SỐNG ĐỨC TIN LÀ LÀM CHỨNG

SỐNG ĐỨC TIN LÀ LÀM CHỨNG

 Jos. Vinc. Ngọc Biển

Hôm nay, chúng ta hân hoan, tự hào và hãnh diện khi mừng kính trọng thể lễ các thánh tử đạo Việt Nam. Với con số 118 đấng đã được Giáo Hội tuyên phong và tôn kính, đây là con số đông đảo nơi sổ bộ các thánh trong Giáo Hội hoàn vũ. Tuy nhiên, còn hàng trăm ngàn đấng chưa được tuyên phong, nhưng các ngài đều mang một mẫu số chung, đó là chết vì Chúa để làm chứng cho đạo của Chúa là đạo thật.

Như vậy, mỗi khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, thiết tưởng chúng ta nên gợi lại những gương sáng của các ngài để như một lời nhắc nhớ chúng ta về tấm gương anh dũng qua đời sống chứng tá của các thánh, đồng thời như một lời mời gọi mỗi chúng ta hãy noi gương các bậc tiền nhân qua đời sống đức tin hiện nay.

  1. Các ngài là những người đã sống Tin Mừng yêu thương 

Trong rất nhiều nhân đức cao đẹp của các thánh tử đạo Việt Nam, thì nhân đức yêu thương, tha thứ của các ngài là nhân đức đi đầu, tiên phong trong hàng loạt các nhân đức. Các ngài đã noi gương Chúa Giêsu để yêu và yêu cho đến cùng, yêu đến nỗi chấp nhận chết để chứng tỏ tình yêu của mình vào Thầy Chí Thánh mà các ngài đã tin theo (x. Ga 15,13).

Khi sống và diễn tả tình yêu ấy, chúng ta thấy có thánh y sĩ Phan Đắc Hòa. Ngài đã sẵn sàng chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, sẵn lòng cứu giúp những người túng thiếu. Hay thấy được nỗi đau khổ của cái nghèo hoành hành nơi dân làng, các ngài đã không chịu ngồi yên trong khi nhìn thấy cảnh người anh em đau khổ, đói khát, nên đã chấp nhận vất vả, tăng gia thêm để có của dư giả nhằm giúp anh chị em đang lâm cảnh nghèo túng, trong số đó, phải kể đến thánh Martinô Thọ, ngài sẵn sàng trồng thêm vườn dâu để có thêm thu nhập giúp người nghèo. Cụ trùm Đích thì thường xuyên góp nhặt tiền bạc để đi thăm viếng trại cùi và nuôi nấng những người dịch tả trong vùng. Còn với quan Hồ Đình Hy, ngài luôn giúp đỡ những người bơ vơ, mồ côi ngay ở trong nhà, và khi họ qua đời thì lo an táng đàng hoàng như một người bình thường.

Đỉnh cao của tình thương ấy nơi các ngài là yêu luôn cả những người thù ghét mình. Tình yêu của các ngài là một tình yêu không biên giới. Lời của Chúa Giêsu trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ; vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 43) luôn thường trực trong suy nghĩ, hành động của các thánh. Về điểm này, chúng ta thấy toát lên chân dung của cha thánh Hoàng Khanh, ngài đã sẵn lòng chữa bệnh cho cả những viên cai ngục trong tù…

Các ngài bỏ qua tất cả, không nghĩ cho riêng mình, không còn lằn ranh giữa bạn và thù, bởi vì: “tận cùng của tình yêu là yêu không giới hạn.”

  1. Các ngài là những người sống và chết vì sự thật 

Có nhiều cái chết và cách chết. Những giá trị của cái chết cũng hoàn toàn khác nhau nhờ vào thái độ của mỗi người. Nhưng chấp nhận cái chết vì sự thật, vì công lý thì thật là điều cao thượng.

Trong Cựu Ước, có cụ Eleazaro, cụ là người cương trực, không chấp nhận giả vờ ăn thịt cúng để được tha (x. 2 Mac 6, 18-31). Lời dụ dỗ giả vờ bỏ đạo để được tha và thăng quan tiến chức là những chiêu bài mà nhà cầm quyền thời bấy giờ thường xuyên dùng để khuyên dụ các ngài. Có những đấng nếu chỉ khai mình là lương y chứ không phải là linh mục thì sẽ được tha ngay. Trong số đó, phải kể đến thánh Lê Tùy, Đỗ Yến, Hoàng Khanh, Nguyễn Văn Hưởng, Lê Bảo Tịnh… Các ngài đã chấp nhận cái chết để chứng minh cho chân lý và sứ vụ của mình.

Rồi có những đấng các quan chỉ yêu cầu nhắm mắt, giả bộ bước qua thập giá là sẽ được tha như thầy giảng Nguyễn Cần chẳng hạn, thầy đã được quan gợi ý như thế, nhưng ngài đã nói: “Thưa quan, mắt thì nhắm được, chứ lòng và trí khôn không thể nhắm được, nên tôi chẳng làm.” Thua keo này, các quan đã bày keo khác! Có những đấng, họ chỉ yêu cầu đi vòng quanh thánh giá và các quan sẵn sàng tha cho vì coi đây như là hình thức bỏ đạo. Nhưng các ngài đã khẳng khái khước từ. Trong số này có thánh Phan Văn Minh, các thầy giảng Hà Trọng Mậu, Bùi Văn Úy và các anh Nguyễn Văn Mới, Nguyễn Văn Đệ, Nguyễn Văn Vinh.

Như vậy, mặc cho những lời đường mật hứa hẹn. Các ngài đã cương quyết không thỏa hiệp. Các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết, không bước qua thập giá, hoặc bất cứ hình thức nào được trưng ra dưới chiêu bài “đánh lận con đen.”  Các ngài đã chấp nhận cái chết để làm chứng cho sự thật, công lý.

  1. Các ngài là người sống niềm hy vọng Phục Sinh 

Chúng ta nhớ lại trong thư gửi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đã viết: “Nếu chết là hết, thì quả thực chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong cả thiên hạ” (x. Cr 15,19).  Thật vậy, vì tin vào Đức Kitô, Đấng đã được “Thiên Chúa làm cho […] sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại” (1 Cr 6,14).  Vì thế, các thánh tử đạo Việt Nam luôn coi cái chết như là hy lễ cuối cùng và đẹp nhất dâng lên cho Thiên Chúa để được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc Trên Trời. Niềm tin này đã được thày giảng Hà Trọng Mậu đại diện cho những người bị bắt thưa với quan rằng: “Thưa quan, chúng tôi mong ước về bên Chúa như nai mong tìm thấy suối vậy”; hay như quan Án Khảm, ngài đã hé mở cho mọi người đang đứng chung quanh mình về một cuộc sống hạnh phúc trên Thiên Quốc khi nói: “Cha con chúng tôi hôm nay vào Nước Thiên Đàng đây”; hoặc như thánh linh mục Nguyễn Văn Hạnh thì nói: “Anh em ở lại, chúng tôi đi về Thiên Đàng nhé”; còn thầy giảng Nguyễn Đình Uyển thì đã bình tĩnh và dõng dạc tuyên xưng niềm tin tuyệt đối vào mầu nhiệm phục sinh khi nghe quan quát lớn: “Mày không bước qua, tao sẽ chém đầu mày” thầy điềm tĩnh trả lời: “Thưa quan, nếu tôi bị chém chết, thì tôi mới hy vọng được phục sinh với Chúa Kitô.”  Khi phải lựa chọn giữa sự sống trần gian và cuộc sống vĩnh cửu, cha thánh Nguyễn Văn Xuyên đã nói một cách xác tín rằng: “Thưa quan, tôi chọn cái chết để được sống đời đời, hơn là nghe quan sống thêm ít lâu rồi muôn đời bị tiêu diệt.” Rồi như hạt lúa gieo vào lòng đất, chấp nhận mục nát đi để trổ sinh một mùa lúa bội thu, cha thánh Lê Bảo Tịnh đã nói: “Thân xác tôi đây, các ông muốn làm gì thì làm, tôi sẵn sàng không oán than, nó chết đi, nhưng mai này sẽ sống lại vinh quang.” Quả thật, không có gì tách các ngài ra khỏi tình yêu Đức Kitô.  Mặc cho đòn vọt, gông cùm và ngay cả cái chết.

  1. Cái chết của các ngài là lời tạ ơn

 Cuối cùng, cuộc đời, sứ vụ và cái chết của các ngài là một bài ca tạ ơn. Tạ ơn Thiên Chúa đã tác tạo nên mình, cám ơn những bậc sinh thành đã dày công dưỡng dục và như một gương sáng cho giáo dân noi theo. Tâm tình này đã được thánh Giám Mục Giuse Diaz Sanjurjo An diễn tả khi tới giờ hành xử đã đến, ngài nói: “Tôi xin gửi quan 30 đồng tiền để xin quan một ân huệ: xin quan đừng cho chém tôi một nhát. Nhưng tôi xin chém tôi 3 nhát: Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Chúa đã dựng nên tôi, và đưa tôi đến Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ đã sinh thành ra tôi. Còn nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí dù có phải chết cho đức tin, theo gương vị chủ chăn của mình. Và như thế họ đáng lãnh phần hạnh phúc cùng các thánh trên Trời.” Với các thánh Phạm Khắc Khoan và hai thày Nguyễn Văn Hiếu và Đinh Văn Thanh, các ngài đã chia bè và hát kinh Tạ Ơn “TE DEUM” bằng tiếng Latinh ngay trong nhà giam. Rồi khi ra pháp trường để chịu tử hình, cha Khoan xướng ba lần lời ALLÊLUIA, mỗi lần với cung giọng cao hơn. Hai thày cũng lập lại ALLÊLUIA, ALLÊLUIA, ALLÊLUIA ba lần như đêm vọng phục sinh vậy.

Có được tâm tình đó là vì các ngài đều xác tín rằng: “Đối với các ngài, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi”, vì thế “Trong mọi thử thách, các ngài đã toàn thắng nhờ Đấng yêu mến các ngài” (x. Rm 8, 37). Và, giờ chết của các ngài là một bằng chứng hùng hồn về tình yêu tuyệt đối mà cha ông chúng ta đã dâng lên Thiên Chúa như của lễ tinh tuyền thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Thật vậy: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo? […] sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8, 35-39).

Cuộc tử đạo của các ngài được ví như người nông dân đã vất vả ra đi gieo giống, để rồi hôm nay hân hoan vì thấy một vụ mùa bội thu: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau sẽ khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo. Lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 125,6-7).

Như vậy, khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy cùng với các ngài tạ ơn Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã yêu thương các ngài đặc biệt. Chúng ta cũng ngước lên các ngài để chiêm ngưỡng, noi theo những nhân đức anh hùng, can trường của các ngài để lại hầu mai sau cũng được hưởng hạnh phúc với các ngài trong Cõi Trường Sinh.

Bài học cao quý nhất của các ngài để lại không phải là bài học hận thù, chia rẽ, không phải là ích kỷ nhỏ nhen, không phải là tự phụ kiêu căng, nhưng là bài học của tình yêu, của bao dung, vị tha và khiêm nhường.  Sống được như thế là chúng ta đang làm chứng cho Chúa và đang sống niềm hy vọng phục sinh một cách rõ nét nhất.

Mong thay, mỗi khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta cùng với các ngài hát lên bài ca Tạ Ơn “TE DEUM” ngay trong cuộc sống hiện tại của mình.

Lạy Chúa, khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, xin Chúa cho chúng con xác tín rằng: quê hương của chúng con ở Trên Trời, vì thế chúng con chỉ có một điều duy nhất là làm mọi việc vì Chúa và vì phần rỗi của mình cũng như tha nhân, qua đó biết khước từ những điều bất chính, để sau này chúng con được chung hưởng phúc vinh quang với các thánh trên Thiên Quốc.  Amen!

 Jos. Vinc. Ngọc Biển

TUYÊN XƯNG, SỐNG VÀ LÀM CHỨNG CHO ĐỨC TIN

TUYÊN XƯNG, SỐNG VÀ LÀM CHỨNG CHO ĐỨC TIN

+ ĐTGM Giuse Nguyễn Năng

1- Không một tôn giáo nào có một lịch sử kỳ lạ như Kitô giáo. Quả vậy, không một tôn giáo nào bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương như Kitô giáo; và cho dù bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương, Kitô giáo không hề bị tiêu diệt, trái lại vẫn không ngừng tăng trưởng cả về phẩm chất lẫn số lượng. Đó là những bí ẩn của lịch sử không thể lý giải bằng lý lẽ tự nhiên, nhưng chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng của niềm tin.

Quả vậy, ngay từ những năm tháng đầu tiên loan báo Tin Mừng, Hội Thánh đã trải qua 300 năm bị bách hại dưới thời các hoàng đế Roma. Rồi từ đó, Phúc Âm được rao giảng ở đâu, thì ở đó không sớm thì muộn, các Kitô hữu cũng bị bắt bớ và giết chết, Hội Thánh bị bách hại và loại trừ. Lịch sử Hội Thánh là một lịch sử đầy những cuộc tử đạo, ở khắp mọi miền trên thế giới, vào hết mọi thời kỳ trong lịch sử.

Ngay trong thời đại chúng ta, trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI này, nếu tính tổng cộng tất cả các Kitô hữu, gồm Công giáo, Chính thống, Anh giáo và Tin lành, thì hằng năm có khoảng 170.000 người tử đạo, 200.000.000 người chịu bách hại vì đức tin Kitô giáo.

Trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này, 117 vị thánh đã được phúc tử đạo trong một giai đoạn bách hại kéo dài đúng 117 năm, tính từ hai vị tử đạo tiên khởi vào năm 1745 đến vị cuối cùng vào năm 1862, qua các triều đại vua Lê chúa Trịnh, Tây Sơn và các triều nhà Nguyễn. Đó là chưa kể chân phước Anrê Phú Yên tử đạo vào năm 1644, và hằng trăm ngàn tín hữu chết vì đức tin nhưng chưa được phong thánh.

Bức tranh trên đây là một thực tế, và đó cũng là một điều bí ẩn của lịch sử Hội Thánh. Các Kitô hữu bị ghét, vì trước hết, chính Chúa Giêsu đã bị ghét và đã chịu tử hình trên thánh giá. Chúa Giêsu chính là vị tử đạo đầu tiên vì Tin Mừng mà Ngài rao giảng. Ngài là con đường dẫn đến sự sống đích thực, nhưng thế gian lại yêu sự tối tăm hơn ánh sáng.

Chúa nói: “Vì anh em không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em… Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em… Họ chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15, 19-21). Đơn giản chỉ là thế. Sâu xa là như vậy.

Tuy nhiên, Chúa đã hứa ở cùng Hội Thánh mọi ngày cho đến tận thế, và Chúa đã tuyên bố không quyền năng nào có thể tiêu diệt Hội Thánh. “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).

2- Ngày lễ các thánh tử đạo tại Việt Nam hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại đời sống đức tin của các thánh tử đạo Việt Nam để xem các ngài đã tuyên xưng, đã sống và làm chứng cho đức tin thế nào.

Tại sao các Kitô hữu bị ghét bỏ, bị bắt bớ và giết chết? Các thánh tử đạo đã làm gì?

Các thánh tử đạo bị giết chỉ vì tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu. Lòng tin ấy biểu lộ qua việc tôn thờ thánh giá Chúa. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được!” Thánh Têôphan Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”

Chắc chắn không phải vì các ngài đã theo đạo Tây mà phản bội tổ quốc và dân tộc. Các ngài tôn trọng vua quan và hết lòng vì quê hương. Thánh linh mục Tự đối đáp với quan tòa: “Tôi kính Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ phụ. Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được”.

Nhiều vị thánh đã ở trong hàng ngũ quân đội bảo vệ đất nước. Thánh Trần Văn Trung là một binh sĩ, đã bị giết vì khẳng khái tuyên bố: “Tôi là Kitô hữu, tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ”. Thánh linh mục Khuông từng tuyên bố: “Đạo Giatô không những cấm tín hữu chống lại triều đình, mà còn khuyến khích để họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương an ninh thịnh vượng”.

Yêu nước không có nghĩa là phải thù ghét loại trừ các Kitô hữu và chống lại Kitô giáo.

3- Lời tuyên xưng của các thánh tử đạo không chỉ là lời tuyên bố trong một khoảnh khắc nhất thời trước khi chết, nhưng đó là hoa trái kết tinh từ một đời sống thấm nhuần Lời Chúa. Các ngài đã sống đức tin, đã thể hiện Tin Mừng yêu thương trong chính đời sống của mình.

Trước hết, đời sống đức tin của các thánh tử đạo được biểu lộ ngay trong bổn phận hằng ngày của đời sống gia đình.

Dù thời đó, chế độ đa thê vẫn đang thịnh hành trong xã hội Việt Nam, nhưng các thánh tử đạo đã trung thành với giáo huấn một vợ một chồng của Phúc Âm. Dĩ nhiên có những vị lúc đầu đã không trung thành với lời cam kết hôn nhân, như các thánh Gẫm, binh sĩ Huy, Cai Thìn, quan Hồ Đình Hy… đã có thời gian sa ngã, thế nhưng sau đó tất cả đều biết trở về để vun đắp lại mái ấm gia đình của mình.

Các thánh chu toàn bổn phận nuôi dạy con cái theo tinh thần đức tin. Thánh Thọ căn dặn các con vào thăm trong tù: “Các con thân mến, cha không còn làm gì giúp các con ở thế gian này được nữa, cha chỉ còn lo chuẩn bị tâm hồn đón nhận những thử thách cuối cùng. Ý Chúa đã muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố gắng vâng lời mẹ. Các con lớn hãy nhớ quan tâm săn sóc em mình. Các con nhỏ phải biết kính trọng vâng lời anh chị. Hãy thương yêu nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ. Hãy nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hằng ngày. Chúa trao cho mỗi người một thánh giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên trung giữ đạo”.

Về phần thánh Anê Lê Thị Thành, vị thánh nữ duy nhất trong số các vị tử đạo, người con gái thứ hai của ngài là cô Anna Năm xác nhận: “Bố mẹ chúng tôi chỉ gả các con gái cho những người thanh niên đạo hạnh. Sau khi tôi kết hôn, mẹ tôi thường đến thăm chúng tôi và khuyên bảo những lời tốt lành. Có lần mẹ dạy tôi: “Tuân theo Ý Chúa, con lập gia đình là gánh rất nặng. Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ chồng. Hãy vui lòng nhận thánh giá Chúa gửi cho”. Người cũng thường khuyên vợ chồng tôi: “Hai con hãy sống hoà hợp, vui vẻ, đừng để ai nghe chúng con cãi nhau bao giờ”.”

Kế đến, sống đức tin là sống Tin Mừng yêu thương.

Thánh y sĩ Phan Đắc Hòa rộng tay giúp người nghèo khổ, riêng bệnh nhân túng thiếu, không những ông chữa bệnh miễn phí, lại còn giúp tiền giúp lúa. Thánh Martinô Thọ nói: “Công bằng chưa đủ, phải có bác ái nữa, mà muốn thực thi bác ái phải có điều kiện”, nên ngài trồng thêm vườn dâu kiếm tiền giúp người thiếu thốn. Người cùng tử đạo với ngài là Gioan Cỏn từng mạnh dạn đấu tranh cho người nghèo chống lại chính sách đòi sưu cao thuế nặng. Thánh Năm Thuông là ân nhân của viện cô nhi trong vùng. Còn thánh Trùm Đích thường xuyên thăm viếng trại cùi và sẵn sàng nuôi người mắc bệnh dịch tại nhà mình.

Điều quan trọng trong đời sống đức tin của các thánh tử đạo là lòng tha thứ.

Nếu lòng anh dũng giúp các vị tử đạo bình thản đón nhận cái chết không run sợ, không quỵ lụy khóc than, thì chính lòng bao dung thứ tha mới là đặc tính phân biệt vị tử đạo với những vị anh hùng vì lý do khác.

Các tín hữu chỉ thực sự chết vì đạo nếu biểu lộ được tình yêu, lòng nhân ái, sự bao dung của Tin Mừng. Các vị chắc chắn không đồng ý với bản án bất công của triều đình, nhưng như Đức Giêsu trên thánh giá vẫn cầu nguyện cho quân lính giết hại mình, các chứng nhân tử đạo vẫn tiếp tục yêu thương vua quan và những người hành xử mình.

Khi viên quan nói: “Tôi phải theo lệnh vua, đừng giận tôi nhé”, linh mục Théophane Ven đáp: “Tôi chẳng ghét gì ai cả, tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho quan”. Thánh Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá lên cười khi ngài đọc: “Cầu Chúa Giêsu, xin cho các quan trị nước cho yên càng ngày càng thịnh”.

4- Lời tuyên xưng và đời sống đức tin của các thánh tử đạo đã làm trổ sinh hoa trái phong phú trên quê hương Việt Nam thân yêu này.

Chính đời sống của các thánh tử đạo đã cảm hóa và chiếm được tình cảm của bà con hàng xóm. Dù triều đình nhà Nguyễn ra chiếu chỉ bách hại, bà con hàng xóm vẫn tỏ dấu hiệu thân ái với người công giáo.

Thánh linh mục Vũ Bá Loan là niên trưởng 84 tuổi, được mọi người kính trọng gọi bằng “cụ”, ngài không bị đánh đòn; và trong ngày xử, mười lý hình chạy trốn, đến người thứ mười một, đã lịch sự xin phép: “Việc vua truyền cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho. Cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái. Khi về trời cụ nhớ đến cháu nhé”.

Trong vụ án thánh linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: “Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức, thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cổ quan tài để biểu lộ lòng tôi quí cụ.”

Hơn nữa, ngay trong lúc bị giam tù, các ngài đã đưa hằng trăm người đến với Chúa. Và từ đó đến nay, hạt giống Tin Mừng không ngừng lớn lên trong đất nước này. Tin Mừng như men đang thấm vào mọi sinh hoạt xã hội để đưa thế gian đi theo con đường của chân lý Phúc Âm.

Là con cháu các thánh tử đạo, chúng ta hãy phát huy gia sản đức tin mà cha ông đã để lại cho chúng ta. Đức tin ấy đã lớn lên trong máu và nước mắt, trong hy sinh và gian khổ. Bao nhiêu thế hệ đã nằm xuống để chúng ta được trung kiên với đức tin tông truyền.

Ngày nay, tuy không còn phải chịu những đau thương dữ dằn như trong quá khứ, nhưng chúng ta đang phải đối diện với một cuộc tấn công khác có thể còn nguy hiểm gấp bội, đó là sức mạnh của tiền bạc, địa vị, khoái lạc, tự do buông thả. Những sức mạnh này đã làm cho bao nhiêu tín hữu gục ngã, đã lôi kéo bao nhiêu Kitô hữu rời xa Hội Thánh, đã làm cho biết bao người quên Thiên Chúa.

Chúng ta hãy bắt chước các thánh tử đạo tuyên xưng đức tin một cách xác tín, ý thức. Chúng ta có thể nói như thánh Phaolô không: “Tôi biết tôi đã tin vào ai?” (2 Tm 1,12). Hãy để cho lòng tin vào Chúa thấm nhuần và biến đổi cuộc sống chúng ta, để tất cả mọi hành vi, ứng xử, chọn lựa, thái độ, của chúng ta luôn tỏa chiếu sức mạnh của Tin Mừng và tạo nên một sức hấp dẫn đối với những người chung quanh để đưa họ đến với Chúa Giêsu Cứu Thế.

 TÌNH CA TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Bài tình ca tử đạo

Thắm màu máu đỏ tươi

Trầm hùng và tuyệt diệu

Âm vang cả đất trời.

Những con người yếu đuối

Có sức mạnh niềm tin

Dẫu hiểm nguy không ngại

Vẫn hiên ngang ngước nhìn.

Da vàng và máu đỏ

Sắc màu thiêng Việt Nam

Kiên cường ôm thập giá

Dám chết vì đức tin.

Ác nhân luôn hèn hạ

Dùng đủ mọi cực hình

Nhưng tín nhân không sợ

Vẫn yêu Chúa hết tình.

Bài tình ca tử đạo

Những nốt yêu hòa âm

Êm đềm ngọt giai điệu

Dệt tình khúc Việt Nam. 

Viễn Dzu Tử

Kinh nguyện 

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 

Đội ơn Thiên Chúa muôn trùng

Ban cho các Đấng Anh Hùng Việt Nam

Một lòng chối bỏ trân cam

Mặc ai dụ dỗ chẳng ham phúc trần.

Máu đào dâng hiến trọn thân

Quyết tâm theo Chúa- chứng nhân Nước Trời

Ngày nay cho đến muôn đời

Thanh nhàn vĩnh phúc, gương soi chiên đoàn.

Chúng con còn ở trần gian

Nguyện xin các Thánh thông ban hộ phù

Ơn thiêng: sức mạnh, thân tu 

Nếu không tử đạo, cần cù siêng năng.

Vượt qua tục luỵ, lưới giăng

Noi gương các Thánh, Chúa hằng xót thương

Chờ ngày Chúa gọi lên đường

Về cùng các Thánh đồng hương Nước Trời. Amen.

(Thế Kiên Dominic)

LỜI HỨA CỨU ĐỘ

LỜI HỨA CỨU ĐỘ

 ĐGM Giuse Vũ Văn Thiên

Nếu những tổng thống trần thế đưa ra những lời hứa hẹn chỉ để lấy lòng cử tri rồi nhanh chóng để những lời hứa hẹn ấy rơi vào quên lãng, thì Chúa Giêsu vị Vua trên thập giá lại chứng minh quyền năng là vua của mình bằng một lời hứa cứu rỗi.

Cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của các ứng viên tổng thống Hoa Kỳ đã đến hồi kết thúc: ngày 8-11-2016, cử tri Mỹ đã chọn ra vị tân tổng thống cho đất nước của mình.  Theo kết quả bỏ phiếu, ông Donald Trump, thành viên đảng Cộng hòa, đã đắc cử và trở thành vị tổng thống thứ 45 của đất nước Cờ Hoa.

Trong cuộc tranh cử tổng thống, cả hai ứng viên, bà Hillary Clinton, đại diện cho Đảng Dân Chủ và ông Donald Trump, đại diện cho đảng Cộng Hòa đều hứa hẹn rất nhiều.  Họ tranh dành cử tri bằng việc đưa ra những chiến lược đổi mới trong nhiều lãnh vực: giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, điều chỉnh chính sách thuế, ổn định vấn đề người di dân, cải cách an sinh xã hội…  Giờ đây, công dân Mỹ đang chờ đợi xem vị tân tổng thống có thực hiện những điều ông đã hứa khi tranh cử hay không.  Thông thường, ngôn từ của các chính trị gia được gọi là “Lời nói gỗ – Langue de bois”, có nghĩa là không thực và chỉ là những “xảo ngôn”, hứa cho qua.

Hôm nay, Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo Hội suy tôn Chúa Giêsu với tước hiệu “Vua vũ trụ.” Người là Vua không giống như một vị tổng thống do cử tri bỏ phiếu bầu ra, nhưng, chính Thiên Chúa Cha đã ban cho Người “mọi quyền năng trên trời dưới đất” (Mt 28, 18).  Thiên Chúa Cha cũng sẽ quy phục mọi thù địch dưới chân Người (1Cr 15,25).  Đức Giêsu làm vua, vì Người là Con Thiên Chúa, Đấng tác tạo vũ trụ.  Người cũng là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là dung mạo đầy từ bi thương xót của Chúa Cha.  Người đã vâng lời Đức Chúa Cha đến mức chấp nhận cái chết trên thập giá, để cứu độ con người (x. Phl 2,6-12).  Chúa Giêsu là vị Vua đã chiến thắng sự chết và đã phục sinh vinh quang.  Người là Vua của vương quốc công chính, an bình và yêu thương.  Vương quốc của Người không biên giới.  Mọi người bất kỳ thuộc về nền văn hóa, chủng tộc hay ngôn ngữ nào, nếu họ thực hành đức yêu thương thì trở thành công dân của Vương quốc này.

Bài đọc I giới thiệu cho chúng ta vua Đavít, là một gương mặt điển hình trong hàng ngũ các vua của lịch sử Do Thái.  Đavít cũng là hình ảnh của vị Vua Giêsu trong tương lai.  Nếu Đavít đã đi vào lịch sử Do Thái bằng những chiến công hiển hách tiêu diệt quân thù, và một đời sống đạo đức cầu nguyện gương mẫu, thì vị Vua Giêsu lại hy sinh mạng sống để cứu chuộc con người, phục hồi phẩm giá của họ và mặc cho họ sự thánh thiện cao sang.  Người cũng không phải là một vị vua của quá khứ, cũng không phải là vị vua tương lai, mà là vị vua của hiện tại đang cai trị hoàn vũ này, và cai trị các tâm hồn bằng tình yêu thương.  Người mời gọi chúng ta hãy đón nhận vương quyền của Người để tâm hồn được thanh thản, và để gánh nặng cuộc đời trở nên nhẹ nhàng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.  Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.  Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.  Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30).  “Mang lấy ách” là một kiểu nói diễn tả sự đón nhận, tâm tình yêu mến và thiện chí noi gương bắt chước một bậc thầy.

Nếu những tổng thống trần thế đưa ra những lời hứa hẹn chỉ để lấy lòng cử tri rồi nhanh chóng để những lời hứa hẹn ấy rơi vào quên lãng, thì Chúa Giêsu vị Vua trên thập giá lại chứng minh quyền năng là vua của mình bằng một lời hứa cứu rỗi.  Thánh Luca giới thiệu với chúng ta một vị vua không giống quan niệm trần gian.  Đó là một vị vua không có hoàng bào, không ngai vàng, không đội quân danh dự.  Ngai vàng của Người là cây thập giá.  Bên cạnh Người là hai kẻ trộm với hai thái độ khác nhau: một người hằn học lên án, một người khiêm tốn bênh vực.  Đối với người trộm bênh vực Chúa, Người hứa cho họ được vào Nước Trời: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng.”  Còn lời nào ngọt ngào và hy vọng hơn lời này?  Bởi lẽ hành phúc thiên đàng là đích điểm cuộc đời của mỗi chúng ta.  Qua lời tuyên bố này, Chúa Giêsu chứng tỏ quyền năng Thiên Chúa của Người.  Quyền ấy như quyền của một vị vua, có thể cho phép một công dân gia nhập vương quốc của mình.

Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta trở nên công dân của vương quốc của vị Vua Giêsu.  Khi suy tôn Người là Vua, chúng ta hãy cố gắng sống đúng với kỷ luật của vương quốc ấy.  Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: đừng quên rằng Đức Giêsu đã giải thoát chúng ta, đồng thời đưa chúng ta từ tối tăm vào ánh sáng kỳ diệu của vương quốc của Người, nhờ đó mà chúng ta được ơn tha thứ mọi tội lỗi (Bài đọc II).

Không chỉ hứa với người trộm biết sám hối ăn năn, Chúa cũng nhiều lần hứa ban những điều tốt lành cho những ai tin tưởng cậy trông vào Người.  Người hứa hiện diện giữa chúng ta khi chúng ta tập hợp với nhau cầu nguyện nhân danh Người.  Như người cha, người thày cảm thương những người con, Chúa khẳng định với chúng ta: “Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11,9).  Tin vào lời hứa của Chúa, chúng ta hãy thực hiện những gì Người dạy, vì “Chúa là Đấng phép tắc và lòng lành vô cùng đã phán hứa sự ấy, chẳng có lẽ nào sai được” (Kinh Trông cậy).

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự trị cõi lòng mỗi chúng con, để gánh nặng cuộc đời của chúng con trở nên nhẹ nhàng êm ái.  Xin hãy hướng dẫn soi sáng cuộc đời chúng con để lời nói, việc làm và tư tưởng của chúng con luôn ngay thẳng và thánh thiện, đẹp lòng Chúa và thân ái với anh chị em chúng con. Amen.

ĐGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim

KHI NÀO CUỘC ĐỜI CHÚNG TA VIÊN MÃN?

KHI NÀO CUỘC ĐỜI CHÚNG TA VIÊN MÃN?

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Khi nào cuộc đời chúng ta viên mãn?  Đến một lúc nào đó trong đời, chúng ta có thể nói được: “Chính là đây!  Đây là cao điểm!  Từ giờ tôi chẳng thể làm gì hơn thế này nữa.  Tôi đã dốc hết sức mình!”

Lúc nào thì chúng ta nói được như thế?  Sau khi đạt đến đỉnh cao sức khỏe và sức mạnh thể chất?  Sau khi sinh con?  Sau khi nuôi dạy con cái thành công?  Sau khi có một tác phẩm bán chạy?  Sau khi nổi tiếng?  Sau khi thắng chức vô địch lớn?  Sau khi mừng kỷ niệm 60 năm ngày cưới?  Sau khi tìm được tri kỷ?  Sau khi bình an trở lại, thoát được cơn dằn vặt kéo dài?  Khi nào thì chúng ta có thời điểm đó?  Khi nào chúng ta đi đến tận đỉnh con đường trưởng thành?

Nhà thần nghiệm thời trung cổ, Gioan Thánh Giá nói cho rằng chúng ta đạt đến điểm này khi đến được “tâm điểm thâm sâu nhất của mình.”  Nhưng với ngài, tâm điểm thâm sâu nhất trong linh hồn này, lại không giống với quan niệm thường có của chúng ta.  Với thánh Gioan, tâm điểm thâm sâu nhất này chính là điểm tối đa có thể trong sự tiến triển của con người, sự trưởng thành thâm sâu nhất có thể đạt được trước khi chết.  Nếu thật là thế, thì với một bông hoa, tâm điểm thâm sâu nhất, điểm tột đỉnh tiến triển của nó, sẽ không phải là lúc nở hoa, mà là lúc nó chết và tạo thành hạt giống.  Đó là sự tiến triển xa hơn, là thành tựu tối cùng của nó.

Vậy còn điểm tiến triển tối hậu của chúng ta là gì?  Tôi cho rằng chúng ta có khuynh hướng nghĩ nó như một thành tựu tích cực và cụ thể, như thành công trong sự nghiệp, hay một thành tích về thể thao, trí tuệ hay nghệ thuật đem lại cho chúng ta sự thỏa mãn, công nhận và danh tiếng.  Nhưng nếu nhìn từ quan điểm ý nghĩa sâu xa, có lẽ chúng ta sẽ trả lời theo kiểu khác, nói rằng thành tựu tối hậu của chúng ta là một hôn nhân trọn vẹn, được làm cha mẹ, hay sống cuộc đời phục vụ tha nhân.

Vậy nếu như một bông hoa, khi nào chúng ta sẽ tạo thành hạt giống đây?  Henri Nouwen cho rằng người ta sẽ có những câu trả lời rất khác nhau cho câu hỏi này.  “Với một số người, đó là tận hưởng ánh hào quang của danh tiếng, với số khác, là khi họ được hoàn toàn quên lãng, với một số là khi họ đạt đến tột đỉnh sức mạnh, với số khác là khi họ yếu đuối và vô lực, với một số là khi năng lực sáng tạo triển nở, với số khác là khi họ mất hết tự tin vào năng lực của mình.”

Vậy lúc nào thì Chúa Giêsu tạo thành hạt giống của Ngài, sự viên mãn của Ngài?  Với Chúa Giêsu, đây không phải là ngay sau phép lạ làm cho dân chúng kinh ngạc, cũng không phải khi Ngài đi trên mặt nước, hay khi Ngài vang danh khắp cõi Israel đến nỗi dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua.  Không phải như thế.  Vậy lúc nào Chúa Giêsu không còn gì nữa để vươn đến?

Và Henri Nouwen lại một lần nữa cho chúng ta câu trả lời này.  “Tuy nhiên, chúng ta biết một điều, với Con Người, mọi sự đến hồi viên mãn, khi Ngài mất hết tất cả, mất quyền uy để lên tiếng và chữa lành, mất sự thành công và tầm ảnh hưởng, mất môn đệ và bạn bè, thậm chí là mất cả Chúa của mình.  Khi Ngài bị đóng đinh trên cây thập tự, bị tước hết phẩm giá con người, Ngài biết rằng mình đã đến thời điểm đó, và nói, ‘Mọi sự đã hoàn tất!’”

Chữ hoàn tất ở đây có gốc Hy Lạp là Tetelesti.  Đây là một diễn đạt được các họa sĩ dùng để nói rõ rằng tác phẩm đã hoàn thiện và không thêm thắt gì nữa.  Nó còn được dùng để thể hiện việc gì đó đã xong.  Ví dụ như, chữ Tetelesti được đóng dấu trên các bản án sau khi phạm nhân đã mãn hạn tù, còn được ngân hàng dùng đóng trên giấy ghi nợ đã trả xong, được gia nhân dùng khi báo cáo với chủ đã hoàn thành công việc, và được các vận động viên thốt lên khi băng qua vạch đích.

Đã hoàn tất!  Một bông hoa chết đi để tạo thành hạt giống, nên cũng hợp lý khi đây là những lời cuối cùng của Chúa Giêsu.  Trên thập giá, vẫn trung tín đến cùng với Chúa Cha, với lời của mình, với lòng yêu thương mà Ngài đã giảng dạy, Ngài thôi sống và bắt đầu chết, và đấy là khi Ngài tạo thành hạt giống của mình, khi thần khí Ngài bắt đầu ngấm vào thế giới.  Ngài đã đến tâm điểm thâm sâu nhất của mình, cuộc đời Ngài đã viên mãn.

Vậy khi nào chúng ta thôi sống và bắt đầu chết?  Khi chúng ta đi từ đóa hoa nở rộ đến tạo thành hạt giống?  Nhìn qua, thì dĩ nhiên là khi sức khỏe, uy lực, danh tiếng và sự thu hút của chúng ta bắt đầu suy giảm và mờ nhạt đi, bị đẩy dần ra rìa và xuống dốc.  Nhưng khi nhìn qua lăng kính cuộc đời Chúa Giêsu, thì chúng ta thấy rằng khi mờ nhạt đi, như một bông hoa đã qua thời điểm bung nở, chúng ta bắt đầu tạo ra một sự gì đó còn hấp dẫn hơn cả nở hoa.  Đó là khi chúng ta có thể nói, “Đã hoàn tất!”

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

Nước Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta

Nước Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta

Tác giả: 

 Huệ Minh

          Người Do Thái luôn mong ước Nước Thiên Chúa đến như lời đã báo trước. Tuy nhiên, Nước Thiên Chúa không đến như những người Do Thái mong đợi. Họ cho rằng khi Đấng Thiên Sai xuất hiện, Ngài sẽ khôi phục vinh quang thời quá khứ của dân tộc họ.

          Hẳn nhiên ta thấy người Do Thái đã và đang chờ đợi Đấng Mêssia. Đấng ấy sẽ giải phóng họ khỏi áp bức, lập nên một vương quốc mới thịnh vượng và có binh lính hùng mạnh. Vương quốc này làm bá chủ và các nước khác phải quy phục dưới chân người Do Thái. Niềm hy vọng đó càng mạnh mẽ khi mà vào lúc này, họ đang bị sống tủi nhục dưới ách nô lệ của người Rôma.

          Trang Tin Mừng hôm nay cho ta thấy, Chúa Giêsu chỉnh hướng suy nghĩ của họ về Nước Thiên Chúa. Ngài tuyên bố Nước Thiên Chúa đã hiện diện qua con người của Ngài, qua những gì Ngài làm và giảng dạy. Nước Thiên Chúa giống như hạt giống đầy sức sống được chôn vùi vào lòng đất hay như nắm men được vùi trong ba đấu bột. Nước Thiên Chúa hoạt động trong lòng con người với một sức mạnh vô hình làm biến đổi tâm hồn và tâm trí. Nước Thiên Chúa chỉ đến với những ai tin và theo Chúa Giêsu.

          Đức Kitô không những ở trong chúng ta mà còn ở giữa chúng ta nơi những người anh chị em sống chung quanh ta. Và hơn nữa, Người còn đồng hóa mình với những người nghèo nàn, bất hạnh.

          Vì vậy, chúng ta không thể chỉ tôn thờ Chúa trong nhà thờ hay khi đọc kinh cầu nguyện mà còn phải phục vụ Người trong cuộc sống, nơi tha nhân, nhất là những người chúng ta có bổn phận và trách nhiệm. Chúng ta khát khao ước ao nước cha hiển trị bởi vì đó là lẽ sống đích thực của chúng ta – sống trong nước tình yêu. Bởi vì bộ mặt thế gian này luôn qua đi, nhưng nước tình yêu của Thiên Chúa sẽ tồn tại mãi, nơi ấy chúng ta có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh chị em với nhau.

          Vì thế nước Thiên Chúa không ở xa, nhưng ở giữa chúng ta, và mỗi người chúng ta có bổn phận trách nhiệm xây dựng nước ấy bằng tình yêu chân thực phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Đồng thời lời kinh lạy Cha mà chúng ta đọc có thể là rất nhiều lần trong một ngày “xin cho nước cha hiển trị” sẽ không là những lời máy móc, vô nghĩa, nhưng là lời khẩn nài tha thiết với ước vọng ơn Cha giúp cho Giáo hội, mọi Kitô hữu cũng như chính bản thân ta biết sống như là một công dân của nước trời làm sáng danh Thiên Chúa tình yêu và làm cho tình yêu ngự trị khắp vũ hoàn.

          Vì vậy, chúng ta không thể chỉ tôn thờ Chúa trong nhà thờ hay khi đọc kinh cầu nguyện mà còn phải phục vụ Người trong cuộc sống, nơi tha nhân, nhất là những người chúng ta có bổn phận và trách nhiệm. Chúng ta khát khao ước ao nước cha hiển trị bởi vì đó là lẽ sống đích thực của chúng ta – sống trong nước tình yêu. Bởi vì bộ mặt thế gian này luôn qua đi, nhưng nước tình yêu của Thiên Chúa sẽ tồn tại mãi, nơi ấy chúng ta có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh chị em với nhau.

          Vì thế nước Thiên Chúa không ở xa, nhưng ở giữa chúng ta, và mỗi người chúng ta có bổn phận trách nhiệm xây dựng nước ấy bằng tình yêu chân thực phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Đồng thời lời kinh lạy Cha mà chúng ta đọc có thể là rất nhiều lần trong một ngày “xin cho nước cha hiển trị” sẽ không là những lời máy móc, vô nghĩa, nhưng là lời khẩn nài tha thiết với ước vọng ơn Cha giúp cho Giáo hội, mọi Ki-tô hữu cũng như chính bản thân ta biết sống như là một công dân của nước trời làm sáng danh Thiên Chúa tình yêu và làm cho tình yêu ngự trị khắp vũ hoàn.

          “Người ta sẽ bảo anh em: ‘Người ở kia kìa!’ hay ‘Người ở đây này!’ Anh em đừng đi, đừng chạy theo.” (c. 23) Ngược lại với lời Chúa Giêsu, dường như thói thường chúng ta thường thích xem chuyện lạ, thích xem Chúa, Mẹ hiện ra; nghe ở đâu có chuyện lạ là ùn ùn đến ‘xem’; nhưng lại không muốn tuân giữ những điều Chúa dạy –  con người, đời sống chẳng có gì biến đổi.

          Niềm tin của chúng ta thật mong manh. Chúng ta đang đắm mình và hòa vào một thế giới loại bỏ Thiên Chúa ra ngoài.  Cuộc sống chỉ còn là những ganh đua và cạnh tranh, lao theo những nhu cầu vật chất không bao giờ đủ. Vì vậy, lời Chúa hôm nay như một tiếng chuông cảnh tỉnh, mời gọi mỗi người Kitô hữu nhìn lại tâm linh, duyệt xét đời sống của mình xem chúng ta có còn tin Chúa thực sự để biết rằng chúng ta là con Thiên Chúa và chúng ta phải sống như là con cái Chúa, như là công dân của nước trời.

          Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu rao giảng ở đây không phải như là vương quốc trần thế như người Do Thái nghĩ. Đấng Mêssia không phải để giải phóng chế độ trần thế, mà đến để giải phóng mọi người khỏi sự nô lệ tội lỗi, khỏi quyền lực của sự chết. Sau này, Chúa Giêsu cũng đã khẳng định điều đó khi Người nói với Tổng trấn Philatô (Ga 18, 36). Và Người cũng nói Nước Thiên Chúa đã đến (Lc 17,21). Triều đại ấy sẽ đến với những ai tin và theo Người. Chính vì thế, những ai muốn được ở trong Vương Quốc ấy thì cần sống vâng phục và yêu thương như Người, đó là mến Chúa và yêu người. Như thế, nơi nào có người cố gắng sống như vậy thì Triều đại Thiên Chúa đang ở giữa họ.

          Nước Thiên Chúa đã thật sự đến với ta là những người mang danh Kitô hữu, nhưng vẫn còn có rất nhiều người chưa được biết nước Thiên Chúa. Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng ta là ngôn sứ của Chúa, và chúng ta cũng có nhiệm vụ loan báo Nước Thiên Chúa cho người khác. Lời loan báo tuyệt hảo nhất đó là chính đời sống chứng nhân của ta. Từng ánh mắt, từng nụ cười, lời nói, hành động trong tình yêu thương của ta là những phương thế hiệu quả để ta minh chứng rằng Thiên Chúa đang hiện diện và Nước Thiên Chúa đã đến.

SỰ CHẾT – MỘT HÀNH TRÌNH BIẾN ĐỔI

SỰ CHẾT – MỘT HÀNH TRÌNH BIẾN ĐỔI

 Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn

Sự sống con người được hình thành hết sức kỳ diệu, ta gọi là mầu nhiệm sự sống.  Nó mang một giá trị đặc biệt, vì thế cần phải được cứu chuộc.  Nó không được dựng nên để rồi tiêu tan vĩnh viễn nên phải được biến đổi.

Thiên Chúa đã đặt để trong sự sống con người một sự biến đổi lạ lùng nhằm diễn tả sức mạnh quyền năng của Ngài mà không ai có thể làm hơn được.

Cuộc sống con người là một hành trình biến đổi liên tục về thể xác lẫn tinh thần.  Tất cả đều mang dấu chỉ cho sự phong phú và trật tự kỳ diệu của Đấng Tạo Hoá.  Hành trình biến đổi này còn được nhìn thấy rõ hơn trong sự chết của con người.  Sự chết không là một biến cố chấm dứt trạng thái nào đó của thân xác, tinh thần, linh hồn người ta, nhưng là đi vào một hành trình biến đổi từ trong sâu thẳm của nó.

Mang thân phận xác đất vật hèn là hình bóng của sự mau qua chứ không phải là sự hư không.  Bởi thân xác này đã được dựng nên một cách rất công phu và được cứu chuộc còn lạ lùng hơn nữa.  Do nó được mặc lấy hình ảnh Thiên Chúa, được thánh hiến qua Bí tích Rửa Tội, được trở nên đền thờ Chúa Ba Ngôi, được cứu chuộc bằng giá máu Đức Giêsu nên phải cho nó được sống theo những tính chất ấy mỗi ngày một trọn vẹn hơn.

Dù sự chết có làm cho thân xác người ta rữa nát đi thì cũng không làm mất hình ảnh Thiên Chúa nơi họ.  Nếu Thiên Chúa là thánh thiện tuyệt đối, vẻ đẹp tuyệt đối mà vẫn còn hiện diện trong con người rất tội lỗi, rất xấu xí thì Thiên Chúa cũng không bao giờ chịu mờ đi nơi một thân xác đã chết và dần dần bị tan rã trong lòng đất.  Ngài chỉ hiện diện một cách khác mà thôi.  Vì thế, người ta mới trân trọng hài cốt kẻ chết, viếng thăm nghĩa trang… vì tin ở yếu tố thiêng liêng còn tồn tại nơi kẻ chết.

Khi ngôi nhà là thân xác con người được dọn dẹp sạch sẽ, trang hoàng đẹp đẽ để trở nên một ngôi đền thờ qua Bí tích Thánh Tẩy thì Thiên Chúa sẽ ngự trong họ. “Ta sẽ ngự nơi này vì Ta ưa thích.”  Dấu ấn của bí tích sẽ không phai mờ nói lên sự hiện diện sống động của Thiên Chúa và người ta sẽ được Thiên Chúa biến đổi.  Ai đã chết đi cho tội lỗi thì cũng đựơc cùng Người sống lại (x. Rm 6,8-11).  Thánh Phaolô đã nói về phép Rửa Tội chính là cuộc tái sinh, cuộc biến đổi trong Chúa Kitô để mãi mãi họ thuộc về Người.  Vậy dù có phải chết thì họ vẫn được sống, vẫn được biến đổi nên mới và rất mới nữa. 

Thiên Chúa chỉ muốn ngày càng trở nên rõ nét và sống động trong con người, hầu người ta có thể cảm nghiệm và dễ gặp gỡ Người mà thôi (x. Mt 25,31-46), nhưng dường như người ta muốn từ chối và tránh né.  Làm sao người ta có thể biến đổi được nếu chúng ta cứ xa cách Ngài, chạy chốn Ngài?  Tuy nhiên, đối với những ai Ngài đã yêu thương hay luận phạt thì nào ai có thể lẩn trốn trước thánh nhan Ngài được?  Cuộc đời của Augustinô, Phanxicô Xaviê, Inhaxiô… là những bằng chứng rõ rệt.

Ngang qua thân phận người, Thiên Chúa muốn để lại dấu vết mà đôi khi chúng ta không được nhìn thấy trực tiếp Ngài như ông Maisen ngày xưa chỉ được nhìn thấy lưng của Giavê Thiên Chúa (x. Xh 3,1-6).  Cần phải được biến đổi từ từ và chỉ được nên trọn vẹn qua cái chết, vì người ta không thể thấy được tất cả mọi sự bằng con mắt thể xác.  Chỉ có con mắt linh hồn, con mắt đức tin mới thấy được tất cả trong vinh quang Thiên Chúa, nơi mà người ta không còn khóc lóc, than van đau đớn, không còn dựng vợ gả chồng nữa (x. Mt 22,23-33).  Con người được biến đổi từ trong thân phận, trong cái nhìn, trong niềm tin và trong sự chết để trở nên hoàn hảo duy nhất nơi Thiên Chúa.  Hành trình đó là một diễn tả về trật tự nơi thụ tạo, một hồng ân của Thiên Chúa và giá trị của ơn cứu rỗi được thực hiện cho con người.  Khi người ta nhận ra được những giá trị ấy, họ thấy luôn cần phải được biến đổi không ngừng để trở nên giống Thiên Chúa bao nhiêu có thể.  Như vậy, tự thân mình, sự chết không làm cho người ta nên giống Thiên Chúa nhưng là cả một hành trình dài xảy ra trước và sau khi chết nữa.

Đức Giêsu đã đi vào hành trình biến đổi này trong Thánh Thần dưới quyền năng của Thiên Chúa Cha.  Cuộc biến đổi của Ngài qua sự chết để đi vào vĩnh cửu, để đổ tràn Thần Khí cho những ai thuộc về Ngài.  “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác anh em được sự sống mới” (Rm 8,11).  Công cuộc thực hiện này nằm trong quy trình của Thiên Chúa giúp cho người Kitô hữu không còn lo sợ về tương lai cuộc sống đời đời vì họ đã thuộc trọn về Đức Kitô qua ơn tái sinh của Thần Khí.  Và cũng chính nhờ lòng tin mà người ta được nên công chính (x. Rm 4).

Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn

From Langthangchieutim

Gia đình bà góa quá ẩn tượng cả mười người con đi tu

SVCONGGIAO.NET
Gia đình bà góa quá ấn tượng vì có mười người con thì đi tu cả mười Một người mẹ đã nỗ lực tần tảo nắng mưa trưa tối nuôi 10 người con hết sức trưởng thành. Ấn tượng hơn nữa là người mẹ vĩ đại này lại chỉ là một go…

GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG NGƯỜI MẸ!

GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG NGƯỜI MẸ!

Tục ngữ Do Thái có câu: “Thiên Chúa không thể ở mọi nơi, nên Ngài đã tạo dựng những người mẹ” (God could not be everywhere, so He made mothers). Đây là tình cảm lâu dài và tốt đẹp. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng nhờ đảo ngược câu nói mà chúng ta đến gần chân lý hơn: “Thiên Chúa có thể ở mọi nơi và chứng tỏ điều đó bằng cách tạo dựng những người mẹ” (God could be everywhere and proved it by creating mothers). Hình ảnh này phù hợp với nhận xét của tiểu thuyết gia Hoa Kỳ William Makepeace Thackeray, trong cuốn Vanity Fair (Hội chợ Phù phiếm): “Mẹ là danh xưng đối với Thiên Chúa trên những đôi môi và trong những trái tim của những người con bé bỏng.”

   Người mẹ không thể thay thế Thiên Chúa, nhưng hành động như người trung gian chuyển lòng nhân từ của Thiên Chúa sang những người khác. Dĩ nhiên, người ta có thể phản bác rằng người cha cũng làm điều này. Điều này đủ mức thật. Nhưng có điều gì đó trong đặc quyền về cách thức mà người mẹ bộc lộ sự hiện hữu của Thiên Chúa. Theo cách mầu nhiệm nào đó, điều đó như thể người mẹ có được vậy, một kinh nghiệm đối diện của Thiên Chúa.  Điều này có thể đáng hoan nghênh hơn nếu chúng ta hiểu vai trò của Đức Mẹ là nguyên mẫu tâm linh của mọi người mẹ.

Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nhận xét về Đức Mẹ “Mẹ giữ trong lòng bí mật làm Mẹ Thiên Chúa, là người đầu tiên được thấy Thiên-Chúa-làm-người, hoa trái của lòng mẹ.”  Khái niệm về việc Đức Mẹ là người trần tục đầu tiên Mary thấy Thiên Chúa vừa gây ngạc nhiên vừa soi sáng. Là mẫu gương của những người mẹ, kinh nghiệm này gồm cả bản chất làm mẹ và mẫu gương của các phụ nữ đã từng sinh con.

   Nếu ông bà nguyên tổ coi Thiên Chúa là Cha nghiêm khắc theo cách nào đó, thì các thế hệ đều tôn kính Đức Mẹ là người hiền từ và dễ gần gũi.  Nathaniel Hawthorne bày tỏ tình cảm này đẹp hơn trong cuốn Blithedale Romance khi ông viết: “Tôi luôn ganh tỵ với người Công Giáo về Đức Tin của họ nơi Đức Trinh Nữ thánh thiện và ngọt ngào, Đức Mẹ đứng ở giữa họ và Thiên Chúa, che chắn sự chói lọi uy nghiêm của Ngài, nhưng cho phép Tình Yêu Chúa tuôn đổ trên người thờ kính theo cách hiểu của con người qua vị trung gian của sự dịu dàng nữ tính.”

   Thánh Augustinô nói rằng sự dịu dàng từ mẫu đặc biệt này có thể thấy ngay ở những con thú hung dữ – như người Việt nói: “Cọp dữ không ăn thịt con.”  Ông nhận xét trong The City of God (Thành phố của Thiên Chúa): “Có con cọp cái nào không thương và không vuốt ve con nó?” Ngược với câu tục ngữ Do Thái nói ở trên, chúng ta có thể ám chỉ câu tục ngữ Tây Ban Nha: “An ounce of mother is worth a ton of priests” (Tạm dịch: “Một lạng người mẹ đáng một tấn linh mục”).

   Khái niệm về “sự nhiệt thành” đã thôi miên người Hy Lạp cổ đại. Thế giới không thể là một nơi, như Democritus ước đoán, không có gì hơn một số nguyên tử không thể đếm xuất hiện trong rất nhiều hình thể.  Nghĩa là có thể tính toán đối với sự nhiệt thành tìm được sự hưng phấn và niềm vui trong kinh nghiệm sống bằng cách nào?  Sự hưng phấn là hoạt động tâm linh không thể giải thích bằng vật chất.  Người ta đã nghi ngờ nhiều thứ: nhân đức, chân lý, kiến thức, và ngay cả tình yêu.  Nhưng không ai có thể nghi ngờ thực tế khả nghiệm của sự hăng hái.  Thế giới hiện đại của chúng ta vẫn liên kết với sự thấu hiểu này của người Hy Lạp cổ đại.  Từ ngữ “sự nhiệt thành” theo tiếng Hy Lạp là enthusiasmos, được rút từ chữ entheos có nghĩa là “được Thiên Chúa sở hữu” hoặc “được Thiên Chúa linh ứng.”  Người Hy Lạp tin rằng một người có thể hít thở bằng cuộc sống của Thiên Chúa, người đó có thể là người đem đến tinh thần của Ngài.  Họ tin rằng con người có thể là “bình chứa” đối với Thiên Chúa.  Một trong những từ đối với sự sống là zoe, không ám chỉ sự sống rộn ràng trong mỗi người, mà nói đến sự sống có thể được chia sẻ với người khác. Khái niệm này về sự sống là nền tảng không thể thiếu đối với khái niệm của Kitô giáo về sự sống của Thiên Chúa, hoặc ân sủng, điều có thể chia sẻ trong chúng ta, và với Mẹ Maria và những người mẹ theo cách đặc biệt.  Đời sống của Đức Mẹ với Chúa Con là sự sống cao tới mức ưu việt.

    Hồng Y Joszef Mindszenty, người can đảm bảo vệ Giáo Hội trong thời gian cộng sản chiếm lĩnh Hungary, đã dành tình cảm mạnh mẽ với cương vị người mẹ.  Trong cuốn The Mother (Người Mẹ), ngài viết hùng hồn bày tỏ lòng tôn kính những người mẹ, nhấn mạnh sự gần gũi của họ đối với Thiên Chúa:

 “Người quan trọng nhất trên thế gian này là người mẹ.  Bà không thể đòi hỏi lòng tôn kính của việc xây dụng Nhà Thờ Đức Bà.  Bà không cần.  Bà đã xây dựng cái gì đó quan trọng hơn bất cứ Nhà Thờ nào – sự cư ngụ đối với một linh hồn bất tử, sự hoàn hảo gọn gàng của cơ thể đứa trẻ.  Các thiên thần không được chúc lành bằng ân sủng như vậy.  Các thiên thần không thể chia sẻ phép mầu sáng tạo của Thiên Chúa là đưa những vị Thánh mới vào Thiên Quốc.  Chỉ có người mẹ khả thi.  Những người mẹ gần gũi với Thiên Chúa Tạo Hóa hơn bất cứ sinh vật nào, Thiên Chúa liên kết các sức mạnh với những người mẹ trong việc sáng tạo.  Còn gì vinh quang hơn là được làm mẹ?”

Donald Demarco,
bản dịch của Trầm Thiên Thu

từ IntegratedCatholicLife.org From: Nguyen Kim Bang

CHẾT CHO ĐÚNG

CHẾT CHO ĐÚNG

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Tôi không muốn chết vì bệnh, tôi muốn chết vì chết!

Ivan Illich đã viết thế. Vậy nghĩa là gì? Chẳng phải ta đều chết vì chết sao? Dĩ nhiên, thực sự chúng ta đều chết vì chết, nhưng trong quan niệm của chúng ta, thường chúng ta chết vì bệnh, hay vì xấu số, do ung thư, bệnh tim, tiểu đường hay do tai nạn. Đôi khi do cách nghĩ của mình, mà chúng ta thấy ta chết vì bệnh.

Đó là điều mà Ivan Illich đang cố nhấn mạnh. Phải đối diện và tôn trọng cái chết như một cảm nghiệm nhân sinh bình thường, chứ không phải như một thất bại về mặt y khoa. Chết là chuyện không thể nào tránh và phải hiểu đó là một mốc trưởng thành cần thiết, một sự mà chúng ta được định về mặt hữu cơ và tinh thần, chứ không phải là sự bừa bãi sai sót trong vòng đời, không phải là một sự bất thường có thể tránh được. Chúng ta cần hiểu cái chết như người phụ nữ đang lâm bồn chờ đứa con ra đời, không phải một chuyện bất thường hay một can thiệp y khoa nguy hiểm mà là như một sự triển nở trọn vẹn của tiến trình sống.

Chúng ta trả giá cho quan niệm sai lầm của mình về cái chết, một cái giá đắt hơn chúng ta tưởng. Khi xem cái chết là sự thất bại của y khoa hay một vận rủi, thì nó biến thành một bóng ma đe dọa, và một bóng tối đáng sợ mà chúng ta không dám đương đầu cách ý thức và không dám tìm hiểu nó.

Ernest Becker có nói về một thứ mà ông gọi là “chối bỏ cái chết” và cho rằng khi từ chối đối diện, và tôn trọng cái chết như một tiến trình tự nhiên thay vì một chuyện bất thường, là chúng ta đang tự bần cùng hóa mình vô cùng.  Khi sợ hãi một cách sai lầm đối với cái chết, thì ý thức mơ hồ về sự khả tử của chúng ta trở thành một góc tối mà chúng ta tránh xa.  Chúng ta phải trả giá cho điều này, ngược đời thay, khi sợ cái chết là chúng ta không thể sống cho đúng đắn.

Trong nhận thức về sự sống, Martin Heidegger cũng xác nhận như thế. Ông cho rằng mỗi chúng ta là “hữu thể hướng đến cái chết”, nghĩa là từ lúc sinh ra chúng ta đã có một tình trạng mãn tính gọi là cuộc đời, và chúng ta chỉ có thể gạt đi nỗi sợ sai lầm kia nếu mình sống đời mình với sự thật không thể bàn cãi đó. Chúng ta đang chết. Cách nói của ông có thể khiến ta thấy phức tạp, nhưng như Illich, ông nêu ra một điểm tích cực. Với Heidegger, xét cho cùng, chúng ta không chết vì bệnh hay vì vận rủi. Chúng ta chết vì tự nhiên có tiến trình của nó, và tự nhiên điều hành tiến trình đó, và chúng ta sẽ tận hưởng cuộc sống của mình hơn nếu như biết tôn trọng tiến trình tự nhiên đó, vì khi chấp nhận là mình biết trân quý hơn các thời khắc sống và yêu.

Mỉa mai thay, việc trợ tử, với mọi luận điệu phức tạp của nó cho rằng nó giúp chúng ta kiểm soát cái chết, lại là thứ khiến chúng ta chết vì bệnh chứ không phải chết vì chết.

Dĩ nhiên, muốn chết vì chết chứ không phải vì bệnh, không có nghĩa là chúng ta không xem trọng y khoa, và tác dụng của nó với sức khỏe và cứu mạng cho mình. Chúng ta bị cưỡng bách bởi bản chất, bởi những người thân yêu, bởi thường thức, và bởi một nguyên tắc không thể thay đổi trong luân lý, đòi chúng ta phải thực hiện mọi biện pháp y khoa thông thường có thể để gìn giữ sức khỏe. Y khoa hiện đại thật tuyệt vời, và nhiều người trong chúng ta, kể cả tôi, được sống đến hôm nay chính là nhờ y khoa hiện đại. Nhưng chúng ta cũng phải làm rõ rằng khi chúng ta chết, không phải vì thất bại y khoa, mà vì cái chết là cùng đích tự nhiên của chúng ta. Khi vừa sinh ra khỏi lòng mẹ, là đã xác định sẽ có một lúc chúng ta cần được sinh ra lần nữa từ lòng đất.

Hơn nữa, đón nhận cái chết như thế không phải là kiểu khắc kỷ, tiêu cực xóa bỏ mọi vui thú trong đời. Ngược lại, như bất kỳ ai từng rơi vào tình trạng cận tử, họ sẽ cho chúng ta biết cái chết sẽ làm cho mọi thứ trong đời càng quý giá hơn bao giờ hết, bởi họ không còn xem chúng là thứ mặc nhiên.

Cần chú ý điểm này. Không cần nói chuyện này với giới trẻ, những người chối bỏ cái chết dữ dội, và với nguyên do tốt. Dù người trẻ không nên cố ý lờ đi sự khả tử hoặc sống như thể mình sẽ không bao giờ chết, nhưng người trẻ chưa nên tập trung vào cái chết. Việc của họ là xây dựng tương lai cho mình và cho thế giới. Họ có thể đối diện với cái chết sau. Nói một cách ẩn dụ, là họ cần tập trung hơn vào việc nuôi dưỡng bào thai hơn là lo chuyện lâm bồn.

Và trong những lời dạy của Chúa Giêsu có một điều nghịch lý vô cùng. Ai cố giữ mạng sống mình thì sẽ mất, và ai thí mạng sống mình thì sẽ tìm được nó. Hẳn Ivan Illich sẽ đồng ý như thế.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

MẦU NHIỆM CÁNH CHUNG

MẦU NHIỆM CÁNH CHUNG

Lm. GB. Trần Văn Hào

Trong những Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội mời gọi chúng ta suy nghĩ về cuộc sống mai sau, cuộc sống mà chúng ta đang vươn hướng tới. Nghĩ về cái chết và cuộc sống mai hậu không phải là một thái độ mang vẻ bi quan, nhưng ngược lại, đây là cách thức để khơi dậy niềm hy vọng và giúp chúng ta sống cuộc sống hiện sinh cho thật ý nghĩa. Chúng ta vẫn tuyên xưng đức tin khi đọc kinh Tin kính: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau.” Đó là niềm hy vọng cánh chung của mọi Kitô hữu, bởi vì chết không phải là hết. Cái chết không kết thúc cuộc sống chúng ta một cách vô nghĩa, nhưng nó chính là cửa ngõ đưa dẫn chúng ta vào cuộc sống vĩnh hằng.  Đây cũng là sứ điệp mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay gợi mở.

Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.

Trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Luca thuật lại cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và nhóm Saducêo. Nhóm này không tin có sự sống lại.  Đối với họ, chết là một dấu chấm hết. Những người Saducêo đưa ra câu chuyện giả định và có tính ngụy tạo về một phụ nữ có 7 đời chồng để gài bẫy Đức Giêsu.  Nếu Chúa trả lời có sự sống lại, thì không thể giải quyết vấn đề ai là chồng chính thức của người phụ nữ ấy trong cuộc sống mai sau, còn nếu Chúa trả lời không, đương nhiên họ có thêm một đồng minh. Tình thế tiến thoái lưỡng nan. Câu trả lời của Chúa Giêsu là một khẳng định chắc chắn mang tính thần khải về sự sống lại trong ngày sau hết. Tuy nhiên Ngài không nói rõ cuộc sống ấy sẽ như thế nào, vì tâm địa hẹp hòi của người Do thái lúc bấy giờ chưa thể lãnh hội được chân lý của mầu nhiệm. Ngài chỉ cho họ biết rằng trong đời sống mới, con người sẽ sống như các thiên thần, không còn chuyện dựng vợ gả chồng như cuộc sống hôm nay. Chúa cũng từ từ vén mở cho chúng ta biết về thực tại cánh chung. Trong cuộc sống mai hậu sẽ không còn khổ đau và chết chóc, bởi vì con người đi vào cuộc sống trường cửu.

Thời cựu ước, tư tưởng về cuộc sống mai sau rất mờ nhạt. Sách Macabê là quyển sách đầu tiên nói về sự sống lại. Bảy anh em nhà Macabê đã can đảm tiếp nhận cái chết với niềm tin tưởng này. Trước khi lìa đời, họ đã nói với vua Antiôkhô: “Chúng tôi chết vì luật pháp của vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời (2Mac 7, a)” hoặc “Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại. Còn vua, vua sẽ không được sống lại để hưởng sự sống đời đời đâu” (c.14). Sau này, khi Guiđa thắng trận và thu gom các tử thi, ông đã gom tiền gửi về Giêsusalem để dâng lễ tạ tội cầu cho những người đã chết. Tác giả thư Macabê còn chú thích thêm: “Thật thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho kẻ đã chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn (2 Mac 12,44). Niềm tin về sự sống lại mai sau được Đức Giêsu dần dần khai sáng. Thánh Phaolô đã nhắc đi nhắc lại về niềm tin này, như trong Rm chương 8; Rm 6,8; 1 C 15,20-23; 2 C4, 14-15; Pl3, 20; 2Tm2,8-13 v.v…

Mọi người đều phải chết

 Để chuẩn bị cho cuộc sống mai sau, chúng ta phải đi qua cái chết.  Đây là một thực tại mà không ai có thể trốn tránh. Ngày xưa vua Tần Thủy Hoàng đã sai phái cả ngàn y sĩ tài giỏi đi khắp nơi săn lùng những thang thuốc quý để ông được trường sinh bất tử, nhưng cuối cùng ông cũng phải chết giống như mọi người. Biết bao anh hùng hào kiệt đã lẫy lừng một thời, được mọi người ca tụng như những vĩ nhân ‘đời đời sống mãi’, nhưng tất cả cũng đều đã chết. Xác của họ có đặt trong những lăng tẩm nguy nga để mọi người đến kính viếng, cũng chỉ là một nắm xương khô mà thôi. Triết học kinh điển của Hy Lạp nổi tiếng với tam đoạn luận ‘Mọi người đều phải chết, Socrate là người, nên(ergo) Socrate cũng phải chết’. Tam đoạn luận ấy cũng được ứng dụng cho mỗi người trong chúng ta.

Là Kitô hữu, chúng ta chuẩn bị đón nhận cái chết như thế nào.

 Triết gia Jean Guitton, bạn thân của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị có kể lại một giai thoại. Hồi còn bé, ban đêm ông ngủ bên mẹ. Nhà hàng xóm bên cạnh có người chết.  Giữa đêm khuya vắng, có tiếng khóc não nuột vang lên.  Đứa bé sợ quá ôm chầm lấy mẹ.  Nó hỏi mẹ: “Mẹ ơi, chết là gì hả mẹ?” Câu hỏi của đứa bé khiến bà mẹ trẻ lúng túng không biết trả lời làm sao. Bà bật ngồi dậy vào bàn và mở Kinh Thánh ra đọc. Trong Tin Mừng Gioan, bà đọc thấy đoạn viết: “Trước lễ Vượt qua, Đức Giêsu biết giờ của Ngài đã đến, Ngài phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Ngài vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Ngài yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Gấp sách lại, bà trở về giường nói với đứa trẻ: “Con ơi, chết là trở về với Chúa Cha và yêu thương đến cùng.”

 Đây là khuôn mẫu từ cái chết của Chúa Giêsu để giúp chúng ta suy gẫm và chuẩn bị đón nhận cái chết nơi mình. Khi mang thân phận con người, Chúa Giêsu đã từng run sợ khi đối diện trước cái chết. Ngài sợ đến mức độ mồ hôi và máu toát ra. Tác giả thơ Do Thái đã viết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết.  Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ (Dt5,7). Mọi người chúng ta cũng vậy, theo bản năng tự nhiên, ai cũng sợ hãi khi tiếp cận cái chết. Nhưng với niềm tin và lòng yêu mến, chúng ta sẽ chiến thắng. Thánh Phaolô đã khẳng quyết: “Tình yêu mạnh hơn sự chết’’ (Rm 8, 39). 

Thánh nữ Têrêsa trên giường hấp hối đã nói với các chị em trong cộng đoàn: “Em sắp chết, nhưng không phải em chết mà em đang tiến về cõi sống.”  Mới đây người ta cho đăng hình một nữ tu rất xinh đẹp, lúc nào trên môi cũng nở nụ cười cho dầu đang phải chiến đấu chống lại những đau đớn do bệnh ung thư. Vị nữ tu này khi chết, trên gương mặt xinh xắn vẫn nở một nụ cười rất tươi. Người phụ nữ trẻ này đã an bình trở về với Chúa và kết thúc cuộc hành trình trần gian không một chút lưu luyến.

Kết luận:

Một linh mục nọ tổ chức tại giáo xứ một lễ an táng khá đặc biệt. Ngài báo trước từ lâu để đông đảo mọi người đến tham dự. Giữa nhà thờ ngài đặt một cỗ quan tài. Theo truyền thống, trước khi đưa thi hài ra phần mộ, quan tài được mở nắp để từng người đến tiễn biệt người quá cố lần cuối. 

Nhưng khi mọi người nhìn vào quan tài để xem người nằm trong đó là ai, họ không thấy gì, chỉ thấy một tấm gương lớn, phản chiếu chính khuôn mặt của họ. Vị linh mục chú thích:“Mỗi ngày anh chị em hãy tự mai táng chính mình.”

 Thiên Chúa là tình yêu. Nếu chúng ta sống sung mãn trong tình yêu, chúng ta sẽ trở nên bất tử vì được thông dự vào bản tính củaThiên Chúa, là Đấng không bao giờ chết. Đây là phương cách giúp chúng ta thực hành để đạt đến sự bất tử trong cuộc sống vĩnh hằng mai sau.

Lm. GB. Trần Văn Hào

From: Langthangchieutim

Cuộc sống mai sau

Cuộc sống mai sau

(Suy niệm Tin mừng Lu-ca (20, 27-38) trích đọc vào Chúa nhật 32 thường niên)

 Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Niềm tin vào cuộc sống mai sau đã bén rễ sâu vào tâm trí nhân loại từ rất xa xưa.

Khi mai táng người chết, các bộ tộc thời thượng cổ chôn cả những dụng cụ săn bắn chung với người qua đời vì tin rằng người quá cố sẽ tiếp tục sử dụng chúng khi bước qua thế giới khác.

Các vua chúa Trung quốc thời xưa thì cho chôn luôn cả hoàng hậu, phi tần, quân hầu… theo mình để những người này tiếp tục hầu hạ, phục dịch nhà vua trong thế giới bên kia.

Người Bana, Jarai cùng một số các dân tộc khác đang sinh sống ở Tây Nguyên tin rằng khi qua đời, người chết lại bắt đầu một cuộc sống mới, tiếp tục lao động, sản xuất, sinh sống như ở cõi trần. Vì thế, người ta chôn theo người chết nhiều vật dụng từ các loại nông cụ đơn giản như liềm để cắt lúa; rìu và xà gạt để chặt cây, phát rừng làm rẫy; xà bách để làm cỏ… đến các thứ chén bát, xoong, nồi, vàng bạc… để khi về thế giới bên kia, người chết có của mà dùng.

Tại Việt Nam, mỗi năm vào chiều ngày 30 tết, nhiều gia đình có nghi lễ đón rước ông bà cha mẹ đã qua đời về ăn tết với con cháu, trình báo lên ông bà tổ tiên những sinh hoạt quan trọng trong năm, rồi có lễ đưa tiễn ông bà vào chiều mồng 3 tết.

Những hình thức tín ngưỡng này biểu lộ niềm tin vào linh hồn, vào sự sống đời sau.

Tuy nhiên, thời xưa cũng như hiện nay, vẫn còn nhiều người không chấp nhận sự sống đời sau, trong số đó, có những người thuộc phái Xa-đốc thời Chúa Giê-su, được thuật lại trong Tin mừng thánh Lu-ca trích đọc hôm nay.

Chúa Giê-su dạy có sự sống đời sau

Khi những người thuộc phái Xa-đốc đến chất vấn Chúa Giê-su về cuộc sống đời sau, Chúa Giê-su khẳng định là có. Ngài dạy rằng có “những người được xét là đáng được hưởng phúc đời sau thì không còn chết nữa. Họ giống như các thiên thần” (Lc 20, 36).

Đặc biệt là qua dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng, Chúa Giê-su cũng tỏ cho thấy kẻ dữ thì “phải ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng lấy sự sống muôn đời” (Mt 25,46). Như thế, Chúa Giê-su khẳng định không những có cuộc sống đời sau mà còn cho biết cuộc sống đó sẽ kéo dài “muôn đời muôn kiếp.”

Ngoài ra, Chúa Giê-su còn báo cho ta biết có sự sống đời sau khi đoan hứa rằng: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở… Thầy đi dọn chỗ cho anh em.  … và Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 1-2).  

Ngoài những lời dạy của mình, Chúa Giê-su còn dùng cả cuộc đời của Ngài để minh chứng cho thấy có cuộc sống đời sau.

Sự kiện Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết chứng tỏ có sự sống đời sau

Dù là Thiên Chúa quyền năng, Chúa Giê-su đã trở nên hoàn toàn là người như chúng ta, đã sống kiếp phàm trần như chúng ta, đã chết như chúng ta và qua ngày thứ ba, Ngài đã từ trong cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển. Điều nầy chứng tỏ loài người có sự sống đời sau.

 Công trình cứu chuộc của Chúa Giê-su chứng tỏ có sự sống đời sau

Nếu không có cuộc sống đời sau, không có thiên đàng hoả ngục, con người chết rồi là hết, và sau khi chết, ai cũng chỉ còn là tro bụi như ai… thì Chúa Giê-su chịu khổ nạn cách đau đớn và chịu chết tức tưởi, ô nhục trên thập giá để làm gì? Cái chết đau thương của Chúa Giê-su trên thập giá chẳng mang lại lợi ích gì cho bất cứ ai. Cuộc khổ nạn đó hoàn toàn vô ích. Chẳng lẽ Ngôi Hai Thiên Chúa lại chịu khổ nạn và chịu chết cách vô ích sao?

Chính vì muốn cứu loài người khỏi phải án phạt đời đời trong hỏa ngục và để cho họ được tiến vào thiên đàng hưởng phúc đời sau nên Chúa Giê-su đã không ngại trao hiến thân mình chịu chết đau thương như thế. Điều nầy chứng tỏ cuộc sống mai sau hoàn toàn có thực.

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho niềm tin vào cuộc sống đời sau trở thành một động cơ mạnh mẽ thúc đẩy chúng con sống tốt lành thánh thiện để mai đây được hưởng phúc đời đời.

Xin cho niềm hy vọng nầy cũng thúc đẩy chúng con hy sinh cầu nguyện nhiều hơn, siêng năng dâng lễ nhiều hơn trong tháng 11 nầy để cầu cho ông bà cha mẹ và các tín hữu đã ra đi trước chúng con được về quê trời vui hưởng hạnh phúc ngàn thu.

 Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Tin Mừng Luca 20, 27-38

27 Có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại.28 Mấy người ấy hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình.29 Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết.30 Người thứ hai,31 rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào.32 Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết.33 Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ? “

 34 Đức Giê-su đáp: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng,35 chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng.36 Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.37 

 Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham,Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp.38 Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.”

From: ngocnga_12 & NguyenNThu