Anh không chết đâu em,

Chuyện Phiếm đọc trong tuần 33 thường niên năm A 19/11/2017

 “Anh không chết đâu em,”

anh chỉ về với mẹ mong con.
Anh vẫn sống thênh thang,

trong lòng muôn người biết thương đời lính.”

(Trần Thiện Thanh – Anh Không Chết Đâu Anh) 

(Rôma 12: 10-13)                  

Ấy chết! Đang sống đành rành như người thường là những người sẽ chết bất cứ lúc nào, mà sao anh cứ hát những lời thế? Hát thế, thật như “trù ẻo” tôi và bạn, vẫn từng muốn sống hết đời mình, cho trọn vẹn.

Thôi thì, anh muốn hát thế nào thì hát, nhưng cứ hát chữ “chết chóc” hoặc “chết bất đắc kỳ tử” là tôi đây thấy rợn xương với xương sườn rồi đấy anh ạ, hỡi Trần Thiện Thanh, rất lành của tôi và của bạn.

Thôi thì, anh đã hát rồi, thì tôi nay nghe tiếp những lời lẽ khác, như sau:

“Anh không chết đâu anh, người anh hùng mủ đỏ tên Đương,
Tôi vẫn thấy đêm đêm một bóng dù sáng trên đồi máu.
Nghe trong đêm kêu gào từng tiếng súng pháo đếm mau.
Và tiếng súng tiếng súng hay nhạc chiêu hồn đưa anh đi anh đi.

Anh, anh không chết đâu em, anh chỉ về với mẹ mong con.
Anh vẫn sống thênh thang trong lòng muôn người biết thương đời lính.
Trong tim cô sinh viên hay buồn thường nhắc nhở những chiến công.
Chuyện nước mắt ướt sân trường đại học chuyện anh riêng anh riêng anh.
(Trần Thiện Thanh – bđd)

Về nỗi chết, hôm nay bạn và tôi, lại có những giòng chảy ý-tưởng cứ chảy mãi không ngừng, một thần học. Thần học đây, là môn học về thần linh, thánh ái có những điều rất cần để ý. Hệt như tác-giả ở bên dưới từng biện luận. Thế nhưng, trước khi đi vào luận-giải những tư-tưởng và/hoặc tâm-tư rất tưởng-tượng, mời bạn/mời tôi, ta nghe thêm những lời sau đây:

“Ôi đất mát trên đồi xanh tình yêu khóc ngất bên cỏ tranh
Đâu cánh dù ôm gió, đây cánh dù ôm kín đời anh
Trong những tiếng reo hò kia lẻ loi tiếng súng anh nhiệm màu
Ôi tiếng súng sau cùng đó, anh còn nghe tầm đạn đi không anh

Không, anh không, anh không chết đâu em anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm qua
Tôi thấy mắt anh bên ngọn nến vàng hắt hiu niềm nhớ
Trên khăn tang cô phụ còn lóng lánh dấu ái ân
Giọt nước mắt nóng bây giờ và còn hằng đêm cho anh cho anh …”

(Trần Thiện Thanh – bđd)

Và thêm vào đó, là những giòng kể lể rất chuyện đời của con người, mà rằng:

“Sáu giờ sáng. Bà lão bảy mươi tuổi , loắt choắt như chim sẻ ngồi ở bậc thềm ngắm bình minh. Có đôi chim nào dậy sớm đang ríu rít trên ngọn cây gần đó. Nhưng bà còn dậy sớm hơn chúng dù luôn thức tới khuya lơ để săn sóc cho chồng. Nhiều năm rồi, kể từ khi chồng bà bị tai biến. Cũng nhiều năm rồi, sử dụng đồ vật hay máy móc trong các phòng, xê dịch từ góc này sang góc khác lúc làm việc nhà, tất cả bà đều thao tác thành thục và chính xác bằng quán tính chứ không cần nhìn rõ qua cặp kính dày cộm.

Bẩy giờ bà trở vào phòng ngủ, Ông đang thở đều, lồng ngực nhẹ nhàng nhấp nhô lên xuống, đôi mắt nhắm kín. Nhưng một giọng nói thốt ra rõ ràng: “Anh thức rồi, mình à”. Bà mỉm cười: “Để em lấy khăn và thuốc nhỏ mắt cho mình.”

Ông dùng tay phải lau kỹ mặt với chiếc khăn ướt âm ấm. Cách nay nhiều năm cánh tay trái bị hỏng vì tai nạn lao động, thế rồi sáu tháng trước, chân phải bị tổn thương, ông đành để bác sĩ tháo khớp. Ông chỉ còn sử dụng được một cánh tay. Có lần ông bảo bà: “Anh chẳng còn gì cả,mình nhỉ?” Bà vỗ vỗ lên ngực ông: “Còn nhiều chứ và phần tốt nhất ở đây này”.

Khi ông đã sẵn sàng, bà nhấn nút điều khiển nâng chiếc giường dựng lên để ông dễ ngồi dậy, rồi giúp ông ngồi vào xe lăn. Trong phòng tắm bà giúp ông cạo mặt, làm vệ sinh cá nhân buổi sáng, thay áo quần…Đã lâu rồi, mọi việc lớn nhỏ hàng ngày ông đều phải nhờ đến bà. Có lần ông hỏi: “Mình chưa bỏ anh chứ?” Và bà lắc đầu, cười: “Đời nào! Đã ngần ấy năm mà…”

Hai người vào bếp ăn sáng. Trên bàn, các món đã bày biện sẵn sàng, hai ông bà ngồi đối diện nhau, hai bàn tay phải vói qua mặt bàn và mười ngón tay lồng vào nhau, nắm chặt. Họ cùng nhau cầu nguyện… Trong lúc cầu nguyện, nước mắt ông lặng lẽ lăn dài xuống đôi má nhăn nheo. Uống xong tách cà phê, ông bảo bà: “Giá mà biết có ngày sẽ như thế này, mình chẳng đời nào chịu ra nhà thờ với anh, mình nhĩ?”

Bà nhìn thẳng vào mắt ông, nhỏ nhẹ: “Mình biết không, chỉ cần thấy mình cười, thấy ánh mắt mình nhìn em, thế là quá đủ rồi. Em chẳng còn mongmuốn thay đổi gì hết, ngoại trừ một điều. Đó là, nếu như mỗi năm, giá như em có thể thế chỗ mình một nửa thời gian, để mình lại được chăm sóc em”. (Truyện kể trích từ điện thư trên mạng)

Truyện kể ở trên, bạn và tôi có trích-dẫn từ điện-thư hoặc thư tay gửi từ đâu, dù là bưu điện hay vi-tính cũng không thành vấn-đề. Chỉ thành như thế, khi tôi và bạn, ta cứ đinh ninh rằng: truyện ở đây không phải để kể qua loa cho xong chuyện rồi thôi; nhưng còn là bài học để đời giúp ta sống vui, quên chết, mỗi thế thôi.

Truyện, có kể ra đây lại cũng chỉ để làm bàn đạp ngon trớn giúp bạn và tôi ta cứ thế tiếp tục bàn về những chuyện “không vui” cứ xảy đến mỗi ngày ở huyện dân gian hay trong khuôn viên nhà Đạo, cho mọi người lưu tâm, mà nhận xét. Những câu chuyện không vui, nhưng vẫn thành chuyện, hệt như chuyện an-tử lại khiến tôi và khiến bạn lưu-tâm thêm lần nữa, qua mục hỏi đáp, rất như sau:

“Thưa cha,

Con đây muốn viết cho vị dân biểu đại diện cử tri trong vùng về dự luật “an-tử” sẽ được thông qua ở Quốc hội tiểu bang New South Wales những ngày gần đây. Nhưng trước khi làm thế, con muốn hội ý với cha đôi ba sự việc để có được một số ý-kiến mà biện luận. Vậy bằng thư này, xin cha phúc-đáp cho vài ý-tưởng để khỏi trông ngóng. Cảm ơn cha rất nhiều. Xin cho được giữ kín tên tuổi.”

 Giữ kín tên tuổi, vẫn là việc của “chàng”, những chàng trai hay con gái ở huyện nhà rất quan tâm đến chuyện nhà Đạo đang diễn ra ở đây và ở đó, cũng rất nhiều. Chính vì thế, nên cha/cố đã săn sang giấy bút để trả lời/trả vốn cho đàn con nhỏ như sau:

“Việc cần-thiết, là tất cả mọi người chúng ta quyết phải làm để tránh “an-tử” tức: hành động giúp người khác tự sát đang được chính quyền hợp thức hoá, tại nước này. Những điều ẩn-hàm trong đó xem ra rất lớn. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ Nhị có bàn đến an-tử trong tông-thư mang tựa đề “Đời sống Phúc Âm” có bảo rằng: “Nay, ta đang giáp mặt một trong các triệu-chứng rất báo-động của “văn-hoá sự chết” đang tiến mạnh trong các xã-hội trù phú, được đánh dấu bằng thái-độ đối với mối bận tâm về hiệu-năng và thấy con số người già và người khuyết tật đang gia tăng đến mức độ khó lòng chịu đựng được là gánh nặng đối với nhiều người.” (X. Đời sống Phúc Âm đoạn 64)

Ở đây, tôi sẽ đưa ra sáu luận cứ để trả lời cho câu hỏi của anh/chị. Trước nhất, dự-luật đưa ra với quốc hội tiểu-bang New South Wales cho phép bất cứ ai trên 25 tuổi đang chịu đau đớn đến cùng cực được giúp đỡ để kết thúc sự sống của họ nều như có hai bác-sĩ chứng-thực rằng người ấy đang bị bệnh nặng hoặc ở trong tình trang sẽ phải chết trong không đầy một năm.

 Tất cả chúng ta thừa biết là mọi người khi trước đều nói rằng: bệnh nhân này chỉ sống được vài tháng nữa là cùng, thì nay người này lại hoàn toàn mạnh khoẻ trở lại, thế mới lạ. Giả như những người chọn kết liễu đời mình khi cảm thấy đau đớn quá sức mình, thì đó là mất mát lớn đối với chính họ, với bạn bè người thân trong gia đình! Người ta cũng phạm phải sai lầm khi nghĩ đến tuổi thọ. Hợp-thức-hoá an-tử chỉ tổ gia tăng vấn đề ấy mà thôi.

 Thứ hai là, cho phép được an-tử là dựng ra tiêu-chuẩn kép về tình-trạng xã-hội đặt giá-trị lên sự sống như thế nào. Một đằng, ta có lý để ân-hận chuyện chấm dứt sự sống bằng việc tự sát, chí ít là khi việc ấy do người trẻ tuổi nào đó thực-hiện và ta đang cố gắng ngăn chặn mọi người chớ có tự sát.

 Thế nhưng, đằng khác, ta lại hợp-thức-hoá an-tử đến độ có thể giúp đỡ người chấm dứt sự sống của họ nữa. Vậy thì, ta gửi cho những người muốn tự sát thứ thông-điệp nào đây? Ta có còn đặt giá-trị lên cuộc sống và xót xa/ân-hận khi có người tự sát hay không?          

 Thứ ba là, việc hợp-thức-hoá việc giúp đỡ người khác tự sát có lẽ sẽ làm gia-tăng tỷ-lệ tự sát, nói chung. Một khi việc giúp đỡ người khác tự sát được xã-hội chấp-thuận theo luật pháp có thể dẫn mọi người đến tình-trạng không còn đau đớn vì các bệnh nan-y bằng cách chấm dứt sự sống của họ.

 Chuyện này đầu tiên xảy ra ở bên Mỹ, tiểu bang Oregon là tiểu bang đầu tiên hợp-thức-hoá an-tử, thì tại đây việc tự sát nói chung lên đến 40% nhiều hơn con số bình quân trên toàn nước Mỹ. Vậy, ta có muốn tình-trạng ấy xảy ra ở nước mình không? 

Thứ tư là, tiếp theo chuyện đang bàn, thì: giả như ta mở rộng cửa cho việc hợp-thức-hoá việc giết chóc thì việc đẩy mạnh nói đây còn mở rộng hơn nữa. Lấy ví dụ, tại sao người trẻ 25 tuổi kia đang đau đớn vì bệnh ung-thư lại có thể kiếm được bác-sĩ giúp anh đi đến chỗ chết; trong khi đó, một thanh-niên 25 tuổi khác đau đớn vị bệnh trầm thống khập khễnh vì bệnh xốp xương lại không thể làm thế được?

 Nói cho cùng, thì cái đau của người bị ung-thư sẽ chấm dứt trong vòng một năm vì căn bệnh ở vào giai đoạn cuối, trong khi cơn đau của người bị trầm-thống hoặc xốp xương lại cứ tiếp diễn trong nhiều năm tới. Xem thế thì, luật-pháp quả là có kỳ-thị bệnh tật. Bởi thế nên, ta không thể mở rộng cửa cho việc này được. 

Thứ năm nữa, trợ tử hoặc giúp người khác chết cho xong không có nghĩa là công việc đầy lòng thương xót chút nào hết. Như thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ Nhị từng viết trong tông-thư Đời sống Phúc Âm có bảo rằng: Cả vào khi không do động cơ ích-kỷ thúc đẩy vì phải chịu gánh nặng sự sống của người khác đang đau đớn đi nữa, phải gọi an-tử là lòng xót thương tầm bậy và đích thực là lòng thương người một cách méo mó gây bất an.

 Sự “khoan-dung” đích-thực đưa ta đến việc sẻ san cơn đau của người khác; nó không giết chết người đang đau mà ta không thể chịu nổi. Hơn nữa, hành-động trợ-tử hay an-tử hiện rõ bên ngoài càng quái ác hơn nếu nó lại do những người như thế thực-hiện, chí ít là bà con, thân thuộc là những người đáng lẽ phải cư xử với người trong gia đình bằng sự kiên-nhẫn và tình thương yêu, hoặc từ những người như bác sĩ/y tá là những người theo định nghĩa phải là những người chăm sóc người bệnh cả vào giai-đoạn đau đớn đi đến chỗ chết.(X. Tông thư Đời sống Phúc Âm đoạn 66)

Thứ sáu là, các chuyên gia y-tế được huấn luyện để chữa lành và cứu sống người bệnh, chứ không phải giúp họ mau đi đến chỗ chết. Lời thể Hippôcrát ở thế kỷ thứ tư hoặc thứ năm trước Công nguyên, mà các y- sĩ/bác sĩ buộc phải tuyên hứa có ghi như sau: “Tôi nguyện sẽ sử-dụng việc chữa-trị để giúp đỡ người bệnh thể theo khả năng và suy-xét của tôi, nhưng tôi không bao giờ có lập trường làm thương-tổn và hành-xử sai trái bao giờ hết.”

 Và lời cuối cùng thường là lời khuyên ngắn gọn bảo rằng: “Trước tiên, không bao giờ được làm hại ai hết.” An-tử gây tại hại lớn lao đến chết người. Nó dẫn đưa y sĩ và bác sĩ đi ngược lại những gì đi ngược lại mục tiêu mà họ nhắm đến.

 Ta không nên trông chờ các bác sĩ sử-dụng kỹ năng của họ để chấm dứt sự sống của bệnh nhân mà họ đang chữ trị. Nói chung, ta phải làm bất cứ thứ gì để chống-cự lại việc hợp-thức-hoá hành động tự sát có trợ giúp.” (X. Lm John Flader, Euthanasia is atrocious: let me count the ways, The Catholic Weekly 29/10/2017, Question Tỉme tr. 29)

Nói cho cùng, là người đi Đạo chỉ quan-tâm đến việc thương yêu giúp đỡ hết mọi người, dù họ đang trong tình trạng đau yếu, bệnh tật hoặc mạnh khoẻ. Bằng không đi Đạo, chỉ là đi đứng mà không theo Đạo làm người biết yêu thương, giùm giúp một ai hết.

Nói cho cùng, an-tử hay trợ-tử phải là vấn đề đặt ra cho ta và cho người suốt mọi thời, ở mọi nơi, mới được. Để có được một quyết tâm sống chính-đáng cho phải phép, với mọi người, có lẽ cũng nên quay về với lời khuyên từ bậc thánh-hiền trong Đạo, khi xưa vẫn bảo:

“Anh em hãy gớm ghét điều dữ,

tha thiết với điều lành;

thương mến nhau với tình huynh đệ,

coi người khác trọng hơn mình;

nhiệt thành, không trễ nải;

lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa.

Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng,

cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân,

và chuyên cần cầu nguyện.

Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn,

và ân cần tiếp đãi khách đến nhà.”

(Rôma 12: 10-13)                    

 Xem thế thì, nay đề nghị với bạn và với tôi, ta cùng nhau thực hiện ý-hướng ở trên qua lời lẽ gặp được trong ca-từ đầy “chết chóc” mà người xưa từng hát:

 “Không, anh không, anh không chết đâu em,

anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm qua!
Tôi thấy mắt anh bên ngọn nến vàng hắt hiu niềm nhớ.
Trên khăn tang cô phụ còn lóng lánh dấu ái ân.
Giọt nước mắt nóng bây giờ

và còn hằng đêm cho anh cho anh …”

(Trần Thiện Thanh – bđd)

Nước mắt nóng, hay nến vàng hắt hiu niềm nhớ, không là “nỗi chết: của ai đó, nhưng sẽ là lời cảnh tỉnh từ ca, nhạc sĩ vẫn gửi đến với tôi và với bạn, để sống hùng sống mạnh, sống đẹp đẽ trong đời người đầy chết chóc.

 Trần Ngọc Mười Hai

Và những tự nhủ như thế

suốt chuỗi ngày còn lại

trong đời mình. 

MUỐN SINH LỢI PHẢI DÁM LIỀU

MUỐN SINH LỢI PHẢI DÁM LIỀU

“Ông chủ đi vắng…”

Dụ ngôn những nén vàng là dụ ngôn cuối cùng trong ba dụ ngôn được thánh Mátthêu gom lại để nói lên chủ đề “Thời cuối cùng.”  Trong câu chuyện này, ai là ông chủ sắp đi xa, nếu không phải là chính Đức Giêsu? Trước đây một khoảng thời gian ngắn, chính Người đã tuyên bố: “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ thấy Thầy.” (Ga 16,16).  Người sẽ ra đi để được Chúa Cha tôn vinh cách công khai và long trọng, Người cũng sẽ trở lại để tính sổ.  Vì vậy, Tin Mừng Mát-thêu đã nối kết câu chuyện xét xử tên gia nhân bất tài với cuộc phán xét chung (Mt 25,31-46).

Ngoài ra, trình thuật hôm nay được đặt trong bối cảnh Đức Giêsu sắp tiến vào Giêrusalem và chịu khổ nạn.  Con Người sắp ra đi và trao phó vương quốc lại cho những người được tín nhiệm.  Các ông có nhiệm vụ làm cho vương quốc ấy được tiến triển.

“Một người kia sắp đi xa, liền gọi gia nhân đến mà giao phó của cải mình cho họ.”

Trước hết, tất cả các gia nhân đều được trao một số nào đó, không ai trắng tay, không có vốn ban đầu.  Tuy vậy, mỗi người nhận được số vàng không như nhau.  Sau này, khi trở về, ông chủ tính sổ với mỗi người theo tình trạng không đồng đều này: ông không đòi người nhận hai nén phải trả lại năm nén.  Ông đòi mỗi người theo mức độ ông đã giao, và chỉ chừng đó thôi.

Thời gian của lịch sử nhân loại, đó là thời gian “ông chủ đi vắng”: mỗi người bị đặt trước thử thách, như gia nhân được ông chủ trao phó những trách nhiệm lớn lao.  Quả thế, đời sống của con người qua đi trong lúc dường như Thiên Chúa vắng mặt hay rút lui để cho các thụ tạo có thể phát huy sáng kiến của mình.  Điều này cho thấy Thiên Chúa rất tin tưởng và tôn trọng con người.

Với các môn đệ của Đức Giêsu, nén vàng chính là “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ…, dạy họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em…” (Mt 28,19.20).  Ngay từ lúc ấy, các môn đệ của Đức Giêsu, đặc biệt là ông Phêrô, được tung vào một thử thách ghê gớm: cuộc đối đầu với các vị lãnh đạo cao nhất về tôn giáo của đất nước.  Ông sẽ mạnh mẽ lên tiếng làm chứng: “Anh em đã giết chết Đấng khơi nguổn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người chỗi dậy từ cõi chết.” (Cv 3,15).  Chẳng có ai ban sức mạnh cho ông, ngoại trừ Thánh Thần của Thiên Chúa.  Tất cả đã được trao cho các môn đệ, cho ông Phêrô.

Ít lâu sau, một cuộc khủng hoảng xảy ra: Có nên từ bỏ Giu-đa giáo không?  Câu trả lời không dễ dàng và cũng không có ngay được.  Dường như chính Đức Giêsu đã không giới hạn sứ vụ của Người nơi đoàn chiên Israel.  Cuối cùng, Hội Thánh đã can đảm tiến lên phía trước: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…” (Cv 15,28).

Tiếp đó là cuộc đụng đầu với bộ máy cầm quyền ở Rô-ma, rồi với cuộc xâm lăng của dân man-di, việc tiếp xúc với những nền văn minh xa lạ.  Mỗi lần lại là những vấn đề mới.

Nhìn chung chỉ khi nào vượt lên khỏi sự sợ hãi, lúc ấy Hội Thánh mới ý thức được rằng Tin Mừng không phải là một kho tàng để cất giữ, nhưng là một hạt giống cần được gieo xuống, một vườn nho phải sinh hoa trái, một nắm men phải dậy lên, một cuộc phiêu lưu cần mạo hiểm, một số vốn phải sinh lời, và cuối cùng, một trách nhiệm phải chu toàn cho đến ngày ông chủ trở về.

Như thế, ông chủ đi vắng, nhưng ông đã tin tưởng vào các gia nhân.  Ông đã trao toàn bộ tài sản của ông cho họ.  Bổn phận của họ là làm lợi thêm để khi ông trở về, ông sẽ tính sổ và ban thưởng.

“… nhưng ông sẽ trở về”

Ông chủ ra đi khá lâu và cuộc thử thách vẫn kéo dài.  Người ta có cảm tưởng rằng ông không trở về, hay là ông đã chết rồi.  Nhưng không, ông sẽ trở về, vào giờ phút không ngờ.  Không ai biết được lúc nào ông chủ trở về.  Chính vì vậy, Đức Giêsu khuyên các môn đệ luôn phải sẵn sàng, phải tỉnh thức trong khi chờ đợi.

Rồi đến lúc ông chủ trở về và đòi các gia nhân tính sổ.  Những người đã sử dụng vốn liếng ông đã trao để sinh lợi, ông ban tặng phần thưởng xứng đáng.  Riêng với người đem cất kỹ nén vàng ông đã trao, ông xử phạt.  Tại sao thế?  Anh đã không sinh lợi thêm, nhưng ít ra vẫn bảo toàn nén vàng, không suy suyển, mất mát.

Thật ra, anh ta không phải là người bất lương; không sinh lợi thêm không có nghĩa là ăn cắp.  Vậy, anh không làm điều bất công, không lỗi đức công bằng, tại sao anh lại bị quở trách và bị xử phạt?

Ông chủ quở trách anh, không phải vì anh đã phạm tội làm trái lẽ công bằng, nhưng tại vì anh đã cư xử trái ngược với sự tín nhiệm ông đặt nơi anh.  Thái độ đáng bị khiển trách của anh, không phải là không làm lợi thêm cho ông chủ, nhưng chính là không dám làm.  Lý do anh đưa ra để bào chữa cho thái độ của mình: anh sợ ông chủ “là một người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi.”  Anh đã tính toán và nghĩ rằng tốt hơn cả là không nên liều.  Anh đã nghĩ sai về ông chủ, anh đã hồ nghi.  Tội của anh là ở chỗ đó.

Và ông chủ đối xử với anh như anh đã nghĩ về ông.  Anh sợ ông, anh nghi ngờ ông, anh nghĩ ông là người hà khắc; vậy ông xử với anh như anh nghĩ.  Ông đã quở trách anh là bất tài, là vô dụng, thu lại nén vàng đã giao và hơn nữa, còn giam anh vào nơi tối tăm.

Như thế, khi ông chủ tính sổ, thái độ tin tưởng hay hồ nghi sẽ là mức độ để ban thưởng hay xử phạt. Anh gia nhân được giao một nén chỉ nghĩ đến sự hà khắc của ông chủ, nên anh bị phạt, còn những người khác lại nghĩ đến lòng đại lượng của ông chủ, và họ đã sống theo đó, nên được ban thưởng.  Càng tính toán kỹ, người ta lại trở về tay trắng, còn khi tin tưởng, người ta được tràn trề, vượt quá lòng mong ước.

Đây là một thử thách lớn với con người, kể từ thời A-đam. Người ta vẫn có thói quen coi Thiên Chúa như một vị bạo chúa hơn là một người cha đầy tình yêu thương, Đấng đã thiết lập “giao ước” với con người, sau khi họ phạm tội.  Đây cũng là ý nghĩ của những người biệt phái và kinh sư: họ nghĩ rằng chỉ có họ là người công chính, còn người khác thì không.  Họ chẳng yêu mến gì Thiên Chúa, nhưng chỉ vì muốn an toàn và thu lợi về cho mình.  Vì vậy, đương nhiên họ cũng hiểu Đức Giêsu muốn ám chỉ họ khi kể dụ ngôn này.

Như vậy, chắc chắn ông chủ sẽ trở về.  Ông sẽ ban thưởng cho người yêu mến ông, sống xứng đáng với lòng tín nhiệm của ông, ai sống ngược lại, sẽ bị xử phạt.

Mỗi người có vị trí riêng

Một cách gián tiếp, dụ ngôn này đặt nền cho sự tự do của chúng ta.  Nhờ bí tích thanh tẩy, mỗi người đã đón nhận những nén vàng, và phải sinh lợi thêm.  Mỗi người đều có trách nhiệm phát huy sáng kiến để làm tăng thêm những nén vàng.  Tự do cũng đồng nghĩa với dám liều.  Thiên Chúa không muốn chúng ta sống như những người nô lệ, nhưng là như những người tự do, tức là biết quyết định về đời sống hiện tại cũng như tương lai của mình.

Trong thời gian chờ đợi ngày Chúa trở lại, mỗi người chúng ta sẽ sử dụng, điều hành mọi sự không phải như là tài sản của riêng mình, nhưng là của Đấng Sáng Tạo.  Việc sử dụng tốt nhất chính là cộng tác tích cực vào việc xây dựng Nước Thiên Chúa.  Chúng ta sẽ không phân bì, tính toán mình nhận được nhiều hay ít, nhưng hiểu rằng mỗi người có những nén vàng, có vai trò và trách nhiệm riêng của mình.  Thiên Chúa tín nhiệm mỗi cá nhân và giao cho mỗi cá nhân một vị trí đặc biệt, có thể nói mạnh rằng, không ai giống ai.  Điều cần thiết là mỗi người phải hoàn thành “vai trò lịch sử” của mình; bởi vì, vào ngày Chúa trở lại, Người đòi mỗi người phải tính sổ, phải trả lời về những nén vàng mình đã nhận.

Để được như thế, chắc chắn chúng ta phải vượt ra khỏi ý nghĩ cho rằng Thiên Chúa là người hà khắc, trái lại phải sống với Người như với một người cha đầy tình âu yếm.  Thái độ này sẽ khơi dậy lòng tin để dám thoát ra khỏi sự an toàn cá nhân, kể cả việc tỉ mỉ tuân giữ Lề Luật, và vươn tới tinh thần tự do, tinh thần của những người dám đưa ra sáng kiến và đảm nhận trách nhiệm của mình.

Thiên Chúa vắng mặt,

nhưng Người đã tín nhiệm chúng ta,

Người mong muốn chúng ta tỉnh thức

và đảm nhận tương lai của mình.

Chúng ta không có quyền coi thường hay hồ nghi sự tín nhiệm đó,

không có quyền ngủ yên trong hiện tại,

nhưng nhận ra đó là một vinh dự

để nỗ lực hướng tới tương lai, đợi ngày Người trở lại và tính sổ.

 Lm. G Nguyễn Cao Luật, OP

From Langthangchieutim

Nếu hôm nay phải ra đi, liệu anh em đã sẵn sàng?

Nếu hôm nay phải ra đi, liệu anh em đã sẵn sàng?

#GNsP – Hôm Chúa nhật, ĐTC cổ võ mọi người đừng chờ đợi chiêm nghiệm sự sống, nhưng đau đáu câu hỏi: “Nếu hôm nay là ngày cuối còn hiện diện trên trần thế, liệu tôi đã sẵn sàng chưa?

 

Tôi có đang lãnh nhận ân sủng của Thiên Chúa không?

Vậy nên hãy sống khôn ngoan và thận trọng: đừng đợi thời khắc cuối cùng để lãnh nhận ân sủng của Thiên Chúa, nhưng hãy luôn sẵn sàng ngay từ hôm nay.

Điểm cốt lõi trong suy tư của ĐTC về việc chuẩn bị đón nhận Thiên Quốc là đoạn dụ ngôn về mười trinh nữ: năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại.

ĐTC nói rằng đoạn dụ ngôn đã “mách cho chúng ta điều kiện để được vào Thiên Quốc”, chúng ta nghe câu chuyện của năm cô khôn ngoan và thận trọng khi mang dầu lúc đợi chàng rể tới. Còn năm cô kia là những cô khờ dại khi không mang dầu. Vậy khi chàng rể đến, các cô khôn ngoan cùng chàng rể vào bữa tiệc và những cô khờ dại bị bỏ lại bên ngoài.

Chúa Giê-su dạy chúng ta điều gì qua dụ ngôn này?

Ngài dạy ta phải luôn sẵn sàng gặp Thiên Chúa, nghĩa là không chỉ tin mà còn phải thực sự sống đời Ki-tô hữu “trong yêu thương, bác ái với anh chị em ta”.

Trong đoạn dụ ngôn, dầu tượng trưng cho lòng bác ái, là ánh sáng cho đức tin của chúng ta, hãy thắp sáng nó và sinh hoa trái.

Mặt khác, nếu chúng ta sống đời chỉ xem mình là trung tâm và chỉ nghĩ đến lợi ích của cá nhân thì đời chúng ta đã xa cách và đức tin “nguội lạnh”.

Tuy nhiên nếu chúng ta thận trọng và cố gắng làm điều tốt qua cử chỉ yêu thương, chia sẻ và phục vụ anh chị em khó khăn của ta, thì ta đã luôn sẵn sàng khi đợi chàng rể đến.

“Mặc dù Thiên Chúa có thể đến vào bất kỳ lúc nào, ngay cả trong giấc ngủ ngàn thu cũng không thể khiến chúng ta sợ hãi vì chúng ta đã tích lũy đủ dầu qua những việc bác ái thường ngày”

Hãy nhìn lên Trinh nữ Maria, tấm gương bác ái sống động trong đức tin chúng ta, vì thế hãy để đèn được thắp sáng trên hành trình trần thế và mãi mãi sau này, tại bữa tiệc cưới trên thiên đường.”

Sau kinh Truyền Tin, ĐTC nói về Vicente Queralt Lloret và 20 bạn đồng hành và José María Fernández Sánchez và 38 bạn đồng hành sẽ được phong chân phước ở Madrid vào ngày 11 tháng 11. Một số là thành viên của Tu hội Truyền giáo: các linh mục, anh em và người tập tu. Và những người khác là thành viên Hội Đức Mẹ ban ơn. Họ đã tử đạo trong cuộc đàn áp tôn giáo thời kỳ Nội chiến Tây Ban Nha từ năm 1936 đến năm 1937.

Chúng con cảm tạ Thiên Chúa khi Ngài đã ban cho chúng con những chứng nhân tuyệt vời về Chúa Ki-tô và Tin Mừng.

ĐTC kết thúc buổi đọc kinh Truyền tin khi gặp các nhóm hành hương đến từ Washington, Philadelphia, Brooklyn và New York. Khi đó một nhóm đã đồng thanh hát lên, ĐTC liền dừng lại để lắng nghe. Sau đó ĐTC đã cảm ơn họ đã hát cho Ngài nghe và gọi mời mọi người cầu nguyện và chúc họ ăn trưa ngon miệng.

GNsP chuyển ngữ
Nguồn: https://www.catholicnewsagency.com/…/if-you-died-today-are-…

MỘT CÕI ĐI VỀ

MỘT CÕI ĐI VỀ

Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về

 Bài hát “Một cõi đi về” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất quen thuộc đối với nhiều người trong chúng ta.  Dù tác giả không cùng quan điểm tín ngưỡng với Kitô giáo, nhưng lời bài hát gợi nhớ chúng ta về sự mỏng giòn chóng qua của kiếp con người.  Chính tác giả đã giải thích ý nghĩa của bài hát này: “Chúng ta từ hư vô mà đến, khi kết thúc cuộc đời lại trở về với hư vô.”  Những câu đầu của bài hát vừa như một trải nghiệm về tính hữu hạn của cuộc đời, vừa như một khám phá và kết luận rằng những năm tháng sống trên trần gian, dù có miệt mài biết mấy, có thể chỉ là những “loanh quanh” vô định.

Truyền thống Do Thái giáo rồi Kitô giáo cũng khẳng định: con người từ bụi đất mà ra, rồi trở về bụi đất.  Vậy, có điều gì khác biệt giữa “hư vô” của tác giả (cũng như quan niệm của những người vô thần) và “đất” của Kitô giáo?  Nếu “hư vô” là không có gì, thì “đất” lại là một chất liệu, tuy thấp hèn mà hiện hữu.  Tác giả sách Sáng thế kể lại với chúng ta, từ một chút đất sét, Chúa làm nên con người.  Đất chẳng có là gì, nhưng sau khi Chúa nặn thành hình hài con người, thở sinh khí vào lỗ mũi thì trở thành con người có sự sống.  Cách diễn tả bình dân của tác giả sách Sáng thế cho thấy Thiên Chúa tạo dựng con người giống như người thợ gốm nắn thành hình chiếc bình.  Giáo huấn Kitô giáo khẳng định, sau khi nhắm mắt xuôi tay, thân xác con người sẽ trở về với bụi đất vì họ từ bụi đất mà ra.  Tuy vậy, sau những năm tháng sống trên trần gian, trải qua vui buồn sướng khổ của kiếp người nhân thế, con người không mãi mãi mang thân cát bụi, cũng không ngủ yên vĩnh viễn nơi vực sâu.  Sẽ có ngày Thiên Chúa can thiệp và cho họ sống lại từ bụi đất thấp hèn ấy (x. G 19,25-27).  Người công chính sẽ sống lại để ca tụng Thiên Chúa mãi mãi; người bất lương cũng sẽ sống lại, nhưng để đau khổ trầm luân muôn đời.

Tác giả của bài hát “Một cõi đi về” đã ngộ ra rằng, những loanh quanh vất vả của cuộc sống này, kết cục trở nên vô nghĩa.  Con người sống trong đời mải bon chen tính toán, thậm chí còn mưu mô lường gạt, rồi một lúc nào đó giật mình nhận ra những tính toán ngược xuôi ấy chỉ giống như một cuộc chơi, có thắng đi nữa cũng chỉ là mua vui trong chốc lát.  Vì vậy mà “trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ, chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà.”  Ông nghĩ tới “một cõi đi về” như đích điểm cuối cùng của kiếp người, dù đích điểm ấy là hư vô.  Một cõi đi về, đó là chuyến đi cuộc đời.  Đức tin Kitô giáo cũng coi cuộc sống trần gian như một cuộc lữ hành.  Dù hành trình cuộc đời ngắn hay dài, ai cũng đang về tới cội nguồn.  Điểm khác biệt ở đây, cội nguồn không còn là một khái niệm mơ hồ, mà là nhà Cha trên trời.  “Nhà Cha” là một cõi đi về đối với người Kitô hữu.

Nói tới “đi về” là nói đến quê hương.  Nói đến “đi về” cũng muốn khẳng định mình đang ở xa nhà. Con người sống trên trần gian giống như người tha hương, luôn đau đáu một niềm muốn trở về nhà với cha mẹ và những người thân.  Quê hương dù xa biết mấy cũng là nơi ta nhung nhớ; cha mẹ dù nghèo đến đâu cũng là chốn ta hướng về.  Quê hương vĩnh cửu đối với người tín hữu là nhà Cha trên trời, hay hạnh phúc Thiên đàng.  Vì thế, họ sống ở đời này, nhưng luôn hướng về đời sau, và cố gắng làm tất cả để đạt tới quê hương hạnh phúc ấy.  Có những người đã chấp nhận hy sinh tất cả: cha mẹ, anh em, nhà cửa, ruộng nương và gia tài của cải để đạt được Nước Trời, vì họ thấm nhuần lời Chúa dạy: “Nếu con người được lời lãi cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì được ích gì?” (Lc 9,25).

Người tín hữu sống trong cuộc đời này mà không coi đó là quê hương vĩnh cửu.  Quê hương đích thực của họ ở trên trời, nơi có Đức Giêsu ngự trị, có Thiên Chúa là Cha, có các thánh nam nữ là anh chị em với nhau.  Nước Trời là “cõi đi về” đối với người tín hữu.  “Cõi đi về” không phải là một thứ thuốc phiện mê dân để họ quên đi nỗi đau của cuộc đời nhân thế.  Đó cũng không phải là một thứ bánh vẽ để nhử mồi những kẻ khờ dại.  Chúa Giêsu đã quả quyết với chúng ta: “Trong nhà Cha Thày có nhiều chỗ ở… Thày đi để dọn chỗ cho anh em” (Ga 14,2).  Ai cũng có chỗ trong nhà Cha, miễn là họ sống công chính và thực thi lời dạy của Người.  Trong ngôn ngữ của Kitô giáo, ít khi dùng chữ chết để diễn tả lúc kết thúc đời người.  Những khái niệm đuợc dùng thường là: qua đời, tạ thế, an nghỉ, về nhà Cha…  Những khái niệm này diễn tả quan niệm Kitô giáo về thân phận con người: chết không phải là hết, nhưng chỉ là sự đổi thay.

Trong cõi đời tạm này, khi ý thức mình có một cõi đi về, chúng ta sẽ được đỡ nâng giữa những khó khăn thử thách.  “Cõi đi về” chính là niềm hy vọng cậy trông của chúng ta.  Đó cũng là niềm xác tín vào Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót và Đấng quyền năng mạnh mẽ.  Ngài luôn tha thứ lỗi lầm cho chúng ta mỗi khi chúng ta thành tâm sám hối ăn năn.  Ngài cũng luôn che chở chúng ta trước phong ba bão táp của cuộc đời, và soi sáng hướng dẫn để chúng ta khỏi mắc cạm bẫy nguy hiểm của thế gian.

Trong tháng Mười Một dương lịch, Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta hãy cầu nguyện cho những người đã đi hết hành trình dương thế.  Họ đang được thanh tẩy để xứng đáng ra trình diện trước nhan Thiên Chúa, là Đấng phán xét công bằng và cũng là Cha rất mực bao dung.  Khi tưởng niệm những người đã khuất, chúng ta đừng quên thân phận lữ hành của mình.  Đây cũng là một thời điểm hồi tâm, một “điểm dừng” giúp chúng ta xác định lại phương hướng đang đi để tránh lạc đường.  Lộ trình dù có mấy gian truân, cũng đừng ngã lòng thối chí, vì có Chúa đang đồng hành với chúng ta.

 Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Tháng 11 năm 2017

Nguồn: WHĐ

From Langthangchieutim

NHỮNG DẠNG VI TẾCỦA VIỆC TÔN THỜ NGẪU TƯỢNG

NHỮNG DẠNG VI TẾCỦA VIỆC TÔN THỜ NGẪU TƯỢNG

 Đôi khi trong những giây phút trầm tư hơn, tôi buộc phải tự hỏi: Có phải tôi thật sự mong muốn Chúa không, hay chỉ quan tâm đến những chuyện thuộc về Chúa?Có phải tôi muốn giảng dạy, diễn thuyết và viết về Chúa nhiều hơn là tiếp xúc đích thực với Chúa – chỉ Chúa và tôi, trong cầu nguyện và thinh lặng? Có phải tôi thích làm những chuyện về Chúa và tôn giáo hơn là ẩn mình và thinh lặng trong sự hiện diện của Chúa?

Những câu trả lời cho các câu hỏi này cần phải dễ dàng và rõ ràng. Nhìn bề mặt, rõ ràng có vẻ tôi mong muốn Chúa: Tôi cố gắng cầu nguyện huyện này, không nhất thiết Chúa phải là trọng tâm chú ý thật sự của những hoạt động này. Trọn trọng tâm chú ý có thể dễ dàng ở chỗ khác.

Có thể tất cả chúng ta đều nên tự hỏi câu này: Trong những hoạt động rõ ràng là tôn giáo của chúng ta, có phải chúng ta thật sự muốn có mối quan hệ với Thiên Chúa và với Giê-su không, hay, nếu trung thực nhìn nhận, có phải chúng ta quan tâm làm sao để có nghi thức phụng vụ tốt, thần học tốt, linh hướng hay, trải nghiệm tôn giáo hay, kiếm tìm cầu nguyện giỏi, hoạt động mục vụ, các dự án thành công ở nhà thờ, bảo vệ luân lý tốt, có hướng giải quyết tốt cho các vấn đề công chính, làm dễ dàng việc giữ đạo, hay không? Không phải những điều đó không tốt, những điều đó thật sự tốt, nhưng nghịch lý thay, chúng có thể chính là cách để chúng ta tránh khỏi phải đối diện với tiếng gọi sâu thẳm, đòi hỏi chúng ta có mối quan hệ mật thiết với Chúa. 

C.S. Lewis thích mô tả cuộc vật lộn của chúng ta trong vấn đề này và ông gọi nó bằng chính bản chất thường gặp của nó:tôn thờ ngẫu tượng, hiến dâng cả bản thân mình cho một điều gì đó chỉ là như Chúa, trái với việc hiến dâng bản thân mình cho chính Chúa. Ông mô tả như sau:

Trong quyển sách Cuộc ly dị vĩ đại (The great divorce), Lewis tưởng tượng mười cảnh trong đó người chết được một “thiên thần” gặp ở thế giới bên kia, thiên thần này cố gắng dỗ dành người mới qua đời đồng ý để thiên thần nắm tay dẫn vào thiên đường. Để vào được thiên đường, trong mọi trường hợp, chỉ có một điều kiện duy nhất và đơn giản: Bạn chỉ việc tin tưởng vị thiên thần và để bản thân mình được đưa đi!

Một trong những cảnh này, Lewis hình dung cuộc đối thoại giữa một trong các vị thiên thần này với một họa sĩ danh tiếng vừa mới qua đời.  Vị thiên thần cố gắng thuyết phục ông vào thiên đường, bằng cách tả các cảnh đẹp tuyệt vời của thiên đường.  Ban đầu ông họa sĩ phấn khích và háo hức lắm, nghĩ tới mình sẽ vẽ được các kiệt tác,nhưng ông đâm ra kháng cự và nổi giận khi biết một khi lên thiên đường, chẳng còn ai cần đến ông để vẽ vời và ông cũng chẳng có nhu cầu vẽ vời gì nữa. Thay vào đó, ông chỉ việc đơn giản ở trong lòng thiên đường và tận hưởng thiên đường. Vì thế ông từ chối không vào thiên đường, thà chọn ở lại nơi ông có thể vẽ thiên đường hơn là ở trong thiên đường. Ông phản đối vị thiên thần, lý lẽ là, với tư cách nghệ sĩ, hội họa tự nó là cứu cánh, “vẽ là để vẽ.”

Vị thiên thần đáp: Mực, dây cat-gút và màu ở dưới thế là cần thiết, nhưng chúng cũng chính là chất kích thích nguy hiểm. Trừ phi có ân huệ của Thiên Chúa, mỗi nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ đều bị kéo ra xa khỏi tình yêu của những điều mà quý vị đó sáng tác, mà chỉ yêu thích cái việc kể, cho đến khi, chìm sâu trong Địa Ngục sâu thẳm, họ không thể quan tâm mong muốn Chúa mà chỉ để ý đến những gì họ nói về Người.  Và…, như ông biết đó, họ không dừng lại ở việc quan tâm đến màu vẽ.  Họ chìm sâu hơn – trở nên quan tâm tới cá tính của mình, và rồi chẳng quan tâm tới cái gì khác ngoài tiếng tăm của mình.

Điều mà vị thiên thần này nói về các nghệ sĩ thì cũng cần nên nói với các nhà thần học, tác giả linh đạo, linh mục, giám mục, mục sư, trợ tế, thầy sáu, nhân viên mục vụ, người cổ xúy công bằng xã hội, tất cả mọi dạng người chống đối về luân lý, những vị chủ trì các khóa tu, những vị hướng dẫn linh thao, những nhà lãnh đạo nhóm cầu nguyện, và kể cả những ai đang tích cực và sẵn lòng kiếm tìm chiều sâu trải nghiệm trong cầu nguyện. Mối nguy hiểm luôn luôn là, giống như ông họa sĩ kia thích và cần vẽ cái đẹp hơn là đơn thuần thể nhập với cái đẹp, chúng ta cũng sẽ biến hoạt động tôn giáo mà chúng ta đang làm trở thành cứu cánh trong chính nó hơn là giữ mối quan tâm thật sự và trọng tâm chú ý của chúng ta vào Chúa.

Và điều trớ trêu là các hoạt động tôn giáo, giống như nghệ thuật, có thể là một trong những mối nguy hiểm còn lớn hơn thuộc loại tôn thờ ngẫu tượng này.Chính những vị đi giảng tài năng, nhà thần học vĩ đại, vị tư tế xuất sắc, vị mục sư được công chúng cực kỳ yêu mến, vị giám mục hoặc người quản lý có năng lực tuyệt vời mới là những người sẽ phải gắng gỏi khó khăn nhất để tránh mối nguy hiểm này. Như Lewis nói: Anh biến thành quỷ dữ không phải từ chuột bọ hay chí rận dơ bẩn, mà từ những vị tổng lãnh thiên thần xấu xa.Ngụy tôn giáo của thèm khát thì đê tiện hơn là ngụy tôn giáo đối với tình mẫu tử, lòng ái quốc hay yêu nghệ thuật; nhưng thèm khát thì khó trở thành một tôn giáo.

 Mỗi khi chúng ta cầu nguyện, làm mục vụ, hay làm bất cứ điều gì mang tính cách tôn giáo, chúng ta nên tự hỏi: Việc này thật sự là về ai và về điều gì?

From Đỗ Tân Hưng & Nguyễn Kim Bằng

CHẾT

CHẾT

Quyên Di

Cổ nhân ta nói: “Sinh kí tử quy”, sống là tạm gửi, chết mới là về. Ðó là một nhân sinh quan, và cái nhân sinh quan ấy chi phối đời sống người ta, đến độ có nhiều người nói rằng “sống là chuẩn bị cho cái chết.”

Từ quan niệm ấy, người Việt Nam hình như không sợ hãi khi đối diện với cái chết. Những cụ già xây sẵn phần mộ, mua sắm sẵn cỗ áo quan, ra vào vuốt ve ngắm nghía nó như ngắm một vật thân quí, đôi khi vào nằm thử một cách bình tĩnh. Các cụ còn định sẵn cả chương trình cho đám tang của mình, phải tổ chức ra sao, nghi thức thế nào. Thật đúng là sự chuẩn bị cho một cuộc trở về.
Ðó mới chỉ là những cái bên ngoài biểu lộ quan niệm “sinh kí tử quy”. Một cách sâu xa hơn, người ta chuẩn bị cho chuyến trở về bằng cả một cuộc sống của mình. Ðể cho cuộc trở về tốt đẹp, người ta sống tốt đẹp, cư xử tử tế với mọi người, tạo phúc đức để lại cho con cháu, trả sạch nợ nần để không phải vướng mắc với ai, không tạo ra những ác nghiệp v.v… Thực hiện được những điều đó, người ta thanh thản trở về thế giới bên kia.

“Sinh kí tử quy.” Sống là tạm gửi, chết mới là về. Nhưng về đâu? Ðó là vấn đề. Có phải là về với lòng đất? Có phải là về với hư không? Có phải là về với tổ tiên? Hay là về chốn bồng lai tiên cảnh?… Ðiều đó tùy thuộc quan niệm và niềm tin của từng người. Người Công giáo chúng ta tin rằng con người có linh hồn bất tử, và khi chết, linh hồn của mình sẽ về cùng Thiên Chúa, đấng tạo dựng nên mình. Thiên Chúa là nguồn cội. Từ Thiên Chúa, có muôn loài muôn vật, có chính mình. Bởi thế, chết là một cuộc “lá rụng về cội” lớn lao nhất, quan trọng nhất.

“Lá rụng về cội”. Ðó có thể coi như một nguyên tắc, một lẽ đương nhiên? Thật ra không hẳn thế. Quan sát sự kiện thực tế ngoài đời, ta sẽ biết ngay: có chiếc lá khi rụng, chao đi vài vòng, rồi nhẹ nhàng đặt mình dưới gốc cây. Nhưng cũng có những chiếc lá vừa lìa khỏi cành đã bị trận bão loạn gió cuồng cuốn bay đi xa lắc. Lá rụng, nhưng lá không về cội.

Ðời người ta cũng như những chiếc lá. Như lá được sinh ra và nuôi dưỡng từ chất nhựa từ cội là gốc rễ đưa lên thế nào, con người cũng được sinh ra, lớn lên, sinh hoạt trong dòng đời, từ chính cội nguồn của sự sống là Thiên Chúa như thế. Cái chết của con người cũng giống như chiếc lá lìa cành. Về với Thiên Chúa cũng như “lá rụng về cội”. Nhưng lá rụng chưa chắc đã về cội thì con người khi chết cũng chưa hẳn sẽ được về cùng Thiên Chúa. Về được với Chúa hay không, cái đó tùy ở cách sống của mình, tùy ở chính mình.

Có người ví cuộc hành trình về với Chúa, hay nói khác đi là về Thiên Ðàng, là một chuyến đường. Người đi phải tập làm quen với con đường, hay nói khác đi là phải đi lại nhiều lần trước khi ra đi để về thật. Nếu không quen đường thuộc lối, rất có thể người ta sẽ đi lạc, và như thế chẳng về được nhà.

Con đường về với Chúa là con đường gì? Ðó là đường Tình Yêu, bởi vì Thiên Chúa chính là Tình Yêu. Và Thiên Ðàng là nơi gồm toàn những người biết yêu Chúa và yêu nhau. Như thế, làm quen với con đường về Thiên Ðàng cũng có nghĩa là tập sống yêu thương. Yêu Chúa và yêu người.
Yêu Chúa thì dễ, vì Chúa là Ðấng trọn hảo và rất đáng kính yêu. Chúa không làm cho mình khổ, Chúa không gây ra những rắc rối cho đời mình. Chúa lại yêu mình hết mực. Tuy nhiên, yêu Chúa “khơi khơi” thì dễ, chứ yêu đến nơi đến chốn, yêu với tất cả linh hồn và trí khôn, yêu đến độ sẵn sàng sống chết vì Chúa… điều ấy chưa chắc đã dễ.

Yêu người khó hơn nhiều lắm. Vì đã là người thì có khuyết điểm. Người ta dễ làm cho mình đau khổ, cũng gây cho mình rất nhiều điều rắc rối. Rất nhiều khi người ta không yêu mình, trái lại còn ghen ghét, thù hận mình nữa. Người ta như vậy đó, thế mà mình phải yêu, để làm quen được với cái đường đi về Thiên Ðàng kia.

Nói cho cùng, cuộc sống làm nên ý nghĩa của sự chết. Cuộc sống quyết định cho đích điểm của một chuyến đi. Chuyến đi xa nhất, quan trọng nhất của đời người. Ðây cũng là chuyến đi cô đơn nhất, vì không có ai đồng hành với ta.

Sống Yêu Thương, yêu Chúa và yêu người thật lòng, ta sẽ về được với Ðấng chính là Tình Yêu. Sống không yêu thương, đường đi của ta sẽ ngược chiều, và ta khó lòng gặp được Thiên Chúa Tình Yêu. Ðó là nỗi bất hạnh lớn lao nhất, nỗi cơ cực kinh khủng nhất. Bởi vì hạnh phúc thật của con người, nói cho cùng, là về được, hòa nhập được với chính cội nguồn nơi mình đã xuất phát: Thiên Chúa. Hòa nhập được với Thiên Chúa, Ðông phương gọi là hòa hợp cùng Ðại Ngã, còn chúng ta gọi là được về nước Thiên Ðàng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu.
Còn nỗi cô đơn. Ai mà chẳng sợ cô đơn. Muốn tránh cô đơn, chỉ còn cách kết bạn và mời bạn làm kẻ đồng hành. Nhưng bạn nào đồng hành được với ta trên đường về, mà khởi đầu là cái chết phần thân xác? Chỉ có một “người” thôi, đó chính là Thiên Chúa. Hạnh phúc cho ai, trên đường về có chính Thiên Chúa làm bạn đồng hành. Trong tình bạn, cần có thời gian. Bạn thân để có thể đồng hành lại càng cần thời gian dài hơn nữa. Như thế, trong cuộc sống trần gian, nếu ta đã không từng quen với Chúa, thân với Chúa, chia sẻ với Chúa, thì khi ta chết, làm sao ta có được Chúa làm người bạn đồng hành trên đường về?

“Sinh kí tử quy”, “Lá rụng về cội.” Ðó thật là những tư tưởng đẹp và thâm sâu. Ðể hiểu được vẻ đẹp và sự thâm sâu đó, không phải một sớm một chiều. Giá ta phải trả để hiểu được nó và áp dụng nó là cả một cuộc đời, với nỗ lực và với yêu thương.

Quyên Di

Nếu hạnh phúc sẽ khơi nguồn đau khổ,

Suy Tư Tin Mừng tuần 32 thường niên năm A 12/11/2017

Tin Mừng (Mt 25: 1-13)

 Bấy giờ, Đức Giêsu kể dụ ngôn này cho các môn đệ nghe: “Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo. Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả. Nửa đêm, có tiếng la lên: “Chú rể kia rồi, ra đón đi!” Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn. Các cô dại nói với các cô khôn rằng: “Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!” Các cô khôn đáp: “Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn.” Đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: “Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với!” Nhưng Người đáp: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!” Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.

 *    *     *

“Nếu hạnh phúc sẽ khơi nguồn đau khổ,”

“Thì xin em đừng tìm đến với nhau.”

(dẫn từ thơ Phạm Ngọc)

 Tìm đến nhau, là để mang lại hạnh phúc, cho nhau. Đó là sự thật. Nhưng, sao nhà thơ lại nói: xin em hãy đừng tìm! Tìm hay không, vẫn là chuyện khôn chứ đâu là dại. Khôn dại/dại khôn, thánh sử nhà Đạo xưa nay vẫn giải khuyên qua dụ ngôn truyện trình thuật có cân nhắc, ngợi khen, tung hô.

Trình thuật thánh Mátthêu hôm nay, cũng ngợi khen/tung hô việc của Chúa, bằng nhiều cách. Cách dễ nhận nhất, là dụ ngôn. Dụ ngôn hôm nay thánh sử đặc biệt kể về các cô phù dâu khôn ngoan đáng cho mọi người nhận biết mà phân biệt dại với khôn. Khôn/dại, ở vào tình huống đợi chờ chàng rể tới, không biết trước. Vì, chàng rể đến bất chợt nên nhiều phù dâu chưng hửng, những vãn than về cảnh đột ngột, khó đoán trước.

Thời Chúa sống, đám cưới là sự kiện lớn trong sinh hoạt làng xã, mỗi một ngày. Sự kiện lớn đến độ người người trong làng đều quan tâm, muốn tham dự. Tiệc tùng lớn, có khi kéo dài nhiều ngày cả tuần lễ và còn tổ chức vui chơi đình đám suốt ngày đêm. Về phù dâu ở dụ ngôn, các cô đều là thôn nữ trẻ phần đông có quan hệ với nhà đám; tức, những người có vai vế quan trọng trong nghi thức tiệc rượu vui chơi, múa hát. Có phù dâu dự cưới, là có dễ vui và chắc chắn tiệc sẽ đạt.

Dụ ngôn, nay kể rằng chú rể đến khá trễ. Đây, là trường hợp rất phá lệ. Thường, thì chú rể nào cũng hăng hái tìm đến với ngày cưới. Vì cứ đinh ninh là phải đợi lâu, nên cánh phù dâu nhà ta mới thiếp đi và ngủ cả. Ngủ nghỉ, tuy thực chất không là vấn đề với đám cưới. Bởi, nhiều người có thể thức trắng đêm, cũng chẳng cần ngủ. Và, các phù dâu còn có thể thức giấc vào bất cứ lúc nào, khi chàng rể chợt đến. Nếu chàng đến vào nửa đêm -thường thì ít khi là thế- tất cả đều cần đèn đóm, ánh sáng, nên rất muốn có dầu để đốt sáng. Muốn vậy, phù dâu phải chuẩn bị cho đủ, để khỏi lỡ mất cơ hội. Bởi, nếu không biết cách mà chuẩn bị, phù dâu ta phải bổ đi lùng tìm cho bằng được dầu đốt để thắp đèn, còn gì là vui nữa.

Dụ ngôn, nay cũng kể về hai nhóm phù dâu. Một, luôn đề cao cảnh giác. Còn nhóm kia, chẳng chuẩn bị hoặc quan tâm gì đến đèn đóm. Dụ ngôn hôm nay, thoạt nghe có vẻ hơi mù mờ. Đọc kỹ, hẳn có người sẽ tự hỏi: làm sao nhóm phù dâu khôn lanh kia, lại không chỉ cách cho nhóm khờ dại biết sớm hơn, để cả hai cùng nhau chuẩn bị cho chu đáo. Tại sao nhóm khù khờ dù có dại cách mấy cũng phải biết cử một hai người đi lùng tìm dầu, chứ sao lại phải đi cả nhóm? Phải chăng, ngay lúc đó đã có căng thẳng, vì chú rể đã mướn toàn bộ số phù dâu để đạt hiệu quả tối đa cho tiệc cưới, nên toàn bộ nhóm phù dâu có thể hụt trọn cả lễ cưới? Nói tóm lại, hốt hoảng ở trường hợp nào cũng thế, thường lấy đi sự suy xét bình thường rất cần thiết của con người.

Sự thật mà nói, ở đời thường người khờ khạo thường là những người luôn chịu thua thiệt. Nên, dễ bị người khác chèn ép coi nhẹ như người không biết gì. Chí ít, là chuyện đạo đức, luân lý, rất trí thức. Chuyện dụ ngôn về người khờ khạo và khôn ngoan có thể áp dụng vào mọi người nói chung. Nói chung, là nói về những người không làm gì nên chuyện, hoặc cho ra hồn, nhưng vẫn muốn đạt lương tiền hậu hĩ, giống “mì ăn liền”. Như người đi tìm việc được gọi đi phỏng vấn, lại cứ khăng khăng theo ý mình đội mũ ngược ngạo, chẳng giống ai. Cũng tựa như đám học trò chẳng chịu học nhưng lại cứ muốn đậu cao, có đủ bằng cấp, nhưng thực chất lại ngu dốt. Như đôi uyên ương nọ chỉ biết lấy nhau để gần nhau mà ăn ở cho vui sướng, chẳng lo gì chuyện tương lại mai ngày, để có con.

Dụ ngôn, nay không chỉ kể, có thế. Nhưng thực sự, còn muốn diễn tả về tình hình Giáo hội mọi thời đang ở vào tình trạng của phù dâu. Chàng rể nói ở đây, là Đức Kitô. Việc “chàng rể đến chậm” là ý nói về ngày quang lâm Chúa lại đến cũng chầm chậm, theo quan niệm của cộng đoàn Hội thánh lúc ban đầu. Dụ ngôn đây, là: truyện dài cốt để kể lại sử hạnh Hội thánh thời ban sơ. Về tiêu chuẩn Chúa phán xét định đoạt về Giáo hội vào ngày Ngài đến lại.

Hình ảnh làm nền ở dụ ngôn hôm nay, là về dầu đốt. Nghe về dầu để đốt, hẳn có người sẽ nghĩ về niềm tin đốt cháy. Tức, lòng siêng chăm, sùng đạo. Về cung cách quản, tài lãnh đạo, hoặc: lòng độ lượng, thứ tha, đùm bọc, rất phục vụ, hoặc những chuyện như thế. Cũng may, là trình thuật hôm nay thực ra chẳng đề cập gì về những chuyện như thế. Vậy thì, về vấn đề gì?

Đoạn cuối trình thuật có nói:“Cửa đóng lại.” Và chàng rể đây, là Đức Giêsu lại muốn bảo: “Ta không biết các người.” Không biết ở đây, là không được Ngài biết đến. Không biết, là: không biết theo cách riêng tư như quan hệ bạn bè, chỗ thân quen. Không biết đến, chẳng phải là: ta không biết đến Ngài. Mà là: Ngài không hề biết ta. “Không biết đến ta”, tức hỏi rằng: không biết Chúa có còn đoái hoài đến ta hoặc mọi người? Phải chăng Ngài vẫn coi ta như dân con của Ngài? “Không biết đến ta”, còn có nghĩa là: ta có làm những việc “đáng làm” như Ngài, không? Đó, là những vấn đề đích thực đặt ra cho những ai tự gọi mình là Kitô- hữu. Tức Kitô khác.

Được Chúa biết, theo cách thế tự do như bạn bè người thân của riêng Ngài. Được Chúa biết, cũng đòi ta phải có cung cách xử thế như dân con được Ngài quang lâm đến lại. Được Chúa biết, là biết vào khoảnh khắc như Ngài từng loan báo vào thời trước. Được Chúa biết, còn diễn tả việc Chúa am tường mọi hành xử của Hội thánh trong quá khứ, hiện tại và mai ngày. Nói tóm lại, câu Chúa nói “Ta không biết các ngươi”, có nghĩa Chúa đã nhận ra được những việc làm “thật không phải”. Không thực tâm làm, như lời Ngài khuyên dạy.

Khi ta làm việc gì tốt lành, chắc chắn Chúa sẽ cảm kích, phấn chấn và cũng ngạc nhiên. Ngài sẽ đưa ta vào với nhóm hội của muôn người ở thế giới, để Ngài sẽ hiện diện trong ta, rất tự do, cởi mở. Và có như thế, ta mới nhận ra thiên đường hạnh phúc Ngài hứa ban bằng vào việc sử dụng sự tự do của chính mình.

Không nên hiểu câu nói của Chúa “Ta không biết các người.” như Chúa biết tất cả về đời ta qua lăng kính của vi tính, dù mọi sự đều hiện ra ở trên đó. Bởi, nếu như thế, chắc Chúa cũng sẽ buồn chán khi phải ngắm nhìn ta chuyển vận. Thật sự thì, Chúa không là Đấng chuyên kiểm soát vũ trụ vạn vật, theo cách đó. Ngài làĐức Chúa tự do, sống động và mật thiết với ta. Ngài cùng làm và cùng vui với ta trong muôn việc, ở đời.

Nếu so sánh Chúa với ta theo kiểu nghệ nhân đầy sinh lực, thì Chúa như nghệ sĩ bộ môn nhạc Jazz, chơi nhạc rất ngẫu hứng với ta, ở mọi thời. Ngài chấp nhận mọi hiểm nguy, cả khi ta tự do đối xử xem ra không ổn, như “người của Chúa”. Cả vào khi ta chơi nhạc Jazz mà lại chơi sai nốt trật nhịp. Ngài tuy biết, nhưng vẫn nhìn thoáng qua trong chốc lát, cứ để ta chơi tiếp. Nhưng, khi ta chơi nhạc đúng cách như người hành xử rất xứng hợp ở đời, thì Ngài sẽ cảm kích, biết ơn. Nói tóm lại, đó là cách thức để “biết đến ta” rất hay và rất thực như sự thực xảy đến trong cuộc đời của con người.

Nói theo kiểu dụ ngôn, thì chính đó là dầu đốt. Bởi thế nên, thể hiện tinh thần của trình thuật, là: sống thực. Sống, như mục đích ta sử dụng tự do của mình, để đem đến cho Chúa một thưởng lãm rất thực, để được Chúa nói ‘đã biết ta’. Đó, là thiệp mời. Là, tấm vé về dự tiệc cưới. Lễ hội của tự do. Giả như ta không làm thế, thì không thể gặp mặt chú rể cách đích thực như phù dâu có đèn mà không có dầu. Không làm được thế, chắc chắn rồi ra Ngài sẽ bảo: “Ta không hề biết các người”, như ngôn ngữ của trình thuật hôm nay.

Cuối cùng, có chuẩn bị chu đáo như thế không, mới là vấn đề. Vấn đề của ta và, mọi người. Trong tâm tình đó, cũng nên ngâm tiếp lời thơ vừa chợt hát, để cảm kích hát mãi: 

“Quỳnh chỉ nở về đêm trong giấc ngủ

Như tình yêu chỉ đẹp lúc ban đầu

Chẳng có gì tồn tại đến ngàn sau

Khi cơn mộng mù loà đêm dâng hiến”

(Phạm Ngọc – Với Quỳnh)

Với quỳnh, thì như thế. Thế còn với Chúa, chắc không hẳn thế. Bởi, Chúa là Tình Yêu, Ngài sẽ cứ tồn tại mãi đến muôn đời. Để, người người ngợi khen Ngài mãi khôn nguôi. Ngợi Tình Chúa. Khen tình người tồn tại mãi chốn thiên thu rất bất tận.

 Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –  

Mai Tá lược dịch.

Tôi đi trong nắng thu màu nhớ,

Tà áo cưới (Sơn Tuyền)

httpv://www.youtube.com/watch?v=CvXtiY5einE

Chuyện Phiếm đọc trong tuần 32 thường niên năm A 12/11/2017

“Tôi đi trong nắng thu màu nhớ”,
Ngơ ngẩn vì tiếng gió Thu buồn
Tôi đi trong lá thu vàng úa
Cứ ngỡ là muôn lá tình thư.”

(Hoàng Thi Thơ – Tà Áo Cưới)

(Gioan 16: 4)

 Trích dẫn câu hát này, chẳng phải vì mùa này là mùa cưới của nhiều người. Nhưng là vì, trong bài hát của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, còn nhiều ca-từ rất dễ nhớ như sau:

“Hôm nay sao áo bay nhiều thế
Tôi tưởng ngàn cánh bướm khoe màu
Ô hay! Tiếng pháo đâu buồn quá
Xác đỏ làm xao xuyến đường hoa.

Những tà áo cưới thướt tha bay bay trong nắng chiều
Đưa người em gái bước chân đi đi về bến nao
Ôi buồn làm sao em có nhớ Thu nào

Những tà áo cưới tiễn em đi em đi lấy chồng
Chim trời theo gió biết nơi đâu đâu mà ước mong
Cung đàn thầm rơi rơi mãi tiếng tơ lòng

Bâng khuâng trông gió bay tà áo
Gió hỡi làm sao bớt lạnh lùng
Tôi đi đi mãi theo mầu nắng
Nắng để lòng tôi với quạnh hiu.”

(Hoàng Thi Thơ – bđd)

Lúc đầu thì như thế. Như thế, những là: “thướt tha bay bay trong nắng chiều”, “bước chân đi đi về bến nao”, buồn làm sao…” Để rồi, cuối cùng, lại cũng hát “bâng khuâng trông gió”, “tôi đi đi mãi theo màu nắng” “Nắng để lòng tôi với quạnh hiu.”

 Ôi chà, là đúng quá. Cuộc vui nào chẳng có lúc tàn. Đời người, bao giờ mà chẳng có lúc đi vào ngõ tối, cũng rất cụt. Cụt và tối, như câu chuyện đôi lứa lúc về già có những buổi nằm nghĩ những chuyện vu vơ, khó nghĩ và khó có ý kiến như câu chuyện về “An tử” như sau:

Lãnh đạo các mạng lưới chăm sóc sức khỏe Công Giáo tại Úc cam kết sẽ không tạo dễ dàng cho hình thức trợ tử tại các cơ sở của họ một khi dự luật trợ tử được nghị viện thông qua. Tổng giám đốc tổ chức Health Australia của liên hợp bệnh viện St Vincent trên toàn quốc ông Toby Hall nói với tuần báo Catholic Weekly rằng bệnh viện sẽ tuân hành nghiêm chỉnh nguyên tắc là “không gây hại” một khi dự luật trợ tử trở thành hợp pháp tại tiểu bang NSW và Victoria.

Tổ chức Health Australia của liên hợp bệnh viện St Vincent được coi là mạng lưới cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe phi lợi nhuận lớn nhất nước. Ông Hall xác nhận bất luận kết quả của các cuộc tranh luận tại Victoria và NSW có ra sao, thì không một cơ sở y tế nào của mạng lưới Health Australia sẽ cung cấp hình thức trợ tử.

Trong khi đó, ông Mark Green, tổng giám đốc toàn quốc mạng lưới y tế Calvary Care với 15 bệnh viện trong quyền quản trị của họ – kể cả tại Melbourne và Kogarah – cho biết mạng lưới Calvary Care sẽ không tham gia nếu dự luật trợ tử được thông qua tại Victoria và NSW.

Nghị viện NSW hiện đang cứu xét dự luật Voluntary Assisted Dying Bill 2017 được sự đồng bảo trợ của các dân biểu Alex Greenwich, Trevor Khan, Lee Evans, Mehreen Faruqi và Lynda Voltz. Trong khi đó tại Victoria, dự luật Voluntary Assisted Dying Bill 2017 đã được hạ viện thông qua hồi tuần qua với 37 phiếu thuận và 27 phiếu chống. Thế nhưng nay còn chờ quyết định của thượng viện.” (Vũ Nhuận chuyển ngữ từ Nguồn sydneycatholic.org)

Nay thì, mời bạn và mời tôi, ta đi thẳng vào câu truyện kể cũng không kém khôi hài thuộc loại tiếu lâm chay, hơi bị nhạt như sau:

“Một ngày rất ngắn, ngắn đến mức chưa nắm được cái sáng sớm thì đã tới hoàng hôn

Một năm thật ngắn, ngắn đến mức chưa kịp thưởng thức sắc màu đầu xuân thì đã tới sương thu

Một cuộc đời rất ngắn, ngắn tới mức chưa kịp hưởng thụ những năm tháng đẹp thì người đã già rồi

Luôn luôn đến quá nhanh mà hiểu ra thì quá muộn , cho nên chúng ta phải học cách trân trọng, trân trọng tình thân, tình bạn , tình đồng chí, tình bạn học, tình đồng nghiệp …

Vì một khi đã lướt qua, thì khó có thể gặp lại

Sau 20 tuổi thì đất khách và quê nhà giống nhau vì đi đến đâu cũng có thể thích ứng

Sau 30 tuổi thì ban ngày và ban đêm giống nhau vì mấy ngày mất ngủ cũng không sao

Sau 40 tuổi thì trình độ học vấn cao thấp giống nhau , học vấn thấp có khi kiếm tiền nhiều hơn.

Sau 50 tuổi thì đẹp và xấu giống nhau vì lúc này có đẹp đến mấy cũng xuất hiện nếp nhăn và tàn nhang.

Sau 60 tuổi thì làm quan lớn và quan bé giống nhau vì nghỉ hưu rồi cấp bậc giống nhau.

Sau 70 tuổi thì nhà to và nhà nhỏ giống nhau vì xương khớp thoái hóa không thể đi được hết những không gian muốn đi .

Sau 80 tuổi thì tiền nhiều và tiền ít giống nhau vì có tiêu cũng chẳng tiêu được bao nhiêu tiền.”

Sau 90 tuổi thì nam và nữ giống nhau vì không thể làm nổi chuyện ấy nữa.

Sau 100 tuổi thì nằm và đứng giống nhau vì đứng dậy cũng chẳng biết làm gì

 Và những lời bàn “Mao Tôn Cương” của người kể, lại như sau:

 “CUỘC ĐỜI CỦA BẠN VÀ TÔI LÀ NHƯ VẬY KHÔNG KHÁC NHAU NHIỀU NHÌN RA , HIỂU ĐƯỢC , THẤU HIỂU RỒI ,CUỘC ĐỜI LÀ NHƯ THẾ . TRÂN TRỌNG NHỮNG THỨ CÓ ĐƯỢC , TÌM LẠI NHỮNG THỨ ĐÃ MẤT.”(Trích truyện kể ở trên mạng, bạn bè gửi cho nhau để còn đọc).

Đọc truyện rồi, nay mời tôi và mời bạn, ta đi vào mục hỏi đáp rất như sau:

“Thưa cha,

Vừa qua, con có dịp nói chuyện với bầu bạn  về vấn đề mà báo chí lâu nay cứ nói nhiều, đó là vấn đề “An tử” hoặc còn gọi là “Trợ tử”, tức: giúp người bệnh đi vào cõi chết, rất nhẹ nhàng. Vấn-đề này, lại sẽ được quốc hội tiểu bang New South Wales tranh-luận. Nhưng câu hỏi đặt ra là: có người từng bảo: họ cũng không hiểu được lý do tại sao ta không để cho những người đang đau khổ được chết nếu họ muốn thế. Riêng con, lâu nay tự hỏi thế nào là “An tử” và thế nào không phải là “An tử”, xin cha cho con vài giòng chỉ-dẫn”.   

Lại nữa, đã chính-thức viết thư gạn hỏi ông cha/ông cố những điều như thế thì cha/cố dù không am-tường vấn-để luật đời hay Đạo, cũng cố lục lọi sách vở để viết lên câu trả lời như sau:

“Trước nhất, ta phải tìm cách hiểu cho rõ cụm từ “An-tử” hay “Trợ-tử” bên tiếng Anh là “Euthanasia” có nghĩa gì. Cụm-từ này, xuất từ tiếng Hy Lạp có ý nói về cái chết tốt lành hoặc hạnh-đạo. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ Nhị có viết tông thư Evangelium vitae (Đời sống Phúc Âm) vào năm 1995 trong đó ngài định nghĩa “Euthanasia” là “một hành động hoặc quên sót vố dĩ tự nó hoặc có ý-thức, tạo nên cái chết với mục đích loại-bỏ mọi đớn đau, sầu khổ” (Evangelium Vitae đoạn 65).

Điều ngài muốn nói, đơn-giản chỉ thế này: An-tử là việc giết chết một nhân mạng vô tội, như hành động cố sát, nhưng với mục tiêu đặc-thù là loại-bỏ cơn đau của một người. Trong tông-thư, Đức Gioan Phaolô xác-nhận: “An-tử là sự vi-phạm trầm-trọng luật của Chúa, bởi nó vung tay giết chết con người một cách vô đạo-đức, nên không thể chấp-nhận được. 

Tín-điều này dựa trên luật tự-nhiên và trên Lời của Chúa có chữ viết như truyền-thống Giáo-hội chuyển-luân và thường được huấn-quyền ban dạy trên khắp thế-giới. Tuỳ từng hoàn-cảnh, việc thực-thi động tác này thường kéo theo việc cố ý tự sát hoặc giết người rất đích thực. 

Sách Giáo-lý Hội-thánh Công-giáo từng viết rất rõ chuyện này bảo rằng: “An-tử là hành-động cố sát nghiêm-trọng chống lại phẩm-giá con người và phản lại việc tôn-kính Thiên-Chúa hằng sống, Đấng Tạo dựng nên muôn loài. Nếu phán-đoán sai lầm, con người có thể rơi vào tình-trạng cứ yên chí không thay đổi được bản-chất của hành-động giết người là hành-động luôn bị cấm đoán và loại-trừ” (GLHTCG đoạn 2277).

 Dù có là chuyện nên làm và có thể chấp-nhận làm bất cứ thứ gì để giảm bớt sự đau-đớn nơi người bệnh, nhưng theo pháp-luật thì việc này vẫn không được phép làm vì nó chấm dứt sự sống của con người. Cuối cùng thì, Thiên-Chúa là Chúa-tể sự sống và vì thế cũng tuỳ Ngài quyết-định khi nào thì con người sẵn sang đi vào cõi chết. Ta có thể giết con thú đang đau đớn vì nó chỉ là loài thú, nhưng không thể làm thế với con người được bởi con người là hình-ảnh giống Thiên-Chúa.

 Dù sao, ta cũng không được phép quên thực-tại của luyện ngục và sự đau khổ luôn giống như lửa ngọn, rằng linh-hồn chịu đau-đớn ở nơi đó cùng một lúc các linh-hồn cũng thấy vui lòng đến cực độ vì chúng được tinh-luyện cho sạch để đạt chốn thiên-đường. Bởi ta cũng biết, nếu ta kết-thúc sự sống của ai khác một cách quá sớm sủa ngang qua an-tử , cũng có thể là ta chẳng kết-thúc được cơn đau của họ chút nào hết, mà đúng hơn nhận chìm linh hồn họ vào chốn đớn đau nhiều hơn trong luyện ngục. Có thể, Thiên-Chúa muốn họ chịu cực thêm chút nữa ở đời này để rồi họ đem họ đi thẳng vào chốn thiên-được. Nên, ta hãy để Chúa quyết-định xem khi nào là thời-điểm đích-đáng để họ chết.

 Trong thời gian chờ đợi, tốt hơn ta nên làm tất cả điều gì có thể làm được để giảm bớt sự đau khổ của con người bằng sự chăm nom săn sóc cốt làm giảm cơn đau của người bệnh bằng cách sử-dụng moo5c-phin hoặc thuốc thang nào đó cho thích-hợp. Dù việc này chỉ làm ngắn bớt sự sống của một người giảm bớt tầm-mức ý-thức của người bệnh , đây không là an-tử nhưng đúng hơn, lại là chăm sóc rất kiên-trì. (X. GLHTCG đoạn 2279)

 Dù sao đi nữa, ai ai cũng phải duy-trì tầm-mức ý-thức cho đến khi họ làm tròn trách-nhiệm đạo-đức và gia-đình của họ và có cơ-hội chuẩn bị tinh-thần để sẵn sang giáp mặt Thiên-Chúa (X. tông-thư Sự Sống Phúc Âm đoạn 65). Và bao giờ cũng thế, ta có nhiệm-vụ tiếp-tục chăm sóc người ốm đau, bệnh tật trong đó có cả việc tiếp nước và thức ăn cho họ nữa.

 Cũng thế, không phải là an-tử làm đứt đoạn tiến-trình nào đó kéo dài sự sống của một người khi biết rõ là tiến-trình ấy không hoàn-thành mục-tiêu của họ hoặc chúng gây phiền-toái hoặc nguy hiểm cho người bệnh hoặc đưa ra một kết-cuộc thiếu cân-xứng với kỳ vọng. 

Sách Giáo Lý Hội thánh Công-giáo còn cắt nghĩa thêm rằng: “Ở đây, không ai được phép gây nên cái chết. Con người không có khả-năng cản-trở chuyện ấy thì còn có thể chấp-nhận được. Mọi quyết-định phải do người bệnh lập ra nếu người ất có thẩm-quyền và khả năng làm thế; bằng không, việc ấy phải do những ai có thẩm-quyền pháp-lý được hành-động thay cho người bệnh, mà ý-muốn của người này có lợi-ích hợp-pháp đều phải được tôn-trọng.” (X. GLHTCG đoạn 2278)

Một ví dụ cụ thể, là: có thể chấp-nhận việc chấm dứt việc tiêm chích hỗ-trợ người bệnh được tiếp sống khi biết rõ là không làm thế thì người bệnh cũng sẽ chết tốt. 

Tương-tự như thế, có trường-hợp cho phép được buông bỏ các hình-thức chữ-trị cách nào đó nếu thấy không thể chữa lành được nhưng sẽ chỉ kéo dài cơn đau của người bệnh mà thôi. Điều này bao gồm việc hoá-trị và xạ-trị và bất cứ hình-thức chữa chạy nào khác vẫn không tạo hy-vọng chữa lành được căn bệnh.

 Với khoa-học tiến-bộ, ta có nhiều cách chăm sóc khả dĩ làm giảm cơn đau cực-kỳ của người bệnh và việc này khiến người bệnh thấy dễ chịu đủ thì không nên khao khát biện pháp an-tử làm gì. Nhưng, ngay cả khi người bệnh đang phải chịu cơn đau đến độ cực kỳ, ta không thể coi an-tử như phương án cuối cùng để chấm dứt cơn đau của người ấy được.” (Lm Frank Doyle, Euthanasia: Don’t rob people of their suffering, The Catholic Weekly 22/10/2017 tr. 41)

Đọc giòng chảy đầy những chữ ở trên, chắc hẳn có bạn đọc lại sẽ liên tưởng đến câu truyện kể có đầu đề là “Chuyện thắng/thua” của ai đó vừa đăng tải trên trang mạng như sau:

“Có một hòa thượng lên núi chặt củi, trên đường trở về, ông thấy cậu thiếu niên nọ đã bắt được một con bướm và đang cố gắng khom hai bàn tay lại để giữ cho nó khỏi bay.

 Nhìn thấy người tu hành, cậu cất lời: “Hòa thượng, cháu và ngài đánh cược một ván được không?”

Hòa thượng hỏi lại:

-Cược thế nào?”

-Ngài đoán xem con bướm trong tay cháu sống hay chết? Nếu ngài đoán sai, bó củi sẽ thuộc về cháu”, – cậu thiếu niên trả lời.

Vị hòa thượng nọ đồng ý và đoán:

-Con bướm trong tay cháu chết rồi.

Cậu thiếu niên cười lớn đáp:

-Ngài đoán sai rồi.

Nói đoạn, cậu mở tay ra, con bướm từ trong bay lên.

Hòa thượng nói:

-Được, gánh củi này thuộc về cháu.

Nói xong, ông đặt gánh củi xuống, vui vẻ bước đi. Cậu thiếu niên không biết vì sao hòa thượng lại có thể vui vẻ đến như vậy nhưng nhìn gánh củi trước mặt, cậu ta cũng không để tâm lắm mà vui vẻ gánh gánh củi về nhà.

 Nhìn thấy con về, người cha liền hỏi số củi đó ở đâu ra, cậu mới đem chuyện kể lại cho cha nghe. Nghe hết câu chuyện của con trai, đột nhiên ông giơ tay tát con một cái, giọng giận dữ:

-Con ơi là con! Con hồ đồ quá rồi! Con nghĩ là mình đã thắng sao? Ngay cả khi con đã thua, con cũng không hề biết mình đã thua đấy.

Lời cha nói khiến cậu con trai ngơ ngác, không hiểu gì. Người cha liền lệnh cho cậu ta gánh bó củi lên vai, hai cha con mang củi đến trả cho nhà chùa.

Nhìn thấy vị hòa thượng nọ, người cha liền cất tiếng:

-Thưa thầy, con trai tôi đắc tội với thầy, xin thầy lượng thứ.

Hòa thượng gật đầu, mỉm cười nhưng không nói gì. 

Trên đường trở về nhà, cậu thiếu niên sau một khoảng thời gian băn khoăn cuối cùng cũng đã nói ra những nghi vấn trong lòng. Người cha thở dài, nói:

-Vị hòa thượng đó cố ý đoán con bướm chết, như thế con mới thả nó ra và thắng được gánh củi. Nếu ông ấy nói con bướm còn sống, con sẽ bóp chết con bướm và con cũng sẽ thắng cược. Con cho rằng vị hòa thượng đó không biết con tính toán gì sao? Người ta thua một bó củi nhưng đã thắng được thứ giá trị hơn rất nhiều, đó là lòng từ bi. Còn con, con đã thua, đã để mất thứ quý giá đó mà chẳng hề hay biết.”

 Câu chuyện có thể rất đơn giản nhưng đó là bài học cho chúng ta trong cuộc sống. Thắng, thua, thành, bại là những chuyện thường xuyên giày vò cuộc sống của con người. Có những lúc chúng ta tự cho rằng mình đã thắng nhưng trên thực tế, có khi chúng ta đã thua nhiều hơn mà chẳng hay. (Sưu Tầm)

 Nói như người kể truyện ở trên, thì: mọi việc trên đời “có thể rất đơn giản, nhưng đó là bài học cho chúng ta trong đời sống!”

Nghe ra như thể: có người đọc truyện kể ở trên lại cũng nghĩ rằng: “Trong đời sống của chúng ta, nhiều bài học xem ra cũng đơn giản như truyện kể”, thế thôi.

Như thế, nghĩa là: truyện kể hay bài học và bài học hay truyện kể đôi khi cũng giống nhau từng chi tiết. Có những chi tiết chỉ đơn-giản như câu truyện để kể, lại cũng có chi tiết vẫn được coi như bài học  chứ không chỉ là truyện kể, để cho vui.

Xem thế, giống như thể người đi Đạo Chúa lâu nay cứ nghe đi nghe lại nhiều truyện kể trong Tin Mừng, lúc đầu cứ tưởng đơn-giản chỉ là truyện kể, nhưng nghe nhiều lần mới thấy đó là bài học để đời, giúp ta sống. Sống đạo hạnh và đơn giản như truyện kể mà thôi. Một trong các câu nói để đời ấy có thể kể như sau:

“Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi.

Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc,

thì anh em biết là mùa hè đã đến gần.

Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra,

anh em hãy biết là Con Người đã đến gần,

ở ngay ngoài cửa rồi.

Thầy bảo thật anh em:

thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra.

Trời đất sẽ qua đi,

nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.

“Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được,

ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không,

chỉ có Chúa Cha biết mà thôi.”

(Mc 13: 28-30)

Và hôm nay, nếu bạn và tôi dám áp-dụng câu nói trên vào cuộc đời người có những chuyện không phải để kể, mà để học và hỏi như chuyện “An tử” hay “Trợ tử” bàn ở trên, thì kết luận có thể rút ra được, hệt như câu trên mà rằng: có những sự việc “ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi.”

Nói thế, không để phản bác lập-trường của Giáo-hội hay ai đó về vấn đề “Trợ tử” hay “An tử”, nhưng chỉ muốn bảo với tôi và với bạn rằng: có những chuyện hoặc những truyện chỉ để kể chứ không để rút ra một kết luận nào đó, đúng/sai, thực/hư, mà chỉ để cho nhau nghe mà thôi.

Nghe thế rồi, nay mời tôi và mời bạn, ta lại trở về với bài ca ở trên dung làm câu chấm hết hết cho bài “Phiếm” hôm nay, mà rằng:

“Hôm nay sao áo bay nhiều thế
Tôi tưởng ngàn cánh bướm khoe màu
Ô hay! Tiếng pháo đâu buồn quá
Xác đỏ làm xao xuyến đường hoa.

Những tà áo cưới thướt tha bay bay trong nắng chiều
Đưa người em gái bước chân đi đi về bến nao
Ôi buồn làm sao em có nhớ Thu nào

Những tà áo cưới tiễn em đi em đi lấy chồng
Chim trời theo gió biết nơi đâu đâu mà ước mong
Cung đàn thầm rơi rơi mãi tiếng tơ lòng

Bâng khuâng trông gió bay tà áo
Gió hỡi làm sao bớt lạnh lùng
Tôi đi đi mãi theo mầu nắng
Nắng để lòng tôi với quạnh hiu.”

(Hoàng Thi Thơ – bđd)

Tắt một lời, có đi “rong nắng thu màu nhớ” hay không, cũng là cơ hội để ta nhớ lại những gì được Đấng thánh hiền nhà Đạo từng nói ở Tin Mừng, rồi giữ lấy cho đời mình:

“Thầy đã nói với anh em những điều ấy,

để khi đến giờ họ hành động,

anh em nhớ lại là

Thầy đã nói với anh em rồi.”

(Gioan 16: 4) 

Trần Ngọc Mười Hai

Cũng có nhiều lúc

Vẫn nghe và vẫn nhớ nhiều sự việc

Lại nghĩ đó là sự thật

nên mới hoàn hồn. 

VỪA MANG ĐÈN, VỪA MANG DẦU

VỪA MANG ĐÈN, VỪA MANG DẦU

 Chẳng ai nghĩ đi ăn sinh nhật là để chết.  Chẳng ai nghĩ mình sẽ chết vào ngày sinh nhật của mình.  Vụ cháy ở nhà hàng Hoàng Hôn đường Điện Biên Phủ, nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết.  Cái chết đến khi mọi người đang say ngủ, lúc 3 giờ sáng ngày 17-10, sau bữa tiệc sinh nhật.  Chín người chết vì không thể ra khỏi căn nhà bốc cháy.

Đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc ta rằng Chúa đến bất ngờ, như chú rể đến lúc nửa đêm.  Chúng ta phải sẵn sàng như năm cô phù dâu khôn ngoan, hân hoan ra đón chú rể, tay cầm đèn thắp sáng.

Thật ra năm cô dại chẳng phải là hạng vô tích sự.  Chắc họ đã lo trang điểm cho mình.  Khi biết mình hết dầu, họ đã lo vay mượn.  Và khi bị từ chối, họ đã đi mua dầu giữa đêm khuya.  Lúc có đèn sáng, họ đã gõ cửa xin vào dự tiệc cưới.  Nhưng muộn quá!

“Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!”

Chẳng nên đổ lỗi cho chú rể đến chậm, khiến đèn của mình hết dầu.  Chẳng nên trách móc các cô khôn ngoan, vì họ cần có đủ dầu để thắp sáng cho tiệc cưới giữa đêm khuya.  Chỉ nên nhận mình đã chểnh mảng, không mang dầu dự trữ.

Có đèn.  Không đủ!  Đèn cần phải sáng, sáng lúc Chúa đến bất ngờ.  Như thế cũng có nghĩa là phải luôn luôn sáng.  Mang danh là Kitô hữu.  Không đủ! Tham gia vào một số sinh hoạt tôn giáo.  Không đủ!  Cần phải sống hết mình những đòi hỏi của Chúa.  Đòi hỏi lớn nhất là yêu thương.

Trong Hội Thánh, vẫn có những cô khôn và cô dại, có những người đèn đã hết dầu từ lâu…

Cần chăm chút cho ngọn đèn đời mình.  Cần nuôi dưỡng nó bằng thứ dầu của tình yêu bao dung, của niềm hy vọng vững vàng, của niềm tin sắt đá.  Cần châm thêm dầu mỗi ngày…

Hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.  Tỉnh thức không phải là không ngủ… Cả mười cô trinh nữ phù dâu đều đã thiếp ngủ.  Tỉnh thức không phải là suốt ngày đọc Lời Chúa, nhưng là để Lời Chúa chi phối mình suốt ngày.  Chẳng ai biết lúc nào tận thế.  Chẳng ai biết giờ chết của mình.  Chẳng ai biết hôm nay Chúa hẹn mình ở đâu, trong biến cố nào, nơi con người nào.  Chính vì thế phải tỉnh thức luôn, cả trong giấc ngủ.

Người ta biết mình bắt đầu tỉnh thức, khi nhận ra mình đã mê muội.

****************************** **

Lạy Chúa Giêsu, nếu ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng. 

Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.

Chúa đâu muốn đến để hủy diệt, Chúa đâu muốn mất một người nào…

Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn cho mọi người và cho cả vũ trụ.

Xin nuôi dưỡng nơi chúng con niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.

 Lm Nguyễn Cao Siêu, S.J,

trích trong “Manna”

From Langthangchieutim

NAY ANH MAI TÔI

NAY ANH MAI TÔI

 Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Người ta nói: “đời như hoa trước gió” chẳng sai!  Nó sớm nở chiều tàn.  Nó mong manh như kiếp cỏ hoa.  Nó phù du như mây hợp rồi tan.  Theo thống kê của chính phủ thì trong đợt mưa lớn ngày 09 – 10/10 xảy ra ở Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và một số tỉnh miền Bắc, gây nên lũ quét và sạt lở đã cướp cướp đi hàng trăm sinh mạng, phá hủy hàng ngàn ngôi nhà và hàng ngàn gia súc trôi dạt trên dòng nước mênh mông.

Nhìn vào những cái chết tức tưởi ấy ta mới thấy kiếp người thật mong manh.  Cái chết không có tuổi.  Không hẳn tuổi già cái chết mới đến, mà tuổi trẻ cũng có thể phải ra đi, vì “sinh hữu hạn, tử bất kỳ.”  Có khi người trẻ lại ra đi trước người già như trong ca dao xưa đã nói:

Lá vàng còn ở trên cây,

Lá xanh rụng xuống, có hay hỡi trời.

Sự thật này nói lên tính cách mong manh của kiếp sống con người.  Thật mong mang như hoa cỏ đồng nội mà thánh vịnh 102 cũng từng nói tới:

Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,

Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,

Một con gió thoảng là xong,

Chốn xưa mình ở cũng không biết mình.

(Tv 102,15-16)

Nghĩ đến thân phận mỏng dòn của kiếp người, trong tâm hồn tôi chợt vang lên giai điệu bài hát “Nay anh mai tôi” của Tuấn Kim.  Lời bài hát đã bóc trần sự phù du của kiếp người hòa với giai điệu du dương khi trầm khi bổng như xé nát tâm can vì nó diễn tả quá đúng về kiếp người “nay anh mai tôi” sẽ lần lượt đi qua con đường hẹp là sự chết.

Giai điệu bài hát như dội vào tim, khiến tôi cũng muốn cất lên lời hát:

“Nay anh mai tôi, chung đường chung lối,

xuôi tay ra đi giã từ cuộc đời”.

Nhưng cuộc ra đi này cũng có phần an ủi cho kiếp người lắm truân chuyên nhiều nước mắt, vì nó mở ra cho chúng ta một chân trời mới trong ngôi nhà Cha trên trời tràn đầy an vui.

“Vì trong tiếng cười có nước mắt rơi

Về nơi quê trời, bên Chúa an vui”.

Qua bài hát này ta thấy một chân lý đã được khẳng định:

“Ngày con sinh ra, Chúa đã biết rõ, ngày con qua đời Chúa không cho hay”.

Phận số cuộc đời không tùy thuộc vào ta.  Sự sống hay chết đều nằm trong kế hoạch đầy yêu thương của Thiên Chúa.  Nhưng có sinh có tử dường như là lẽ trời mà ai cũng phải chấp nhận “nay anh mai tôi” mà thôi!

“Dòng đời ngày qua bao kẻ chia xa, mà lòng thầm suy nay người mai ta, thế gian phù hoa.”

Thế nên, sự khôn ngoan như mời gọi ta hãy sống thanh thoát với cuộc đời, đừng quá bon chen thú vui hay lợi danh, vì khi chết có mang theo được gì đâu?

“Cuộc sống mong manh chớ ham lợi danh, ngày mai chết đi sẽ mang được gì?”

Tháng 11 là tháng để nhớ và cầu nguyện cho những người đã chết.  Họ đã về với Chúa, với họ là niềm vui, vì được chuyển đổi từ sự sống tạm trần gian qua sự sống vĩnh cửu quê trời, được chuyển đổi nơi trần đời bi ai đầy nước mắt để tiến vào thiên đàng vĩnh phúc.  Có lẽ, nếu được nghe thì họ sẽ đang nói với chúng ta như nhà văn John Bun-y-an đã nói: “Các bạn đừng than khóc cho tôi.  Tôi sẽ về nhà đời đời nơi Đức Chúa Trời là Cha Đức Giêsu Kytô: Ngài sẽ tiếp rước tôi dù tôi là một tội nhân bởi công lao cứu chuộc của Con Ngài.  Tôi tin rằng, chẳng bao lâu nữa sẽ gặp nhau trên nước sáng láng của Chúa để hát bài ca mới và sống hạnh phúc trong cõi đời đời.”

Thế nhưng, trong thân phận con người ai cũng có yếu đuối cần được ân hưởng máu cứu chuộc của Con Thiên Chúa, vì “ai nên khôn mà không dại một lần.”  Ai cũng cần được thanh luyện trong tình thương của Chúa.  Vì thế, trong tình liên đới giữa người với người, và nhất là trong đạo hiếu Việt Nam luôn mời gọi con cái hãy biết đền ơn đáp nghĩa mẹ cha qua những thánh lễ cầu nguyện cho những người đã khuất, qua những hy sinh bác ái để lập công đền tội cho các tiền nhân.  Nhớ đến công lao cha mẹ không chỉ bằng những giọt nước mắt nuối tiếc mà cần phải tỏ lòng hiếu thảo qua lời kinh cầu hằng đêm và qua những việc lành phúc đức chúng ta làm cho cha mẹ mới là tấm lòng hiếu thảo mà tổ tiên đang cần nơi con cháu chúng ta.

Ước mong khi nhìn về kiếp người mong manh ta hãy cầu nguyện cho những người đã khuất hôm nay để ngày mai sẽ gặp nhau trên quê trời.  Chúng ta hãy tín thác ông bà cha mẹ và những người thân hữu đã qua đời nơi tình thương quan phòng của Chúa.  Amen!

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

From Langthangchieutim

HÃY SỐNG TRONG SỰ THẬT

HÃY SỐNG TRONG SỰ THẬT

Đêm kia tại một làng đánh cá bên Ấn Độ, một ngư phủ nghèo lẻn vào trong hồ cá của một người nhà giàu để thả lưới.  Nhưng chưa kịp kéo lưới lên thì bị người giàu phát hiện.  Người này cho gia nhân bủa đi khắp nơi quanh cái hồ mênh mông của mình để bắt cho bằng được tên trộm. 

Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp nơi mà không thấy bóng dáng tên trộm đâu cả.  Trong khi đó thì anh ngư phủ nghèo lấy tro rắc lên đầy mình và đến ngồi dưới một gốc cây gần đó y hệt một nhà hiền triết hay một đạo sĩ.

 Sau nhiều giờ tìm kiếm, đám gia nhân không thấy kẻ trộm mà chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đang đắm mình trong suy tư và cầu nguyện.  Chỉ một ngày hôm sau tiếng đồn đã vang đi khắp nơi rằng có một đạo sĩ đang tu luyện dưới gốc cây bên bờ hồ của nhà phú hộ.

 Thế là thiện nam tín nữ từ các ngã đường đổ xô đến gốc cây để chiêm ngưỡng vị tu hành.  Người thì mang hoa quả, kẻ thì mang tiền bạc.  Không mấy chốc mà quà cáp tuôn đổ tràn lan quanh nhà tu hành bất đắc dĩ.

 Nhà tu hành mới nhủ thầm trong bụng: Thà đánh lừa bà con để sống còn hơn là đánh cá suốt ngày mà chẳng được gì.  Nghĩ như thế rồi, ông ta tiếp tục đóng vai tu hành, ngày đêm tụng niệm và chờ đợi sự tiếp tế của dân làng.

 Anh chị em thân mến, “Chiếc áo không làm nên thầy tu.”  Người đánh cá bất đắc dĩ phải trở thành vị tu hành trên đây có thể là một hình ảnh không xa lạ bao nhiêu đối với chúng ta.  Một cách nào đó, có khi chúng ta cũng sơn vẽ cho mình một nước áo đạo đức để đánh lừa bà con và đánh lừa chính mình như những Luật Sĩ và Pharisêu giả hình mà hôm nay Chúa Giêsu kịch liệt chống đối.  Họ thường phô trương, tự phụ, tranh giành địa vị, tìm kiếm danh vọng.  Họ chép những câu Kinh Thánh đeo lên trán, buộc vào cổ tay, để chứng tỏ họ ghi nhớ và tuân giữ luật hơn bất cứ ai khác.  Khi đi dự tiệc, họ phải ngồi vào chỗ danh dự.  Ở Hội đường, họ phải ngồi chỗ nhất và ở nơi công cộng, họ đòi được chào kính, xưng hô là Thầy.  Họ muốn tôn mình lên cao hơn mọi người.

Ngược lại với thái độ đạo đức giả và kiêu căng tự phụ của những Luật Sĩ và Pharisêu.  Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ và cũng là cho cộng đoàn Kitô hữu chúng ta, một thái độ sống chân thật: đó là phong cách thể hiện tình huynh đệ, sự bình đẳng và tinh thần phục vụ.  “Anh em chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo, là Đức Kitô.  Anh em chỉ có một Cha, là Cha trên trời.  Còn tất cả anh em đều là anh em với nhau.”  Vì thế, “trong anh em, người làm lớn hơn cả phải làm đầy tớ anh em”.

Thưa anh chị em, đọc đoạn Tin Mừng hôm nay, tất cả Giáo Hội của Chúa Kitô, từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân phải bình tâm suy nghĩ.  Những lời Chúa nói trước các Luật sĩ và Pharisêu ngày xưa phải có tiếng vọng đến chúng ta ngày nay.  Pharisêu không còn, nhưng não trạng pharisêu chưa chết, vẫn còn sống mãi.  Giáo Hội qua các thời đại phải nhìn nhận rằng những phô trương lòe loẹt, chủ nghĩa hiếu thắng trần tục (triomphalisme) đã đi vào trong hàng ngũ Giáo Hội.  Những chức tước, áo mũ cân đai, cờ quạt, kiệu rước… đã làm hoen ố đi hình ảnh một Giáo Hội chân thật, một “Giáo Hội nghèo của người nghèo.”  Công Đồng Vatican II đã bỏ đi nhiều những điều phù phiếm đó và muốn cho Giáo Hội mang khuôn mặt đích thực của Chúa Kitô khiêm tốn, phục vụ.

Đức Cha Bernard Topel (1903-1986) Giám Mục giáo phận Spokane, Wa. Hoa Kỳ, đã viết trên báo của Giáo phận: “Trong thời kỳ họp Công Đồng, các Giám Mục thường hay nói về Giáo Hội như Giáo Hội của người nghèo, tôi nghe mà sinh bối rối, vì tôi chưa thấy chúng ta là Giáo Hội của người nghèo chút nào cả!”  Từ cái bối rối này, Đức Cha Topel đã thực thi Công Đồng cách quyết liệt gần như Thánh Phanxicô Assisi thực thi Tin Mừng: Đức Cha đã bán Tòa Giám Mục, nhẫn vàng, thánh giá, giây đeo và gậy cẩn ngọc thạch để lấy tiền giúp người nghèo.  Với bốn ngàn đô, Ngài mua một căn nhà ở ngõ cụt để làm tư dinh.  Sau giờ làm việc, Ngài về làm vườn, trồng rau, xin đầu cá nấu ăn.  Nhiều người không tán đồng, họ nói: “Vua thì phải sống cho ra Vua, Chúa thì phải sống cho ra Chúa, Giám mục thì phải sống cho Giám mục.”  Nguyên là thạc sĩ toán học, Đức Cha trả lời: “Không phải là kết toán làm thành bài toán.  Bài toán chúng ta là phải trừ, chia và nhân: phải bớt tiêu xài xa hoa, để chia sẻ với những người nghèo khó, và nhân thêm niềm hy vọng sống xứng đáng cho họ.”

 “Trong anh em, ai lớn hơn cả phải là người tôi tớ phục vụ.”  Trong Nước Trời, không ai có quyền thống trị kẻ khác, tất cả chúng ta đều là anh em.  Ngay cả việc hành xử quyền bính, cho dù thuộc phạm vi dân sự hay tôn giáo, cũng chỉ là một hình thức phục vụ, Đức Giáo Hoàng tự nhận là “Tôi tớ của các tôi tớ” (Servus servorum).  Người cha, người mẹ trong gia đình, sở dĩ được các con cái quý mến là vì biết tận tụy phục vụ, hy sinh cho con cái.  Càng cho đi, càng được nhận lại, càng cho đi nhiều, càng được nhận lại nhiều hơn.  Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ.  Ngài đã tự hạ, vâng phục cho đến chết trên thập giá vì yêu thương loài người chúng ta.  Chính vì thế, Ngài đã được siêu tôn là Đức Chúa: “Ai tự hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.  Ai tự tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống”.

Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu tỏ ra thông cảm và khoan dung đối với mọi người tội lỗi, mọi hèn yếu của con người.  Nhưng Ngài lại có thái độ khe khắt đối với thói giả hình của những người Pharisêu.  Ngài không ngừng kêu gọi các môn đệ của Ngài cẩn thận giữ mình kẻo vướng lây phải thói tật đáng ghét này.  Chúng ta giữ đạo, nhưng có lẽ chưa sống đạo.  Có khi chúng ta mang lớp sơn đạo đức bên ngoài mà thiếu thực chất của một lòng đạo đức chân thật bên trong.  Hãy sống trong sự thật trước mặt Chúa và anh chị em.  Nhờ khiêm tốn và phục vụ, chúng ta sẽ sống theo đúng đường lối của Chúa và dễ dàng sống với anh em như đòi hỏi của đức ái: mến Chúa – yêu người.

Trích trong “Niềm Vui Chia Sẻ”

From Langthangchieutim

NÊN THÁNH GIỮA ĐỜI

NÊN THÁNH GIỮA ĐỜI

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Theo giáo lý Công giáo, các thánh là những người sống tốt lành đạo đức trong cuộc sống trần gian, và nay, sau khi đã kết thúc hành trình trần thế, họ đang được hưởng hạnh phúc thiên đàng.  Khi sống ở đời này, họ đã kiên trì cộng tác với ơn Chúa, nỗ lực cố gắng để vượt qua những cám dỗ đời thường và sống trọn lành, thanh tịnh.  Giáo Hội Công giáo tôn những tín hữu này là những đấng thánh, vì họ phản ánh trung thành sự thánh thiện của Thiên Chúa.  Có những vị thánh đã trung kiên theo Chúa và làm chứng cho Ngài, dù phải đổ máu, như trường hợp các thánh tử đạo.  Các vị thánh theo đúng nghĩa là những vị được tôn phong và được tôn kính trên các bàn thờ.  Cũng có những vị thánh, dù không được Giáo Hội phong thánh, nhưng trước mặt Chúa, họ tinh tuyền thánh thiện và đang cùng với triều thần ca ngợi vinh quang của Đấng Tối Cao.  Trong số đó, có những người thân của chúng ta, có những người suốt đời âm thầm gieo hạt công bình bác ái, có những người chỉ đơn giản chu toàn bổn phận của mình một cách trọn vẹn, có những người dù nghèo khổ, cơ hàn, bệnh tật, nhưng vẫn vững một niềm cậy trông.

Từ buổi sơ khai của Giáo Hội, những người tin Chúa và gia nhập Đạo được gọi là “các thánh” hoặc “dân thánh.”  Thánh Phaolô, trong các thư giáo huấn của ngài, đã để lại cho chúng ta những chứng từ này (x. 1Cr 1,2).  Họ hiệp thông với nhau trong kinh nguyện, trong đời sống và trong những nghĩa cử chia sẻ bác ái.  Nhờ lời giảng dạy của các tông đồ, họ say sưa tìm kiếm Đấng quyền năng vô biên mà họ gọi là Thiên Chúa.  Ngài là Đấng ngàn trùng chí thánh, hoặc là Nguồn của mọi cội nguồn.  Đức tin khẳng định với họ, Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ muôn loài.  Con tim nói với họ, Chúa là Đấng đáng yêu mến và kính tin.  Hành trình đức tin của họ cũng là hành trình tìm kiếm Chúa.  Những con tim khao khát Chúa chẳng bao giờ thỏa mãn, vì càng khám phá ra Chúa, thì lòng ao ước muốn kết hợp lại càng thâm sâu mãnh liệt hơn.  Thánh Augustinô là một ví dụ điển hình.  Ngài đã viết: “Lạy Chúa, Ngài đã dựng nên chúng con để hướng về Ngài và tâm hồn chúng con không nghỉ ngơi cho đến khi nghỉ yên trong Ngài.”

Nên thánh là mục đích của đời sống Kitô hữu. “Chúng con hãy nên thánh, vì Ta là Thánh” (Lv 11,45).  Đó là lời mời gọi từ thời Cựu ước.  Chúa Giêsu không tách biệt khỏi giáo huấn của truyền thống, Người tiếp nối lời mời gọi ấy: “Hãy nên thánh thiện như Cha các con trên trời là Đấng thánh thiện” (Mt 5,48).  Nên thánh vừa là một chuỗi cảm nghiệm sự ngọt ngào của ân sủng, vừa là một cuộc chiến đấu gian nan không ngừng.  Bởi lẽ, con người sống ở trần gian như giữa sóng cả ba đào, phải khôn ngoan bền chí mới có thể đứng vững.  Sống trên đời là đi vào cuộc giao tranh khốc liệt giữa thánh thiện và tội lỗi, giữa cái thanh tao và dung tục, giữa ánh sáng và tội lỗi, giữa chọn lựa Thiên Chúa và chọn lựa thế gian.  Cuộc giao tranh ấy xảy đến mỗi ngày, rất nghiệt ngã cam go.  Trong lịch sử, có nhiều người đã kiên gan trung tín, chiến thắng ba thù (ma quỷ, thế gian, xác thịt) để nên hoàn thiện.  Tuy vậy, cũng có những người không bền tâm vững chí, ngã gục trước những cám dỗ của cuộc đời.  Dù thế nào đi nữa, chúng ta vẫn không mất hy vọng.  Thiên Chúa là Cha yêu thương không bỏ rơi những ai cậy trông phó thác nơi Ngài. “Mỗi vị thánh đều có một quá khứ, mỗi tội nhân đều có một tương lai”, những người đã một thời lầm lỗi, nay nhận ra con đường chân lý để sám hối trở về, sẽ được Chúa yêu thương tha thứ và giang rộng vòng tay thân thương đón nhận.  Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” trong Tin Mừng Thánh Luca đã chứng minh điều ấy.  Trong cuộc chiến đấu này chúng ta không đơn lẻ một mình, vì có Chúa luôn ở cùng với chúng ta.  Cùng với ơn Chúa, chúng ta còn sự nâng đỡ của cộng đoàn đông đảo các thánh trên trời, tức là những người đã đạt tới sự hoàn thiện.  Ngoài ra, chúng ta còn có tình hiệp thông huynh đệ của anh chị em tín hữu trong Giáo Hội, điều mà chúng ta gọi là “Mầu nhiệm các thánh cùng thông công.”  Nhờ sự hiệp thông huynh đệ này, chúng ta vững tin bước đi trong cuộc đời mà không còn sợ vấp ngã.

Nếu hiểu các thánh là những người, qua cuộc sống của mình, phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa Tối Cao, thì trong cuộc sống xung quanh ta, có rất nhiều vị thánh.  Thiên Chúa là Đấng Chí Thánh.  Ngài là nguồn mạch của sự thánh thiện.  Ngài là khởi nguyên của Chân, Thiện, Mỹ.  Tất cả những gì con người thực thi trong cuộc sống, nếu đó là những việc tốt, nhằm đem lại niềm vui và ích lợi cho mọi người, đều hướng về Thiên Chúa và đang góp phần xây dựng vương quốc của Thiên Chúa nơi trần gian.  Vương quốc của Thiên Chúa là vương quốc tình yêu, công bình, bác ái.  Vì vậy, những việc làm xây dựng công bình bác ái và nối kết yêu thương đều làm cho vương quốc ấy sớm được thực hiện nơi trần thế này.  Xung quanh chúng ta, có những người đang âm thầm làm việc góp phần xây dựng công ích.  Họ là những thiện nguyện viên, tham gia những hoạt động bảo vệ môi trường, giúp đỡ người nghèo, mở mang đường sá, khai thông cống rãnh.  Họ cũng là những chị lao công âm thầm làm việc, những bác xích lô nghèo nhưng chân chính thanh bạch.  Họ là những thày cô giáo, vượt non cao đem cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số câu văn cái chữ, nhằm giúp các em hội nhập với thế giới hiện đại và có một tương lai tốt đẹp.  Họ còn là những nghệ sĩ, văn sĩ, thi sĩ, đam mê thể hiện cái đẹp qua các tác phẩm của mình, để rồi, giúp cho độc giả, thính giả và khán giả khám phá vẻ đẹp diệu kỳ của Đấng làm nên vẻ đẹp của thiên nhiên vũ trụ và cuộc sống con người.  Những người này đang cố gắng để diễn tả Chân, Thiện, Mỹ ở nhiều khía cạnh khác nhau.  Người tín hữu tin rằng, vinh quang của Thiên Chúa phản chiếu nơi con người và mọi tạo vật.  Bởi lẽ khi sáng tạo, Thiên Chúa đã nhận định “mọi sự là tốt đẹp” (x St 1,31).  Khi chuyên cần lao động cũng như khi để tâm suy tư và tâm huyết sáng tạo, người lao động nói chung và người nghệ sĩ nói riêng đang cố gắng để làm cho những điều tốt đẹp hiện hữu trong cuộc đời.  Thánh Gioan Phaolô II Giáo Hoàng đã viết: “Đẹp là hình thức bên ngoài của cái tốt, cũng như tốt là điều kiện siêu hình của cái đẹp.  Người Hy Lạp rất hiểu rõ việc này, nên họ kết hợp hai khái niệm ấy, tạo nên một thuật ngữ bao gồm cả hai khái niệm đó là “kalok-agathia” hay “tốt đẹp”(Thư gửi các nghệ sĩ, năm 1999, số 3).  Ngài còn viết: “Bởi đó, Thiên Chúa cho con người hiện hữu, trao cho con người nhiệm vụ của những nghệ nhân.  Chính qua hoạt động sáng tạo nghệ thuật ấy mà hơn bao giờ hết, con người cho thấy mình “giống Thiên Chúa” (Sđd, số 1).  Cái đẹp giúp ta nâng tâm hồn để gặp gỡ Đấng Tối Cao.  Nhà văn người Nga Dostoievski còn khẳng định: “Cái đẹp cứu chuộc thế giới.”  Trong xã hội hôm nay, người ta có khuynh hướng để ý nhiều đến những vụ việc gây ấn tượng mạnh, hay những tin tức giật gân.  Nhiều người cũng thường chú trọng đến những thông tin hoặc vấn đề tiêu cực mà không quan tâm đến những việc tích cực.  Quả vậy, công bằng mà nói, dù cuộc sống này có nhiều xáo trộn, bạo lực, nhưng đây đó vẫn có những cá nhân hay tập thể đang âm thầm làm cho cuộc sống thêm tốt đẹp.  Họ làm việc mà không cần được tôn vinh ca ngợi.  Dù thuộc tín ngưỡng tôn giáo nào, họ đang góp phần phản ánh sự thánh thiện của Thượng Đế.  Họ là những vị thánh giữa đời.

Không có ai sinh ra đã đương nhiên trở thành thánh.  Nên thánh là kết quả của những cố gắng suốt cuộc đời.  Mỗi chúng ta đều được mời gọi đạt tới mục tiêu cao cả ấy.  Hãy nên thánh từ ngày hôm nay, trong hoàn cảnh và bổn phận cụ thể của mỗi người, âm thầm, khiêm tốn, nhưng có giá trị giúp chúng ta nên hoàn thiện.  Hãy trở nên những vị thánh giữa đời, để trần gian này trở thành vương quốc bình an và công chính, là phác thảo của đời sau, nơi chúng ta sẽ được gặp gỡ, chiêm ngưỡng và tôn vinh Thiên Chúa, Đấng ngàn trùng chí thánh.  Ngài là mẫu mực và là Cha Chung của chúng ta.

Gm Giuse Vũ Văn Thiên