Sắc lệnh cho phép các tín hữu được lãnh nhận Ơn Toàn Xá dành cho các tín hữu đã qua đời

Pham Quang Long

Ngày 27/10/2021, Đức Hồng y Mauro Piacenza, Chánh Toà Ân giải Tối cao, và Đức ông Krzysztof Nykiel, Phó Toà Ân giải Tối cao, đã công bố sắc lệnh cho phép các tín hữu được lãnh nhận Ơn Toàn Xá dành cho các tín hữu đã qua đời kéo dài suốt tháng 11 năm nay.

Sắc lệnh của Toà Ân giải Tối cao giải thích rằng theo thỉnh nguyện của nhiều mục tử trong Giáo hội, do tình trạng đại dịch kéo dài, Toà Ân giải Tối cao “xác nhận và mở rộng trong trọn tháng 11 năm 2021 tất cả các ơn ích thiêng liêng đã được ban ngày 22 tháng 10 năm 2020, qua sắc lệnh số 791/20/I”.

Trong sắc lệnh ban hành vào ngày 22 tháng 10 năm 2020, Toà Ân giải Tối cao quyết định:

“Ơn Toàn Xá được ban cho những ai viếng nghĩa trang và cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, thông thường chỉ trong những ngày từ 1-8/11, có thể chuyển sang các ngày khác đến hết tháng 11. Những ngày này, do mỗi tín hữu tự chọn, có thể tách biệt nhau” (không cần các ngày liên tiếp).

Bên cạnh đó, sắc lệnh cũng điều chỉnh việc lãnh nhận Ơn Toàn Xá vào ngày 2/11, ngày lễ “cầu nguyện cho các tín hữu qua đời”, khi viếng nhà thờ hoặc nhà nguyện và đọc một Kinh Lạy Cha và một Kinh Tin Kính, có thể dời không chỉ vào ngày Chúa Nhật trước hoặc sau đó, hoặc vào ngày lễ Các Thánh, mà còn có thể vào một ngày nào khác của tháng 11, do mỗi tín hữu tự chọn.

Thêm vào đó, riêng đối với những người già, người bệnh hoặc những ai vì lý do nghiêm trọng không thể ra khỏi nhà, cũng có thể lãnh nhận Ơn Toàn Xá, miễn là họ hiệp nhất thiêng liêng với các tín hữu khác, hoàn toàn xa lánh tội lỗi và với ý hướng thực hành ba điều kiện thông thường: xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng. Họ có thể làm việc này trước một bức ảnh Chúa Giêsu hay Đức Mẹ, đọc kinh cầu cho những người đã qua đời hoặc một bài đọc Kinh Thánh vv… để dâng cho Chúa những đau khổ và khó khăn của mình.

Sắc lệnh cũng kêu gọi các linh mục, trong năng quyền của mình, quảng đại cử hành bí tích Giải Tội và trao Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân. Đồng thời, vì lợi ích cho các linh hồn trong Luyện ngục, tất cả các linh mục đều được mời gọi cử hành ba Thánh Lễ trong ngày cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, theo Tông hiến Incruentum Altaris, do Đức Beneđictô XV ban hành 10/08/1915.

Theo Vatican News | Hồng Thủy

May be an image of standing, monument, outdoors and text that says 'THÁNG 11/2021 Năm nay, 2021, việc lãnh Ơn Toàn Xá dành cho tín hữu đã qua đời được kéo dài suố‘t tháng 11. NGUỒN: VATICANNEWS.VA'

VỊ LINH MỤC VIỆT NAM RẤT ĐẶC BIỆT VÌ CÓ CHA THUỘC ĐẠO CAO ĐÀI VÀ CÓ MẸ THUỘC ĐẠO PHẬT

 Make Christianity Great As Always

VỊ LINH MỤC VIỆT NAM RẤT ĐẶC BIỆT VÌ CÓ CHA THUỘC ĐẠO CAO ĐÀI VÀ CÓ MẸ THUỘC ĐẠO PHẬT

Nhất gia tam Đạo. Tam nhân tam Tôn. Một gia đình ba Tôn giáo. Ba thành viên trong cùng một gia đình thuộc ba Tôn giáo khác nhau.

Chuyện lạ không tưởng này đã xảy ra trong gia đình cha Phêrô Giuse Maria HÀ THIÊN TRÚC, đương kim Chánh xứ Martinô thuộc Tổng Giáo phận Sài Gòn.

Quả vậy, cha Trúc đã xuất thân trong một gia đình có thân phụ là một tín đồ thuộc Đạo Cao Đài và thân mẫu thuộc Đạo Phật.

Ngài nguyên là một bác sĩ y khoa có tâm và kiêm là một ca sĩ hát rất tâm tình.

Cha ngài vì muốn ngài trưởng thành về tâm linh và vững mạnh về kiến thức nên đã đặt tên ngài là Thiên Trúc, tên cũ của Ấn Độ, một quốc gia Phật Giáo.

Cả ông cố và bà cố đều tôn trọng niềm tin của nhau, cùng sùng Đạo của riêng mình và đã tôn trọng sự chọn lựa tâm linh của các con, và đã chấp nhận cho con trai mình là Hà Thiên Trúc được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội để gia nhập Giáo Hội Công Giáo.

Hiện nay cả hai ông bà cố đã viên tịch.

Cha Trúc đã từng sống bên những người Công giáo đạo đức thánh thiện, đã được nghe biết về Chúa Giêsu cách sâu xa ấn tượng thuyết phục.

Chính vì thế mà cha Trúc đã gia nhập Đạo Công giáo vào năm 19 tuổi với sự chấp thuận, tôn trọng và ủng hộ rất vô tư của cả cha lẫn mẹ.

Ngài được Rửa tội ở Giáo xứ Tân Định, Sài Gòn năm 1989 và được gia nhập vào Giáo xứ này.

Không dừng lại ở đó, cha còn say mê Đạo Công Công giáo đến nỗi đã muốn trở thành một Linh mục để đem ơn cứu độ cho nhân thế.

Cha đã được cha sở Gioan Baotixita Võ Văn Ánh giới thiệu vào Đại Chủng viện dưới sự dìu dắt tận tình vô tư trước đó của cha nghĩa phụ Giuse Maria Đỗ Duy Lạn.

Chính cha Lạn đã khuyến khích, đã nâng đỡ, đã hướng dẫn bác sĩ Hà Thiên Trúc trong những bước đầu của ơn gọi linh mục.

Và cuối cùng cha đã được truyền chức Linh mục.

Vậy là cha Trúc tuy đang có một tương lai sán lạn cho mình, và cũng đang phục vụ, mang lại an ủi cho nhiều bệnh nhân, nhưng đã chọn đi tu trở thành linh mục, và có lẽ đã làm nhiều người thắc mắc, khó hiểu.

Vậy là bác sĩ Trúc từ việc chữa lành thể xác con người cách chóng qua lại trở nên “bác sĩ” chữa lành tâm linh con người cách Vĩnh cửu.

Vậy là cha Trúc từ là người không hiểu gì về Đạo Công giáo đã trở thành thầy dạy của Đạo Công giáo.

Khẩu hiệu đời linh mục mà cha đã chọn chính là những câu ca ngợi Thiên Chúa của Đức Mẹ là: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa » (Lc 1,46).

Sở dĩ cha Trúc có đến 3 tên Thánh vì cha rất yêu thích Thánh Phêrô, rất sùng kính Đức Mẹ và tri ân cha nghĩa phụ Giuse Maria Đỗ Duy Lạn nên đã chọn tên Thánh Giuse để tưởng nhớ cha cố.

Cha đã thành tâm tìm hiểu Đạo Công giáo và đã khiến cha hết sức thán phục và quyết định gia nhập Đạo.

Cha Trúc khi còn là một Chủng sinh đã từng tâm sự như sau:

“Ba con rất sùng đạo Cao Đài, ăn chay trường, đạo đức, có ước muốn con cái giúp ích cho đời (như: đặt tên chị con là “Thanh Tuyền” với ước mong phục vụ vô vị lợi cho đời như “giòng suối trong” chảy hoài không ngưng nghỉ, và hiện chị con là bác sĩ đang giúp ích rất nhiều cho các bệnh nhân và cho xã hội trong lãnh vực ngoại thần kinh và chẩn đoán hình ảnh).

“Và ba con cũng đã giác ngộ trên đường Đạo nên có ước mong các con cái sẽ được thăng tiến trong đời sống tâm linh (như đặt tên con là “Thiên Trúc”, tên cũ của Nước Ấn Độ – cái nôi của Phật giáo).

“Má con cũng là người sùng đạo Phật, đã dẫn các con cái quy y Phật. Má cũng thường đi học và nghe thuyết pháp về Phật giáo vào các chiều chủ nhật hàng tuần ở chùa Xá Lợi. Bản thân con cũng được má con dẫn quy y Phật vào năm học lớp 6, pháp danh “Thiện Tuấn”.

“Ba má con rất quan tâm, chăm sóc, giáo dục nhiều cho các con cái về tri thức và đạo đức.”

Cha Trúc chính là chứng nhân cho câu nói của Thánh Phê-rô: “Quả thật, tôi nghiệm biết rằng Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận!” (Cv 10, 34-35).

Hồng ân Chúa vẫn ngày ngày tuôn đổ như nắng như mưa xuống trần gian không phân biệt.

Bất cứ ai thành tâm thiện chí mở rộng tâm hồn, thì sẽ được đón nhận dồi dào ơn Chúa.

Chúng ta cùng nhau cúi đầu tạ ơn Chúa, chúc mừng cha, cầu cho cha Thiên Trúc và chúng ta ngày càng gần trái tim Chúa hơn. Amen.

Giuse Kích

(Bài viết có tham khảo một số nguồn tin).

May be an image of 2 people, people standing and text that says 'Linh hồ»n tôi ngợi khen Thiên Chúa (171.46) ( Cha tân Chánhxứ Phêrô Giuse Maria HÀ THIÊN TRÚC'

CHUYỆN NGƯỜI TU SĨ

CHUYỆN NGƯỜI TU SĨ

Chuyện kể rằng: Có một tu sĩ rất chuyên chăm tu hành. Kết quả là đời sống tu trì cũng như tâm hồn của ông trở nên rất mực tốt lành, và thánh thiện.

Một ngày kia, đang lúc vị tu sĩ ấy bắt tay vào rửa chén dĩa, thì một Thiên thần hiện ra nói: “Thiên Chúa sai ta đến báo cho ngươi biết là đã đến giờ ngươi lìa đời để đến trình diện Chúa”. Vị tu sĩ điềm nhiên và vui vẻ trả lời: “Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi, nhưng như ngài thấy đó, tôi còn phải rửa hàng chồng chén dĩa, liệu giờ tôi đến trình diện Chúa có thể hoãn lại sau khi tôi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không?” Nghe vậy, Thiên thần liền biến mất. Tu sĩ ấy trở lại công việc bổn phận một cách hăng say và quên hẳn việc gặp gỡ Thiên thần.

Một thời gian sau, trong lúc vị tu sĩ ấy đang chăm sóc các bệnh nhân, thì Thiên thần lại hiện ra. Lần này vị tu sĩ không nói một lời, chỉ giơ tay chỉ vào các bệnh nhân đang nằm trên giường. Thiên thần lại biến mất không nói một lời nào. Cứ như vậy, vị tu sĩ cứ vui tươi và tận tình chu toàn việc phục vụ cộng đoàn tu của mình và tất cả mọi người.

Rồi một ngày kia, ông cảm thấy mình đã già nua và mệt mỏi. Ông thốt lên lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin sai Thiên thần Chúa đến, con đã sẵn sàng theo ngài”. Lời cầu nguyện vừa dứt, Thiên thần Chúa hiện đến. Vị tu sĩ vui mừng rỡ: “Lần này, nếu Thiên thần mang tôi đi, tôi sẵn sàng theo ngài về thiên quốc”. Thiên thần nhìn vị tu sĩ ấy với tất cả sự trìu mến và nói: “Này vị thánh nhỏ ơi, sao còn mơ ước về Thiên quốc, những ngày tháng vừa qua, chẳng phải ông đã đang ở thiên đàng rồi hay sao?”

Lạy Chúa, xin sai các Thiên thần của Chúa đến dẫn dắt và trợ giúp chúng con trong mọi khó khăn và hiểm nguy trên hành trình dương thế để chúng con luôn sống trong ơn nghĩa với Chúa ở đời này và đời sau sẽ được cùng các Thiên thần đàn ca chúc tụng Chúa trên Thiên quốc. Amen.

Nt. Rosa Lê Ngọc Thuỳ Trang, MTGCQ

 Têrêsa Ngọc Nga (st)

From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen

TƯƠNG LAI CUỘC ĐỜI

TƯƠNG LAI CUỘC ĐỜI

 TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Sống trên đời, ai cũng mong có một tương lai tốt lành.  Tương lai mà người tín hữu kỳ vọng không giống như mọi người không có đức tin mong đợi.  Bởi lẽ, theo quan niệm trần gian, tương lai là những kỳ vọng thành đạt trong sự nghiệp hay học vấn, hoặc giàu có sung sướng về vật chất.  Người Kitô hữu cũng cố gắng để có được một điều kiện sống hạnh phúc phong lưu.  Tuy vậy, tương lai và hạnh phúc vĩnh cửu của họ là Nước Trời.  Giữa cuộc sống này phủ đầy bóng tối, nhiều thử thách gian nan và dối gian lừa lọc, nhưng những tối tăm gian khổ ấy cũng có lúc kết thúc.  Vương quốc mà chúng ta chờ đợi, đó là hạnh phúc vĩnh cửu Thiên Chúa hứa ban cho những ai yêu mến Ngài.  Hướng về tương lai vĩnh cửu, đó là mối ưu tiên hàng đầu của người tin Chúa.

Với lối hành văn theo thể loại được gọi là “Khải huyền”, tác giả sách Đanien đã diễn tả lúc tận cùng của thời gian, chúng ta vẫn gọi là ngày tận thế.  Lúc ấy, Thiên Chúa sẽ can thiệp và làm cho những người đã chết được sống lại.  Sự can thiệp của Tổng lãnh Thiên Thần Micae như một cuộc tổng điều tra dân số.  Những ai được ghi trong “Sổ hằng sống” sẽ được hưởng hạnh phúc ngàn thu, những ai không có tên trong đó sẽ phải trầm luân muôn kiếp.

Giống như tác giả sách Đanien, thánh sử Mác-cô đã sử dụng lối văn Khải huyền để diễn tả ngày cánh chung.  Vào thời đó, các thiên thể tinh tú sẽ mất hết khả năng chiếu sáng và sẽ rơi xuống đất.  Mặt trời, mặt trăng và các tinh tú được các dân xung quanh thờ như những vị thần.  Vào thời Thiên Chúa xuất hiện, các vị thần ấy sẽ bị đánh bại.

Có thể những tiên báo trên đây bị người thời nay coi là chuyện tầm phào.  Người ta nói rằng, từ xưa đến nay, rất nhiều lần có lời đồn thổi về ngày tận thế, nhưng rốt cuộc thì ngày tận thế không đến.  Lời Chúa muốn cảnh tỉnh chúng ta khi quả quyết: thế gian này chẳng thể tồn tại mãi.  Sẽ có ngày cuộc đời này kết thúc, dù chúng ta không biết khi nào và như thế nào.  Những hình ảnh được nêu trong sách Đanien, và Tin mừng Thánh Mác-cô chỉ là những biểu tượng để giúp cho các độc giả cách chúng ta mấy ngàn năm dễ hiểu.

Nếu người ta có thể phủ nhận ngày tận thế, thì không ai có thể phủ nhận sự chết.  Dù sang hay hèn, dù văn minh hay lạc hậu, ai cũng phải đến ngày kết thúc cuộc đời.  Biết bao lần chúng ta đã chia tay những người thân, qua đó chúng ta càng cảm nhận sự mỏng giòn của thân phận con người.  Giáo lý Công giáo dạy chúng ta: giờ chết là tận thế đối với cá nhân mỗi người.  Lúc đó họ sẽ phải trả lời Chúa về những việc mình đã làm khi còn sống trên dương gian.  Chúa dựng nên con người có hồn và xác.  Thân xác có thể bị mục nát trong lòng đất, nhưng linh hồn bất tử.  Mỗi người phải mang trách nhiệm về những gì mình đã làm.  Thời gian, sức khoẻ, gia đình, bạn bè, nghề nghiệp và những ưu đãi khác đều là những “vốn” Chúa ban để sinh lợi.  Trên trần gian, có người tốt kẻ xấu, lúc tận thế, cũng có người hưởng vinh quang, kẻ bị trầm luân muôn kiếp.  Ngôn sứ Đanien đã nhìn thấy “những người thông minh sẽ sáng chói như ánh sáng vòm trời, và những kẻ khuyên dạy sự công chính cho nhiều người, sẽ nên như các vì tinh tú tồn tại muôn ngàn đời.”  Niềm tin vào đời sau chính là tôn vinh phẩm giá con người.  Niềm tin này cũng khích lệ chúng ta, như một lời hứa hẹn rằng, nếu chúng ta sống tốt ở đời này thì sẽ được hưởng vinh quang bất diệt đời sau.

Tin vào đời sau, đó không phải là sự ru ngủ như có người thiếu thành kiến với Giáo Hội đã suy diễn.  Chính Chúa Giêsu đã hứa với chúng ta: ai tin vào Người thì dù có chết cũng sẽ được sống, và ai tin vào Người sẽ được sống muôn đời.  Tác giả thư Hípri nói với chúng ta: nếu chúng ta có hy vọng được hưởng sự sống đời đời là nhờ hy tế của Đức Giêsu dâng trên thập giá.  Người là Thượng tế, đã dâng chính máu mình để chuộc tội cho nhân loại.  Những ai tin vào Người sẽ được tha thứ tội lỗi và được hưởng hạnh phúc vô biên.

Vào lúc năm cùng tháng tận, mỗi chúng ta hãy suy nghĩ về lúc kết thúc của cuộc đời.  Hai chữ “tận thế” gợi cho chúng ta nỗi sợ hãi và bi quan chán nản, nhưng hai chữ “tương lai” lại giúp chúng ta bừng lên niềm hy vọng.  Người vô thần cho rằng mỗi ngày sống là đang tiến dần tới nấm mộ; người tin Chúa lại cho rằng mỗi ngày sống là một nấc thang đưa họ đến với Đấng Tối cao.  Quả vậy, khi đối diện với sự chết, người Kitô hữu nhìn nhận, đó là cuộc gặp gỡ với Chúa.  Đó cũng là sự biến đổi từ thân phận phải chết sang cuộc sống đời đời.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim

TẠI SAO CHÚNG TA PHẢI CẦU NGUYỆN CHO CÁC LINH HỒN?

TẠI SAO CHÚNG TA PHẢI CẦU NGUYỆN CHO CÁC LINH HỒN?

 Lm. Giuse Trần Thăng Hưng, O. Carm.

Tháng 11, Giáo Hội dùng cả tháng để cầu nguyện cho các linh hồn, được bắt đầu bằng Lễ Các Đẳng Linh Hồn vào ngày 2 tháng 11.  Nhiều nơi trên thế giới vẫn gọi tháng 11 là tháng cầu cho các đẳng linh hồn.

Tại sao chúng ta cần cầu nguyện cho các linh hồn?  Khi họ còn sống, họ đã làm gì mà khi chết đi chúng ta phải cầu nguyện cho họ?

Đức Tin của Giáo Hội Công Giáo dạy rằng, Con người sau khi chết sẽ xảy ra ba tình trạng; Được lên Thiêng Đàng, xuống Hoả Ngục hay vào Luyện Hình (Luyện Ngục).

Thiên Đàng, khi một người sống theo luân lý Công Giáo, luôn kính sợ Thiên Chúa và sống theo giới răn của Ngài.  Thiêng Đàng là phần thưởng Thiên Chúa dành cho họ vì công trạng và sự mong ước khi họ còn sống.  Thiên Đàng là hạnh phúc bất diệt, là sự sống đời đời và là sự hiệp thông trọn hảo với Thiên Chúa, các Thiên Thần, và các Thánh.

Hỏa Ngục, là những người khi còn sống, đã từ chối ân sủng của Thiên Chúa.  Những người ta biết tỏ tường điều tốt xấu nhưng vẫn phạm tội chống lại Thiên Chúa và tha nhân để chọn điều xấu.  Hoả Ngục là những người biết được lòng yêu thương và lòng thương xót của Thiên Chúa nhưng vẫn khước từ và không bao giờ hoán cải.

Luyện Ngục, đó là những người sau khi chết, được Chúa hứa ban Thiên Đàng nhưng vẫn phải cần một thời gian thanh luyện vì có những tội lỗi họ đã phạm khi còn sống.  Giáo Lý Công Giáo định nghĩa Luyện Ngục là “Những người chết trong ân sủng và tình thân nghĩa với Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, thì tuy họ chắc chắn sẽ được cứu độ muôn đời, họ còn phải chịu thanh luyện sau khi chết, để đạt được sự thánh thiện cần thiết hầu tiến vào hưởng niềm vui thiên đàng” (số 1030).

Có một điều là những linh hồn nơi luyện hình không thể cầu nguyện cho chính họ, và họ phải hoàn toàn nhờ vào lòng thương xót và lời cầu nguyện của những người đang còn sống.

Khi một người đã qua đời, chúng ta cũng không thể biết được chính xác linh hồn đó sẽ lên Thiên Đàng, hay xuống hoả ngục, hay sẽ vào chốn Luyện hình vì có những công trạng hay tội lỗi mà chỉ có mình Thiên Chúa và linh hồn đó biết mà thôi, vì vậy việc cầu nguyện cho người qua đời là hết sức cần thiết.

Ngay từ thuở đầu, Giáo Hội luôn cầu nguyện cho những người qua đời, đặc biệt trong Thánh Lễ và các phụng vụ chung.  Trong Thánh Lễ, tất cả các Kinh Tạ Ơn đều có phần cầu nguyện cho các linh hồn. Kinh Tạ Ơn II ghi rằng: “Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại, và mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc chúng con đã ly trần trong tình thương của Chúa.  Xin cho hết thảy được vào hưởng ánh sáng Tôn Nhan Chúa.”  Cũng vậy, trong Phụng Vụ các Giờ Kinh dành cho các tu sĩ và giáo sĩ đọc hàng ngày, đều có lời cầu nguyện dành cho người qua đời đặc biệt là phần Kinh Chiều.  Kinh Chiều Chúa Nhật I ghi rằng: “Vì lòng từ bi cao cả Chúa, xin thương đến những người đã qua đời, – và cho họ được vào an nghỉ trong Nước Chúa.”

Tuy nhiên bổn phận của chúng ta là những người Kitô Hữu chúng ta cũng phải đọc kinh cầu nguyện cho các Linh Hồn, tại sao?

Lửa Luyện Tội là có thật: Ở Roma, tại Nhà Thờ Thánh Tâm có một viện bảo tàng trưng những chứng tích các linh hồn hiện về xin cầu nguyện cho họ.  Các chứng tích cho thấy trên các sách kinh, khăn bàn thờ, hay trên mặt bàn bị cháy nám in hình bàn tay hay các ngón tay.  Họ hiện về xin cầu nguyện cho họ để mau thoát lửa luyện tội và để lại các chứng tích như một bằng chứng.  Các Thánh hiện về cũng cho biết, lửa Luyện tội cũng không khác mấy so với lửa Hoả Ngục.

Họ là người thân yêu của chúng ta: Những người qua đời, chắc chắn trong số là những người thân yêu của chúng ta, ông bà cha mẹ anh chị em bạn hữu của chúng ta.  Họ đã là một phần không thể thiếu trong cuộc đời của chúng ta, nhớ đến công ơn sinh thành dưỡng dục, chúng ta phải biết cầu nguyện cho họ.  Mặc dù nếu chúng ta không có bà con bạn bè thân thuộc, chúng ta cũng phải cầu nguyện cho các linh hồn, vì qua bí tích Rửa Tội, tất cả đều là anh chị em của chúng ta.

ĐGH Phanxicô đã nói trong một buổi trưa đọc Kinh Truyền Tin: “Truyền thống Giáo hội luôn thúc giục chúng ta cầu nguyện cho những người đã qua đời, đặc biệt là dâng lễ cầu cho họ.  Đó là cách giúp đỡ tốt nhất mà chúng ta có thể làm cho các linh hồn, nhất là các linh hồn bị bỏ rơi.  Nền tảng của việc cầu nguyện cho các linh hồn là tình hiệp thông trong Nhiệm Thể Đức Giêsu Kitô.

Thân phận chúng ta: Cầu nguyện cho các linh hồn trong Luyện hình cũng là một cách để nhớ đến thân phận của chúng ta.  Có thể khi nhắm mắt lìa đời chúng ta cũng sẽ vào Luyện Hình để chịu sự thanh luyện của Thiên Chúa.  Vì vậy khi cầu nguyện cho các linh hồn, chúng ta được mời gọi để sống tốt hơn và thánh thiện hơn đời sống Kitô hữu của chúng ta để ước mong khi chết chúng ta được Chúa cho hưởng phúc Thiên Đàng.

Tập cho con cái biết cầu nguyện: Cầu Nguyện cho các linh hồn và tập cho con cái cầu nguyện cầu nguyện cho các linh hồn là điều hết sức cần thiết cho con cái sau này.  Nếu chúng ta không cầu nguyện cho các linh hồn và không tập cho con cái cầu nguyện cho các linh hồn thì khi chúng ta nằm xuống, ai sẽ cầu nguyện cho chúng ta?

Sinh Ơn Ích cho chính chúng ta: Cầu nguyện cho các linh hồn không những giúp các linh hồn mau hưởng phúc Thiên Đàng nhưng còn sinh ơn ích cho chúng ta.  Khi chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn, chúng ta không những trở nên những người gần gũi với Thiên Chúa, là những người biết nghĩ đến và yêu thương người khác, là người sống vị tha và không ích kỷ.  Những việc làm này đều được Thiên Chúa ghi nhận và chúc phúc cho đời sống của chúng ta.

Niềm Vui cứu rỗi: Cầu nguyện cho các linh hồn thật sự mang rất nhiều hiệu quả thiết thực.  Chắc chắc các linh hồn trong luyện ngục sẽ được “rút ngắn” thời gian thanh luyện vì lời nguyện của chúng ta.  Chúng ta hãy thử tưởng tượng một ngày nào đó chúng ta được gặp anh chị em của chúng ta trên Thiêng Đàng và biết rằng chính những lời nguyện và hy sinh của chúng ta đã giải thoát họ sớm chốn Luyện Hình.  Khi chúng ta vào Thiêng Đàng rất nhiều linh hồn đến cảm ơn chúng ta vì những lời nguyện và hy sinh nhỏ chúng ta đã làm cho họ.

Rất dễ làm: Cầu nguyện cho các linh hồn không những rất dễ và lại còn có nhiều cách khác nhau.  Đọc kinh Vực Sâu, một vài kinh Kính Mừng hay một vài kinh Lạy Cha, ngắn hơn thì đọc kinh cầu các Linh Hồn (Chúng con cậy vì danh Chúa….) trước khi ngủ hay trong lúc đi bộ.  Sốt sáng hơn thì đọc một chuỗi mân côi cầu nguyện cho các Linh Hồn.  Chúng ta có thể xin lễ cầu nguyện cho các linh hồn và cùng hiệp thông với Linh mục trong Thánh Lễ đó.  Hy sinh, hãm minh và làm việc bác ái để cầu cho họ là những điều rất cần thiết.  Thăm viếng Nghĩa Trang và phần Mộ của người thân yêu đặc biệt là trong tháng 11, Mùng 2 Tết và ngày Giỗ của họ là những điều rất ý nghĩa và thiết thực.

Các Linh Hồn luôn mong chờ những lời cầu nguyện và những hy sinh nhỏ bé của chúng ta.

Lạy Nữ Vương Cát Minh, Xin cứu các linh hồn nơi chốn luyện tội.

Lm. Giuse Trần Thăng Hưng, O. Carm.

From: Langthangchieutim

ĐẦU TƯ CHO SỰ THÁNH THIỆN

ĐẦU TƯ CHO SỰ THÁNH THIỆN

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ai trong các con không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Tôi!”.

Thời sự thế giới trong những tuần qua nóng lên trước quyết định từ bỏ hoàng gia của công chúa Mako, Nhật Bản. Bất chấp sóng gió, Mako kết hôn với Komuro, một luật sư, con của một người mẹ đơn thân. Luật hoàng gia quy định, các thành viên nữ phải từ bỏ tước vị nếu kết hôn với một thường dân; các nghi lễ truyền thống trong đám cưới bị huỷ. Theo truyền thống, các nữ thành viên hoàng gia lập gia đình sẽ nhận được 1,3 triệu Mỹ kim hồi môn; tuy nhiên, Mako đã từ chối. Là một trong những công chúa tài sắc, giới trẻ ngưỡng mộ, Mako chia sẻ, “Chúng tôi nghĩ, mình đã tìm được người bạn đời quý giá, phụ thuộc vào nhau cả lúc hạnh phúc và bất hạnh”; Mako trải lòng, “Những gì tôi muốn, là có một cuộc sống yên ả trong môi trường mới của tôi!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Nếu công chúa Mako đã hy sinh tất cả để đầu tư cho tiếng gọi của con tim, thì Tin Mừng hôm nay cũng tiết lộ số vốn ‘đầu tư cho sự thánh thiện’ của người môn đệ Chúa Giêsu quả không hề rẻ và không dễ! Bởi lẽ, không chỉ vật chất, “Tất cả của cải mình có”, mà ngay cả những người thân yêu; thậm chí, bản thân đều phải đứng hàng thứ yếu sau Ngài, “Ai đến với Tôi mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Tôi!”.

Minh hoạ kế hoạch đầu tư xây dựng của một người xây tháp, Chúa Giêsu nói đến kế hoạch đầu tư trong đời sống thiêng liêng, ‘đầu tư cho sự thánh thiện’. Điều đó sẽ là gì? Hy sinh nhiều! Thế nhưng, như cảm giác hồi hộp khi cắt băng khánh thành toà tháp đã được thanh toán hoàn toàn và sẵn sàng đưa vào sử dụng, mọi nỗ lực ‘đầu tư cho sự thánh thiện’ của người môn đệ sẽ mang lại một kết quả tuyệt đẹp đến tận đời đời!

Bên cạnh đó, Chúa Giêsu đưa ra minh hoạ thứ hai, một vị vua sắp đi giao chiến. Ngài cho thấy đâu là mục tiêu tiên kiến của một kế hoạch chiến đấu. Câu trả lời rất đơn giản: Đừng để mình bị đánh bại! Qua đó, người môn đệ cần biết, chiến tranh luôn nghiệt ngã và nếu khả năng bị đánh bại là một điều có thể thấy trước, thì tốt hơn, nên tìm một chiến thuật khác. Cũng thế, với sự thánh thiện, cần nhớ rằng, chúng ta sẽ dễ dàng thắng một số “trận chiến”; đang khi có những “trận chiến” phải tránh hoàn toàn. Vì thế, đừng ngu khờ đánh giá cao năng lực của mình; điều này xảy ra, đặc biệt, khi chúng ta biết mình không thể không phạm tội, và nghĩ rằng, bản thân đủ mạnh để vượt qua chúng; vì đôi khi, chiến lược đối đầu tốt nhất không phải là chiến đấu, mà là chạy trốn!

Nói đến kế hoạch và nguồn lực ‘đầu tư cho sự thánh thiện’, Chúa Giêsu đưa ra một số lời khuyên xem ra khá cực đoan và nghiệt ngã. Ngài khá cường điệu khi đòi chúng ta “từ bỏ mọi của cải” hay “ghét cha mẹ”; những mối quan hệ này dù quan trọng đến đâu cũng không thể chiếm vị trí hàng đầu trong trái tim người môn đệ. Ở đó, ‘một Ai đó’ đã chiếm hữu, một Đấng yêu thương bằng một tình yêu dịu dàng và nồng nàn; Đấng ấy chính là Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã để Chúa Cha chiếm trọn trái tim, trọn con người, trọn tâm trí khi Ngài chu toàn ý muốn của Cha một cách triệt để, toàn vẹn, kể cả cái chết trên thập giá; vì thế, Ngài đã trở nên khuôn mẫu cho chúng ta noi theo. Vậy mà trớ trêu thay! Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá, “từ bỏ mọi của cải” hay “ghét cha mẹ” lại thực sự dẫn đến một tình yêu lớn hơn, hy sinh hơn, phong nhiêu hơn và trù phú hơn khi người môn đệ được chính Thiên Chúa trả lại “gấp trăm ở đời này” như Ngài đã hứa!

Anh Chị em,

‘Đầu tư cho sự thánh thiện’ nơi người môn đệ quả không rẻ, cũng không dễ! Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta đặt mọi thứ ở vị trí thứ hai. Không ai có thể làm điều này nếu không có sự trợ giúp của ân sủng Chúa. Chúng ta yếu đuối và mãi yếu đuối, nhưng tin rằng, chính Chúa sẽ cho chúng ta sức mạnh cần thiết để đi vào những lối hẹp của Tin Mừng, lối hẹp của lề luật. Chúng ta ‘đầu tư cho sự thánh thiện’ bằng cách để Thiên Chúa chiếm trọn con người mình, thực hành yêu thương, vâng phục, như thánh Phaolô nói trong thư Rôma hôm nay, “Yêu thương là chu toàn mọi lề luật”; đồng thời, quảng đại với tha nhân như lời Chúa dạy, “Phúc thay người biết cảm thương và cho vay mượn!” như Thánh Vịnh đáp ca nhắn nhủ. Và được như thế, là chúng ta đã đầu tư tốt!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin giúp con dám ‘đầu tư cho sự thánh thiện’ bằng việc chết đi mỗi ngày cho những gì còn vướng bận khiến con không thể chấp cánh bay cao trên ‘bầu trời nên thánh’”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

From: NguyenNThu