MÙI HƯƠNG CỦA ĐỨC KHIÊM NHƯỜNG

MÙI HƯƠNG CỦA ĐỨC KHIÊM NHƯỜNG

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Mùi hương của đức khiêm nhường Theo Isaac người Syria, giám mục và là nhà thần học nổi tiếng ở thế kỷ thứ 7, một người thực sự khiêm nhường là người tỏa ra một hương thơm nhất định nào đó mà người khác sẽ cảm nhận được và ngay cả động vật cũng cảm nhận đến mức mà các động vật hoang dã kể cả rắn cũng bị thu hút và không bao giờ dám làm hại người này.

Và đây là lập luận của ngài, ngài tin rằng một người khiêm nhường tìm thấy được mùi hương của thiên đàng, khi đứng trước một người như vậy, chúng ta không cảm thấy mình bị phán xét, không có gì để sợ, và điều này đúng với cả động vật.  Họ cảm thấy an toàn bên cạnh người khiêm nhường và bị người đó thu hút.  Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy những người như Thánh Phanxicô Assisi có thể nói chuyện với chim muông và kết bạn với chó sói.

Dù đẹp như thế nào, có phải đây là câu chuyện cổ tích ngoan đạo hay đây là một ẩn dụ phong phú và nguyên mẫu?  Tôi thích nghĩ đây là ẩn dụ phong phú và có thể có một cái gì còn hơn nữa.  Quả vậy, đức khiêm nhường có một mùi hương, mùi của đất mùn, đất thó, mùi của thiên đàng.

Nhưng như thế nào?  Bằng cách nào mà một đức tính thiêng liêng lại tỏa ra một mùi hương vật lý? 

Chúng ta có tâm thế, là những tạo vật vừa có thể xác vừa có tâm linh.  Vì thế trong chúng ta, thể chất và tâm linh là một phần của một và cùng một thực thể mà nó không thể nào tách cái này ra khỏi cái kia.  Cơ thể và tâm hồn chúng ta cũng giống như đường có màu trắng và có vị ngọt, độ trắng và độ ngọt không thể nào tách riêng ra được.  Cả hai có bên trong đường.  Chúng ta là một thực thể, không thể tách rời, là thể xác và tâm hồn, như thế luôn vừa là thể lý vừa là tâm linh.  Vì vậy, trên thực tế, chúng ta cảm nhận những chuyện về thể chất một cách thiêng liêng, cũng như ngửi những chuyện thiêng liêng qua các giác quan thể lý của mình.  Nếu điều này đúng, thì quả thật khiêm nhường tỏa ra mùi hương có thể cảm nhận được về mặt thể xác và khái niệm của Isaac người Syria không chỉ là một ẩn dụ.

Nhưng nó cũng là một ẩn dụ: chữ khiêm nhường có nguồn gốc từ tiếng la-tinh là mùn (humus) có nghĩa là đất: nếu chúng ta chấp nhận định nghĩa này thì người khiêm nhường mà chúng ta biết là người sát đất nhất, và người có nền tảng nhất.  Người khiêm nhường có bàn chân đạp đất, là tiếp xúc với đất, mang mùi đất.  Hơn nữa, khiêm nhường là lấy chỗ hợp pháp như một mảnh nhỏ của đất, chứ không phải như một con người hay một cái gì đó tách khỏi đất.

Nhà thần nghiệm và khoa học gia nổi tiếng Pierre Teilhard de Chardin đôi khi đã diễn tả điều này trong lời cầu nguyện của ngài.  Trong nhiều năm, với tư cách là nhà cổ sinh vật học, ngài làm việc một thời gian dài trong các sa mạc hẻo lánh ở Trung quốc, có khi ngài soạn các lời cầu nguyện cho Chúa dưới hình thức mà ngài gọi đó là Thánh lễ cho thế giới.  Nói chuyện với Chúa trong tư cách linh mục, ngài kết hiệp tiếng nói của mình với chính tiếng nói của đất, nơi sự sáng tạo vật lý chính là đất, nền của đất, để có thể mở ra và nói chuyện với Chúa.  Là linh mục, ngài không nói cho đất; ngài nói như là đất, cho đất một tiếng nói, với những chữ có tác động:

Lạy Chúa, con đứng trước mặt Chúa như một sinh linh bé nhỏ của đất, để cho đất có tiếng nói: xin Chúa nhìn đến sự mở lòng ra của con, sự mở lòng ra của thế giới, sự bất trung của con, sự bất trung của thế giới; trong sự chân thành của con, sự chân thành của thế giới, trong đạo đức giả của con, trong đạo đức giả của thế giới; trong sự quảng đại của con, sự quảng đại của thế giới, trong sự quan tâm của con, sự quan tâm của thế giới, trong sự xao lãng của con, sự xao lãng của thế giới; trong ước muốn ca ngợi Chúa của con, trong ước muốn ca ngợi Chúa của thế giới, trong lợi ích riêng của con, trong sự quên lãng Chúa của thế giới.  Vì con là đất, là chút đất nhỏ, chút đất mở ra hoặc khép lại qua cơ thể của con, tâm hồn và tiếng nói của con.

Đây là khiêm nhường, một biểu hiện của khiêm nhường đích thực.  Khiêm nhường không bao giờ được nhầm lẫn với hình ảnh bản thân bị tổn thương như chúng ta thường thấy, với sự dè dặt quá mức, với sự rụt rè và sợ hãi hay với một nhận thức quá nhạy cảm về mình.  Thường thường khái niệm một người khiêm nhường là khái niệm về người nhận lỗi khi mình có lỗi, người không nhận lời khen (dù mình xứng đáng), người quá rụt rè để không thể thân tình tin tưởng thổ lộ, hay người quá sợ hãi hoặc tự ti ý thức, lo lắng sợ xấu hổ để không bao giờ mở lòng đi tới trước, và tặng cộng đoàn món quà của mình.  Những điều này có thể là những điều của người hiền lành và quên mình, nhưng do chúng ta chê chính mình khi phủ nhận tài năng của mình, đây là khiêm nhường giả tạo và xét cho cùng, chúng ta biết điều này, vì vậy điều này thường làm cho một người nào đó che giấu sự giận dữ của mình sẽ dễ trở thành người gây hấn thụ động.

Người khiêm nhường nhất mà các bạn biết là người vững chãi nhất, có nghĩa là người biết họ không phải là trọng tâm của trái đất nhưng cũng biết họ không phải là một mẫu vụn đất hạng hai.  Và người đó sẽ tỏa ra một mùi hương mang cả hương thơm của thiên đàng (món quà thần thánh) cũng như mùi hương của trái đất.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Suyniemhangngay1 

KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO: VAI TRÒ CỦA MỖI KITÔ HỮU

KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO: VAI TRÒ CỦA MỖI KITÔ HỮU

 Người Giồng Trôm

          Từ ngày lãnh bí tích Thanh Tẩy, người Kitô hữu nhận trong mình 3 sứ vụ: tư tế – ngôn sứ và vương đế.  Một trong ba sứ vụ đó – ngôn sứ – mỗi người được mời gọi cũng như phải có trách nhiệm với ơn gọi của mình.  Và, nhất là trước khi về Trời, Chúa mời gọi: “Các con hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.”  Với lời này, mọi người phải nhớ nhiệm vụ loan báo Tin Mừng là không phải của riêng ai.  Có người thầm nghĩ là của giám mục, linh mục, tu sĩ hay người thuộc Ban Truyền Giáo…  Và như thế, cần phải cân chỉnh lại cách nhìn và nhất là cân chỉnh đời sống của mình.

          Người ta vẫn thường nói có đạo rồi phải giữ đạo và chuyện này rất quan trọng.  Hay hơn thế nữa khi ta nghe nói “tin đạo chứ đừng tin người có đạo.”  Thật đau lòng và suy nghĩ cho những người có đạo.  Những người có đạo có thật sự giữ đạo hay không và có để người khác tin rằng mình có đạo hay không?  Hay mình chỉ là người đóng mác nhãn Kitô mà thôi, còn trong người mình chả có một chút gì Kitô cả.

          Ngày nay, hơn bao giờ hết, sứ mạng truyền giáo vẫn là sứ mạng căn cốt của người Kitô hữu.  Chả phải cứ lên đường loan báo Tin Mừng hay dự các hội thảo hội nghị, hay ra định hướng là truyền giáo.  Chuyện cần thiết nhất là phải sống cùng, sống với, và sống cho người khác như Đức Kitô thì mới gọi là truyền giáo.

          Nếu nhắc đến truyền giáo mà không nhắc đến Đức Kitô quả là điều thiếu sót thật lớn và coi như chả có gì để nói.  Đơn giản vì chính Đức Kitô đã được Thiên Chúa, vì yêu thế gian đã ban cho con người để con người được cứu độ ngang qua cuộc đời hay nói đúng hơn là ngang qua đau khổ – cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô.

          Đức Kitô đã đến thế gian này và đón nhận kiếp người cũng như sống chết với con người với ơn gọi phục vụ ơn cứu độ.  Cái chết trên cây thập tự chính là lễ tế cuối cùng và tuyệt hảo nhất mà Chúa Giêsu đã dâng cho Chúa Cha để đền tội cho nhân loại hững hờ.  Cả cuộc đời Chúa Giêsu, đến thế gian không phải để được phục vụ nhưng đã phục vụ và làm giá chuộc cho nhân loại.  Nếu như Đức Kitô chỉ nhập thể nhưng không nhập thế thì coi như không hoàn thành sứ mạng và có thể xem ra vô ích.  Đức Kitô đã nhập thể và nhập thế.  Thật vậy, cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc (với các môn đệ), cùng đồng thân đồng phận với con người và nhất là đồng thân đồng phận trong con người tội lỗi để nâng người tội lỗi lên tầm cao mới là không chỉ sạch tội mà được ơn cứu độ.

          Nhìn lại cuộc đời của nhà truyền giáo vĩ đại nhất mọi thời đại ta thấy Đức Giêsu đã vùi đời mình trong thân phận làm người và gần gụi con người đến mức không còn mức nữa.  Chúa Giêsu đã cúi xuống để rửa chân cho các môn đệ và đã hủy đời mình ra không.  Chính vì như hạt lúa gieo vào lòng đất đó mà 12 hạt lúa khác và hàng ngàn, hàng vạn hạt lúa khác đã thối đi và sinh nhiều bông hạt.

          Và ta thấy, công cuộc loan báo Tin Mừng mãi mãi là sự giằng co của biết bao nhiêu người khi đứng trước sứ mạng to lớn ấy.  Tôi phải làm gì?  Tôi phải sống như thế nào?  Tôi không có tiền thì sao truyền giáo?  Tôi không tri thức sao truyền giáo?  Tôi không có sức khỏe sao truyền giáo?  Có khi do suy nghĩ quá mà người ta đâm ra lối loạn tâm thần.

          Ta cứ nhìn lại hành trình của những hạt lúa đã gieo vào lòng đất ít nhiều ta thấy cuộc đời của các Đấng như thế nào?  Một Têrêsa Hài Đồng Giêsu chỉ với 4 bức tường nhưng đã trở thành bổn mạng của các xứ truyền giáo.  Một Gioan Maria Vianney đã hy sinh cả đời mình để phục vụ trong sứ mạng mục tử.  Một Phanxicô Xavie đã dong duỗi trên mọi nẻo đường…  Mỗi người một cách thế nhưng rồi có một cách thế chung là rập đời mình theo mầu nhiệm Thánh Giá Chúa.

          Còn nếu nói phải nói gì thì hẳn ta nhớ Thánh Phaolô: “Khi tôi đến với anh em, tôi đã không nói những lời hoa mỹ nhưng đến với anh em bằng cả tấm lòng.”  Vâng!  Nếu dựa vào tiền bạc vật chất hay tài vặt để truyền giáo e rằng cần phải xem lại.  Khi ta vịn vào vật chất hay tài năng thì khi ấy ta đã lạc đường mất hướng.  Người ta sẽ không theo và tin anh khi anh giàu có ở giữa người nghèo đâu.  Người ta cũng chả tin anh khi anh nói hoa mỹ nhưng không sống như những gì anh nói.  Và nhất là ngày hôm nay người ta sợ anh định hướng lắm rồi hay không dám nói là người ta ngán ngẩm những con người định hướng.

          Khi và chỉ khi anh sống với người ta và cùng ăn cùng uống, cùng làm việc với người ta thì khi ấy anh mới nói cho người khác về một Đức Kitô khác đang sống trong anh.  Không khéo thì anh sẽ sống khác Đức Kitô chứ không phải là một Đức Kitô khác.

           Thực trạng đáng buồn là ngày hôm nay người ta nói nhiều quá và nói hay quá nhưng lại không sống.  Hội thảo, hội nghị người ta nói nhiều quá, người ta định hướng nhiều quá nhưng chưa bao giờ đưa ngón tay lay thử.  Ngày nay, người ta không cần định hướng nữa mà ngày nay người ta cần những người sống và chứng nhân.

          Thật thế, ta thấy Hội Nghị có mở ra, Hội Thảo có bàn thảo và định hướng cứ đánh máy thì cũng chẳng làm được gì khi không thấy nhân chứng sống.  Ngày xưa, Đức Kitô hình như không ngồi bàn giấy để định hướng loan báo Tin Mừng.  Ngày xưa, chính Đức Kitô đã sống định hướng của mình bằng chính đời sống thật của mình.

       

 Và như thế, nhân dịp Giáo Hội nhớ và mừng ngày khánh nhật truyền giáo, mỗi người chúng ta được dịp nhắc nhở chính mình về sứ mạng mà Chúa mời gọi.  Ta tự trả lời trước mặt Chúa về sứ mạng và ơn gọi của chúng ta.

          Nếu như không có sức lực và hạn chế về mọi mặt, Lời Kinh Mân Côi trong tháng truyền giáo ngoại thường này chắc chắn sẽ là sức hút mãnh liệt cho công việc loan báo Tin Mừng đã đang và sẽ đến với những vùng anh chị em chưa biết Chúa.  Nếu như còn sống và sinh hoạt với cộng đồng thì chính lời ăn tiếng nói, cách sống của mỗi người sẽ minh chứng cho người khác biết mình là ai.  Khi thật sự mình sống trong tư cách một người có Chúa thật thì khi ấy lực hút người khác vào Đức Kitô sẽ khác.

          Vẫn là những con người mong manh, mỏng dòn và yếu đuối, ta lại xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để trong hoàn cảnh sống, môi trường sống, ta hãy là người sống cùng, sống với, và sống cho người khác như Đức Kitô vậy.  Có như thế thì lời mời gọi truyền giáo trở nên sống động ngay trong chính cuộc đời của chúng ta.

Người Giồng Trôm

XIN MẸ THIÊN CHÚA GỞI CÁC THIÊN THẦN ĐẾN BẢO VỆ CHÚNG CON!

Gương chứng nhân của Sr. Minh Nguyệt
14- tháng 10-2012

XIN MẸ THIÊN CHÚA GỞI CÁC THIÊN THẦN ĐẾN BẢO VỆ CHÚNG CON!

.. Chúa Nhật 13-2-2005 Chị Lucia dos Santosêm ái trút hơi thở cuối cùng nơi Đan Viện Kín Cát-Minh Coimbra hưởng thọ 98 tuổi. Chị chào đời ngày 22-3-1907 tại làng Fatima bên nước Bồ-Đào-Nha.

Chị Lucia dos Santos cùng với 2 em họ Phanxicô và Giaxinta Marto được diễm phúc trông thấy Đức Mẹ MARIA hiện ra lần đầu tiên tại Fatima ngày 13-5-1917. Phanxicô Marto qua đời năm 1919 hưởng dương 11 tuổi và Giaxinta Marto qua đời năm 1920 hưởng dương 10 tuổi. Hai anh em Phanxicô và Giaxinta Marto được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong chân phước ngày 13-5-2000 trong Thánh Lễ trọng thể cử hành tại đền thánh Đức Mẹ ở Fatima.

Lúc sinh thời, Chị Lucia dos Santos đã viết một bức thư gởi các Cộng Đoàn Thánh Mẫu nói về tầm quan trọng, quyền lực và sức hữu hiệu của việc lần hạt Mân Côi như sau.

Anh chị em rất thân mến. Tôi khuyến khích anh chị em đọc lại và suy gẫm sứ điệp mà Đức Mẹ MARIA gởi đến chúng ta trong đó Đức Mẹ nói với chúng ta về quyền lực và sức hữu hiệu của Kinh Mân Côi. Kinh Mân Côi đạt mức thành công rất lớn trên Trái Tim THIÊN CHÚA và Trái Tim Con Chí Thánh của Ngài.

Vì vậy mà, trong những lần hiện ra, chính Đức Mẹ MARIA cũng dự phần vào việc lần hạt Mân Côi như nơi Hang Đá Lộ-Đức với thánh nữ Bernadette Soubirous (1844-1879) vào năm 1858, và tại Fatima khi hiện ra với tôi và Phanxicô cùng Giaxinta vào năm 1917.

Và chính trong lúc lần hạt Mân Côi mà Đức Mẹ MARIA xuất hiện từ đám mây rồi đứng trên cây sồi xanh và nói chuyện với chúng tôi từ trong ánh sáng của Đức Mẹ. Về phần tôi, từ Đan Viện Kín Cát-Minh ở Coimbra này, tôi hiệp ý với tất cả anh chị em để chúng ta cùng nhau tạo thành một mặt trận hùng mạnh đại đồng của kinh nguyện và của lời cầu xin.

Tuy nhiên xin anh chị em ghi nhớ rằng không phải chỉ riêng tôi góp lời cầu nguyện với anh chị em mà còn có toàn thể triều thần thiên quốc cùng hợp chung tiếng hát hòa điệu với các tràng kinh Mân Côi nhịp nhàng anh chị em đọc. Thêm vào đó cũng có các Đẳng Linh Hồn nơi Lửa Luyện Tội kết hợp lời nguyện xin tha thiết của các vị với lời khẩn cầu của anh chị em.

Ngoài ra ngay mỗi khi bàn tay anh chị em mân mê tràng chuỗi và bắt đầu lần hạt Mân Côi thì tức khắc các Thánh Thiên Thần và Các Thánh Nam Nữ cũng hòa nhịp với anh chị em trong lời Kinh.

Chính vì các lý do trên đây mà tôi khuyến khích anh chị em hãy sốt sắng lần hạt Mân Côi. Anh chị em hãy lần hạt Mân Côi với trọn tâm tình, với Đức Tin và cùng lúc hãy suy gẫm ý nghĩa các mầu nhiệm của Kinh Mân Côi. Tôi cũng xin nhắc anh chị em nhớ rằng đừng đợi đến khuya-lắc khuya-lơ mới lẩm nhẩm lời Kinh Kính Mừng. Đừng lần hạt Mân Côi khi anh chị em đã mệt-đừ sau một ngày lao công vất vả! Rồi xin anh chị em hãy lần hạt Mân Côi riêng hoặc lần hạt chung nơi cộng đoàn, lần hạt ở gia đình hay bên ngoài, lần hạt trong nhà thờ cũng như khi đi lại ngoài đường phố. Anh chị em hãy lần hạt Mân Côi với tâm tình đơn sơ như đi theo từng bước của Đức Mẹ MARIA và Con Dấu Ái của Đức Mẹ.

Anh chị em hãy lần hạt với trọn Đức Tin để cầu cho các trẻ em sắp sinh ra, cho người đau khổ, cho người đang làm việc cũng như xin cho người hấp hối được ơn chết lành.

Mỗi khi lần hạt Mân Côi anh chị em hãy hiệp ý với mọi người công chính trên toàn cõi địa cầu cũng như với tất cả các Cộng Đoàn Thánh Mẫu, nhưng nhất là anh chị em hãy lần hạt Mân Côi với trọn tâm lòng đơn sơ con trẻ, bởi vì, tiếng nói trẻ thơ thường hòa nhịp êm ái với tiếng hát du dương của Các Thánh Thiên Thần.

Đã không có biết bao nhiêu lần, chỉ một tràng hạt Mân Côi thôi, đủ để làm nguôi cơn thịnh nộ của THIÊN CHÚA Chí Công khiến THIÊN CHÚA tuôn đổ Tình Yêu từ bi thương xót của Ngài trên thế giới và cứu được nhiều linh hồn khỏi hư mất và bị trầm luân đời đời trong Lửa Hỏa Ngục. Chính với tràng chuỗi Mân Côi, với việc sốt sắng lần hạt Mân Côi mà chúng ta sớm được trông thấy ngày Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ MARIA chiến thắng trên thế giới.

Tôi xin ưu ái ôm hôn tất cả anh chị em.

Ký tên: Nữ Tu Lucia dos Santos.

Tại sao người Công Giáo vinh dự làm dấu và cầu nguyện trước khi ăn?

CHUAYEUCON.COM
LÀM DẤU LÀ CHUYỆN RẤT NHỎ, RẤT VẶT VÃNH, NHƯNG ĐỪNG COI THƯỜNG VIỆC NHỎ, VÌ LỖ NHỎ CÓ THỂ LÀM ĐẮM CHÌM TÀU LỚN. MỘT GIA ĐÌNH CÔNG GIÁO MÀ KHÔNG CẦU NGUYỆN TRƯỚC KHI ĂN, SẼ TRỞ THÀNH MỘT GIA ĐÌNH NGOẠI GIÁO. MỘT NGƯỜI CÔNG GI...

Tiếng khóc trong rừng

Tiếng khóc trong rừng   

Bên cạnh Làng Cùi Di-Linh, tỉnh Lâm Ðồng, có ngôi mộ của Ðức Giám Mục Jean Cassaigne (Gioan Sanh,) vị sáng lập giáo xứ và làng cùi tại Di-Linh. Trên bia mộ Ðức Giám Mục De Cassaigne, có khắc hai dòng chữ sau đây:

“Tôi xin những người nào, mà khi còn sống, tôi không giúp đỡ được gì, hãy tha lỗi cho tôi”.

“Tôi xin những người nào, mà khi còn sống, tôi đã nêu gương xấu, hãy tha lỗi cho tôi”.

Ngay sau khi Ðức Cha Jean Cassaigne tấn phong Cha Simon Hòa Hiền (cựu Giám Mục Ðịa Phận Ðàlạt) năm 1955, thay vì về lại Pháp là nơi Ðức Cha Cassainge đã lớn lên, Ngài đã trở lại để vui sống với anh em bệnh nhân trại cùi, một làng nhỏ chính tay Ngài tạo dựng mấy mươi năm về trước. Tại làng nhỏ bé này, Ngài vừa làm Cha sở, Thầy giảng, Giám đốc, Y tá, chăm nom chu đáo cho tất cả bệnh nhân mọi tôn giáo, trẻ già, với sự cộng tác nhiệt thành của các sơ dòng Bác Ái Vinh Sơn. Ngài quyết tâm sống chết với con cái cùi hủi của Ngàị

Trong cuốn “Lạc Quan Trên Miền Thượng” do Linh Mục Giuse Phùng Thanh Quang viết vội vào năm 1972 về cuộc đời hy sinh cho người cùi của Ðức Cha Cassaigne, lúc Ðức Cha Cassaigne đang đau quằn quại thê thảm với những cơn đau khủng khiếp cuối đời. Một đời hy sinh thật cao quý của Ðức Cha Cassaigne mà có lẽ nay còn rất ít người có biết và nhớ đến.

Cha Cassaigne được thụ Phong chức Linh Mục năm 1925 tại chủng viện Rue du Bac của Paris. Qua Sài Gòn ngay sau đó và nhận nhiệm sở thí điểm truyền giáo vùng ma thiêng nước độc Di Linh (DJIRING) năm 1927. Ngài đã yêu thương những người “Mọi cùi” đến độ đã sống giữa người cùi, tắm rửa, săn sóc cho những người cùi, đã thương yêu họ cho đến khi họ chết. Cha Cassaigne đã kể một câu chuyện có lần Ngài giúp những người cùi thức ăn gồm có gạo, muối, và thịt naị Có một bà cùi hàng tuần đến lấy phần ăn, nhưng tuần đó không thấy đến. Cha Cassaigne đến lều tranh tìm bà thì thấy bà ta sắp chết với mủ nhớt nhầy nhụa, mùi hôi thối không chịu được xông ra từ mảnh thân héo tàn đáng thương xót nàỵ Cha vội lo dạy bà những điều về Thiên Chúa và hỏi bà ta có muốn Cha rửa sạch những tội lỗi để bà được lên Trời sau khi chết không? Người cùi đáng thương đồng ý được rửa tội và nói với Cha Cassaigne rằng:

 “Cau dờng! Ăn rơp kăh dơ mê dỡ ăn gũh rê hơ trồ”

“Ông lớn ơi! Tui sẽ nhớ đến ông khi tôi ở trên Trời”.

Cái chết tội nghiệp nhưng tốt lành của bà Thượng cùi đã làm khích động thật sâu xa tâm hồn Tông Ðồ của vị Linh Mục Thừa Saị Câu nói “Tôi sẽ nhớ Cha khi được ở trên Trời” là viên đá đầu tiên được đặt xuống để khởi đầu công cuộc thành lập làng cùi tại Di Linh.

Trong khoảng thời gian đó, ở miền Trung cũng như ở miền Nam nước Việt cũng có những trại cùi với số người bệnh tương đối ít. Trong khi ở vùng đất xa xôi có đến hàng trăm người cùi, lại không có chỗ cho họ ở. Theo lời Linh Mục Phùng Thanh Quang kể lại.

Một ngày cuối Thu năm 1928, trong chuyến đi thăm một làng Thượng xa, đang băng qua rừng vắng thì bỗng có tiếng chân nhiều người dồn dập từ trong vùng tối âm u, nhiều giọng la ú ớ kêu Ngài dừng lại. Những bóng dáng quái dị xuất hiện như một đoàn ma đói. Thân hình xác xơ, kẻ mất tay, người sức mũi, miệng chảy nước lòng thòng và tất cả hầu như què quặt. Họ mặc dù có người khập khiểng, có người vừa bò vừa lết, và đói, cố đuổi theo Cha bao vây lấy Ngài và tất cả đồng gào lên thảm thiết:

“Ơ cau dơng! Ơ cau dơng! Dăn nđàc sơngit bol hi!”

Ới ông lớn! Ới ông lớn! Xin thương xót chúng tôi!

Rồi tất cả sụp lạy Ngài và khóc rống. Cha Cassaingne vừa sợ hãi, vừa mủi lòng. Thì ra đây là nhóm người cùi bị xóm làng kinh tởm đuổi đi, họ tụ tập từng nhóm ngoài rừng xa, sống lây lất qua ngày để chờ chết. Có lẽ họ đã nghe lời đồn đãi về ông lớn làm thuốc và hay thương giúp người cùi này. Họ chờ Cha trên khúc đường vắng để nhờ Cha giúp đỡ. Vài ngày sau, đó, việc lập làng cùi Di Linh được xúc tiến ngay [3] Trong bài thuyết trình của Cha Cassaigne tại Sài Gòn năm 1943 về bệnh cùi khủng khiếp như thế nào, Ngài viết:

“Ở xứ Thượng cũng như hầu hết các xứ vùng nhiệt đới, nơi mà sự ăn ở sạch sẽ và phương pháp vệ sinh ít được lưu ý, thì con số người mắc bệnh cùi khá cao. Khi mà có thể còn làm việc được thì người mắc bệnh cùi vẫn còn được sống chung với gia đình. Nhưng đến khi thân tàn ma dại không làm gì được nữa, nhất là khi các vết ung thối bắt đầu phá miệng lở loét ra, mủ máu vấy đầy khiến những người chung quanh nhờm gớm kinh tởm không chịu được, thì dân làng đưa họ vào rừng, cất cho họ một túp lều tranh để người cùi ở lại đó một mình sống chết sao mặc kệ! Rồi yếu liệt cô đơn trong túp lều hiu quạnh, người cùi không còn sức làm gì nữa để kiếm ăn vì tay chân cụt mất rồi! Họ sẽ chết dần chết mòn một cách thảm khốc, sẽ gục ngã ở một xó kẹt nào đó rồi chết đi vì đói lạnh, mà chẵng có ai hay biết…”

Trước khi mắc bệnh, mỗi lần thuyết trình đến đây, cha Cassaigne không sao cầm được nước mắt, phần thì thấy thương những người xấu số, phần thì chắc Ngài cảm thấy lo âu sợ sệt như linh cảm thấy trước định mệnh sẽ đến, Ngài run sợ như chính mình đang mắc chứng bệnh nan y nàỵ

Các việc làm nhân đức của Cha Jean Cassaigne đã đưa Ngài từ một căn lều tranh để phục vụ người hủi tới tận tai Tòa Thánh La Mã. Ngài được bổ nhiệm chức Giám Mục và Ngài phải tuân lệnh Toà Thánh về làm việc tại Ðiạ Phận Sài Gòn. Trong hơn 14 năm giữ chức vụ này Ðức Giám Mục Cassaigne đã đôn đốc thực hiện công cuộc bác ái, cứu trợ vật chất, ủy lạo tinh thần cho những người gặp cảnh bất trắc nghèo khó, di cư tị nạn, không phân biệt địa phương hay tôn giáọ Vì nhớ đám dân cùi, Ngài xin từ nhiệm chức Giám Mục Sài Gòn để trở về băng bó vết thương tinh thần và vật chất cho những đứa con cùi hủi của Ngài tại làng cùi Di Linh.

Vì sống một đời sống quá khắc khổ trong rừng nên Ðức Cha đã mang nhiều bịnh nặng. Từ năm 1929, Ngài đã mắc bịnh sốt rét rừng. Năm 1943, bịnh cùi đã đến với Ngài vì sống gần gũi với người bịnh; từ năm 1957, bịnh lao xương làm không thuốc chữa Ngài đau đớn, và năm 1964, bịnh lao phổi trở lại hành ha thân Ngàị Ðức Cha đau đớn tột cùng với những cực hình thể xác, nhưng luôn luôn vững lòng chấp nhận để xin Chúa thương mà giảm bớt cái đau của những người hủi tại Việt Nam. Những ai may mắn sống gần Ðức Cha thường được nghe Người nói:

“Ðời tôi chỉ có ba ước nguyện: được chịu đựng, chịu đau, và chịu chết ở đây, giữa những người Thượng của tôi” (Je ne demande que trios choses: tenir, souffrir, et mourir ici, au milieu de mes Montagnards).

Chúa đã nhận lời cầu xin của Ðức Cha, đã cho Ngài mang lấy bốn chứng bệnh nan y. Ðã giúp sức cho Ngài chịu đựng quá lâu dài. Những ngày cuối cùng tuy đau đớn, nhưng Người vẫn đọc kinh cầu nguyện cho nước Việt Nam, cho các người cùi. Người nói:

“Suốt 47 năm dài, Cha đã sống giữa các con, đã sống tại Việt Nam này, và đã dâng hiến tất cả cho các con. Giờ đây, Cha không tiếc một điều gì về sự dâng hiến toàn diện ấy”.

Theo lời từ biệt của ông Nguyễn Thạch Vân, đọc trong lễ an táng Ðức Cha Cassaigne tại Di Linh ngày 11 tháng 5, năm 1973 kể lại, Cha Cassaigne còn nói:

“Việt Nam chính là quê hương của Cha, bởi vì Chúa muốn như vậy”.

Khi nói đến câu: “Nước Việt Nam là quê hương của tôi”. Ðức Cha chấp tay như để cầu nguyện, và Ngài khóc! Ðây là giòng lệ Thánh cầu nguyện của một Tông đồ Truyền giáo, đã tận hiến đời mình cho lớp người khốn khổ, bất hạnh nhất trên cõi đời này.

Năm 1972, Ðức Cha đã được trao tặng Ðệ Tứ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương trên giường bệnh và đã qua đời tại Di-Linh ngày 31-10-1073.

 

Trần Bá Lộc & Nguyễn Thị Lân

BÀI HỌC FATIMA CHO THÁNG MƯỜI

BÀI HỌC FATIMA CHO THÁNG MƯỜI

Chúng ta đang sống trong Tháng Mười, tháng biệt kính Đức Mẹ Mân Côi, chúng ta có thể nhớ lại những lần Đức Mẹ hiện ra và nói về Chuỗi Mân Côi.

Năm 1917, ba trẻ mục đồng ở Fatima, Bồ Đào Nha, đã được gặp Đức Mẹ tại Cova da Iria, nơi chúng đang chăn đàn chiên gần những ngọn núi gần nhà.  Lucia, Francisco và Jacinta đã đi vào lịch sử về lòng sùng kính các em dành cho Đức Mẹ vì sứ điệp mà các em có thể trao cho thế giới để cảm ơn Mẹ Thiên Chúa đã ưu tiên thăm viếng các em.  Đây là 10 bài học Đức Mẹ Fatima dạy về việc cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi.

  1. Cầu nguyện có chủ tâm

Khi Đức Mẹ gặp các em, chúng có thể nhận biết sức mạnh của lời cầu nguyện của chúng.  Khi người ta biết chuyện lạ, họ xin các em chuyển ý nguyện với Bà Đẹp mà các em gặp mỗi tháng vào ngày 13 tại Cova da Iria – từ tháng Năm tới tháng Mười.  Người ta trĩu nặng vì các vấn nạn của thế giới này, và luôn có nhiều ý nguyện để cầu xin.  Ba trẻ trở thành những chiến binh cầu nguyện thực sự, quyết tâm cầu nguyện cho người khác, kể cả các nhu cầu lớn lao của thế giới này.  Các em đặc biệt cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, cho các linh hồn và xin hòa bình cho thế giới.

  1. Kinh Mân Côi là cách tốt để suy niệm cuộc đời Đức Kitô

Mỗi ngày, một Kitô hữu có thể đọc Kinh Mân Côi và suy niệm về cuộc đời Đức Giêsu Kitô.  Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh và Lời Nguyện Fatima là nền tảng các mầu nhiệm về Sự Sống và Sự Chết của Đức Giêsu Kitô.  Bắt đầu mỗi chục kinh, một mầu nhiệm được chú ý để suy niệm, và chúng ta cùng sống mầu nhiệm của Đức Giêsu Kitô.

  1. Bình thường nên đọc Năm Chục Kinh

Đức Mẹ yêu cầu các em đọc trọn terço – tiếng Bồ Đào Nha nghĩa là cả năm chục kinh Mân Côi.  Cảm ơn Thánh Gioan Phaolô II, vì chúng ta ngày nay có thêm Năm Sự Sáng, và cảm ơn Chân phước Bartolo Longo, tổng cộng có 20 mầu nhiệm Mân Côi.  Có thể người ta không đủ kiên nhẫn đọc 15 chục kinh hoặc 20 chục kinh, nhưng 5 chục kinh là mức trung bình mà đa số chúng ta có thể thực hiện.

  1. Kinh Mân Côi là cách tốt để chống chiến tranh

Ba trẻ được gặp Đức Mẹ trong thời gian chịu nỗi thống khổ của Thế Chiến I.  Mặc dù các em không tiếp xúc với chiến tranh, nhưng các em được động viên cầu xin cho chấm dứt chiến tranh.  Các em nhận Chuỗi Mân Côi như một loại vũ khí khác để chấm dứt chiến tranh.

  1. Kinh Mân Côi là cách tốt để xin hòa bình

Ngoài việc cầu xin cho chiến tranh chấm dứt, Kinh Mân Côi còn là phương cách để đạt được sự bình an riêng mỗi cá nhân.  Ba trẻ trở nên những tông đồ đích thực của Kinh Mân Côi và có thể đạt được bình an nội tâm, mặc dù các em phải chịu nhiều đau khổ vì ý kiến của người khác – xã hội và gia đình.

  1. Kinh Mân Vôi là cách tốt để cứu các linh hồn

Lời nguyện Fatima sau Kinh Sáng Danh là lời nguyện cầu cho các linh hồn, lời nguyện này do chính Đức Mẹ dạy các em.  Lời cầu xin này thấm vào việc đọc Kinh Mân Côi thường xuyên, người ta trở nên quen cầu xin theo ý nguyện tốt lành: cầu xin Ơn Cứu Độ cho các linh hồn.

  1. Kinh Mân Côi là cách đối thoại riêng

Kinh Mân Côi có ảnh hưởng sâu sắc tới ba trẻ.  Các em lãnh nhận nhiều ơn lành nhờ được gặp Đức Mẹ, nhưng các em cũng cũng được giới thiệu cách sống đời sống cầu nguyện thực sự để giúp các em bước đi trên con đường đối thoại riêng.  Việc cầu nguyện thường xuyên làm thay đổi thái độ và ước muốn trong cuộc sống.

  1. Kinh Mân Côi là cách tốt để học cầu nguyện

Kinh Mân Côi ngắn gọn và dễ cầu nguyện.  Đó là cách tốt để học cầu nguyện.  Đó cũng là lời cầu nguyện vừa bằng lời nói vừa bằng tâm trí.  Sự lặp đi lặp lại các từ ngữ là lời cầu bằng lời nói và là cách cầu nguyện dễ dàng nhất.  Sự kết hợp với việc suy niệm các mầu nhiệm là lời nguyện tâm trí.  Như vậy, người đọc Kinh Mân Côi đi vào lời cầu nguyện, bắt đầu bằng những gì quen thuộc và chuyển tới những gì khó khăn hơn.

  1. Kinh Mân Côi là cách tốt để cầu nguyện liên lỉ

Kinh Mân Côi có thể trở nên thói quen tốt trong cuộc sống hằng ngày, giúp các Kitô hữu đáp lại lời động viên của Thánh Phaolô về việc cầu nguyện không ngừng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng.  Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh.  Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (1 Tx 5:16-18).  Đức Mẹ không yêu cầu ba trẻ đọc Kinh Mân Côi hằng ngày, nhưng cầu nguyện luôn luôn.

  1. Sự lặp đi lặp lại trong Kinh Mân Côi là tặng phẩm

Một số người cho rằng sự lặp đi lặp lại trong Kinh Mân Côi gây nhàm chán.  Tuy nhiên, sự lặp lại này làm cho người ta suy niệm ý nghĩa của các câu chữ và có thời gian để cầu nguyện.  Trong một thế giới tìm cách xâm chiếm cả các ý tưởng riêng, sự lặp lại trong Kinh Mân Côi giúp tạo nên khiên thuẫn để bảo vệ đời sống nội tâm của chúng ta.  Điều quan trọng nhất khi đọc Kinh Mân Côi là chúng ta đối xử với Đức Maria là Mẹ Hiền của chính chúng ta.

Lạy Đức Mẹ Fatima, xin cầu cho chúng con.  Lạy Hiền Mẫu của chúng con, xin nguyện giúp cầu thay.

Lm. Nicholas Sheehy, L.C (Legionaries of Christ – Dòng Đạo Binh Chúa Kitô)

Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

Cầu nguyện

Cầu nguyện:

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút im lặng, nghỉ ngơi.

Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa. Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người. Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.

 

Lạy Chúa,

Ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con. Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người. Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con. Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

ĐÓN NHẬN ƠN CỨU ĐỘ

ĐÓN NHẬN ƠN CỨU ĐỘ

 ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Chúa Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem để chịu khổ hình, hoàn thành việc cứu độ.  Chính lúc đi ngang qua Samaria, nhất là qua việc cứu chữa mười bệnh nhân phong, Chúa cho thấy một vài đặc điểm của ơn cứu độ.

Ơn cứu độ là phổ quát

 Chúa muốn cứu độ hết mọi người không loại trừ ai.  Nên Chúa đi qua Samaria.  Samaria là vùng đất cấm kỵ đối với người Do Thái.  Đó là vùng đất ngoại đạo.  Đó là vùng đất ô uế.  Người Do Thái và người Samaria không giao thiệp với nhau.  Nhưng Chúa đã vượt qua ranh giới cấm kỵ đó.  Chúa muốn đem ơn cứu độ đến cho mọi người.  Tại Samaria Chúa còn gặp gỡ mười người phong cùi.  Lại một cấm kỵ nữa.  Người phong cùi vốn bị coi là hạng người tội lỗi, ô uế.  Ai gặp họ đều trở nên ô uế.  Họ bị loại trừ ra khỏi đời sống xã hội.  Tại Samaria, những người phong cùi là những người ở tầng lớp cuối cùng của xã hội.  Chúa đem ơn cứu độ cho mọi người, kể cả những người bị khinh miệt nhất, bị quên lãng nhất, bị hất hủi nhất.  Ơn cứu độ Chúa ban cho tất cả mọi người.  Trước mặt Chúa mọi người đều bình đẳng.

Ơn cứu độ là nhưng không

 Không ai dám nghĩ đến việc mời Chúa xuống trần gian.  Không ai có công trạng gì khiến Chúa phải xuống trần gian để tưởng thưởng hay để đền đáp.  Chúa xuống trần gian hoàn toàn do lòng nhân từ yêu thương của Chúa.  Cũng thế, người Samaria hoàn toàn bất ngờ khi Chúa đến miền đất của họ.  Những người phong cùi lại càng không bao giờ dám mơ tưởng tới.  Bản thân họ đã bị lên án, bị loại trừ rồi.  Ngay việc gặp một người bình thường đã không được phép, huống chi là gặp gỡ Chúa.  Nhưng Chúa đã đến gặp gỡ họ, ban ơn cứu chữa họ.  Hoàn toàn nhưng không.  Họ chẳng có công gì.  Họ chẳng có quyền đòi hỏi gì.  Họ chỉ có nỗi đau khổ tột cùng.  Chính nỗi đau khổ đó đã khơi dậy lòng yêu thương của Chúa.  Vì Chúa là tình yêu thương.

Ơn cứu độ phải được đón nhận với niềm tin 

Tuy ơn cứu độ được ban rộng rãi và nhưng không, nhưng để đón nhận đòi phải có niềm tin.  Những người phong cùi hôm nay đã bày tỏ niềm tin qua hai thái độ.  Thái độ thứ nhất là đồng thanh lớn tiếng kêu cầu danh Chúa Giêsu: “Lạy Thày Giêsu, xin cứu chúng tôi.”  Danh Thánh Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa cứu.  Từ cùng tận nỗi đau khổ, những người phong cùi đã kêu van bằng tất cả tấm lòng tha thiết và với niềm tin vững chắc.  Chỉ có Chúa mới thương xót họ.  Chỉ có Chúa mới đủ quyền năng cứu chữa họ.  Thái độ thứ hai là đi trình diện với thày tư tế.  Chúa không chữa họ ngay nhưng bảo họ đi trình diện với thày tư tế.  Dù chưa được khỏi, nhưng họ vẫn tin tưởng lên đường.  Đang khi đi đường thì họ được khỏi.  Đức tin đã chữa họ.

Ơn cứu độ phải được đón nhận với niềm vui 

Đây là niềm vui trong mối tương giao giữa Thiên Chúa với con người.  Cốt lõi của ơn cứu độ là thiết lập mối tương giao, cho con người được trở nên con cái Thiên Chúa, đồng hưởng hạnh phúc với Chúa.  Đó là cội rễ của niềm vui, niềm hạnh phúc.  Chín người bệnh không trở lại chỉ có niềm vui được khỏi bệnh, nhưng không có niềm vui trong mối tương giao với Thiên Chúa.  Họ có đức tin cầu xin nhưng thiếu đức tin gặp gỡ với Thiên Chúa.  Niềm vui được khỏi bệnh rồi cũng sẽ nhạt phai.  Chỉ có một người trở lại tạ ơn.  Anh trở lại vì mối tương giao.  Anh nhận biết nguồn gốc niềm vui của mình.  Anh sụp lạy Chúa vì biết nguồn gốc hiện hữu của mình.  Anh đã tìm thấy nguồn cội ý nghĩa đời mình.  Niềm vui của anh sẽ còn mãi mãi.  Đời anh sẽ là một đời tạ ơn không ngừng.

Lạy Chúa, xin cho con biết tìm đến gặp gỡ Chúa để tạ ơn Chúa.  Chính niềm vui tạ ơn này đem đến cho con hạnh phúc suốt đời.  Amen.

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

From: Langthangchieutim

Nhận ra ân huệ Chúa ban

Nhận ra ân huệ Chúa ban

 Tác giả:  Lm Trần Ngà

(Suy  niệm Tin mừng Luca (17, 11-19) trích đọc vào Chúa nhật 28 thường niên năm C)

Vào thời Chúa Giê-su rao giảng Tin mừng tại Do-thái, bệnh phong hủi là căn bệnh khủng khiếp vô phương chữa trị. Người bệnh bị cách ly khỏi gia đình, làng mạc nên phải sống trong những nơi vắng vẻ, cô tịch. Cuộc sống còn tệ hơn cái chết.

May thay, có mười người phong tốt số được gặp Chúa Giê-su và được Ngài cứu chữa lành bệnh. Họ chỉ cần đến gặp các tư tế để kiểm tra trước khi được phép về đoàn tụ với gia đình, họ hàng, làng xóm.

Khi được chữa lành khỏi chứng bệnh khủng khiếp như thế và được phép về đoàn tụ với những người thân yêu… họ vui mừng hân hoan như kẻ chết sống lại. Ấy vậy mà trong mười người được chữa lành, chỉ có một người ngoại bang biết quay lại cám ơn Chúa Giê-su đã cứu chữa mình, còn chín người kia thì không!

Nhận được hồng ân lớn lao như thế mà không biết tạ ơn thì thật là những người vô ơn, bạc nghĩa rất đáng trách.

Tuy nhiên, chúng ta hãy nhìn lại mình, xem chúng ta thuộc thành phần nào trong hai thành phần trên đây? Là người biết tạ ơn vì những hồng ân mình lãnh nhận hay là vô ơn như chín người phong được chữa lành.

Tôi thuộc hạng người nào?

Một chén cơm ta ăn hằng ngày là thành quả của bao nhiêu lao công vất vả của rất nhiều người: Người nông dân phải bỏ công để chọn giống lúa tốt, phải thận trọng ủ giống mất một hai ngày, phải cày, bừa, trục, trạc… cho mặt ruộng sẵn sàng đón nhận những hạt giống gieo… Một khi đã gieo hạt xuống rồi, phải ngăn ngừa chim trời hay chuột đồng phá hại những hạt lúa mới nhú mầm, tiếp theo là cung cấp đầy đủ phân và nước cho lúa lớn lên, lo diệt côn trùng bảo vệ lúa… đến mùa thì lo thu hoạch, phơi phóng rồi nhập lúa vào kho.

Khi muốn chế biến lúa thành gạo thì phải lo xay xát, sàng sảy, rồi mới có thể đưa sản phẩm ra thị trường.

Để cho những hạt gạo đó biến thành cơm ngon thì người nội trợ lại phải tốn công nấu dọn cho người nhà ăn.

Như thế, mỗi chén cơm là một ân huệ Chúa ban, được kết tinh bởi vô vàn mồ hôi, lao nhọc, công sức của bao người. Vậy mà khi hưởng dùng chén cơm đó, có bao giờ chúng ta biết tạ ơn Chúa, tạ ơn những người đã chịu cực nhọc vất vả để cung ứng cho ta chén cơm đó chưa? Nếu ai chưa tạ ơn thì thuộc về nhóm chín người vô ơn trên đây rồi.

Người mẹ cưu mang con 9 tháng 10 ngày với bao ưu tư, khắc khoải. Khi đủ ngày đầy tháng, mẹ sinh con trong đau đớn và âu lo. Khi con chào đời, mẹ ấp ủ con với tất cả tấm lòng thương mến, canh chừng con khi con ngủ cũng như con chơi, bồn chồn lo âu khi con gặp hoạn nạn, thức trắng đêm bên giường khi con đau ốm, lo cho con từng miếng ăn, từng tấm áo, lao động gian lao vất vả đêm ngày để liệu cho con học thành tài… Đến khi con trưởng thành thì lo gầy dựng gia đình cho con…

Kể sao xiết công ơn của cha mẹ đối với con cái mình. Nhưng thử hỏi được bao nhiêu người nhận biết công ơn cha mẹ để đền ơn đáp nghĩa cho cân? Nếu ai quên thì thuộc về thành phần chín người phong hủi vong ân.

Bước sang lĩnh vực tâm linh, Chúa Giê-su tuy là Ngôi hai Thiên Chúa cao cả vô song, đã chấp nhận hạ mình xuống thế làm người phàm, gánh lấy tội lỗi muôn dân và hy sinh chịu khổ nạn, chịu chết đau thương để đền tội thay cho muôn người, chết thay cho nhân loại và nhờ đó, Ngài cứu muôn dân khỏi chết và mở cửa cho họ vào cõi trời vinh hiển. Vậy mà có được bao nhiêu người nhận biết hồng ân vô cùng cao quý đó đó để cảm tạ, tri ân? Nếu ai chưa cảm tạ hồng ân thì thuộc vào hàng ngũ chín người phong vô ân bạc nghĩa.

Khi chúng ta trợ giúp ai đó vài ba lần liên tiếp mà lần nào người nhận cũng quay đi không một tiếng cám ơn, thì chắc chắn lần sau, chúng ta không tiếp tục trợ giúp hạng người đó nữa, vì người vô ơn như thế thì không đáng được trợ giúp. 

Vậy thì khi chúng ta nhận được vô vàn ơn phúc Thiên Chúa ban trong từng phút, từng giây mỗi ngày, mà không biết tạ ơn Thiên Chúa thì chúng ta cũng chẳng xứng đáng để được Ngài ban ơn thêm.

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa ban cho chúng con vô vàn hồng ân không thể nào kể xiết. Xin giúp mỗi người chúng con nhận ra hồng ân vô giá Chúa ban và không ngớt dâng lời tạ ơn Chúa với tất cả tấm lòng yêu mến.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Tin mừng Luca 17, 11-19

11 Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê.12 Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa13 và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi! “14 Thấy vậy, Đức Giê-su bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Đang khi đi thì họ được sạch.15 Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa.16 Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri.17 Đức Giê-su mới nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu?18 Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này? “.19 Rồi Người nói với anh ta: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”

Tác giả:  Lm Trần Ngà

MẸ ĐẦY ƠN PHÚC

MẸ ĐẦY ƠN PHÚC

 ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên

Nhờ nhạc phẩm “Ave Maria”, tên tuổi của nhà soạn nhạc người Áo Franz Schubert được cả thế giới biết đến.  Tuyệt tác của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng.  Nhiều danh ca nhờ bài thánh ca này mà được nổi danh ở tầm mức quốc tế.  Thật tuyệt vời khi thấy Đức Trinh nữ Maria được ca tụng tôn vinh qua bài ca này.  Từ những đại nhạc hội hàng ngàn hàng vạn thính giả, đến những nghệ sĩ violon hát rong ngoài đường phố, tất cả đều ca lên lời chào Đức Trinh nữ Maria: Mẹ đầy ơn phúc.  Từ những tín hữu đạo đức đến những người vô tín ngưỡng, tất cả đều chăm chú cảm nhận những lời ca và âm điệu ngọt ngào của bài thánh ca để tôn vinh Mẹ Chúa Trời.

Ave Maria là lời chào của thiên sứ Gabrien khi đến gặp Đức Mẹ trong ngày truyền tin.  Thiên sứ từ trời cao, xuống trần để gặp một phụ nữ khiêm hạ.  Ave Maria vừa là lời chào, vừa là lời mời gọi hãy vui lên vì “Đức Chúa ở cùng Bà.”  Qua lời chào kính trọng ấy, thiên sứ tỏ bày sự cung kính trước người phụ nữ được Chúa chọn làm thân mẫu của Ngôi Lời nhập thể.  Khi muốn cứu chuộc con người, Thiên Chúa mời gọi sự cộng tác của một người phụ nữ.  Ngài đã chọn Đức Trinh nữ Maria như một “điểm đỗ” để Con của Ngài giáng trần.  Thánh Luca đã diễn tả cuộc gặp gỡ kỳ diệu ấy, là một cuộc gặp gỡ giữa trời với đất, giữa Thiên Chúa cao cả và con người phàm trần.  Trinh nữ Maria đã thưa lời “Xin vâng” để mở lòng đón nhận Ngôi Lời nhập thể.  Với lời thưa “Xin vâng” của Mẹ, Con Thiên Chúa đã đến thế gian, khởi đầu công cuộc cứu độ loài người.

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, trước hết là lời kinh ca ngợi.  Chúng ta hợp lời với sứ thần chào kính và ca tụng thiên chức cao cả của Đức Mẹ.  Mẹ là người được Thiên Chúa chọn lựa trong muôn người, để làm ngai tòa cho Đấng Cứu thế ngự khi đến trần gian, mặc lấy thân phận con người.  Lời Mẹ nói tiên tri về chính mình nay đã được thực hiện: “Từ nay, hết mọi đời, sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 2,48).  Qua cuộc đời của Mẹ, chúng ta ca tụng quyền năng vô biên của Thiên Chúa, đã thực hiện những việc lạ lùng.  Mẹ được tôn vinh làm Nữ Vương trời đất, cùng với Đức Giêsu là Vua Vũ trụ để chúc phúc cho muôn loài.

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, đó là lời kinh của niềm phó thác cậy trông.  Khi lần hạt Mân Côi, chúng ta xin Đức Mẹ cầu bầu cho chúng ta được những ơn lành phần hồn phần xác, nhất là được ơn trung thành như Đức Mẹ.  Lời kinh thấm nhập mỗi con tim, diễn tả tâm tư trìu mến của chúng ta dành cho Mẹ.  Lời kinh đem lại sự ngọt ngào mỗi khi chúng ta âu sầu đau khổ; đem lại hy vọng mỗi khi chúng ta gặp khó khăn thất bại; đem lại niềm vui mỗi khi chúng ta buồn bã; đem lại sức mạnh mỗi khi chúng ta yếu đuối; đem lại sự đỡ nâng mỗi khi chúng ta có nguy cơ gục ngã trên đường đời.  “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời”, đó là lời cầu nguyện của Giáo Hội, cũng là lời cầu nguyện của mỗi con tim, xin Đức Mẹ bầu cử cho chúng ta đang còn bước đi trong cuộc sống dương gian đầy gian nan thử thách.  “Kinh Mân côi không những kéo ơn trên trời xuống cho tội nhân, khiến họ mau mắn về với Mẹ, nhưng còn làm cho họ đứng vững trên con đường sùng kính mến yêu Mẹ.  Nơi nào đông người chuyên chăm lần hạt, nơi ấy giáo hữu tiến nhanh trên đường thánh thiện, trái lại nơi nào thờ ơ, giáo hữu sẽ lâm vào tình trạng hư hỏng” (Thánh Grignion de Monfort).

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, đó là lời kinh của tâm tình hiếu thảo chúng ta dâng lên Mẹ Thiên Chúa.  Có người thắc mắc tại sao phải lặp đi lặp lại nhiều lần kinh Kính mừng khi lần hạt Mân Côi.  Điều đó thật dễ hiểu!  Người con hiếu thảo nào cũng muốn nói ngàn lần lời yêu thương với cha mẹ mình mà vẫn chưa đủ.  Ngôn ngữ diễn tả tình yêu giống như dòng sông tuôn chảy mãi không dừng, cũng thế, những lời chào kính Đức Mẹ dù có lặp đi lặp lại là bằng chứng của tình mến chúng ta dành cho Đức Mẹ.  Kinh Mân Côi sẽ giúp khơi nguồn dòng chảy yêu thương từ nơi Đức Mẹ đến với chúng ta.

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, mỗi lời kinh là một bước đường đời dẫn ta đến gần Chúa hơn, và giúp chúng ta nên giống Chúa.  Bởi lẽ kinh Kính mừng được đọc trong tâm tình suy niệm, chiêm ngắm những mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Cứu thế, từ ngày Truyền tin cho đến khi Người sống lại và lên trời vinh quang.  Mỗi bước đường của chúng ta đều có Đức Mẹ đồng hành.  Mỗi lối đi dương thế đều có Chúa dẫn đưa.  Đó là giá trị của Kinh Mân Côi.

Kinh Mân Côi là hình thức cầu nguyện được chính Đức Mẹ khuyến khích.  Quả vậy, khi hiện ra ở Lộ Đức cũng như ở Fatima, Đức Mẹ đã cùng lần hạt với các thị nhân, trong tình thân thương trìu mến.  Vì thế, tượng Đức Mẹ được trình bày tại hai nơi thánh địa này đều có cỗ tràng hạt nơi tay của Đức Mẹ.  “Hãy siêng năng lần hạt”, đó còn là lệnh truyền của Đức Mẹ khi hiện ra với ba trẻ chăn chiên ở Fatima năm 1917.

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, ước chi lời kinh này luôn vang lên nơi môi miệng chúng ta, từ khi sinh ra cho đến lúc lìa đời, nhờ đó, chúng ta luôn được Đức Mẹ phù hộ độ trì.  Nhờ Mẹ và qua Mẹ, chúng ta sẽ gặp Đức Giêsu, và đạt được sự sống đời đời.

ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim