Vì mắc tội Tổ tông, chúng ta có bị bó buộc phải phạm tội không?

Vì mắc tội Tổ tông, chúng ta có bị bó buộc phải phạm tội không?

Chúc bạn ngày thứ 6 bình an cả trong lẫn ngoài nhé. Xin một lời cầu nguyện khẩn thiết cho những người dân Ukraine đang bị anh đại ca ăn hiếp. Còn Việt Nam ta thì sao nhỉ? Sớm muộn gì “nay anh mai tôi” thôi. Đúng là TỘI…!

Thứ 6: 25/02/2022

GIÁO LÝ: Vì mắc tội Tổ tông, chúng ta có bị bó buộc phải phạm tội không? Không. Con người dù bị tổn thương nặng bởi tội Tổ tông, và có khuynh hướng nghiêng chiều về tội lỗi, nhưng với ơn Chúa giúp, con người có thể làm điều tốt. (YouCat, số 69)

SUY NIỆM: Không khi nào bị bó buộc phải phạm tội. Nhưng thực ra, ta không ngừng phạm tội được là vì ta yếu đuối, không hiểu biết, nên dễ sa chước cám dỗ. Bị bó buộc phải phạm tội thì không có tội, vì chỉ có tội khi ta tự ý phạm. (YouCat, số 69 t.t) Xin ôn lại bài số 67, tội là gì? Tội là hoàn toàn từ bỏ Thiên Chúa, từ chối không đón nhận Tình yêu Thiên Chúa, khinh thường không giữ giới răn của Thiên Chúa.

Vậy khi con người TỰ Ý khước từ Thiên Chúa thì đời sống luân lý sẽ ra sao? Nói chung là phong hoá suy đồi, một sự mất mát đưa nhân loại tới chỗ huỷ diệt mà họ không nhận thấy. Thánh Phaolô kể ra những thói hư tật xấu của xã hội ngoại giáo đương thời như sau: đồng tính kuyến ái, bất công, độc ác, ham hố, ghen tương, lừa đảo, nói xấu, khoe khoang, kiêu căng, nổi loạn chống lại cha mẹ. Toàn những tội nghe mà phát ớn đến ngay cả những người ngoại đạo cũng không thể chấm nhận được huống chi là người Ki-tô hữu. Trong lòng của bạn đang ở trong tình trạng nào hả? Nhìn vào đống tội kếch xù của xã hội được kể trên, bạn có tí gì liên quan đến nó không? Tuy không lừa đảo ai như nói dối một tí thôi. Nói dối cũng là tội vậy.

LẮNG NGHE: Đức Giê-su lại gọi đám đông tới mà bảo: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. (Mc 7:14-15)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, Chúa ban cho con người có tự do, là để họ dùng tự do ấy một cách đúng mức và để họ có trách nhiệm về những việc mình làm. Và lạy Chúa vì con người hay lạm dụng tự do, nên Chúa đã thiết lập lề luật làm nền tảng để lượng giá một hành động của họ. Xin cho con biết vâng theo luật Chúa đã khắc ghi vào lương tâm con để con sống xứng đáng là con của Chúa.

THỰC HÀNH: Bị cưỡng ép hay bị bó buộc không phải là tội. Hôm nay mời bạn hãy nhìn lại lối sống của mình coi đâu là khuynh hướng tội mà bạn tự ý chọn để thoả mãn cái tôi, cái lòng ích kỷ của mình nhé.

From: Đỗ Dzũng

Tội Tổ tông truyền là gì?

Tội Tổ tông truyền là gì?

Thời tiết trái gió trở trời, tình Chúa yêu con mãi không đổi thay. Thật ấm áp trong Chúa và Mẹ nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 24/03/2022

GIÁO LÝ: Tội Tổ tông truyền là gì? Tội Tổ tông Ađam Evà có liên hệ gì với chúng ta? Theo nghĩa hẹp, tội là một lỗi liên can đến trách nhiệm cá nhân mỗi người. Khi nói “Tội Tổ tông truyền” không có ý nói đến tội của cá nhân nhưng muốn đề cập đến tình trạng thê thảm mà mỗi người khi vừa được sinh ra thì đã vướng mắc rồi, dù họ chưa hề tự ý phạm một tội nào, nhưng do tổ tông truyền lại. Việc truyền lại này vẫn còn là một mầu nhiệm không thể hiểu trọn vẹn. (YouCat, số 68)

SUY NIỆM: Trong sa ngã của Adam và Eva ta phải hiểu rằng mọi người chúng ta đều mang trong mình cái giọt nọc độc của lối suy nghĩ được minh họa bằng các hình ảnh trong sách Sáng thế…. Con người không tin ở Thiên Chúa. Bị lời lẽ của ma quỷ cám dỗ, họ nuôi nghi ngờ…Thiên Chúa là người cạnh tranh muốn hạn chế tự do của ta và ta sẽ chỉ là con người đầy đủ khi loại bỏ Chúa ra. Con người không muốn đón nhận sự hiện hữu của mình và đời sống sung mãn của mình từ Thiên Chúa… Hành động như vậy họ tin vào sự dối trá hơn là sự thật, và như thế họ nhận chìm đời sống mình vào hư không và vào cái chết. (Đức Bênêđictô XVI, 8-12-2005, YouCat, số 68 t.t)

❦ Con rắn đối đáp lại với bà “ngày nào bà ăn trái đó mắt bà sẽ mở ra và bà sẽ nên như những Thiên Chúa.” (St 3:4-5)

LẮNG NGHE: Với con người, Chúa phán: “Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: “Ngươi đừng ăn nó”, nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. (St 3:17)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, ông bà tổ tông con giống như những đứa con bất hiếu đã phụ tình thương của Thiên Chúa khi cố tình không sống theo lời chỉ dậy của Chúa, con cũng vậy đã nhiều lần phạm tội, khước từ tình yêu của

Chúa nhưng Chúa không bỏ con và không ngừng đeo đuổi, tìm kiếm và yêu thương con. Xin cho con luôn nhận biết tình yêu của Chúa để mỗi ngày con cố gắng sống tốt hơn, làm những điều Chúa muốn con làm để đáp lại tình yêu của Chúa.

THỰC HÀNH: Nhìn vào chính mình, cám dỗ lớn nhất của bạn trong lúc này là gì? Hãy xin ơn Chúa giúp và quyết tâm chống trả quyết liệt các cám dỗ ngay từ đầu để khỏi sa chước cám dỗ nhé.

From: Đỗ Dzũng

Hoa Kỳ: Quản lý tà đạo bằng con đường “xã hội hóa”

Hoa Kỳ: Quản lý tà đạo bằng con đường “xã hội hóa”

Dùng nguồn lực của xã hội để chống lại ảnh hưởng xấu của các tư tưởng cực đoan.

On 18/02/2022

By  NGUYỄN QUỐC TẤN TRUNG

Một cảnh trong phim tài liệu “The Source Family” (2012) của đạo diễn Jodi Wille, kể về một giáo phái cùng tên tại Mỹ. Nguồn: Netfilx.

Trong bài viết trước, người viết đã bàn về hệ lụy của việc không có những công cụ bảo vệ xã hội khỏi những tư tưởng cực đoan của các nhóm cuồng tín và tà đạo (cult/ heresy). [1] Bài viết này một lần nữa khẳng định nhu cầu phải quản lý nhà nước đối với tôn giáo.

Tuy nhiên, quản lý nhà nước đối với tôn giáo không đồng nghĩa với hành động cầm tay chỉ việc hay can thiệp sâu vào các hoạt động tôn giáo – một việc hoàn toàn có khả năng vi phạm các quy định về quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo trong hệ thống pháp luật nhân quyền quốc tế.

Vậy làm thế nào để quản lý nhà nước về tôn giáo mà không nhất thiết phải thao túng sâu vào cấu trúc tổ chức và hoạt động của một tôn giáo? 

Trường hợp của Hoa Kỳ cung cấp nhiều kinh nghiệm đáng tham khảo.

Trước tiên, cần khẳng định rằng Tu chính án thứ Nhất của Hiến pháp Hoa Kỳ bảo vệ ở mức độ gần như là tuyệt đối sự thành lập của các nhóm cuồng tín, thậm chí là tà đạo.

Nói cách khác, chính phủ Hoa Kỳ sẽ không can thiệp kiểm soát trước vào câu chuyện xác định ai được xem là tôn giáo, ai không được xem là tôn giáo, ai là tà đạo, ai không phải là tà đạo, v.v.

Song điều này cũng dẫn đến những công cụ và những thảo luận pháp lý có một không hai.

“Deprogramming”: Toàn dân du kích chống giáo phái cuồng tín

Một trong những công cụ tư nhân nổi bật nhằm chống lại các giáo phái cuồng tín và tà đạo tại Hoa Kỳ là các chương trình “deprogramming”, tạm dịch là “giải giáo”.

Đây là các chương trình tư nhân có mục tiêu giáo dục, đào tạo và thuyết phục thành viên của các giáo phái cuồng tín, rằng thứ đức tin mà họ đang theo đuổi có vấn đề, là sai lầm và nguy hại cho gia đình lẫn xã hội.

Phong trào, hay nói đúng hơn là “dịch vụ giải giáo”, thường phục vụ các gia đình của những thành viên đang hoạt động bên trong các giáo phái . Thập niên 1960 – 1970 là giai đoạn làn sóng giáo phái tại Hoa Kỳ nở rộ với hàng ngàn giáo phái mới được thành lập. Những cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ giải giáo cũng phất lên từ đó. [2]

Gói dịch vụ này ban đầu bao gồm cả việc tạm “bắt cóc” thành viên gia đình đang tham gia giáo phái (với sự đồng thuận của các thành viên còn lại trong gia đình).

Các bước tiếp theo của quá trình giải giáo có thể từ nhẹ nhàng như trò chuyện, thuyết phục, giảng giải đạo đức hay áp dụng các biện pháp tâm lý trị liệu, cho đến các biện pháp nặng đô hơn như gây áp lực tinh thần.

Một cảnh giải giáo (deprogramming) trong bộ phim tài liệu “Deprogrammed” (2015).

Một số lượng đáng kể các nhà tâm lý học lâm sàng, bác sĩ tâm thần, và thậm chí các luật gia – luật sư ủng hộ cách tiếp cận và các biện pháp của những chương trình giải giáo này. [3] Nó giúp cho ngành công nghiệp giải giáo – do tư nhân thành lập, điều chỉnh và cung ứng vốn – trở thành một ngành được thừa nhận rộng rãi trong nền kinh tế Hoa Kỳ.

Dù rất nhiều giáo phái mới rao giảng những giáo điều đi ngược lại nhiều giá trị đạo đức cộng đồng nói chung và nhu cầu quản lý nhà nước nói riêng, các cơ quan chức năng không thể can thiệp vào hoạt động của các giáo phái này vì chúng không vi phạm Hiến pháp Hoa Kỳ.

Thay vào đó, nhà nước vừa khuyến khích người dân tự nguyện rút khỏi các giáo phái, vừa ngầm ủng hộ các dịch vụ giải giáo.

Vậy kỹ thuật ủng hộ của họ ra sao?

Các công cụ tư pháp

Đọc đến đây, có lẽ nhiều bạn đọc đang có vài câu hỏi về nội dung đoạn trước.

“Bắt cóc”?

Chẳng phải như vậy là trái luật hay sao? 

Hoa Kỳ, một nước tôn trọng nhân quyền, thượng tôn pháp luật, sao lại cho phép chuyện như thế?

Đây sẽ là chỗ mà các cơ quan tư pháp Hoa Kỳ cho thấy sự can thiệp nhất định của họ vào việc ủng hộ những nỗ lực tư nhân trong việc kiểm soát các giáo phái.

Để bắt đầu, chúng ta cần tìm hiểu hai thuật ngữ: “colour of law” và “conservatorship”.

“Conservatorship” là một khái niệm tư pháp trong hệ thống thông luật Hoa Kỳ. Nó cho phép một thẩm phán, dựa trên các bằng chứng mà họ có, tuyên trao cho một người trong gia đình quyền đại diện và kiểm soát hành vi dân sự của một thành viên khác vì thành viên này không còn đủ năng lực hành vi.

Nếu đối chiếu với hệ thống pháp luật Việt Nam, chúng ta có thể hiểu khái niệm này là gần tương tự với việc “giám hộ người mất năng lực hành vi dân sự” (trong trường hợp của Hoa Kỳ thì không đến mức mất năng lực).

Sau khi giành được quyền này, gia đình của một giáo dân có thể sử dụng vũ lực đúng mức để giữ và ngăn cản thành viên, không cho tiếp tục tham gia giáo phái, buộc họ điều trị theo các chương trình giải giáo.

Trong quá trình thực hiện thẩm quyền này, gia đình và tổ chức thực hiện dịch vụ giải giáo sẽ hoạt động dưới danh nghĩa “the colour of law”. Nói cách khác, các hành vi vũ lực mà gia đình có thể thực hiện được sự “ủy quyền ban đầu” của pháp luật.

Những thành viên bị “bắt cóc” hoàn toàn có thể khởi kiện, yêu cầu tuyên sự ủy quyền và các hành động của gia đình là bất hợp pháp. [4] Tuy nhiên, thành viên gia đình tham gia vào các giáo phái ít khi thành công khi kiện gia đình của mình. [5]

Ban đầu, các thẩm phán địa phương khá ngại ngần trong việc cho các gia đình dùng quyền giám hộ để tạm giữ và giải giáo cho con cái của mình.

Song cùng với làn sóng giáo phái cuồng tín và tà đạo trỗi dậy quá mạnh mẽ, cân nhắc những trói buộc dành cho cơ quan công quyền theo Tu chính án thứ Nhất như đã nói ở trên, nhiều tiểu bang quyết định mở rộng các quy định liên quan đến “conservatorship”.

Ví dụ, ở tiểu bang Arizona, các nhà lập pháp thậm chí cho phép các thẩm phán trao “conservatorship” cho ba mẹ hay gia đình nói chung để can thiệp vào quá trình giải giáo của con hoặc thành viên trong gia đình mà không cần trải qua các thủ tục thông báo (notice) hay trình bày, tranh biện tại tòa (hearing). Trong các trường hợp khẩn cấp, bang Arizona khuyến khích trao cho gia đình cơ chế giám hộ tạm thời (temporary guardianship) kéo dài ba mươi ngày. [6]

Và ba mươi ngày thật ra cũng là quá đủ đối với các chương trình giải giáo. 

***

Sau khi đạt đỉnh ở thập niên 1970 – 1980, phong trào thành lập các giáo phái mới ở Hoa Kỳ hạ nhiệt. Các chương trình giải giáo và các công cụ tư pháp mà chính quyền tiểu bang trao cho hệ thống tư pháp của mình cũng dần bị bãi bỏ.

Nhìn chung, có thể thấy ngay cả ở quốc gia tôn trọng tự do tôn giáo đến mức gần như tuyệt đối như Hoa Kỳ, việc điều chỉnh hệ thống pháp luật để thích ứng với những thách thức quản lý nhà nước đối với tôn giáo không phải là không có.

Điểm thú vị nhất là họ lại trao quyền đó cho tư nhân và thị trường.

Đọc thêm: Tự do tôn giáo và bài toán “tà giáo”: Từ góc nhìn quản lý nhà nước

Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em

Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em

Ngày Chúa Nhật thật là tốt lành nhé.

Cha Vương

CN: 20/02/2022

TIN MỪNG: Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. (Lc 6:27-28)

SUY NIỆM: Thật, đây là một mệnh lệnh rất khó để thực hành trong cuộc sống va chạm hằng ngày. Mình biết rất khó đó nhưng không phải là bạn “không có thể”. Sự thường thì bản tính tự nhiên của con người dạy ta: “thương kẻ nể ta, đập kẻ mất lòng ta” còn trong Kinh Thương Linh Hồn 7 Mối, điều thứ năm và thứ 6 lại dạy ta: “Tha kẻ hại ta, nhịn kẻ mất lòng ta”. Hai điều này quy về một điều mà Chúa dạy hôm nay là: hãy YÊU MẾN kẻ thù của mình, LÀM ƠN cho kể ghét mình, CHÚC LÀNH cho kẻ nguyền rủa mình, CẦU NGUYỆN cho kẻ vu khống mình. Nếu bạn yêu không được thì hãy làm ơn làm phước cho họ. Nếu bạn yêu cũng chẳng vô, làm ơn cũng chẳng được vì chữ “khó” hoặc vì không muốn nhìn mặt người đó thì việc chúc lành và cầu nguyện cho họ là một việc “có thể”. Nó không đến nỗi khó như bạn tưởng đâu. Bạn cứ chúc lành và cầu nguyện cho họ đi rồi để Chúa là người sẽ phán xét họ. Nếu bạn cứ dành thời gian và năng lực để phán xét chỉ trích họ thì bạn có thời gian đâu để cầu nguyện cho họ nữa, hãy để Chúa làm việc phán xét đó. Chúa Giêsu đến để mạc khải sứ điệp tốt hơn, trọn hảo hơn, bẻ gẫy những giới hạn tự nhiên: “răng đền răng mắt đền mắt”. Ngài nhắc nhở bạn 2 điều hôm nay:

1) Tình yêu của Chúa không là Tình Yêu phân loại (exclusive): ai là người thân hoặc ai là thù địch.  Tình Yêu Chúa là tình yêu bao gồm (inclusive), không ai bị loại ra khỏi tình yêu thương của Người.

2) Tình yêu thương đó được thể hiện bằng những hành động cụ thể, và quan trọng nhất, đó là thi ân, chúc lành, và cầu nguyện cho những kẻ không tự nhiên được bạn yêu thương, và đây không còn là tình yêu thương theo tình cảm, mà là tình yêu thương thực sự hướng đến lợi ích của người khác. Ước mong bạn cảm nhận được lời Chúa dạy là một giải pháp tích cực để đương đầu với những người đáng ghét hôm nay.

LẮNG NGHE: Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, / Người chấp giận và giàu tình thương. / Người không cứ tội ta mà xét xử, / không trả báo ta xứng với lỗi lầm. (Tv 102: 8,10)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin đổ tràn trên con tình yêu thương của Chúa, để con được giải thoát khỏi tình yêu hạn hẹp, có tính toán, mà biết quảng đại yêu thương tất cả mọi người, ngay cả kẻ chống đối và có ác cảm với con hôm nay.

THỰC HÀNH: Cầu nguyện và làm một việc hy sinh cho những đối tượng của bạn nhé.

From: Đỗ Dzũng

Tội là gì?

Tội là gì?

Chúa là hơi ấm trong đêm giá lạnh… Hôm nay trời Houston gió lớn và lạnh, khi ra ngoài đừng quên Chúa nhé.

Thứ 6: 18/02/2022

GIÁO LÝ: Tội là gì? Tội là hoàn toàn từ bỏ Thiên Chúa, từ chối không đón nhận Tình yêu Thiên Chúa, khinh thường không giữ giới răn của Thiên Chúa. (YouCat, số 67)

SUY NIỆM: Tội còn hơn là một thái độ lầm lỡ, và cũng không phải chỉ là một yếu đuối tâm lý. Thực ra mọi từ bỏ hoặc phá hủy điều gì là tốt, xét cho cùng đều là bỏ tốt để chọn xấu, loại bỏ Thiên Chúa vậy. Trong kích thước sâu xa và kinh khủng nhất, tội là xa lìa Thiên Chúa, xa lìa nguồn sống. Vì thế, chết là hậu quả tất nhiên do tội lỗi. Chỉ nhờ Chúa Giêsu ta mới hiểu được kích thước không thể đo được của tội, vì muốn liên đới với loài người đã phạm tội bỏ Chúa, Chúa Giêsu đã chịu đau khổ vì các hậu quả của tội nơi chính thân xác Người. Người đã phải gánh lấy sức mạnh gây chết của tội, để nó không làm hại ta. Đó là tất cả ý nghĩa của “cứu chuộc”. (YouCat, số 67 t.t)

❦ Điều xấu hơn không phải là phạm tội ác mà là đã không làm những điều tốt mà mình có thể làm. Chính tội bỏ sót không làm chẳng qua là tội không yêu mến, và thường không ai xưng thú tội đó. (Léon Bloy, 1846-1917, văn sĩ Pháp)

LẮNG NGHE: Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội. (Rm 5:20)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, Chúa yêu thương con và mong muốn con đáp tình yêu đó bằng cuộc sống thánh thiện trước mặt Chúa và đối với anh em. Xin đừng để con rơi vào tình trạng dửng dưng về tội, tưởng mình không có tội hay chỉ có lỗi qua quít để rồi vẫn sống khơi khơi, nhưng xin hãy khuấy động tim con để con biết ý thức về tội đang làm con xa lìa Chúa và tổn thương đến anh em con.

THỰC HÀNH: Tự xét mình coi bạn có “tội bỏ sót không làm” không hả? Td: Đưa công việc cho người khác vì lười biếng trong khi mình có thể làm được. Cụ thể khi đi làm mệt về bạn vẫn thấy một đống chén đũa vẫn nằm chềnh ềnh trong bồn rửa chẳng ai thèm đá động đến.

From: Đỗ Dzũng

NỖI ĐAU TÂM LINH

NỖI ĐAU TÂM LINH

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Chúa Giêsu thở dài mà nói, “Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ?”

Một người kia, sau 25 năm, vẫn một công việc với một mức lương cố định; anh đến gặp ông chủ và than phiền, “Tôi cảm thấy mình đã bị lãng quên, tôi đã có một phần tư thế kỷ kinh nghiệm.”  Ông chủ anh thở dài và nói, “Bạn thân mến, bạn chưa có một phần tư thế kỷ kinh nghiệm; bạn chỉ có một kinh nghiệm trong một phần tư thế kỷ!”

Kính thưa Anh Chị em,

“Bạn chưa có một phần tư thế kỷ kinh nghiệm!”  Một trùng hợp đầy thú vị, Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay cũng thở dài, vì xem ra, giới biệt phái cũng chưa có kinh nghiệm về Ngài.  Ngài thở dài khi họ kéo nhau đến tranh luận với Ngài và sau đó, đòi Ngài một dấu lạ từ trời.  Tiếng thở dài của Ngài đã tiết lộ một ‘nỗi đau tâm linh’ sâu sắc bên trong!

Rất giống với bản dịch BJ của Pháp và NAB của Hoa Kỳ, cha Nguyễn Thế Thuấn dịch câu này là, “Tự tâm thần, Ngài rên lên.”  Rõ ràng, đây không phải là một tiếng rên hay một tiếng thở dài bình thường; nó nói lên nhiều điều hơn là một cảm xúc.  Vậy thì điều gì đã xảy ra với Chúa Giêsu khiến Ngài não nuột đến thế?  Tiếng thở dài này cho thấy một nỗi xót xa bên trong con người Ngài, đó là một ‘nỗi đau tâm linh’ đến từ việc một tình yêu bị từ chối, một nỗi đau vì yêu.  Đó là kết quả của việc Ngài chân thành yêu thương những con người này; nhưng đáp lại, họ từ chối ân điển Ngài đem đến và thay vào đó, là sự thù hận, giết chóc.  Chính điều này khiến Chúa Giêsu tê tái; Ngài đau đớn vô cùng khi tình yêu vô bờ Ngài dành cho họ hóa ra công cốc!

Một điều lý thú là, hiếm khi chúng ta nghĩ đến tình yêu Chúa Giêsu dành cho những người biệt phái và ký lục!  Sự thường, chúng ta chỉ nghĩ đến những lời khắt khe thẳng thừng của Ngài; thế nhưng, mọi lời mạnh mẽ Ngài hướng đến họ không ngoài mục đích biến đổi họ, để họ có thể nhận ra tình yêu của Ngài.  Về phần Ngài, đó là một nỗ lực để lay động và thức tỉnh họ khỏi sự thờ ơ và từ chối ân điển Ngài tặng ban.  Hành động của Ngài là một hành động của tình yêu!

Câu hỏi đặt ra hôm nay là, ‘Có bao giờ Chúa Giêsu phải thở dài vì sự thờ ơ hay cứng lòng nơi mỗi người chúng ta?’  Thật bất ngờ, phải chăng Ngài cũng thở dài vì chúng ta ‘hoài nghi’, ‘giao động’ hoặc ‘hai lòng’ như gợi ý của thánh Giacôbê trong bài đọc thứ hai hôm nay, “Ai hoài nghi, thì giống như sóng biển bị gió cuốn đi và giao động!” “Con người hai lòng, do dự trong mọi đường lối, con người ấy đừng mong lãnh nhận gì nơi Chúa!”  Thật ý nghĩa với tâm tình thống hối của Thánh Vịnh đáp ca, “Lạy Chúa, xin chạnh lòng thương cho con được sống!”

Anh Chị em,

“Bạn chưa có một phần tư thế kỷ kinh nghiệm!”  Phải, cả chúng ta, phải chăng chúng ta cũng chưa có một phần tư thế kỷ kinh nghiệm về Chúa Giêsu!  Nếu có một kinh nghiệm già dặn về Ngài, kinh nghiệm về ân sủng, kinh nghiệm về cầu nguyện, kinh nghiệm về thống hối… hẳn chúng ta đã nên thánh từ lâu!  Tắt một lời, Chúa Giêsu chưa được chúng ta yêu mến!  Vậy mà Chúa Giêsu sẽ không để cho Ngài được yêu mến nếu Ngài không phải là Ngài, là một Giêsu nào đó; cũng như Ngài sẽ chẳng khát khao chúng ta khi chúng ta không phải là chính mình!  Ngài phải là Ngài và chúng ta phải là chính mình!  Chúng ta có thể muốn nhiều điều cho hạnh phúc của mình, nhưng Chúa Giêsu lại muốn chúng ta chấp nh ận rằng, ý muốn của Thiên Chúa phải là trọng tâm của ‘đỉnh cao toàn thiện’ nơi mỗi người chúng ta!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin giúp con biết yêu mến Chúa bằng một tình yêu trong sáng và thánh thiện.  Cho con biết cảm nhận một ‘nỗi đau tâm linh’ về tội lỗi mình và tội lỗi người khác, mà vì đó, Chúa phải thở dài!”  Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

From: KittyThiênKim & KimBang Nguyen

Thiên Chúa có định cho con người phải đau khổ và phải chết không?

Thiên Chúa có định cho con người phải đau khổ và phải chết không?

Chỉ còn 2 tuần nữa là đến ngày Ba Béo rồi bạn ơi, nhịn đói từ từ bây giờ đi nhé. Chúc bạn và gia đình một ngày binh yên trong Chúa.

Cha Vương

Thứ 4: 16/02/2022

GIÁO LÝ: Trong kế hoạch, Thiên Chúa có định cho con người phải đau khổ và phải chết không? Thiên Chúa không muốn cho con người phải đau khổ và phải chết. Từ khởi thủy Thiên Chúa đã muốn cho con người sống nơi địa đàng, được sống mãi mãi, bình an giữa Thiên Chúa, mọi người, và vạn vật chung quanh. Bình an giữa nam và nữ. (YouCat, số 66)

SUY NIỆM: Đôi khi ta cảm thấy làm thế nào cuộc đời được như thế và làm thế nào ta được như thế. Nhưng thực ra, ta sống trong xung đột với chính ta, ta bị thống trị bởi sợ hãi và các đam mê ta không kiểm soát nổi, và ta đã mất sự hòa hợp nguyên thủy với thế giới và cuối cùng với Thiên Chúa. Trong Kinh thánh, kinh nghiệm về sự “tha hóa” này được diễn tả trong câu truyện “sa ngã”. Bởi vì tội lỗi đã lọt vào địa đàng nơi Adam và Eva đang sinh sống hòa hợp với nhau và với Thiên Chúa, nên họ phải ra khỏi địa đàng. Phải vất vả lao động, phải khổ, phải chết và bị cám dỗ bởi tội lỗi, đó là dấu chỉ họ đã mất địa đàng. (YouCat, số 66 t.t)

❦Người ta mất địa đàng, nhưng đã được Thiên đàng, vì vậy được nhiều hơn mất. (Thánh Gioan Kim Khẩu)

❦Lạy Chúa, quay đi khỏi Chúa sẽ ngã, quay lại với Chúa sẽ đứng vững, ở lại trong Chúa sẽ chắc chắn được an toàn. (Thánh Augustinô)

LẮNG NGHE: ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng: “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết.” (St 2:16-17)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, vì tội bất phục tùng mà con người phải chịu đau khổ và phải chết nhưng vì lượng từ bi Chúa yêu thương con đến nỗi đã sai Đấng Cứu Chuộc đến để chữa lành bản tính phải chết của con và giải thoát tất cả những ai vì mang bản tính đó mà bị hư mất. Xin biến đổi tim con, giúp con biết hoán cải quay về với Chúa để được hưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa. 

THỰC HÀNH: Tập chấp nhận mọi đau khổ như là một món quà để cứu các linh hồn trong luyện ngục.

From: Đỗ Dzũng

Người có khuynh hướng đồng tính luyến ái thì sao?

Người có khuynh hướng đồng tính luyến ái thì sao?

Một ngày an lành nhé. Hơn bao giờ hết, nhu cầu giáo dục giới tính rất cần thiết trong thời đại ngày nay, hy vọng bài giáo lý hôm nay giúp bạn nhìn lại vai trò của mình trong công việc giáo dục đức tin trong gia đình.

Cha Vương

Thứ 3: 15/02/2022

GIÁO LÝ: Người có khuynh hướng đồng tính luyến ái thì sao? Hội Thánh tin rằng, trong trật tự tạo dựng, Thiên Chúa đặt để cho người nam và người nữ cần đến nhau, bổ túc cho nhau, liên kết với nhau để sinh sản con cái. Vì vậy, Hội Thánh không thể chuẩn nhận những thực hành đồng tính luyến ái. [Tức là Hội Thánh kết án hành vi tính dục đồng tính] Tuy nhiên các Kitô hữu phải tôn trọng và yêu thương mọi người, không xét đến khuynh hướng tính dục của họ, vì tất cả mọi người đều được Thiên Chúa tôn trọng và yêu thương. (YouCat, số 65)

SUY NIỆM: Không một người nào trên trần gian không phải là kết quả của mối quan hệ giữa một người mẹ với một người cha. Thật là kinh nghiệm đau khổ cho một số người có khuynh hướng đồng tính luyến ái, họ không cảm thấy được lôi cuốn bởi người khác giới, và phải từ chối việc thụ thai theo thể lý bằng quan hệ tình dục phù hợp với bản tính con người và trật tự do Thiên Chúa tạo dựng. Nhưng những đường lối của Chúa thì không biết trước được: một sự thiếu sót, một mất mát hay một vết thương được chấp nhận và đảm nhận có thể trở thành một bàn đạp để gieo mình vào tay Chúa, Đấng luôn làm cho mọi sự tốt hơn và Người còn tự mặc khải như Đấng cứu độ lớn hơn là Đấng tạo hóa. (YouCat, số 65 t.t)

❦ Hội Thánh không kết án những người có khuynh hướng đồng tính, mà chỉ kết án những hành vi tình dục đồng tính mà thôi: Hội Thánh mời gọi những người có khuynh hướng đồng tính trung thành gìn giữ đức khiết tịnh, phẩm giá đích thực của con người. Hội Thánh không loại trừ họ, nhưng tôn trọng, thông cảm và nâng đỡ họ sống hoàn thiện hơn. Ngược lại, Hội Thánh lên án những hành vi tính dục đồng tính và chống đối quy chế hôn nhân giữa hai người đồng giới.

❦ Chúa Giêsu nói: “Quả vậy, có những người là hoạn nhân vì từ lòng mẹ sinh ra đã như thế; có những người là hoạn nhân vì bị người ta hoạn; và có những người là hoạn nhân do họ tự ý sống như thế vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu” (Mt 19, 12).

LẮNG NGHE: Ngươi [người đàn ông] không được nằm với đàn ông như nằm với đàn bà: đó là điều ghê tởm. (Lv 18:22)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, nhân loại đang đương đầu với nhiều thù nghịch cả trong lẫn ngoài, ma quỷ đang rình rập lẻn vào gia đình và tầm hồn dưới nhiều hình thức để cướp lấy những phẩm giá đích thực của con người. Xin cho những người có khuynh hướng đồng tính biết can đảm sống đức khiết tịnh, bền vững trong cơn cám dỗ, chấp nhận sự thiếu sót và mất mát để được Chúa muôn đời.

THỰC HÀNH: Dâng một hy sinh nhỏ trong ngày hôm nay để cầu nguyện cho người tội lỗi biết ăn năn trở lại.

httpv://www.youtube.com/watch?v=0U0igCUUANk

Thánh Ca | Cám Dỗ Trong Đời – Diệu Hiền

From: Đỗ Dzũng

Hiền lành và khiêm nhường

Hiền lành và khiêm nhường

July 5, 2011 

  1. DẪN NHẬP.

Ngày nay, người ta say mê quyền lực và muốn khuất phục người khác dưới quyền mình, muốn sai khiến người khác theo ý mình. Con người có khuynh hướng trở nên kiêu ngạo. Người ta co dị ứng khi nói đến lời dạy “ hiền lành khiêm nhường “của Đức Kitô, nhất là khuyên chúng ta hãy thực hiện đức tính này.

Tuy nhiên, là Kitô hữu, chúng ta cần đi bước theo chân Chúa Kitô. Người đã đến chia sẻ kiếp người của chúng ta, Người đã đi đến mức cùng của việc tự hạ: sống chung thân phận với người nghèo khổ, như người tôi tớ rốt hết. Hiền lành và khiêm nhường là những đức tính mà Chúa Giêsu đã thực hiện trước và khuyên các môn đệ hãy đem ra thực hành: “Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.

Thực ra, truớc Chúa Giêsu mấy trăm năm, nhà hiền triết Lão Tử cũng đã đưa ra chủ trương:”Nhu nhược thắng cương cường”: lấy mềm dịu thắng cứng rắn (nhu thắng cương, nhược thắng cang). Đây là một chủ trương mới lạ, khó được chấp nhận, chỉ những người có tâm hồn cao thượng mói hiểu và chấp nhận được chủ trương này. Hôm nay chúng ta thấy lời khuyên của Chúa Giêsu rất gần với chủ trương của Lão Tử. Và trong thực tế, có rất nhiều người đã thực hiện lời khuyên của Chúa Giêsu. Họ đã thành công và đã để lại tấm gương sáng muôn đời cho nhiều người. Chúng ta hãy nhớ lại lời khuyên của Chúa Giêsu trong “Tám mối phúc thật”: “Phúc cho ai có tinh thần hiền lành vì họ dẽ được gọi là con Thiên Chúa”.

  1. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: Dcr 9,8-10: Trong thời Chúa Giêsu, người ta đang trông chờ Đấng Messia đến cứu dân Người với hình ảnh là một Đấng Messia đầy quyền uy, dùng võ khí để tái lập hoà bình. Nhưng tiên tri Giacaria lại loan báo cho dân thành Giêrusalem biết: Đấng Messia không đến trong quyền uy với võ khí hủy diệt, nhưng đến với một thứ võ khí đặc biệt là “hiền lành và khiêm nhường”.

Theo đó, Đấng Messia sẽ đến cũng là một vị Vua nhưng là vị Vua có những đức tính khác biệt:
. Ngài không phải là vị vua chiến tranh nhưng là hòa bình.
. Ngài rất khiêm nhường, không ngồi trên lưng ngựa mà trên lưng lừa.
. Ngài rất hiền lành: không muốn giết chết mà chỉ muốn cứu sống.

Đức Giêsu sẽ hoàn tất việc mong chờ này vào ngày lễ Lá, khi Người vào thành Giêrusalem trên lưng một con lừa, như những người nghèo.

+ Bài đọc 2: Rm 8,9.11-13: Đây là đề tài phụ. Thánh Phaolô nhắc cho chúng ta rằng khi được chịu phép rửa tội, chúng ta thực sự đã trở nên môn đệ Chúa Kitô và để phục sinh với Người chúng ta phải sống theo thần khí của Người (tức là Thánh Thần) chứ đừng “sống theo xác thịt’ là mọi khuynh hướng xấu sẵn có trong chúng ta.

Ai sống đời sống cũ tức là sống theo xác thịt sẽ bị dẫn đến sự chết. Còn ai sống đời sống mới tức là sống theo Thánh Thần sẽ được dẫn tới sự sống vĩnh cửu.

+ Bài Tin mừng: Mt 11,25-30: Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta có thể tìm thấy hai ý tưởng chính:

  1. a) Chúa Giêsu tạ ơn Chúa Cha vì Người qúi chuộng những kẻ bé mọn và khiêm nhường. Chính Người đã tiết lộ bí mật của Người cho họ trong khi Người lại giấu không cho những người khôn ngoan và quyền thế biết được những điều ấy. Vì sao ? Vì các luật sĩ và biệt phái đáng lẽ ra phải là những người đầu tiên nhận ra rằng Chúa Kitô là sứ giả của Thiên Chúa. Nhưng sự hiểu biết về Sách Thánh của họ đã làm cho họ đầy kiêu căng, một thứ vật cản.
  2. b) Sang phần sau, Chúa Giêsu cho biết, vì không tự mãn, những trí óc khiêm nhường của những kẻ bé mọn lại được mở ra ngay từ đầu đối với những mầu nhiệm của Chúa. Họ đã nhận ra Chúa Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa và đón nhận lời Người.

Nhân dịp này, Chúa Giêsu cũng khuyên những người bé mọn đó hãy “mang lấy ách của Ngài” tức là “hãy học cùng Ngài” về hai đức tính căn bản là “Hiền lành và khiêm nhường” trong cuộc sống hằng ngày để làm môn đệ Chúa.

  1. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Người hiền lành khiêm nhường

Trong phần thực hành lời Chúa, chúng ta chỉ bàn đến lời khuyên của Chúa trong phần thứ hai của bài Tin mừng: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.

  1. Nói về Hiền Lành và Khiêm Nhường
  2. Nói về hiền lành.

Hiền lành hay hiền hậu là con người tốt lành, không độc ác, nhưng có lòng thương người, có đức hạnh và hay làm điều thiện. Ví dụ: Cha mẹ hiền lành để đức cho con.

Theo nguyên ngữ Hy lạp được dùng trong Kinh thánh thì nó có nghĩa là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo cứng cỏi. Như thế hiền lành phải có cả bên trong lẫn bên ngoài. Bên trong thì phải êm ái, hòa nhã, yêu thương, khoan dung, thông cảm. Bên ngoài thì phải nhẹ nhàng, không có hành động cứng rắn hay thô bạo.

Hiền lành thì phải tránh tính nóng nảy. Trong đời sống hằng ngày, người có quyền bính đều xử dụng tính nóng nảy của mình đối với người khác, có khi còn “giận cá băm thớt”. Người ta từng nói: “No mất ngon, giận mất khôn”. Cho nên, để luôn luôn tự cảnh giác, ông Nguyễn đình Giản, thời Lê mạt, đã viết vào một mảnh giấy, dán lên chỗ ngồi giải trí, câu này:

Tảo cấp tắc bại sự
Nóng tính thì hỏng việc.

  1. Nói về khiêm nhường.

Theo chữ thì Khiêm nhường hay khiêm nhượng là nhún nhường không khoe khoang, hạ mình xuống một chút. Căn bản của khiêm nhường là biết mình “là” thế nào: từ đó không muốn tỏ ra hơn cái “là” ấy; và giả như người khác có coi mình kém hơn cái “là ấy” thì mình cũng không màng tới. Điều quan trọng là sống thanh thản và thành thật đúng với cái “là” của mình.

Khiêm nhường trái ngược với kiêu ngạo. Kiêu ngạo là muốn tự cho mình vượt quá cái “là” của mình và bắt người ta phải công nhận như vậy. Người kiêu ngạo được coi là người VIỆT VỊ trong bóng đá vì đã vượt quá vị trí của mình. Dĩ nhiên, cầu thủ “việt vị” thì đều bị trọng tài phạt.

Truyện: hoàng đế Napoléon kiêu ngạo.

Trong trận đánh Nga, hoàng đế Napoléon đã mơ tưởng thu phục cả Ấn độ, và với lòng kiêu căng vô biên, nhà vua đã cho đúc một thứ huy chương có dòng chữ này: “THIÊN ĐÀNG LÀ CỦA CHÚA, TRÁI ĐẤT LÀ CỦA TÔI”. Nhưng rồi nhà vua đã mất ngôi báu vì trận Nga này. Sau trận thất bại của nhà vua, một viên đại tướng Nga cũng cho đúc một huy chương khác, trên mặt có một hình bàn tay đưa ra đám mây và cầm roi đánh vào lưng Napoléon cùng với lời này: “CÁI LƯNG LÀ CỦA MÀY, CÁI ROI LÀ CỦA TA”. Và như thế, vị hoàng đế kiêu ngạo, sau này trong nơi vắng vẻ bị tù đầy ở đảo Sainte Helène có thể suy nghĩ về chân lý về những lời này của Chúa: “Kẻ nào đưa mình lên sẽ bị hạ xuống, còn kẻ nào hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Mt 23,12).

  1. Người Đời Nghĩ Thế Nào?

Tùy theo quan niệm của người ta, hiền lành nhịn nhục có thể bị coi như một thái độ hèn nhát, nhu nhược. Nhưng cũng có rất nhiều người coi đó là thái độ anh hùng đáng ca tụng. Phải là một con người có bản lĩnh vững vàng cao thượng mới có thể thực hiện được.

  1. Thái độ hèn nhát.

Ngày nay sự hiền lành dễ thương không còn được đánh giá cao như trước. Trước đây lời khen ngợi tốt nhất mà ta có thể trao tặng cho kẻ khác là gọi họ là “người hiền lành dễ thương”. Nhưng ngày nay, bạo lực lại phổ biến hơn hiền lành dễ thương. Truyền hình đã làm cho bạo lực có rất nhiều khán giả bằng những chương trình Nielson rất phổ biến (bên Mỹ).

Nếu thi sĩ Alfred de Vigny coi cầu nguyện và than vãn là thái độ hèn yếu, thì đối với ông và với nhiều người khác, họ nghĩ sao với lời Chúa: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” ? Có lẽ họ muốn theo cách hành động của anh chàng Tân Ti Tụ suốt đời không chịu để cho ai làm nhục.

Truyện: Anh chàng Tân Ti Tụ.

Đời Trang Công nuớc Tề có người tên là Tân Ti Tụ đêm nằm mơ thấy một chàng cao lớn đội mũ trắng đi giầy mới, mặc quần gai, áo vải, đeo gươm tự dưng đến nhà mắng, nhổ vào mặt mà đi.

Tân Ti Tụ giật mình thức dậy, tuy biết chiêm bao nhưng vẫn tức tối, suốt đêm bực rọc khó chịu, không ngủ được.

Sáng dậy, Tân Ti Tụ mời một bạn thân đến nói rằng:

– Bác ạ, tôi từ nhỏ đến giờ vẫn là kẻ hiếu dũng, nay sáu mươi tuổi rồi mà chưa hề chịu ai làm nhục, thế mà đêm qua bị một đứa, tôi phải đi tìm để báo thù, nếu thấy thì hay, còn không tôi chết mất.

Thế rồi từ hôm ấy, sáng nào Tân Ti Tụ cũng cùng bạn ra đứng ngoài đường cái để rình. Rình mãi ba ngày không thấy, rút cục Tân Ti Tụ phải uất lên mà chết.

(Thái Bạch, Đông tây kim cổ tinh hoa, 1965, tr 134)

  1. Thái độ can đảm

Ngược lại với thái độ của những kẻ tầm thường chỉ biết hành động theo tình tư dục, những bậc thánh nhân, hiền nhân quân tử có cái nhìn khác hẳn. Những kẻ tầm thường không có cái suy nghĩ và hành động như các vị đó.

Thánh Francois de Sales nói: “Tất cả đều được chinh phục bởi hiền dịu chớ không phải bạo lực”.

Nhà hiền triết Mạnh Tử nói: “Thiên đạo vô thân. Thường dữ thiện nhân (Đạo trời không riêng một người, Luôn gia ân cho kẻ hiền lành.)

Ông Tô đông Pha, một văn sĩ Trung hoa thời xưa nói rất chí lý:

“Chỗ mà người xưa gọi là hào kiệt, ắt phải có khí tiết hơn người. Nhưng, nhân tính có chỗ không thể nhịn được. Bởi vậy, kẻ thất phu gặp nhục, tuốt gươm đứng dậy, vươn mình xốc đánh. Cái đó chưa đủ gọi là dũng. Kẻ Đại dũng trong thiên hạ, trái lại, thình lình gặp những việc phi thường cũng không kinh, vô cố bị những điều ngang trái cũng không giận. Đó là nhờ chỗ hoài bão của họ rất lớn và chỗ lập chí của họ rất xa vậy”.

Để làm nổi bật cái triết lý “Nhu nhược thắng cương cường” trong phương diện cách mạng, ông Nguyễn duy Cần trong cuốn “Cái Dũng của thánh nhân” đã đề cập đến cuộc giải phóng Ấn độ do ông Gandhi điều khiển. Chính sách đề kháng bất bạo động của Gandhi đã làm cho thế giới hết sức ngạc nhiên và thán phục. Đâu phải người ta không biết dùng bạo động, nhưng vì người ta cho đó là còn hạ sách.

Ông Gandhi nói: “… Tôi tin rằng Ấn độ không phải là vô lực. 100.000 người Anh làm gì mà đến 300 triệu người Ấn kia phải sợ ? Bất bạo động đâu phải chịu lụy kẻ làm hại mình. Bất bạo động, là dùng sức mạnh của cả tâm hồn để chống lại với cường quyền của kẻ độc tài”.

Một người như thế thôi cũng đủ khiêu khích cả một đế quốc và làm cho nó “tan tành nghiêng ngửa”.

Truyện: Lạn Tương Như và Liêm Pha.

Lạn Tương Như được phong làm tướng quốc. Liêm Pha cậy mình có nhiều công hơn mà lại bị đứng dưới, nên tức giận hăm he hễ gặp mặt Tương Như là giết đi. Tương Như vì thế cứ lánh mặt mãi… Một hôm Tương Như ra ngoài, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha, vội sai tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra. Bọn xá nhân thấy thế càng giận bèn họp nhau hỏi Tương Như:

– Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây hầu ngài, tức coi ngài là bậc thượng phu nên mến mà theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng mà hạng thứ lại ở trên. Liêm Pha dọa, ngài đã không báo lại, đã tránh ở triều, nay lại tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ quá thế vậy ? Chúng tôi lấy làm xấu hổ, vậy xin đi không ở nữa.

Tương Như nói:
– Các ngươi xem tướng quân có hơn được vua Tần không ?

Bọn xá nhân đáp:
– Không.

Tương Như nói:

– Lấy cái oai của vua Tần, thiên hạ ai dám chống, mà Tương Như này dám mắng giữa triều đình, lại làm nhục cả quần thần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm tướng quân ư ? Nhưng ta nghĩ Tần sở dĩ không dám đánh Triệu là vì e có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, thế không cùng sống. Tần nghe tin, tất thừa cơ đánh Triệu. Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là coi việc nước là trọng và thù riêng là khinh vậy thôi.

Bọn xá nhận mọp lạy mà rằng:
– Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm gì hiểu nổi đại chí của tướng công.

Liêm Pha khi nghe thuật lại việc làm của Tương Như cả thẹn mà rằng: “Ta thật còn kém Lạn Tương Như xa lắm”. Bèn đến tạ tội với Tương Như, qùi mọp mà rằng: “Tôi tính thô bạo, đội ơn tướng quân bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá”. Tương Như đỡ dậy, nắm tay cùng khóc và kết làm bạn sống chết với nhau.

(Nguyễn duy CầnCái DŨNG của thánh nhân, 1958, tr 162-163)

III. Chúng ta nghĩ sao?

Mỗi người phải lựa chọn cho mình một hướng đi. Chúng ta phải có lựa chọn nào trước lời Chúa dạy: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” ? Thái độ của người hiền lành là hèn nhát hay can đảm ?

Đối với chúng ta, sự hiền lành và khiêm nhường của Đức Giêsu đã làm cho không biết bao người đương thời với Chúa Giêsu và bao thế hệ sau này ngỡ ngàng và kinh ngạc.

Truyện: BEN HUR

Nhà văn Lewis Wallace trong tác phẩm BEN HUR cũng nói lên tâm tư sững sờ trước sự khiêm nhường sâu thẳm của Đức Kitô:

Ben Hur khi chứng kiến cảnh Đức Kitô bị Giuda phản nộp và bị các tên lính bắt trói, chàng hăm hở tiến đến gần Chúa Giêsu và hỏi:

– Lạy Thầy, hãy nghe tôi, có phải Thầy tự ý muốn đi theo bọn lính và các giáo sĩ hay không ?

Đức Giêsu lặng thinh.

– Lạy Thầy, tôi có một binh đoàn quân Galilê trong thành phố này. Hãy ra lệnh đi, họ sẽ phục tùng Thầy. Thầy có thuận không ?

Đức Giêsu vẫn một mực cúi nhìn đăm đăm xuống đất.

– Lạy Thầy, một lời thôi, một lời của Thầy thôi, tất cả sẽ theo Thầy…

Đức Giêsu vẫn im lặng, đến nỗi Ben Hur ngã vật xuống bờ sông Cédron và thốt lên:

– Người Nazareth, hỡi người Nazareth, thế thì thông điệp của Người mang ý nghĩa gì ?

Mang một ý nghĩa gì ư ? Đó là “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Đó là thông điệp mà Đức Giêsu gửi cho mọi người chúng ta. Ngài đã làm gương trước, chúng ta chỉ việc học đòi bắt chước Ngài thôi.

Qua những tư tưởng trên, chúng ta thấy cái hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô không là một sự nhu nhược nhát đảm, nhưng đó là đức tính của những vĩ nhân, của những bậc đại thánh. Bởi vì chính tính khí kiêu căng đã làm cho thế giới bị đảo lộn, hận thù ghen ghét, chiến tranh. Những kẻ kiêu căng tự mãn là những tiểu nhân, hèn mọn, còn những tâm hồn hiền lành khiêm nhường là bậc anh hùng vì họ đã anh dũng chiến thắng được bản thân với những tính tự ái ích kỷ hẹp hòi. Đó mới là cuộc chiến quan trọng, và cái chiến thắng của cuộc chiến đó mới đáng kể.

Truyện: Đức Gioan 23 và bức thư.

Lúc được phong chức Tổng giám mục, Đức Cha Roncalli là khâm sứ Toà thánh kiêm đại diện Tông tòa quản trị các giáo phận ở Bungari và Thổ. Công việc của ngài rất khó khăn, vì phải trông coi một vùng rộng lớn đang sôi động về mặt chính trị, chia rẽ về mặt tôn giáo, Công giáo với Tin lành, Chính thống, Hồi giáo, các linh mục triều lại chia rẽ với các tu sĩ.

Trong lúc thi hành công việc mục vụ, Đức Tổng giám mục Roncalli nhận được một bức thư nặng lời chê bai chỉ trích Ngài về mọi mặt, do tay một linh mục bất mãn viết. Đọc xong, Đức cha Roncalli không nói một lời, lòng vẫn tha thiết yêu vị linh mục ấy.

Thời gian trôi qua, ngài được thăng chức sứ thần Toà thánh tại Paris, rồi hồng y giáo chủ Vênêcia, và cuối cùng đắc cử Giáo hoàng với danh hiệu Gioan 23 năm 1958.

Linh mục bất mãn viết thư năm nào vẫn còn sống. Về sau để ngài tháp tùng với giáo dân sang Rôma và xin được yết kiến Đức Giáo hoàng.

Linh mục ấy đã thuật lại cuộc tiếp kiến riêng tư với Đức Giáo hoàng:

“Trong lúc đứng ở phòng khách trên lầu cao Vatican, đầu óc tôi cứ nghĩ tới bức thư bất mãn năm xưa mà lòng tôi vô cùng hối hận. Tôi trộm nghĩ, đã mấy chục năm trời qua rồi, giờ đây chắc hẳn Đức Thánh Cha không còn nhớ gì… Nhưng ai ngờ, sau khi tiếp chuyện thân mật, Đức Thánh Cha với lấy cuốn Kinh thánh và lôi ra trước mặt tôi bức thư khốn nạn ấy. Đang khi tôi lo âu lúng túng, Đức Thánh Cha đã cầm lấy tay tôi và dịu dàng bảo: “Con đừng hoảng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người, cũng yếu đuối, cha ngăn bức thư con viết vào cuốn Thánh kinh để hằng ngày đọc vào đó mà xét mình, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại, hoặc xa tránh những lầm lỡ có thể xẩy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con”.

Trong bài “Anh hùng” được chia sẻ với giới trẻ hạt Đức trọng, tôi đã đề cập đến câu định nghĩa về anh hùng của Vương Thông, theo đó:

ANH là người tự biết mình.
HÙNG là người tự thắng mình.

Vậy người thực hiện được lời Chúa dạy: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” phải là vị anh hùng vì họ đã tự biết mình và đã thắng được mình, thắng được tính nóng nảy và hay trả thù của mình. Đứng trước tấm gương của những người hiền lành nhịn nhục, không ai dám coi họ là những người hèn nhát mà phải suy tôn họ là anh hùng.

Trong bài giảng “Tám mối phúc thật”, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Phúc cho ai có tinh thần hiền lành vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”. Nếu người ta nói: “Cha nào con ấy” thì chúng ta phải nghĩ thế nào khi chúng ta là con cái Chúa ? Nếu Cha chúng ta là Đấng hiền lành khiêm nhường, còn chúng ta là con, thì không thể nào đi ra khỏi con đường Chúa đã vạch ra cho chúng ta. Bài học đã có sẵn, chúng ta chỉ việc đưa ra thực hành.

Lm Giuse Đinh Lập Liễm

Nước Trời là gì vậy Thầy?

Nước Trời là gì vậy Thầy?

Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

Lúc tàu của cha Đức Lộ[1] cập bến ở Cửa Bạng, Thanh Hóa, người Việt hồ hởi ùa đến. Số là những tàu thương nhân Tây Ban Nha thường mang theo mặt hàng quý báu từ Phương Tây. Lúc lên bờ, người ta hỏi Đắc Lộ có gì bán cho họ không? Cha chậm rãi nói bằng Tiếng Việt: “Tôi có viên ngọc quý. Đây là báu vật tôi muốn trao cho các bạn.”[2] Bà con lúc ấy mừng khôn tả. Họ vây quanh ông Tây để mong được chút báu vật ấy. Cha nhìn quanh và nói: “Báu vật của tôi là Tin Mừng Nước Trời, là Lời của Thiên Chúa muốn dành cho mỗi người Việt nơi đây.

Hẳn là cha Đắc lộ đã thuộc nằm lòng dụ ngôn bài Tin Mừng Chúa Nhật 17 hôm nay[3]:  Kho báu và ngọc quý. Đây là loạt dụ ngôn Đức Giêsu giới thiệu về Nước Trời cho dân chúng và các môn đệ. Điệp khúc “Nước Trời giống như…” là lối nói dụ ngôn vốn rất tiêu biểu trong cách giảng dạy của Đức Giêsu để diễn giải về Nước Trời. Gọi là dụ ngôn vì Đức Giêsu dùng những ngôn ngữ và hình ảnh đời thường để giúp chúng ta hiểu những điều bí nhiệm của Nước Trời. Chẳng hạn, chúng ta nghe Tin Mừng hôm nay: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng.” (Mt 13,44). Hình ảnh này nói lên giá trị của Nước Trời. Hẳn là cha Đắc Lộ cũng cảm nhận được niềm sung sướng của người nhận ra và đặt được kho báu này. Cha muốn người Việt cũng được biết và thừa hưởng Nước Trời.

Cựu Ước không có khái niệm Nước Trời. Có chăng các thánh vịnh gia chỉ đề cập đến Thiên Chúa là Vua (Tv 47,49). Chỉ tới thời Tân Ước, trung tâm lời giảng của Chúa Giêsu chính là Nước Trời. Lúc ấy người ta vẫn còn xa lạ với thuật ngữ này. Lạ lùng vì dân chúng thời ấy cũng chẳng hiểu thầy Giêsu đang nói về vùng trời nào mà Thiên Chúa của họ ngự trị. Bởi đó, thầy Giêsu mới tìm mọi cách để giúp dân hiểu và hướng cuộc đời họ vào mục đích là: Tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước hết. (Mt 6,33).

Thật may cho con người vì Đức Giêsu chính là hiện thân của Nước Thiên Chúa. Ngài tỏ lộ Nước ấy bằng những hình ảnh như: người tù được tha, người mù được thấy, người què đi được,… Đó là Vương Quốc của tình yêu, công chính, bình an và niềm vui trong Thần Khí (Rm 14,17). Chúng ta vẫn quen gọi Nước ấy là Thiên Đàng, vì có Thiên Chúa ngự trị.

Chúng ta chưa một lần bước vào Vương Quốc ấy! Có chăng chúng ta chỉ cảm nghiệm được hạnh phúc vô bờ khi được ở gần Chúa. Rồi mọi bôn ba của kiếp người cũng để tìm được nguồn hạnh phúc bình an đích thực. Nếu quy chiếu khao khát này vào tình trạng của Nước Trời, hẳn là người ta phải ưu tiên tìm kiếm cho bằng được Nước Trời! Đó là kho báu mà người ta sẵn sàng bán mọi thứ để mua cho bằng được. Đó là viên ngọc quý mà thương gia nào cũng muốn bán tất cả để sở hữu được nó. Nghe có vẻ ngồ ngộ, vì thực tế biết bao người đâu để ý đến Nước Trời trong thời đại của chúng ta. Người đời vẫn lao vào cuộc sống mưu sinh, chạy theo niềm vui thế trần.

Tiếc là với tội lỗi và hậu quả của nó, con người ngày càng xa lạ với Thiên Đàng. Họ thích bám vào mặt đất này hơn. Vật chất trần gian chiếm hết tâm trí nhiều người. Biết bao vinh hoa phú quý bủa vây lòng dạ người ta. Đó chưa kể là để được kho tàng Nước Trời, Chúa đòi người ta “bán tất cả” để đạt được. Vả lại, không phải ai nói: “Lạy Chúa, Lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu, nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7,21).

Hoặc giải thích như Đức Bênêdictô XVI: “Chúa Giêsu đã đến để dạy ta rằng Người muốn cho mọi người được lên Thiên đàng; còn hỏa ngục mà ngày nay người ta ít nói đến nhưng nó vẫn có đó, và nó chỉ là đời đời đối với tất cả những ai khép lòng mình lại trước tình yêu của Người.” Người ta có tự do để đón nhận Thiên Chúa, hoặc loại Ngài ra khỏi đời sống của họ.

Vài lý do này cho thấy Nước Thiên Chúa vẫn còn xa vời với nhiều người.

Trước thực tế ấy, dĩ nhiên Đức Giêsu không bỏ cuộc. Giáo Hội vẫn luôn giới thiệu cho nhân loại biết Nước Trời quý giá như kho báu và ngọc đẹp. Bởi, “Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý.” (1Tm 2,4). Như Chúa Giêsu, Giáo Hội cũng mang hạt giống Nước Thiên Chúa gieo trồng và làm sao cho hạt giống ấy được phát triển trong mọi dân tộc. Một khi Nước Trời gần với ai đó, người ấy sẽ được tình yêu, hạnh phúc và bình an. Khi ấy, họ “muốn tất cả những gì Chúa muốn, và muốn như thế trong mọi hoàn cảnh và không ngập ngừng; đó là Nước Trời đang ở trong họ rồi.” (François Fénelon). Hoặc nói như Mẹ Têrêsa Calcutta:

Chúng ta thường luyến nhớ đến niềm vui trên trời, nơi Chúa ngự. Chính mỗi người đều có khả năng ở với Chúa trên trời ngay từ bây giờ, và ngay lúc này được hưởng hạnh phúc với Chúa. Nhưng được hạnh phúc với Chúa ngay từ bây giờ nghĩa là gì: là giúp đỡ như Chúa giúp đỡ, cho đi như Chúa cho đi, phục vụ như Chúa phục vụ, cứu độ như Chúa cứu độ, yêu mến như Chúa yêu mến.” (Youcat 52)

Chúng ta kết thúc bài suy niệm với niềm vui của cha Đắc Lộ. Trong ít ngày cha đã rửa tội cho 32 người, thuộc nhiều tầng lớp dân chúng, không chỉ tại xóm Cửa Bạng, nơi tàu đậu, mà cả những làng lân cận, dân chúng vì hiếu kỳ đến xem đã được cha truyền đạo cho[4]. Chắc hẳn họ là những người đã nhận ra sự cao quý của Nước Trời. Từ vài nhóm khởi đầu như thế, Giáo Hội Việt Nam đã phát triển và lớn mạnh như ngày hôm nay.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con hạnh phúc vì được biết đến mầu nhiệm Nước Trời. Tuy không hiểu hết, nhưng chúng con ước ao thuộc về Vương Quốc ấy, ngay trên trần gian này. Rồi sau cái chết, hy vọng Thiên Chúa đón chúng ta vào Nước Trời hưởng cuộc sống hạnh phúc thiên thu. Amen

Giuse Phạm Đình Ngọc SJ

………….

[1] Sau hơn một năm học tiếng Việt ở Đàng Trong, cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) trở lại Macao để chuẩn bị tới Đàng Ngoài truyền giáo. Cùng với Pedro Marques, cha cập bến Cửa Bạng, Thanh Hóa ngày 19 tháng 3 năm 1627.

[2] Đọc thêm: https://www.giaophandanang.org/chua-nhat-iii-mua-chay-nam-a.html

[3] 26-7-2020: Chúa Nhật 17 Mùa TN. Rm 8, 28-30; Mt 13,44–52.

[4] Cha Bùi Đức Sinh, Giáo Hội Công Giáo Ở Việt Nam, Tập I, trang 124-125.

Đức Mẹ Lộ Đức

Đức Mẹ Lộ Đức

Chúc Bạn và gia đình một ngày an lành! Hôm nay ngày 11/2, Giáo Hội mừng kính Lễ Đức Mẹ Lộ Đức nơi mà rất nhiều bệnh nhân đã tìm đến hang đá và suối nước này cầu nguyện và cảm thấy được Mẹ nâng đỡ, nhiều người còn được ơn chữa lành. Chính vì vậy, Giáo hội cũng chọn ngày này là ngày quốc tế bệnh nhân. Ta hãy làm việc hy sinh và cầu nguyện xin ơn chữa lành cho các bệnh nhân hôm nay nhé.

Cha Vương

Tín điều “Đức Mẹ Vô nhiễm” mà Đức Piô IX tuyên tín năm 1854 như một ngọn đèn pha chiếu sáng vào mầu nhiệm Nhập Thể cứu thế để củng cố đức tin dân Chúa trong thế kỷ XIX, khi mà làn sóng vô thần tại  Âu châu từ nền văn minh khoa học nổi lên chống Thiên Chúa cứ mỗi ngày tràn lan. Đức Mẹ đã hiện ra tại Paris, La Salette, và Lộ Đức để cản ngăn. Nhất là tại Lộ Đức, Đức Mẹ hiện ra năm 1858 để chuẩn nhận tín điều “Mẹ Vô nhiễm” năm 1854.

Lộ Đức năm 1858 là một thành phố chừng 5,000 cư dân, nằm cạnh sông Pau, lối vào thung lũng dẫy núi Pyrénées phía đông nam nước Pháp, giáp ranh giới Tây Ban Nha. Đức Mẹ chọn Bernađetta Soubinous, 14 tuổi, con nhà nghèo, đau yếu, đơn sơ thật thà tuy chưa học giáo lý. Trưa ngày 11 tháng 2 là thứ Năm sau lễ Tro, Bernađetta cùng với em là Antoinetta và cô bạn Jeanna đi vào rừng kiếm củi đốt lò sưởi. Cô em và cô bạn lội qua sông nước cạn, Bernađetta chưa kịp trụt giầy lội theo, còn đang đứng trước hang Massabielle. Bỗng một cơn gió mạnh, Bernađetta nhìn lên thấy một áng mây vàng và một Bà Đẹp hiện ra. Bà mặc áo dài trắng, đội khăn lúp dài trắng, thắt lưng xanh lơ, đeo tràng hạt vàng ở cánh tay phải. Mỗi chân Bà có một bông hồng vàng. Bà nhìn Bernađetta, mỉm cười và làm dấu thánh giá lần chuỗi, môi không mấy máy. Bernađetta quì xuống lần chuỗi với Bà. Bà làm hiệu bảo Bernađetta tới gần, nhưng Bernađetta sợ không dám. Rồi Bà biến đi. Cô em và cô bạn không thấy gì, chỉ có Bernađetta được thấy sự lạ.

Lần thứ hai, trưa Chúa nhật ngày 14, mười người kể cả cô em và cô bạn cùng với Bernađetta ra hang. Bà hiện ra. Bernađetta vẩy nước phép để biết chắc không phải là ma quái. Bà chỉ mỉm cười, không nói gì.

Từ ngày 18-2 tới ngày 4-3, Bà hiện ra 13 lần và ban sứ điệp cho Bernađetta. Số người đi xem từ mấy người tăng dần tới 8,000 người.

Ngày 25 tháng Ba là lễ Truyền tin. Bà xưng mình: “Ta là Đấng Vô nhiễm thai” (“I am the Immaculate Con-ception”). Bà còn hiện ra hai lần nữa, ngày mồng 7-4 và ngày 16-7. Như vậy Bà Đẹp đó là chính Đức Mẹ. Người hiện ra tại hang Massabielle tất cả 18 lần. Đức Mẹ nói tiếng thổ ngữ Burgundian mà Bernađetta thường nói.

Năm 1866, Bernađetta nhập tu dòng Nữ tử Bác ái tại tu viện St. Gildard thành phố Nevers. Chị bị bệnh xuyễn và lao xương chân đau đớn và qua đời ngày 16 tháng 4 năm 1849, chẵn 35 tuổi. Lời nguyện cuối cùng trên môi miệng chị là: “Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin cầu cho con là một tội nhân khốn nạn”. Trong thời gian chịu bệnh đau đớn, chị viết một câu tóm lược đời sống của chị: “Vâng lời là yêu mến!  âm thầm chịu khổ vì Chúa Kitô là vui sướng. Chân thành yêu mến là hiến dâng mọi sự, kể cả nỗi đớn đau”.Chị Bernađetta được phong Á Thánh năm 1925 và Hiển Thánh năm 1933.

Những sứ điệp Đức Mẹ Lộ Đức ban:

(1) Sứ điệp riêng cho Bernađetta: Đức Mẹ nói với Bernađetta: “Con có muốn đến đây mỗi ngày trong hai tuần không? Ta không hứa cho con được hạnh phúc ở đời này nhưng đời sau”. Đức Mẹ còn nói với Bernađetta ba điều bí mật mà Bernađetta không bao giờ tiết lộ.

(2) Sứ điệp thống hối đền tội: Hiện ra lần thứ 8 ngày 24 tháng 2, Đức Mẹ nhắn nhủ: “Hãy ăn năn đền tội. Hãy ăn năn đền tội. Hãy cầu xin Thiên Chúa cho các tội nhân. Hãy quì lê vào hang và hôn đất để đền tội cho các tội nhân”. Hiện ra lần thứ 9 ngày 25 tháng 2, Đức Mẹ chỉ bảo “bới dưới tảng đá để có mạch nước vọt lên và hãy uống. Hãy ăn một ít cỏ mọc chung quanh mạch nước”.

(3) Sứ điệp cho Giáo hội: Hiện ra lần thứ 13 ngày mồng 2 tháng 3, Đức Mẹ xin “xây một đền thờ tại đây và muốn hang Massabielle sẽ là nơi hành hương và những cuộc rước”.

(4) Sứ điệp vinh quang của Đức Mẹ: Hiện ra lần thứ 16 trùng lễ Truyền tin ngày 25 tháng Ba, vì Bernađetta khẩn khoản nài xin, Đức Mẹ xưng mình: “Ta là Đấng Vô nhiễm thai”.

(5) Sứ điệp của Mẹ âm vang Phúc âm: 1) Hãy tỉnh thức và cầu nguyện (Mt 26:41). 2) Hãy cải thiện đời sống, Nước Trời đã gần đến (Mt 4:17). 3) Ai uống nước Ta ban sẽ không bao giờ khát (Ga 4:14). 4) Con là Đá. Trên đá này, Ta sẽ xây Giáo hội của Ta (Mt 16:18). 5) Ta luôn ở cùng các con cho tới ngày tận thế (Mt 28:20). (Nguồn: Đồng Công)

❦ Để bày tỏ lòng yêu mến Mẹ, mời Bạn hãy siêng năng lần hạt Mân Côi nhé.

From: Đỗ Dzũng

HAI CON ĐƯỜNG

HAI CON ĐƯỜNG

Khi đọc Thánh Kinh, nhất là phần Tân Ước, chúng ta thấy các tác giả thường trình bày những nhân vật hay hình ảnh đi cặp đôi với nhau, ví dụ: hai con đường, một con đường hẹp và một con đường rộng; hai người con, một người con bỏ nhà đi hoang, một người con ở nhà với cha; hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người thu thuế và một người biệt phái.  Chúa Giêsu thường dùng cách diễn tả này để nói với chúng ta: con người có tự do chọn lựa một trong hai lối sống, giữa trung thành và phản bội, giữa thánh thiện và tội lỗi.  Đó là hai con đường mà chúng ta tự do lựa chọn, một dẫn tới hạnh phúc và một dẫn tới bất hạnh.  Một khi đã lựa chọn, chúng ta phải lãnh trách nhiệm về sự lựa chọn ấy.

Thiên Chúa không tạo dựng nên sự dữ.  Sự dữ là sản phẩm do tội lỗi và ích kỷ của con người.  Thiên Chúa cũng không định cho ai phải đau khổ.  Ngài không gò ép ai, nhưng để con người tự do chọn lựa.  Đây cũng là quan điểm của dân gian Việt Nam: ai gieo gió ắt sẽ gặt bão, trồng cây nào, ăn quả nấy.

Những ai tin vào người đời, gạt bỏ Thiên Chúa và coi những giá trị trần tục như lý tưởng, giống như cây mọc trong sa mạc.  Cây trong sa mạc sẽ khô cằn, không sinh hoa kết trái.  Những ai tin tưởng phó thác vào Chúa, xa tránh những hành vi bất hảo và chọn Chúa làm gia nghiệp, giống như cây mọc bên bờ suối, bốn mùa quanh năm đều cành lá xanh tươi và hoa trái dồi dào.

Từ hai ngàn năm, chứng từ về sự phục sinh của Chúa Kitô được rao giảng cho mọi người.  Có rất nhiều người đón nhận với thành tâm thiện chí, nhờ đó mà trở nên hoàn hảo.  Trái lại, có những người lại nghi nan chối từ, cho đó là chuyện hão huyền, vì vậy mà trở nên bất hạnh.  Trong thư gửi giáo dân Corinthô, thánh Phaolô khẳng định: Chúa đã sống lại.  Sự phục sinh của Chúa là nền tảng Đức tin đối với Kitô hữu, đồng thời mặc cho phẩm giá con người một ý nghĩa mới, tức là con người sẽ được sống lại với Chúa sau khi đã kết thúc cuộc sống trần gian.

Tác giả Thánh vịnh thứ nhất tiếp nối dòng suy tư của ngôn sứ Giêrêmia.  Ông ca tụng những người khôn ngoan, biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa.  Những người này giống như cây trồng bên suối nước, quanh năm ra hoa kết trái.  Ông cũng phê phán những người chỉ biết có đời này, và đắm chìm trong ăn chơi sa đọa.  Họ giống như vỏ trấu, sẽ bị gió cuốn đi.  Tương lai của họ là hư vô.

“Hạnh phúc thay! Bất hạnh thay!”  Đó là những lời mở đầu mà Chúa Giêsu đã dùng để diễn tả những người thiện chí và những người dửng dưng với Nước Trời.  Nếu thánh Matthêu ghi lại tám mối phúc thật, là phần khởi đầu của bài giảng trên núi, thì thánh Luca lại ghi lại bài giảng của Chúa Giêsu với một hình thức khác.  Nội dung của Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy bốn mối phúc và bốn mối họa được trình bày song đối với nhau.  Thực ra, những lời được gọi là “chúc dữ” không hẳn là những lời nguyền rủa khi người ta giận dữ và muốn “trù ẻo” người khác.  Thiên Chúa tự bản chất là Đấng tốt lành, không lẽ Đức Kitô lại buông những lời nguyền rủa đối với con người, mặc dù họ xấu xa và tệ hại đến đâu đi nữa.  Để dễ hiểu hơn, thay vì dịch “Khốn cho các ngươi…”, nên dịch là “Thật bất hạnh cho các ngươi…”  Vì đây là những lời than vãn và luyến tiếc cho những con người đáng lẽ ra phải sống tốt lành, nhưng trong thực tế lại không được như vậy.  Đây cũng là những lời cảnh báo vì thấy trước những nguy hiển đang chờ đợi họ ở tương lai, là kết quả của lối sống vô tín đối với Chúa, và vô trách nhiệm đối với tha nhân.

Nguyên nhân của những than vãn hay của những lời chúc dữ ấy là gì?  Đó là sự cậy dựa vào sức mạnh phàm nhân.  Theo lời Chúa Giêsu, đó còn là sự kiêu ngạo, cậy vào của cải trần thế.  Họ là những người giàu có, no nê và đang vui cười.  Dường như họ không cần đến Thượng Đế, vì họ tự cho mình có sức mạnh vô song, có khả năng làm mọi sự.  Có một thời, ở Việt Nam, người ta cho rằng niềm tin vào Thượng Đế đã lỗi thời và lạc hậu.  Vì vậy, con người có thể “thay trời làm mưa.”  Người ta cũng thường rêu rao “bàn tay ta làm nên tất cả.”  Đây là lối suy nghĩ ảnh hưởng thuyết vô thần duy vật, coi con người như những “thượng đế” và tự quyết định tương lai, không cần đến thần linh hay Đấng Cao cả nào khác.  Thực tế đã chứng minh cho chúng ta thấy một xã hội loại trừ Thiên Chúa sẽ trở nên bất hạnh.  Hậu quả là bạo lực, dối trá, lường gạt tràn lan mọi lãnh vực của cuộc sống.

Chúng ta vừa vui mừng đón xuân mới Nhâm Dần.  Mùa xuân là thời điểm cây cối đâm chồi nảy lộc.  Mùa xuân cũng tượng trưng cho sức sống, tình yêu và hy vọng.  Ước chi mỗi Kitô tín hữu chúng ta đâm chồi nảy lộc trong đời sống thiêng liêng và trong những nghĩa cử bác ái.

Hạnh phúc hay bất hạnh, được cứu rỗi hay bị trầm luân, được khen thưởng hay bị kết án… tất cả đều do chúng ta chọn lựa.  Trước mặt chúng ta luôn có hai con đường.  Nếu chúng ta chọn lựa con đường thánh thiện, Chúa sẽ luôn đồng hành và chúc phúc cho chúng ta.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim