90 NĂM NHÀ THỜ CHÍNH TÒA “CHÚA KITÔ ĐẤNG CỨU THẾ” TẠI MATXCOVA BỊ STALIN PHÁ HỦY

Make Christianity Great As Always

90 NĂM NHÀ THỜ CHÍNH TÒA “CHÚA KITÔ ĐẤNG CỨU THẾ” TẠI MATXCOVA BỊ STALIN PHÁ HỦY

Công trình Đại Thánh Đường Chúa Kitô Vua Cứu Thế mà chúng ta thấy ngày nay chỉ mới được bắt đầu xây dựng vào những năm 1990 sau khi nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Bang Sô Viết bị sụp đổ, đại thánh đường là bản sao một kiệt tác kiến trúc thế kỷ XIX. Tòa giáo đường đầu tiên đã bị phá hủy dưới thời lãnh tụ Joseph Stalin.

Nhà thờ Chúa Kitô Đấng Cứu Thế được thi công lần đầu trong vòng 44 năm nhưng chỉ tồn tại 48 năm. Công trình dường như bị một số mệnh nghiệt ngã theo đuổi.

Nhà thờ Chúa Kitô Đấng Cứu Thế khánh thành vào tháng 5 năm 1883. Các cuộc cách mạng vô sản do V.I Lênin xách động bùng nổ ở Nga năm 1917 và những người Cộng sản lên nắm quyền đã coi tôn giáo như thứ “thuốc phiện đối với nhân dân”. Hàng loạt nhà thờ và tu viện lần lượt bị đóng cửa, các linh mục bị xử tử và bị tù đày chung thân. Năm 1931, Đảng Cộng sản Liên Xô có quyết định xây dựng Cung Xô Viết bề thế — như biểu tượng chiến thắng của ý thức hệ cộng sản trên mặt bằng của giáo đường. Trên đỉnh kết cấu cao 420 mét sẽ là tượng đài Bác Lênin vĩ đại cao 100 mét.

Ngày 5 tháng 12 năm 1931, Đảng Cộng Sản Liên Xô lệnh cho đội công binh đặt thuốc nổ vào móng nhà thờ. Vụ nổ mạnh làm rung chuyển các tòa nhà xung quanh. Nhưng nhà thờ không đổ! Đội lính chuyên nghiệp không tin vào mắt họ. Người ta phải tăng gấp đôi lượng thuốc nổ để phá vỡ các bức tường. Gần một năm rưỡi sau mặt bằng mới được dọn sạch.

Việc thi công Cung Xô Viết buộc phải ngừng vì chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ và sau đó dự án hoàn toàn bị đình chỉ. Năm 1960, tại nơi nhà thờ bị phá hủy và công trình cung Xô Viết không thành, xuất hiện bể bơi ngoài trời “Matxcova” mà người dân thủ đô đã sử dụng suốt ba thập kỷ.

Năm 1964, Trong phiên họp Uỷ Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Liên Xô, đồng chí Yuri Gagarin – phi hành gia bay lên vũ trụ đầu tiên đã yêu cầu xây dựng lại Vương Cung Thánh Đường Chúa Kitô Đấng Cứu Thế trên nền cũ đã bị Stalin phá đổ vào năm 1931 như là biểu tượng vinh quang của người Nga. Nhiều đại biểu trong phiên họp đều sửng sốt nhưng rồi mọi người cùng đứng lên vỗ tay hoan nghênh lời phát biểu này, còn đồng chí Tổng bí Thư Đảng Nikita lại giận dữ tím mặt trước lời phát biểu này

Vào ngày Lễ Giáng Sinh 25 tháng 12 năm 1991, Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Bang Sô Viết sụp đổ, chính phủ Liên Bang Nga mới thành lập đã quyết định khôi phục lại nhà thờ Chúa Kitô Đấng Cứu thể theo nguyện vọng của đa số người dân Nga, theo đúng thiết kế nhà thờ cũ đã bị phá hủy vào năm 1931. Công trình hoàn thành ngày 31 tháng 12 năm 1999. Bước vào thế kỷ mới, thủ đô nước Nga nhận một món quà tuyệt vời, kiệt tác kiến trúc được phục chế trở thành điểm hành hương đông đảo của nhiều du khách.

Công trình Đại giáo đường Chúa Kitô Đấng Cứu thế Matxcova có kích thước đáng kinh ngạc: mái chóp vàng cao 103 m, nhà thờ có sức chứa đến 10 nghìn người. Tường đá trắng tô điểm những bức phù điêu bằng đồng với các cốt truyện trong Kinh Thánh. Bài trí nhà thờ lộng lẫy với các bích họa tuyệt đẹp được thực hiện bởi bàn tay các nghệ nhân xuất sắc nhất của Nga. Trên những phiến đá cẩm thạch lớn được ốp dọc theo hành lang nhà thờ khắc họ tên những người lính Nga đã xả thân trong cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1812, tham gia đánh đuổi đội quân xâm lược của Hoàng đế Pháp Napoleon khỏi nước Nga.

Nguồn : Chiến sĩ Chúa Kitô

“NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI”- TGM Giuse Vũ Văn Thiên

“NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI”

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Có lần, khi dẫn các vị khách không cùng tôn giáo đi thăm hang đá Giáng Sinh, có vị đã hỏi ý nghĩa của dòng chữ ghi trên hang đá “Ngôi Lời đã làm người”, tôi thấy thật khó để giải thích một điều cốt lõi của Đức tin Kitô giáo.  Quả vậy, mầu nhiệm Nhập thể không thể diễn đạt trong vài câu từ.  Ngay cả đối với các Kitô hữu, tín điều này là một huyền nhiệm mà lý trí hữu hạn của con người phải im lặng cung kính tôn thờ trước quyền năng cao cả và tình thương vô bờ của Thiên Chúa Tối cao.

“Ngôi Lời đã làm người”, Tác giả Tin Mừng thứ bốn khẳng định với chúng ta như thế.  Ông đã khởi đầu tác phẩm của mình bằng cách đi tìm nguồn gốc của Ngôi Lời thiên linh.  Ngôi Lời ấy đã hiện hữu từ muôn thuở.  Ngôi Lời vừa giống Chúa Cha, lại vừa khác với Ngài.  Ngôi Lời giống Chúa Cha vì Ngôi Lời là Thiên Chúa, Ngôi Lời khác với Chúa Cha vì “Người vẫn hướng về Thiên Chúa.”  Sự tương tự và khác biệt chỉ có thể hiện hữu do quyền năng của Thiên Chúa.  Thánh Gioan muốn chứng minh: Đức Giêsu Kitô thành Nagiarét là Thiên Chúa thật, và cũng là người thật.  Như trên đã nói, lý trí con người hữu hạn, suy bao nhiêu cũng không thể hiểu được mầu nhiệm Nhập Thể, tức là sự kiện Thiên Chúa và con người nên một nơi Đức Giêsu.  Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng: Đức Giêsu đồng bản thể với Đức Chúa Cha.  Lời tuyên xưng ấy nói lên sự tương tự huyền nhiệm này.

“Ngôi Lời đã làm người”, để làm gì?  Thưa, để chiếu sáng thế gian.  Đức Giêsu là ánh sáng trần gian.  Chính Người đã khẳng định: “Tôi là ánh sáng thế gian.  Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12).  Sứ mạng của Đức Giêsu là soi sáng trần gian, giúp con người nhận ra Chân lý, và nhờ đó họ được sống đời đời.  Ánh sáng của Chúa Giêsu là cuộc đời và giáo huấn của Người.  Ai đến với Người, thì không còn phải đau khổ, vì họ được an ủi và tìm thấy bình an.  Lịch sử Kitô giáo hai ngàn năm qua đã chứng minh điều đó.  Bất cứ ai đến với Đức Giêsu, đều được Người đón nhận.  Sự kiện lễ Giáng sinh được cử hành vào nửa đêm theo truyền thống từ xa xưa, cũng nhằm khẳng định Đức Giêsu là ánh sáng bừng lên trong đêm tối cuộc đời.

“Ngôi Lời đã làm người” trong hoàn cảnh nào?  Tác giả Tin Mừng thứ bốn viết: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).  Thánh Gioan muốn nói đến những người khước từ Chúa Giêsu.  Sự khước từ ấy thể hiện qua việc Thánh Giuse và Đức Trinh nữ Maria gõ cửa nhiều quán trọ, mà không tìm được một chốn trú ngụ qua đêm.  Những chủ quán thời đó có thể khước từ vì thấy hai ông bà nghèo nàn, mà bà thì lại sắp sinh con.  Chính vì sự khước từ này mà Ngôi Lời đã phải khởi đầu hành trình trần thế trong khung cảnh nghèo nàn tột bậc.  Đó là hang đá, nơi dùng cho chiên bò trú ngụ qua đêm để tránh sương lạnh mùa đông buốt giá.  Trải dài suốt lịch sử, có rất nhiều người đón nhận Chúa Giêsu và thực thi giáo huấn của Người.  Tuy vậy, cũng có nhiều người khước từ Chúa.  Những người đón tiếp Chúa vì đã nhận ra nơi Người con đường Chân lý và ý nghĩa cuộc đời.  Những người khước từ Người vì thấy nơi Người những ràng buộc kìm hãm mọi đam mê của họ.  Theo Đức Giêsu phải chấp nhận bỏ mình.  Bởi lẽ, Đức Giêsu đã đi trên con đường thập giá và đã chết trên thập giá.  Kitô hữu là người nên giống Chúa Kitô trong cuộc sống, thì cũng phải nên giống Người trong mầu nhiệm thập giá.  Cũng tác giả Tin Mừng thứ bốn đã khẳng định: “Những ai đón nhận, tức là tin vào Danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (c 12).

“Ngôi Lời đã làm người” dạy ta điều gì?  Thiên Chúa cao cả đã hạ mình trở nên Hài Nhi bé nhỏ, sinh ra bởi một người phụ nữ.  Đó là sự khiêm nhường của Thiên Chúa.  Mầu nhiệm nhập thể dạy chúng ta, muốn nên thánh, trước hết phải là con người theo đúng nghĩa, tức là con người với đầy đủ những đức tính nhân bản.  Có những người chưa làm người đã đòi làm thánh, vì vậy họ sống trong ảo tưởng, lang thang vô định mà chẳng thấy bình an.  Noi gương Đức Giêsu, chúng ta sống khiêm nhường trước mặt Chúa và đối với anh chị em mình, vì “ai hạ mình xuống sẽ được Chúa nâng lên.”

Ngôi Lời đã làm người”, và hôm nay Người đang ở giữa chúng ta.  Hang đá máng cỏ chỉ là phác họa sự kiện lịch sử cách đây hơn hai ngàn năm.  Khi mừng lễ Giáng sinh, mỗi tín hữu hãy nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương ấy.  Và, cũng như Gioan Tiền hô, mỗi chúng ta cũng hãy trở nên nhân chứng của Ánh Sáng ngàn đời, đem Chúa đến với anh chị em chúng ta, những người đang khát khao Chân lý và đang tìm ý nghĩa cuộc đời.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

NHẬP THỂ SÂU ĐẬM – MỘT Ý NGHĨA KHÁC CỦA LỄ GIÁNG SINH

NHẬP THỂ SÂU ĐẬM – MỘT Ý NGHĨA KHÁC CỦA LỄ GIÁNG SINH

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Cách đây vài năm, trong một buổi hội thảo tôn giáo, một người tiến đến gần máy vi âm, sau khi xin lỗi vì ông nghĩ đây là câu hỏi không phù hợp, ông hỏi: “Tôi mê con chó của tôi.  Khi nó chết, nó có lên thiên đàng không?  Động vật có đời sống vĩnh cửu không?”

Câu trả lời cho câu hỏi này có thể làm nhiều người ngạc nhiên, nhưng qua cái nhìn của đức tin Kitô giáo, thì có, con chó có thể lên thiên đàng.  Đó là một trong các ý nghĩa của lễ Giáng Sinh.  Chúa xuống trần để cứu thế giới, không phải chỉ con người sống trên quả đất.  Nhập thể có một ý nghĩa cho nhân loại, nhưng cũng có ý nghĩa cho toàn vũ trụ.  Chính xác điều đó có nghĩa là gì, trí tưởng tượng của chúng ta không ở tầm mức hình dung ra được, nhưng, nhờ nhập thể, con chó cũng có thể lên thiên đàng.  Có hoang tưỏng đây không?  Không, đó là giảng dạy của Kinh Thánh.

Lễ Giáng Sinh là lễ mừng Chúa ra đời, chúng ta thấy trong sự ra đời của Ngài là khởi đầu mầu nhiệm nhập thể diễn ra trong lịch sử, mầu nhiệm Chúa mặc xác phàm để cứu nhân loại.  Và với điều này, chúng ta có khuynh hướng đấu tranh, làm sao để hiểu Chúa cứu thế giới có nghĩa là gì.  Hầu hết chúng ta xem điều này có nghĩa là Chúa Kitô xuống trần để cứu con người, những người trong chúng ta có ý thức về mình và những tâm hồn vĩnh cửu.

Điều đó đúng, nhưng đức tin cũng đòi hỏi chúng ta tin rằng hành động cứu rỗi của Chúa trong Chúa Kitô trải rộng ra ngoài cả loài người, ngoài cả động vật và các sinh vật sống khác.  Hành động của Chúa trong Chúa Kitô đạt đến mức sâu đậm đến mức có thể cứu được chính sự tạo dựng – đại dương, núi đồi, đất đai trồng trọt, cát trong sa mạc và chính quả đất.  Chúa Kitô xuống trần cứu tất cả mọi sự, chứ không phải chỉ một mình loài người chúng ta.

Chúng ta có thể hỏi ở đâu Sách Thánh đã dạy những điều này?  Điều này được dạy ở hầu hết mọi chỗ một cách ngầm mặc, nhưng nó được dạy một cách khá rõ ràng ở một số nơi khác nhau.  Chẳng hạn trong Thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma (8, 19-22), ngài viết: “Thật vậy, tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta.  Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người.  Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy; tuy nhiên, vẫn còn niềm trông cậy là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang.  Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở.”

Điều này có thể làm chúng ta ngạc nhiên, vì cho đến gần đây, việc giảng dạy và giáo lý của chúng ta thường không làm điều này trở nên rõ ràng.  Tuy nhiên ở đây Thánh Phaolô đã nói, chính sự tạo dựng thể lý, toàn vũ trụ, vào ngày tận thế, sẽ được biến đổi một cách vinh quang nào đó và được lên thiên đàng, tất cả cũng như loài người.  Ngài cũng nói rằng, như chúng ta, cũng cảm nhận được sự chết và những rên siết để thoát khỏi các giới hạn hiện nay của mình.

Chúng ta cũng phải tự đặt cho mình câu hỏi này không?  Chúng ta nghĩ gì sẽ xảy ra với tạo dựng thể lý vào cuối thời gian?  Nó sẽ bi hủy hoại, đốt cháy, tiêu diệt?  Hoặc đơn giản nó sẽ bị bỏ rơi, bỏ trống, bỏ hoang như cảnh sân khấu sau khi vở diễn kết thúc, trong khi chúng ta tiếp tục cuộc sống ở nơi khác?  Sách Thánh chỉ dẫn cho chúng ta một cách khác, Sách Thánh nói với chúng ta chính tạo dựng thể lý, quả đất chúng ta sẽ được biến đổi (“không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát”) và sẽ lên thiên đàng với chúng ta.  Làm thế nào điều này sẽ xảy ra?  Chúng ta không thể hình dung được điều này, cũng như chúng ta không hình dung được trạng thái biến đổi của chính mình.  Nhưng Sách Thánh bảo đảm với chúng ta điều này sẽ xảy ra, vì cũng như chúng ta, thế giới chúng ta, tạo dựng thể lý cũng được định sẵn để chết, và cũng như chúng ta, cảm nhận được sự chết và những rên siết để thoát khỏi các giới hạn của mình và trở thành bất tử.

Khoa học đồng ý.  Nó cho chúng ta biết, tạo dựng thể lý là chết, mặt trời thiêu cháy, năng lượng từ từ giảm dần và quả đất như chúng ta biết sẽ có ngày chết.  Trái đất cũng sinh tử như chúng ta, vì thế để có tương lai, trái đất phải được cứu bởi một cái gì đó hay bởi một ai đó bên ngoài.  Cái Gì Đó và Ai Đó được mạc khải qua mầu nhiệm nhập thể, qua đó Chúa mặc xác phàm trong Chúa Kitô để cứu thế giới – và những gì Ngài cứu không phải chỉ có một mình chúng ta, những người sống trên quả đất nhưng đúng ra là “thế giới”, chính hành tinh và tất cả mọi thứ trên đó.

Chúa Giêsu bảo đảm với chúng ta không có gì cuối cùng là hư mất.  Không một sợi tóc của một ai rơi, không một con chim sẻ nào rơi và biến mất mãi mãi, như thể nó chưa tồn tại.  Thiên Chúa đã tạo dựng, yêu thương, chăm sóc và cuối cùng làm sống lại từng mảnh tạo dựng cho muôn đời kể cả con chó yêu quý.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

ĐÁNH MẤT CƠ HỘI NGÀN VÀNG

ĐÁNH MẤT CƠ HỘI NGÀN VÀNG

 Linh mục Inhaxiô Trần Ngà 

(Suy niệm lễ Giáng sinh)

Có một thái tử vào rừng săn bắn, tình cờ gặp một cô gái quê đang kiếm củi một mình. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà hai con người có địa vị cách biệt quá xa lại tỏ ra tâm đầu ý hợp và hai bên lại yêu nhau tha thiết ngay từ phút gặp mặt đầu tiên.

Sau đó, hoàng tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến. Thế rồi, do lòng yêu thương thúc đẩy, anh khẩn khoản nài xin vua cha cưới nàng cho bằng được.

Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực, hay chỉ yêu vì gia tài, địa vị, quyền thế của chàng, vua cha truyền dạy hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái.

Thế là vị hoàng tử quyền quý, hoá trang thật khéo, y hệt người nông dân quê mùa chất phác, đến dựng lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng, làn da cháy nắng, đôi tay chai sần. Anh lân la làm quen với cô gái trong hình hài nông dân.

Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và khát mong được kết hôn với vị hoàng tử mà cô đã gặp trong rừng, nhưng trớ trêu thay, cô ta không nhận ra vị hoàng tử nầy trong hình hài người nông dân nghèo khổ nên đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua đuổi anh đi, trong khi lòng cô vẫn thổn thức nhớ thương chàng hoàng tử hào hoa mà cô đã gặp trong rừng!

Tiếc thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất một người yêu lý tưởng, mất luôn cả vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương lại.

Như vị hoàng tử rời khỏi hoàng cung, hoá thân thành nông dân đến dựng lều bên cạnh nhà cô gái, Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ bỏ ngai trời, hoá thân thành người phàm và đến ở giữa chúng ta. Ngài là Em-ma-nu-en, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài tự đồng hoá mình với những người láng giềng đang sống quanh ta.

Chúa Giê-su khẳng định rằng mỗi người đang sống chung quanh ta cũng chính là Ngài. Những ai cho người đói khát cơm ăn, áo mặc thì Ngài nói là họ đang cho Ngài ăn, mặc. Những ai chăm sóc người đau bệnh là đang chăm sóc Chúa. Tóm lại, bất cứ điều gì chúng ta làm cho người chung quanh là làm cho chính Chúa… Vì những người đó là phần thân thể của Chúa Giê-su (Mt 25, 34 – 40).

Thật trớ trêu, đang khi chúng ta vẫn yêu mến, suy tôn chúc tụng Thiên Chúa ngự trên cõi trời cao hoặc cung kính bái lạy tượng ảnh Ngài trên bàn thờ, thì chúng ta lại tỏ ra thờ ơ hờ hững và thậm chí còn đối xử tồi tệ với tha nhân là những chi thể sống động của Ngài, là hiện thân của Ngài đang hiện diện chung quanh.

Hôm nay, Thiên Chúa vẫn tiếp tục đóng vai người nông dân, người cùng khổ, người láng giềng, người bạn đồng nghiệp và cả những người nhà, để sống với chúng ta. Thế nhưng chúng ta không nhận ra Chúa nơi những người đó, nên chúng ta thường đối xử tệ bạc với họ. Thế là bi kịch cô gái nghèo hết lòng yêu thương chàng hoàng tử hào hoa nhưng lại phụ bạc anh ta dưới lốt nông dân nghèo khổ vẫn còn đang tiếp diễn từng ngày. Thế là “Ngài đã đến nhà của Ngài mà người nhà đã không tiếp nhận Ngài” (Gioan 1, 11).

Thật vô cùng đáng tiếc cho cô gái trong câu chuyện trên đây vì đã đánh mất cơ hội ngàn vàng: Cơ hội trở thành công nương chốn cung đình, cơ hội được hạnh phúc trăm năm bên hoàng tử giàu sang phú quý!

Và cũng vô cùng đáng tiếc cho chúng ta khi chúng ta tiếp tục lặp lại bi kịch ấy trong cuộc đời mình.

Lạy Chúa Giê-su,

Thánh Phanxicô Assisi nhận ra người phong cùi là một phần chi thể đang bị ung nhọt của Chúa nên ngài đã ôm hôn người phong ấy với tình yêu thắm thiết.

Mẹ thánh Tê-rê-xa Calcutta cũng đã nhận ra những người bệnh tật, hấp hối là những phần chi thể bị tổn thương của Chúa Giê-su nên mẹ đã dành phần lớn đời mình yêu thương chăm sóc họ.

Xin soi sáng cho chúng con biết rằng Chúa và những con người mà chúng con gặp gỡ hằng ngày chỉ là một, để rồi chúng con biết tôn trọng, yêu thương và phục vụ Chúa nơi những anh chị em đó.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà 

“Trời cao hãy đổ sương xuống…”

“Trời cao hãy đổ sương xuống…”, chúc bạn một ngày tràn đầy ơn thánh nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 20/12/2021

GIÁO LÝ: Tại sao sách Sáng thế mô tả sự sáng tạo như là “công trình 6 ngày”? Đây là cách nói nhằm đề cao ngày nghỉ cuối tuần sau 6 ngày làm việc (St 1-2,3). Nó còn diễn tả rằng sự sáng tạo thật là tốt lành, đẹp đẽ, và được sắp xếp thật khôn ngoan. (YouCat, số 46)

SUY NIỆM: – Từ cách nói tượng trưng là Chúa tạo dựng trong 6 ngày, ta có thể rút ra những yếu tố căn bản sau đây:

1/ Mọi vật đang hiện hữu là do Đấng Tạo Hóa ban cho hiện hữu.

2/ Mỗi thụ tạo có cái tốt lành của nó.

3/ Cả những gì đã trở nên xấu cũng đều có một cái nhân tốt lành.

4/ Tất cả mọi thụ tạo đều tùy thuộc vào nhau, và hiện hữu cho nhau.

5/ Trật tự và hòa hợp nơi vạn vật là phản ánh sự tốt đẹp của Chúa.

6/ Có một cấp bậc nơi vạn vật: con người vượt trên con vật, con vật vượt trên cây cối, cây cối vượt trên các vật vô sinh.

7/ Tạo vật đang tiến bước tới ngày đại lễ, khi Chúa Kitô sẽ đến chinh phục vũ trụ, và Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự. (YouCat, số 46 t.t)

❦ Sáng thế là sách đầu tiên của Kinh thánh diễn tả việc sáng tạo thế giới và sáng tạo loài người.

❦ Đừng tưởng rằng Thiên Chúa muốn cấm ta yêu thế giới. Không, ta phải yêu thế giới vì tất cả những gì trong thế giới đều đáng ta yêu mến. (Thánh Catarina Sienna (1347-1380, nhà thần bí và tiến sĩ Hội Thánh)

LẮNG NGHE: Đây là lời của ĐỨC CHÚA, Đấng tạo dựng trời cao – chính Người là Thiên Chúa nặn quả đất thành hình, củng cố cho bền vững; Người dựng nên quả đất mà không để hoang vu, nặn ra nó cho muôn loài cư ngụ -, Người phán thế này: Ta là ĐỨC CHÚA, chẳng còn chúa nào khác. (Is 45:18)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, “Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa nên lòng chúng con khắc khoải cho đến khi nghỉ yên trong Chúa”, xin giúp con luôn hướng về Chúa để tìm được sự bình an đích thực.

THỰC HÀNH: Một lần cha sở họ Ars (thánh Gioan Vianey) nói: “Thiên Chúa đã ban cho con người miệng lưỡi để ca ngợi.’’ Tự kiểm soát lại miệng lưỡi của mình hôm nay nhé.

NIỀM VUI CỦA HAI NGƯỜI MẸ

NIỀM VUI CỦA HAI NGƯỜI MẸ

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Đối với người phụ nữ, được làm mẹ là một hạnh phúc tuyệt vời. Những người phụ nữ không may son sẻ, phải mang nỗi niềm đau khổ suốt đời. Phụng vụ Chúa nhật 4 Mùa Vọng nói với chúng ta niềm vui của hai người mẹ, đó là Đức Trinh nữ Maria và bà Elisabet. Cả hai bà mẹ đều đang mang thai. Cuộc gặp gỡ của hai người mẹ, cũng là cuộc gặp gỡ của hai người con. Niềm vui của hai bà mẹ, cũng là niềm vui của hai hài nhi. Bởi thế mà bà Elisabet cảm nhận rõ hài nhi nhảy mừng trong lòng mình. Cuộc gặp gỡ này để lại ấn tượng sâu đậm nơi Đức Trinh nữ, và đoạn Tin Mừng này chắc chắn là do Trinh nữ thuật lại với tác giả Luca. Trước đó vài ngày, sứ thần Gabrien đã cho Đức Trinh nữ biết, bà Elisabet là chị họ của Trinh nữ đã mang thai được sáu tháng dù ở tuổi cao niên. Sau cuộc gặp gỡ, Trinh nữ Maria đã vội vã lên đường để thăm người chị, và cũng để kể cho chị nghe những điều kỳ diệu Thiên Chúa sắp thực hiện cho dân tộc mình.

Hai người mẹ cảm nhận được những kinh nghiệm rất đặc biệt.  Cả hai người đều khám phá qua hài nhi còn trong lòng dạ mình ánh sáng sâu thẳm đến từ Thiên Chúa. Trinh nữ Maria cảm nhận sâu sắc rằng hài nhi trong lòng là ánh sáng của quyền năng trên cao, lan tỏa và tác động nơi những người đến gần mình.  Sự nhảy mừng của Gioan Tiền hô đã chứng minh điều đó. “Khi bà Elisabet nghe lời chào của Maria, thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng bà.  Bà Elisabet được ơn Chúa Thánh Thần và thốt lên: Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm?” Đó là tiếng kêu ngạc nhiên vui mừng. Đó cũng là lời ca tụng tán dương quyền năng cao cả của Thiên Chúa.

Trinh nữ Maria và bà Elisabet, hai người phụ nữ đều cùng sống niềm hy vọng của dân tộc mình.  Như những người tín hữu đạo hạnh, họ ngày đêm mong đợi Đấng Cứu thế đến để giải thoát dân tộc khỏi đau khổ lầm than. Trinh nữ Maria và bà Elisabet, hai người phụ nữ đều đang chuẩn bị sinh con và đang nóng lòng chờ đón con mình chào đời.  Chúng ta, những tín hữu cũng đang chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, kỷ niệm ngày Ngôi Hai ra đời.  Hai người phụ nữ là gương mẫu cho chúng ta trong tâm thế chờ đợi Chúa.  Việc đón Chúa đến trong đời không còn chỉ là dựa vào những lời sấm xa xưa, nhưng phải được thực hiện với tâm tình yêu mến và với trái tim rộng mở.  Chúa Giêsu không đến với hình hài bé thơ như cách đây hơn hai ngàn năm, nhưng Người đang đến với chúng ta qua anh chị em, qua những biến cố vui buồn của cuộc sống và nhất là qua các cử hành Phụng vụ.

Ngôi Lời giáng trần là một sự kiện lịch sử.  Chúa Giêsu xuống thế làm người có một quê hương và một gia đình.  Nơi Người sinh hạ là thành phố bé nhỏ có tên là Belem, thuộc xứ Ephata như lời Ngôn sứ Mika đã tuyên sấm (Bài đọc I).  Gia đình của Chúa là Thánh Giuse, người cha nuôi, và Đức Trinh nữ Maria, người mẹ hiền. S ự sinh hạ và cuộc sống của Chúa gắn liền với những địa danh và những nhân vật của thời đại Người.  Chúa Giêsu không phải là một nhân vật của huyền thoại, nhưng là nhân vật lịch sử.  Sự sinh hạ của Người là một mốc son trong lịch sử loài người.  Tác giả thư Do Thái đã chiêm ngắm và suy tư Đức Giêsu ở khía cạnh tư tế.  Người là Thượng tế vĩnh viễn, đã dâng trọn vẹn con người của mình làm của lễ hy sinh dâng lên Chúa Cha.  Hiệu quả của hy lễ ấy là ơn thánh hoá mà nhân loại mọi nơi mọi thời đều được hưởng.  Hôm nay, Người vẫn tiếp tục dâng hy lễ lên Chúa Cha.  Nói rõ hơn, mỗi khi thừa tác viên của Giáo Hội cử hành Bí tích Thánh Thể, thì làm cho hy lễ thập giá năm xưa trở thành hiện tại, nên suối nguồn ân phúc cho những ai tham dự.  Như thế, cung kính đón nhận Thánh Thể cũng là một điều kiện quan trọng để mừng lễ Giáng Sinh.

Đấng Cứu độ đã hóa thân làm người, và đang ở giữa chúng ta.  Người là Đấng Emmanuel.  Mừng lễ Giáng sinh, chúng ta hãy ý thức về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong tâm hồn và trong cuộc sống, nhờ đó, chúng ta luôn có trái tim mở rộng, chân thành đón tiếp Người.  Như Mẹ Maria, chúng ta có bổn phận phải đem Chúa đến với mọi người, để niềm vui lan toả mọi nẻo đường của cuộc sống và ơn cứu độ đến với trần gian.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim

ÔNG CÓ PHẢI LÀ ĐẤNG CỨU THẾ KHÔNG?

 ÔNG CÓ PHẢI LÀ ĐẤNG CỨU THẾ KHÔNG?

Lm. Mark Link

Jim Bishop có viết một tác phẩm nhan đề “Ngày Đức Kitô đến.”  Tác phẩm đó có một đoạn văn rất hay mô tả những gì người Do thái cảm thấy về việc Đấng Cứu Thế đến.  Đoạn văn đó như sau:

“Việc Đấng Cứu Thế đến là một nỗi ám ảnh dịu ngọt của một quốc gia.  Đó là một niềm vui ngoài sức tưởng tượng, một hạnh phúc vượt khỏi niềm tin.  Đó là niềm an ủi cho những nông dân làm việc cực nhọc cả ngày đang cùng với gia đình nằm trên giường chờ giấc ngủ đến.  Đó là giấc mơ của người tóc đã hoa râm.  Đó là điều mà trẻ em mong được nhìn thấy từ trên ngọn núi phủ mây trắng hiện đến.  Đó là niềm hy vọng của dân xứ Giuđêa đang bị xiềng xích tủi nhục.  Đấng Cứu Thế luôn luôn là một sự hứa hẹn cho buổi sáng ngày mai.”

Vì thế nên khi Gioan tẩy Giả xuất hiện bên giòng sông Giođan, dân chúng rất là phấn khởi.  Gioan bắt đầu sứ mạng của ông tại một địa điểm không xa biển chết.  Đó là tụ điểm bình dân của những đoàn hành hương và các du khách từ khắp nơi trên thế giới đến.  Đó là một nơi tuyệt hảo để mọi người gặp gỡ nhau và trao đổi những tin tức thế giới.  Vì thế đó là một nơi lý tưởng để Gioan Tẩy Giả bắt đầu rao giảng và làm phép rửa.  Sứ điệp Gioan rất đơn giản và rõ ràng: “Hãy từ bỏ tội lỗi mình… Hãy dọn đường cho Chúa đến, hãy làm một lối thật thẳng để Người đi” (Lc. 3,3-4).

Chẳng mấy chốc, tin tức về hoạt động của Gioan tẩy giả đã đến tai những nhà lãnh đạo tôn giáo ở Giêrusalem.  Vì thế họ cử một phái đoàn gồm các tư tế và các thầy Lêvi đến nói chuyện với Gioan.  Các tư tế đặc biệt lưu ý đến Gioan vì ông là con của Zacaria, cũng là một tư tế.  Trong Do Thái giáo, điều kiện duy nhất để có thể làm tư tế là phải thuộc dòng dõi tư tế.  Nếu có ai là con cháu của Aaron, thì không ai có quyền cấm người ấy thực hiện chức năng tư tế của mình.  Do đó các tư tế tại Giêrusalem đặc biệt lưu tâm tới Gioan, và chắc chắn không hiểu tại sao Gioan lại hành xử một cách dị thường như thế.

Khi phái đoàn các tư tế đến, họ đi thẳng vào vấn đề và hỏi Gioan: “Ông là ai?”  Gioan biết trong tâm trí họ nghĩ gì, nên ông nói: “Tôi không phải là Đấng Cứu Thế.”  Các tư tế hỏi: “nếu ông không phải là Đấng Cứu Thế, vậy ông là ai?  Ông có phải là Êlia không?”  Đối với chúng ta, câu hỏi sau cùng này có vẻ khó hiểu.  Nhưng chúng ta nên nhớ rằng Êlia là một vị tiên tri đã được cất lên trời bằng một chiếc xe lửa vào cuối đời.  Nhiều người Do Thái tin rằng Êlia sẽ trở lại vào thời Đấng Cứu Thế đến.  Ngay cả thời nay cũng có một số người Do Thái dành cho tiên tri Êlia một ghế trống trong bữa ăn Vượt Qua của họ.  Họ cầu mong năm nay là năm Êlia trở lại để loan báo Đấng Cứu Thế đến.  Nhưng Gioan nói thẳng rằng ông không phải là vị tiên tri đã được cất lên trời trên chiếc xe lửa trước đó mấy thế kỷ.

Họ hỏi: “Vậy ông có phải là một vị tiên tri không?”  Gioan lại trả lời: “Không!  Tôi không phải là một vị tiên tri giống như Giêrêmia hay Êzêkiel.”  Họ hỏi tiếp: “Vậy thì ông là ai?”  Gioan trả lời bằng câu nói của Isaia: “Tôi là tiếng kêu gào trong sa mạc: “Hãy dọn đường cho ngay thẳng để Chúa đến.”  Muốn hiểu rõ câu nói đó của Gioan Tẩy Giả, ta nên nhớ rằng những con đường ngày xưa chỉ có một ít là trải sỏi hoặc đá, còn đa số là những con đường lầy lội.  Khi một vị vua muốn đi thăm một tỉnh nào đó trong vương quốc của mình, ông sẽ sai một người “tiền hô” tới đó trước để báo cho dân chúng lấp đầy những hố, những vũng bùn, và làm cho những con đường thẳng thắn lại.  Người “tiền hô” còn có một điều nữa phải làm là dạy cho dân chúng những nghi thức tiếp tân thích hợp để đón nhà vua tới. Gioan Tẩy Giả cũng lưu ý tới thái độ tiếp tân cần phải có để đón Chúa tới.  Ông nói: “Hãy ăn năn hối cải tội lỗi mình và hãy lãnh nhận phép rửa.” (Mc.4).

Tóm lại chúng ta có thể diễn đạt toàn bộ sứ điệp của Gioan như sau: Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng tôi là người “tiền hô” cho Ngài.  Hãy chuẩn bị, vì Ngài sắp đến.  Gioan đã làm những gì mà mọi vị lãnh đạo tôn giáo phải làm.  Ông không để cho người ta chú ý tới ông, mà hướng mọi sự chú ý của họ vào Đức Giêsu.

Đó chính là những gì Giáo Hội làm suốt Mùa vọng.  Giáo Hội tập trung mọi chú tâm của chúng ta vào Đức Giêsu.  Giáo Hội hành động giống như vị “Tiền hô” của Ngài.  Và cuối cùng Giáo Hội giải thích cho chúng ta biết chuẩn bị đón Ngài như thế nào.

Mùa vọng nói với chúng ta về việc Đức Giêsu đến.  Ngài không phải chỉ đến trong giòng lịch sử như chúng ta vẫn mừng và kỷ niệm vào ngày Giáng Sinh, mà Ngài còn đến lần chót vào cuối dòng lịch sử nữa.

Tin Mừng Matthêu có nói về lần đến cuối cùng đó: “Khi Con Người đến với tư cách một vị vua, Ngài sẽ ngồi trên ngai vàng của Ngài, và toàn dân thiên hạ sẽ qui tụ trước mặt Ngài.  Lúc đó Ngài phân chia họ ra làm hai nhóm, y như người chăn chiên tách chiên ra khỏi dê…  Nhà vua sẽ nói với những người ở bên phải: Hãy đến hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc!  Hãy đến và hãy lãnh lấy nước trời làm cơ nghiệp…  Rồi Ngài nói với những người ở bên trái: Hãy đi khỏi Ta và vào lửa đời đời” (Mt.25,34-41).

Những bài đọc trong Thánh lễ Chúa Nhật này muốn nói: Gioan không phải là Đấng Cứu Thế, Ông chỉ là người “Tiền hô” của Ngài.  Gioan dạy cho chúng ta cách chuẩn bị ngày Ngài đến vào cuối lịch sử để làm quan án xét xử chúng ta.

Để kết thúc, chúng ta hãy ăn năn thống hối như khi lãnh nhận bí tích hoà giải.  Xin các bạn hãy thinh lặng và cùng cầu nguyện với tôi:

“Lạy Cha chí nhân, con xin trở về với Cha và nói giống như người con hoang đàng: con đã lỗi phạm đến Cha, con không đáng gọi là con Cha nữa.  Lạy Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc nhân loại, con cầu nguyện với Chúa như người trộm lành mà Chúa đã hứa nước thiên đàng ngày xưa: Lạy Chúa xin hãy nhớ đến con trong nước của Chúa.  Lạy Chúa Thánh Thần là nguồn mạch tình yêu, con thành tâm cầu khẩn Ngài, Xin hãy thanh tẩy tâm hồn con và giúp con bước đi như con cái của sự sáng.

Lm. Mark Link

Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa

Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa

 Tác giả:  Lm Nguyễn Văn Độ

  Suy niệm Chúa Nhật III Mùa Vọng – C  (Lc 3, 10 – 18)

Lời mời ‘hãy vui lên’ là đặc điểm của Mùa Vọng. Mong đợi Chúa giáng trần, mong đợi mà chúng ta đang sống là niềm vui. Và Chúa nhật thứ III Mùa Vọng, chiều kích của niềm vui này đặc biệt nổi bật trong ca nhập lễ với những lời khích lệ của Thánh Phaolô “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa” (Pl 4,4). Tại sao chúng ta vui? Câu trả lời là vì Chúa sắp ngự đến rồi (x.Pl 4, 5).

Hôm nay Phụng vụ Giáo hội đang màu tím chuyển sang hồng thể hiện rõ nét của niềm vui, vui vì những gì đã đạt được trong chặng đường thứ nhất của Mùa Vọng, nay nghỉ một chút để nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui, và lấy thêm đà mới chuẩn bị mừng (Chúa Giáng Sinh), nên Giáo hội mời gọi con cái mình “Gaudete – Hãy vui lên”.

Với lời thánh ca du dương phỏng theo lời của thánh Phaolô: Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa. Vui như Isaia nói:“Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi” (Is 61, 10). Lời nguyện nhập lễ hôm nay đưa chúng ta vào chính niềm vui thiêng thánh ấy: “Lạy Chúa, xin đoái xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề” (Lời nguyện nhập lễ Cn III Mùa Vọng).

Những lời trên làm tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên, dẫn chúng ta bước vào mầu nhiệm của niềm vui ơn cứu độ. Nghe những lời loan báo của Xôphônia chúng ta không thể không vui : “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn!” (Xp 3, 14-15). Cũng sứ điệp của niềm vui, Thiên Thần chào Đức Maria: “Hỡi Bà đầy ơn phúc, hãy vui lên” (Lc 1,26). Lý do chính để thiếu nữ Sion vui là có: “Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Người cảm động yêu thương ngươi, và vì ngươi, Người sung sướng reo mừng” (Xp 3, 16-18).

Xôphônia muốn chúng ta phải vui mừng, không có lý do gì để thất vọng, nản chí, buồn sầu, dù tình trạng ta phải đương đầu có thế nào đi nữa, chúng ta chắc chắn về sự hiện diện của Chúa, nguyên sự hiện diện ấy cũng đủ để làm cho tâm hồn ta hân hoan.

Trong thư gửi tín hữu thành Philiphê, thánh Phaolô mời gọi con cái mình vui lên trong niềm vui của Chúa, và ngài đưa ra lý do tại sao phải vui mừng. Thưa vì “Chúa đang đến gần!” (Pl 4,5).

Chúa sắp ngự đến rồi, vậy để đón Chúa, chúng ta làm gì đây? Cám ơn những người thu thuế, các quân nhân và những người đã đến hỏi Gioan về cách thức chuẩn bị đón Chúa đến, vì nhờ họ chúng ta mới có câu trả lời, Thiên Chúa không đòi điều gì ngoại thường, nhưng Chúa muốn mỗi người sống theo các tiêu chuẩn liên đới và công bằng; nếu không có những đức tính này thì ta không thể chuẩn bị tốt đẹp để gặp gỡ Chúa.

Khi dân chúng đến hỏi Gioan Tẩy Giả, ông khuyên: “Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy” (Lc 3, 11). Thật là phù hợp với tinh thần Đạo Chúa, bởi đức bác ái được đề cao, yêu thương được chú trọng phải thực hành như Thiên Chúa. Bác ái thúc đẩy quan tâm đến người khác và đáp ứng nhu cầu của họ. Công lý đòi phải vượt thắng sự chênh lệch giữa người có của dư thừa và người thiếu những điều tối cần thiết. Công lý và bác ái không đối nghịch nhau, nhưng cả hai chắp lại thành đôi cánh để con người thăng tiến trong yêu thương. Theo Đức Nguyên Giáo hoàng Bênêđitô XVI thì, “Tình thương luôn là điều cần thiết, cả trong một xã hội công bằng nhất, vì luôn luôn có những tình trạng thiếu thốn về vật chất trong đó sự trợ giúp là điều tối cần thiết trong sự yêu thương cụ thể đối với tha nhân” (Trích Deus caritas est, số 28)

Đối với người làm nghề thu thuế, họ thường bị khinh rể bởi lợi dụng địa vị. Gioan không bảo họ phải đổi nghề, nhưng đừng đòi thêm điều gì khác ngoài mức đã được ấn định (x. Lc 3,13). Theo Gioan, tiên vàn hãy chu toàn nghĩa vụ của mình một cách lương thiện. Hãy tuân giữ các giới răn (x. Xh 20,15).

Đến lượt các quân nhân, hạng người dễ bị cám dỗ lạm quyền. Thánh Gioan nói: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình” (Lc 3,14). Cả trong trường hợp này, sự hoán cải bắt đầu bằng sự lương thiện và tôn trọng tha nhân: chỉ dẫn này có giá trị đối với mọi người, nhất là những người có trách nhiệm lớn hơn.

Israel vui vì có Chúa, để có được niềm vui đích thực, niềm vui trong Chúa và có Chúa ở cùng. Mượn lời các quân nhân, chúng ta hỏi Gioan Tiền Hô: Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì? Chắc ngài sẽ chỉ cho chúng ta những việc phải làm. Chỉ dẫn của Gioan Tẩy Giả vẫn luôn thời sự: cả trong thế giới đại dịch chúng ta đang sống, tình thế sẽ khá hơn nếu mỗi người tuân giữ các qui luật hành xử này.

– Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán, hãy tha thứ và cho đi, tránh tật nói hành nói xấu, tránh lời nói ghen tương, phân bì, đón nhận điều tốt lành ở nơi mỗi người.

– Cởi mở tâm hồn đối với những người đang sống trong tình trạng bấp bênh, đau khổ; những anh chị em bị tước đoạt phẩm giá. Hãy phá vỡ hàng rào của sự dửng dưng lãnh đạm là thái độ đang lan tràn, che đậy sự giả hình và ích kỷ.

– Vui mừng thực thi những công việc bác ái về thể lý và tinh thần, “để thức tỉnh lương tâm ngái ngủ của chúng ta trước thảm trạng nghèo đói” và đừng quên rằng “vào cuối đời, chúng ta sẽ bị phán xét về đức bác ái” (lời Thánh Gioan Thánh Giá).

Ước chi Lễ Giáng Sinh nay đã gần, thôi thúc chúng ta khắp nơi trên trần thế canh tân niềm tin của mình vào Thiên Chúa và vào Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, đồng thời chuẩn bị một nơi xứng đáng để đón tiếp Chúa Kitô.

Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con chuẩn bị tâm hồn để đón rước Chúa Giêsu. Amen.                    

 Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

HAI VẤN ĐỀ

Hai vấn đề

Tác giả:  Trầm Thiên Thu

 Con Chúa Giáng Trần Nêu Gương Nghèo Khó

Thế Nhân Vươn Dậy Thể Hiện Mến Thương

Tứ thời, bát tiết, bốn mùa luân phiên – Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mùa Đông có hơi lạnh khiến người ta co mình lại thì thời gian một năm cũng đang dần khép lại. Các Mùa Phụng Vụ cũng tương tự. Hết Mùa Thường Niên là kết thúc Năm Phụng Vụ cũ, bắt đầu Năm Mới bằng Mùa Vọng và Giáng Sinh.

Dù là ai – kể cả người vô thần, người ta vẫn luôn cảm thấy kỳ diệu đối với Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh, có nhiều vấn đề liên quan, không chỉ chuyện vui mà còn có cả chuyện không vui. Tất nhiên thôi. Đối với tín nhân, Giáng Sinh gợi suy tư, vì Chúa Giêsu hóa thân là một Hài Nhi sinh ra trong cảnh đơn nghèo. Ngài tự hạ mình xuống ở với chúng ta, chấp nhận nghèo khó vì yêu thương chúng ta – những tội nhân xấu xa, bất xứng. Mầu Nhiệm Nhập Thể cao vời khôn ví: Verbum Caro Factum Est – Ngôi Lời hóa thành nhục thể.

Giáng Sinh gợi nhớ Vườn Địa Đàng và Ông Bà Nguyên Tổ. Sự sa ngã của Ađam và Êva được gọi là Felix Culpa, nghĩa là “sự sa ngã may mắn” hoặc “sự rủi ro có phúc.” Kitô giáo gọi đó là Tội Nguyên Tổ, và được coi là Tội Hồng Phúc, vì nhờ vậy mà nhân loại được đón nhận Con Thiên Chúa là Đức Kitô Giêsu xuống thế làm người để cứu độ và phục hồi cương vị làm con cái đối với những ai thật lòng tin nhận Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất.

Đại dịch Cúm Tàu là cơ hội để người ta nhìn lại chính mình – đối với Thiên Chúa và tha nhân. Cậu bé Abhigya Anand 14 tuổi, người Ấn Độ, đã tiên báo đúng vài lần liên quan dịch bệnh bùng phát vừa qua, liệu cậu có đúng khi cảnh báo dịch bệnh còn khủng khiếp hơn vào tháng 4-2022 hay không? Có thể, bởi vì người ta có vẻ vẫn chưa thực sự quan ngại. Người ta đã cảnh báo về chủng Nipah virus còn “đáng sợ” hơn Corona virus. Trước đây virus đánh vào buồng phổi, trung tâm điều khiển hơi thở – nơi cho biết có sự sống, và Nipah tiếp tục “đúng quy trình” của ma quỷ là “đánh” vào trung tâm sự sống, nhưng cao cấp hơn – nhắm vào đầu não của sự sống là bộ não. Do đó, nguy cơ tử vong khoảng 40%–70% thì thật đáng sợ!

Tại sao não là bộ chỉ huy? Đó là trung tâm đầu não, bởi vì có thể là người ta bại liệt, thậm chí là “như chết” mà người ta vẫn có thể cảm nhận, bởi vì bộ não còn sống – mặc dù người ngoài không cảm thấy bệnh nhân còn thở. Có thể nói rằng xưa nay chưa từng có đại dịch nào độc ác và nguy hiểm như Cúm Tàu – nói thẳng ra là Tàu Cộng, không liên quan các hiền nhân Trung Hoa tốt lành. Nhân sao, vật vậy. Vật thế nào tố cáo người như thế.

Cuộc sống có nhiều thứ cảnh báo, chắc chắn không như chuyện dự báo thời tiết. Tuy nhiên, cảnh báo là một chuyện, còn người ta có thực sự ý thức hay không lại là chuyện khác. Thiên Chúa đã cảnh báo mạnh mẽ: “Nếu không sửa đổi, Thiên Chúa sẽ phạt GẤP BẢY LẦN.” (Lv 26:18, 21, 24, 28) Có lời cảnh báo tức là đã có nhiều tội lỗi, Thiên Chúa tiếp tục cảnh báo: “Đừng gieo trên những luống bất công, kẻo phải gặt bất công GẤP BẢY LẦN.” (Hc 7:3) từng nói: “Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu.” (Mt 23:37; Lc 13:34) Chúa Giêsu cũng cảnh báo quá nhiều, xưa người ta không quan tâm thì nay người ta cũng vẫn bỏ ngoài tai, chỉ nghe để biết hoặc cho vui vậy thôi. Và rồi chuyện gì đến cũng đến…

  1. NHÂN ĐỨC

Chúa Giêsu giáng sinh trong cảnh nghèo khó. Chính Ngài đề cao lối sống nghèo khó và gọi đó là một mối phúc: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5:3) Như vậy, sự nghèo khó cũng là một nhân đức. Người ta muốn sống ung dung sung sướng, chứ không dễ gì dám sống nghèo khó. Cái nghèo và cái lạnh liên quan lẫn nhau. Người nghèo thiếu quần áo, chăn mền,… thế nên họ phải chịu đựng cái lạnh. Cái lạnh thân xác dẫn tới cái lạnh tâm hồn – vì cô đơn. Nghèo thì Khó, Khó thì Khổ. Việt ngữ thường ghép lại là Nghèo Khó hoặc Nghèo Khổ, thậm chí là Nghèo Hèn.

Luôn có điều kỳ lạ khi Con Thiên Chúa giáng sinh làm người. Mọi thứ đề lạ lùng. Lạ từ nội tại tới ngoại tại. Giáng Sinh tại Việt Nam chỉ se lạnh một chút, chẳng thấm gì so với cái lạnh của Hài Nhi Giêsu năm xưa, nhưng cũng là lời nhắc để chúng ta nhớ tới cái lạnh của những phận người cơ nhỡ, cô đơn, nghèo khó, thiếu thốn cả những thứ cơ bản nhất,… Việt ngữ thật chí lý khi nói là giá lạnh hoặc lạnh giá, cái “giá” này mới “đáng giá,” buốt thấu xương, chứ cái “lạnh” chưa thấm thía chi đâu!

Cái lạnh ngoại tại gợi nhớ tới cái lạnh tâm hồn, cái lạnh linh hồn, cái lạnh tâm linh. Cái lạnh này khủng khiếp, cái lạnh giá băng. Đó là điều thực sự đáng quan tâm và quan ngại. Cuộc sống có những cái lạnh khác nhau:

  1. TINH THẦN – Đó là cái lạnh của những người đơn độc, mồ côi, neo đơn, thất vọng, bị xa lánh, bị ghen ghét … Họ không có ai để chia sẻ, mà có chia sẻ cũng chẳng mấy ai quan tâm. Thật khổ tâm với “khoảng lạnh” như vậy!
  2. LINH HỒN – Đó là cái lạnh của những người khô khan, nguội lạnh, tội lỗi, niềm tin lung lay, bước đời chao đảo, mất phương hướng,… Thật đáng thương với “khoảng lạnh” như vậy!
  3. TÂM LINH – Đó là cái lạnh của những người vô cảm trước nỗi khổ của người khác – như ông Simon chê phụ nữ tội lỗi kia xức dầu thơm chân Chúa Giêsu và khóc vì sám hối, (Lc 7:36-50) như Thầy tư tế và Thầy Lêvi không hề chạnh lòng thương xót người lân cận, cam tâm bỏ mặc nạn nhân dở sống dở chết, (Lc 10:30-37) như người Pharisêu kiêu hãnh khi cầu nguyện tại đền thờ, (Lc 18:10-14) người Pharisêu phạm tội ngay trong lúc cầu nguyện, thờ phượng. Thật đáng sợ với “khoảng lạnh” như vậy!

Là Vua của các vua và Chúa của các chúa, thế mà Ngài lại sinh nơi hang đá, nơi máng lừa, thực sự vô cùng kỳ lạ, chúng ta không thể hiểu nổi. Thiên Chúa là Đấng tạo tác muôn loài, làm cho mọi sự hiện hữu từ hư vô, vậy mà Ngài lại xuống thế gian ở với loài người, sinh ra nơi hèn hạ và nghèo khó nhất, chứ không uy nghi như người ta tưởng. Con Thiên Chúa giáng sinh là sự kiện độc nhất vô nhị, quá đỗi kỳ diệu, phàm nhân không thể hiểu và không thể lý giải, vì đó là mầu nhiệm – Mầu Nhiệm Giáng Sinh, Mầu Nhiệm Nhập Thể.

Còn kỳ lạ hơn nữa: Chúa Giêsu không chỉ sinh ra ở ngoài đồng, mà Ngài còn sống ở ngoài đường, và rồi chịu chết trên đồi hoang, dẫu chỉ một chỗ tựa đầu cũng không có, (Mt 8:20; Lc 9:58) trong khi con chồn còn có hang, con chim còn có tổ, chính chúng ta là thụ tạo và là tội nhân, vậy cũng có mái nhà – dù nghèo nàn, dù ở thuê, dù ăn nhờ ở đậu. Ôi, mầu nhiệm cao vời, lòng thương xót khôn ví!

Là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Tạo Hóa, Chúa Giêsu giàu có và sang trọng bậc nhất, nhưng vì thương xót phàm nhân nghèo hèn, khốn khổ, Ngài chấp nhận hóa thân là một Hài sinh ra trong cảnh thiếu thốn tột cùng tại cánh đồng Belem. Dĩ nhiên Thiên Chúa có nhiều cách để cứu độ chúng ta, thậm chí Ngài chỉ cần phán một lời thì mọi tội lỗi của cả nhân loại này đều được tha bổng, nhưng Ngài đã chọn cách mặc xác phàm để trí óc phàm nhân chúng ta có thể hiểu và phần nào khả dĩ cảm nhận được lòng thương xót vô biên của Ngài, chứ chúng ta không thể thấu hiểu tình yêu thương cao cả đó.

Chắc chắn không ai muốn nghèo, nhưng nhân đức nghèo khó lại quan trọng và liên quan vận mệnh đời đời của chúng ta. Trong trình thuật Tin Mừng nói về cảnh Phán Xét Chung, Chúa chúc phúc cho những ai biết thương người nghèo khổ: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt 25:34-36) Đó là vấn đề cụ thể về Đức Ái Kitô giáo – thương yêu và thương xót.

Hang đá Belem ngày xưa không hấp dẫn và thu hút người ta như ngày nay. Đó là hang đá xấu xí, tăm tối, hôi tanh, bẩn thỉu,… là nơi dành cho đàn súc vật trú qua đêm. Còn ngày nay, nhìn hang đá mà thấy như “khách sạn” sang trọng chứ chẳng thấy nghèo khó. Quả thật, có gì đó “bất thường” khi nhìn vào hang đá ngày nay. Than ôi!

Không biết vì người ta đua nhau hay khoe mẽ mà càng ngày người ta càng “xây dựng” hang đá đồ sộ, trang trí rườm rà, cầu kỳ, và tất nhiên chi phí tốn kém lắm – có nơi tốn cả trăm triệu đồng Việt Nam. Chúng ta chê người ta xây dựng tượng đài tốn bạc tỷ, tại sao chúng ta cứ xu thời như vậy? Ngay cả tư gia cũng vậy, nhà này đua với nhà kia, giáo xứ này cạnh tranh với giáo xứ nọ, hang đá càng to càng hãnh diện. Chắc chắn Chúa không muốn chúng ta mừng đón Ngài kiểu đó!

Thử nhìn vào hang đá mà suy tư. Chỉ thấy vẻ hào nhoáng cho vui mắt, bởi vì cái chính bị che khuất, còn những cái phụ lại quá nổi bật, thậm chí có nhiều hang đá nhìn mãi mới thấy Hài Nhi Giêsu, Đức Maria và Đức Giuse. Thiên Chúa muốn dạy chúng ta về nhân đức “khó nghèo” mà chúng ta lại theo kiểu “khó mà nghèo.” Con cháu Lạc Hồng chúng ta muốn Việt hóa nên có nơi làm một mái tranh, nhưng cái lều hoặc cái chòi đó lại lấp lánh ánh điện nhiều màu sắc. Phi thực tế. Bởi vì không nhà nghèo nào mà lại sang như vậy!

Thiên Chúa không cấm chúng ta trang trí một chút để kỷ niệm ngày Con Một Ngài giáng trần, nhưng đừng quá đáng, vì xung quanh chúng ta còn biết bao người chịu cảnh khốn cùng, nhất là trong giai đoạn còn dịch bệnh. Nhiều nơi trên thế giới không được tham dự Thánh Lễ cả năm rồi. Đối với cuộc sống, khổ vì khó – khó vì kinh tế bị ảnh hưởng, và mức nghèo gia tăng như một hệ lụy tất yếu. Chúng ta muốn vinh danh Chúa hay vinh danh chính mình mà làm hang đá “vĩ đại” như thế? Cuối cùng, Thiên Chúa vẫn phải tiếp tục chịu đựng loài người.

Chúa Giêsu xác định: “Người nghèo bên cạnh anh em lúc nào cũng có.” (Mt 26:11; Mc 14:7; Ga 12:8) Thật vậy, thế giới còn biết bao người nghèo, xung quanh chúng ta cũng không thiếu người nghèo, làm hang đá giản dị không chỉ gợi lên ý nghĩa của việc Con Chúa giáng sinh, mà còn dành tiền để làm việc khác cần thiết và đẹp lòng Chúa: Bác ái, nhất là vào dịp lễ Giáng Sinh – chia sẻ yêu thương, cụ thể là chút hiện vật. Điều đó càng tốt lành hơn trong cơn dịch bệnh thế này.

  1. TỘI ÁC

Kinh Thánh nói: “Nháy mắt mím môi, nghĩ ra điều dối trá là làm sự ác rồi.” (Cn 16:30) Vì thế, không ai dám nói mình giữ lòng thanh khiết và sạch tội. (Cn 20:9) Thánh Phaolô cảnh báo: “Mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành.” (2 Tx 2:7) Thời nào cũng thấy đúng với nhận xét đó.

Giáo hội kính nhớ các Thánh Anh Hài ngay sau lễ Giáng Sinh. Đó là các “thánh nhi tử đạo” vì Chúa Hài Đồng, nguyên nhân là sự hèn hạ của ác vương Hêrôđê. Lễ này gợi suy tư về hai thái cực đối nghịch nhau: Sự trong trắng – vô tội, và sự độc ác – tà tâm.

Tin Mừng cho biết: Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.” (Mt 2:8) Nói năng ra vẻ tốt bụng lắm, nhưng đó chỉ là mưu ma chước quỷ thâm độc của kẻ ác, nguy hiểm hơn nữa là kẻ này có quyền hành.

Các nhà chiêm tinh an tâm ra đi khi nghe nhà vua nói thế. Họ là những người tốt nên không hề nghi ngờ Hêrôđê. Từ lúc đó, ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại tiếp tục dẫn đường cho họ. Vừa trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Và họ được ngôi sao dẫn đến tận nơi có Hài Nhi. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là Bà Maria, và họ sấp mình thờ lạy Ngài. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược để dâng tiến Hài Nhi.

Tuy nhiên, sau đó họ được báo mộng rằng đừng trở lại gặp vua Hêrôđê, và đi lối khác mà trở về. (Mt 2:12) Có lẽ lúc này các nhà chiêm tinh mới thấy rõ chân tướng độc ác của Hêrôđê, thế nên họ đã không dám quay lại triều đình. Phàm phu tục tử không thể “qua mặt” được Thiên Chúa! Và cũng là để điều này ứng nghiệm lời ngôn xứ từ ngàn xưa: “Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập.” (Mt 2:15)

Không thấy các nhà chiêm tinh trở lại, vua Hêrôđê biết mình bị hố, thế nên ông ta cảm thấy bị lừa nên nổi giận. Ông ta sai thuộc hạ đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh. Rõ ràng là quá hèn hạ mà không biết nhục. Thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ Giêrêmia: “Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Rakhen khóc thương con mình và không chịu để cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa.” (Mt 2:18) Không ai sống mãi ở đời này, dù là hiền nhân hoặc ác nhân, ngay cả những người trường thọ nhất. Tất nhiên ác vương Hêrôđê cũng phải chết. Chết thật chứ không chết giả. Thế nhưng “dòng dõi” của ông ta còn nhiều, hiện diện ngay trong xã hội ngày nay.

Chẳng có đâu xa, ngay tại Việt Nam cũng có rất nhiều Hêrôđê vẫn hằng ngày rảo bước khắp các hang cùng ngõ hẻm… Nơi nào cũng có, chỗ nào cũng thấy – dù phố hay quê. Đó là các “bản sao” của ác vương Hêrôđê. Họ là ai mà cứ “lộng hành” như vậy?

Khắp nơi vẫn xuất hiện những kẻ mang “máu lạnh” của ác vương Hêrôđê. Ngày nay thông tin cập nhật nhanh nhờ internet, có nhiều tin về những vụ bạo hành trẻ em. Có những người là bảo mẫu mà lại nhẫn tâm đạp chết trẻ thơ vô tội; có những ác phụ mang danh cô giáo nhà trẻ dùng phương pháp “sư phạm” ác độc là hành hạ các trẻ thơ đủ kiểu như bóp mũi, bóp cổ, gí đầu xuống đất, dốc đầu ngược vào lu nước, tát thẳng tay, đánh đập không chút thương hại; có những người rình rập để bắt cóc trẻ thơ đem bán; có những người mẹ cam tâm giết con bằng cách phá thai hoặc vứt bỏ núm ruột của mình ở nơi nào đó; có những y bác sĩ sẵn sàng “giúp” người ta phá thai; và còn nhiều hành động tinh vi dã man mà người ta nhẫn tâm đối xử với trẻ em vô tội.

Tại Việt Nam, có lần người ta đã từng phát hiện nhiều trẻ em bị chôn vùi trong đống rác tại Đá Mài – Thái Nguyên, có em được sinh ra khỏe mạnh và lành lặn nhưng bị người ta đâm vài nhát dao cho chết. Chỉ trong hai tuần lễ, có nơi người ta phát hiện tới 600 thai nhi bị sát hại. Thật tàn nhẫn và kinh khủng quá! Thai nhi là sinh linh, là thụ tạo của Thiên Chúa, nhưng chúng lại bị tước mất quyền sống, không được sinh ra để làm người. Làm hại thai nhi và trẻ em, hoặc bất cứ người nào, là tội phạm thượng vì dám xúc phạm tới Thiên Chúa tối cao.

Trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ – United States Declaration of Independence, ngài Thomas Jefferson (1743-1826, tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ nhiệm kỳ 1801-1809) đã đề cập BA QUYỀN CƠ BẢN KHÔNG THỂ BỊ TƯỚC ĐOẠT của con người: Quyền Sống, Quyền Tự Do và Quyền Sở Hữu. Luật đời mà như thế thì tại sao chúng ta dám khinh suất Thánh Luật của Thiên Chúa?

Ngày xưa, ác vương Hêrôđê chỉ giết các trẻ em trong vùng Bêlem và lân cận từ hai tuổi trở xuống. Nhưng ngày nay, các ác nhân giết bất kỳ ai và ở bất kỳ lứa tuổi nào, thậm chí giết cả cha mẹ và thân nhân của họ. “Dòng dõi” Hêrôđê ngày nay thâm độc hơn, tinh vi hơn, và khó nhận ra hơn. Nếu có bị phát hiện thì họ viện nhiều lý do để biện hộ cho hành vi ác độc của mình. Ác nhân luôn lắm chiêu trò lươn lẹo, lọc lừa, xảo trá. Đó là một loại đại dịch cũng nguy hiểm không khác gì Cúm Tàu Cộng.

Tiền nhân nói chí lý: “Được vạ thì má đã sưng.” Nếu pháp luật có xét xử và kết án đúng mức thì trẻ em cũng đã chết rồi. Chỉ tội nghiệp các trẻ em vô tội mà bị sát hại một cách oan uổng! Những kẻ làm cớ vấp phạm mà còn đáng bị buộc cối đá lớn vào cổ rồi bị ném xuống biển (Mc 9:42) thì những kẻ phạm tội sát nhân vì tham lam và ích kỷ đáng bị trừng phạt thế nào? Chắc hẳn không thoát khỏi “nơi chỉ có khóc lóc và nghiến răng” mãi mãi – nếu không thành tâm ăn năn sám hối!

Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, xin cho chúng con vui sống trong Thánh Luật của Ngài và được hưởng bình an đích thực của Ngài. Xin cứu thế giới khỏi mọi sự dữ, xin tác động mọi người ý thức bảo vệ sự sống và thể hiện văn minh yêu thương. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Emmanuel và Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Kính Mừng Chúa Giáng Sinh – 2021

 Nói về thuyết tiến hoá

 Nói về thuyết tiến hoá

Chúc bạn ngày Thứ 5 khoẻ như con voi, khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như chim bồ câu vậy nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 09/12/2021

GIÁO LÝ: Có thể vừa chấp nhận thuyết tiến hóa, vừa tin vào Đấng Tạo thành không? Được. Dù nó khác nhau trong nhận thức. Đức tin mở rộng cho khoa học đưa ra những tìm kiếm và những giả thuyết. (YouCat, số 42)

SUY NIỆM: Thần học không có thẩm quyền về khoa học, cũng như khoa học không có thẩm quyền về thần học. Khoa học không thể dứt khoát từ chối về chủ đích có trong quá trình tiến hóa của vạn vật. Ngược lại, đức tin không thể xác định về phương pháp mà quá trình tiến hóa của thiên nhiên được thực hiện cụ thể. Một Kitô hữu có thể tán thành lý thuyết khoa học về tiến hóa xét như là lý thuyết giải nghĩa hữu ích, nhưng trong giới hạn lý thuyết đó không rơi vào sai lầm của chủ nghĩa tiến hóa cho rằng con người là sản phẩm ngẫu nhiên do quá trình sinh học tạo ra. Lý thuyết tiến hóa chỉ đưa ra trước “một cái gì đó” đang tiến hóa, nhưng không nói chút nào về cái gì đó “do đâu mà có”. Không thể dùng cách khéo léo của khoa học để trả lời những vấn đề liên quan đến ý nghĩa về nguồn gốc của vũ trụ, của con người. Cũng như người theo thuyết “duy tiến hóa lý tưởng”, người theo lý thuyết duy sáng tạo cũng vượt ra khỏi giới hạn có thể được chấp nhận. Người theo thuyết duy sáng tạo hiểu các con số và các niên hiệu mà Kinh thánh nói đến theo nghĩa đen một cách ngây ngô (chẳng hạn tuổi của trái đất hoặc việc sáng tạo trong sáu ngày).

**Thuyết duy sáng tạo: Thuyết này cho rằng Thiên Chúa đã can thiệp vào một lúc rõ rệt để sáng tạo thế giới một cách trực tiếp và chỉ cần một lần, theo nghĩa đen của bài tường thuật về sáng tạo của sách Sáng thế.

** Tiến hóa là sự tăng trưởng của các cơ nâng tiến đến hình thức nhất định của chúng trong thời gian hàng triệu năm. Theo quan điểm của Kitô giáo, ta có thể coi tiến hóa như sự sáng tạo liên tục của Thiên Chúa có mặt trong tiến trình của thiên nhiên.

**   Không nhà bác học nào có được dù chỉ là một lý lẽ để có thể phản biện lại các quan niệm về một Đấng sáng tạo như thế. (Hoimar von Ditfurth, 1921-1989, chuyên viên Đức về khoa học). (YouCat, số 42 t.t)

LẮNG NGHE: Thiên Chúa đã làm mọi sự hợp thời đúng lúc. Thiên Chúa cũng ban cho con người biết nhận thức về vũ trụ, tuy thế, con người cũng không thể nào hiểu hết được ý nghĩa công trình Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử. (Gv 3:11)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa là Đấng tạo dựng trời và đất, con chúc tụng và ngợi khen Chúa vì đã ban cho con người trí thông minh hiểu biết để giúp nhân loại thăng tiến đời sống theo đúng kế hoạch quan phòng của Chúa. Xin tăng thêm niềm tin cho con để con nhận ra sự hiện diện của Chúa trong mọi lúc mọi nơi và mọi hoàn cảnh.

THỰC HÀNH: Đọc chậm và suy niệm Kinh Tin-Cậy-Mến

TÂM TÌNH MÙA VỌNG

TÂM TÌNH MÙA VỌNG

Mỗi khi Mùa Vọng về, hình ảnh Gioan Tẩy giả lại xuất hiện trong phụng vụ. Ông là vị Tiền hô đến dọn đường cho Chúa Cứu thế. Ông cũng là mẫu mực về sự khiêm tốn, can đảm và trung thành. Gioan khiêm tốn nhận mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. So sánh với Chúa Giêsu, ông nhận mình giống như người phù rể. Người phù rể hân hoan trước niềm vui của chú rể. Là người giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người, ông hạnh phúc khi thấy người ta tuôn đến cùng Chúa và đón nhận giáo huấn của Người. Dù chỉ là tiếng kêu trong sa mạc hoang vu, Gioan vẫn kiên trung trong sứ mạng dọn đường.

Hành trình Đức tin của người tín hữu chính là cuộc tìm kiếm và gặp gỡ với Chúa. Đây là một hành trình lâu dài, liên lỉ và có nhiều chướng ngại. Để theo Chúa và trung tín với Ngài, chúng ta luôn phải kiên trung và can đảm vượt qua những chướng ngại đó. Như những vận động viên chuyên tâm khổ luyện để đạt được vòng nguyệt quế dành cho người chiến thắng, người Kitô hữu phải luôn chiến đấu trong trận chiến thiêng liêng để thuộc trọn về Chúa.

Ông Gioan dùng những hình ảnh cụ thể để diễn tả những cố gắng hoàn thiện bản thân: lấp đầy lũng sâu, bạt thấp núi đồi, nắn thẳng quanh co uẩn khúc. Kinh nghiệm cho thấy, người ta có thể dễ dàng chiến thắng trong trận chiến với kẻ thù, nhưng lại ngã gục trước cám dỗ của cái tôi ích kỷ và đầy tham vọng. Cuộc chiến đấu để thanh luyện chính mình là một cuộc chiến đấu dai dẳng, đòi hỏi nhiều cố gắng hy sinh.

Mùa Vọng vừa mời gọi chúng ta nhìn lại mình, vừa nhắc chúng ta hãy nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa. Những cố gắng nỗ lực để hoàn thiện bản thân và thực thi bác ái sẽ giúp chúng ta bạt núi kiêu ngạo, lấp thung lũng hèn nhát. Cuộc sống hôm nay có nhiều cám dỗ, quá nhiều khuynh hướng khác nhau, lôi kéo chúng ta đi lạc đường. Những bon chen bận rộn của cuộc đời dễ làm chúng ta đắp những quả đồi hoặc khoét sâu khoảng cách đối với anh chị em.

Khi can đảm dẹp bỏ mọi chướng ngại trong tâm hồn, chúng ta sẽ được “nhìn” thấy Chúa và vinh quang của Ngài. Lúc đó, Chúa sẽ là tất cả của đời sống chúng ta, và chúng ta sẽ chỉ nhìn lên Ngài như định hướng tuyệt hảo duy nhất của cuộc đời.

Bài chia sẻ LM Vũ Yên

From: Hưng-Lan