Do đâu con người có linh hồn?  

Do đâu con người có linh hồn?  

Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé, ước mong bạn đừng quá bận với công việc phần xác mà quên đi nỗi khắc khoải  của con tim đang khao khát Chúa.

Cha Vương

Thứ 3: 8/2/2022

GIÁO LÝ: Do đâu con người có linh hồn? Linh hồn người ta do Thiên Chúa trực tiếp dựng nên, chứ không phải là “sản phẩm” bởi cha mẹ. (YouCat, số 63)

SUY NIỆM: Hồn của con người không thể là sản phẩm do tiến trình biến hóa của vật chất, cũng không phải là kết quả của cha mẹ sinh ra. Mỗi con người sinh ra là một ngôi vị độc nhất và linh thiêng, Hội Thánh giải nghĩa mầu nhiệm này như sau: Thiên Chúa ban cho ta một linh hồn không thể chết được, dù khi ta chết ta phải lìa khỏi xác để chờ khi sống lại xác được nhập lại với ta. Nói “Tôi có linh hồn” có nghĩa là: “Thiên Chúa không tạo dựng tôi như một sự vật, nhưng như một ngôi vị và mời gọi tôi có quan hệ không ngừng với Người”. (YouCat, số 63 t.t)

❦   Nhờ có nguồn gốc từ trái đất, con người được liên kết với mọi sinh vật, nhưng chỉ nhờ có linh hồn do Thiên Chúa “thổi vào” họ mới là người. Điều đó ban cho họ một phẩm giá độc nhất, nhưng đồng thời cũng trao một trách nhiệm độc nhất. (Hồng y Christoph Schönborn, 1945, Tổng giám mục Áo)

LẮNG NGHE: Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục. (Mt 10:28)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, xin cho con luôn biết khát khao đi tìm gặp Chúa để nhờ đó tâm hồn được vui vẻ và thảnh thơi.

THỰC HÀNH: Hôm nay mời bạn hãy từ bỏ một nhu cầu vật chất để tâm hồn chỉ biết khát khao ơn Chúa.

From: Đỗ Dzũng

Linh hồn là gì?

Linh hồn là gì?

Những ngày Tết ăn nhậu quá! Chúc bạn ngày Thứ 2 đi đứng nhẹ nhõm như con cọp vậy nhé. Đừng quên cầu nguyện cho nhau.

Cha Vương

Thứ 2: 07/02/2022

GIÁO LÝ: Linh hồn là gì vậy? Linh hồn là cái làm cho ta thành một con người. Nó là nguyên lý linh thiêng của sự sống, và là cái sâu thẳm nhất trong con người. Linh hồn làm cho thể xác vật chất trở nên thân xác sống động của con người. Nhờ linh hồn, con người có thể xác nhận cái “Tôi” của mình, và đứng trước Thiên Chúa như một cá thể không ai thay thế được. (YouCat, số 62)

SUY NIỆM: Con người là một hữu thể có xác và hồn. Hồn con người có phận vụ khác hơn phận vụ xác và không thể cắt nghĩa được dựa theo cấu tạo sinh lý của họ. Trí khôn nói cho ta rằng: “phải có một nguyên lý linh thiêng nối kết với xác, mà không vì thế cũng giống y như xác. Ta gọi là «hồn». Mặc dù không thể dùng khoa học để chứng minh là có linh hồn, tuy nhiên nếu không đếm xỉa tới cái yếu tố linh thiêng làm chủ vật chất này, ta không thể hiểu được rằng con người là một hữu thể linh thiêng.

❦ Hãy làm điều gì tốt cho xác bạn, để hồn bạn được vui vẻ ở trong xác. (Thánh Têrêsa Avila)

❦ Con người trở nên thực sự là con người khi hồn và xác

hiệp nhất sâu xa với nhau… Nếu con người chỉ muốn là tinh thần và muốn từ bỏ thể xác vì là di sản của sinh vật, thì cả tinh thần lẫn thể xác đều mất hết phẩm giá. Đàng khác, nếu họ muốn từ bỏ tinh thần và coi vật chất, coi thân xác như thực tại duy nhất của mình thôi, thì họ cũng mất giá trị cao cả của mình. (Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI), (YouCat, số 62 t.t)

LẮNG NGHE: ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật. (St 2:7)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa đã dựng nên con có xác và hồn để nhận biết, phục vụ và yêu mến Chúa, xin giúp con biết sống đúng với vai trò làm con của mình để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài trên Thiên Đàng.

THỰC HÀNH: Hằng ngày bạn tập trung rất nhiều thời gian và lỗ lực để chăm sóc cho thân xác mà lơ là phần linh hồn. Nếu linh hồn đòi hỏi nơi bạn hôm nay thì bạn phải trả lời thế nào hả? Thật bất công quá đi thôi! Tập quan tâm đến linh hồn một tí nhé.

From: Đỗ Dzũng  

httpv://www.youtube.com/watch?v=-Q6P2qvO7WU

Linh Hồn Tôi Tung Hô Chúa. Lm Nguyễn Sang, Hương Lan

Dấu Thánh Giá kép

Dấu Thánh Giá kép

Chúc bạn một ngày thật vui và ấm áp trong niềm tin vào Chúa là Đấng tặng cho bạn từng hơi thở mà bạn không phải tốn một đồng xu nào. Nào cùng nhau Tạ ơn Chúa!!!

Cha Vương

CN: 06/02/2022

TIN MỪNG: Bấy giờ tôi thốt lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh!”… Một trong các thần Xê-ra-phim bay về phía tôi, tay cầm một hòn than hồng người đã dùng cặp mà gắp từ trên bàn thờ. Người đưa hòn than ấy chạm vào miệng tôi và nói: “Đây, cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi và xá tội.” (Is 6:5-7)

SUY NIỆM: Người Công giáo Việt Nam khi đọc kinh tối sáng, khi đọc kinh cầu cho thân nhân đã qua đời, thường hay làm Dấu Thánh Giá kép tức là làm dấu hình Thánh giá 3 lần: trên trán, trên môi miệng và trên ngực. Hoặc trong Thánh Lễ, trước khi nghe lời Chúa trong Phúc âm, bạn cũng làm dấu Thánh Giá “kép” trên trán, trên môi miệng và trên ngực. Việc ghi dấu Thánh giá “kép” nhắc nhở bạn 3 điều chính yếu của đời sống đức tin Công Giáo:

1- Vẽ dấu Thánh Giá trên trán, bạn muốn nói: Vâng, con nghe hay đọc lời Chúa với sự hiểu biết của trí khôn con.

2- Trên môi miệng, bạn cũng muốn biểu lộ: Và con còn muốn qua môi miệng loan truyền Lời Chúa mà con đã nghe, đã đọc.

3- Rồi trên ngực, bạn muốn tuyên xưng: Con xin tin và yêu mến Lời Chúa.

Thánh Giáo phụ Gioan Kim Khẩu (347-407 SCN ) dạy rằng: “Trong mỗi hành động, mỗi bước đi, hãy giơ tay làm dấu Thánh Giá. Hãy đóng chặt cánh cửa tâm hồn và hãy bảo vệ làm dấu Thánh Giá trên đầu óc bạn bằng việc ghi dấu Thánh Giá trên trán. [hoặc trên môi, trên ngực] Dấu này sẽ xua trừ ma quỷ, chữa lành bệnh tật tâm hồn. Dấu này là vũ khí bách chiến bách thắng, là tường lũy vững vàng, là khiên mộc chở che vững chắc”.  Nếu bạn thành tâm kiểm điểm lại lời ăn tiếng nói của mình mỗi ngày, có bao giờ môi miệng bạn thốt lên những lời ô uế tục tĩu không? Thật “Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế…” Như ngôn sứ I-sai-a đã được Chúa đưa hòn than chạm vào miệng ông và ông đã được tha tội: “Đây, cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi và xá tội.” thì việc ghi dấu Thánh giá trên môi cũng mang lại cho bạn một hiệu quả tương tự vì dấu Thánh Giá được coi là dấu hiệu mang lại phúc lành và sự che chở. Mời bạn hãy tận dụng dấu Thánh giá đơn sơ đầy ý nghĩa này để xin Chúa thánh hoá môi miệng bạn mỗi ngày nhé.

LẮNG NGHE: Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài. (Tv 51:17)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, lời nói kiêu căng tự phụ tục tĩu làm thoả mãn “cái tôi” như thực ra nó lại làm tổn thương đến những người xung quanh, xin dạy con biết kiềm chế miệng lưỡi và sử dụng nó theo Thánh Ý Ngài, biết cầu nguyện, biết cẩn thận từng lời ăn tiếng nói, khi nào nên nói và khi nào nên im lặng để mang lại bình an và hạnh phúc cho những người con gặp hôm nay.

THỰC HÀNH: Tập là Dấu Thánh Giá kép một cách chậm rãi và kính cẩn để bày tỏ lòng tôn vinh vào quyền năng và sức mạnh của Chúa Cha toàn năng.

From: Đỗ Dzũng

httpv://www.youtube.com/watch?v=yDrNNg75af0

Làm Dấu | Phan Đinh Tùng & Hợp Xướng Thánh Ca Việt Nam

Chúa chọn và gọi

Chúa chọn và gọi

Tác giả:  Huệ Minh

Chúa Nhật V Thường niên

Lc 5,1-11

          Tin Mừng hôm nay tường thuật về mẻ cá lạ lùng mà Phêrô và các bạn được chứng kiến. Đây khám phá chỉ đơn thuần là một phép lạ lớn lao cho ta ngưỡng phục quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng qua dấu lạ này, Chúa Giêsu còn muốn mời gọi ta ra khơi truyền giáo. Và qua tiến trình của phép lạ, Chúa Giêsu đã áp dụng một chương trình đào tạo các môn đệ, đặc biệt là Phêrô, người đứng đầu các môn đệ.

          Thánh Phêrô là một người đánh cá, không phải là môn thể thao, nhưng là kế sinh nhai của thánh nhân. Ngài có một nghề nghiệp. Ngài và những người đồng nghiệp đã làm việc vất vả suốt đêm, đó là thời điểm tốt nhất để đánh cá trong vùng sông hồ này, nhưng họ đã không đánh bắt được gì. Tiếp đó, Chúa Giêsu là một người thợ mộc, đã nói với Phêrô là một người đánh cá, hãy thả lưới một lần nữa. Vấn đề to lớn ở đây, bây giờ là thời điểm tệ hại nhất để đánh cá. Chúng ta có thể nghe được việc nhấn mạnh và xác quyết trong giọng của Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con đã khó nhọc suốt đêm mà không đánh bắt được gì”. Ngài đã trình bày quan điểm với Chúa Giêsu để nhắc Chúa Giêsu đừng quên điều đó nhưng khi ngài thình lình nhận biết mình đang nói với ai.

          Sau một lúc, có lẽ nhìn vào ánh mắt của Chúa Giêsu thấy sự nhấn mạnh trong đôi mắt của Ngài, nên Phêrô nói thêm: “Nhưng nếu Thầy đã phán như thế, con sẽ thả lưới”. Đức tin của Phêrô thì giống như một con trẻ khác xa với những người trưởng thành, nhưng nó đã mạnh đủ để ông đặt sự nhấn mạnh của ông vào từ”Thầy” khi ông nói: “Nếu Thầy nói như vậy con sẽ thả lưới”. Kết quả sự tin tưởng của Phêrô vào Chúa đã đưa đến một mẻ lưới kinh ngạc. Phêrô nghĩ rằng cách của ông là tốt nhất nhưng ông đã học biết rằng cách của Chúa thì tốt nhất.

          Chúng ta chú ý đến nhiều điểm. Đức Giêsu sai Phêrô đánh thuyền ra khơi thả lưới. Chúa biết, khi ra lệnh như thế Người đòi hỏi Phêrô làm một việc trái ngước kinh nghiệm dân chài lành nghề. Thật vậy, Phêrô tin chắc rằng sau một đêm mệt nhọc uổng công, bây giờ là ban ngày, cố gắng cũng vô ích. Tuy nhiên vì vâng lời Chúa, vì tin Chúa, Phêrô thả lưới. Sau khi vớt được mẻ Chúa nhiều quá sức tưởng tượng, ông phản ứng như những tâm hồn ngay thẳng khi đứng trước tôn nhan Chúa: “Lạy Thày, con là một kẻ quá nhiều sai lỗi, một kẻ có tội”. Bằng một giọng uy nghi khích lệ, Chúa cho ông rõ phần thưởng đích thật của cuộc gặp gỡ trên mặt hồ. Qua hình ảnh phép lạ đánh cá, ông thoáng nhìn thấy số mệnh ông.

          “Hãy ra khơi”. Chúa phán thế vì biết ngoài khơi là vùng có nhiều cá. Chúng ta nghĩ đến một Phêrô thuyền trưởng con thuyền Giáo Hội, như ảnh đạo thời xưa thường trình bày. Thày ra lệnh cho ông hãy lái Giáo Hội tiến vào chỗ hiểm nguy là thế giới trong đó cái khối nhân loại sống, lao động và chết. Trên thuyền với thuỷ thủ đoàn là những Kitô hữu, lệnh được ban ra là thả lưới xuống biển mặc dầu đã phí rất nhiều thì giờ mà chẳng được gì. Đức vâng lời đã đem lại một mẻ lưới thần kỳ. Tuy nhiên có phải bao giờ cũng gặt hái được kết quả lạ lùng không? Nếu thế chẳng quá dễ dàng ư? Điều quan trọng là đừng có lạm dụng cách chơi chữ của Chúa khi Người phán bảo Phêrô: “Từ nay ngươi sẽ là kẻ lưới người”. Thật vậy, nhân loại không bị cưỡng bách vào trong “lưới” của Giáo Hội. Ở đây là một thực tại cơn bản hơn: Phêrô và các tông đồ, do một hành vi biểu lộ đức tin trái ngược sự thật hiển nhiên theo quan niệm loài người, đã tỏ ra xứng đáng được Chúa cho biết số phận. Các ông được liên hợp với công cuộc cứu độ của Người trên thế giới.

          Thánh chép sử diễn tả cách đơn giản về một trong những khía cạnh đòi hỏi gắt gao nhất của thiên chức các ông. Giáo Hội đã áp dụng câu đó cho thiên chức tu sĩ và thiên chức linh mục. Phêrô và các bạn không có được gia nghiệp súc tích của thanh niên nhà giàu, nhưng vốn liếng khiêm tốn của các ông, chiếc thuyền đánh cá, căn nhà, thôn xóm, đối với các ông là những gì tha thiết. Các ông cũng như chàng thanh niên đều được kêu gọi bỏ lại mọi sự. Trong thông điệp về sự độc thân của linh múc (đoạn 24), Đức Phaolô VI nhắc đến câu nói trên. Thế giới chúng ta gồm những vùng nước sâu lắm cá cần có những môn đệ bỏ lại mọi sự để theo Đức Kitô.

          Chính Thiên Chúa, bằng cách trực tiếp hay gián tiếp, đã chọn gọi những người làm việc cho Ngài, làm cộng tác viên của Ngài trong công trình cứu chuộc nhân loại. Ngài đã gọi các tiên tri, các tông đồ, đã gọi bao nhiêu người khác, đã gọi chính chúng ta. Những ai được Chúa gọi phải mau mắn đáp lại ơn huệ của Chúa – Chúa kêu gọi đó là một ân huệ Ngài ban – một cách khiêm tốn và biết ơn vì ta chẳng đáng được vinh dự lớn lao như thế, và tự sức ta, ta cũng chẳng làm nổi việc gì.

          Phải làm trọn ơn gọi của mình, khi đã chấp nhận thì không ngoái cổ lại đàng sau và hãy bắt tay vào việc một cách cần mẫn, hết lòng trông cậy vào ơn phù trợ của Ngài, vâng lời Ngài, tin tưởng phó thác và để Ngài tùy ý hoàn tất công việc lúc nào theo như Ngài muốn.

          Chúng ta cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp cách đặc biệt cho những người Chúa đã chọn, đã và đang khiêm tốn chịu khó làm việc Chúa trên khắp mọi cánh đồng và vườn nho của Chúa, nhất là cho Đức Thánh Cha, cho các vị Giám mục và các linh mục, cùng tất cả những người cộng tác chặt chẽ với các ngài.

          Chúng ta cũng tha thiết xin Chúa kêu gọi thêm những người đang ước muốn vào làm việc tông đồ của Hội Thánh, đặc biệt trong những nơi đang xảy ra tình trạng “lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít”.

          Chúa vẫn còn kêu gọi con người, và ngày nay nhu cầu ấy to lớn. Và vẫn còn có những người đáp lại lời Người. Một số người (như các tông đồ) được kêu gọi để tận hiến mình, đi theo Đức Kitô bằng một phương thế “chuyên nghiệp”. Nhưng không phải mọi Kitô hữu đều được kêu gọi theo Đức Kitô bằng cách ấy.

          Bằng phép Rửa tội, chúng ta cũng được kêu gọi đi theo Đức Kitô. Nhưng đối với một người bình thường, đi theo Đức Kitô có nghĩa là gì? Là sống xứng danh một Kitô hữu trong ngành nghề của bạn ở bất cứ nơi nào bạn có mặt. Còn có nhiều cách phục vụ Đức Kitô và Tin Mừng Người hơn nữa. Ơn gọi ban đầu không hướng đến những tông đồ nhưng hướng đến những người môn đệ.

          Ngày nay Chúa cũng đang kêu gọi chúng ta làm môn đệ Ngài. Vâng phục có thể bao hàm sự hy sinh, nhưng chắc chắn sẽ đem lại kết quả là cứu rỗi các linh hồn.

ĐÊM TẠ ƠN  

ĐÊM TẠ ƠN

Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

Một năm cũ sắp trôi qua và một năm mới sắp đến.  Trong khoảnh khắc giao thừa giữa cũ và mới này, chúng ta đến với Chúa, Đấng Tạo dựng muôn loài, Đấng làm chủ thời gian, để tạ ơn Ngài về 365 ngày sắp qua, và xin Ngài giúp chúng ta biết sử dụng 365 ngày sắp đến theo đúng thánh ý Ngài.

Đêm nay người ta vẫn gọi là đêm giao thừa, là nhịp cầu chuyển tiếp giữa cũ và mới.  Ai ai cũng mong muốn trút khỏi lòng mình mọi lo âu phiền muộn, không ai dám nhắc tới những rủi ro bất hạnh của ngày hôm qua, dường như ai cũng thầm mong ước cho đêm nay như là một khởi đầu tốt đẹp cho hành trình mới của tương lai.  Ai cũng gác lại quá khứ để bước vào năm mới trong niềm vui và hy vọng như câu ca dao xưa:

“Đêm ba mươi co cẳng đạp thằng bần ra cửa.

Sáng mồng một giang tay bồng ông phước vào nhà.”

Thực vậy, mùa xuân, ngày tết, ai cũng mong nhận được nhiều phước lộc, nên ai cũng chúc cho nhau nhiều tài lộc, nhiều tiền, nhiều của.  Những người có tín ngưỡng thì tin rằng may mắn, tiền của là ân lộc trời ban.  Nhưng phước hạnh đời người mà chúng ta cầu chúc cho nhau không chỉ là nhắm đến tài lộc mà là hạnh phúc miên trường, hạnh phúc của người có tâm hồn bình an.

Nhìn lại một năm qua, có những người được hạnh phúc vì làm ăn thuận buồm xuôi gió, công thành danh toại, có những người hạnh phúc vì tìm được chân lý, tìm được lẽ sống, tìm được bình an trong tâm hồn.  Nhưng vượt lên trên tất cả cái may mắn đó, chính là sự sống, là sự bình an của đời người. 

Sự sống luôn ở bên ngoài khả năng của chúng ta, sự sống của chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa.  Hạnh phúc là ân ban của Thiên Chúa.  Con người không thể kiến tạo hạnh phúc cho mình bằng thủ đoạn, bằng gian dối hay sự ác.  Con người phải sống ngay lành nhờ đó mà Thiên Chúa mới ban phúc lành là bình an.  Một năm qua với những vụ trọng án cho ta thấy con người không thể tạo dựng hạnh phúc cho mình bằng quyền lực để tham nhũng hại dân mà phải bằng tấm lòng luôn đi theo chân thiện mỹ.  Đâu ai ngờ một ông Đinh La Thăng dám nói dám làm đầy quyền thế lại phải hầu tòa?  Đâu ai ngờ một Trịnh Xuân Thanh luôn sống trong nhung lụa giầu có quyền thế lại phải thân tàn ma dại?  Đâu ai ngờ một đại gia Vũ Nhôm khuynh đảo thành phố đáng yêu Đà Nẵng lại có kết cục trong tù tội…?

Hạnh phúc đến từ lộc Trời ban xuống thì con người phải sống theo lẽ Trời.  Phải sống ăn ở ngay lành và làm việc thiện phúc đức.  Quy luật của trời đất là “Xởi lởi trời gửi của cho – Co ro trời co của lại.”   Càng gieo nhân nghĩa con người lại càng tìm được niềm vui hạnh phúc tự trong tâm hồn.  Đây gọi là tích đức để Trời sẽ ban hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình và cho mọi người thân nhờ công đức của ta.

Nếu hiểu rằng hạnh phúc – bình an là lộc ban từ Trời thì giây phút này là giây phút tạ ơn về quá khứ đã qua.  Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta 365 ngày bình an.  Tạ ơn Chúa vì những biến cố xảy ra trong cuộc đời giúp ta nhận ra tình yêu của Chúa luôn bao bọc gìn giữ chúng ta.  Có thể đó là những đau khổ, là những mất mát nhưng chúng ta lại được bàn tay Chúa dìu dắt và bồng ẵm chúng ta qua những thăng trầm cuộc đời.  Tạ ơn Chúa đã cho chúng ta niềm tin tưởng vào Chúa, nếu không, biết đâu giờ này chúng ta đang rơi vào tâm trạng tuyệt vọng vì không đủ can đảm đối diện trước gian nan.

Nguyện xin Chúa Xuân đang về trên quê hương ban cho chúng ta những giây phút đầu xuân tràn đầy bình an và hoan lạc.  Xin Chúa Xuân chúc lành cho giây phút giao thừa này được vơi đi những ưu phiền để người người hưởng một mùa Xuân thánh ân hạnh phúc dư tràn.  Amen!

Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

From: KittyThiênKim & KimBang Nguyen

THÁNH THIỆN VÀ TỘI LỖI

THÁNH THIỆN VÀ TỘI LỖI

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Thánh thiện và tội lỗi là hai phạm trù đối lập nhau.  Thánh thiện thuộc về Thiên Chúa và tội lỗi là bản chất của con người.  Hai nhân vật được nêu trong Lời Chúa hôm nay, một trong Bài Cựu ước và một trong Bài Tin Mừng, đã khẳng định sự tách biệt này.  Khi được chiêm ngưỡng vinh quang của Thiên Chúa với lời tung hô ba lần “Thánh!  Thánh!  Thánh”, ngôn sứ Isaia đã thốt lên: “Vô phúc cho tôi!  Tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn, tôi ở giữa một dân tộc mà lưỡi họ đều nhơ nhớp, mắt tôi đã trông thấy Đức Vua, Người là Chúa các đạo binh.”  Về phần ông Phêrô, khi chứng kiến mẻ lưới lạ, đã khiếp đảm thú nhận: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi.”  Phản ứng của hai nhân vật trên đây cho thấy quan niệm của Do Thái giáo về sự cách biệt giữa Thiên Chúa và con người, vì Thiên Chúa là Đấng Chí thánh và con người là kẻ phàm hèn tội lỗi.  Sự khác biệt này đã tạo một khoảng cách giữa Thiên Chúa và con người.  Khoảng cách ấy ngặt nghèo đến nỗi, nếu con người lỡ nhìn thấy Chúa, thì phải chết.

Nếu con người lo sợ và mặc cảm về thân phận tội lỗi của mình, thì Thiên Chúa lại chủ động đến với họ.  Thiên Chúa trong Cựu ước đã trấn an ông Isaia: “Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm đến lưỡi ngươi, lỗi của ngươi được xoá bỏ, và tội của ngươi được thứ tha.”  Đức Giêsu trong Tân ước thì lại nói với ông Phêrô: “Đừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta.”  Thật lạ lùng!  Thiên Chúa không những bỏ qua thân phận tội lỗi của con người, mà còn chọn gọi họ như những cộng sự viên thân cận của Ngài.  Ông Isaia và ông Phêrô không những không phải chết, mà còn được gọi và sai đi để loan truyền giáo huấn của Thiên Chúa, giúp cho nhiều người nhận biết Ngài.  Quả thật, ông Isaia và ông Phêrô đã nhiệt thành đáp lại lời mời gọi của Chúa, trở nên ngôn sứ và tông đồ của Ngài.

Thiên Chúa đã lấp đầy khoảng cách giữa Ngài với chúng ta.  Không chỉ chủ động đến gần con người tội lỗi, Chúa Cha còn sai Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô đến trần gian để sống thân phận con người.  Người thánh thiện, mà chấp nhận hòa mình vào đám đông tội nhân đang xin ông Gioan Tẩy giả làm phép rửa.  Người là Đấng vô tội mà bị kết án như một kẻ bất lương.  Người là nguyên lý của sự sống mà đã phải mang lấy cái chết trên thập giá.  Qua Đức Giêsu, nhờ Đức Giêsu và trong Đức Giêsu, con người tội lỗi được trở nên con Thiên Chúa là Đấng Chí Thánh.  Đây là sự trao đổi nhiệm màu: Con Thiên Chúa mang lấy tội lỗi của con người để con người được làm con Thiên Chúa.

Con Thiên Chúa đã làm người để giao hòa nhân loại với Thiên Chúa.  Từ nay, không ai còn mặc cảm thân phận tội lỗi nữa.  Hết thảy đều được Thiên Chúa yêu thương và mời gọi làm sứ giả của Ngài giữa lòng thế giới.  Thánh Phaolô là một bằng chứng: ông thú nhận mình đã từng giết hại các tín hữu, nhưng khi được Chúa quy phục, ông đã ăn năn sám hối và cuộc đời của ông đã sang trang.  Ông tâm sự: “Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ, và không xứng đáng được gọi là tông đồ, vì tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa.  Nhưng nay tôi là người thế nào, là nhờ ơn của Thiên Chúa, và ơn của Người không vô ích nơi tôi, nhưng tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn tất cả các Đấng: song không phải tôi, nhưng là ơn của Thiên Chúa ở với tôi” (Bài đọc II).  Đó là điều kỳ diệu của tình thương.  Phaolô luôn tâm niệm điều này và ông thấy có bổn phận làm cho vương quốc của Chúa sớm được thực hiện nơi trần gian.

Isaia, Phêrô, Phaolô, ba con người xuất thân từ ba hoàn cảnh xã hội khác nhau, nhưng có chung một lý tưởng và một ơn gọi: làm sứ giả của Chúa và nhiệt thành loan báo lời Ngài.  Hôm nay, Chúa vẫn đang kêu gọi chúng ta.  Đừng mặc cảm cho rằng mình bất xứng hay bất tài.  Ơn của Chúa sẽ phụ giúp và ban cho chúng ta sức mạnh.  Về phía chúng ta, chúng ta cần đáp lại lời mời gọi của Chúa, bằng tâm tình yêu mến, nhiệt thành và thiện chí.  Chúa sẽ làm cho chúng ta trở nên những dụng cụ hữu ích trong Giáo Hội của Người.  Qua những dụng cụ bé mọn ấy, Chúa tiếp tục làm nên những mẻ cá kỳ diệu, và làm cho cuộc sống này nở hoa.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim

Lễ Dâng Chúa Giê-su vào Đền Thánh

Lễ Dâng Chúa Giê-su vào Đền Thánh

Mùng 2 Tết, mọi người thường đi chúc Tết anh em nội ngoại gần xa. Nào ta hãy tiếp tục tạ ơn Chúa và xin dâng hai chữ “tôn vinh” lên Ngài! Hôm nay cũng là ngày Giáo Hội mừng kính Lễ Dâng Chúa Giê-su vào Đền Thánh ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy nhé.

Cha Vương

Thứ 4: 02/02/2022

TIN MỪNG: Si-mê-ôn ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ. (Lc 2:29-30)

SUY NIỆM: Cách đây bốn mươi ngày, chúng ta đã hân hoan cử hành lễ Chúa Cứu Thế giáng sinh. Hôm nay chúng ta mừng ngày Chúa Cứu Thế được Thân Mẫu và thánh Giuse dâng cho Thiên Chúa Cha trong đền thánh. Nhìn từ bên ngoài, ta thấy Người làm theo luật dạy, nhưng thực ra, qua biến cố này, Người đến gặp dân  Người. Quả vậy, cụ già Si-mê-on và nữ ngôn sứ An-na, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, đã tới đền thánh. Cũng chính nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng mà các ngài đã NHẬN  ra em bé Giêsu chính là Chúa của mình và hoan hỷ loan báo cho những người khác. (Sánh Lễ Rôma, lời dẫn) Việc gì xảy ra qua biến cố này? Họ đã (1) NHẬN RA em bé Giêsu chính là Chúa của mình và (2) HOAN HỶ loan báo cho những người khác. Nhìn lại những khoảnh khắc trong cuộc đời Bạn, có bao giờ Bạn NHẬN RA hay gặp được Chúa chưa? Bạn đã làm gì sau khi gặp được Ngài? Có phải Chúa Giêsu khi đồng bàn với hai môn đệ trên đường Em-mau thấy “Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người.”? (Lc 24:30-31) Tâm tư của Bạn thế nào khi Bạn rước Chúa vào lòng trong Thánh Lễ?

LẮNG NGHE: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết. (Ga 6:54)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giêsu là Chúa của con, rao giảng Lời Chúa thì dễ nhưng làm chứng cho Chúa thì rất khó vì nó đòi hỏi con phải dấn thân và hy sinh nhiều hơn, xin cho con dám mạnh dạn làm chứng cho Chúa bằng cách chia sẻ niềm vui và bình an cho tha nhân bất chấp thiệt thòi nguy hiểm.

THỰC HÀNH: Hãy chia sẻ khoảnh khắc gặp Chúa (God’s moment) của Bạn cho một người nào đó hôm nay nhé.

From: Đỗ Dzũng

Thưa anh em, anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa

Chúc mừng Năm Mới đến bạn và toàn gia quyến. Chúc bạn có một tâm hồn tràn đầy HY VỌNG vào Chúa là đấng ban phát mọi ơn lành để bạn được hạnh phúc và tươi vui suốt năm. Nhớ cầu nguyện cho nhau, nhất là nhưng người mới qua đời trong dịp Tết này nhé.

Cha Vương

Thư 3: 01/02/2022 (Mùng một Tết) 

TIN MỪNG: Thưa anh em, anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! (Pl 4:4)

SUY NIỆM: Hôm qua mình nhận được lời chúc Xuân thật ý nghĩa như sau: Chúc nhau câu nói đẹp lòng / Mừng nhau câu nói rộn ràng sắc xuân / Năm nay vạn phước bình an / Mới là hạnh phúc, mới là yêu thương! Ước mong lời chúc Xuân năm nay đều trở thành hiện thực trong lòng mỗi người hôm nay. 

❦  Nếu mỗi ngày bạn chỉ nói những “câu nói đẹp lòng” thì mỗi ngày là một mùa Xuân phải không bạn? 

❦  Nếu mỗi ngày bạn tìm cách để duy trì cảnh sắc mùa xuân trong lòng mình và chia sẻ cho nhau những gì tốt nhất, trẻ trung nhất, tươi đẹp nhất, đơn sơ nhất, chân thành nhất… thì ai cũng sẵn sàng đón nhận một ngày mới là một hồng ân.

❦  Nếu bạn muốn được bình an trong tâm hồn, trong gia đình, trong xã hội, trong đất nước, trong thế giới, bạn hãy tự hỏi tôi đang làm gì để xây dựng hoà bình ngay trong môi trường sống của tôi?

❦  Hạnh phúc thật không đến từ may mắn, không đến từ  tiền tài, danh vọng, vật chất nhưng nó đến từ Thiên Chúa, từ lòng ao ước sống theo Tám Mối Phúc Thật vì Chúa hứa:

1/ Ai có lòng khó khăn, ấy là phúc thật, vì chưng nước Đức Chúa Trời là của mình vậy.

2/ Ai hiền lành, ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được đất Đức Chúa Trời làm của mình vậy.

3/ Ai khóc lóc, ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được yên ủi vậy.

4/ Ai khao khát nhân đức trọn lành, ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được no đủ vậy.

5/ Ai thương xót người, ấy là phúc thật, vì chưng mình sẽ được thương xót vậy.

6/ Ai giữ lòng sạch sẽ, ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được thấy mặt Đức Chúa Trời vậy.

7/ Ai làm cho người hòa thuận, ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời vậy.

8/ Ai chịu khốn nạn vì đạo ngay, ấy là phúc thật, vì chưng nước Đức Chúa Trời là của mình vậy.

Ước mong mỗi ngày trong Năm Nhâm Dần này đều là một ngày Tết thật ý nghĩa tràn đầy hạnh phúc và yêu thương.

LẮNG NGHE: Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. (Mt 6:33)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, trong ngày đầu năm mới con dâng lời chúc tụng và ngợi khen Chúa là nguồn hạnh phúc và yêu thương, xin cho hết mọi người trong năm Nhâm Dần này được bình an mạnh khoẻ, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức, luôn khao khát sống cuộc đời chính trực, để con trở nên giống Chúa, xứng đáng lãnh nhận phần thưởng là Nước Trời.

THỰC HÀNH: Chọn một 8 Mối Phúc Thật làm tâm điểm sống của bạn cho Năm Mới này nhé.

From: Đỗ Dzũng

ĐỪNG LO LẮNG GÌ CẢ 

ĐỪNG LO LẮNG GÌ CẢ (Mc 6, 25-34)

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu

Ngày Tết báo hiệu một năm cũ đã qua và một năm mới đang đến.  Chúng ta cần nhìn lại một năm qua với cái nhìn của Chúa để thấy tất cả là hồng ân, kể cả những gì người đời coi là xui xẻo, bất hạnh.  Chúa đã cho chúng ta sống thêm một thời gian, thêm một năm trên đời.  Chúng ta nhận ra thời gian một ngày nhờ mặt trời mọc lên rồi lặn xuống.  Nhà nông nhận ra thời gian một tháng nhờ mặt trăng tròn rồi lại khuyết.  Tạ ơn Chúa vì hai nguồn sáng quý báu như vậy trên bầu trời.

Thời gian theo Kitô giáo không đi theo đường xoắn ốc, nhưng theo đường thẳng.  Thời điểm nào cũng là duy nhất, đi rồi không trở lại, nên rất đáng quý.  Con Thiên Chúa làm người đã đắm mình trong dòng thời gian như ta.  Nhờ Ngài, dòng thời gian này sẽ đưa ta vào vĩnh cửu của Thiên Chúa.

Ngày Tết người ta thường hay chúc nhau.  Chúc sức khỏe, chúc làm ăn phát đạt, chúc mọi sự như ý…

Chúng ta có thể học được một cách chúc rất đẹp trong sách Dân Số (6, 22-27).  Đức Chúa chỉ dạy cho ông Môsê để ông này chỉ lại cho ông tư tế Aaron biết cách chúc lành cho dân.

Có ba lời chúc, mỗi lời đều bắt đầu bằng chủ từ là Đức Chúa:

“Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em.

Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em.

Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn anh em và ban bình an cho anh em.”

Ơn bình an là ơn bao gồm mọi ơn về sức khỏe, sống lâu, an ninh, thịnh vượng…  Rốt cuộc chính Đức Chúa mới là Đấng chúc lành cho dân Israel (c. 27).  Chính Đức Chúa đóng ấn Danh của Ngài trên họ để bảo trợ họ.  Và hôm nay chính Ngài cũng ban muôn ơn cho ta nhờ Danh Đức Giêsu.

Trước thềm Năm Mới, con người không tránh khỏi nỗi lo về tương lai.  Có nhiều nỗi lo rất hữu lý, vì khó khăn trước mắt là có thật.  Có nhiều nỗi lo âu chỉ vì con người thấy mình quá đỗi mong manh.  Nỗi lo quấn lấy con người và làm tâm con người không yên. 

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu bốn lần nhắc chúng ta “Đừng lo.”  Nếu Kitô hữu không bị quay quắt vì lo âu thì không phải vì họ là người vô lo, hay vì họ tự tin, giỏi giang hơn người khác.  Đơn giản chỉ vì họ có một Người Cha quan tâm đến mọi nhu cầu của họ.  Kitô hữu tận tụy hết mình cho công việc, nhưng lại không bất an, lo âu.  Tín thác như một đứa con ngồi trong lòng cha, họ đặt vinh quang Thiên Chúa lên trên hết, và tin mọi sự khác sẽ được Ngài lo liệu.

**********************************

Lạy Cha, Cha đã cho chúng con sống thêm một năm,

đi thêm một đoạn đường đời.

Nhìn lại đoạn đường đã qua,

chúng con chỉ biết nói lên lời tạ ơn chân thành,

vì Cha vẫn cho chúng con sống,

và sống trong tình yêu.

Mọi biến cố vui buồn của năm qua

đều là những lời mời gọi kín đáo của Cha để thức tỉnh, nâng đỡ và đưa chúng con lên cao.

Tạ ơn Cha

vì những gì cuộc đời đã làm cho chúng con,

và những gì chúng con đã làm được cho cuộc đời.

Xin cho chúng con sống những ngày Tết dân tộc

trong tinh thần vui tươi hoà nhã,

và không quên những ai nghèo khổ, cô đơn.

Ước gì những lời chúng con chúc cho nhau

là những lời chúc lành

xuất phát từ trái tim yêu thương.

và lạy Cha, năm mới đã đến,

Trái đất lại xoay một vòng mới quanh mặt trời,

chúng con cũng muốn

ở lại trong quỹ đạo của Cha,

nhận Cha là trung tâm cuộc sống,

và nhận mọi người là anh em. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu

From: Langthangchieutim

5 điều ” tuyệt vời” mình nhận ra trong đám tang của Người Công Giáo.

Make Christianity Great As Always

5 điều ” tuyệt vời” mình nhận ra trong đám tang của Người Công Giáo.

– Có thể anh chị em Ngoại Đạo cũng giống mình, mình cũng chỉ là 1 Tân Tòng nên còn rất nhiều điều chưa biết về Đạo, có nhiều điều khi đi vào thực tế, được chứng kiến tận mắt thì làm mình rất ngạc nhiên, nó khác hẳn với những gì người ta đồn thổi, hoặc ngăn trở để không được kết hôn với người Công Giáo. Vì thế mình sẽ bắt đầu chia sẻ với bạn những trải nghiệm cá nhân của mình khi bước chân vào Đạo Công Giáo.

– Biết người Công Giáo đã nhiều năm. Nhưng mình mới dự Đám Tang người Công giáo được 3 lần, lần đầu là 1 bác họ hàng xa bên chồng, 1 lần là của 1 Cha trong Dòng Tu, và lần gần nhất là sáng nay, của 1 chị trong Giáo Xứ.

– Có 5 điều khiến mình cực kỳ ngạc nhiên về đám tang của Người Công Giáo, dưới đây là chia sẻ cảm nghiệm cá nhân, mong mọi người chỉ dạy mình thêm.

Thứ 1: Mình ngạc nhiên, vui mừng và thấy vinh hạnh cho Người Công Giáo làm sao, khi mất đi, Người Công Giáo được đưa tới hẳn nhà thờ, đặt Quan Tài trong Nhà Thờ trước khi đi chôn cất hoặc hỏa táng, không những được Cha thăm viếng, cầu nguyện ở nhà riêng, mà còn có cả 1 buổi lễ thật long trọng để tiễn biệt trong Nhà Thờ.

Thứ 2: Người Công Giáo mất đi, được cả cộng đoàn tới nhà đọc kinh nhiều ngày trước đó. Bởi vì tất cả người Công Giáo đều thuộc Kinh và biết đọc Kinh, nên tất cả mọi người đều có thể cầu nguyện cho người đã mất, liên lỉ và liên tục. Lời Kinh vang lên đồng thanh, êm ái như an ủi người đã mất, cầu nguyện cho người đã mất được lên Thiên Đàng.

Thứ 3: Đám tang không phân biệt giàu có, hay nghèo khó. Người Công Giáo được đối xử bình đẳng và đều được đưa đến Nhà Thờ, làm lễ bên trong Nhà Thờ. Lúc đó mình ngạc nhiên lắm, vì dù nếu là 1 người nhỏ bé, nghèo khó, không nhà cửa, thì khi mất đi, vẫn được làm Lễ trong Nhà Thờ, vẫn có nhà để về. Chúa bao dung và yêu thương ôm ấp tất cả đàn con, từ lúc sinh ra, rửa tội, làm phép cưới, chịu Chức Thánh cho tới khi lìa cõi trần nơi Đền Thờ của mình.

Thứ 4: Đám tang nhưng luôn vang lên những bài ca mang đến sự hi vọng về ngày được sống lại, về ngày sum vầy, về ngày mọi người được yên nghỉ thảnh thơi, về ngày được gặp mặt Chúa.

Thứ 5: Đám tang xong không phải là hết, không phải chỉ nhớ tới Người Quá Cố trong ngày giỗ, mà Người Quá Cố luôn được nhớ tới trong tất cả các lời cầu nguyện hàng ngày. Chúng ta cũng có thể Xin Lễ cho người quá cố bất kỳ khi nào. Vì thế Người Quá Cố luôn sống mãi trong tim của chúng ta và không bị quên lãng dần theo thời gian. Vì thế quan niệm khi vào Đạo Công Giáo quên đi ông bà tổ tiên là 1 quan niệm cực kỳ sai lầm, khiến nhiều bố mẹ ” sợ mất con” ” mất người thờ cúng” nếu theo Đạo Công Giáo. Người Công Giáo không thờ cúng, vì ” thờ” chỉ dành riêng cho 1 mình Chúa, nhưng người Công Giáo luôn kính nhớ ông bà tổ tiên 1 cách liên lỉ và hàng ngày trong tâm và trong hành động thực tế là cầu nguyện, đọc Kinh Mân Côi.

Trên đây là 1 số cảm nghiệm của bản thân mình, Teresa Calcutta My Bùi. Những điều khiến mình càng ngày càng yêu Đạo Công Giáo hơn.

Bạn có ấn tượng tuyệt vời nào nữa. Có thể chia sẻ thêm với mình không?

Tác giả: My Bùi

Nhóm Thắc Mắc Công Giáo

Thằng Khùng -Phùng Quán

Thằng Khùng -Phùng Quán

(Cha chính Nguyễn văn Vinh – Giáo-phận  Hà nội ]

Thằng Khùng (viết lại theo lời kể của nhà thơ Nguyễn Tuân)

“… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.

Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh
ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười.
Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính.

Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.

Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi “thằng khùng” (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.

Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài.

Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc.

Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên: – Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy? 

Anh ta chấp tay khúm núm thưa:

– Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc

tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được. 

Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc…

Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả.
Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, “đầu chày, đít thớt, mặt bù loong” cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?…

Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay lại:

– Anh Tuân này – không rõ anh ta biết tên mình lúc nào – sống ở đây anh thèm cái gì nhất?

– Thèm được đọc sách – mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.

– Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? – anh ta hỏi. 

– Voltaire! – một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và Trừng phạt”.

Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:

– Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?

Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.

Mình trả lời anh ta:

– Tôi thích nhất là Candide.

– Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?

Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:

– Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.

Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm
chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình
trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…

Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống:

“Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!”.

– Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! – anh nói.

Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:

– Anh là ai vậy?

Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:

– Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa .

Rồi anh ta tiếp:

– Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…

Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn – ngu ngơ, đần độn như thường ngày.

Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau mình mới biết.

Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn
được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn…

– những người tù nói, giọng buồn.

Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.

Giám thị hỏi:

– Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?

Mình nói:

– Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.

Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…

Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt,

chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười.  Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:

– Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…

Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN .

Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.

Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa
ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.

Giám thị hỏi:

– Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo,
tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.

Mình nói:

– Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.

Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…

Phùng Quán

________

Ghi Chú:

(*) THẰNG KHÙNG trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan
NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn Hà Nội.  Bài viết của Phùng
Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài.

Xin mời đọc thêm (bài kèm theo dưới đây) tiểu sử của Cha Vinh để chúng ta biết
thêm nhiều chi tiết về cuộc đời Ngài; và cũng để hiểu thêm gương phụng sự Chúa
của Ngài…. Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH, Cha chính Hà Nội, (1912 – 1971).

Tấm gương can trường.

Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH*

Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại làng Ngọc
Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.

Cậu Vinh, một thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh
về âm nhạc, ca hát. Cậu biết kính trên, nhường dưới, trong xứ đạo, ai cũng quý
yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó là Cố Hương, một cha người Pháp tên là Dépaulis
giới thiệu cậu lên học tại trường Puginier Hà Nội. Năm 1928, cậu học Tiểu Chủng
viện Hoàng Nguyên, Phú Xuyên, Hà Tây.

Năm 1930, thầy Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935, thầy vào Đại
Chủng viện St Sulpice, Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ phong linh mục ở
Limoges .

Chiến tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp và tiếp tục học tập.

Ngài học Văn Khoa – Triết tại Đại Học Sorbone, học sáng tác và hòa âm tại Nhạc
viện Quốc Gia. Ngài phải vừa học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ thương của ngài
đã làm cho nhiều người Pháp tưởng lầm ngài là phụ nữ nên cứ chào: “Bonjour
Madame!”

Nhưng ẩn trong cái dáng vóc nhỏ bé đó là một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng
là tính cương trực, dưới nụ cười là ý chí sắt son.

Sau khi tốt nghiệp cử nhân Văn Triết ở Sorbone, ngài gia nhập dòng khổ tu Biển
Đức tại Đan Viện Sainte Marie.

Sau 17 năm du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng Giáo Hội
Công Giáo Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize –
Thịnh, Bề trên Giáo phận đã bổ nhiệm ngài làm cha xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài
xin Bề trên lập dòng Biển Đức ở Việt Nam, nhưng không thành.

Cha Vinh, dù tu học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc lập, không nệ
Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn Hà Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai
tướng De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu căng đòi đặt ghế
của ông trên cung thánh và bắt chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam
xuống dưới lòng nhà thờ. Vì lòng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh
cương quyết không chịu.

Tướng De Lattre rất tức giận, gọi cha Vinh tới, đập bàn quát tháo, đe

dọa. Cha Vinh cũng đập bàn, lớn tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ, nhưng Thủ
Tướng ngại khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng thẳng, Đức Cha
Khuê đã chuyển cha Vinh làm giáo sư của Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh
văn, Pháp văn, âm nhạc, triết học; ngài khiêm tốn vâng lời. Ngài cũng giảng dạy
Văn Triết ở trường Chu Văn An.

Năm 1954, Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân đưa chủng sinh
đi Nam, nhưng cả hai đều xin ở lại sống chết với giáo phận Hà Nội, dù biết hoàn
cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm ngài làm Cha Chính, kiêm
Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.

Ngài tổ chức lớp học giáo lý cho các giới, có những linh mục trẻ thông minh,
đạo đức cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân
Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ chức thành nhóm nhỏ tại phòng khách Tòa Giám
Mục, về sau, con số người tham dự tăng dần, lớp học được chuyển tới nhà préau,
và ngồi ra cả ngoài sân. Lớp học hiệu quả rất lớn, những tín hữu khô khan trở thành đạo đức nhiệt

thành, ảnh hưởng lan tới cả giới sinh viên và giáo sư đại học, nhiều người gia nhập đạo. Sau chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động vì lý do an ninh.

Khi cha Vinh đang làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ ra chỉ thị phải treo ảnh
lãnh tụ thay vào ảnh Thánh Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên đọc chỉ thị cũng
không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường bị đóng cửa.

Thời bấy giờ, Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo sư, nên đã đề nghị Đức Cha Khuê
cử cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ngài. Một hôm, Chu
Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng dáng chiếc áo chùng
thâm linh mục, ông nói với đoàn tháp tùng:

“Đến giờ này mà còn có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?” Ít lâu sau trường
Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.

Biết tài năng và kiến thức âm nhạc của ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội tìm cha Vinh tham khảo ý kiến và nhờ xem lại những bản nhạc, bài ca họ mới viết.

Cha Vinh, một trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam, và là một
nhạc sĩ toàn tài. Ngài chơi vĩ cầm và dương cầm thật tuyệt, chính ngài là người Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm ở Hà Nội.

Ngài có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại được học tập chu đáo nên

đã sáng tác và để lại nhiều nhạc phẩm thánh ca tuyệt vời. Cha Vinh trình bày bản hợp tấu “ Ở Dưới Vực Sâu ” nhân cuộc đón tiếp phái đoàn Việt Nam do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.

Ngài cộng tác với Hùng Lân sáng tác “Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-Vít.” Sáng tác nhiều
nhạc phẩm lớn: “Mở Đường Phúc Thật,” “Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi,” “Ôi GiaVi,”
“Lạy Mừng Thánh Tử Đạo.” Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8 , Ca vịnh 16, Ca vịnh
23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 và nhiều bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh
Tâm Giêsu. Ngài còn viết những bài

ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc bài “Bước Tới Đèo Ngang” của Bà
Huyện Thanh Quan.

Hằng tuần ngài đến dạy nhạc, xướng âm và tập hát bên chủng viện Gioan.

Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát, lôi cuốn. Ngài tổ chức và chỉ
huy dàn đồng ca trong nhiều cuộc lễ và rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh
Thể từ Hàm Long về Nhà Thờ Lớn Hà Nội.

Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước và thế giới thấy là ở Việt
Nam đạo Công giáo vẫn được tự do hành đạo và tổ chức được những lễ nghi long
trọng, tưng bừng. Dịp Lễ Noel, chính quyền tự động cho người đến chăng dây, kết
đèn quanh Nhà Thờ Lớn, sau lễ họ vào đòi nhà xứ Hà Nội phải thanh toán một số
tiền chi phí lớn về vật liệu và tiền công.

Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số người
của Nhà nước ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển vật liệu, tự động bắc thang, chăng
dây treo bóng điện màu trang trí ở mặt tiền và trên hai tháp Nhà Thờ Lớn. Cha
xứ thời đó là cha Trịnh Văn Căn bảo vệ chủ quyền Giáo Hội trong khuôn viên cơ
sở tôn giáo, không đồng ý, nhưng họ cứ làm. Để phản đối, cha Căn liền cho kéo
chuông nhà thờ cấp báo, giáo dân kéo đến quảng trường nhà thờ rất đông ủng hộ
cha xứ, hai bên to tiếng.

Cha Căn gọi Cha Vinh ra can thiệp, sau một hồi tranh luận không kết

quả, cha Vinh kéo những người của Nhà nước đang leo thang chăng đèn xuống, rồi
chính ngài leo lên thang, hai tay đưa cao trước mặt, hai bàn tay nắm lại, hai
cườm tay đặt lên nhau, làm dấu hiệu còng tay số 8, và nói lớn:

“Tự do thế này à!”

Vụ giằng co lộn xộn kéo dài suốt buổi sáng, công cuộc trang trí không thành.
Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét
xử. Tòa án Hà Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Chính xứ Nhà Thờ Lớn, người chịu
trách nhiệm tổ chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo.

Cha Chính Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ tập
hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ,
gây chia rẽ trong nhân dân” (!).

Sau phiên tòa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau bị chuyển đi nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng là trại “Cổng Trời”, nơi dành riêng cho các tù nhân tử tội.

Khi cha Vinh mới đến trại Yên Bái, ngài còn được ở chung với các tù nhân khác,
nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội, vì thế ngài bị kỷ luật, phải biệt giam, bị cùm chân trong xà lim tối. Mấy tháng sau được ra, ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ hỏi:

“Tại sao bị cùm, bị kỷ luật, được ra, anh tiếp tục phạm quy?”

Ngài đáp:

“Cấm là việc của các ông, giải tội là việc của tôi, còn sống ngày nào, tôi phải
làm bổn phận mình!”

Ở tù đói rét là đương nhiên, lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi bữa một bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải già nấu muối, khi chia cơm phải cân đong từng chút một… Một lần cha Vinh nhận được gói bưu kiện do cha Cương, quản lý Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có ít thức ăn, lương khô và vài đồ dùng cá nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công giáo lẫn lương dân, ăn chung, dùng chung. Anh em tù hình sự thân thương gọi ngài là “Bố.”

Ngay trong nhà tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có lần một tổ trưởng đánh đập tù nhân, ngài lên tiếng bênh vực, liền bị người tổ trưởng này xông đến giang tay đánh, ngài đưa tay gạt, anh ta ngã khụy. Từ đó trong trại có tiếng đồn cha Vinh giỏi võ, mọi người phải nể vì.

Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ
muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế
Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội
ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông
Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.

Vì không khuất phục được ngài, nên bản án từ 18 tháng tù giam, không qua một thủ tục pháp lý án lệnh nào, đã biến thành 12 năm tù kiên giam, xà lim, biệt giam và án tử.

Năm 1971, khi ngài từ trần không ai được biết, một năm sau, chính quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và cha Cương quản lý Nhà Chung: “Ông Vinh đã chết. Không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh!”

Suốt đời mình, trong mọi tình huống cha Chính Vinh làm tròn trách vụ của mình. Ngài
đã mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho đức tin, khi thuận tiện cũng như
khó khăn. Vượt mọi thử thách gian khó, không chịu khuất phục trước cường quyền,
luôn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo

Hội.

Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh
mục Công Giáo Việt Nam can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.

TGP Hà Nội – 2013

BBT (Theo HĐGMVN)

From: Đỗ Tân Hưng

Nhà Thơ Nguyên Sa và Hành Trình Tâm Linh – Nguyễn Đức Tuyên

Nhà Thơ Nguyên Sa và hành trình tâm linh

Những bài thơ cuối sáng tác đầu năm 1998, trước khi lìa đời, đã thể hiện những biến chuyển sâu thẳm trong tâm thức Nguyên Sa. 

Nguyễn Đức Tuyên

Thao thức về thân phận con người, sự vong thân của bản ngã, đời sau… có thể đã đánh động một nhà thơ nhạy cảm, một giáo sư triết học tài hoa, một nhà hành động thực tế…Ông đã từng nói: “Thời gian xóa bỏ nhiều thứ… Việc chấm dứt cho tất cả mọi sự sẽ phải tới… Tất cả sẽ chán chường. Võ sĩ lên đài mà không nghĩ đến chiến thắng, đến tiền thưởng mà chỉ nghĩ đến cái chết gần tới thì chắc chắn quả đấm của võ sĩ ấy phải khác.”

Mới đây, trong buổi phỏng vấn của Barbara Walters trong chương trình truyền hình 20/20 trên đài “ABC” đã được phát sóng ngày 6 tháng 7, 2012 với chủ-đề: “Thiên-Đàng là gì? Thiên-Đàng ở đâu? Làm sao đi đến đó?” Nhiều nhà lãnh đạo các tôn giáo đã phát biểu quan điểm của mình, tuy khác nhau, nhưng tựu trung là một thao thức lớn về “đời sau.”

Trở lại trường hợp Nguyên Sa, trong phần giới thiệu Thơ Nguyên Sa Toàn Tập có ghi lời ông: “Tôi thích được giới thiệu bằng cách đọc lên một bài thơ Nguyên Sa. Đó là cách giới thiệu được cả Nguyên Sa ý thức và vô thức, cho thấy bản ngã của người làm thơ tương đối đầy đủ nhất, cả bản ngã đã có, bản ngã đang có, và bản ngã muốn có.”

Thể theo ý nguyện đó, ta hãy tìm hiểu bài thơ Mật Khẩu của Nguyên Sa:

Mật Khẩu

Ngày nào Thượng Đế cũng tới,

Giờ khắc bất định,

Nhưng ngày nào ông cũng tới ít nhất một lần,

Ngày nào ông cũng mở banh lồng ngực tôi ra,

Thản nhiên bước vào trong,

Tôi không biết ông đi vào tim,

Hay ông đi vào phổi,

Hay cả hai ?

Tôi không biết khi ông đi vào tim, ông dừng lại ở đại động mạch,

Hay ông đi tới khu cổ ngữ của tâm thất trái,

Hay ông đi tới khu sấm ký của tâm thất phải ?

Tôi không biết khi ông đi vào phổi, ông dừng lại ở cuống phổi, 

Hay ông đi tới từng phế nang,

Phế nang có từng chùm, mỗi chùm có cửa đưa vào một nội tâm, mỗi chùm hội tụ theo mật khẩu,

Có những chùm phế nang mật khẩu tên người,

Có những chùm phế nang mật khẩu mang tên sông,

Có những chùm phế nang mật khẩu là tên phố, tên làng, tên hoa, tên cỏ…

Mỗi lần Thượng đế mở toang lồng ngực và bước vào
Tôi sợ đến nín thở,
Tôi sợ ông gọi cửa không được,
Tôi sợ ông quên mật khẩu,
Tôi sợ ông quay ra hỏi,
Tôi sẽ không biết trả lời sao,
Vì tôi cũng không nhớ.

Nguyên Sa

Trước hết, Nguyên Sa nhận ra Thượng Đế. Đó là một khởi sự tuyệt vời. Nhận thức của ông về Thượng Đế nơi bản thân ông không phải là nhận thức về một cái gì chợt có, chợt mất, thấp thoáng, mơ hồ. “Ngày nào Thượng Đế cũng tới… ít nhất một lần.” Ông chưa phải là người đắm chìm trong chiêm niệm thần thiêng như các chính nhân tôn thờ Thượng Đế nhưng đã đủ linh giác để nhận ra Thượng Đế đến với mình mỗi ngày dù vào ”giờ khắc bất định.” Sự liên hệ giữa Thượng Đế và ông đã khá đậm sâu.

Điều đáng chú ý là ông sợ Thượng Đế đến. “Mỗi lần Thượng Đế mở toang lồng ngực và bước vào, Tôi sợ đến nín thở.” Vì sao ông sợ? “Tôi sợ ông gọi cửa không được.” Một Thượng Đế có quyền năng mở toang lồng ngực người thơ, tiến vào các phế nang, tâm thất bằng các chìa khóa bí mật và phức tạp của “cổ ngữ, sấm ký, tên người, tên phố, tên sông, tên cỏ…” – mà lại có chỗ Ngài “gọi cửa không được” sao? Một Thượng Đế đến với nội tâm người thơ, “Thản nhiên bước vào trong,” ung dung, tự tại, vào ra thế nào chính người thơ còn phải băn khoăn theo dõi: “Tôi không biết khi ông đi vào tim ông dừng lại ở đại động mạch, Hay ông đi tới khu cổ ngữ của tâm thất trái, hay ông đi tới khu sấm ký của tâm thất phải, ông đi tới từng phế nang,”- mà bây giờ Ngài “gọi cửa không được” sao ?

Tuy nhiên, đọc bài thơ «Mật Khẩu» của Nguyên Sa, người ta không khỏi sững sờ trước một thực tại vừa cao xa huyền bí, lại vừa riêng tư, gần gũi lạ lùng. Thực tại đó có thể nằm bên trong một cuộc mật đàm lâu dài và kín đáo, hoàn toàn riêng tư giữa hai thực thể thoạt nhiên rất cách biệt nhau: đó là giữa Trời với người?! Bài thơ thật là khó hiểu, tuy lời lẽ mộc mạc, minh họa bằng những hình tượng thô thiển.

Hãy xem Thượng Đế đến với ông thế nào. “Ngày nào ông cũng mở banh lồng ngực tôi ra, thản nhiên bước vào trong.” Thượng Đế không xin hẹn, không bấm chuông, không xưng tên, không khách sáo. Mỗi ngày, vào giờ khắc bất định, Ngài tới mở banh lồng ngực của người thơ ra, thản nhiên bước vào. Đây là một quang lâm Thượng Đế hoàn toàn chủ động, vừa đầy uy quyền, vừa đầy thân thiết. Người thơ tự hỏi “… không biết ông đi vào tim, hay ông đi vào phổi, hay cả hai?” Tôi nghĩ “cả hai” vì những câu thơ sau đó cho thấy người thơ theo dõi bước đi của Thượng Đế trong tim phổi mình. Ngài không bước vào đầu óc, vào lý trí người thơ mà bước vào lồng ngực, căn nhà của phổi và tim. Phổi là nhà của hơi thở làm nên sự sống. Đó là hơi thở Thượng Đế đã thổi vào loài người khi Ngài tạo dựng nên họ từ cát bụi. Tim là ngai tòa ấm áp của tình yêu, cũng là ngai tòa của Thượng Đế vì Thượng-Đế-Là-Tình-Yêu. Ngài đi vào lồng ngực mở banh của người thơ để làm cho sự sống của ông thăng hoa, sung mãn, và để chinh phục tình cảm ông. Cho nên Ngài đến mỗi ngày. Dù ông chưa ý thức rõ ràng về Thượng Đế, Ngài thực đã tìm đến với ông bằng tình yêu của Ngài.

Quả vậy, trong bài thơ, chỉ có hai ngôi vị: «Thượng Đế» và «Tôi». Đôi bên chắc phải có một giao ước mặc nhiên về cuộc gặp gỡ riêng tư với nhau, theo thời khóa ít ra mỗi ngày một lần trong một thời gian dài, và có cả một thỏa hiệp về một «mật khẩu» để Thượng Đế dùng khi bất ngờ, bất định, bất thần gõ cửa muốn gặp Tôi nơi sâu thẳm của nội tâm.

Bài thơ mở đầu với xác nhận:

Ngày nào Thượng Đế cũng tới,

Giờ khắc bất định,

Nhưng ngày nào ông cũng tới ít nhất một lần,

Ngày nào ông cũng mở banh lồng ngực tôi ra,

Thản nhiên bước vào trong,

Và bài thơ kết thúc với khẳng định đã có «mật khẩu» được thỏa thuận để Thượng Đế xướng lên cho cửa lòng Tôi mở ra. Nhưng điều oái oăm là đôi bên có thể quên «mật khẩu» đó, nên Tôi sợ, «sợ đến nín thở», «Tôi sợ ông gọi cửa không được.» Thực vậy, đây là phần kết:

Mỗi lần Thượng đế mở toang lồng ngực và bước vào,
Tôi sợ đến nín thở
Tôi sợ ông gọi cửa không được
Tôi sợ ông quên mật khẩu
Tôi sợ ông quay ra hỏi
Tôi sẽ không biết trả lời sao
Vì tôi cũng không nhớ.

Với đoạn kết này, tác giả đưa nhân vật Tôi vào một ngỏ bí thật rùng rợn: vì “quên” cái chìa khóa mở cửa vào nội tâm, nên Tôi có nguy cơ lâm cảnh đánh mất chính bản thân mình mà chính Thượng Đế cũng không cứu được Tôi. Quả vậy, Thượng Đế tôn trọng giao ước về “mật khẩu” nên cũng đành bó tay trước cái “quên” dại dột của con người chăng?! Và như một sự an bài của định mệnh, con người cũng đành bó tay trước thân phận đọa đầy của mình như nàng Kiều: “đến phong trần cũng phong trần như ai” (Kiều, c. 1192) chăng?

Thật là trớ trêu, khốn đốn cho thân phận con người! Câu kết bài thơ «Vì tôi cũng không nhớ» dường như muốn thú nhận thân phận bi đát của Tôi đối mặt với Thượng Đế: đó là thân phận của cái Tôi quên, «không nhớ!» Tôi bé bỏng, yếu đuối trước mặt Thượng Đế, nhưng lại mang nhiều ngõ ngách ngoắt ngoéo, hiểm hóc, bí ẩn trong người. Tuy chứa đầy chữ nghĩa trong tim óc -cổ ngữ, sấm ký- nhưng Tôi hốt hoảng nói không ra lời, vì Tôi sợ đến nín thở mỗi lần Thượng Đế mở toang lồng ngực và bước vào… gặp cái Tôi «không nhớ» lời giao ước cũng như «không nhớ» chính bản thân mình…

Đúng vậy, Nguyên Sa nhìn nhận là Tôi sợ và Tôi quên, nếu Thượng Đế quay ra hỏi… «mật khẩu» mang tên người, tên sông, tên phố, tên làng, tên hoa, tên cỏ, Tôi quên béng nó đâu rồi! Đúng, Tôi phải thú nhận là Tôi quên các «mật khẩu» đưa vào sự sống mà Tôi đã trải qua và muốn quên đi chăng?!

Tóm lại, cuộc diện xảy ra như sau: Ngày nào Thượng Đế cũng tới,… mở banh lồng ngực tôi ra, thản nhiên bước vào trong. Nhưng, Tôi không biết ông đi đâu, vào tim hay vào phổihay cả hai… Tôi không biết khi ông đi vào tim, rồi dừng lại ở đâu, ở khu cổ ngữ hay khu sấm kýHay ông đi tới từng phế nang, phế nang có từng chùm, mỗi chùm có cửa đưa vào một nội tâm, mỗi chùm hội tụ theo mật khẩu. Mỗi lần Thượng Đế đếnTôi sợ ông quên mật khẩu, và Tôi sợ… ông hỏi, tôi cũng không nhớ.

Thật quái lạ, oái oăm, khốn đốn cho thân phận con người Tôi: cái Tôi không biết, cái Tôi hay sợ, cái Tôi hay quên… Đó là cội nguồn của mọi hư đốn, bệ rạc! Nguyên Sa đi từ đâu… để đến nông nổi này?

Chắc khởi đầu, Nguyên Sa cũng như bao người Việt Nam thường ngước mặt lên kêu “Trời!” mỗi khi cần đến! Họ gọi nôm na Thượng Đế là ông Trời. “Ông” chỉ một ngôi vị; “Trời” chứa một bầu khí bao la. Mà không khí dùng để nuôi sống vạn vật. Và con người nhờ hít thở không khí mà sống; tắt thở tức là chết! – Dĩ nhiên, “Thác là thể phách, còn là tinh anh” (Kiều 116)-. Dân gian vẫn hình dung “không khí” là “tinh”, là “thần” (vì khí không có hình hài), từ Trời mang sức sống thấm nhuần vũ trụ và loài người. Thần khí chan hòa nối liền trời với đất, ông Trời với con người. Ở đâu người ta cũng cảm nhận có thần khí thâm nhập, mặc muôn hình vạn trạng, nhưng chỉ có một ông Trời. Đó là niềm tin dân giả truyền thống lâu đời của người dân Việt.

Bước thứ hai của nhà thơ Nguyên Sa là đã nhận chân ra được, không phải một ông Trời rộng lớn bao trùm khắp tất cả, mà một vị Thượng Đế có lòng đến thăm hỏi Tôi ít ra là mỗi ngày một lần. Đối với Nguyên Sa, Thượng Đế không đến tượng trưng như một chính khách muốn làm thân với người dân thuộc khu vực cử tri nào, mà đến để viếng thăm và tìm hiểu cặn kẽ từng vấn đề của nội tâm Tôi.

Hơn nữa, đối với Nguyên Sa, Thượng Đế không đến như là khách, mà đến như là chủ nhà, “giờ giấc bất định,” mở toang cửa “thản nhiên bước vào trong”, vào “tim”, vào “phổi,” và có thể vào từng “phế nang.”Tuy nhiên, ở tim chắc Thượng Đế đọc được “cổ ngữ” hay “sấm ký” sẵn có; còn ở phổi, nơi thông thương với khí Trời làm mạch sống, thì, lạ lùng thay, Thượng Đế lại cần “mật khẩu” để vào từng các phế nang! Thượng Đế tôn trọng sự sống của Tôi đến thế sao?

Theo niềm tin của Nguyên Sa, thật rõ ràng là chính Thượng Đế đi bước trước, trực tiếp can thiệp vào đời sống con người, vào chính bản thân Tôi. Quả vậy, Thượng Đế đường đường hành động như đã có một giao ước bất thành văn cho phép Thượng Đế mở toang lồng ngực và bước vào, gọi cửa. Nhưng phần tôi, Tôi sợ đến nín thở, Tôi sợ ông gọi cửa không được vì Tôi sợ ông quên mật khẩu đã ghi trong giao ước mà Tôi đã chấp nhận. Chắc Thượng Đế muốn thử lòng Tôi xem Tôi có sẵn sàng để Người dùng “mật khẩu” mà vào được nội tâm Tôi chăng?!

 Bài thơ «Mật Khẩu» của Nguyên Sa đến đây là chấm dứt. Bài toán chưa có đáp số! Bởi Nguyên Sa còn đang đi tìm hiểu tại sao Thượng Đế lại dấn thân đi bước trước đến với cái Tôi nhỏ bé của Nguyên Sa, và tại sao Ngài cần «mật khẩu» của Tôi để mở được cửa vào tận đáy lòng Tôi, tiếp xúc với sự sống thâm kín nơi Tôi? Vậy «mật khẩu» đó có tên gọi là gì để đại diện cho con người bé bỏng và vạn vật vô thường hầu có thể đối mặt với Thượng Đế cao cả?

Khi Nguyên Sa tìm ra được đáp số là lúc mà nhà thơ sẽ ngộ được chân lý vĩnh hằng: Thượng Đế là Thiên Chúa hằng sống, từ muôn thuở đã cùng với Thần Khí của Ngài mà sinh ra Con của Người (Ngôi Lời), mẫu thức cho việc tạo thành con người và vũ trụ. Lúc ấy hẳn Nguyên Sa sẽ hiểu được tại sao Thiên Chúa cần «mật khẩu» có tên là Con Người (Đức Giêsu Kitô) để đến tới tận cùng ngõ ngách của lòng người. Bởi không có Con Người thì vạn vật trong đó có Tôi sẽ không là gì trước mặt Thiên Chúa. Hơn nữa, Thánh Phaolô nói trong sách Tông Đồ Công Vụ: “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv. 4,12).

Có thể nhận định một cách khác ngắn gọn hơn: Chúa biết mọi sự, kiểm soát tim phổi, hai cơ quan sinh động của con người, nhưng Chúa để cho con người tự do.

Nguyên Sa là một người công chính, kính sợ Chúa. Ông chôn chặt vào nhiều chùm phế nang những điều ông đã làm.

Ông đặt ra mật khẩu (password) để mở từng chùm phế nang. Đàng khác Chúa cho ông khả năng quên, có quên thì mới sống yên ổn.

Cho nên ông sợ ngày Chúa hỏi ông làm gì với cái tự do, đó là lúc ông phải dùng mật khẩu tìm lại những điều đã làm mà nay quên mất, quên cả mật khẩu để mở phế nang để tìm kiếm …

***

Nhớ lại, trong lễ an táng nhà thơ Nguyên Sa tại thánh đường Polycarp, Orange, California, linh mục Phạm Ngọc Hùng có kể lại đêm ban phép Thánh Tẩy cho Giáo sư Trần Bích Lan, đại để như sau: Vào một buổi tối đã khuya, một thanh niên đến gõ cửa xin linh mục đi làm phép Thánh Tẩy cho một bệnh nhân muốn tin nhận đạo Công giáo. Linh mục lật đật lên xe đi theo người thanh niên, là con trai của Nguyên Sa, cũng là một bác sĩ. Trên đường đi, qua câu truyện trao đổi, linh mục mới được biết bệnh nhân đó là nhà thơ Nguyên Sa. Thật xúc động vì không ngờ được làm phép Thánh Tẩy cho một nhà thơ, một giáo sư triết học nổi tiếng lẫy lừng mà linh mục hằng ngưỡng mộ, nhưng chưa một lần gặp mặt.

Gặp nhà thơ Nguyên Sa trong một căn phòng của bệnh viện, với sự hiện diện của một số thân hữu của nhà thơ cùng với một số anh chị em thiện chí Công Giáo – những người luôn sẵn sàng giúp đỡ những người muốn tìm hiểu Đạo Công giáo – linh mục Phạm Ngọc Hùng nói, “Thưa bác, bác còn đang đau yếu, xin bác cứ ngồi trên ghế để con cử hành nghi thức Thánh Tẩy cho bác.” Nhà thơ trả lời, “để tỏ sự kính trọng đối với một bí tích, xin cha cứ để con quỳ xuống, không sao”. Một cử chỉ thật đẹp, thật khiêm nhường của nhà thơ Nguyên Sa.

Tin theo Đạo Chúa, ông nhận thánh bổn mạng – tên thánh, theo ngôn ngữ Công giáo – là Giuse. Giuse Trần Bích Lan.

Người ta cũng đọc thấy phần ghi chú đơn sơ nhưng súc tích dưới tấm ảnh Nguyên Sa đội mũ casket quen thuộc trong cuốn Thơ Nguyên Sa như sau:

“Thi sĩ Nguyên Sa

Giuse Trần Bích Lan

Sinh ngày 1 tháng 3 năm 1932 tại Hà Nội

Chúa gọi về ngày Thứ Bảy, 18 tháng 4, 1998

Tại California, Hoa Kỳ”

Trong ngày tang lễ tiễn đưa ông, từ nhà thờ St. Polycarp ra nghĩa trang Peek Family trong một ngày nắng chói chang, đàng sau tang quyến là rất nhiều thân bằng, quyến thuộc. Họ là những giáo chức, nhà thơ, nhà văn, nhà báo và đông đảo cựu học sinh của ông; chắc hẳn nhiều người đã nhân dịp này suy nghĩ về cuộc đời và sự chọn lựa cuối đời của ông.

Theo tôi biết thì phu nhân của thi sĩ Nguyên Sa, G.S. Trịnh Thúy Nga, cũng đã tìm về Đạo Chúa cách đây mấy năm trong âm thầm, lặng lẽ, khiêm cung nhưng đầy xác tín.

Nguyễn Đức Tuyên

 Ghi Chú: Trong buổi ra mắt sách Hành Trình Đức Tin ngày 28.9.2014 tại Trung Tâm Công Giáo, Giáo Phận Orange, Hoa Kỳ, bà Trịnh Thúy Nga, phu nhân GS Nguyên Sa đã phát biểu 2 điều: thứ nhất, thi sĩ Nguyên Sa đã nhận lãnh phép Rửa Tội khi còn minh mẫn và sáng suốt, thứ hai, chính bà Trịnh Thúy Nga cũng đã tìm về Đạo Chúa sau thi sĩ Nguyên Sa 10 năm và nay bà cảm thấy an bình, hạnh phúc.