có thể hành-động một cách tự do trên nền-tảng.

 Thế nhưng, cũng tuỳ cung-cách sử-dụng tự do ấy như thế nào, con người có thể từng nấc một gia-tăng hoặc giảm sút mức-độ tự-do của mình. Theo nghĩa này, thật rất đúng để nói là nhiều người có tự-do nhiều hơn một số người khác.

 Muốn hiểu điều này cho thấu-đáo, ta cần phải làm sáng-tỏ mục-đích của tự-do, nữa. Vấn-đề là hỏi rằng: tại sao Thiên-Chúa lại dựng nên con người có tự do như thế? Ta có được làm bất cứ thứ gì bất kẻ việc ấy tốt/xấu với ta như thế nào không? Không phải thế. Thiên-Chúa để cho ta san-sẻ sự tự-do của Ngài, thành ra ta có thể chọn-lựa một cách tự-do phục-vụ Ngài, làm điều tốt đẹp và phải lẽ; và như thế mới phát-triển tính-chất nhân-loại một cách đầy đặn hơn và cuối cùng về ở với Ngài mãi mãi trên thiên-quốc.

 Công đồng Vaticăng 2 cũng đã định-nghĩa tự-do theo nghĩa bảo rằng: “Thiên-Chúa muốn để con người tuỳ thuộc lời khuyên của lương-tâm để họ có thể tự ý tìm kiếm Đấng Tạo Hoá và tự do có sự toàn-hảo/toàn-thiện bằng một lòng thuỷ-chung với Ngài.” (X. Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng đoạn 17; Sách GLHTCG đoạn 1730)

Nói tóm lại, mọi người chúng ta đều có tự-do tìm-kiếm Chúa và nhờ đó có được sự toàn-thiện và hạnh-phúc. Cả hai thứ ở đây, lúc này và mãi về sau. Theo nghĩa này, thì khi nói chữ “tự-do” là ta nói đến thứ tự-do tìm kiếm Chúa, và hoàn-thành trọng-trách đạt mục đích cao-cả ấy. Đó không là “tự do xuất tự Thiên-Chúa và luật-pháp của Ngài.”

 Thế nhưng, cũng tuỳ theo cách ta có được chọn-lựa nào, ta có thể từng bước gia-tăng sự tụ-do của ta để kiếm tìm Chúa và thực-hiện thánh-ý của Ngài hoặc làm giảm bớt những thứ ấy. Bằng việc cầu nguyện, nhận lãnh bí-tích cách đều-đặn, hoặc phấn-đấu nghe theo lương-tâm của ta mà làm những gì ta biết là đúng-đắn, tốt đẹp và tránh né những gì ta biết nó sai trái, có thế mới trưởng-thành trong đạo-đức và mới thấy dễ dàng phục-vụ Chúa. Càng ngày ta càng thấy mình tự do hơn để làm thế.

 Đổi lại, ta có thể ngưng không còn nguyện-cầu và nhận các phép bí tích, phớt lờ những điều mà lương-tâm khuyên ta làm và chỉ làm những gì mình thích và rồi cứ từ từ xa rời Chúa đi vào cuộc sống đầy tội lỗi. Đây là tình-cảnh mà con trai của chị đang rơi vào trong đó. Thay vì lớn lên trong nhân-đức, thì cháu lại tăng-trưởng trong sự xấu khiến ta thấy khó mà định đoạt thế nào là phải lẽ, thế nào sai. Làm như thế, tự khắc ta giảm-suy tự do của ta. 

Cuối cùng, ta cũng nên xem lời tóm tắt ở sách Giáo lý đoạn 1733, cũng cùng một ý tưởng viết trong thư của thánh Phaolô gửi cộng đoàn tín-hữu Rôma, những lời rằng:

 “Nếu như ta làm điều tốt ngày càng nhiều,

thì ta càng trở nên tự do nhiều hơn nữa.

Không thể có tự-do đích-thật

ngoại trừ lo phục vụ những gì là tốt đẹp và phải lẽ.

Nếu ta cứ chọn bất tuân-phục,

và chỉ làm sự xấu,

thì đó là hành-động lạm dụng tự-do,

và rồi cũng làm thân nô lệ tội lỗi, thôi.”

(Rm 6: 17)

Thánh Phêrô cũng từng viết bức thư thứ hai cho cộng-đoàn tín-hữu vẫn bảo rằng: “vì miệng họ nói những lời huyênh hoang rỗng tuếch, họ dùng những ham muốn xác thịt dâm ô mà nhử những người vừa thoát tay các kẻ sống trong lầm lạc. Họ hứa cho những kẻ đó được tự do, nhưng chính họ lại làm nô lệ cho lối sống dẫn đến hư vong, vì đã thua ai thì phải làm nô lệ người ấy.” (2P 2: 18-19)

Vậy nên, quả là điều quan-trọng biết bao khi ta biết sử-dụng sự tự-do của ta một cách khôn-ngoan không sai lạc.” (X. Lm John Flader, Is it possible to become less and less free? Question Time, The Catholic Weekly ngày 13/8/2017 tr. 25)   

Hôm nay đây, trích-dẫn lời lẽ của bậc thánh hiền trong Đạo về sự tự-do rất chính-đáng, cũng chỉ để luận phiếm cho vui, hoặc cho qua ngày đoạn tháng khi người người nói quá nhiều về thứ tự-do không theo nghĩa đích-thực của đạo-nghĩa, và Đạo Chúa.

Nói thì nói thế, với người đời thời buổi này, chẳng ai có sức thuyết-phục hoặc ép buộc mọi người phải làm những gì mà Đạo Chúa khuyên dạy. Như mọi lần, thiết tưởng bạn và tôi, ta cũng nên mời nhau đi vào vùng trời truyện kể để nghe

“Trong vườn hoa nhà thờ, vị linh mục nọ lang thang đi dạo chung với một thương-gia cùng với môn đồ trẻ lẽo đẽo đi sau nghe chuyện. Xem ra, câu chuyện giữa vị linh mục và lão thương-gia có vẻ hấp dẫn. Nhà buôn nói:

-50 ngàn đôla được không, thưa ngài?

Vị linh-mục nọ đáp lại một cách gọn lỏn:

-Không được!

-Thế vậy đề-nghị với ngài là 100 ngàn đôla cũng được chứ, phải không?

 Thấy linh mục nọ chẳng nói thêm điều gì, thương-gia nhà ta bèn thưa tiếp:

Thôi được, cấp trên bảo: tôi có tự do ra giá, vậy thì tôi đề-nghị 500 ngàn đola vậy

Nghe vậy, vị linh mục vẫn chẳng trả lời thêm câu nào. Thấy thế, môn-đồ trẻ hỏi;

-Sao cha nói có tự do đề xuất giá cả cơ mà?

-Về chuyện này, cha đây không có chút tự do nào để làm hết.

-Ai mà chẳng có tự do chịu giá, cơ chứ?

-Đây thì không, vì ông ấy đề-nghị với ta là: mỗi lần đọc xong bất cứ bài nào trong thánh lễ, thay vì nói “Đó là Lời Chúa”, ngài cứ vui vẻ bảo “Đó là nguồn suối Coca-Cola” theo cách rất tự do, là xong ngay.

-Không được phạm-thượng như thế!”

(Trích truyện cười lạt lẽo lấy từ trên mạng vi-tính)        

 Hiển nhiên là, ai cũng có đủ mọi thứ tự-do, cả trong chuyện ăn nói, trả giá và giao hàng, được hết. Nhưng, ở đây hôm nay, ta không đặt thành chuyện nghiêm-chỉnh chút nào, chỉ mỗi đưa ra vấn-đề, là hỏi rằng: bậc cha/bác trong nhà Đạo, dù có quyền phép như “Đức Chúa Trời con”, các “đức ngài” vẫn chỉ có thứ gọi-là “tự do trong khuôn-khổ”, mà thôi.

Tự do, thật ra không có nghĩa: muốn làm gì thì làm. Dù chuyện đó, có là chuyện luật pháp hoặc đạo-đức hay không. Có tự-do, là có trách-nhiệm. Trách-nhiệm, về hành-động mình làm. Trách-nhiệm, cả về hậu-quả kéo theo sau đó.

Tóm lại, tự-do là nhận-lãnh trách-nhiệm khi tra tay làm việc gì đó theo đúng lương-tâm mình đòi hỏi, dù không tạo lợi/lộc gì cho chính mình cả. Tự-do, với người trong Đạo/ngoài đời, là làm điều tốt-đẹp cho mình và cho người, đúng với lương-tâm từng chỉ vẽ cách mình hành-động.

Nói cách khác, tự-do và trách-nhiệm, hoặc tự-do trong trách-nhiệm, là hai phạm-trù luôn sánh đôi, song-hành ở mọi nơi, vào mọi lúc, trong đời người.

Trong tinh-thần hãnh-tiến thực-hiện những gì được lương-tâm hoặc truyền-thống nhà Đạo khuyên-dạy, mời bạn và tôi, ta cứ thế hiên-ngang hát lại ca-từ nhạc trẻ những hát rằng:

“Tôi chia em trọn kho tàng. “
Tôi chia anh trọn kho tàng.
Niềm quý mến nhau là xâu chuỗi mầu,
Buồng tim yêu thương là châu báu.

Kim cương đây là môi cười.
Tôi xin chia phần cho người.
Từng ánh mắt vui, từng câu ấm lòng,
Từng câu yêu thương hằn trên môi.
Ta sẽ chia kho tàng

tình yêu cho anh em cùng dòng máu.
Ta sẽ chia kho tàng

tình thương cho khắp quê hương.”

 Và:

“Tôi xin mua lại căm thù.

Tôi xin mua lại lao tù.

Bằng những cánh hoa cài trên áo người.

Bằng đôi tay non còn rướm máu.

Tôi dâng anh vạn chân tình.

Tôi dâng em trọn tim mình.

Đời sống sẽ vui dù ta có nghèo.

Người vui ta cùng vui theo.”

(Nguyễn Trung Cang – bđd)

 Trần Ngọc Mười Hai

Nhiều lúc cứ ngâm nga

những câu ca tựa hồ như thế

rất tự-do.

LỜI CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI CHỒNG

LỜI CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI CHỒNG

Yêu thương để mang lại cuộc sống viên mãn

 Lạy Chúa Giêsu,

Con đặt đời con trong sự quan phòng mầu nhiệm của Chúa.

Con nhận ra những thiếu sót và lỗi phạm của con.

Con không dám biện minh hay tự phụ.

Chúa đã sống giữa chúng con,

chia sẻ niềm vui và thử thách trong gia đình.

vâng lời và tròn trách nhiệm của Người Con.

Ngày hôm nay, lạy Chúa,

với ơn Chúa hướng dẫn, con xin nguyện dâng lời thề hứa:

sẽ xây dựng gia đình theo gương Thánh Gia.

Con xin canh tân đời mình bằng lời thề hôn ước:

sẽ sống với vợ con hết lòng,

sẽ không bao giờ bỏ rơi nàng nhưng tôn trọng và chung thủy,

sẽ không giân dữ nhưng luôn vui hòa và tha thứ,

sẽ không làm tổn thương nhưng yêu quý và bảo vệ nàng

đến hơi thở cuối cùng.

Với ơn sủng của Chúa, xin cho con biết làm mới lời hứa:

tận tâm với con cái:

sẽ triều mến chúng như tặng phẩm Chúa ban,

sẽ trao cho chúng những gì chúng cần,

sẽ nuôi dưỡng thể xác và huấn luyện tâm hồn chúng,

sẽ dành thời giờ để chăm sóc chúng,

sẽ xây dựng cho chúng một mái ấm tình thương,

sẽ đưa chúng đi trên đường thánh thiện và ân sủng,

sẽ dạy chúng lớn khôn như những người con Chúa,

những người thừa hưởng Nước Trời.

Vì những điều nầy, xin Chúa chúc lành cho con.

Xin hướng dẫn con trong cuộc đời nầy

và tăng sức cho con chống lại cám dỗ.

Xin cho con lành mạnh xác hồn

để con sống vì vợ và vì các con.

Xin cho con luôn dâng hiến đời mình

để phụng sự Chúa và phụng vụ gia đình.

Lạy Chúa, xin hãy đến trong gia đình con.

Nhà của con cũng là nhà của Chúa.

Xin liên kết chúng con lại với nhau.

Xin sống giữa chúng con, và ban ơn cho chúng con mỗi ngày.

Lạy Chúa, là mẫu gương yêu thương của chúng con.

Amen

John Lê Mừng chuyển ngữ

Tha bảy mươi lần bảy

Tha bảy mươi lần bảy 

 Khổng Nhuận

Trích Tin Mừng theo Thánh Mat-thêu 18 : 21-22

Bấy giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng :

“Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không ?”

Đức Giê-su đáp :

“Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đếnbảy mươi lần bảy.”

Theo tục ngữ Việt Nam : Quá tam ba bận. Ý nói chỉ tha 3 lần thôi.

Phê-rô đặt giả sử tăng lên gấp đôi… tha tới 7 lần..!!!

Còn Thầy Giêsu tăng lên gấp mười lần: bảy mươi lần bảy…

Điều này mang tính lý thuyết và đầy lý tưởng. Hầu như không ai có thể thực hiện được.

Đào đâu ra một người sẵn sàng tha thứ cho kẻ xúc phạm mình tới 5 lần thôi.!!!

Khó lắm…một là đập cho hắn một trận… khiến hắn tởn tới già.

Hai là không làm gì được thì gặm nhấm nỗi bực bội khó chịu một thời gian… dài ngắn tùy mức độ nghiêm trọng…

Vấn đề quan trọng không phải là bao nhiêu lần…

Mà là Lối nhìn trước tình huống xúc phạm tới cá nhân mình.

Phản ứng đầu tiên: Ai cũng bức rức, khó chịu, bực mình…

Sau đó, chúng ta có thể phản ứng bằng nhiều cách tùy mỗi người:

Giận dữ: Đây là cách đáp trả ít tích cực nhất bởi vì ba lý do.

Thứ nhất, nó chứng tỏ là chúng ta coi những lời sỉ nhục đó và kẻ sỉ nhục chúng ta là quan trọng.

Thứ hai, nó chứng tỏ rằng lời xúc phạm đó có vài phần đúng.

Và thứ ba, khiến chúng ta bối rối và đau đớn.

Chấp nhận: Nếu lời xúc phạm ấy là đúng, đến từ người biết lý lẽ, và người đó có động lực tốt, vậy thì đó lời trần thuật về một điều thực tế, và hơn nữa, điều này có khả năng có ích cho chúng ta. Vậy cho nên, chúng ta không nên cảm thấy bị xúc phạm trước những lời góp ý của thầy cô, ba mẹ, hay bạn thân.

Hài hước: Sự hài hước là một phản ứng cực kỳ hữu dụng với ba lý do,

thứ nhất, làm nhẹ đi sự sỉ nhục,

thứ hai, kéo người xem (nếu có) về phía chúng ta

thứ ba, khuếch tán đi sự căng thẳng của tình huống.

Ta có thể  phóng đại về sự xúc phạm như là một cách đùa giỡn với người đó có thể phù hợp,

“À, nếu cậu quen tôi từ lâu thì sẽ biết rằng tôi từng phạm phải lỗi còn lớn hơn thế này nữa kia.”

Lờ đi sự sỉ nhục:

Nếu tôi nghĩ người xúc phạm tôi chẳng đáng để tôi quan tâm.

Một câu chuyện nổi tiếng về đức Phật Thích Ca

Sau một tràng chửi rủa của Akkosina, Phật mới hỏi rằng ông ta

Khi ông biếu bánh trái hay đồ ăn để cho bạn bè mang về…nhưng nếu họ không nhận quà biếu đó, thì ai sẽ nhận?

– Nếu họ không nhận, thì tôi sẽ nhận lại chứ còn ai nữa.

– Cũng vậy, này Bà-la-môn, ông nhục mạ chúng tôi, nhưng chúng tôi không nhận. Vậy thì ông nhận lại; tất cả là thuộc về ông.

Quay về với con người đích thực của mình

Lâu lâu được nếm mùi xúc phạm. Đây cũng chính là cơ hội ngọc vàng để trở về với con người đích thực của mình.

Với Kitô hữu, tôi là con yêu dấu của Chúa, đầy Thần Khí sức mạnh của Ngài, nhờ đó tôi vượt qua cái tôi tương đối dễ dàng hơn. Thêm vào đó nhờ khối tình yêu của Chúa tôi bỏ qua, tha thứ… tương đối dễ dàng hơn.

Với Phật tử, chân tánh đích thực của tôi chính là Phật tánh…cũng  chính là tánh giác, tánh biết trung  thực… không bị mê mờ điên đảo trước sân si thế gian…

Riêng tôi, tôi phản ứng thế nào trước sự xúc phạm??? 

Tamlinhvaodoi gởi

Quyển Sách Cao Siêu Nhất

14 Tháng Chín

Quyển Sách Cao Siêu Nhất

Người ta thường mượn câu chuyện sau đây để nói đến tinh thần hy sinh, chấp nhận trong cuộc sống.

Có một người kia cứ phàn nàn trách Chúa vì đã gửi đến cho mình một thập giá quá nặng… Chúa bèn đưa người đó đến một cửa hàng có các thập giá đủ cỡ để người đó chọn lựa.

Người đó hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường. Người đó tự nhủ trong lòng: “Ðây là chuyện cả đời người, ta phải hết sức cẩn thận”.

Thế là anh ta đi rảo khắp hết mọi lối đi của cửa hàng và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác. Nhưng không có một cây nào làm anh vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá nhẹ, cây thì quá nặng… Anh lại tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng, anh đã tìm được cây thập giá mà anh cho là ưng ý nhất. Anh mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện: “Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy”. Khi anh vừa hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với anh: “Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá. Ðây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và dựng ở tường của cửa hàng”.

Hôm nay Lễ Suy Tôn Thánh Giá, Giáo Hội mời gọi chúng ta đào sâu Mầu Nhiệm Thập Giá trong đời sống Ðức Tin của chúng ta. Thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars bên Pháp, đã nói: “Thập giá là quyển sách cao siêu nhất… Chỉ có những ai yêu mến, nghiền ngẫm quyển sách này, những người đó mới thật sự là người thông thái”.

Thập giá Chúa Giêsu là quyển sách cao siêu nhất, bởi vì, đó là dấu chứng cao cả nhất của Tình Yêu. “Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người thí mạng vì người mình yêu”. Từ một khí cụ độc ác đê hèn nhất của con người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành dấu chứng của Tình Yêu: Tình Yêu vâng phục đối với Chúa Cha và Tình Yêu dâng hiến cho nhân loại…

Suy tôn Thánh Giá Chúa, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta được đi vào Mầu Nhiệm Tình Yêu của Chúa. Trong Mầu Nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặmg của những đau khổ nữa, nhưng luôn mang lấy một ý nghĩa: đó là ý nghĩa của Tình Yêu.

Trích sách Lẽ Sống

MỘT TIN MỪNG KHÓ GIỮ


MỘT TIN MỪNG KHÓ GIỮ

Sau lúc đem ra một số lời giáo huấn về đời sống cộng đồng, Chúa đã nhấn mạnh đến bổn phận tha thứ.  Bài Phúc âm tự nó đã rõ ràng.  Tuy thế cũng cần phải nói rõ thêm một vài điều.  Ta biết rằng danh từ “bảy mươi bảy lần” của Phúc âm có nghĩa là vô cùng.  Hơn nữa còn phải đọc thêm dụ ngôn người đầy tớ tàn nhẫn để tìm ra bài học chính yếu mà Chúa Giêsu muốn dạy ta, mà không dừng lại ở các chi tiết của câu chuyện để tìm cho cái chi tiết ấy một ý nghĩa.  Bài học chính yếu để sự tha thứ của loài người liên quan với sự tha thứ của Thiên Chúa.  Các chi tiết của câu chuyện tả lại cho chúng ta một khía cạnh của triều đình Đông phương vào thời Chúa Kitô, nhất là những gì liên quan đến quyền tùy nghi quyết định của nhà vua trên thường dân.  Chúa Giêsu đi từ một sự thực có sẵn trong óc của mọi người để xây dựng câu chuyện và rút ra một bài học: Chúa Cha ở trên trời sẽ hành động giống như ta suy nghĩ và hành động với các anh chị em khác.  Lúc suy nghĩ về sự tha thứ Phúc âm, ta thấy Thiên Chúa có tham vọng nâng chúng ta lên ngang hàng với sự cao cả riêng Ngài.  Sau đây là một vài điểm dùng làm mốc để suy nghĩ.

1) Không nên giam hãm một ai trong sự xúc phạm đã qua.  Khi chúng ta phải tha thứ, thì thường là liên quan đến một sự xúc phạm nằm trong quá khứ.  Nhưng kẻ xúc phạm, tác giả của sự xúc phạm, đang sống trong hiện tại.  Con người ấy trong giây phút hiện tại không cùng là một con người như lúc xúc phạm nữa.  Do đó chúng ta phải nhìn người ấy một cách khác.  Tha thứ là chấp nhận kẻ khác như họ đang sống bây giờ, chứ không phải là xua đuổi họ, như họ đã đối xử trong quá khứ.

2) Người ta sẽ bảo rằng: nếu kẻ ấy lại quay làm thiệt hại ta như trước, nếu kẻ ấy tái phạm ta phải đối xử như thế nào?  Phúc âm trả lời: vẫn tha thứ.  Điều này không có nghĩa là ta khỏi phải đề phòng.  Tuy nhiên Phúc Âm cấm ta không được làm hại họ, hơn nữa lòng ta còn phải đi xa tới chỗ lấy ân đền oán.  Có lẽ sẽ bảo là muốn làm được như thế phải có chí anh hùng.  Thiên Chúa đã hành động với chúng ta như thế nào?  Chúng ta là những người có tội hay sa đi ngã lại mà Thiên Chúa vẫn luôn luôn tha thứ khi có dấu hiệu mảy may là chúng ta hối cải.  Thiên Chúa không ngớt mong muốn điều lành cho chúng ta.

3) Người ta thường nói: tha thứ thì được mà bỏ quên thì không.  Sự tha thứ mới là đối tượng của giới răn chứ đâu phải là sự bỏ quên.  Bỏ quên lỗi của kẻ khác nằm ngoài quyền hạn của ý chí và phải chăng đó là điều đáng mong ước?  Khi chúng ta nhớ lại một ân huệ đã lãnh nhận, chúng ta có thể lợi dụng đó để khơi dậy lòng biết ơn và đó là điều rất tốt.  Khi nhớ lại một sự thiệt thòi đã chịu, chúng ta lợi dụng đó để tha thứ một lần nữa và làm cho sự tha thứ càng lớn mạnh.  Trong cả hai trường hợp trí nhớ có thể giúp chúng ta làm điều thiện.  Khả năng nhớ lại đặt chúng ta gần với tư tưởng của Chúa vì Người thu gọn tất cả quá khứ của thế giới trong cái hiện tại vĩnh viễn nhưng là để yêu mến.

4) Sự tha thứ mà Phúc âm đề xướng là một món quà cho không, ngay cả với những người không xứng đáng.  Điều này cũng có nghĩa là phải cầu nguyện, để kêu cầu ơn Chúa là sức mạnh phi thường và linh thiêng khiến lòng người có khả năng lướt thắng chính mình, đến nỗi thực hiện được những công việc quá sức loài người.

Achille Degeest (Trích trong “Lương Thực Ngày Chúa Nhật”)

***********************

Hãy tha thứ

Tha đi anh.

Hãy để sự hiềm khích và báo thù cho người hèn mọn.

Vết thương và nọc độc của lời hằn thù

Không xứng với con cái Ánh sáng…

Tha đi anh.

Hãy tìm sự cao thượng, tha thứ là đó.

Tìm sự cao thượng, là sống với đại nhân:

những người có lòng quảng đại,

những người có tư cách và can đảm. 

Hãy tha thứ,

Hãy để mạch nước hằng sống tuôn trong anh,

để nước chảy và rửa để luyện lòng trí anh.

Như vậy, anh sẽ được bình an.

Như vậy, nắm tay anh sẽ dịu dần

Và anh sẽ thấy tay anh mở ra

để gặp gỡ và tha thứ. 

Một tay có thể mang gánh nặng của người khác ,

Một tay có thể gạt lệ người khiêm tốn,

Một tay thắm đượm tình anh em,

Tay con người đưa để bắt tay nhau

Và giống tay Chúa. 

Hiền Hoà chuyển dịch

ĐỨC MẸ SẦU BI

ĐỨC MẸ SẦU BI

GB Bùi Tuần

Trong tháng 9 có lễ kính Đức Mẹ sầu bi (15/9).  Dịp này Hội Thánh nhắc cho chúng ta nhớ vai trò của đau khổ trong cuộc đời Đức Mẹ, để chúng ta cũng hiểu vai trò của đau khổ trong cuộc đời chúng ta.

  1. Vai trò của đau khổ trong cuộc đời Đức Mẹ

Đức Mẹ phải đau khổ.  Đau khổ vì con mình là Chúa Giêsu.  Đau khổ vì nhân loại là đàn chiên Chúa muốn cứu chuộc.

Thực vậy, Chúa Giêsu là Tin Mừng đặc biệt cho Đức Mẹ.  Nhưng Người cũng là nguyên nhân khiến Đức Mẹ phải đau đớn.  Đau đớn vì cảnh nghèo nàn thiếu thốn, khi sinh con trong hang đá Bêlem.  Đau đớn vì cảnh đi trốn nhọc nhằn, khi đem con lánh nạn sang Ai Cập.  Đau đớn vì cảnh lạc mất con, khi từ đền thánh trở về.  Đau đớn vì cảnh lao động lầm than mấy chục năm giữa xóm nghèo ở Nadarét.  Đau đớn vì cảnh Chúa Giêsu bị bắt bớ và bị tử hình trên thánh giá ở núi Golgôta.

Những đau đớn đó phải được cắt nghĩa vì lý do cứu chuộc nhân loại.  Nhân loại được Chúa đoái thương cứu chuộc.  Nhiều người đã đón nhận ơn đó.  Nhưng nhiều người đã từ chối ơn đó.  Không những thế, họ còn xỉ vả, bắt bớ và kết án chính Đấng Cứu chuộc.

Khi thấy như thế, Đức Mẹ rất đau lòng.  Mẹ nhận ra lời tiên tri Simêon xưa đã ứng nghiệm . Chúa Giêsu vừa là duyên cớ cho nhiều người được chỗi dậy, và cũng là duyên cớ cho nhiều người phải vấp ngã (x. Lc 2,34).

Đức Mẹ đã đau đớn thế nào?  Tiên tri Simêon tả đau đớn đó bằng một câu rất tượng hình: “Còn chính Bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà” (Lc 2,35).

Khi trái tim bị gươm vật chất đâm thâu, người ta cảm thấy đau đớn như phải chết dữ dằn.  Khi tâm hồn bị gươm vô hình đâm thâu, người ta cảm thấy đau khổ cũng như một thứ chết khốn cực.

Để có một cái nhìn đúng đắn về đau khổ nơi Đức Mẹ, chúng ta nên nhớ mấy điều sau đây:

  1. a) Đau khổ của Đức Mẹ là tiếng nói sâu thẳm của tình yêu

Tâm hồn nào càng mến Chúa nhiều, càng cảm thấy đau nhiều, khi thấy tình yêu Chúa bị xúc phạm. Tâm hồn nào càng yêu người nhiều, càng cảm thấy khổ nhiều, khi thấy người khác rơi vào cõi khổ.  Đức Mẹ mến Chúa hết tâm hồn, và yêu thương nhân loại hết lòng.  Nên Đức Mẹ dễ nhạy cảm trước bất cứ sự gì xúc phạm đến Chúa và làm hại cho phần rỗi loài người.

Nhạy cảm, nhạy bén là đặc tính cao độ của trái tim Mẹ.  Lúc đó, đau khổ nơi Mẹ sầu bi là một tiếng nói sâu thẳm nhất của tình yêu.

Được mến yêu Chúa nhờ ơn Chúa ban, Đức Mẹ cảm thấy một thế giới mới.  Xưa thánh Phaolô quả quyết: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi.  Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi” (Pl 3,7-8).

Thánh Phaolô còn cảm thấy thế.  Phương chi Đức Mẹ.  Đức Mẹ được ơn hiểu thế nào là tình yêu thương xót Chúa, nên Đức Mẹ sẽ rất đau khổ, khi thấy tình yêu thương xót ấy bị người ta dửng dưng, xa tránh, chối từ, chống đối.

  1. b) Đau khổ của Đức Mẹ là tiếng nói của người được ơn hiểu biết ý nghĩa sự tội

Sẽ là ảo tưởng, nếu nghĩ rằng học hỏi giáo lý về tội, nghiên cứu các sứ điệp về sám hối của những lần Đức Mẹ hiện ra, là sẽ hiểu biết thấu đáo ý nghĩa sự tội.  Không đâu, ý nghĩa về tội sẽ chỉ hiểu được sâu sắc nhờ ơn Chúa ban, do cầu nguyện, tĩnh tâm, đổi mới tâm hồn thực sự.  Thánh Gioan Baotixita xưa đã dành cả đời rao giảng về sự sám hối.  Ngài nói: “Anh em hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối” (Lc 3,8).  Ngài đã răn đe những ai coi thường tội lỗi.  Vì Ngài hiểu biết rất rõ tội lỗi sẽ đưa con người xuống cõi khổ cực ghê gớm đời sau.

Chắc chắn Đức Mẹ còn hơn thánh Gioan Tiền Hô, nên Người phải rất đau đớn khi thấy bao người nhởn nhơ đi vào đàng tội.

  1. c) Đau khổ của Đức Mẹ là tiếng nói của người biết sự quan trọng trong tuyệt đối của phần rỗi

Xưa cũng như nay, nhân loại để sự tự do lôi kéo mình vào những gì nguy hiểm cho phần rỗi.  Phần rỗi không phải là một hạnh phúc trả bằng giá rẻ.  Nhưng thực tế cho thấy vô số người không quan tâm đủ đến phần rỗi.  Trước cảnh đó, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Nếu người ta được cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?  Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16,26).

Với cái nhìn đó, Chúa Giêsu khuyên người có trách nhiệm hãy cố gắng đi tìm một con chiên lạc, hơn là quây quần với 99 con chiên ngoan (x. Mt 16,12-14).

Đức Mẹ rất hiểu thế nào là thiệt mất phần rỗi, nên Người đã rất đau khổ trước cảnh bao người không quan tâm đến phần rỗi.

Như thế, nói chung, đau khổ nơi Đức Mẹ đã giữ một vai trò hết sức quan trọng, đó là làm chứng cho tình yêu xót thương của Chúa.  Đức Mẹ sầu bi vì thế sẽ là một an ủi lớn cho chúng ta, khi chính chúng ta cũng bị đau khổ trong cuộc đời.

  1. Vai trò của đau khổ trong cuộc đời chúng ta

Đời là bể khổ.  Riêng những người con Chúa sẽ gặp trong đời mình không thiếu nỗi đau như gươm đâm thấu tâm hồn mình.

Ở đây, tôi chi xin chia sẻ đôi chút kinh nghiệm.

Tiên vàn, chúng ta phải có một ý hướng tốt lành này về những đau khổ của ta.  Ý hướng tốt lành đó là muốn những đau khổ ta chịu sẽ có sức làm chứng cho tình yêu Chúa.

Để được như vậy, hằng ngày chúng ta dâng mọi thứ đau khổ của ta cho Đức Mẹ sầu bi, xin những đau khổ của Mẹ thanh luyện những đau khổ của ta.  Bởi vì rất nhiều đau khổ của ta phát xuất từ tính kiêu ngạo, ghen tương, ham hố và ích kỷ muốn theo ý riêng mình.

Khi đau khổ, chúng ta dễ có khuynh hướng đổ trách nhiệm cho người khác.  Nên coi đó là nghịch với đức ái khiêm nhường, tự nó lại gây đau khổ cho chính mình và cho người khác.  Ở đây xin phép nhắc lại ba lời khuyên của thánh Augustinô:

  1. a) Chớ tự coi mình là quan toà xét xử kẻ khác.
  2. b) Xét đoán tội người khác thì phải khiêm tốn và trọng sự thật.  Rất nhiều lần ta đổ cho người khác những lỗi lầm người ta thực sự không có.
  3. c) Nếu người ta có tội, thì cũng nên nhận người ta có thể có nhiều công phúc, công khai và âm thầm.

Để đào tạo thường xuyên trái tim ta, ta nên để ý xét mình về việc ta có chia sẻ những đau khổ đủ thứ xảy đến cho đồng bào xung quanh không?  Nhất là ta có hỏi Chúa về việc Chúa cùng đau khổ với bao người.  Chúa đau khổ với họ, mà ta không để ý.

Đức Mẹ sầu bi sẽ cho ta thấy: Thánh giá là duyên cớ của sự vấp ngã, nhưng cũng là căn nguyên của sự vinh quang.  Mẹ sầu bi sẽ làm cho những vết thương lòng của ta trở thành dòng sông thiêng liêng chuyển ơn cứu độ đến các linh hồn.

 GB Bùi Tuần

Langthangchieutim gởi

“Khuyên một lời ư?

Suy Tư Tin Mừng trong tuần thứ 23 thường niên năm A 10/9/2017

(Mt 18: 15-20)

Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em. Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.

“Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em ràng buộc những điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.

“Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.”

&

“Khuyên một lời ư?

Nhưng biết đâu, lời khuyên không chạm đến tim đau!”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

Khuyên hay không khuyên, đâu là giải pháp của người đời, với vần thơ? Giải hay không giải, vẫn là quyết định của cộng đoàn đấng bậc khôn ngoan đầy kinh nghiệm, trong chung sống. Khuyên và giải, còn là ý tưởng chủ lực của trình thuật, rất hôm nay.

Trình thuật hôm nay, là của thánh Mát-thêu được Phụng vụ Hội thánh rút tiả làm nền hầu khuyên giải thành viên nào đang có vấn đề tranh chấp. Trích đoạn, lấy từ chương 18 có những lời giải khuyên hãy nên sống như Đức Chúa, Đấng từng lân la sống với cộng đoàn đồ đệ thân thương, rất quí mến.

Cộng đoàn thánh Mátthêu xưa có các thành viên người gốc Do thái sống ở Antiôkia. Trước đó, cộng đoàn vẫn sống ở vùng phụ cận thành đô Giêrusalem, chốn đào tạo thành viên chuyên nghiệp, rất đạo hạnh. Khi người La Mã tìm đến bách hại, cộng đoàn này đã phải rời thôn làng mình làm dân lưu lạc ngay trong chốn phồn hoa thị thành mang tên Antiôkia, nơi hội ngộ của nền văn hoá giao lưu Âu Á, thời xưa cũ.

Bên trong khu nhà đầy cách biệt, là chốn tách bạch khỏi người Do thái tin vào Đức Giêsu. Vì sự tách bạch này, nên thường xảy đến nhiều cãi tranh, tị nạnh giữa kẻ tin Chúa và người chẳng biết tin vào điều gì. Vào ai. Khiến đôi đàng không thể hoà hợp, chung sống. Từ đó, vì có khó khăn, nên kẻ tin vào Chúa cũng bớt đi sinh hoạt đạo hạnh như trước. Và sự thể ấy dẫn đến tình huống rắc rối với cộng đoàn.

Đó là lý do khiến có nhiều người đến với thánh sử Mát-thêu để được tư vấn về các nguyên tắc chủ chốt khả dĩ giúp họ trở thành cộng đoàn lành thánh sống trong môi trường dù đổi mới. Đây, còn là nguồn hứng khởi khiến thánh sử viết lên chương sách mang nhiều ý nghĩa để rồi tóm kết bằng hai nguyên tắc chính cho cộng đoàn lấy đó mà sống. Nguyên tắc, là: trong cộng đồng dân Chúa không thể và không nên có một ai thấy mình bị lạc lõng. Và, nguyên tắc thứ hai, là: trong cộng đoàn tình thương làm con Chúa, không thể và không nên có thành phần nào bị bỏ rơi, quên lãng. Hoặc, hư mất.

Thánh sử còn quả quyết: giả như cộng đoàn quyết tâm tuân thủ hai nguyên tắc làm nền để sống chung, thì mọi sự cũng sẽ đâu vào đó. Bằng không, chẳng có gì chứng tỏ họ là cộng đoàn Kitô-hữu, đúng ý nghĩa cả. Đó là qui định tư riêng. Qui định đòi chúng dân phải sống, không như thể chế nguội lạnh, mà là gia đình ấm cúng, rất anh em. Đó, cũng là đề nghị được thánh Mát-thêu đặt ở Tin Mừng chương 18. Rủi thay, các đấng bậc chủ quản phụ trách chọn bài đọc cho Phụng vụ Chúa nhật, lại không mấy chú tâm đến ý nghĩa trọn vẹn trong chương này từng qui định.

Ở đầu chương này, đã thấy nổi lên một tham luận, có Chúa dự. Tham luận này xoay quanh câu mà các môn đệ cứ là hỏi nhau: “Ai là người lớn nhất ở Nước Trời, đây?“(Mt 18: 1) Nếu tưởng tượng, người đọc sẽ thấy đồ đệ Chúa quây tụ thành vòng tròn ngồi ở sân làng rồi kháo láo với nhau: “Rồi, Thầy sẽ cho ta biết ai là người lớn nhất. Và, đâu là tiêu chuẩn để định ra người lớn nhất Nước Trời? Chúa chẳng nói gì. Ngài chợt thấy một bé em đang nghịch đất, Ngài bảo bé đến ở giữa vòng tròn, rồi bảo:“Nếu anh em không như trẻ bé mọn, sẽ chẳng vào Nước Trời.” (Mt 18: 3). Và, thánh Mát-thêu triển khai thêm ý nghĩa “nên như trẻ bé mọn”.

 “Trẻ bé mọn” đây, nên hiểu theo nghĩa biểu tượng. Bởi thời xưa, ”trẻ bé mọn” không khi nào mang ý nghĩa của những ngây thơ, trong trắng hoặc nét đẹp không hao mòn như ở Anh thời nữ hoàng Victoria . Với thế giới Hípri, thì “trẻ bé mọn” là biểu tượng của những kẻ không có quyền, dù quyền hành hay quyền lợi. “Trẻ bé mọn”, là những người nghèo hèn. Là, kẻ bị quên lãng, bỏ ngoài bên xã hội.

Với cộng đoàn Kitô hữu, những người ăn trên ngồi chốc, các bậc vị vọng, đạo hạnh, quyền thế, giàu có, chẳng bao giờ là “trẻ bé mọn” bị quên lãng, hoặc hư mất hết. Như Chúa nói: “Anh em chớ nên khinh thị một ai trong đám trẻ bé mọn này…Con Người đến để cứu cái gì hư mất.”(Mt 18: 10).

Thế nên, nguyên tắc làm “nền” cho cộng đoàn Nước Trời người tín hữu Đức Kitô, là: đón mừng” “trẻ bé mọn”. Nói vắn gọn, thì như thế cũng đủ. “Mừng đón” là câu nói đầu chỉ một hành xử đúng đắn. “Đón mừng”, phải là hành xử rất ban đầu và trước tiên của cộng đoàn. Chí ít, là cộng đoàn dân con của Chúa. Mừng-đón-trẻ-bé-mọn, không là đón mừng các đấng toàn năng, toàn thiện. Mà là, mừng và đón những kẻ sẽ chẳng-bao-giờ-trở-nên-toàn- thiện, tuyệt vời.

Đây, là sinh hoạt vào lúc đầu của cộng đoàn dân con Đức Kitô. Cung cách ta mừng đón “trẻ bé mọn” phải khác cung cách đón mừng, rất chung chung. Tức, ta phải mừng đón những “trẻ bé mọn” không hoàn chỉnh, khi họ lạc lõng, hư mất. Đón và mừng những con người bị đồng hoá với “trẻ bé mọn” như thế, tức là không được phép để người ấy lạc lõng, bị bỏ rơi, hư mất.

Ai trong chúng ta thực sự, và trên thực tế, từng lạc lõng? Nói nôm na, thì thế này: sống trong cõi đời nhiều bon chen/tranh chấp, ta phải định ra chỗ đứng của mình. Phải biết mình đang ở đâu. Làm sao để người khác tìm ra mình hoặc mình tìm ra người khác đang lạc lõng, hư mất? Đó là kinh nghiệm ban đầu. Đó là cung cách sống để ta luôn tìm thấy những “trẻ bé mọn” sống dưới mức hưởng được may mắn với mọi quyền lợi.

Thế nên, ta cũng hiểu được tại sao lại gọi những “trẻ bé mọn” ấy là kẻ lạc lõng, hư mất. Trong khi, họ là người lẽ ra không đáng bị ta quên lãng, coi thường. Họ phải được ta mừng đón và kiếm tìm một cách tích cực, để rồi ta đưa họ vào tận trung tâm điểm của cộng đoàn. Nếu không làm thế, thì không thể và không đáng gọi là thành viên cộng đoàn Kitô-hữu, tức cộng đoàn không có ai và không một ai bị lạc lõng, hư mất.

Đối chọi lại hành xử mừng đón trẻ bé mọn, là cản trở trẻ lạc lõng, hư mất. Cản trở, được coi như một hành động bỉ ổi. Rất tai tiếng. Cản trở tức trở thành sỏi cát lọt trong giầy của trẻ bé hèn mọn vậy. Những người là sỏi cát cản trở bước đi của bọn trẻ bé, lại chính là những người mắc lỗi nặng trong chung sống. Sống rất chung, đời cộng đoàn dân con của Chúa. Người cản trở trẻ bé mọn như thế, chỉ đáng cột cổ vào đá, quăng xuống biển, một hình phạt dành cho lỗi phạm, cũng khá nặng.

Bởi thế nên, thánh Mátthêu mới tóm tắt giới lệnh căn bản, trong 10 giới lệnh yêu thương bằng câu: “Không được nên cớ vấp phạm cho người nào trong các “trẻ bé mọn” tin vào Ta” (Mt 18: 6-8). Và cả câu 14: “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không hề có ý để ai trong những trẻ bé mọn này hư mất.”

Nguyên tắc thứ hai cho cộng đoàn chung sống cũng gần giống như nguyên tắc đầu. Tức, trong cộng đoàn Kitô-hữu ta chung sống, không ai được phép có hành xử với mọi thành viên khác như người hư mất, khó thứ tha. Một trong cung cách bị coi là lạc lõng, hư mất, tức là không thể tha thứ cho người ấy. Trong cộng đoàn Hội thánh, không thể có động thái giống như thế. Đó là ý tưởng mà thánh Mát-thêu còn viết nhiều ở các chương đoạn kế tiếp.

Tựu trung, ý tưởng mà thánh nhân muốn nhấn mạnh, là: hãy ra đi mà tìm kiếm những “trẻ bé mọn” đem họ về lại với cộng đoàn. Công tác này, không thể là động thái bốc thăm, may rủi, được. Nhưng, phải là mục tiêu hành động. Là, hành xử mang tính cách xuyên suốt, rất văn hoá. Là, mục tiêu phải đạt chứ không là động thái thích thì làm không thích thì thôi.

Thời buổi hôm nay, còn rất nhiều “trẻ bé mọn” đang lạc lõng bằng cách này hay cách khác qua cách hành xử của ta và “trẻ bé mọn” dễ bị cuốn hút vào chốn “hư mất”, nếu ta không ngó ngàng gì đến họ. Và, vấn đề là hỏi: ta có bỏ công đi tìm những người như thế, mà đưa về “ràn chiên” Hội thánh không?

Tại thành đô Giêrusalem hôm nay, có khu tưởng niệm “những trẻ bé mọn” bị lạc lõng/hư mất trong lò thiêu sống. Bên trong khu này, là phòng tối có những đốm sao lấp lánh chiếu lên ảnh hình và tên tuổi của từng bé em bị lạc lõng, thân hư nát.Và, có cả tiếng giọng ở hậu trường gọi tên em bằng tiếng Aram tựa hồ tiếng của Cừu mẹ Rachel gọi cừu con đang bị lạc. Chính đó, là ý nghĩa của trích đoạn trình thuật mà thánh sử Mátthêu, nay muốn tả.

Thánh Hội của ta hôm nay có đang cuồng điên gọi tìm “trẻ bé mọn” đang đi lạc, ở đâu không? Gọi và tìm, như ý tưởng của thánh sử Mát-thêu từng ghi chép? Có hay không, cũng nên tự hỏi: cho đến nay ta đã bao lần là hạ sỏi trong giầy của trẻ bé mọn? Ngày hôm nay, ta có cảm nghiệm sống thực hiện nguyên tắc/lý tưởng này trong thể chế có tổ chức thành cộng đoàn không? Nếu chưa, thì ta có ý định bắt đầu ngay chưa? Là thành viên Hội thánh lớn/nhỏ, câu hỏi ấy đã trở thành vấn nạn gửi đến cho người. Cho mình.

Trong tâm tình tìm câu trả đáp cho thoả đáng, cũng nên tìm nguồn hứng khởi ở câu thơ, rằng:

 “Lời khuyên không chạm đến tim đau.

Tim đau sẽ vọt ngàn tia máu.

Đọng lại muôn ngày vết hận sâu…”

(Nguyễn Bính – Cầu Nguyện)

Nhà thơ đời vẫn hỏi, như một lời nguyện cầu. Cầu mọi người. Nguyện ở mọi nơi. Cả những nơi có con tim không “vọt ngàn tia máu” xót thương. Tia máu yêu thương những là tìm đường mà mở rộng vòng tay đó những “trẻ bé rất mọn hèn”, còn lưu lạc ở nhiều nơi.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn

  Mai Tá lược dịch.

“Có người hỏi tôi tại sao”

Lẻ bóng – Anh Bằng -Thanh Thúy

httpv://www.youtube.com/watch?v=6WrnYpKSjBo

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 23 thường niên năm A 10/9/2017

 “Có người hỏi tôi tại sao”
Ưa ca bài ca sầu nhớ

Ưa ngắm trăng mờ hoàng hôn

Ưa đi lặng lẽ trong những đêm gió mưa u buồn
Mà nghe cô đơn.”

(Anh Bằng – Lẻ Bóng)

(Mt 5: 8)

 Trần Ngọc Mười Hai

Nhạc bản “Lẻ Bóng” của nhạc sĩ Anh Bằng, vẫn cứ hỏi mình/hỏi người khá nhiều thứ. Có những thứ và những sự nghe xong, cũng khó mà trả lời cho ra nhẽ. Khó nhất hạng, là cứ phải đọc báo lá cải hoặc rau diếp rau dền sao đó, rồi lại hỏi chuyện đó có thật hay không, thì có ma nào biết được sự thật, mà giải-đáp.

Trước khi giải-mã câu hỏi về sự việc này, nay mời bạn và tôi, ta thử đọc một tin khá “lạ kỳ” trên tuần báo “Văn Nghệ” ở Úc hôm 03/8/2017, có những điều rất ư là kỳ khú, như sau:

“Kỳ quái ở Sàigòn, nghề ngủ thuê trong quan tài lấy may.

Có lẽ bất cứ ai khi nhìn thấy những cỗ quan tài sơn màu đỏ đều cảm thấy lạnh sống lưng, không muốn đến gần chứ đừng nói là chui vào đó…nằm ngủ. Thế nhưng, ở những trại hòm Sài gòn lại có cái nghề kỳ quái: Vào nằm trong quan tài.

 Công việc này khá đơn giản, chỉ cần nằm im trong quan tài gỗ đã đóng kín, sau một tuần nhang sẽ được các chủ trại hòm trả từ 400.000-500.000đồng. Anh Vạn (44 tuổi, quê gốc Chợ Gạo, Tiền Giang) làm nghề ngủ trong quan tài, cho biết, khoảng 4-5 năm trở lại đây, nghề này khá phát triển…

 Cũng theo anh Vạn, các chủ trại hòm cho rằng, nếu buôn bán ế ẩm, các quan tài không có “chủ nhân” chỉ cần có người chịu vào đó nằm, giả chết sau một tuần nhang thì sẽ có chủ nhân thật sự. Nói nôm na, ngủ trong quan tài để mang lại may mắn làm ăn, buôn bán cho họ. Chẳng biết thực/hư thế nào, nhưng cái nghề ngủ quan tài là có thật 100%” (X. Văn Nghệ Tuần Báo ngày 3 tháng 8 năm 2017, tr. 44)

Thế nhưng, bỏ qua một bên những chuyện tưởng-như-là dị-đoan/mê-tín thần-thoại này, nay ta cũng nên để mắt đọc thử một bài viết khác có câu hỏi, rằng: “tại sao có người lại cứ tin vào chuyện Đức Mẹ hiện ra ở đây đó, có mê-tín/dị-đoan hay không, như bài viết phổ biến trên Tuần Báo Công Giáo Sydney hôm 26/3/2017, như sau:

“Hoa trái tốt tươi cũng có thể xuất từ sự-kiện Medjogorje. Thiên-Chúa sẽ tỏ-bày thân mình Ngài ở bất cứ nơi nào Ngài được đón tiếp, ngay cả khi khách hành hương cảm thấy thất vọng, vì nhiều lẽ…” (Xem thêm lập trường của tác-giả Simcha Fisher qua nhận-định này ở bài: The low-down on Medjugorje, trên tuần báo The Catholic Weekly 26/3/2017 tr. 13)

Hỏi và đáp thế rồi, nay mời bạn và mời tôi ta quay về nhạc bản trích-dẫn ở trên mà nghêu ngao đôi ca-từ để rồi lại sẽ bàn những chuyện đáng bàn mãi về sau. Nghêu-ngao hát, là hát những ca-từ được viết như sau:

 “Đừng chắt tình riêng tôi
Đời mấy người chẳng
Ưa nhìn tơ liểu rũ

Ưa chìm trong giấc ngủ
Ngày còn ấu thơ lòng chưa biết chi mộng mơ.

Nói nhiều để cho sầu vơi
Tôi ưa tìm lên đồi vắng
Ưa lắng chuông chùa vọng khơi

Trông chim bạt gió
Nghe tiếng tiêu thiết tha xa vời lòng thêm chơi vơi

Thường viết dòng tâm tư
Vào những chiều úa
Thương cành khô lá đổ

Thương mùa đông nức nở
Thương cung ve rền trong nắng hè gọi bơ vơ.

 Còn thương còn nhớ
Đường xa ai gian khổ phong trần
Tạm quên vui khi tuổi thanh xuân
Năm tháng giữa non ngàn

Mộng lòng ra đi là giữ yên bờ cõi
Một đời nguyền hy sinh hạnh phúc riêng người ơi
Biết bao giờ nguôi (thôi).


Nói sao cạn lời
Tình tôi mến người.

Vẫn là niềm thương đầy vơi
Khi ca bài ca sầu nhớ
Khi ngắm trăng mờ hoàng hôn

Khi đi lặng lẽ trong những đêm gió mưa u buồn
Mà nghe cô đơn

Hẹn ước về tương lai
Chờ đón ngày tới
Đôi lòng không cắt trở
Như bày chim ấm tổ

Tôi xin dâng người ca khúc trọn một niềm vui … !!!

(Anh Bằng – Lẻ Bóng)

Hát cho qua nỗi buồn hỏi han xong, nay mời bạn và mời tôi, ta quá bộ đi vào vườn hoa truyện kể có những lời bàn về “nhân sinh vô thường”, nó thế này:

Nhân sinh vốn vô thường, đời người tựa đóa hoa, sớm nở tối tàn, mấy ai có thể sống một cách nhẹ nhàng thoải mái cho được. Hãy biết trân quý, cảm thông cho bản thân và người khác, để mỗi ngày trôi qua là một ngày ý nghĩa.

 Nhân sinh khó hay không là dựa vào nỗ lực của chính mình, ngày qua ngày có khổ hay không là do tâm tình của mình, không cần đánh mất niềm tin, không cần oán hận ghen tị, con đường phía trước không phải lúc nào cũng gập ghềnh, người bên cạnh tất cả đều cố gắng nỗ lực, mệt mỏi cũng không buông bỏ bản thân, đừng tùy hứng trước mặt người khác, khiến cho người khác đối với mình có thành kiến.

 Nên hiểu biết một chút, đừng quá coi trọng bản thân, ở trên đời này không ai cần phải theo ý mình, nước mắt, khổ sở nên để trong lòng, đừng vì tính tình của mình mà làm hỏng tâm tình của người khác. Ai cũng đều sống không dễ dàng, hãy cảm thông thấu hiểu lẫn nhau mới có thể có được bạn bè, mới có thể làm cho chân tình bền vững.

 Thời gian sẽ vạch trần những lời dối trá, sẽ làm xa cách nhau, sẽ thấy được tâm của bao người. Không thể không thừa nhận rằng, thời gian là một loại thần dược nhiệm màu, đồng thời cũng là một loại độc dược.

 Quan hệ giữa người với người, không nên dùng sự thông minh để lợi dụng sự thiện lương của người khác, thời gian sẽ cho chúng ta thấy rõ, đơn giản chính là sự quen biết lâu dài nhất, bình thường là tình bạn yên tâm nhất.

 Có một ngày ta sẽ hiểu được, thiện lương so với thông minh thật khó khăn, thông minh là một loại khả năng do trời ban cho, còn thiện lương là một loại lựa chọn, cảm kích khi có được, chờ mong vào tương lai. Cái gọi là cuộc sống chính là ta cần phải quen với những thay đổi của người đời, cũng cần phải có thái độ xem nhẹ với những người dần dần xa cách.

 Khi tâm tình không tốt cần phải học cách thay đổi, khi có việc khiến ta không thoải mái, thì không cần hết sức chạy theo sau để hỏi vì sao. Con người khi còn sống thì sẽ càng gặp những việc phiền lòng, để nhìn xem đối diện với những sự việc đó bạn sẽ thay đổi ra sao.

 Xem nhẹ một chút thì tâm sẽ nhẹ một chút. Có một số việc chính là không có kết quả, nếu tính toán thì ngược lại sẽ tăng thêm phiền não, cho nên thà không tính toán. Danh – lợi, được – mất, tính toán nhiều tâm can tất sẽ mệt mỏi.

 Chúng ta vốn là khách trọ qua đường, tựa hạt bụi phiêu lạc nơi trần thế. Không oán trời oán người, cũng không oán trách mình, cứ tích cực vui vẻ, vận số có thế mới canh tân, đường đi như vậy mới thông suốt, tâm mới vui vẻ, thanh nhàn, sảng khoái.

 Giữ vững tiêu chuẩn làm người, bảo vệ cho ranh giới thiện lương. Nhân sinh có mức độ, quá mức sẽ gặp tai vạ, làm người không nên quá để ý, làm việc không cầu hoàn mỹ. Lòng người quý ở chỗ khoáng đạt, khoan dung, hòa nhã. Không giận không vội, mới đủ rộng lượng; không nóng vội, mới đủ thong dong; không lo lắng ưu sầu mới đủ kiên cường.

 Không buồn bã sầu lo mới đủ xán lạn; không ghen ghét đố kị mới đủ ưu tú, không bám víu so đo mới đủ hạnh phúc; không tính không toán mới đủ vui vẻ. Làm người ở trên đời cần một chữ “Cười”.

 Cười đối với danh dự, không tranh giành; cười đối với của cải bất nghĩa, không nhận; cười đối với đời, không cầu; cười đối với khó khăn, không buồn phiền; cười đối với quyền quý, không cúi đầu; cười đối với nhân sinh, không gò bó, cười đối với được mất, không lo buồn.

 Trên khán đài cuộc sống, chúng ta gặp được càng nhiều người thì sẽ gặp được càng nhiều sự tình. Bất luận có vui vẻ hay không, chúng ta cũng phải hiểu được có tụ họp có ly tán; bất kể có thâm tình hay không chúng ta đều phải tươi cười mà đón chào. Con người khi còn sống, ai cũng không nhất định là sẽ vững vàng, phồn hoa như gấm lụa.

 Khi đắc ý nên lưu tình với người khác, khi thất ý còn có người giúp đỡ. Làm người sống ở đời phải hiểu được khoan dung thỏa mãn, chân tình mới có thể đổi lấy chân tình. Cho dù là đắc ý hay không như ý, chúng ta đều phải cảm tạ cuộc sống. Chính cuộc sống làm cho chúng ta hiểu được rất nhiều, càng biết rõ ràng hơn nhiều.”(Đức Hạnh biên dịch)

Thắc mắc trên, từng là câu hỏi đặt ra cho nhiều người, trong đó có bầy tôi đây. Thật cũng may, là: đang trong lúc kiếm tìm câu trả lời cho thoả-đáng, thì bần đạo bầy tôi đây lại “chộp” được ý tưởng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô như sau:

“Trên chuyến bay trở về từ Fatima, nước Bồ Đào Nha, phóng-viên Joshua McElwee của tờ The National Catholic Reporter có hỏi Đức Giáo Hoàng Phanxicô về tính-chất rất thực nơi sự việc Đức Maria hiện ra ở Medjugorje, nước Bosnia-Herzegovia, Đức Giáo Hoàng trả lời:

 “Bản Tường Trình, cũng đã có chút ngờ vực rồi; nhưng cá nhân tôi còn nghi-ngờ tệ hơn thế. Tôi thích chọn Đức Bà của ta như con người chứ không là Đức Bà Thủ Trưởng ngành Bưu điện chuyên gửi tin nhắn vào thời điểm nào đó, rất nhất-định.

 Đức Giáo Hoàng nói tiếp: “Truyện ở đây, không biểu-tỏ đó là Thân-mẫu Đức Giêsu và các sự việc gọi là “hiện ra” như thế không có giá-trị là bao nhiêu. Tôi nói, đây là ý-kiến cá nhân của tôi, nhưng ý-kiến này thật rõ nét. Những ai nghĩ rằng: Đức Bà của chúng ta vẫn bảo rằng: Con hãy đến, vào ngày mai cũng giờ này Ta sẽ gửi tin nhắn cho người nào nhìn thấy, như vậy ư? Không đâu! Không phải thế. 

Ba trong số 6 trẻ nhỏ lúc đầu bảo: đã nhìn thấy Đức Bà ở Medjugorje vào tháng 6/1981 có nói: Bà sẽ tiếp-tục hiện ra như thế cho chúng nhìn thấy mỗi ngày; còn 3 cháu kia, lại nói: Đức Bà hiện ra với chúng có một lần một, cách nay một năm…

 Một uỷ-ban thuộc giáo-phận đã nghiên-cứu học hỏi về các sự việc gọi là “hiện ra” từ năm 1982-1984; và một lần khác vào các năm từ 1984-1986 với nhiều thành-viên hơn; và lúc ấy, Hội đồng Giám mục ở Nam tư đã điều-tra các sự việc ấy từ năm 1987 đến 1990, cả 3 uỷ-ban này đều kết-luận rằng: họ không thể khẳng-định được là có sự-kiện siêu-nhiên xảy ra ở thị-trấn này, trong thời-gian ấy hay không…

 Đức Giáo Hoàng Phanxicô còn thêm: Ta không thể chối bỏ các yếu-tố linh-đạo và mục-vụ ở đây, bởi dân chúng đã tới đó và đã hồi hướng trở lại, họ là những người gặp thấy Chúa là Đấng hoán-cải cuộc sống của họ. Đó, không có gì là xảo-thuật hết.” (Xem Junno Arocho Esteves, Pope Francis: I personally doubt authenticity of current alleged Medjugorje visions, Catholic Herald 14/5/2017)

Hỏi han nhiều, tìm kiếm câu trả lời cho siêu, cũng là kiếm tìm một cung-cách sống trong đời. Sống phúc hạnh, lành thánh dù đơn sơ nhưng có chủ-đích như truyện kể nhẹ về “Hạnh phúc đơn sơ” ở bên dưới:

“Có một tỷ-phú sống trong căn biệt thư xa-hoa. Nhưng một ngày kia mắc bệnh hiểm nghèo, ông chợt nhận ra rằng tất cả những gì là danh-vọng, tiền tài, vật chất, thật ra đều hư-vô như mấy khói. Vì lo sợ sẽ không sống được bao lâu nữa, ông bèn tìm đến một danh-y để xin lời khuyên nhủ. Sau khi bắt mạch, danh-ý nói với ông rằng:

 -Bệnh của ông, ngoài cách này ra thì không thuốc nào có thể chữa khỏi. Tôi sẽ kê cho ông ba đơn thuốc, ông cứ theo đó mà làm, hết đơn thứ nhất thì chuyển sang đơn tiếp theo.

 Nhà tỷ-phú đi về, trong lòng phấp-phỏng hy-vọng. Ông lấy đơn đầu tiên ra và đọc:

 

  1. Hãy đến một bãi biển và nằm đó khoảng 30 phú, làm liên-tục như vậy trong 21 ngày.

Mặc dù thấy khó hiểu, nhưng ông vẫn quyết định đi ra bờ biển. Ông lang thang một vòng rồi ngả lưng nằm dài trên bãi cát. Bất chợt một cảm-giác nhẹ-nhàng và khoan-khoái bao trùm cơ thể ông. Vì trước đây, công việc bận rộn nên ông không có cơ-hội nghỉ ngơi. Nay, ông có thể bình tâm lại để lắng nghe gió thổi vi vu, song biển rì-rào hoà lẫn với tiếng kêu thánh thót của đàn hải âu gọi bầy… Trái tim ông bỗng thổn-thức, chưa bao giờ ông có được cảm-giác thoải-mái như bây giờ.

 

Ngày thứ 22, ông mở đơn thuốc thứ hai, trong đó viết:

 

  1. Hãy tìm 5 con cá hoặc tôm rồi thả chúng xuống biển, liên-tục như vậy trong 21 ngày.

Lòng ông đầy rẫy những băn-khoăn, nhưng ông vẫn căm-cụi đi mua tôm cá, rồi thả chúng ra biển. Ngắm nhìn từng con vật bé nhỏ được trở về với biển khơi, trong lòng ông không nén nổi xúc-động. Ngày thứ 43, ông đọc đơn thuốc thứ ba:

 

  1. Tìm một cành cây và viết những điều khiến ông cảm thấy hài lòng lên bãi cát.

 

Nhưng khi ông vừa viết xong, thuỷ-triều lại cuốn tất cả xuống biển. Ông lại viết, sóng lại cuốn đi, rồi lại viết, lại cuốn đi rồi lại viết và lại cuốn đi… ông bật khóc nức-nở vì chợt hiểu ra tất cả. Về nhà, ông cảm thấy toàn thân nhẹ-nhàng, tinh-thần chưa bao giờ thoải-mái và tự-tại đến thế, thậm chí ông cũng không còn sợ cái chết nữa.

 

Thì ra, con người ta chỉ cần học được 3 điều ở trên, ắt sẽ vui vẻ, hạnh-phúc: thứ nhất: Nghỉ ngơi; thứ hai: Cho đi; và thứ ba: buông xuống.” (Truyện kể trích từ trên mạng)    

 

Truyện kể rồi, nay bần đạo bầy tôi đây lại cũng đề-nghị bạn/đề-nghị tôi, ta đi vào vùng trời Lời của Chúa, với những khẳng-định như sau:

 

Phúc thay ai có lòng ngay,

vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa.”

(Mt 5: 8)

Thế mới biết, người có lòng ngay sẽ thấy hạnh-phúc biết mấy, vì “sẽ được thấy Thiên-Chúa”. Nay, ở chốn Nước Trời Hội thánh ta đang sống, vẫn tràn đầy nhiều hạnh-phúc. Vấn-đề, còn tuỳ ta có nhận ra được nó hay không, mà thôi.

Nhắc bạn và nhắc tôi những điều như thế, nay lại mời bạn và mời tôi, ta cất tiếng hát lại những ca-từ đầy hỏi han, mà rằng:

“Nói nhiều để cho sầu vơi
Tôi ưa tìm lên đồi vắng
Ưa lắng chuông chùa vọng khơi

Trông chim bạt gió
Nghe tiếng tiêu thiết tha xa vời lòng thêm chơi vơi

Thường viết dòng tâm tư
Vào những chiều úa
Thương cành khô lá đổ

Thương mùa đông nức nở
Thương cung ve rền trong nắng hè gọi bơ vơ.

 Còn thương còn nhớ
Đường xa ai gian khổ phong trần
Tạm quên vui khi tuổi thanh xuân
Năm tháng giữa non ngàn

Mộng lòng ra đi là giữ yên bờ cõi
Một đời nguyền hy sinh hạnh phúc riêng người ơi
Biết bao giờ nguôi (thôi)
Nói sao cạn lời
Tình tôi mến người.

Vẫn là niềm thương đầy vơi…”

(Anh Bằng – bđd)

Cuối cùng thì, tất cả là “Tình tôi mến người, vẫn là niềm thương đầy vơi”, trong đời; và ở Nước Trời Hội thánh, rất thân và rất thương ở đây, hôm nay.

 Trần Ngọc Mười Hai

Và những lời lẽ

đầy thương yêu

rất như thế.

Đời linh mục !

  Đời linh mục !

“Tôi xin những người nào, mà khi còn sống, tôi không giúp đỡ được gì, hãy tha lỗi cho tôi”

Tôi xin những người nào, mà khi còn sống, tôi đã nêu gương xấu, hãy tha lỗi cho tôi”                       

   (Jean Cassaigne )

LINH MỤC VIỆT NAM HÔM NAY ĐANG TRONG CƠN LỐC TỰ DO CÓ PHẦN KHÔNG LÀNH MẠNH …

(Bài viết của Đức Giám Mục Anphong NGUYỄN HỮU LONG).

Nguy cơ của linh mục là được giáo dân quý mến thái quá, coi linh mục như Chúa : “Cha nói là Chúa nói”, “Ai vâng lời cha là vâng lời Chúa”, muốn chào cha thì phải “xin phép lạy cha”!… Điều đó dễ khiến linh mục quên mất sự dòn mỏng, yếu đuối, bất xứng… của mình.

– Đó đây, thỉnh thoảng, đã có những lời bình phẩm linh mục này hách dịch, cha kia ăn nói linh tinh, lối sống không phù hợp… Một phần lỗi, phải nhận rằng do giáo dân đã quá đề cao linh mục. Xin đừng nâng linh mục lên cao quá, để rồi thất vọng khi thấy linh mục không được như mình mong đợi

Anh chị em muốn thương yêu linh mục đúng cách thì xin lưu ý mấy điểm sau đây :

– Hãy cầu nguyện cho các linh mục. Linh mục cần lời cầu nguyện lắm, vì sứ vụ và trách nhiệm của linh mục rất nặng nề. Nhiều khi anh chị em xin linh mục cầu nguyện cho mình, mà quên cầu nguyện cho linh mục.

– Hãy tôn kính linh mục vì là người thay mặt Chúa hướng dẫn giáo dân. Nhưng hãy tôn kính cách đúng mực, bình dị, thân tình, chứ đừng thần thánh hóa, khép nép, sợ hãi, tâng bốc. Linh mục là người của Chúa và của mọi người, chứ không phải của riêng ai.

– Hãy nâng đỡ tinh thần cho linh mục. Linh mục cũng cần sự nâng đỡ, nhất là trong những lúc gánh nặng của sứ vụ đè trên đôi vai và trong tâm hồn. Tôi xin anh chị em quan tâm nâng đỡ tinh thần, chứ không phải vật chất, cho các linh mục. Chỉ chú trọng nâng đỡ vật chất sẽ có thể làm thoái hóa linh mục.

– Hãy cộng tác cách chân thành, tích cực và hữu hiệu, để linh mục chu toàn sứ vụ của mình. Linh mục chẳng thể làm được gì nếu không có giáo dân đồng tâm hiệp lực.

Lời của Mẹ Têrêsa Calcutta, người rất quý mến linh mục. Mẹ khuyên thế này:

“XIN CHA DÂNG THÁNH LỄ NÀY

NHƯ THÁNH LỄ ĐẦU TIÊN,

NHƯ THÁNH LỄ CUỐI CÙNG,

VÀ NHƯ THÁNH LỄ DUY NHẤT

CHỈ CÓ MỘT LẦN TRONG ĐỜI”.

(Gm Anphong Nguyễn Hữu Long – Giám mục Phụ tá Hưng Hóa)

Đức Cha Jean Cassaigne 

Bên cạnh Làng Cùi Di-Linh, tỉnh Lâm Ðồng, có ngôi mộ của Ðức Giám Mục Jean Cassaigne (Gioan Sanh,) vị sáng lập giáo xứ và làng cùi tại Di-Linh. Trên bia mộ Ðức Giám Mục De Cassaigne, có khắc hai dòng chữ sau đây:

“Tôi xin những người nào, mà khi còn sống, tôi không giúp đỡ được gì, hãy tha lỗi cho tôi”

“Tôi xin những người nào, mà khi còn sống, tôi đã nêu gương xấu, hãy tha lỗi cho tôi”

Ngay sau khi Ðức Cha Jean Cassaigne tấn phong Cha Simon Hòa Hiền (cựu Giám Mục Ðịa Phận Ðàlạt) năm 1955, thay vì về lại Pháp là nơi Ðức Cha Cassainge đã lớn lên, Ngài đã trở lại để vui sống với anh em bệnh nhân trại cùi, một làng nhỏ chính tay Ngài tạo dựng mấy mươi năm về trước. Tại làng nhỏ bé này, Ngài vừa làm Cha sở, Thầy giảng, Giám đốc, Y tá, chăm nom chu đáo cho tất cả bệnh nhân mọi tôn giáo, trẻ già, với sự cộng tác nhiệt thành của các sơ dòng Bác Ái Vinh Sơn. Ngài quyết tâm sống chết với con cái cùi hủi của Ngàị

Trong cuốn “Lạc Quan Trên Miền Thượng” [1] do Linh Mục Giuse Phùng Thanh Quang viết vội vào năm 1972 về cuộc đời hy sinh cho người cùi của Ðức Cha Cassaigne, lúc Ðức Cha Cassaigne đang đau quằn quại thê thảm với những cơn đau khủng khiếp cuối đời. Một đời hy sinh thật cao quý của Ðức Cha Cassaigne mà có lẽ nay còn rất ít người có biết và nhớ đến.

Cha Cassaigne được thụ Phong chức Linh Mục năm 1925 tại chủng viện Rue du Bac của Paris. Qua Sài Gòn ngay sau đó và nhận nhiệm sở thí điểm truyền giáo vùng ma thiêng nước độc Di Linh (DJIRING) năm 1927. Ngài đã yêu thương những người “Mọi cùi” đến độ đã sống giữa người cùi, tắm rửa, săn sóc cho những người cùi, đã thương yêu họ cho đến khi họ chết. Cha Cassaigne đã kể một câu chuyện có lần Ngài giúp những người cùi thức ăn gồm có gạo, muối, và thịt naị Có một bà cùi hàng tuần đến lấy phần ăn, nhưng tuần đó không thấy đến. Cha Cassaigne đến lều tranh tìm bà thì thấy bà ta sắp chết với mủ nhớt nhầy nhụa, mùi hôi thối không chịu được xông ra từ mảnh thân héo tàn đáng thương xót nàỵ. Cha vội lo dạy bà những điều về Thiên Chúa và hỏi bà ta có muốn Cha rửa sạch những tội lỗi để bà được lên Trời sau khi chết không? Người cùi đáng thương đồng ý được rửa tội và nói với Cha Cassaigne rằng:

“Cau dờng! Ăn rơp kăh dơ mê dỡ ăn gũh rê hơ trồ”
” Ông lớn ơi! Tui sẽ nhớ đến ông khi tôi ở trên Trời”

Cái chết tội nghiệp nhưng tốt lành của bà Thượng cùi đã làm khích động thật sâu xa tâm hồn Tông Ðồ của vị Linh Mục Thừa Saị Câu nói “Tôi sẽ nhớ Cha khi được ở trên Trời” là viên đá đầu tiên được đặt xuống để khởi đầu công cuộc thành lập làng cùi tại Di Linh.

Trong khoảng thời gian đó, ở miền Trung cũng như ở miền Nam nước Việt cũng có những trại cùi với số người bệnh tương đối ít. Trong khi ở vùng đất xa xôi có đến hàng trăm người cùi, lại không có chỗ cho họ ở. Theo lời Linh Mục Phùng Thanh Quang kể lại.

Một ngày cuối Thu năm 1928, trong chuyến đi thăm một làng Thượng xa, đang băng qua rừng vắng thì bỗng có tiếng chân nhiều người dồn dập từ trong vùng tối âm u, nhiều giọng la ú ớ kêu Ngài dừng lại. Những bóng dáng quái dị xuất hiện như một đoàn ma đói. Thân hình xác xơ, kẻ mất tay, người sức mũi, miệng chảy nước lòng thòng và tất cả hầu như què quặt. Họ mặc dù có người khập khiểng, có người vừa bò vừa lết, và đói, cố đuổi theo Cha bao vây lấy Ngài và tất cả đồng gào lên thảm thiết:

“Ơ cau dơng! Ơ cau dơng! Dăn nđàc sơngit bol hi!”
Ới ông lớn! Ới ông lớn! Xin thương xót chúng tôi!

Rồi tất cả sụp lạy Ngài và khóc rống. Cha Cassaingne vừa sợ hãi, vừa mủi lòng. Thì ra đây là nhóm người cùi bị xóm làng kinh tởm đuổi đi, họ tụ tập từng nhóm ngoài rừng xa, sống lây lất qua ngày để chờ chết. Có lẽ họ đã nghe lời đồn đãi về ông lớn làm thuốc và hay thương giúp người cùi này. Họ chờ Cha trên khúc đường vắng để nhờ Cha giúp đỡ. Vài ngày sau, đó, việc lập làng cùi Di Linh được xúc tiến ngay [3] Trong bài thuyết trình của Cha Cassaigne tại Sài Gòn năm 1943 về bệnh cùi khủng khiếp như thế nào, Ngài viết:

Ở xứ Thượng cũng như hầu hết các xứ vùng nhiệt đới, nơi mà sự ăn ở sạch sẽ và phương pháp vệ sinh ít được lưu ý, thì con số người mắc bệnh cùi khá cao. Khi mà có thể còn làm việc được thì người mắc bệnh cùi vẫn còn được sống chung với gia đình. Nhưng đến khi thân tàn ma dại không làm gì được nữa, nhất là khi các vết ung thối bắt đầu phá miệng lở loét ra, mủ máu vấy đầy khiến những người chung quanh nhờm gớm kinh tởm không chịu được, thì dân làng đưa họ vào rừng, cất cho họ một túp lều tranh để người cùi ở lại đó một mình sống chết sao mặc kệ! Rồi yếu liệt cô đơn trong túp lều hiu quạnh, người cùi không còn sức làm gì nữa để kiếm ăn vì tay chân cụt mất rồi! Họ sẽ chết dần chết mòn một cách thảm khốc, sẽ gục ngã ở một xó kẹt nào đó rồi chết đi vì đói lạnh, mà chẵng có ai hay biết…”

Trước khi mắc bệnh, mỗi lần thuyết trình đến đây, cha Cassaigne không sao cầm được nước mắt, phần thì thấy thương những người xấu số, phần thì chắc Ngài cảm thấy lo âu sợ sệt như linh cảm thấy trước định mệnh sẽ đến, Ngài run sợ như chính mình đang mắc chứng bệnh nan y nàỵ

Các việc làm nhân đức của Cha Jean Cassaigne đã đưa Ngài từ một căn lều tranh để phục vụ người hủi tới tận tai Tòa Thánh La Mã. Ngài được bổ nhiệm chức Giám Mục và Ngài phải tuân lệnh Toà Thánh về làm việc tại Ðiạ Phận Sài Gòn. Trong hơn 14 năm giữ chức vụ này, Ðức Giám Mục Cassaigne đã đôn đốc thực hiện công cuộc bác ái, cứu trợ vật chất, ủy lạo tinh thần cho những người gặp cảnh bất trắc nghèo khó, di cư tị nạn, không phân biệt địa phương hay tôn giáọ. Vì nhớ đám dân cùi, Ngài xin từ nhiệm chức Giám Mục Sài Gòn để trở về băng bó vết thương tinh thần và vật chất cho những đứa con cùi hủi của Ngài tại làng cùi Di Linh.

Vì sống một đời sống quá khắc khổ trong rừng nên Ðức Cha đã mang nhiều bịnh nặng. Từ năm 1929, Ngài đã mắc bịnh sốt rét rừng. Năm 1943, bịnh cùi đã đến với Ngài vì sống gần gũi với người bịnh; từ năm 1957, bịnh lao xương làm không thuốc chữa Ngài đau đớn, và năm 1964, bịnh lao phổi trở lại hành hạ thân Ngàị. Ðức Cha đau đớn tột cùng với những cực hình thể xác, nhưng luôn luôn vững lòng chấp nhận để xin Chúa thương mà giảm bớt cái đau của những người hủi tại Việt Nam. Những ai may mắn sống gần Ðức Cha thường được nghe Người nói:

– “Ðời tôi chỉ có ba ước nguyện: được chịu đựng, chịu đau, và chịu chết ở đây, giữa những người Thượng của tôi”
(Je ne demande que trios choses: tenir, souffrir, et mourir ici, au milieu de mes Montagnards).

Chúa đã nhận lời cầu xin của Ðức Cha, đã cho Ngài mang lấy bốn chứng bệnh nan y. Ðã giúp sức cho Ngài chịu đựng quá lâu dài. Những ngày cuối cùng tuy đau đớn, nhưng Người vẫn đọc kinh cầu nguyện cho nước Việt Nam, cho các người cùi. Người nói:

“Suốt 47 năm dài, Cha đã sống giữa các con, đã sống tại Việt Nam này, và đã dâng hiến tất cả cho các con. Giờ đây, Cha không tiếc một điều gì về sự dâng hiến toàn diện ấy”.

Theo lời từ biệt của ông Nguyễn Thạch Vân, đọc trong lễ an táng Ðức Cha Cassaigne tại Di Linh ngày 11 tháng 5, năm 1973 kể lại, Cha Cassaigne còn nói:

“Việt Nam chính là quê hương của Cha, bởi vì Chúa muốn như vậy”.

Khi nói đến câu: “Nước Việt Nam là quê hương của tôi”. Ðức Cha chấp tay như để cầu nguyện, và Ngài khóc! Ðây là giòng lệ Thánh cầu nguyện của một Tông đồ Truyền giáo, đã tận hiến đời mình cho lớp người khốn khổ, bất hạnh nhất trên cõi đời này.

Năm 1972, Ðức Cha đã được trao tặng Ðệ Tứ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương trên giường bệnh và đã qua đời tại Di-Linh ngày 31-10-1073

From: Do Tan Hung & Nguyễn Kim Bằng

CẦU XIN CHÚA CHO ĐƯỢC BÌNH AN

CẦU XIN CHÚA CHO ĐƯỢC BÌNH AN

  1. Ít ngày nay tôi bị rơi vào tình trạng bất ổn. Thời tiết bất ổn, thời thế bất ổn, sức khỏe bất ổn. Tôi cảm thấy mình bất an, sợ hãi lo âu.

Tôi bối rối trước những biến cố đang dồn dập xảy ra xa gần, có vẻ như một tai họa lớn sắp giáng xuống tôi và thế giới này. Nhất là vì lúc này tôi nhớ lại ngày 01 tháng 9 năm 1939, đã nổ ra đại chiến thứ hai.

Tôi cầu xin với Chúa. Xin Người thương cứu mọi người và cứu tôi.

  1. Chúa trả lời tôi, bằng sự Chúa soi sáng cho tôi tìm đến Lời Chúa được ghi trong Phúc Âm Thánh Luca, Lời Chúa như thế này:

“Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu rỗi… Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề, vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em…

Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến, và đứng vững trước mặt con người” (Lc 21, 28, 34, 36).

Với những lời trên, Chúa dạy tôi những điều sau đây: 

  1. *Đừng bối rối. Hãy coi những biến cố mang dấu chỉ tiêu cực cho thế giới lại là những cơ hội kêu gọi đến Chúa. Xin Chúa thương cứu chúng ta.     
  2. *Đừng giải khuây lòng mình bằng những vui chơi, nhưng hãy nhìn thẳng vào những khó khăn trước mắt với lòng can đảm.     
  3. *Hãy can đảm, ngẩng đầu lên, với niềm tin vào Chúa. Tôi xin Chúa giúp tôi, vì tôi nhát đảm và rất yếu tin.      
  4. *Niềm tin vào Chúa, không là do những chinh phục của ta mà có, nhưng là một ơn Chúa ban, do vậy mà phải cầu nguyện và tỉnh thức.

Khi vâng lời Chúa mà cầu nguyện và tỉnh thức, tôi thấy niềm tin vào Chúa được thể hiện ở những việc này:       

  1. *Tôi vững tin tôi thuộc về Đức Kitô. Chính Người là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống của tôi (Ga 14,6).

Do vậy, tôi không còn lo mình nên thuộc về ai, thuộc về phe nào. Thuộc về Chúa mới là điều cần.      

  1. *Tôi vững tin tôi có một chỗ vinh quang hạnh phúc, chỗ đó là trong Nước Chúa. Như lời Chúa Giêsu hứa: “Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ, Thầy đi dọn chỗ cho anh em… Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó với Thầy” (Ga 14,2).        
  2. Do vậy, tôi không lo đến sự mình nên có một chỗ đứng, một địa vị ở trần gian này, mà nên vui vì mình chắc chắn có một chỗ bên Chúa Giêsu trong Nước Chúa.    
  3. Trên đây là những bước đi dẫn tôi tới sự bình an. Qua kinh nghiệm của những bước đi đó, tôi nhận thấybình an nội tâm là hết sức quan trọng.      
  4. Bình an nội tâmlà một hành trình của mầu nhiệm Tình Yêu. Hành trình này luôn đòi phải lấy Tình Yêu mà thắng sự ác. Tình yêu của tôi quá non yếu, nên phải gắn kết với Tình Yêu Chúa Giêsu.      
  5. Sự ác đang mạnh lên trong lịch sử, nhưng Tình yêu Chúa sẽ thắng. Thắng của Tình Yêu là do khiêm nhường, quảng đại, bác ái, phục vụ, thứ tha.

Sự hiện diện của Tình Yêu như thế giữa một thế giới của sự ác, vẫn là một sức mạnh thiêng liêng xây dựng bình an thực chất và vững bền.      

  1. Khi tôi viết những dòng trên đây, thì năm học mới cũng vừa bắt đầu. Tôi nhìn vào các trường lớp đào tạo giáo dân, tu sĩ, chủng sinh. Tôi thấy việc đào tạo hiện nay đang đứng trước nhiều khó khăn và thách đố mới. Nhưng Chúa vẫn ở trong Hội Thánh.     
  2. Nhiều người đào tạo có nhiều bằng cấp và nhiều chức quyền vẫn không tự hào về những thứ đó. Nhưng họ tự coi mình như những kẻ đi gieo, mà Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm.

Họ gieo những hạt cải nhỏ vào mảnh đất nhỏ (Mc 4,31). Hạt cải nhỏ là những việc lành nhỏ, âm thầm, khiêm tốn.

Họ coi mình như những người gieo bé mọn. Không ồn ào, không danh vọng. Chỉ sống đơn sơ, mộc mạc. Như một hiện diện của Tình Yêu.       

  1. Những người đào tạo như thế, với những việc làm và thái độ như thế, chính là những người cộng tác đắc lực với Chúa, để xây dựng sự bình an cho thế giới hôm nay.

Thế giới hôm nay đang là chiến trường giữa thiện và ác. Phía ác do Satan và hỏa ngục dẫn đầu. Chúng rất mạnh. Chúng ta sẽ thắng chúng nhờ vào Chúa chúng ta.       

  1. Riêng tôi, tôi nhận mình rất yếu đuối. Ngay sự phó thác mình cho Chúa một cách khiêm nhường, cũng không là việc dễ dàng đối với tôi. Nên tôi thường hay chạy đến Đức Mẹ, xin Mẹ ủi an tôi trên con đường phấn đấu đầy mệt mỏi. Tôi hay cầu nguyện với Mẹ bằng bài hát quen thuộc:

“Lạy Mẹ, xin an ủi chúng con luôn luôn. Mẹ từ bi, xin phá những nỗi u buồn…”

Thực sự, Đức Mẹ đã và đang an ủi tôi. Nhờ vậy, mà tôi được bình an.

  1. Với kinh nghiệm riêng tư đó, đôi khi tôi cảm thấy mình được thấy “trời mở ra”, như xưa Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ đi theo Người (Ga 1, 51). Trời mở ra, để tuôn đổ ơn bình an xuống cho những người Chúa thương.

          Tôi nói là “đôi khi”, để chứng tỏ rằng: Bình thường, cuộc sống đem lại bình an vẫn là một hành trình đòi nhiều phấn đấu. Phải bắt đầu đi, bắt đầu lại.

          Bình an đang trở thành một nhu cầu khẩn thiết cho Hội Thánh và quê hương chúng ta. Bình an là điều mà mọi người đang chờ đợi nơi mỗi người chúng ta. Bình an là một ơn trọng đại, Chúa sẽ ban cho những người thiện tâm. 

Long Xuyên, ngày 04.9.2017                        

+ Gm. Gioan B Bùi Tuần

ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG VÀ MÀU THỜI GIAN

ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG VÀ MÀU THỜI GIAN

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Thời trẻ, Nikos Kazantzakis, nhà văn nổi tiếng người Hy Lạp, từng nghiền ngẫm để trở thành tu sĩ, và từng để cả một mùa hè đi thăm các tu viện.  Nhiều năm sau, khi viết về trải nghiệm này, ông kể lại tỉ mỉ một cuộc chuyện trò tuyệt diệu với một tu sĩ già, cha Makarios.

Một dịp, anh hỏi vị tu sĩ già: “Thưa cha Makarios, cha còn vật lộn với quỷ dữ không?”  Vị tu sĩ già thở dài trả lời: “Hết rồi, con ạ.  Giờ cha đã già rồi, và quỷ dữ cũng già theo cha.  Nó không còn sức lực… Giờ cha vật lộn với Chúa.”  “Với Chúa!”  Kazantzakis kinh ngạc kêu lên. “Cha hy vọng sẽ thắng chứ?” “Cha hy vọng sẽ thua, con ạ,” ông trả lời, “Xương cốt của ta vẫn còn đây, chúng vẫn tiếp tục cự lại ý muốn của ta.”

Ngoài những ý nghĩa khác, câu chuyện này nêu bật thực tế rằng những đấu tranh tinh thần của chúng ta thay đổi khi chúng ta thêm tuổi tác và trải nghiệm cuộc đời.  Những đấu tranh thời trẻ không nhất thiết là những đấu tranh tuổi trung niên và tuổi già.  Sự chín chắn luôn luôn tiến triển.  Mỗi chặng đời lại đòi hỏi chúng ta những điều khác nhau.  Nó cũng đúng đối với đời sống thiêng liêng và sứ vụ tông đồ.  Đời sống tinh thần của chúng ta thay đổi ra sao và khi chúng ta ngày một lớn lên, nó đòi hỏi những điều gì mới?

Dựa trên những nhận thức sâu sắc của thánh Gio-an Thánh giá, tôi xin nói rằng có ba giai đoạn nền tảng trong cuộc sống tinh thần của chúng ta, ba cấp độ của sứ vụ tông đồ:

Cấp độ đầu tiên, mà thánh Gio-an Thánh giá gọi là đêm tối của cảm quan, cũng có thể gọi là “Sứ vụ tông đồ cốt yếu.”  Về cốt yếu, đây là cuộc đấu tranh để định hình cuộc sống của chúng ta.  Cuộc đấu tranh này thật sự bắt đầu ngay khi chúng ta sinh ra, nhưng chỉ trở thành cuộc đấu tranh mang tính chất cá nhân của riêng mình khi đến tuổi dậy thì và bắt đầu chịu sự thúc đẩy của những lực mạnh mẽ bên trong khiến chúng ta tách khỏi gia đình để tạo lập cuộc sống và mái ấm cho riêng mình.  Trong thời gian này, chúng ta cố gắng gian nan để tìm được chính bản thân, để định hình cuộc đời, để tạo một mái ấm mới cho chính mình.  Thời gian này có thể kéo dài nhiều năm trời và có thể không bao giờ thành tựu.  Sự thật là, đối với hầu hết mọi người, một số khía cạnh của cuộc đấu tranh này vẫn tiếp tục trong suốt cuộc đời.

Nhưng, với hầu hết mọi người, sẽ tới một lúc điều căn bản này đạt được, khi có cảm giác thoải mái như về lại mái nhà xưa, khi những câu hỏi chính của cuộc đời không còn là: Tôi là ai?  Tôi sẽ làm gì với đời mình?  Ai thương yêu tôi?  Ai sẽ kết hôn với tôi?  Tôi nên sống ở đâu?  Tôi nên làm gì?  Đến một lúc, hầu hết chúng ta đều tìm thấy được một chỗ vượt lên trên những câu hỏi đó: Chúng ta có một mái ấm, một sự nghiệp, một người phối ngẫu hay sự bình yên nhất định với một người phối ngẫu, một ơn gọi, một ý nghĩa, một lý do tốt lành để thức dậy mỗi sớm mai, và một nơi để trở về mỗi tối.  Chúng ta đã tìm được đường về lại mái nhà xưa.

Rồi chúng ta bước vào cấp độ thứ hai của sứ vụ tông đồ mà thánh Gio-an Thánh giá gọi là Thuần thục và chúng ta có thể gọi là Sứ vụ tông đồ Sinh sôi.  Cốt yếu, đây là cuộc đấu tranh để cho đi cuộc sống của chúng ta.  Bấy giờ mối quan tâm chính không phải là chúng ta làm gì với đời mình nữa, mà là cho đi cuộc sống của mình như thế nào để biến thế giới thành một nơi tốt đẹp hơn.  Đây là những năm tháng sinh sôi và chúng kéo dài từ khi chúng ta cập bến vào một ơn gọi, một sự nghiệp, một mái ấm, cho tới lúc về hưu.  Và những câu hỏi chính trong suốt những năm này phải là những câu hỏi vì người khác: Làm thế nào để tôi cho đi bản thân mình một cách hào phóng và thanh khiết hơn?  Làm thế nào để tôi giữ lòng trung tín?  Làm thế nào để tôi trụ vững với những cam kết của mình?  Làm thế nào để tôi cho đi cuộc sống của mình?

Nhưng đó vẫn chưa phải là những câu hỏi tối hậu: đến một lúc nào đó, nếu chúng ta may mắn có sức khỏe và vẫn còn sống sau khi về hưu, một câu hỏi còn sâu sắc hơn bắt đầu trỗi lên trong ta, một câu hỏi mời chúng ta đến giai đoạn thứ ba của sứ vụ tông đồ.  Như Henri Nouwen đã nói: Đến một thời điểm trong cuộc sống chúng ta, câu hỏi không còn là: “Tôi còn có thể làm gì nữa để sống cống hiến?” mà là “Bây giờ tôi có thể sống như thế nào để đến khi chết, cái chết của tôi sẽ là phúc lành tốt đẹp nhất đối với gia đình tôi, đối với giáo hội, và với thế giới này?

Thánh Gio-an Thánh giá gọi giai đoạn này là đêm tối của linh hồn.  Chúng ta có thể gọi là Sứ vụ tông đồ Tận căn bởi vì ở giai đoạn này, chúng ta không còn đấu tranh nhiều nữa với việc làm sao để cho đi cuộc sống của chúng ta, mà là làm sao để cho đi cái chết của mình.  Lúc bấy giờ vấn đề của chúng ta là: Tôi sống những năm cuối đời mình như thế nào để khi chết đi, cái chết của tôi sẽ gieo phúc lành cho những người thân yêu, giống như cuộc sống của tôi đã làm?  Tôi sống những năm còn lại của đời mình như thế nào để khi tôi chết, “máu và nước” – nói như dụ ngôn – sẽ tuôn chảy từ thi thể tôi như từng tuôn chảy từ thi thể của Chúa Giê-su?

Các tài liệu linh hướng của chúng ta hầu như không có cái gì thách thức chúng ta xem xét giai đoạn cuối này của cuộc đời: Làm thế nào để chúng ta chết vì người khác?  Tuy nhiên, như Goethe nói về điều này trong bài thơ Nỗi Khao khát Thiêng liêng (The Holy Longing), chính cuộc sống cuối cùng sẽ buộc chúng ta phải nghiền ngẫm việc liệu chúng ta có muốn trở thành “điên cuồng tìm ánh sáng” hay không.

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

From Langthangchieutim

“Hôm nay cây quế trong rừng,

Suy Tư Tin Mừng trong tuần thứ 22 thường niên năm A 03/9/2017

(Mt 16: 21-27)

Từ khi ông Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, thì Đức Giê-su bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy. Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”

Rồi Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?

“Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên sứ của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.”

“Hôm nay cây quế trong rừng,

“bỗng nhủ cùng làn suối bạc,”

“xuân này tôi khoác áo nhung”

“mà bác vang lừng tiếng nhạc.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mai Tá lược dịch.

Có là cây quế trong rừng, cũng chỉ vang lừng tiếng nhạc với suối bạc, thôi. Nếu là cây quế trong Đạo, lại sẽ vang lừng cả tiếng thơm hay tiếng hát về vị thánh cả ở trình thuật hôm nay. Trình thuật, nay nêu rõ câu chuyện và công việc của thánh cả Phêrô để người người suy tư, bàn bạc.

Suy và bàn, tập trung vào đấng thánh có chỗ đứng quan yếu trong Giáo Hội là Phêrô thánh nhân, rất tông đồ. Thế đó, là vị thánh xuất thân từ ngành nghề có lưới có chài, và cá mắm. Đấng thánh sống ở Caphanaum xứ biển hồ, rất Galilê. Với ánh nhìn của thánh sử Luca, thì thánh Phêrô thuộc loại “chậm lụt” về văn chương, văn hoá với văn nghệ. Chậm và lụt, về khoa ăn nói, thưa gửi lẫn trần tình.

Thánh Mát-thêu nay cho thấy thánh cả Phêrô là lãnh tụ khá bình thường của nhóm hội đồ đệ theo Chúa giảng rao về Nước Trời. Nói khác đi, ngài là người giản dị, cứng cỏi và chậm hiểu.

Đức Giêsu từng nói với thánh nhân và đồ đệ đồng hành về kế hoạch do Cha đưa ra mà Chúa phải thực hiện cho bằng được ngang qua sầu buồn khổ đau và nỗi chết trên thập tự. Trong khi đó, thánh cả nhà Đạo vẫn nghĩ Thầy mình là Đấng Mêsia Thiên Sai tựa hồ Đavít xưa, tức: ứng viên siêu phàm cho chính trường Do thái. Để rồi, rất thất vọng khi Thầy Chí Ái bộc lộ kế hoạch Chúa Cha đề ra. Tức, Ngài sẽ bị thảm sát chết nhục, vốn vượt quá sức tưởng tượng của đồ đệ bình dân, chân chất.

Và rồi, thánh cả Phêrô lại cứ nghĩ rằng Thầy mình chỉ gặp ngày xui tháng hạn, nên mới sử dụng chức năng do Thầy tặng ban cho riêng mình. Đó là lúc thánh nhân tỏ ý phiền hà, và khuyến cáo Thầy. Sai lầm của thánh nhân là ở chỗ: không nhận chân được vị trí của mình. Tức, thay vì chỉ biết theo chân Thầy như các đồ đệ khác, nhưng lại “lanh chanh” “qua mặt” làm “kỳ đà cản mũi” Chúa.

Rất nhiều lần, Tin Mừng cho thấy chân tướng đích thật của thánh cả nhà mình là đấng thánh không ổn định về quan điểm/lập trường vốn chống đối những gì mình không hiểu hoặc không muốn xảy đến. Thánh nhân từng lẫn lộn nhiều thứ, như: việc đi trên nước việc xây 3 lều tạm để Chúa ở, khi thấy Thầy mình biến hình. Rồi, còn chối bỏ Thầy và anh em những ba lần. Sau này, còn để thánh Phaolô phải tái lập trật tự vì thánh cả nhà mình từ chối ngồi cùng bàn với dân ngoại.

Nay, thấy Thầy mình dùng ngôn từ gắt gao và dữ dằn mà quở mắng, thánh nhân không ngờ sao mình lại dám khuyến dụ Thầy bỏ ý định nghe lời Chúa Cha mà chấp nhận thất bại dẫn đến nỗi chết trên thập tự. Thật sự, thì thánh cả Phêrô chỉ muốn Thầy chọn con đường hoạn lộ, thênh thang mở, thay vì con đường nhỏ chỉ gồm mỗi con lộ tẻ hạn hẹp, là sự chết.

Nghĩ chuyện của thánh cả Phêrô trong vai trò lãnh đạo Hội thánh khiến ta suy về cung cách hành xử của thánh hội, trong quá khứ và hôm nay, không khác gì lối xử sự rất kẻ cả, kiểu “Đá Tảng” rất Phêrô. Hội thánh lâu nay quản cai dân con mình bằng cung cách phàm trần, như: quảng cáo rầm rộ, quyên góp tối đa, nặng phần trình diễn, theo sát bài bản ngành tâm lý chiến, đặt nặng công tác tiếp cận thị trường, thay vì chấp nhận thập giá đau thương, trầm lặng.

Trên thực tế, Hội thánh ngày nay chỉ muốn thiết dựng loại hình thừa tác rất bán buôn, thay cho công việc thừa tác đặt nặng lên cung cách phục vụ. Vẫn cứ chọn kiểu “mì ăn liền” nhanh gọn kiểu hưởng thụ. Trong khi đó, vẫn đặt gánh nặng trên lưng kẻ khác, thay vì chấp nhận thương đau cho chính mình. Hội thánh những muốn phô trương một giáo hội sùng mộ chuyện hình thức, không đích thực. Những muốn sống thoải mái, ăn trên ngồi chốc, được người người kính trọng, hầu hạ mà thôi.

Nhìn vào lịch sử, thì thánh cả Phêrô đã muốn thuyết phục Thầy hành xử theo kiểu người phàm, và tưởng rằng với vai trò Thầy trao ban, mình có thể khuyến dụ Thầy mình. Khuyên dụ Thầy bỏ rơi kế hoạch do Cha trao phó. Là, đừng làm nhiều chỉ cần làm “dân thường” nhà Đạo, mọi việc rồi cũng xong. Và, thánh cả vẫn muốn khuyên Thầy sống thực tế, để mọi việc rồi cũng qua đi và cũng đạt kết quả, thôi.

Nhưng, Đức Giêsu không đồng quan điểm với thánh cả Phêrô. Ngài tỏ bày cho thánh nhân bằng lời chân tình thời đại, rằng: “Nếu anh chọn quan điểm của các nhà chính trị chuyên lo cho người nghèo luôn bị áp bức, thì các người ở trên chỉ tạm thời theo anh, rồi họ sẽ dùng anh làm quân cờ để giảm hạ phẩm cách của anh và rồi sẽ vắt chanh bỏ vỏ, thôi. Nhưng, nếu anh thực tình lo cho người nghèo, anh không thể phản bội những người ấy, mà phải trung tín với họ. Giới cầm quyền ở trên có ghét bỏ hoặc xoá tên anh. Hãy để mặc Chúa lo, chỉ cần sống trung thực với chính mình và với họ, anh sẽ thành công.

Thánh Phêrô không nắm bắt được quan điểm của Chúa. Vậy, ai lĩnh hội được đây?

Đức Giêsu rất kiên trì. Ngài như đang nói với thánh Phêrô một điều tuy không lạ, nhưng vẫn quen: “Anh chưa là đá tảng, nhưng nếu trên đá đó có ai giống hệt như anh, thì cuối cùng ra Ta cũng sẽ và cũng có thể dựng xây thánh hội, do Ta muốn.”

Cuối cùng ra”, là ngôn từ mang trọn ý nghĩa này, là: khi ta học chấp nhận hậu quả do mình quyết tâm thi hành, thì như thế. Ta có thích làm thế hay không, chẳng vì thập giá là điều tốt hoặc đáng nể sợ. Nhưng, vì tình thương và sự quyết tâm luôn là những điều tốt đẹp nên làm cho kẻ mình thương yêu, muốn giúp. Thế nên, thánh cả phải xử sự theo đúng ý định của Chúa ngõ hầu mới trở thành đá tảng để mọi người dựa dẫm ngang qua con đường cam go của mình.

Có thể là, các “đá tảng” thánh hội lớn/nhỏ trong Hội thánh vẫn chưa đối xử với người hèn kém trong đời và với những người quyết tâm dấn bước theo mình, như thánh cả là vì chính mình chưa giáp mặt thực trạng thống khổ mà Chúa lĩnh chịu. Các thánh cả trong thánh hội lớn/nhỏ hôm nay đã và đang trở nên như cát vụn hơn là đá tảng cho mọi người dựa dẫm. Thứ cát vụn không thích hợp để làm nền cho bất cứ ai. Bất cứ thứ gì. Khi xưa, đấng-thánh-là-đá-tảng đã tham dự cuộc thống khổ đầy cứu độ của Chúa, đã khóc hết nước mắt cho nhân loại thế nào, thì các “đá tảng” của thánh hội lớn/nhỏ hôm nay, cũng phải làm như thế mới tiếp tay rải tràn ơn ấy đến với người ở dưới được.

Thánh cả Phêrô đã thực sự học được điều ấy, thấy rất rõ. Sách Công vụ kể rằng thánh nhân rời Giêrusalem vào niên biểu 43, tức 13 năm sau ngày Thầy mình chịu khổ hạnh trên đồi Calvary. Và, sau khi thoát khỏi ngục tù và rồi lưu lạc qua Antiôkia, thánh cả đã gặp nhiều khó khăn trong việc đảm trách các vụ việc mang tính chính trị của người theo Đạo vào thời đó. Cuối cùng ra, thánh nhân cũng về lại Rôma, mà sinh hoạt. Và, truyền thống Hội thánh công nhận rằng thánh Phêrô hiểu rõ ý định của Thầy nên đã chấp nhận tử đạo vào thập niên 60, ở La Mã. Chính ở nơi đây, các sử gia trong Hội thánh đã tìm ra địa điểm thánh cả chịu hành hình, và yên nghỉ. Khi ấy, là thời bạo chúa Nêrô hoành hành, bách hại.

Kịp đến thế kỷ thứ tư, hoàng đế Constantin mới ra lệnh xây một thánh đường trang trọng để tưởng nhớ thánh cả, ngay tại địa điểm ấy. Đó là Đền thánh Phêrô hiện tại, được xây ngay bên trên mộ phần của thánh nhân. Trong lịch sử, nhiều thánh tích của thánh cả Phêrô từng được cất giấu nơi mộ phần ngài cũng được bốc lên đặt bên trong bức tường của đền thờ. Ngay như bàn thờ kính thánh nhân cũng được đặt phía bên trên mộ phần của ngài. Và ở phía cao bên trên nóc, vẫn còn hàng chữ ghi rõ: “Này Phêrô, con là Đá tảng, trên Đá này Ta sẽ dựng xây thánh hội của Ta”.

Thánh Phêrô thực sự hiểu được ý nghĩa của lời Thầy phán bảo. Và, thánh hội vẫn đứng vững trên đá tảng của sự học hỏi, hiểu biết như thế. Thế nhưng, giống như thánh cả Phêrô, hội thánh còn phải làm nhiều việc hơn nữa mới đạt được điều mình học hỏi. Thánh hội, cần tìm ra những gì mà tình thương yêu người nghèo đòi mình phải làm. Nhất thứ, đừng bao giờ bỏ qua hoặc đặt nhẹ lập trường/quan điểm về những đòi hỏi dù gắt gao hơn thế nữa.

Trong tinh thần học hỏi này, cũng nên ngâm thêm lời thơ mang đầy tính những học và hỏi, như:

“Hôm nay gió bảo cùng mây:

Rời xa những miền tuyết trắng,

Tôi từ biển vắng về đây

Mừng hội Xuân này đẹp nắng.”

(Đinh Hùng – Âm Hưởng)

Âm hưởng, mà nhà thơ đời học được từ con người, sẽ là và vẫn là điều mà nhà Đạo cần ghi nhớ, để rồi sẽ không quên. Không quên lời dặn hãy rời xa “miền tuyết trắng” thoải mái, sướng vui, ngõ hầu sống thực ý định Cha mang đến. Bởi đó không chỉ là quyền tháo cởi, cột buộc mà là thực trạng “mừng hội Xuân này đẹp nắng”, rất Phêrô.

 Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –  

Mai Tá lược dịch.