DẤU CHỈ THỜI CÁNH CHUNG

DẤU CHỈ THỜI CÁNH CHUNG

Nhiều người cố gắng xác định thời gian trở lại của Đức Kitô nhưng rồi chẳng ai đoán đúng. Trật lất hết ráo. Chúng ta cũng đã biết tình trạng này trong những năm vừa qua!

Cuộc tái lâm của Chúa Giêsu là lúc Chúa Giêsu trở lại thế gian, sau khi Ngài đã về trời, khi đó Ngài sẽ chiến thắng kẻ thù, tiêu diệt ma quỷ và thiết lập Vương Quốc vĩnh hằng.

Cuộc tái lâm của Chúa Giêsu đã được mô tả trong sách Khải Huyền: “Bấy giờ tôi thấy trời rộng mở: kìa một con ngựa trắng, và người cỡi ngựa mang tên là ‘Trung thành và Chân thật’, Người theo công lý mà xét xử và giao chiến. Mắt Người như ngọn lửa hồng, đầu Người đội nhiều vương miện, Người mang một danh hiệu viết trên mình, mà ngoài Người ra chẳng ai biết được. Người khoác một áo choàng đẫm máu, và danh hiệu của Người là: ‘Lời của Thiên Chúa’. Các đạo quân thiên quốc đi theo Người, họ cỡi ngựa trắng, mặc áo vải gai mịn trắng tinh. Từ miệng Người phóng ra một thanh gươm sắc bén để chém muôn nước. Chính Người sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt chúng. Người đạp trong bồn đạp nho chứa thứ rượu là cơn lôi đình thịnh nộ của Thiên Chúa Toàn Năng. Người mang một danh hiệu viết trên áo choàng và trên vế: Vua các vua, Chúa các chúa” (Kh 19:11-16).

Là Kitô hữu, chúng ta tin Chúa Giêsu sẽ trở lại để hoàn tất lời hứa của Ngài và các lời tiên tri đã nói về Ngài. Mt 24:30 cho biết về lời hứa này: “Bấy giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời; bấy giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến”. Chúng ta không biết chi tiết về cuộc tái lâm của Chúa Giêsu, nhưng Kinh Thánh cho chúng ta biết thông tin chủ yếu về điều đó, tức là lời hứa Chúa Giêsu đã dành cho chúng ta.

Đây là 7 dấu chỉ về cuộc tái lâm của Chúa Giêsu:

  1. CÁC TIÊN TRI GIẢ

Đừng để bị lừa. Chính Chúa Giêsu đã cho biết chiều hướng và dấu chỉ tiên báo cuộc tái lâm của Ngài. Một trong các dấu chỉ là thế lực của một tôn giáo giả dối có ảnh hưởng mạnh. Chúng ta có thể biết hệ thống này trong chương 17 của sách Khải Huyền, nó được gọi là “Con Điếm khét tiếng”.

Một trong bảy thiên thần nói với Thánh Gioan: “Lại đây, tôi sẽ chỉ cho ông thấy Con Điếm khét tiếng, đang ngồi bên những làn nước mênh mông, bị xét xử như thế nào. Vua chúa trần gian đã làm chuyện gian dâm với nó, và những người sống trên mặt đất đã say vì thứ rượu là sự gian dâm của nó” (Kh 17:1-2). Tiên tri giả này sẽ hướng dẫn hệ thống đó. Thánh Phaolô cũng cảnh báo: “Nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ” (2 Tx 2:3).

Chúa Giêsu đã cảnh báo chúng ta rằng trong những ngày cuối cùng, các Kitô giả sẽ nổi dậy, giả danh là Mêsia và tự xưng là người cứu độ thế giới. Thánh sử Mátthêu cho biết: “Đức Giêsu đáp: ‘Anh em hãy coi chừng, đừng để ai lừa gạt anh em, vì sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: ‘Chính Ta đây là Đấng Kitô’, và họ sẽ lừa gạt được nhiều người” (Mt 24:4-5). Ngay trước khi chịu đóng đinh, Chúa Giêsu đã đã có sứ điệp quan trọng nói về các sự kiện sẽ xảy ra vào cuối thời, ngay trước khi Ngài tái lâm. Trong các sự kiện đó là sự xuất hiện của các tiên tri giả và và các Kitô giả. Chúa Giêsu cũng đã nhấn mạnh rằng các Kitô giả này sẽ làm các điềm thiêng dấu lạ, các phép lạ, và lừa bịp người ta.

  1. CHIẾN TRANH KHẮP NƠI

Chúa Giêsu nói trước rằng trước khi Ngài trở lại sẽ xảy ra “chiến tranh và tin đồn về chiến tranh”. Những người đa nghi và những người nhạo báng có thể nói: “Ôi dào! Chẳng lúc nào không có chiến tranh!”. Đúng vậy, hiếm khi người ta sống trong an bình. Nhưng trong thời buổi hiện đại ngày nay, có sự khác biệt – chỉ mới khoảng 70 năm qua mới có kỹ thuật, nhưng người ta lại tìm cách hủy diệt nhau bằng vũ khí hạt nhân, vũ khí hóa học, vũ khí sinh học.

Khi đọc cách mô tả về chiến tranh thời cuối cùng trong sách Khải Huyền, chúng ta thấy rằng trong thời cuối cùng, chiến tranh không chỉ là mối quan ngại của vùng miền, mà là cả thế giới. Chúng ta hy vọng Đức Kitô trở lại để cứu thoát chúng ta khỏi sự hủy diệt đó và mở ra một vương quốc mới trên trái đất.

  1. NGÀI TỪ TRỜI TRỞ LẠI

Chúa Giêsu đã nói về sự trở lại của Ngài khi Ngài thi hành sứ vụ trên trái đất này. Theo Ngài, mục đích của việc Ngài lên trời là để tiếp nhận Vương Quốc từ Chúa Cha, Ngài sẽ trở lại với quyền cai trị toàn cõi đất. also tells us that Jesus will not return alone. Kinh Thánh cho biết: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người” (Mt 25:31). Không chỉ có một số ít thiên thần mà có “tất cả các thiên thần” theo hầu khi Ngài tái lâm.

  1. NGÀI XUẤT HIỆN TRÊN TRỜI

Kinh Thánh cho chúng ta biết về cuộc tái lâm của Chúa Giêsu, nhưng chúng ta không biết lúc nào Ngài trở lại và xuất hiện trên trời. Nhiều người đã cố gắng xác định thời điểm trở lại của Đức Kitô nhưng tất cả đều sai bét. Trên Núi Ô-liu, Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ rằng “không ai biết ngày giờ đó, kể cả chính Con Người và các thiên sứ” (Mt 24:36), thế thì không ai có thể biết thời điểm Chúa Giêsu tái lâm.

Tuy nhiên, Chúa Giêsu cho chúng ta biết rằng Ngài sắp trở lại: “Ngay sau những ngày gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. Bấy giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời; bấy giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến” (Mt 24:29-30). Đó là dấu chỉ chính xác lúc Chúa Giêsu quang lâm, thời điểm tận thế.

  1. KẺ NHẠO BÁNG XUẤT HIỆN

Thánh Phêrô đã nói tiên tri: “Trước tiên, anh em hãy biết điều này: trong những ngày sau hết, sẽ xuất hiện những kẻ nhạo báng chê cười, sống theo những đam mê riêng của họ. Họ nói: ‘Đâu rồi lời Người hứa sẽ quang lâm? Vì từ ngày các bậc cha ông an nghỉ, mọi sự vẫn y nguyên như khi trời đất mới được tạo thành’. Thật vậy, họ không muốn biết rằng từ lâu đã có trời và đất, và đất từ nước mà ra và nhờ nước mà đứng vững do lời của Thiên Chúa. Cũng vì các nguyên cớ ấy, thế gian thời đó đã tiêu vong trong cơn hồng thuỷ. Còn trời và đất hiện nay, cũng chính lời ấy giữ lại, dành cho lửa trong ngày phán xét, ngày những kẻ vô luân phải diệt vong” (2 Pr 3:3-7).

Thánh Phêrô cho biết thêm: “Anh em thân mến, một điều duy nhất, xin anh em đừng quên: đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải. Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu huỷ” (2 Pr 3:8-10).

  1. KHẢ THỊ và KHẢ THÍNH

Khi Chúa Giêsu trở lại, mọi thứ đều khả thị và khả thính. Mt 24:31 nói về các thiên thần “thổi loa vang dội từ chân trời này tới chân trời kia”, đó là tiếng loa “tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương”. Thánh Phaolô cũng nói về tiếng loa vang dội đó: “Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên”(1 Tx 4:16). Sách Khải Huyền cho chúng ta biết rằng Ngài sẽ được cả thế giới nhìn thấy: “Kìa, Người ngự đến giữa đám mây. Ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người. Đúng thế! A-men!” (Kh 1:7).

Chúng ta đã được Chúa Giêsu cảnh báo về các tiên tri giả, điều này được Thánh Mátthêu ghi lại: “Vậy, nếu người ta bảo anh em: ‘Này, Người ở trong hoang địa’, anh em chớ ra đó; ‘Kìa, Người ở trong phòng kín’, anh em cũng đừng tin. Vì, như chớp loé ra từ phương đông và chiếu sáng đến phương tây thế nào thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy. Xác chết nằm đâu, diều hâu tụ đó” (Mt 24:26-28).

  1. KHÁC LẦN THỨ NHẤT

Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng cuộc tái lâm của Chúa Giêsu sẽ đầy quyền năng và vinh quang rực rỡ. Khi Chúa Giêsu đến thế gian lần thứ nhất, Ngài tự hạ, sinh nơi Belem và sống nghèo khó. Tuy nhiên, khi Ngài trở lại, Ngài sẽ là Vua của các vua và Chúa của các chúa. Vào ngày Ngài tái lâm trong vinh quang hiển hách, cả thế giới sẽ nhận biết Chúa Giêsu là ai. Sự khiêm nhường nổi bật trong khi Chúa Giêsu đến thế gian lần thứ nhất, vẻ vinh quang chói lọi nổi bật trong khi Ngài đến thế gian lần thứ hai. Cuộc tái lâm của Ngài sẽ hiển hách, có các thiên thần và các thánh hộ tống.

TRẦM THIÊN THU

 (chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

Đêm 8-10-2017

Phúc cho những người chết trong Chúa

Buổi tiếp kiến chung của Đức Thánh Cha, 18-10-2017
 

 

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung 30.000 tín hữu hành hương, sáng ngày 18-10-2017, ĐTC mời gọi các tín hữu giữ vững hy vọng đứng trước cái chết.

Mở đầu buổi tiếp kiến, mọi người nghe đọc bài Tin Mừng theo Thánh Gioan (11,23-27) kể lại đối thoại giữa Chúa Giêsu và hai bà chị của ông Lazarô mới qua đời và được Chúa cho sống lại. “Tôi là sự sống lại và là sự sống…!”

Trong bài huấn dụ, ĐTC nói về đề tài “Phúc cho những người chết trong Chúa”. Đây là bài thứ 37 trong loạt bài giáo lý về đức hy vọng Kitô giáo.

Bài giáo lý của ĐTC

“Hôm nay tôi muốn đối chiếu niềm hy vọng Kitô với thực tại sự chết, một thực tại mà nền văn minh tân tiến ngày nay ngày càng có xu hướng xóa bỏ. Vì thế, khi cái chết đến, những người ở cạnh chúng ta hoặc chính chúng ta không được chuẩn bị và thiếu cả những kiến thức sơ đẳng thích hợp để nói lên những lời ý nghĩa về mầu nhiệm sự chết, mầu nhiệm này dầu sao đi nữa vẫn còn nguyên. Tuy nhiên, những dấu chỉ đầu tiên của nền văn minh nhân loại được diễn tả qua mầu nhiệm cái chết. Chúng ta có thể nói rằng con người đã sinh ra cùng với sự tôn kính người chết.

Các nền văn minh khác, cổ kính hơn nền văn minh chúng ta, đã có can đảm nhìn thẳng vào cái chết. Đó là một biến cố được những người cao niên kể lại cho các thế hệ trẻ, như một thực tại không thể tránh né được, buộc con người phải sống một cái gì đó tuyệt đối. Thánh vịnh thứ 90 nói: “Xin dạy chúng con đếm những ngày đời và chúng con sẽ được một tâm hồn khôn ngoan.” (c. 12). Những lời này đưa chúng ta đến một thái độ thực tiễn lành mạnh, xua đuổi sự ham ước được toàn năng. Chúng ta “hầu như là hư vô”, như một thánh vịnh khác vẫn nói (x. 88,48); những ngày đời chúng ta qua mau: giả sử chúng ta sống trăm tuổi đi nữa, nhưng rốt cuộc chúng ta thấy tất cả chỉ là một hơi thở thoáng qua.

Vì thế, cái chết vạch trần cuộc đời chúng ta. Làm cho chúng ta khám phá thấy rằng những hành động kiêu hãnh, giận dữ và oán ghét chỉ là hư vô. Chúng ta cay đắng nhận thấy mình đã không yêu thương cho đủ và đã không tìm kiếm những gì là thiết yếu. Và trái lại, chúng ta thấy điều thực sự tốt lành mà chúng ta đã gieo vãi: đó là những tình cảm quý mến đối với những người mà chúng ta hy sinh cho, và giờ đây họ đang cầm tay chúng ta.

Thái độ của Chúa Giêsu trước cái chết

Chúa Giêsu đã soi sáng mầu nhiệm cái chết của chúng ta. Qua cách cư xử của Ngài, Chúa cho chúng ta cảm thấy đau khổ khi một người thân ra đi. Ngài cũng cảm thấy sao xuyến sâu xa trước ngôi mộ người bạn Lazarô của ngài, và bật khóc (Ga 11,35). Qua thái độ đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu rất gần gũi, như người anh của chúng ta.

Và lúc đó Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha, là nguồn mạch sự sống, và truyền cho Lazarô ra khỏi mồ. Và đã xảy ra như vậy. Niềm hy vọng Kitô kín múc từ thái độ của Chúa Giêsu đối với cái chết của con người: tuy cái chết ấy hiện diện trong chương trình tạo dựng, nhưng nó không phải là vệt làm ô danh kế hoạch tình thương của Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế muốn chữa chúng ta khỏi điều ấy.

Ở một số nơi khác, các sách Tin Mừng kể lại một người cha có một đứa con cái bị bệnh nặng, và với lòng tin, ông cầu xin Chúa Giêsu chữa con ông (x. Mc 5,21-24.35-43). Không có hình ảnh nào cảm động hơn hình ảnh một người cha, hoặc một người mẹ với đứa con bị bệnh. Và tức khắc Chúa Giêsu lên đường với người ấy, ông tên là Giairo. Trên đường đi, có một người từ nhà ông Giairo đi tới nói rằng con gái của ông đã chết nên không cần phải làm phiền Thầy nữa. Nhưng Chúa Giêsu nói với ông Giairo: “Ông đừng sợ, nhưng hãy tin tưởng!” (Mc 5,36). Chúa Giêsu biết rằng người ấy bị cám dỗ phản ứng giận dữ và tuyệt vọng, và ngài khuyên ông giữ nguyên ngọn lửa nhỏ đã được đốt lên trong tâm hồn ông, đó là đức tin: “Đừng sợ, nhưng hãy giữ cho ngọn lửa ấy tiếp tục cháy sáng!” Rồi khi đến nhà, Chúa đã đánh thức em bé gái từ cõi chết và trở lại em bé còn sống cho những người thân của em.

Giêsu đặt chúng ta trên lằn ranh này của đức tin. Với bà Marta đang khóc vì em bà là Lazarô đã chết, ngài nêu lên ánh sáng của một tín điều: “Tôi là sự sống lại và là sự sống; ai tin tôi, thì dù có chết, cũng sẽ sống; ai sống mà tin tôi, thì sẽ không chết đời đời. Con có tin điều này không?” (Ga 11,25-26). Đó là điều Chúa Giêsu lập lại với mỗi người chúng ta mỗi khi cái chết xảy đến tước mất sự sống và những tình cảm quý mến. Toàn thể cuộc sống của chúng ta diễn ra giữa một bên là đức tin và bên kia là vực thẳm sợ hãi. “Tôi không phải là sự chết, tôi là sự sống lại và là sự sống, con có tin điều này không?”

Giữ vững đức tin trước cái chết

Tất cả chúng ta đều bé nhỏ và yếu đuối trước mầu nhiệm sự chết. Nhưng thật là hồng phúc nếu trong lúc ấy chúng ta giữ trong tâm hồn ngọn lửa đức tin! Chúa Giêsu sẽ cầm tay chúng ta, như ngài đã cầm tay con gái ông Giairô, và lặp lại một lần nữa “Talità kum” (Hỡi con nhỏ, hãy trỗi dậy!) (Mc 5,41). Chúa sẽ nói với chúng ta, với mỗi người chúng ta “Con hãy trỗi dậy, hãy sống lại!”

Đó là niềm hy vọng của chúng ta trước cái chết. Đối với người tin thì đó là một cánh cửa hoàn toàn mở toang; đối với người nghi ngờ, thì đó là một tia sáng lọt qua một cửa hé mở, không bị khép kín hoàn toàn. Nhưng đối với tất cả chúng ta đó sẽ là một ân phúc, khi ánh sáng này soi sáng cho chúng ta.

Chào thăm

Sau bài giáo lý bằng tiếng Ý trên đây, các LM thông dịch viên lần lượt tóm lược trong các sinh ngữ khác nhau cùng với những lời chào thăm và nhắn nhủ của ĐTC.

Bằng tiếng Pháp, ngài đặc biệt chào thăm các học sinh thuộc nhiều trường học ở Pháp, cũng như các tín hữu hành hương đến từ Thuỵ Sĩ. Ngài nói: Khi cuộc sống chúng ta gặp phải những thử thách và đau khổ, chúng ta hãy nhớ rằng Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Thầy là sự sống lại và là sự sống.” Tôi cầu nguyện để cuộc hành hương của anh chị em ở Roma giúp anh chị em luôn giữa cho ngọn lửa đức tin và hy vọng luôn cháy sáng trong tâm hồn anh chị em.

Bằng tiếng Anh, ĐTC nhắc đến các tín hữu đến từ nhiều nước như Anh quốc, Ecosse, Malta, Hoà Lan, Na Uy, Thuỵ Điển, Nga, Trung Quốc, Hoa Kỳ và nhiều nước khác, đồng thời ngài nói: Xin Chúa Kitô củng cố anh chị em và gia đình trong đức tin, biến anh chị em thành những chứng nhân hy vọng trong thế giới ngày nay, đặc biệt đối với những người đang sống trong đau khổ.

Bằng tiếng Ý, Đức Thánh Cha chào thăm các tín hữu thuộc Giáo phận Conversano-Monopoli đến đây hành hương cùng với Đức GM giáo phận, nhân kỷ niệm Năm Thánh Mẫu của giáo phận.

Ngài cũng nhắn nhủ các bạn trẻ, các bệnh nhân và các đôi tân hôn: “Hôm nay là lễ kính Thánh Luca, Thánh sử Tin Mừng và là y sĩ. Hỡi các bạn trẻ quý mến, ước gì chứng tá cuộc sống của Thánh Luca thúc giục chúng con có những chọn lựa can đảm về tình liên đới và dịu dàng. Hỡi anh chị em bệnh nhân, dựa theo giáo huấn của Thánh Luca, anh chị em có thể tìm thấy nơi Chúa Giêsu phương dược cho những đau khổ của anh chị em. Và hỡi anh chị em tân hôn, anh chị em hãy xin thánh Luca cầu bầu cho để cuộc sống gia đình mới của anh chị em không bao giờ thiếu sự quan tâm tới những ngừơi đau khổ.”
 

 
G. Trần Đức Anh OP
Nguồn: RV

C MARIA, MẪU GƯƠNG TRUYỀN GIÁO

ĐỨC MARIA, MẪU GƯƠNG TRUYỀN GIÁO

Đôi khi tôi tự hỏi, tại sao Chúa Nhật Truyền Giáo lại được nhắc đến trong tháng Mân Côi, tháng dâng kính Đức Mẹ, cùng với Đức Mẹ chiêm ngắm tình thương của Thiên Chúa, bằng những tràng chuỗi đơn sơ và thành kính nhất qua lối cầu nguyện theo Tin Mừng.  Những dòng suy niệm này trả lời cho tôi câu hỏi đó.

Những trang Tin Mừng về Đức Maria thật là phấn khởi cho trần thế chúng ta.  Có một người phụ nữ, mang trọn vẹn sứ điệp Tin Mừng của Thiên Chúa vào trong lòng nhân thế.  Nhân loại vui mừng bởi sự đón nhận này của Mẹ Maria, “để từ nay mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.”  Thiên Chúa đã làm những kỳ công lớn lao nơi Mẹ, và còn làm những điều lớn lao ấy cho nhiều tâm hồn nhân thế chúng ta.

Sự chuẩn bị một tâm hồn vô tì tích là nhờ sự chuẩn bị của Thánh Thần, Chúa Thánh Thần thực hiện nơi Đức Maria những điều lớn lao, bởi Mẹ là người đã để Chúa Thánh Thần hoạt động và làm phát sinh hoa trái của Người.  “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ ngự xuống trên Bà” (Lc 1, 35), hoa trái của Chúa Thánh Thần là hoan lạc và bình an.  Mẹ đã mang hoan lạc và bình an của Thiên Chúa cắm rễ vào trong trái đất.  Maria, công trình tuyệt diệu của Chúa Thánh Thần thực hiện cho nhân loại, nhân thế có một con người được Chúa Thánh Thần chuẩn bị cho sự toàn vẹn để xứng đáng đón nhận Đức Giêsu, Con thiên Chúa vào trong lòng nhân thế, lịch sử đã đổi hướng đi về nguồn ơn cứu độ, về niềm vui của Thiên Chúa đã hứa từ ngàn xưa, và trở nên hiện thực trong sự cưu mang này.

Maria là người Mẹ truyền giáo đúng nghĩa nhất, bởi sự tinh tuyền của Mẹ, bởi Mẹ là kỳ công của Chúa Thánh Thần hoạt động trên trái đất này.  Mẹ đã đón nhận Con Thiên Chúa cho thế gian, và đưa Con Thiên Chúa vào trong thế gian, và đó là Tin Mừng đúng nghĩa nhất cho trần thế.  Từ nay, nhân loại nhận ra rằng: Sứ vụ truyền giáo là sứ vụ của người mang tin vui, tin cứu độ, tin được Thiên Chúa đoái thương.  Đức Giêsu Con lòng Mẹ, một Người Con của nhân loại, một người Con của Thiên Chúa là nguồn ơn cứu độ, suối trào niềm vui cho nhân thế.

Người loan báo Tin Mừng là người được Chúa Thánh Thần tác động cách đặc biệt trên cuộc đời của họ. “Đức Maria lên đường vội vã” (Lc 1, 39).  Sự vội vã của con người mang niềm vui khôn tả, thúc đẩy mau mắn lên đường, nhắc lại hình ảnh xưa Isaia đã tiên báo: “Đẹp thay trên núi đồi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: “Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị.” (Is 52, 7).  Đức Maria mang trọn niềm vui Đấng Cứu Độ mà nhân loại đón đợi, không thể không vui và niềm vui chất ngất, thúc đẩy lên đường loan báo tin vui.  Nếu trong lòng tôi và trong lòng bạn mang niềm vui ngập tràn như thế, tôi và bạn cũng sẽ vội vã lên đường loan báo.  Đức Maria trở nên người loan báo Tin Mừng đúng nghĩa bởi vì Mẹ mang trọn niềm vui Chúa Thánh Thần.  Ai để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong cuộc đời của mình cũng là người mang trọn niềm vui loan báo.

Không chỉ là loan báo mà thôi, Đức Maria còn là người công bố Tin Mừng.  Người công bố là người đã xác tín một cách chắc chắn về những gì Thiên Chúa đã làm cho mình.  Đức Maria đã nghiệm thấy như thế trong cuộc đời của Mẹ: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn” (Lc 1, 49).  Thấy được tình thương Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời mình, người loan báo sẽ đi xa hơn nữa để công bố Tin Mừng Thiên Chúa đã làm cho mình.  Sự công bố mang một niềm tin xác tín, đã gặp và đã thấy.  Sứ vụ loan báo Tin Mừng hôm nay, cần chứng nghiệm nơi người loan báo Tin Mừng như thế, bởi vì người ta đang cần chứng nhân hơn thày dạy.  Đức Maria nhận ra bàn tay Toàn Năng của Thiên Chúa thực hiện trong cuộc đời của Mẹ, nên Mẹ là người công bố sứ điệp chắc chắn về Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa cho nhân loại.

Niềm xác tín của Đức Maria mang một chiều kích rất riêng tư, nhờ Mẹ đã “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 3, 51).  Cầu nguyện là chiêm ngắm những điều Thiên Chúa đã thực hiện nơi mình, là cuộc trao đổi, đối thoại giữa nhưng khó khăn, thử thách.  Đức Maria trở thành người công bố Tin Mừng, bởi Mẹ đã chiêm ngắm công trình của Thiên Chúa thực hiện cho dân tộc, cho chính Mẹ.  Sự chiêm ngắm, đối thoại dẫn đến một xác tín riêng tư chắc chắn để đi đến một công bố cho muôn người.  Con đường cầu nguyện của Đức Maria đã đi qua là con đường mời gọi những người truyền giáo hôm nay thực hiện.

Truyền giáo không là công cuộc cày xới những mảnh đất hoang, cũng không là công cuộc cải đạo cho những người khác niềm tin.  Đối với Đức Maria truyền giáo có nghĩa là đem chính Đức Giêsu cho nhân loại.  Đức Giêsu có là niềm vui cho bạn không?  Trước khi là niềm vui công bố cho người chung quanh bạn, trở lại niềm xác tín này chúng ta trở lại niềm xác tín của Đức Maria, khi Mẹ xác tín: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1, 46).  Tràn ngập niềm hân hoan bởi Mẹ đã gặp thấy và cưu mang chính niềm vui của Đức Giêsu trong lòng Mẹ.  Đức Maria không mang niềm vui nào khác ngoài niềm vui: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1, 47).  Niềm vui của Thiên Chúa trong ngày Thiên Chúa đoái thương, ngày nào không là ngày Thiên Chúa đoái thương, nhưng đôi lúc chúng ta lại quên mất cảm nghiệm thực sự điều này, để rồi sứ vụ truyền giáo của mỗi thành viên chúng ta cứ hoài dang dở.  Đức Maria đã mang chính Đức Giêsu, quà tặng tuyệt hảo nhất của Thiên Chúa, nguồn ơn cứu rỗi duy nhất, công bố, trao tặng cho nhân loại.

Dù là người loan báo, dù là người công bố Tin Mừng đi chăng nữa, Đức Maria luôn đặt mình dưới sự bảo trợ hoạt động của Chúa Thánh Thần.  Không thể tách rời Đức Maria khỏi hoạt động của Chúa Thánh Thần, dù Đức Maria có được như thế nào chăng nữa, Mẹ cũng luôn đặt mình trong tâm khảm của người: “phận nữ tỳ hèn mọn, Người đã đoái thương nhìn tới” (Lc 1, 48).  Người truyền giáo cũng thế, không thể tách rời Chúa Thánh Thần với hoạt động của mình được.  Ai có thể chinh phục sự sâu thẳm của lòng người quy hướng về Thiên Chúa, nếu đó không phải là tác động của Chúa Thánh Thần.  Chúa Thánh Thần mời gọi con người theo nhiều nẻo đường khác nhau, để quy tụ cho Thiên Chúa một Dân được thánh hiến.  Chúng ta là những dụng cụ Thiên Chúa dùng, và hãy đặt cuộc đời mình vào bàn tay của Thiên Chúa.

Không có công trình nào là thua mất cả với ánh mắt nhìn đức tin của Đức Maria, đôi khi gặp những người cứng cỏi quá sức, hãy phó dâng cho Thiên Chúa, như người gieo giống chỉ biết chờ đợi cho hạt giống nảy mầm.  Đức Maria đã nghiệm thấy điều này trong cuộc đời của Mẹ: “Chúa biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng” (Lc 1, 51).  Chúng ta cần biết chờ đợi điều Thiên Chúa sẽ cho mọc lên, sự chờ đợi là một bài học cuối kết thúc cho sứ vụ truyền giáo chúng ta học nơi Đức Maria.

Kính dâng Mẹ những suy nghĩ này, bởi hơn ai hết Mẹ là vị Thày tốt nhất dạy chúng con sống sứ vụ truyền giáo.

Lm Hoàng Kim Toàn

Kinh Mân Côi – Cuốn Kinh Thánh của Đời Ta

Kinh Mân Côi – Cuốn Kinh Thánh của Đời Ta

Lm. Giuse Trần Thanh Trung, O.Carm. 

Chúng ta đang ở trong tháng 10, là tháng Mân Côi. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng Hội Thánh đang mời gọi con cái mình đi sâu vào việc thực hành đạo đức bổ ích này qua việc dành riêng tháng 10 để kính Mẹ Mân Côi.

   Vì nơi việc cầu nguyện và suy ngắm Kinh Mân Côi chúng ta  khám phá được những mầu nhiệm lớn lao mà Thiên Chúa muốn tỏ cho chúng ta.

   Kinh Mân Côi được gọi là cuốn Kinh Thánh thu nhỏ thật cũng không quá! Vậy, nhân dịp lễ kính Đức Mẹ Mân Côi hôm nay, chúng ta hãy thử cùng chia sẻ đôi điều về những mầu nhiệm tình yêu diệu vợi trong lời kinh đơn sơ giản dị và có vẻ bình thường này. Trong bài chia sẻ ngắn này, chỉ xin được cùng đọc lại phần đầu của lời nguyện đơn sơ này: Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ.

   Ngay chương đầu của Tin Mừng Luca, chúng ta đã được thánh sử tường thuật lại cho biết một biến cố hết sức quan trọng: biến cố Truyền Tin. Phần đầu của Kinh Mân Côi được trích ra từ chính biến cố này.  Khi suy niệm về biến cố Truyền Tin này, chúng ta được biết sứ thần Gabriel của Thiên Chúa đã đến và công bố rằng: Con Thiên Chúa sẽ đến và mang lấy nhân tính, mang lấy xác phàm từ chính xác phàm của Mẹ Maria, nơi cung lòng của Mẹ Maria.  Và Mẹ đã thưa xin vâng. Hay nói một cách khác, sứ thần của Thiên Chúa hôm nay muốn kể cho chúng ta ba câu chuyện.

    Sứ thần của Thiên Chúa muốn kể cho chúng ta câu chuyện thứ I: Đó là có một cuộc hoán chuyển nhiệm mầu đã xảy ra vào biến cố Truyền Tin hôm đó. Cuộc hoán cải đó nhiệm mầu đến nỗi, khi suy niệm về nó Đức Giáo Hoàng Lêô Cả đã phải thốt lên: “Thật không thể nào hiểu thấu được mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người.

   Đấng tạo dựng nên đất trời và con người nay lại làm con của loài người. Đấng Tạo Hóa nay lại làm con của thụ tạo mình.” Cũng trong cùng một dòng suy tư đầy ngưỡng mộ đó, Thánh Âugustinô đã viết: “Đấng mà muôn loài phải vâng phục, nay lại vâng phục chính loài thụ tạo của mình.” Thật là một cuộc hoán chuyển lớn lao! Một Thiên Chúa nay lại hoán đổi vị trí để được trở nên con của thọ tạo của chính mình.

    Hãy thử quay về với sách Sáng Thế và tìm xem ở đó viết gì. Ngay từ những chương đầu, sách Sáng Thế ghi lại khi Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, trong đó có đoạn như thế này: “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa tạo dựng con người giống Thiên Chúa. Thiên Chúa tạo dựng con người có nam có nữ” (St 1:27) Trong một trình thuật khác kể rằng: “Thiên Chúa lấy đất rồi nắn lên con người theo hình ảnh của Ngài. Thiên Chúa thổi sinh khí vào lỗ mũi của con người và con người trở thành sống động” (St 2:7). Như thế Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, là Đấng nắn đúc nên con người; Ngài là cha, là mẹ của con người và Ngài ban cho con người sự sống.

    Nhưng nay, trong biến cố Truyền Tin, đã có một khoảnh khắc, trong thời gian và không gian lịch sử này, đã có một cuộc hoán chuyển nhiệm mầu. Đấng Hóa Công đó nay lại trở thành con của thọ tạo của mình. Con Thiên Chúa xuống thế làm người được nắn đúc thành hình trong cung lòng của một thụ tạo của Ngài. Và thụ tạo ấy, theo một góc nhìn nào đó đã trở thành như  “Đấng Tạo Hóa” đối với Thiên Chúa của mình. Trở thành cha mẹ của chính Thiên Chúa của mình. Một sự hoán chuyển nhiệm mầu và điều đó xảy ra cách cụ thể nơi con người, cung lòng và tâm hồn của Mẹ Maria.

   

     Sứ thần lại kể cho chúng ta nghe câu chuyện thứ II:

Đó là đã có một sự kết hiệp mật thiết, nên một giữa Thiên Chúa và con người cho đến nổi không thể và không gì có thể tách rời.

Chúng ta hãy một lần nữa lại trở về với sách Sáng Thế. Khi ở đó tường thuật lại cho ta việc Thiên Chúa tạo dựng Adam và Evà. Khi Thiên Chúa tạo dựng Adam xong, Ngài thấy ông này ở một mình buồn quá. Chúa bảo ông này ở một mình không tốt.  Thế là Ngài rút một cái xương sườn (tuy đây chỉ là hình ảnh biểu tượng) và tạo dựng nên Evà. Sau đó Ngài dắt Evà đến với Adam. Ngay khoảnh khắc gặp mặt đầu tiên đó thì Adam reo vui lên và nói “đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2:23); nàng và tôi là một xương một thịt.

   Hôm nay trong biến cố Truyền Tin câu chuyện nên một thân xác đó lại xảy ra với Adam mới và với Evà mới là tất cả nhân loại này. Trong biến cố Truyền Tin và khi cung lòng và tâm hồn của Mẹ mở ra để thưa xin vâng với Thiên Chúa, thì ngay lập tức Con Thiên Chúa xuống thế làm người nơi cung lòng của Mẹ và trở nên “một xương, một thịt với con người.” Ngài trở thành một con người đích thực mang một thân thể, một dòng máu, một tâm hồn và một nhân tính giống như mỗi người chúng ta hoàn toàn, cho đến nỗi chúng ta có thể chiêm ngắm Đức Giêsu Kitô và thân thưa với Ngài rằng: Chúa là xương bởi xương con, Chúa là thịt bởi thịt con. Chúa và con là một.

    Kể từ giây phút nhiệm mầu đó, kể từ cái hôm nay đó, cái giờ khắc thiêng liêng đó, nhân loại này đã thuộc trọn vẹn về Thiên Chúa. Một sự nên một không thể tách rời, cho dẫu là tội lỗi, cho dẫu là sự dữ. Không có bất cứ một quyền lực nào ở thế gian này cũng như trên trời và dưới đất giờ đây có thể tách con người ra khỏi Thiên Chúa được nữa. Bởi vì Thiên Chúa và con người đã nên một với nhau gần cho đến nỗi không thể gần hơn và ở trong nhau sâu cho đến nỗi không thể sâu hơn được nữa. Như chính thánh Phaolô quả quyết trong thư gửi tín hữu Rôma: “tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Ðức Kitô Giêsu” (Roma 8: 38 – 39). Quả là một sự kết hiệp nên một diệu kỳ!

    Sứ thần còn kể cho chúng ta nghe câu chuyện thứ III: Đó là câu chuyện về Đấng Đầy Ẩn Sủng.

    Chúng ta hãy trở về với thời Xuất Hành. Ở đó chúng ta đọc thấy câu chuyện Xuất Hành và trong biến cố Xuất Hành đó, dân Chúa đã ở trong sa mạc 40 năm. Trong cuộc hành trình đó, Thiên Chúa luôn đi giữa dân người và cách thế để Thiên Chúa hiện diện ở giữa dân Người là gì: – Thưa, Thiên Chúa truyền cho họ dựng nên một cái Nhà Tạm và gọi là Lều Hội Ngộ. Trong Lều Hội Ngộ đó đặt Hòm Bia của Thiên Chúa. Trong Hòm Bia đó có Mười Giới Răn mà chính Thiên Chúa đã viết bằng lửa và trao cho Môisê.

    Cứ mỗi lần Môisê và dân của Thiên Chúa muốn gặp Ngài để thỉnh ý của Ngài, thì Môisê đại diện cho dân bước vào Lều Hội Ngộ, nơi có để Hòm Bia Thiên Chúa. Khoảnh khắc đó, với hình một đám mây bao phủ lấy Lều Hội Ngộ, và Thiên Chúa xuống và đàm đạo với con người.

     Biến cố đó nay lại xảy ra trong lịch sử một lần nữa vào cái giờ khắc mà ta gọi là huyền diệu kể trên, vào giây phút mà người thiếu nữ Maria thưa Xin Vâng. Cái Hôm Nay đó của lời Xin Vâng đã trở thành Hôm Nay Vĩnh Cửu. Kể từ cái Hôm Nay đó thì giờ đây Thiên Chúa không chọn một cái lều vải để mà ngự xuống.

   Không chọn một cái Hòm Bia bằng gỗ Bá Hương để ngự vào nữa, nhưng Thiên Chúa chọn một thân xác với một tâm hồn tinh khiết của Đức Maria và Ngài ngự vào trong đó. Đức Maria trở thành Hòm Bia Giao Ước mới của Thiên Chúa. Đức Maria trở thành Lều Hội Ngộ của Thiên Chúa. Chính nơi Mẹ, Thiên Chúa hiện diện cách trọn vẹn và cụ thể cho đến nỗi ai đến với Mẹ, ai bước vào trong Lều Hội Ngộ, trong tương quan với Đức Maria, thì chắc chắn người đó sẽ gặp thấy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa và Con của Mẹ Maria; mà hễ ai thấy Ngài là Thấy Chúa Cha.

   Đó cũng là một nét rất đặc biệt của bức ảnh Đức Mẹ Núi Cát Minh mà chúng ta vẫn thấy.  Đức Mẹ bồng Chúa Giêsu, ánh mắt của Mẹ nhìn chúng ta mỗi người, bàn tay của Mẹ giới thiệu Đức Giêsu, và áo choàng của Mẹ như muốn ôm trọn tất cả chúng ta; như thể một lần nữa Mẹ muốn trở nên Lều Hội Ngộ để chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa.       Mẹ như thể đang tiếp tục  mời gọi mỗi người chúng ta: Con ạ! Hãy đến đây, hãy bước vào trong lều hội ngộ này, hãy đi vào tương quan yêu mến với Mẹ. Con sẽ được gặp chính Thiên Chúa và con sẽ được đàm đạo với Ngài. Qua việc sùng kính Đức Mẹ với kinh Mân Côi, là chúng ta đang chiêm ngắm những mầu nhiệm như thế đó. Chúng ta đang được mời gọi hãy lại gần Mẹ, đi vào Lều Hội Ngộ với Mẹ để gặp gỡ Thiên Chúa cùng Mẹ.

   Xong Lều Hội Ngộ không chỉ dừng lại ở đó, vì chính chúng ta cũng có thể trở thành lều hội ngộ, trở thành hòm bia để chính Thiên Chúa ngự nơi tâm hồn và nơi con người, nơi thân xác của chúng ta, để ân sủng của Chúa sinh hoa kết trái nơi chính những chọn lựa sống của chúng ta.

   Nói đến đây tôi nhớ đến hình ảnh rất đẹp mà trong dịp hè vừa qua tôi đã được chứng kiến trong một lần đi giảng tĩnh tâm tại một cộng đoàn dòng tu. Tại cộng đoàn này các sơ có chăm sóc các cháu bị rối loạn nhiễm sắc thể hay chúng ta thường gọi là bệnh Down. Cứ mỗi buổi chiều khi gia đình đến đón các cháu. Tôi cứ quan sát những người cha, người mẹ chăm chút cho những đứa con thiểu năng của họ. Lạ một nỗi là dường như có một điểm chung là họ tỏ ra thương yêu các cháu cách đặc biệt. Ở đó, nơi tình thương của họ như một sự bù đắp, như có cái gì đó bao trùm lên cả cuộc đời các cháu. Vì khi quan sát như vậy, tôi tự hỏi: – các bậc cha mẹ này mong gì nơi những đứa con khiếm khuyết của mình? Họ hy vọng gì và chờ đợi gì nơi các cháu? Chắc chắn họ không chờ đợi và hy vọng các cháu sẽ lớn và sẽ trở thành ông nọ bà kia như những đứa trẻ bình thường. Nghĩ tới đó tôi đã thực sự thấy thấm thía cái gọi là: – một tình yêu cho đi mà không đòi lại bao giờ!

   Tình cha nghĩa mẹ là thế đó! Điều đó ta gọi là gì, nếu không phải là TIN! điều đó ta gọi là gì, nếu không phải là XIN VÂNG!

    Thiên Chúa đã cho người những người cha người mẹ ấy những khoảnh khắc để dọn lòng, để đón nhận. Họ đã đón nhận với tất cả lòng tin và lời xin vâng quyết liệt nhất. Họ đã nên điểm tựa, nên sự kết hiệp, nên lều hội ngộ của tình thương. Họ đã nên dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa. Khoảnh khắc họ xin vâng với tất cả niềm tin đó, Thiên Chúa  bước vào cuộc đời. Thế nên, khi chúng ta biết thưa xin vâng để đón nhận tất cả; để xin Chúa hãy thực hiện tất cả những gì mà Chúa muốn trên cuộc đời của mình. Thì ngay lập tức ánh sáng được chiếu tỏa, vì chính  Thiên Chúa là ánh sáng thế gian. Và nơi đâu có ánh sáng của  Thiên Chúa thì nơi đó bóng tối của sự dữ, của tội lỗi, của bệnh tật bị xóa tan. Như thế, cung lòng của mỗi chúng ta có thể trở thành nhà tạm, lều hội ngộ, hòm bia của  Thiên Chúa Hằng Sống. Nơi đó Con  Thiên Chúa ngự trị. 

   Bàn Tiệc Thánh Thể và khoảnh khắc khi chúng ta thưa “Amen” là giây phút mà Đức Chúa Trời ở cùng bà, cùng ông, cùng anh, cùng chị, và cùng em. Đó là giây phút quyền năng của Đấng Tối Cao rợp bóng trên chúng ta. Đó là giây phút mà Đức Giêsu Kitô – Ngôi Lời của  Thiên Chúa – lại được sinh ra một lần nữa vào trong cung lòng mỗi người chúng ta. Và chúng ta trở thành đền thờ của  Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh.

    Nơi Bàn Tiệc Thánh Thể chúng ta được nên một trọn vẹn với Ngài, cho đến nỗi có thể nói rằng thân xác, máu thịt của mỗi chúng ta là thân xác, máu thịt của Đức Giêsu Kitô, bởi Máu Thánh và Mình Thánh của Ngài tan chảy vào, hòa vào làm một nơi con người cụ thể, nơi tâm hồn của chúng ta cho đến nỗi khi rước Chúa, chúng ta có thể nói với Chúa rằng, Chúa là “xương bởi xương con, thịt bởi thịt con”. Và Chúa cũng sẽ nói với mỗi người chúng ta “con là xương bởi xương Thầy, thịt bởi thịt Thầy”. Một sự hoán chuyển nhiệm mầu! Chúa và con nên một. Cũng từ giây phút đó, chúng ta cũng trở nên cha mẹ, anh chị em và là người nhà của  Thiên Chúa. Vì Chúa nói : “Ai lắng nghe và cưu mang lời Chúa là anh chị em Ta, là Cha Ta và là Mẹ Ta.”

    Vì thế khi chúng ta quây quần cầu nguyện bằng lời kinh Mân Côi là chúng ta đang cử hành mầu nhiệm Thiên Chúa ở giữa loài người chúng ta. Ở đó, chúng ta đang dần trở nên những người đầy ân sủng, và dần ý thức mình là những người có Thiên Chúa ở cùng. Sâu sa hơn nữa, chúng ta cũng được mời gọi trở Maria mới đón nhận Lời Chúa, cưu mang Lời Chúa và sinh hạ Lời Chúa cho thế giới chúng ta.

Niềm vui của việc cử hành Kinh Mân Côi chính là việc chúng ta được thần hóa dần trong việc dự phần vào mầu nhiệm tình yêu. Và theo cách đó thì chúng ta cũng có thể bắt chước  thánh Phaolô và có thể chào nhau là: các thánh của  Thiên Chúa. Chúng ta cũng có thể nói theo cách của sứ thần chào Mẹ Maria và chào nhau là: kính chào những người đầy ân sủng của Thiên Chúa. Đó là bởi vì chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời ở cùng mỗi chúng ta, và ơn sủng của Thánh Thần  Thiên Chúa rợp bóng trên chúng ta cùng với sự hiện diện Đức Giêsu Kitô mà chúng ta tiếp rước vào trong tâm hồn và cuộc đời của mình mỗi ngày. Và tất cả mọi người chúng ta đều trở thành những người đầy ân sủng.

    Nguyện xin Chúa giúp chúng ta qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria để tháng 10 này sẽ là tháng của những bông hoa Mân Côi đẹp xinh trang điểm thêm vào cuộc đời mỗi người chúng ta.

Lm. Giuse Trần Thanh Trung, O.Carm. 

From chị Nguyễn Kim Bằng

Ta xót thương, ta căm giận hung cuồng,

 Suy Tư Tin Mừng tuần 29 thường niên năm A 22/10/2017

 Tin Mừng  Mt 22: 15-21

Bấy giờ những người Pharisêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy.

Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hê-rô-đê, đến nói với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?”

Nhưng Đức Giêsu biết họ có ác ý, nên Người nói: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình! Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế!” Họ liền đưa cho Người một quan tiền. Người hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?” Họ đáp: “Của Xêda.” Bấy giờ, Người bảo họ: “Thế thì của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.”

 “Ta xót thương, ta căm giận hung cuồng,”

“Ta gầm thét, rung mấy trời thế sự.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mai Tá lược dịch.

Hung cuồng giận căm, là cung cách của người thường, rất ở đời. Rung trời thế sự, cả khi con người dám vấn nạn Đấng Nhân Hiền về việc đóng thuế cho Xê-Da, như được diễn tả ở trình thuật.

Trình thuật, nay thánh Mát-thêu diễn tả về tình thế trong đó những người “hung cuồng” dám gài Chúa vào bẫy cạm của thế sự bằng vấn nạn:“Nên chăng trả thuế cho Xê-da?” Thế sự hôm ấy, đám Pharisêu ngạo mạn và nhóm giáo gian nịnh hót vua quan Hêrôđê ở Do thái, những muốn đặt Ngài vào tình huống nóng bỏng về phục vụ ngoại bang. Họ cứ nghĩ: Ngài có trả lời thế nào đi nữa cũng sẽ làm mất lòng dân. Nếu Ngài nói khác, cũng vẫn rơi vào tròng. Nói cho cùng, họ muốn đặt Ngài vào tình trạng phải đối đầu với phe thân thực dân, để rồi chịu mọi hậu quả. Thế nên, thánh Mátthêu gọi họ là “giả hình”. Nhưng kỳ thực, phải gọi họ là “đám sùng đạo gian giảo”, mới đúng.

Ngược giòng lịch sử, ta thấy đất nước Palestine của người Do thái lúc bấy giờ nằm dưới quyền kiểm soát của La Mã. Tức, những người chuyên bổ thuế nặng nề lên đầu đám dân đen hèn mọn rất thấp cổ bé họng. Vượt biên giới cũng đóng thuế. Mua bán/đổi chác bất cứ thứ gì, cũng chịu thuế. Thậm chí dân con người người còn phải đóng cả thuế đinh, tính trên đầu người nữa.

Thực tế khi ấy, Xê-Da là Tibêrius, con trai của Thượng tế Augustus được dân coi như ông Trời con, rất đáng gờm. Cả Augustus lẫn Tibêrius, vẫn coi mình thuộc giới thần linh, cần được kính nể. Các ông còn tự ban cho mình tước vị cao vời vợi như: lãnh chúa, đấng cứu độ chuộc tội cả thế gian. Và, cho mình có trọng trách quản cai cả thiên hạ. Nên, việc trước tiên của họ là phải chiến thắng về binh bị, và an bình là đoạn kết rất dĩ nhiên. Rốt cục, người thua cuộc phải chịu mất đi sự an bình, đành phủ phục dưới đất mà ngợi khen kẻ chiến thắng.

Trong giao dịch hằng ngày, người Do thái vẫn sử dụng nhiều tiền kẽm của La Mã. Thế nhưng, khi sử dụng đồng tiền ấy để trả thuế, họ lại coi đây như công việc về tôn giáo – như sùng bái hoàng đế và coi đó là lối sống theo kiểu La Mã. Có thể nói, đóng thuế là một trong các vấn đề đưa đến cuộc nổi dậy kết thúc bằng việc thành Giêrusalem bị phá huỷ năm 70. Thành thử, với người Do thái, đóng thuế là việc tựa hồ như thờ bái ngẫu thần vậy.

Trong cuộc đời công khai của Ngài, Đức Giêsu tỏ cho mọi người thấy lối sống khác kiểu của La Mã. Và, đây là lối sống tỏ bày sự chống đối đám thực dân này. Với Ngài, cuộc sống phải đặt nền tảng trên công bình chính trực với hết mọi người. Công bình và chính trực, khiến Cha Ngài và là Chúa của người Do thái luôn tôn trọng con người. Thiên Chúa là Đấng thiết lập giao ước với con người, bởi thế nên giữa họ sẽ không còn người nghèo, hoặc kẻ hèn nào hết.

Khi Đức Giêsu nói Nước của Thiên Chúa đã đến, thì người La Mã hiểu ngay điều Ngài muốn nói. Ngài nói thế, tức: vương quyền của Xê-Da đã đến hồi kết cuộc. Người La Mã nghe vậy đều coi đó như một bội phản rất trời long đất lở. Và, họ giết Ngài là vì thế. Nhưng Đức Giêsu tin là Thiên Chúa vẫn ở với người thua cuộc. Và Chúa đã bắt tay vào việc giùm giúp hỗ trợ kẻ đau khổ về sự bất công do người La Mã và các kẻ nịnh bợ họ đem lại. Thiên Chúa dọn sạch thế giới. Ngài làm bật gốc mọi bạo động và nhờ đó, đem lại cho con dân Ngài cuộc sống an bình, dễ chịu. Ngài có chương trình khác hẳn vua quan La Mã. Không nhất thiết phải chiến thắng về binh bị, mới có thể tạo được an bình. Nhưng, trước tiên phải tạo công bằng trước đã và từ đó an bình sẽ đến sau.

Về việc đóng thuế cho vua quan La Mã, đó không là trọng trách của dân con người Do thái. Mà là, vấn đề tôn giáo cũng như công bằng chính trực rất đậm sâu. Đức Giêsu đi thẳng vào trục vấn đề, bằng cách đòi xem hình vẽ trên đồng tiền quan. Tiền này, ai cũng có sẵn ở trong người, còn Ngài thì không. Bởi thế, Ngài mới hỏi họ là: hình của ai khắc trên đó, họ mới nói: quan tiền nào cũng mang hình tượng của Xê-Da. Và, Ngài bảo: “Vậy, các ông hãy đem trả cho Xê-Da, vì chính ông ta sở hữu nó”. Câu trả lời của Ngài mang ý nghĩa của động thái bước ra khỏi cung cách phụng thờ phục vụ để chỉ chấp nhận lý lẽ của thuế má, mà thôi.

Và Ngài tiếp: “Hãy trả lại cho Chúa, những gì thuộc về Ngài.” Điều này xác nhận một chân lý lâu nay vẫn sáng tỏ với mọi người, đó là: hình ảnh Thiên Chúa đã được ghi khắc nơi tâm khảm của mọi người, ngay khi họ được Giavê Thiên Chúa tạo dựng. Nhưng hôm ấy, thật sự Chúa không có ý ám chỉ về việc ấy mà Ngài chỉ muốn nói: Thiên Chúa, theo luật Torah, đã ngăn cấm loài người tạc hình tạc tượng của chính Ngài. Điều này cũng rất đúng, nhưng không phải Chúa muốn biểu tỏ vào hôm đó.

Ý nghĩa của câu Chúa nói không nằm trong bản Kinh thánh 70, tức: Chúa chỉ muốn bảo: thuộc về Ngài, là đám người nghèo hèn, những kẻ bị nhóm quan quyền thân La Mã chèn ép, hạ bệ. Hãy cho họ một cơ hội để có thể tự vươn lên. Hãy trả lại cho họ sự cộng chính, bình an, vốn là quyền của họ, trước mặt Thiên Chúa, cho dù họ có bị chính người La Mã và đám giáo gian nịnh hót luôn thử thách, coi thường. Với Đức Giêsu, đây mới là tôn giáo đích thực. Ngài vẫn nói lên sự thật ấy dù có bị người La Mã bắt giam và xử tệ trên khổ giá.

Đọc trình thuật hôm nay không phải để kể cho nhau nghe về đế quốc La Mã dù hào hùng. Bởi, đế quốc nào mà chẳng chèn ép bắt bớ dân con nghèo hèn, ở bên dưới. Thật buồn thay, khi ta thấy “các nền văn minh hôm nay vẫn tự cho mình là sáng giá” đều quay về với thể chế rất chèn ép, thống trị hệt một phường như lịch sử thường minh chứng.

Tác giả Dominic Crossan dùng cụm từ “về với cảnh tượng rất thường ngày” để tả về trạng thái của người Do thái. Thánh Phaolô lại nghĩ về nền văn minh “tai tiếng” thời đế chế Augustus và bạo chúa Nêrô sẽ cứ thế tràn về, nếu không ai cản ngăn bước chân bạo tàn của đám người ấy. Hôm nay đây, đế quốc phương Tây cũng sắp hàng dài chạy theo cùng một kiểu cách như thế. Đế quốc phương Tây xưa nay gồm từ Hy Lạp, cho chí La Mã, Anh quốc ở thế kỷ 18, 19 và Hoa Kỳ ở thế kỷ thứ 20, và tương lai có thể sẽ là Vaticăng của chúng ta cũng chưa biết chừng, nếu ta không đề cao cảnh giác!

Hệ thống đế chế luôn hứa hẹn hoà bình đến với con dân (như thể loại Pax Romana khi xưa) bằng chiến thắng rất binh bị. Nghĩa là, cũng khởi đầu bằng khổ ải, rồi lại chiến tranh tàn phá, kết cục bằng những động thái dương oai đắc thắng, tức: những động thái rất chễm chệ, ăn trên ngồi chốc của kẻ đắc thắng đi từ hệ cấp dũng mãnh uy lực, thứ hoà bình của kẻ chiến thắng có sự hỗ trợ của Aenaeas Mars Ultor, rồi cả Nữ thần Rôma và thần Sung Mãn, cứ thế mà sinh sản. Qui luật họ đưa ra, được viết trên đá cẩm thạch. Văn minh họ khởi xướng gồm cả chế độ cha chú, chủ trương duy trì nô lệ. Lối sống của họ tuy mang dáng dấp rất tôn giáo, có toà án lẫn bàn thờ, nhưng vẫn cứ tôn sùng con người là hoàng đế lẫn vua quan, lãnh chúa.

Chủ trương đế chế, nay được sử dụng như cụm từ để diễn tả một thế giới vẫn kéo dài sự thống trị mãi cho đến thế kỷ 20. Hôm nay, tệ hại hơn lại có chủ nghĩa toàn trị và khủng bố. Và, có thay đổi chăng, thì cũng chỉ thay và đổi cung cách cũng như kỹ năng sử dụng bạo lực bằng kỹ thuật thật tinh xảo hơn thôi. Với khí giới giết người hàng loạt mà chưa một đế quốc nào xưa nay từng nghĩ tới.

An nhàn và bình yên đã trở thành ngôn từ khó hiểu, rất nhiều nghĩa. Đối với ta, đôi khi còn trở nên trống rỗng. Dominic Crossan gọi đó là: ”Hoà bình trở nên thứ hàng trang trí ta treo lủng lẳng ở trên cây thế giới vào mỗi năm. Ta sẽ chỉ mang nó đi, theo cung cách của lịch sử mà thôi.”

Đức Giêsu khẳng định: “Bình an đến với anh em”. Bình an, Ta gửi đến với anh em là sự an bình Chúa hứa ban. Nhưng, Ta chỉ ban bình an ấy hoặc để lại bình an ấy cho mọi người, trừ phi anh em thực thi công bình của Chúa, đối với nhau. Đặc biệt hơn, là những người lâu nay bị chèn ép, bị khống chế tồi tệ, không ngóc đầu lên nổi vì thể chế thống trị đầy áp bức của cái-gọi-là văn minh, tân tiến ở mọi thời. May thay, Đức Giêsu kịp giải thoát ta khỏi chốn bi ai, trầm thống rất bất công. Để, ta về với nhau sống hài hoà, bình an, thương mến.

Trong nhận thức về sự giải thoát của Đức Chúa, ta lại ngâm lên lời thơ tuy rất khổ:

“Trông thấy ra, cả cõi đời kinh hãi.

Giòng sông con nép cạnh núi biên thuỳ.

Đường châu thành quằn quại dưới chân đi,

Xao động hết loài cỏ hoa đồng nội.”

(Đinh Hùng – Bài Ca Man Rợ)

Nay hết rồi, một bài ca man rợ ấy. Dù, đã kéo dài nhiều thế kỷ. Bởi, Đức Chúa Nhân Hiền kịp kéo ta về với hoà bình và công chính, Ngài hứa ban. Nhận ra thế, ta sẽ dâng lời cảm kích biết ơn hoài. Sẽ thương hoài ngàn năm, nay là thế.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn – 

Mai Tá lược dịch.

Mắt môi đây, xin em đừng chờ.

 HÃY YÊU NHƯ CHƯA YÊU LẦN NÀO – Ngọc Lan

httpv://www.youtube.com/watch?v=gQ6mbjtgU2w

Chuyện Phiếm đọc trong tuần 29 thường niên năm A 22/10/2017

“Mắt môi đây, xin em đừng chờ”.

Chiếc hôn kia mong em từng giờ
Ngón tay kia xin chớ hững hờ.

Dắt nhau đi về trong đợi chờ.”

(Lê Hựu Hà – Hãy Yêu Như Yêu Lần Đầu)

(Mt 19: 10-12)

 Trần Ngọc Mười Hai

Đang yêu nhau, mà sao anh lại cứ ới gọi và nhắn nhủ những câu như: “xin Em đừng buồn!” “Cho em quên đi ngày dài”, “Với bao đêm suy tư miệt mài” và rồi cứ thế, và cứ thế, anh cứ khuyên và vẫn răn, bằng câu hát rất thêm thắt như sau:

“Hỡi em yêu, xin em đừng buồn.”

Có đôi khi anh hay giận hờn. “
Để cho em quên đi ngày dài.

Với bao đêm suy tư mệt mài

Biết bao ngày đã qua.

Biết bao chiều xót xa.
Ngồi đếm những giọt nắng.

Rơi rụng dưới mái hiên nhà.
Người sao chưa đến với ta.

Tình sao chưa thấy ghé qua.
Dù con tim vẫn thiết tha.

Mộng sưa cũng vơi theo tháng ngày.

Hãy cho nhau môi hôn nồng nàn.

Ngỡ mai sau duyên ta muôn màn.
Sẽ không ai cho ta vội vàng.

Mới yêu đây nay sao phủ phàng.
Hãy yêu nhau như chưa yêu lần nào.

Hãy cho nhau yêu thương ngọt ngào.
Hãy đưa nhau về nơi cuối trời.

Dắt nhau đi cùng nhau trọn đời.”

(Lê Hựu Hà – bđd)

Vâng. Quả có thế. Suy tư miệt mài, suốt ngày dài, dù “biết bao ngày đã qua” và những “chiều xót xa” ngồi đếm “những giọt nắng” “rơi rụng dưới mái hiên nhà”, vân vân và vân vân.

Vâng. Đúng như vậy. “Hãy (cứ) yêu nhau như chưa yêu lần nào”. “Hãy (cố) đưa nhau về nơi cuối trời” và rồi “Dắt (dìu) nhau đi cùng nhau (cho) trọn đời”. Ôi chao. Là ý-tứ của thi-ca với âm-nhạc. Ối chà, là ý-tưởng của người đời, với tình yêu.

Tình yêu trong đời, luôn có những mặt sáng chói, chiếu dọi lòng người ở khắp nơi. Dù, con người có ra chai đá đến thế nào đi nữa cũng vẫn còn yêu và cứ yêu. Yêu cho đến chết dù chỉ được sống với nhau, bên nhau theo cách nào đi nữa. Dù, đó có là sống “vầy vậy” hay sống theo cặp có hôn nhân/hôn-thú chính-thức hay không.

Tình yêu đôi lứa, có “vầy vậy” hoặc vẫn sống theo cặp chính-thức như hôn-nhân/hôn-phối hay không, lại vẫn trở-thành vấn-đề thời-thượng, rất hôm nay.

Vấn-đề thời-thượng của người hôm nay, lại đã kích-bốc/nổi lên như diều trên nhiều trang giấy, khiến bạn và tôi không thể không nghĩ đến và không thể không bàn cho ra nhẽ. Vấn-đề, vẫn là những vấn và đáp cho thật nhiều để rồi trở-thành đề-tài bàn thảo suốt nhiều kỳ như ở thị-trường chữ nghĩa của Úc, mấy hôm rày.

Thị-trường Úc, hôm nay, có tác-giả tên là Xavier Symons từng đặt tiêu-đề nổi cộm lại hỏi rằng: “Sao ta lại cứ bất đồng ý kiến về hôn nhân đồng-tính đến là thế?” Và, ông đã viết gần 5 trang giấy đặt vấn-đề đại để những bảo rằng:

“Tranh-luận về hôn-nhân đồng-tính lâu nay khiến người Úc nổi quạu hơn một thập-niên. Thế nhưng, lời lẽ trong tranh-luận chưa bao giờ huyên-náo như hôm này. Cả phía đối-lập cùng giới ủng-hộ cho hôn-nhân đồng-tính đều nhất-trí với nhau ít nhất điều này: quyết-định là do người trả lời cho cuộc trưng-cầu-dân-ý đều bao-hàm chuyện căn-bản cho xã-hội và văn-hoá Úc.

 Người bầu phiếu nói tiếng “Không”, tức: không ủng-hộ hôn-nhân đồng-tính lại đã biện luận rằng: quyền-tự do căn-bản về tôn-giáo sẽ bị đe-doạ trầm-trọng nếu như định-nghĩa hôn-nhân bị thay-thế. Và những người trả lời tiếng “Có”, tức nhất-trí ủng-hộ cho hôn-nhân đồng-tính lại thấy đây là sự sống còn tồn-tại trong việc loại bỏ thành-kiến xã-hội và hành-vi thù-địch với thành-viên cộng-đồng cùng một giới-tính…” (X. Xavier Symons, “Why can’t we agree on same-sex marriage?”Deep currents within our culture keep the opposing sides from communicating with each other, MercatorNet.com 25/9/2017)

Bầu phiếu “Không” hay “Có” cho lắm, người bầu cũng bị rơi vào tình-huống rối bời vì chính mình không nắm được thực-tế của đời người đang diễn-tiến. Diễn-tiến cách xuôi chảy hay khập-khiễng, vẫn là tình-trạng cố-hữu thường xảy ra khi xã-hội người đời đang bị kích-bốc đến khó xử.

Và hôm nay, chuyện khó xử còn thấy thể-hiện ở nhiều địa-hạt và cuộc đời con người. Rõ nhất là, các địa-hạt có liên-quan đến chuyện Đạo, việc đời thời hôm nay. Chính vì thế, mà hôm nay lại thấy có độc-giả gửi thắc mắc đến đấng bậc chuyên giải-đáp trên tuần báo The Catholic Weekly ở Sydney như sau:

“Thưa Cha

Nay thì cuộc trưng-cầu dân-ý về vấn đề hôn-nhân đồng-tính đổ lên đầu mọi người, đà thấy rõ. Có thể nào xin cha tóm tắt các biện-luận có lợi cho hôn-nhân theo truyền-thống cũ, để rồi con đây hiểu rõ được đôi chút?”

 Hỏi như thế, thì có đấng bậc nào lại không trả lời/trả vốn cho ra lẽ. Cái lý lẽ mà phần đông người thời nay lại cứ để quên ơ đâu đó, xa con tim. Hỏi như thế, chắc chắn là đấng bậc sẽ lấy giấy bút ra mà trả lời, ngay lập tức, rất như sau:

“Cuộc Trưng Cầu Dân Ý vừa qua, là để người dân Úc có cơ-hội noi lên tiêng nói của mình về vấn-đề quan-trọng mà bất cứ xã-hội nào cũng phải đối đấu. Đó là: bẩn-chất rất thực của hôn-nhân. Và, cùng với vấn-đề này, là gia đình. Hôn-nhân và gia-đình, là khúc xương trụ cột của xã hội. Gia-đình tiến đến đâu, thì rồi xã-hội cũng tiến đến đó.

 Nếu gia-đình vũng-mạnh và bậc mẹ cha đoàn-kết với nhau, thì con cái sẽ tang-trưởng mà học cách thương-yêu và được yêu-thương. Con cái học-hỏi về các đặc-trưng của xã-hội như: sống tử tế, ăn ở rộng lượng, biết thứ tha và sống thật-thà rồi đem các đặc-trưng/đặc-thù của đời sống mình học hỏi vào với cộng-đồng rộng lớn hơn.

 Xã-hội sẽ nên lành-mạnh, nếu gia-đình ăn ở đàng hoàng. Nhưng, nếu gia-đình lục-đục thì toàn xã-hội cũng sẽ khổ-đau. Bởi thế nên, cuộc Trưng Cầu Dân Ý vừa rồi có tầm quan-trọng, thật thiết-yếu.

 Vậy, đâu là vấn-đề chủ-chốt trong tình-hình hôm nay? Có tất cả 6 điềm ta cần phải xem xét kỹ.

 Thứ nhất, và cũng là sự việc quan-trọng nhất, đó là khẳng định: chúng ta không hề chống-đối lại gần gũi, rất chung đụngchuyện những người đồng-tính luyến-ái quyến rũ nhau mà sống gần gũi, chung đụng. Họ là những con người giống bất cứ ai khác. Họ đều được cứu-rỗi nhờ Đức Giêsu Kitô đã chịu chết để cứu chuộc họ. Và, thiên-đường vẫn chừa chỗ chờ đợi họ gia-nhập cùng với mọi người, miễn là họ sống/chết tốt lành, hạnh đạo. Ta luôn có bổn-phận phải yêu-thương và tôn-trọng hết mọi người trong họ. Những người như thế, có thể là bậc con cháu, an hem chị em ruột thịt với ta hoặc bạn bè/người thân, hoặc như đồng-hương/đồng-nghiệp, vẫn rất gần.

 Thứ hai là, hôn-nhân, tự bản-chất, luôn là sự phối-kết giữa nam-nhân và nữ-giới đưa con cháu đi vào hiện-diện với thế-giới. Ta không thể đổi thay chuyện này, được. Đó, chio1nh là sự việc vẫn xảy đến như thế và đó cũng là lý-do khiến mọi quốc-gia trên thế-giới đều có luật-lệ để bảo-vệ hôn-nhân. Còn, việc phối-kết giữa hai người đồng phái-tính, tự nó, lại không thể tạo nên con trẻ được.

 Nói đơn-giản, thì: đây không phải là hôn-nhân. Nên, không không thể có “hôn-nhân đồng-quyền” giữa hai người nam hoặc hai người nữ cùng phái-tính. Một đằng thực-sự là hôn-nhân, còn đằng kia thì không phải.

 Thư ba là, đi đầu phiếu nói tiếng “Không” với hôn-nhân đồng-tính, không là hành-động kỳ-thị chống lại người đồng phái-tính quyến rũ ăn ở với nhau, chút nào hết. Cũng hệt như bậc cha mẹ không thể lấy con cái của mình làm vợ làm chồng mình được. Cũng hệt thế, anh em, chị em cũng không thể lấy nhau làm vợ làm chồng, thì rõ ràng là: hai người cùng phái-tính cũng không thể làm đám cưới ăn ở với nhau thành cặp phối ngẫu đồng phái-tính được.

 Hai người đồng phái-tính có thể yêu thương nhau, nhưng mối tương-quan yêu-thương ấy không có nghĩa-là hôn-nhân thực-thụ bao giờ hết. Nói như thế, không có nghĩa là ta kỳ-thị họ; nhưng đúng hơn, ta chấp-nhận một thực-tại vẫn đặt nền-tảng nơi bản-chất con người.

 Thứ tư là, nỗi-niềm phúc-hạnh của con cái sẽ gặp hiểm nguy. Có rất nhiều công-trình nghiên-cứu/khảo-sát cho thấy: trên hết mọi sự, con trẻ được nuôi theo cùng phái-tính, trên thực-tế lại đạt kết-quả tồi-tệ về mọi mặt, nếu ta so sánh với các trẻ bé do chính cha mẹ chúng nuôi nấng giáo-dục . Nói cho cùng, thì nếu ta đem con cái ra khỏi môi-trường gia-đình không để cho bậc mẹ cha của chúng nuôi nấng, thì trẻ bé sẽ bị thiệt-thòi vô kể, dù trẻ bé ấy được thương-yêu/chiều-chuộng cách nào đi nữa, cũng thế.

 Tình thật mà nói, nhiều con em của các cặp vợ chồng khác phái-tính, cuối cùng đi đến tình-trạng chỉ một trong hai người hoặc bố hoặc mẹ nuôi-dưỡng khi một trong hai vị này quá vang, hoặc chia tay/ly-dị, thì con cái sẽ đi đến kết-quả là chúng phải chịu đau khổ như thế nào. Và, ta cũng không thể tạo sự-kiện này thành chẩn-mực chung cho mọi người được.

 Thêm vào đó, mức-độ bền-bỉ nói chung của các mối tương-quan giữa hai người đồng phái-tính thường kéo dài chỉ trong vòn hai hoặc ba năm là cùng. Vậy thì, đâu là điểm tốt lành cho con cái họ đây?

 Thứ năm là, các giá-trị khác cũng sẽ phải chịu cảnh hy-sinh, bị loại bỏ nếu như chính-quyền hợp-thức-hoá hôn-nhân đồng-tính. Mới đây, ta đều thấy điều ấy trên truyền-hình của Úc vào ngày Nhớ Ơn Cha tháng 9/2017 trên màn hình nhỏ có người cha hát bài “Con chuột túi”cho con nhỏ mình nghe, nhưng ông phải ngưng nửa chừng vì bị coi là bài hát nghiêng về chính-trị quá nhiều.

 Nay hỏi rằng, ta đang đi về đâu đây? Chừng nào thì mọi người sẽ không còn mừng lễ Nơ Ơn Cha, hoặc Ngày Mẹ Hiền, nữa đấy? Và trong tường-lai mai ngày, khi bé em lọt lòng mẹ chào đời, sẽ không còn ai ghi tên cha hoặc tên mẹ của bé lên giấy khai-sinh nữa. Nhưng, thay vào đó, chỉ mỗi ghi: Cha hoặc mẹ số 1, mẹ hoặc cha số 2 như nhiều nước trên thế-giới đang làm thế.

 Các hiện-tượng như thế, đều gây tổn-hại cho hai bê, cả người cha lẫn mẹ hiền của mình, nếu ta đi đến gia-đoạn hợp-thức-hoá hôn-nhân đồng phái-tính. Đó là chưa kể đến Chương-trình “An Toàn Trường Lớp” nhằm nhắc cho con trẻ biết rằng: hôn-nhân đồng phái-tính là chuyện tốt lành, rất bình thường (?)

 Điều thứ sáu , như ta thường thấy xảy ra ở một số quốc-gia trên thế-giới và cả ở Úc này cũng thế, người lại nói đến tự-do tôn-giáo, tự-do ngôn-luận để bênh-vực cho hôn-nhân theo truyền-thống và chuyện con người có quyền dựa vào lương-tâm mà từ-chối hợp-tác tham-dự đám cưới giữa hai người đồng phái-tính đặt thành vấn-đề ; và có khi còn bị phạt vạ nữa. Toàn thế-giới rất mới rất quả cảm, đang ở đâu đó quanh chúng ta.

 Thành thử, cuộc Trưng Cầu Dân Ý vào tháng 9/2017 ở Úc quả là sự-kiện quan-trọng cho tương-lai của nước này, thật cần-thiết. Điều nguy-hiểm, là: sự sống tốt lành trong xã-hội đang lvấn-đề. Ta không được phép đổi thay luật-lệ chỉ vì lợi-ích của một nhóm người rất ít ỏi.

 Tại Canađa chẳng hạn, sau 10 năm họ hợp-thức-hoá luật hôn-nhân đồng phái-tính, thì chỉ có mỗi 24% cặp phối-ngẫu chịu đăng ký như thế mà thôi. Và, hậu-quả xảy đến với nh6n-nhân, gia-đình, con cái và xã-hội nay quá lớn. Đi bầu phiếu để nói được tiếng “Không!” với hôn-nhân đồng phái-tính, tức là: ta đã bầu “Có!” cho gia-đình và xã-hội, vậy.” (X. Lm John Flader, Same Sex Marriage’s collateral damage goes in all directions, The Catholic Weekly, Question Time 24/9/2017, tr. 25)

Nghĩ gì thì nghĩ, Bầu gì thí bầu. Lập-trường nói “Có!” hoặc “Không!” với người mình thương yêu, sẽ mãi mãi trở thành đề-tài để ta suy nghĩ.

Bởi thế nên, nay đề-nghị bạn, đề-nghị tôi, ta hãy về lại vườn thượng uyển có Lời Vàng thánh-nhân khi xưa từng khuyên-nhủ, rằng:

“Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ,

thì thà đừng lấy vợ còn hơn.”

Nhưng Ngài nói với các ông:

“Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy,

nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu.

Quả vậy, có những người không kết hôn

vì từ khi lọt lòng mẹ,

họ đã không có khả năng;

có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn;

lại có những người tự ý không kết hôn

vì Nước Trời.”

(Mt 19: 10-12)

Bởi thế nên, nhiều người những tưởng rằng: đấng bậc nhà Đạo của ta trả lời như trên chỉ để cho xong chuyện. Nhưng, đấng bậc rất đạo nhà mình, là đấng bậc chọn đời độc-thân, nên đôi lúc thấy hơi khó. Khó, nhiều thứ chứ không chỉ mỗi chuyện hôn-nhân, hôn-phối hoặc hôn-lễ cứ lễ mễ như nguyên-tắc của nhà Đạo.

Thôi thì, đời người cũng xảy ra lắm thứ chuyện không ưng ý về nhiều mặt. Chí ít là mặt đạo-đức khiến nhà Đạo mình hôm nay cứ phải cân-nhắc từng li từng tí, cho dễ sống. Cân và nhắc cho lắm, lại vẫn gặp nhiều trục-trặc trên thực-tế đời người đi Đạo, rất phiền hà.

Thôi thì, để hiểu rõ cho sát các tình-huống trong đời, hôm nay, chi bằng ta đi vào vùng trời truyện kể để minh-hoạ cho một cuộc sống rất nhiêu-khê, nhiều bề rắc rối, mà rằng:

                  

Như truyện kể, hãy cùng nhau vững tâm mà sống hung/sống mạnh dù người đời đi Đạo có đổi thay lập-trường sống của họ đến thế nào đi nữa.

Nghe kể rồi, nay ta hãy vững tâm mà hãnh-diện rồi, đầu cao/mắt sáng cứ hát vang các ca-từ rất đẹp vừa trích ở trên, mà rằng:

Biết bao ngày đã qua.

Biết bao chiều xót xa.
Ngồi đếm những giọt nắng.

Rơi rụng dưới mái hiên nhà.
Người sao chưa đến với ta.

Tình sao chưa thấy ghé qua.
Dù con tim vẫn thiết tha.

Mộng sưa cũng vơi theo tháng ngày.

Hãy cho nhau môi hôn nồng nàn.

Ngỡ mai sau duyên ta muôn màn.
Sẽ không ai cho ta vội vàng.

Mới yêu đây nay sao phủ phàng.
Hãy yêu nhau như chưa yêu lần nào.

Hãy cho nhau yêu thương ngọt ngào.
Hãy đưa nhau về nơi cuối trời.

Dắt nhau đi cùng nhau trọn đời.”

(Lê Hựu Hà – bđd)

 Mong rằng, lời ca tiếng hát ở trên sẽ là nguồn hứng-thú để bạn và tôi, ta vui sống những ngày còn lại trong đời. Dù, cuộc đời có đổi thay. Dù, lòng người có ra thế nào đi nữa, cũng cứ mặc.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ mặc mọi người

Từng đổi thay/thay đổi auqn-niệm sống

Thì tôi đây

Vẫn thân-thương, trân-trọng

Hết mọi người.

SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO

SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO

 ĐGM Giuse Vũ Văn Thiên

Từ 82 năm nay, ngày Chúa Nhật giữa tháng 10 dương lịch được chọn làm Ngày thế giới truyền giáo.  Nhân dịp này, Đức Giáo Hoàng thường công bố một sứ điệp kêu gọi cộng đoàn Công giáo thế giới hãy suy tư và hành động để tham gia sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội.  Đức Thánh Cha Bê-nê-đi-tô đã nêu rõ tính cách thánh thiêng của sứ mạng truyền giáo, vì đây “là một ân sủng, một ơn gọi xứng hợp và căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội” (trích Tông Huấn Loan báo Tin Mừng số 14).  Truyền giáo chính là lệnh truyền của Đấng Cứu Thế với các môn đệ trước khi Người về trời.  Công cuộc truyền giáo càng trở nên cấp bách hơn nữa trong thời đại hôm nay, khi con người càng ngày càng tỏ ra dửng dưng đối với tôn giáo và những giá trị tâm linh.

Nhờ Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được trở nên con cái của Thiên Chúa.  Bí tích này cũng mời gọi chúng ta trở nên môn đệ và tông đồ của Đức Giêsu, qua những cố gắng của bản thân trong cuộc sống mỗi ngày.

Trở nên môn đệ là muốn sống đời nội tâm, thực thi Lời Chúa và gắn bó với Người, tức là nên thánh.

Trở nên tông đồ là mong làm cho nhiều người hiểu biết Chúa và đi theo làm môn đệ Người, tức là truyền giáo.

Môn đệ và tông đồ, hai sứ mạng này có tương quan mật thiết với nhau đến nỗi trở thành một ơn gọi duy nhất.  Không thể làm tông đồ nếu trước đó không trở nên môn đệ; cũng không thể là môn đệ đích thực nếu không thao thức làm việc tông đồ.

Truyền giáo là gì?

 Chúng ta thường xuyên nghe nói về từ này.  Nguyên gốc của từ này là một danh từ tiếng La-tinh Missio, động từ là Mittere.  Từ này có nhiều nghĩa, và một trong những nghĩa thường được hiểu là gửi đi, sai phái đi để làm một công tác quan trọng.  Đức Giêsu chính là Đấng được Đức Chúa Cha sai đến trần gian để cứu độ con người và tạo vật.  Chính Đức Giêsu cũng sai các môn đệ ra đi, lên đường để cộng tác với Người trong sứ mạng cao cả này.

Truyền giáo trước hết là “ra đi” khỏi chính con người của mình: Chúng ta ai cũng có khuynh hướng ích kỷ, khép kín và coi mình là trung tâm.  Chúng ta thường lấy mình làm tiêu chuẩn để phán đoán người khác.  Ai không có lối suy nghĩ giống chúng ta thì bị phê bình chỉ trích.  “Ra đi” khỏi cái tôi của mình, tức là chấp nhận người khác cùng với ý kiến lập trường của họ, là quảng đại bao dung khi bị xúc phạm.  Truyền giáo chính là thoát ra khỏi vỏ bọc ích kỷ để hòa đồng với anh chị em mình, tôn trọng sự khác biệt và chấp nhận những hy sinh vì ích chung.  Các môn đệ đầu tiên, khi nghe Đức Giêsu kêu gọi, đã bỏ mọi sự mà theo Người.  Các ông từ bỏ những dự tính nghề nghiệp, từ bỏ môi trường gia đình, làng xóm.  Các ông không hề băn khoăn lo lắng cho ngày mai, nhưng sẵn sàng bước theo Thày, vì các ông tin rằng theo Thày sẽ không phải thiệt thòi thất vọng.

Truyền giáo còn là “ra đi” khỏi những định kiến: Cuộc sống này được dệt lên bởi những niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ.  Bước ra khỏi những định kiến để đón nhận tha nhân trong tình huynh đệ hài hòa, không phân biệt lập trường chính trị, tôn giáo hay quan điểm xã hội.  Một cộng đoàn đức tin gò bó trong quan niệm khắt khe không thể truyền giáo có hiệu quả.  Một Giáo Hội dửng dưng với những giá trị trần thế, hoặc khép mình trước những biến cố vui buồn của cuộc sống xã hội chung quanh, sẽ là một Giáo Hội ảm đạm u sầu thay vì hân hoan hy vọng.  Một cộng đoàn không dấn thân phục vụ con người sẽ trở nên một thứ ao tù không lối thoát và thiếu sinh khí.

Nhờ hai yếu tố nêu trên, chúng ta tiến tới một điểm cuối cùng, cũng là điều quan trọng nhất, truyền giáo chính là kể lại cuộc đời của Đức Giêsu.  Câu chuyện về Đức Giêsu đã được kể từ 2000 năm nay mà không lỗi thời.  Lời giảng của Đức Giêsu đã được loan báo từ 20 thế kỷ mà vẫn không mất tính thời sự.  Cuộc đời Đức Giêsu đã và đang được kể lại một cách phong phú không những chỉ qua sách vở, mà còn qua chính cuộc đời của các tín hữu.  Xuyên qua con người của họ, người ta đọc thấy chính cuộc đời của Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, Đấng đã cảm thông với người đau khổ, đã chữa lành người bệnh tật, đã phục sinh người chết, đã chúc lành và đã chia sẻ niềm vui với đôi tân hôn trong ngày cưới.  Như vậy, truyền giáo chính là sống như Đức Giêsu đã sống, yêu như Đức Giêsu đã yêu.  Truyền giáo là có trái tim như trái tim của Chúa, có đôi mắt như đôi mắt của Chúa.  Trái tim để yêu và đôi mắt để trao gửi tình thân thiện.

Như thế, truyền giáo không buộc phải làm điều gì to tát ồn ào, mà khởi đi từ những gì rất âm thầm bình dị trong cuộc sống.  Chính những hành động bình dị đó có thể mang lại những hiệu quả lớn lao, khi chúng ta thực hiện với thao thức truyền giáo.

ĐGM Giuse Vũ Văn Thiên

From Langthangchieutim

CHÂN DUNG “CON BÒ” LUCA

CHÂN DUNG “CON BÒ” LUCA

  Trầm Thiên Thu

Ngày 18 tháng 10, Giáo hội kính nhớ Thánh sử Luca.  Ngài là một lương y của Chúa, một sử gia và một họa sĩ.  Biểu tượng của ngài là Con Bò.  Tên Luca viết theo tiếng Hy Lạp cổ là Λουκᾶς hoặc Loukás.

Thánh Luca viết một phần chính của Tân ước, đó là sách Phúc Âm thứ ba và sách Công vụ Tông đồ.  Trong 2 cuốn này, ngài cho thấy song song giữa cuộc đời Chúa Kitô và cuộc sống của Giáo hội.  Ngài là người duy nhất không phải là Do Thái trong số các tác giả Tin mừng.  Truyền thống cho biết ngài là dân bản xứ Antiôkia, thuộc Syria, theo văn hóa cổ Hy Lạp.  Thánh Phaolô gọi ngài là “thầy thuốc yêu quý của tôi” (Cl 4:14).

Thánh Luca xuất hiện trong sách Công vụ Tông đồ trong hành trình thứ hai của Thánh Phaolô, lưu lại Philippi vài năm cho đến khi Thánh Phaolô trở về sau hành trình thứ ba, đi cùng Thánh Phaolô tới Giêrusalem và vẫn ở bên cạnh nhau cho tới khi Thánh Phaolô bị tù ở Caesarea.  Trong 2 năm đó, Thánh Luca có thời gian tìm hiểu thông tin và phỏng vấn những người biết Chúa Giêsu.  Ngài theo thánh Phaolô trên chặng đường nguy hiểm tới Rôma, như Thánh Phaolô xác nhận: “Chỉ còn một mình anh Luca ở với tôi” (2 Tm 4:11). Thánh Luca còn được nhắc tới trong Plm 1:24 và Cl 4:14, còn trong 2 Cr 8:18 có thể là Luca hoặc Banaba: “Cùng với anh Titô, chúng tôi cử một người anh em rao giảng Tin Mừng nổi tiếng trong khắp các Hội Thánh.”

Thánh Luca là một trong bốn tác giả sách Tin Mừng, một trong ba Tin Mừng nhất lãm hoặc kinh điển.  Phúc âm theo Thánh Luca có thể được viết trong những năm 70 tới 85.  Trong Tân ước, Thánh Luca được nhắc tới thoáng qua vài lần, được Thánh Phaolô gọi là “thầy thuốc” trong thư gởi giáo đoàn Côlôsê, ngài là đệ tử của Thánh Phaolô.  Các Kitô hữu thời sơ khai coi ngài là thánh tử đạo, nhưng cũng có những tài liệu nói khác nhau.

Giáo hội Công giáo Rôma tôn kính Thánh Luca là thánh sử, các tôn giáo lớn khác tôn kính ngài là thánh bổn mạng của các họa sĩ, các thầy thuốc, các bác sĩ phẫu thuật, các sinh viên và các đồ tể.

Có chứng cớ cho thấy Thánh Luca ở thành phố Troas, thành này được kể trong vụ hủy hoại thành Troy cổ.  Đóng vai đệ tam nhân (ngôi thứ ba số ít), Thánh Luca viết trong sách Công vụ về Thánh Phaolô và các chuyến đi của ngài tới khi họ tới thành Troas, rồi ngài chuyển sang ngôi thứ nhất số nhiều: Chúng tôi.

Dựa vào cách diễn tả chính xác về các thành phố và các hòn đảo, nhà khảo cổ Sir William Ramsay viết: “Thánh Luca là một sử gia hàng đầu, không chỉ bởi các câu nói của ngài về các sự kiện đáng tin… Nên đặt ngài ngang hàng với các sử gia nổi tiếng khác.”  Giáo sư khoa cổ điển tại đại học Auckland là E. M. Blaiklock đã viết: “Đối với chi tiết chính xác, sách Công vụ là tài liệu đáng tin… Khoa khảo cổ đã làm sáng tỏ sự thật.”  Học giả Colin Hemer, khoa Tân ước, đã đưa ra nhiều cách hiểu bản chất lịch sử và sự chính xác của các bản văn do Thánh Luca viết.

Truyền thống Kitô giáo nói rằng Thánh Luca là họa sĩ đầu tiên đã vẽ các hình ảnh thánh.  Ngài cũng được coi là người đã vẽ hình Đức Mẹ bồng Chúa Con trên vải thô ở Constantinople, nhưng nay đã thất lạc.  Số hình ảnh thánh được coi là do Thánh Họa sĩ Luca vẽ lên tới 600 bức trong thời Trung cổ, kể cả họa phẩm “Black Madonna of Częstochowa” (Đức Mẹ Séc da đen) và họa phẩm “Our Lady of Vladimir” (Đức Mẹ Vladimir).  Ngài cũng được coi là tác giả họa phẩm chân dung hai Thánh Phêrô và Phaolô, và đã minh họa sách Phúc Âm bằng các bức tiểu họa.

Truyền thống cũng cho biết rằng Thánh Luca đã vẽ cách hình ảnh Đức Mẹ và Chúa Giêsu rất phổ biến, nhất là trong Chính thống giáo Đông phương.  Truyền thống còn đồng ý rằng các Kitô hữu của Thánh Thomas ở Ấn Độ vẫn giữ một trong các biểu tượng Theotokos mà Thánh Luca đã vẽ, và được chính Thánh Thomas đem tới Ấn Độ.

Bạo quân George của Serbia đã mua hài cốt của Thánh Luca từ vua Murad II của Ottaman với giá 30.000 đồng tiền vàng.  Sau khi Ottaman chiếm Bosnia, cháu gái của George là Mary đã đem hài cốt Thánh Luca đi từ Serbia như của hồi môn, rồi bán cho Cộng hòa Venetia của Ý.

Thánh Luca sống độc thân và qua đời ở tuổi 84 tại Boeotia.  Thi hài ngài được chuyển tới Constantinople năm 357.  Ngày nay, thánh tích của Thánh Luca được “phân chia” và được lưu giữ ở 3 nơi: Phần thân ở Tu viện Santa Giustina tại Padua, phần đầu ở Thánh đường St. Vitus tại Prague (tức là thành phố Praha, Cộng hòa Séc), và phần xương sườn ở ngôi mộ của ngài tại thành phố Thebes (Hy Lạp).

Lạy Thánh Luca, xin nguyện giúp cầu thay.  Ngài là lương y, xin chữa bệnh linh hồn chúng con. Amen.

Trầm Thiên Thu

 

YÊU THƯƠNG NHAU LÀ DẤU CHỈ NGƯỜI THUỘC VỀ CHÚA GIÊSU

YÊU THƯƠNG NHAU LÀ DẤU CHỈ NGƯỜI THUỘC VỀ CHÚA GIÊSU

+ Gm Gioan B BÙI TUẦN

  1. Khi được Tòa Thánh bổ nhiệm làm giám mục phó Giáo Phận Long Xuyên tháng 4 năm 1975, tôi đã chọn cho mình khẩu hiệu “Điều răn mới”. Điều răn mới là một Lời Chúa, trích từ câu Chúa phán trong buổi tiệc ly: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương các con” (Ga 13, 34).

Từ đó, yêu thương trở thành tiếng Chúa gọi, gây thao thức trong suốt hành trình mục vụ, truyền giáo và tu đức của tôi.

  1. Ngay những ngày đầu cuộc đời giám mục, Chúa Giêsu đã đến với tôi, để dạy tôi yêu thương như Người đã yêu thương. Yêu thương đó đòi phải cụ thể và quảng đại.

Cụ thể là ưu tiên để ý đến những người đau khổ xác hồn.

Quảng đại là cho đi, bằng sự đồng cảm sâu sắc chân thành, bằng hy sinh, cầu nguyện và chia sẻ.

Tôi đã cố gắng thực hiện như vậy.

Nhờ vậy, mà tôi có cảm tưởng là đã thực hiện được phần nào nhiệm vụ làm chứng cho Chúa. Đúng như Lời Chúa phán: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 35).

  1. Làm chứng cho Chúa bằng yêu thương nhau, đó là một niềm vui lớn lao. Được như vậy, trước hết là nhờ ơn Chúa, sau đó cũng phải nhờ đến cộng đoàn. Cộng đoàn được hiểu theo nghĩa rộng. Về cộng đoàn, tôi thấy thế này:
  2. Nhiều năm trước đây xem ra cộng đoàn làm chứng cho Chúa bằng yêu thương nhau hơn cộng đoàn hiện nay. Ngay gia đình là một loại cộng đoàn rất nhỏ, thế mà hiện nay số gia đình làm chứng cho Chúa bằng yêu thương nhau đâu còn nhiều. Thậm chí nhiều cộng đoàn những người đi tu cũng là một thứ gia đình, làm chứng cho Chúa, nay đâu còn bằng yêu thương nhau một cách dễ dàng như xưa nữa đâu. Thiết tưởng thực tế đau buồn đó cũng khiến chúng ta phải nhận ra điều này: Khủng hoảng lớn hiện nay cho Hội Thánh không phải chỉ về đức tin, mà cũng về yêu thương một cách trầm trọng.
  3. Cần nhận ra sự thực đó, để có những việc làm chân thật về sám hối, về mục vụ và về truyền giáo. Nếu không, sẽ là lừa dối mình và lừa dối kẻ khác.
  4. Sẽ là lừa dối, nếu tôi quả quyết yêu thương là việc dễ. Bởi vì yêu thương đích thực bao giờ cũng đòi phải hy sinh. Tình yêu không hy sinh là tình yêu giả. Hy sinh không tình yêu là hy sinh thừa. Nhưng hy sinh đâu là chuyện dễ.
  5. Sẽ là lừa dối, nếu tôi quả quyết yêu như Chúa yêu là việc dễ. Bởi vì Chúa Giêsu khi yêu chúng ta, đã hy sinh chính mạng sống mình. Người chịu rất nhiều đau đớn. Còn Đức Mẹ, thì khi yêu thương Chúa và loài người, đã như bị lưỡi đòng đâm thâu qua trái tim (Lc 2, 45).

Riêng tôi, xin thú thực là, để yêu như Chúa và Mẹ đã yêu, tôi phải phấn đấu rất nhiều.

  1. Cũng rất may là hiện nay đang xuất hiện những chứng nhân  mới, làm chứng cho Chúa bằng yêu thương một cách mạnh mẽ lạ lùng. Họ là những cộng đoàn, họ là những cá nhân. Tôi đang thấy họ là những dấu chỉ, mà Chúa Thánh Thần đào tạo nên, để được sai vào Hội Thánh tại Việt Nam. Họ đang hiện diện một cách âm thầm, mà lại tỏa sáng.
  2. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, những cá nhân và những cộng đoàn đang làm chứng cho Chúa bằng yêu thương nhau, đã đánh thức lương tâm tôi.

Tôi nhận ra rằng: Thực sự tôi đã cố gắng làm chứng cho Chúa bằng yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương. Nhưng tôi cũng phải thú nhận rằng: Nhiều khi tôi đã làm chứng không đúng, không đủ. Tôi sám hối về mọi lỗi lầm trong bổn phận làm chứng Chúa bằng yêu thương.

  1. Để sám hối, tôi thường cầu nguyện theo Thánh vịnh 50(51) của vua Đavid. Xin trích những đoạn mà tôi hay dừng lại lâu:

 “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm.

 Xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy…

Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy.

Xin đừng lỡ đuổi con, không cho gần Nhân Thánh, Đừng cất khỏi lòng con Thần Khí Thánh của Ngài.

Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con”.

  1. Điều mà Thánh vịnh sám hối đã nhiều lần giúp tôi được vui, đó là tin, dù tôi yếu đuối, Chúa vẫn có quyền và lòng thương xót đổi tôi ra mới. Nhìn về quá khứ, tôi tin Chúa thứ tha, nhìn về tương lai, tôi tin Chúa đỡ nâng và cứu độ tôi.

Sám hối, như trên đây, đang giúp tôi lạc quan trên đường làm chứng cho Chúa bằng yêu thương.

  1. Một điều khác cũng đang giúp tôi lạc quan, để có những sáng kiến làm chứng cho Chúa bằng yêu thương. Điều đó là thế này:

Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Người rằng: “Các con gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm. Vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho các con, để các con cũng làm như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13, 13-15).

  1. Hiện nay, trong một số cộng đoàn những người tin theo Chúa, đang thực hiện Lời Chúa dạy trên đây. Họ yêu thương nhau, đến nỗi rửa chân cho nhau, nghĩa là họ có những sáng kiến rửa những lỗi lầm, những mặc cảm, những vết thương lòng của nhau bằng tình thương khiêm tốn tế nhị. Họ rất nhiệt thành lo cứu các linh hồn.
  2. Những người làm như thế đang còn là một thiểu số nhỏ, nhưng số nhỏ đó đang giới thiệu về những người tin theo Chúa nay vẫn có nhiều khả năng làm chứng cho Chúa bằng yêu thương.

Điều quan trọng đặt ra cho chúng ta là, chúng ta có đón nhận những giới thiệu đó không?

  1. Riêng tôi, tôi đã nhận được nhiều gương sáng, được chính Đức Mẹ Maria giới thiệu về cách làm chứng cho Chúa bằng yêu thương. Tôi không thể kể ra hết được. Qua đó, tôi tin việc Chúa Thánh Thần đang làm trong Hội Thánh là vô cùng lớn lao, và rất bất ngờ.

Sự chúng ta biết được chỉ là một phần rất nhỏ. Về vấn đề làm chứng cho Chúa bằng yêu thương, chúng ta cần khiêm tốn, rất khiêm tốn, luôn luôn khiêm tốn.

Long Xuyên, ngày 07.10.2017

+ Gm Gioan B BÙI TUẦN

From: Vongtaysongnguyen

ĐỨC MẸ FATIMA: Lời nhắn nhủ của Mẹ vẫn còn mang tính thời sự

ĐỨC MẸ FATIMA: Lời nhắn nhủ của Mẹ vẫn còn mang tính thời sự

Ngày 13. 10 năm nay đánh dấu đúng 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima.  Con cái Mẹ khắp nơi sẽ mừng kính sự kiện đặc biệt này trong tâm tình tôn kính và mến yêu Mẹ.  Đây là dịp để mỗi người chúng ta bày tỏ tâm tình của mình lên Mẹ, cũng như nhìn lại sứ điệp mà Mẹ gửi đến cho toàn thế giới cách đây 100 năm.

Sự hiện ra tại Fatima không chỉ có ý nghĩa sâu sắc về mặt tôn giáo, nhưng hơn thế sự kiện đó còn mang những thông điệp quan trọng đến với toàn nhân loại trên cả phương diện xã hội lẫn chính trị.

Tại Fatima cách đây 100 năm, qua sự hiện ra với ba đứa trẻ, Mẹ đã mang đến cho con người những lời cảnh báo kèm theo những yêu cầu cần thiết để cứu vớt nhân loại khỏi biến động bất an, tai họa chiến tranh và sự diệt vong.

Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, chúng ta được mời gọi nhìn lại những lời kêu gọi của Mẹ dưới một vài khía cạnh trong đời sống của mỗi người cũng như của toàn nhân loại hôm nay.

ĐỨC TIN

Đức tin là cội nguồn và khởi đầu cho mỗi người và là lời kêu gọi đầu tiên mà Mẹ gửi đến nhân loại tại Fatima.

Nhìn chung, đức tin của con người trên thế giới đang xuống dốc một cách nhanh chóng.  Tỷ lệ chối bỏ đức tin đang ngày một tăng cao, và các phe nhóm chống Giáo Hội ngày càng tinh vi dưới nhiều hình thức.  Đức tin Công giáo đang giảm sút đáng kể trên nhiều nước, đặc biệt là Âu Châu.

Con người dần dần chối bỏ Thiên Chúa, khước từ Tin Mừng, chạy theo những ngẫu tượng và tôn thờ các giá trị vật chất.  Không còn đức tin, con người đi đến sự lạc giáo, mê tín và ảo tưởng.  Điều này khiến cho các giá trị tâm linh cũng như nhân phẩm con người  bị đảo lộn và lệch lạc.

Nhìn lại mới thấy sứ điệp Mẹ cách đây 100 năm còn mang tính cấp thiết cho thế giới hôm nay.  Thật thế, con người cần đức tin thực sự để tin tưởng vào một điều gì đó.  Tin vào Thiên Chúa để nhận ra những giá trị căn bản nơi cuộc sống.  Tin vào Thiên Chúa để nhận ra mỗi chúng ta là anh em của nhau và là con cái của Thiên Chúa.

Đức tin hướng dẫn con người đến với những giá trị chân – thiện – mỹ.  Đức tin đưa ta về với Chúa là cội nguồn của tình yêu.  Và cũng chính đức tin đưa ta về với nhau trong tình nghĩa anh em con cùng một Chúa.

HOÁN CẢI

Hoán cải là lời kêu gọi thực sự quan trọng cho con người hôm nay.  Mẹ Maria đã nhiều lần nhắc lại rằng: con người cần phải hoán cải.

Sự phát triển của thế giới không những đưa con người đến sự xa lìa Thiên Chúa mà con mang lại cho con người sự tự cao tự đại.  Con người đang chối bỏ Đấng Tạo Hóa, đi vào con đường tội lỗi, và đề cao chính mình.

Đón nhận Thiên Chúa vốn dĩ không dễ thì hoán cải để trở về với Thiên Chúa lại càng khó khăn hơn.  Con người ngày một xa dần Thiên Chúa.  Bao lâu con người xa Thiên Chúa thì bấy nhiêu khó khăn cho sự hoán cải trở về.  Những hệ lụy đau thương của sự không hoán cải đang ngày càng thấy rõ nơi cuộc sống nhân loại hôm nay.

Con người cần sự hoán cải để trở về với cội nguồn của mình là Thiên Chúa, trở về với những giá trị nhân linh của con người.  Từ đó sự hoán cải đích thực đưa con người xích lại gần nhau trong tình huynh đệ và tình thương.

BÌNH AN

Bình an là điều mà ai cũng ao ước, cách riêng là giữa một thế giới nhiều hỗn loạn như hôm nay.  Mẹ đã kêu gọi mọi người chuyên chăm cầu nguyện cho sự bình an của con người và của toàn thế giới.

Con người đang đối điện với sự bất bình an bởi khủng bố, bạo lực và chiến tranh đang hoành hành khắp nơi.  Kỳ thị tôn giáo, phân biệt chủng tộc, cũng như chủ nghĩa vật chất đang đưa thế giới đến sự thờ ơ, lãnh đạm và ích kỷ.

Con người đánh mất Thiên Chúa, đồng nghĩa với việc đánh mất những giá trị cao cả nơi con người. Vật chất thay thế những giá trị luân lý.  Tình thương bị thay thế bằng hận thù.  Hòa bình bị phá hủy bởi bạo lực.

Bình an chỉ đến với con người khi con người biết tìm về cội nguồn bình an là Thiên Chúa.  Khi bình an con người sẽ đi đến với nhau bằng tình thương và lòng nhân ái.  Mang trong mình sự bình an thì bạo lực và chiến tranh sẽ không còn chỗ để ngự trị nơi con người và xã hội.

HY VỌNG

Con người hôm nay đang dần đánh mất nhiều phẩm giá tốt đẹp, nhưng trên hết đó là đánh mất hy vọng.  Niềm hy vọng cũng là lời mời gọi được Mẹ nhắc đến trong sự hiện ra tại Fatima.

Trước nhiều khó khăn và thử thách, con người dường như sống một cuộc sống không có tương lai, chẳng mong chờ gì trong ngày mai!  Cuộc sống nổi trôi một cách vô định, bỏ mặc cho hoàn cảnh và số phận.

Thế giới với quá nhiều biến động, kèm theo thiếu niềm tin vào một tương lai phía trước, con người đang sống một cuộc sống vô nghĩa, không mối tương quan.  Để rồi giữa những lúc bế tắc, con người chỉ nghĩ đến việc kết liễu đời mình trong sự tuyệt vọng.  Và thực tế cho thấy, xu thế tự tử đang tăng một cách đáng báo động ở nhiều nước phương Tây.

Thật thế, niềm hy vọng như là nguồn lực cho cuộc sống một lối đi.  Hy vọng đưa mục đích và ý nghĩa vào cuộc sống.  Hy vọng là sức mạnh đưa con người ra khỏi những vũng lầy của thất vọng và động lực đưa con người đến với nhau.  Hy vọng trong cuộc sống sẽ đưa con người đến với Đức Kitô là Niềm Hy vọng đích thực của mỗi người chúng ta.

Sư điệp của Mẹ tại Fatima vẫn luôn mang tính thời sự đối với con người và nhân loại hôm nay.  Mẹ đã mời gọi chuyên cần cầu nguyện.  Cầu nguyện cho con người biết ăn năn và sám hối, biết hoán cải để trở về với một sống đời sống đức tin sâu sắc, và luôn mang trong tình một tia hy vọng lớn lao.  Nhờ đó, tình nghĩa huynh đệ được triển nở và bình an được hiện hữu nơi mỗi con người cũng như trên toàn nhân loại.

 Sứ điệp của Mẹ không chỉ dừng lại đối với những người Công Giáo, nhưng đó là lời mời gọi được dành cho cả nhân loại hôm nay.  Tình hình thế giới và nhân loại vẫn nguy kịch như xưa.  Lời Mẹ kêu mời càng tha thiết hơn xưa.

 Trước tình cảnh đó, chúng ta được mời gọi thực hiện ngay lời dạy của Mẹ: hãy ăn năn sám hối, hãy siêng năng lần hạt Mân Côi, hãy tôn sùng đền tạ Trái Tim Đức Mẹ, và hãy dâng loài người cho Trái Tim Mẹ.

 J.B Lê Đình Nam

Y PHỤC XỨNG KỲ ĐỨC

 Y PHỤC XỨNG KỲ ĐỨC

Tin mừng hôm nay là sự nối kết của hai dụ ngôn “hai người con” và “các tá điền sát nhân” thành một đề tài giáo huấn về tính phổ quát của ơn cứu độ, con người cần phải thống hối, ăn năn, hoán cải, phục thiện, phải cố gắng không những vào số những người được gọi, mà còn phải vào số những người được chọn nữa, bởi lẽ gọi thì nhiều mà chọn thì ít.

  1. Tính phổ quát của ơn cứu độ

Câu chuyện Tin mừng gồm hai phần rõ rệt.  Nhà vua mời thực khách dự tiệc cưới của hoàng tử (câu 1-10) và người khách không mặc y phục lễ cưới (câu 11-14).

  1. Điều khó hiểu

– Thái độ của khách mời: Bình thường khi được các bậc vị vọng mời dự tiệc, khách được mời sẽ rất hãnh diện.  Ở đây nhà vua mời dự tiệc cưới của hoàng tử.  Vậy mà các khách được mời đều từ chối.  Thánh Mátthêu ghi lại hai lý do: “người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán.”  Họ khước từ vì lo làm ăn và hưởng thụ cá nhân.  Họ bận rộn, mải mê kiếm sống, không còn giờ cho tình người.  Một số khách được mời nóng nảy quá khích, đã không dự tiệc vua mời còn bắt đầy tớ của vua, đánh đập, sỉ nhục và giết chết.

– Hành động của ông vua: Ông mời khách đến mấy lần, mời đi mời lại, năn nỉ họ tham dự.  Ông còn tỏ ra hào phóng là thu nạp mọi người, bất luận tốt xấu, giàu nghèo.  Thế nhưng, khi thấy một thực khách không mặc y phục lễ cưới ông ra lệnh trói chân tay, bỏ vào nơi tối tăm bên ngoài mà khóc lóc nghiến răng.  Người đọc cảm thấy thật khó hiểu: những người đang ở ngoài đường đột nhiên được mời vào dự tiệc cưới thì làm sao có sẵn áo lễ mà mặc?

  1. Ý nghĩa dụ ngôn

Nên nhớ, đây là một dụ ngôn nằm trong chuỗi ba dụ ngôn theo cùng một chủ đề mà Chúa Giêsu kể cho các thượng tế, và kỳ mục Do thái khi họ đến chất vấn Người về thẩm quyền của Người (x. Mt 21,23). Hai Chúa Nhật trước qua hai dụ ngôn “hai người con” (21,28-32) và “các tá điền sát nhân” (21,33-43). Dụ ngôn “tiệc cưới” (22,1-14) là câu trả lời cho những thái độ của các thượng tế và Pharisiêu.  Thiên Chúa ban hạnh phúc Nước Trời trước tiên cho dân Do Thái, nhưng họ đã từ chối vì chuộng những giá trị trần gian hơn; Thiên Chúa lại ban hạnh phúc ấy cho muôn dân.  Tuy nhiên, cũng như người dự tiệc cưới phải mặc áo cưới, tượng trưng cho cách sống.  Những người được mời gia nhập Nước Trời cũng phải có một nếp sống mới phù hợp với Tin Mừng.

  1. Được mời dự tiệc là niềm vinh dự và là hạnh phúc

Người Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng của Ngài để chuẩn bị ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại.  Thế nhưng họ đã từ chối đặc ân.  Họ thờ ơ, không đếm xỉa gì đến lời mời gọi dự tiệc cưới: người thì đi thăm trại, kẻ thì đi buôn, người khác thì bắt đầy tớ nhục mạ và giết đi…

Con người có thái độ thờ ơ, lãnh đạm và coi thường như thế bởi vì họ không yêu mến Thiên Chúa, không cần Thiên Chúa.  Nếu yêu thương, tôn trọng người chủ tiệc thì chắc chắn cho dù có vướng bận đến đâu họ cũng sẵn sàng sắp xếp công việc, thời gian để đi dự tiệc.  Được mời là một vinh dự, nhưng đáp lời mời là biểu lộ tình cảm của bản thân dành cho gia chủ.  Cũng thế, Thiên Chúa mời gọi con người vào hưởng hạnh phúc Nước Trời là do tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, còn đáp lời mời này để hân hoan tiến vào Nước Chúa là lời đáp trả tình yêu của con người với Thiên Chúa.

Thiên Chúa mời con người đến tham dự tiệc cưới.  Tiệc cưới là tiệc vui tươi, chúc mừng tình yêu của cô dâu chú rể.  Chúa Giêsu là chàng rể, Giáo hội là cô dâu.  Thiên Chúa đã mời gọi các Kitô hữu đến bàn tiệc để chia sẽ niềm vui và hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài (GLCG # 1384).

Được mời và đón nhận lời mời là một biểu lộ của tình yêu từ hai phía, Thiên Chúa và con người dành cho nhau.  Thế nhưng, trong cuộc sống Kitô hữu ngày hôm nay, thái độ từ chối Thiên Chúa, thờ ơ với lời mời gọi của Ngài vẫn còn tiếp diễn nơi nhiều người.

Dụ ngôn tiệc cưới luôn mang tính thời sự.  Những người từ chối dự tiệc cưới đã viện dẫn nhiều lý do chỉ vì họ không muốn đến.  Những người không tham dự Thánh Lễ ngày Chúa nhật cũng có rất nhiều lý do để biện minh.  Người ta có trăm ngàn lý do để từ chối lời mời tha thiết của Chúa đến dự bàn tiệc Thánh Thể, bàn tiệc Lời Chúa.  Nào là chuyện gia đình, bạn bè, chuyện làm ăn, chuyện học hành, chuyện giải trí, chuyện tương lai… nào là quá bận rộn không có thời gian.  Có khi chỉ là một cuốn phim đang xem, một trận đá bóng trên tivi, một bữa nhậu… nhiều người đã bỏ lễ Chúa nhật.

Người ta nại vào rất nhiều lý do từ công ăn việc làm đến những lý do bận rộn với những sinh hoạt xã hội để từ chối các sinh hoạt đạo đức, từ chối tham dự Thánh Lễ.  Người ta nại đến nhiều lý do, nhiều hoàn cảnh khó khăn để từ chối gặp gỡ, đón nhận Chúa qua anh chị em chung quanh, để khước từ sống giới răn yêu thương của Chúa.

Là Kitô hữu, chúng ta cần xét mình về thái độ của bản thân trước những lời mời gọi dấn thân vì Nước Trời, vì tha nhân của Chúa.  Đừng lấy lý do tôi quá bận rộn với công việc làm, với gia đình mà không dành giờ cho Thiên Chúa, không dành giờ cho Nước Trời, không dành giờ lo đến linh hồn mình.  Bận rộn chỉ là bình phong che đậy những lười biếng, những ích kỷ.  Đừng hỏi tôi có bận hay không, nhưng hãy hỏi tôi có muốn hay không?  Vì lòng muốn sẽ thắng vượt mọi trở ngại, mọi toan tính.

Thánh lễ chính là tiệc cưới Nước Trời mà Thiên Chúa thiết đãi cho chúng ta hưởng nếm trước hạnh phúc, vinh quang và sự sống thần linh.  Vậy chúng ta hãy dẹp bỏ đi mọi lo toan của công việc, mọi vướng bận của cuộc sống đời thường để hân hoan tiến đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể.  Sau khi đã vui hưởng Tiệc Thánh, mỗi người sẽ thêm nghị lực, thêm niềm tin, thêm tình yêu.

  1. Đến dự tiệc cưới phải mặc áo cưới.

Muốn tham dự tiệc cưới, vào bàn tiệc chưa đủ mà còn phải mặc y phục cho thích hợp.  Y phục đó tượng trưng cung cách sống đạo, trang phục bằng những đức tính và tinh thần của Đức Kitô.  Là người Kitô hữu, cần sống cho xứng đáng với danh hiệu Kitô hữu mới được vào Nước Trời.  Ân sủng không chỉ là một quà tặng mà còn là một trách nhiệm phải chu toàn.

Chiếc áo cưới vào dự tiệc Nước Trời chính là ơn Thánh tẩy của Bí tích Rửa Tội.  Ngày chịu phép rửa tội, tất cả mọi Kitô hữu được nhắn nhủ: “Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Đức Ktiô.  Chiếc áo trắng này là dấu chỉ tước vị của con.  Nhờ lời chỉ bảo và gương lành của thân nhân giúp đỡ, con hãy mang nó tinh tuyền mãi cho đến cõi trường sinh.”

Mỗi một Kitô hữu đều có một bộ y phục lễ cưới, đó là chiếc áo tắng ngày chịu phép Rửa tội.  Chiếc áo trắng ấy là tâm hồn thanh khiết của những người con cái Chúa đã được tẩy trắng trong máu Con Chiên.  Chiếc áo trắng ấy được dệt bằng sợi tơ Lời Chúa mà người tín hữu phải nâng niu, gìn giữ suốt cuộc đời.  Chiếc áo trắng ấy phải tinh tuyền cho đến ngày bước vào dự tiệc cưới trong Nước Trời.

Có người đã vào phòng tiệc mà vẫn bị mời ra, vì không mang y phục lễ cưới.  Có người theo đạo mà vẫn không được vào Nước Trời vì họ đánh mất chiếc áo trắng ngày Rửa tội.  Theo ý kiến của một số giáo phụ, chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, tối thiểu là cuộc sống ăn ngay ở lành.  Còn theo ý kiến của các nhà chú giải Kinh Thánh hiện đại, thì chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật.  Như thế, chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải tâm hồn, một tâm hồn trong sạch, một tấm lòng bác ái yêu thương và một đức tin vững mạnh.

Đành rằng “chiếc áo dòng không làm nên thầy tu”, nhưng qua cách ăn mặc cũng chứng tỏ cho người khác thấy phần nào con người của mình.  Khi đến thăm gia đình của người bạn với quần áo lịch sự, chứng tỏ rằng chúng ta kính trọng người bạn đó.  Khi đến nhà thờ dâng thánh lễ ngày Chúa nhật, chúng ta mặc y phục đẹp nhất của mình, chứng tỏ mình kính trọng Thiên Chúa, tôn trọng anh chị trong cộng đoàn, và biểu lộ sự tự trọng đối với chính bản thân mình.

Quần áo bề ngoài xã hội như vậy, nhưng còn y phục của tinh thần và linh hồn nữa.  Mỗi lần đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng phải mặc lấy y phục phẩm hạnh của bàn tiệc mà Chúa Giêsu đòi hỏi.  Y phục của lòng tin, cậy, mến.  Y phục của lòng ăn năn sám hối và sự kính trọng đối với Thiên Chúa.

Y phục phải xứng với kỳ đức.  Chiếc áo cưới của Kitô hữu không được dệt bằng lụa là gấm vóc, không được mua từ hàng hiệu đắt tiền nhưng chính là lòng khiêm hạ, lòng tin, lòng cậy, lòng mến Chúa, lòng mến đối với mọi người.

****************************** *******

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa.  Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.  Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.  Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.  Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn.

Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.

Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.

Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.

Và để con hưởng nhan Chúa đời đời.  Amen!  (Thánh Augustinô)

Lm Giuse Nguyễn Hữu An