Đức tin là gì?- Cha Vương
Đọc Hồi ký của Giáo Sư Vũ Quốc Thúc: Nhìn từ khía cạnh đời sống tâm linh. Tác giả: Phùng văn Phụng
Tác giả: Phùng văn Phụng
Đọc xong hai cuốn sa’ch “Thời Đại Của Tôi” “Đời Tôi trải qua các thời biến” do Người Việt xuất bản năm 2010, tôi đã nhìn thấy sự cố gắng phi thường, làm việc không mệt mỏi của Giáo Sư cùng với tấm lòng yêu mến quê hương đất nước thiết tha. Nhưng thời thế đã dẫn đưa con người tài năng hiếm có và có lòng với đất nước ấy phải rời bỏ nước Việt Nam yêu quí ra đi và sống định cư ở Pháp.
Tôi đã học Giáo Sư Vũ Quốc Thúc ở Đại Học Luật Khoa Sài Gòn niên khóa 1963-1964.
Giáo Sư sinh năm 1920 tại Nam Định,Bắc Việt. Tiến sĩ Luật, Thạc sĩ Đại Học Kinh tế ở Pháp. Giám Đốc trường Luật Hà nội (1951-1954). Khoa Trưởng Đại học Luật Khoa Sài gòn (1957-1963). Giáo sư các viện Đại học Đà Lạt, Sài gòn và Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (1954-1975). Giáo Sư Viện Đại Học Paris XII (1978-1988)
Từ năm 1946 đến 1975 từng giữ các chức vụ: Ủy Viên Hành Chánh Kháng Chiến cấp tỉnh, Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục, Thống Đốc Ngân hàng Quốc Gia , Cố Vấn Phủ Tổng Thống, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Kinh Tế Quốc Gia, Quốc Vụ Khanh đặc trách Tái Thiết và Phát Triển…
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Giáo sư cũng như hầu hết trí thức miền Nam đều rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng giống nhau. Thất nghiệp, bị theo dõi, bị làm khó dễ, nơm nớp lo sợ không biết lúc nào bị bắt đi cải tạo (đi tù) nếu còn ở ngoài đời. Đa số người trí thức miền Nam lúc bấy giờ đều sống trong lo âu, hồi hộp vì họ không ít thì nhiều đều có dính líu với chế độ cũ, mà cộng sản gọi là “ngụy quân, ngụy quyền”. Giáo sư Vũ Quốc Thúc không thể thoát khỏi tình trạng đó.
Trong sách trên, Giáo Sư Vũ Quốc Thúc viết: “ Tôi không theo Thiên Chúa Giáo, nhưng cũng không phải là một Phật tử. Tôi theo đúng truyền thống Khổng giáo của gia đình không quy y Phật giáo, mặc dầu chấp nhận Phật giáo; không theo Thiên Chúa Giáo nhưng vẫn tôn trọng Thiên Chúa Giáo… Sau khi bị bắt vì mưu toan vượt biên tôi thấy tương lai của mình u ám vô cùng…
Hằng ngày mặc dầu tôi không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo tôi đã đến nhà thờ Đức Bà… Tôi cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ, xin Đức Mẹ run rủi cho gia đình tôi được thoát khỏi Việt Nam toàn vẹn. ..Hôm chủ nhật đó nếu tôi không lầm là ngày lễ Pentecôte, tôi đã đạp xe lên nhà thờ Bình Triệu. (1)
Tôi ngồi trước tượng Đức Mẹ và tôi lẩm nhẩm cầu nguyện… Khi tôi vừa dứt lời cầu nguyện bỗng thấy tượng Đức Mẹ sáng rực lên. Tôi cần phải nói rằng hôm đó trời ở ngoài cũng âm u vì vào mùa mưa…Khi tôi cầu nguyện xong bỗng thấy tượng Đức Mẹ sáng rực lên từ trên xuống dưới có lẽ khoảng vài giây đồng hồ thôi. Đặc biệt trên gò má tay mặt của bức tượng có một giọt nước mắt long lanh. Sau đó tôi nhìn kỹ thì trên gò má bức tượng không thấy có gì cả. Như vậy, giọt nước mắt mà tôi nhìn thấy chỉ là một ảo ảnh. Từ lúc đó trở đi, suốt buổi chiều tôi thấy trong lòng hồi hộp như mình đang chờ đợi một chuyện gì sắp xảy ra. (2)
Sau đó Giáo Sư mở đài BBC nghe lén, đã nghe thấy ông Raymond Barre một người cùng thi Thạc sĩ năm 1950 được Tổng Thống Pháp là Valéry Giscard d’Estaing cử làm Thủ Tướng và Giáo sư đã thảo bức thơ gởi Thủ Tướng Pháp kể lại hoàn cảnh của mình đang lâm vào sự khốn khó, nhờ đó ông Raymond Barre mới biết và đã can thiệp với Thủ tướng Việt Nam lúc bấy giờ là ông Phạm văn Đồng để giúp đỡ gia đình của Giáo sư sang Pháp.
Giáo sư Vũ quốc Thúc viết tiếp: “ Sự linh ứng của Đức Mẹ Bình Triệu khiến cho tôi tìm được lối thoát tình trạng bế tắc. Bổn phận của tôi rồi đây là phải thi hành đúng lời nguyện của mình trước Đấng Thiêng Liêng”(3)
GS Vũ Quốc Thúc đã gia nhập Giáo Hội Công Giáo (4)
Paris, Hôm 8.4.2012, Lễ Phục Sinh, Giáo xứ Việt Nam Paris đã đón nhận 25 tân tòng nhập đạo, trong đó có Giáo sư Vũ quốc Thúc. Trong bữa tiệc tiếp tân chúc mừng, do Hội Ái Hữu Đại Học Đà Lạt tại Âu Châu, quy tụ các cựu Giáo Sư và Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt, tổ chức sau lễ rửa tội, ông đã nhắc đến ba điều ông đã thấy và đã tin. Đặc biệt: Ông đã thấy ơn Đức Mẹ.
Ông muốn xin được rửa tội công khai và trang trọng theo đủ các nghi thức của Giáo hội, như mọi tân tòng khác, như một biểu lộ và dấu chứng làm chứng nhân, công khai công bố đức tin của mình.
Nhân dịp này trong niềm vui chung của cộng đoàn Giáo Xứ đại gia đình Thụ Nhân trên khắp thế giới và riêng tại Paris, các cựu Giáo sư, sinh viên và gia đình thuộc Viện Đại học Đà lạt đã tổ chức một bửa tiệc chúc mừng lễ rửa tội gia nhập Giáo Hội Công Giáo của Giáo sư Jean Paul Vũ Quốc Thúc, vừa để chúc mừng sinh nhật thứ 92 của Giáo sư. Trong bửa tiệc tiếp tân chúc mừng, Giáo Sư đã nhắc đến ba điều ông đã thấy và đã tin. Đặc biệt ông đã thấy ơn của Đức Mẹ.
Tác giả: Phùng văn Phụng
17-04-2012
(1) trang 540 Sách “Thời Đại Của Tôi” cuốn II
(2) trang 542 Sđd
(3) trang 543 Sđd (người viết in đậm và in nghiêng).
ĐÁNH BẮT – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
“Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá!”.
“Phép lạ không tự nó là cùng đích; chúng là những dấu chỉ hướng đến một phép lạ lớn hơn: những tâm hồn được đổi thay!” – Fulton Sheen.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay nói đến những cuộc ‘đánh bắt’ kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử, những cú ‘đánh bắt’ mang tính cứu độ.
Phaolô nói đến cuộc ‘đánh bắt’ vĩ đại nhất từ tạo thiên lập địa; qua đó, Thiên Chúa biểu lộ lòng thương xót hải hà của Ngài khi “Giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái!” – bài đọc một. Thánh Vịnh đáp ca có chung một tâm tình, “Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ!”. Câu chuyện Tin Mừng xoay quanh Chúa Giêsu và Phêrô – người đã chứng kiến nhạc mẫu mình được một người có tên “Giêsu” chữa lành – cũng là người đã mượn thuyền ông để giảng; giảng xong, bảo ông chống ra xa để thả lưới. Phêrô làm theo và bắt được rất nhiều cá.
Đó là mẻ cá thần kỳ trong đời các ngư phủ miền Galilê, nhưng điều thần kỳ không phải là ‘cá’, nhưng là ‘những người đánh cá’ vốn đã bị ‘đánh bắt!’. Phép lạ không thuộc về vật chất, nhưng hoàn toàn tinh thần! Ông Giêsu này không để Phêrô và các bạn trở nên chán nản sau một đêm hoài công, nhưng giúp họ trở nên tuyệt vời khi làm môn đệ Ngài – rồi đây – sẽ đi khắp tứ phương thiên hạ mà lưới người như lưới cá. “Chúa không làm phép lạ để gây choáng ngợp, nhưng để lôi kéo bạn vào kế hoạch cứu độ của Ngài!” – Von Balthasar.
Vậy điều gì đã dẫn đến cú ‘đánh bắt’ ngoạn mục mang tính cứu độ này? ‘Cứu độ’, vì đó là mục đích của Mầu Nhiệm Nhập Thể. Những con người này đã để Đấng Cứu Độ bước xuống thuyền mình, ngoan nguỳ làm theo những gì Ngài dạy. Cũng thế, Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta đón Ngài vào thuyền đời mình, giữ Ngài ‘đủ lâu’, đi với Ngài ‘đủ xa’, đến những vùng biển ‘đủ mới’. “Chúa Kitô không xin lưới của chúng ta, nhưng xin lòng tín thác: đi sâu hơn, xa hơn, mới hơn với Ngài!” – Fulton Sheen. Đừng để Ngài lừng khừng! Hãy nhớ, Ngài giỏi ‘đi trên nước’; vì thế, hãy ‘cột chân’ Ngài bằng dây yêu mến và tập ‘lắng nghe’ câu chuyện dài ‘Nghìn lẻ một đêm’ Ngài sẽ kể! Và tiếp nối Ngài, tiếp nối các ngư phủ đầu tiên, bạn và tôi ra khơi ‘quăng chài’.
Anh Chị em,
“Họ bắt được rất nhiều cá!”. Phép lạ thật lạ không ở chỗ thuyền đầy cá, nhưng nơi những tâm hồn đã để Chúa Giêsu chiếm lấy. Điều kỳ diệu không phải là ê hề vật chất, mà là biến đổi nội tâm. Chỉ khi để Chúa Giêsu bước xuống thuyền đời mình, con người mới thật sự trải nghiệm cú ‘đánh bắt’ mang tính cứu độ: bóng tối được chiếu sáng, tội lỗi được thứ tha, cái chết được hồi sinh. Đời chúng ta không thiếu những đêm thả lưới mệt nhoài, những sáng về không; nhưng cũng từ những thất bại ấy, đáp lại một lời mời “chèo ra chỗ nước sâu” có thể làm nên tất cả. Chúa Giêsu không muốn chiếm lưới hay con thuyền, Ngài muốn chiếm trọn trái tim. “Thuyền đầy cá rồi sẽ vơi; trái tim đầy Chúa không vơi bao giờ!” – Augustinô.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cá nhiều thì con mừng, nhưng Chúa nhiều thì con sống! Đừng để con chỉ ‘thả lưới’ cho vui, mà quên ‘thả mình’ cho Ngài!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
*****************************************
Lời Chúa Thứ Năm Tuần XXII Thường Niên, Năm Lẻ
Các ông bỏ hết mọi sự mà theo Đức Giê-su.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 5,1-11
1 Khi ấy, Đức Giê-su đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa. 2 Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. 3 Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-môn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông.
4 Giảng xong, Người bảo ông Si-môn : “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá.” 5 Ông Si-môn đáp : “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.” 6 Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. 7 Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.
8 Thấy vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói : “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi !” 9 Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Si-môn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. 10 Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-môn, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn : “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.” 11 Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.
“Ngươi sẽ không có thần lạ trước mắt Ta” nghĩa là gì? – Cha Vương
SỬA SOẠN LÌA ĐỜI – Tác giả: Phùng Văn Phụng
Phùng Văn Phụng
Anh Trần Quang Minh gởi cho tôi bài “Sửa soạn lìa đời” của Hiếu Thuận ghi lại lời nhắn nhủ của Ni sư Tenzin Palmo như sau:
Ni sư Tenzin Palmo
Hướng về anh D, Ni sư Tenzin Palmo nói chậm rải từng tiếng một:
“Ai rồi cũng phải chết cả! Có những đứa bé chết từ thuở sơ sanh. Có kẻ chết trẻ, người chết già vì đủ mọi lý do: tai nạn, bịnh tật, già yếu… Ai cũng biết về cái chết nhưng cứ tưởng là nó đến cho người khác chớ chưa đến lượt mình… mãi cho đến lúc nó thình lình hiện ra trước mắt thì hoảng hốt, lo sợ, bấn loạn vì thiếu sự chuẩn bị. Chết vì bệnh tật là may mắn hơn vì có thời gian sửa soạn cho sự ra đi.
Để sửa soạn lìa bỏ cuộc đời:
1/ Điều trước tiên là buông bỏ mọi giận hờn, oán hận mà từ trước tới nay ta ôm ấp trong lòng. Mở lòng tha thứ hết mọi người. Buông xã hết.
2/ Hãy nói những lời yêu thương và biết ơn ta từng muốn nói mà chưa có dịp hay còn ngần ngại.
3/ Hãy di chúc về tài sản, ước muốn cuả mình. Cần phân minh và công bằng để thân nhân không tranh dành, cãi cọ trong thời gian ta mới lìa đời.
4/ Hướng tâm, nghĩ tưởng về Đức Chuá, Đức Mẹ nếu là tín đồ Công giáo, về Phật A Di Đà nếu là Phật giáo. Nếu không có tôn giáo thì nên hướng về Ánh Sáng.
5/ Thân nhân không nên than khóc và níu kéo: “Đừng đi, đừng bỏ em, đừng bỏ con…” vì sẽ gây quyến luyến, khó khăn thêm cho người sắp ra đi.
Điều nên làm là nhắc nhở kẻ hấp hối nhớ đến những điều thiện lành.
Dù người ấy có vẻ như đang hôn mê, không nói năng được nhưng thân nhân vẫn luôn nhắc nhở, cầu nguyện vì trong thâm sâu, họ vẫn còn biết.
6/ Nếu thân thể bị đau đớn thì cứ dùng thuốc giảm đau. Người tu tập cao có thể chịu đựng vì quán chiếu tánh không của cơn đau. Nhưng với người bình thường thì đau quá làm họ sân hận, bấn loạn. Hơn nữa, thuốc giảm đau không ảnh hưởng đến thần thức sau khi chết.
7/ Một điều cần nhắc nữa là:
“Khi ra đi, người chết thường thấy hình ảnh của ông bà, cha mẹ hay thân quyến quá cố hiện ra, vẫy gọi mình. Đừng đi theo họ mà chỉ hướng đến Chúa, Phật hay Ánh Sáng, là con đường hướng thượng.”
Ghi lại những lời khuyên hữu ích vì cảm niệm công đức của Ni Sư.
Xin chia sẻ cùng tất cả. Thực hành là chuyện của mỗi người.
Hiền Thuận
Tôi cũng đã chuẩn bị cho sư ra đi hơn 10 năm qua, đã viết sẳn bản báo tin khi lìa đời, viết sẳn bài phân ưu cho Nhóm Thân hữu Cần Giuộc và Cần Đước, lời cám ơn ở nhà thờ và lời dặn sau cùng khá đầy đủ cho một đám tang. Tôi cũng đã chuẩn bị cho cuộc ra đi, hy vọng sẽ yên tâm ra đi. Linh hồn tôi sẽ thanh thản ra đi và người ở lại cũng không có bối rối vì lúc đó không biết phải làm gì trước, làm gì sau?
Một linh hồn đã chuẩn bị trước cho sự ra đi cũng tốt hơn là không chuẩn bị.
Tôi rất tâm đắc bài kinh mà mỗi tối chúa nhật và mỗi sáng hằng ngày, giáo dân nhà thờ Ngôi Lời Nhập thể đều đọc như sau:
“Lạy Chúa Con, con xin dâng các lễ Misa, các Thầy cả ở khắp tứ phương thiên hạ làm trong ngày hôm nay. Để Chúa Con thương đến các kẻ có tội đang mong sinh thì bây giờ và sẽ chết trong ngày hôm nay. Chớ gì máu châu báu Đức Chúa Giêsu là đấng chuộc tội làm cho Chúa Con thương đến các kẻ ấy.”
Tôi rất thích lời kinh này để nhắc nhở tôi rằng tôi có thể chết bất cứ lúc nào ngay ngày hôm nay. Cho nên nghĩ đến sự chết thường xuyên để giúp tôi sống như thế nào cho đúng trong từng ngày. Như vậy với sự chuẩn bị đó giúp cho tôi bớt sợ chết.
Ngoài ra mỗi sáng sớm tôi đều đi dự thánh lễ ở nhà thờ Ngôi Lời Nhập Thể để gần với Chúa hơn, tâm sự với Chúa nhiều hơn. Tôi cũng đã nhìn thấy các người già cả, đi phải chống gậy mà vẫn thường xuyên đi lễ nhà thờ đều đặn mỗi sáng.
Chúa Giê-su đã dặn các môn đệ rằng:
“Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy, trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi vì Thầy đi để dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy để Thầy ở đâu thì anh em cũng ở đó.Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi.”
ÔngTô-ma nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?” Đức Giê-su đáp: “ Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14: 1-6)”
*Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống, ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết. (Gioan 11: câu 26)
* Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng chết cho Chúa. Vậy dù sống dù chết chúng ta vẫn thuộc về Chúa (Roma 14: 7-8)
* Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống lại với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết cho tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay sống lại cho Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô Giê-su. (Roma 6: 8-11)
* Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. Nhưng không phải thế! Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai an giấc nghìn thu. (1 Cor 15: câu 19,20)
Tác giả: Phùng Văn Phụng
Tháng 01/2015
Tại sao Chúa Giêsu muốn có những Kitô hữu cam kết sống trọn đời trong bậc tu trì qua các lời khấn độc thân, nghèo khó, vâng phục? – Cha Vương
Thiên Chúa tỏ mình ra trong Cựu ước thế nào?- Cha Vương
Trước khi vào toà xưng tội, tôi phải làm gì?-Cha Vương
QUAN NIỆM CỦA THÁNH AUGUSTINÔ VỀ Ý NGHĨA THỰC SỰ CỦA BÌNH AN – Dr. Donald Demarco
Dr. Donald Demarco
Bình an thay thế sự bồn chồn khi cuộc đời chúng ta hướng về Thiên Chúa. Chúng ta nên sống phù hợp với nhân đức mà thánh Augustinô định nghĩa là “trật tự của tình yêu” ( virtus est ordo amoris )…
Cách đây một thời gian, khi phong trào bình an trong trường đại học đang rất sôi nổi, tôi quyết định thực hiện một cuộc khảo sát giữa các sinh viên của mình để tìm hiểu xem liệu ý tưởng khiến họ say mê đó có phải là điều họ thực sự hiểu rõ hay không. Câu hỏi mà tôi đặt ra trong lớp học rất ngắn gọn: “Bình an là gì?” Một loạt các bàn tay lập tức giơ lên. Các bạn sinh viên tự tin rằng họ đã nắm đầy đủ thông tin về chủ đề này. Thật không may, tất cả các câu trả lời của họ đều được diễn đạt theo lối phủ định: “Bình an là không có chiến tranh; Bình an là tránh xa sự thù địch; Bình an là thoát khỏi sự hỗn loạn, rối ren; Bình an là chấm dứt sự lo lắng…”
Cuối cùng, để làm cho câu hỏi của tôi trở nên thực tế hơn, tôi đã hỏi những sinh viên hiện đang im lặng xem họ có thể làm gì để trải nghiệm được bình an, dù chỉ trong mười phút. Một sự im lặng đáng sợ bao trùm lớp học. Cuối cùng, một sinh viên dũng cảm đã thú nhận một cách khá thất vọng rằng với tất cả các bài tập mà cô ấy phải gánh và tất cả các deadline mà cô ấy phải đáp ứng, việc tìm kiếm sự bình an là điều không thể trong ít nhất vài tuần. Tôi nghĩ cô ấy đã nói thay cho nhiều người, nếu không nói là tất cả, những người bạn cùng lớp của cô ấy. Tôi nghĩ thật đáng buồn khi giáo dục chính quy lại là một sự gián đoạn của bình an. Liệu các bạn sinh viên có bình an sau khi tốt nghiệp không? Chúng ta có thể tìm thấy thời gian cho bình an không? Ngay cả trong giấc ngủ, chúng ta cũng có thể bị quấy rầy bởi những cơn ác mộng. Nếu chúng ta phải đợi cho đến khi không làm gì để tìm thấy bình an, thì không có gì làm nền tảng cho bình an, không có gì bình an có thể đụng chạm để mang lại cho cuộc sống của chúng ta một ý nghĩa cao cả hơn. Sự bình an như thế sẽ chìm vào hư vô. Đây không phải là bình an mà chúng ta hy vọng, mà chỉ là ảo tưởng về bình an.
Thánh Augustinô giải gỡ
Không có bất kỳ thánh Augustinô nào trong lớp của tôi. Nhưng tôi có thể chiêu mộ vị Tiến sĩ khôn ngoan này của Giáo hội vì lợi ích của sinh viên. Đối với vị Giám mục thành Hippo này, bình an là “sự yên tĩnh của trật tự” (Tranquilitas ordinis). Thánh Augustinô đề cập đến trải nghiệm cá nhân về bình an. Con người đã sống một cuộc sống không có trật tự kể từ khi bị tổn thương bởi Tội Nguyên Tổ. Tâm hồn họ trở nên “bồn chồn.” Sự bồn chồn (inquietum) này đã tạo ra niềm khao khát bình an. Nhưng bình an sẽ luôn khó nắm bắt chừng nào nó còn được coi là đối tượng trực tiếp của sự lựa chọn. Chúng ta không thể chọn bình an như cách hái một quả táo từ trên cây. Chúng ta phải chọn “điều gì đó khác” trước khi có đủ điều kiện để trải nghiệm bình an. Theo thánh Augustino, một “điều gì đó khác” chính là trật tự. Nhưng có nhiều loại trật tự khác nhau. Cụ thể trật tự mà vị thánh vĩ đại này nghĩ đến là gì? Đó là trật tự của những hành vi nhân đức dẫn đến Thiên Chúa. Câu nói nổi tiếng nhất của ngài xuất hiện ở phần đầu cuốn Tự thuật: “Tâm hồn con khắc khoải không ngừng cho tới khi được nghỉ yên trong Chúa” (cor nostrum inquietum est donc requiescat in Te).
Bình an thay thế sự bồn chồn khi cuộc đời chúng ta hướng về Thiên Chúa. Chúng ta nên sống phù hợp với nhân đức mà thánh Augustinô định nghĩa là “trật tự của tình yêu” ( virtus est ordo amoris ). Bây giờ chúng ta thấy rõ hai điều: Tại sao chúng ta bồn chồn và khao khát bình an; và giải pháp cho sự bồn chồn của chúng ta. Nếu chúng ta muốn bình an, trước hết chúng ta phải hướng tình yêu của mình đến Thiên Chúa. Khi đó chúng ta sẽ trải nghiệm được sự yên tĩnh của trật tự, đó là sự bình an.
Vậy bình an là gì? Đó là sự tĩnh lặng mà chúng ta cảm nghiệm được khi chúng ta hướng tình yêu của mình, qua nhân đức, tới Thiên Chúa. Tình yêu này, một các tự nhiên, bao gồm cả tình yêu tha nhân. Vì vậy, sự bình an tương thích với mọi hoạt động sống của chúng ta, trong đó có “gánh nặng” bài vở. Chúng ta không nên tìm kiếm bình an nhưng hãy yêu mến Thiên Chúa. Bình an là điều gì đó “xảy ra” với chúng ta khi chúng ta tìm thấy một điều gì đó khác. Nó rất giống với hạnh phúc, như Nathaniel Hawthorne đã nói: “Giống như một con bướm, khi theo đuổi, luôn nằm ngoài tầm nắm bắt của chúng ta, nhưng nếu bạn ngồi yên, nó có thể đậu xuống trên bạn.”
Dr. Donald Demarco
Chuyển ngữ: Kim Linh
– Chuyển ngữ từ: Catholic Exchange
From: Langthangchieutim
MÔNICA BÀ MẸ suốt đời khóc vì chồng vì con
Khi viết về người Mẹ một nhà văn Pháp đã có những lời diễn tả như thế này: “Bà mẹ không phải như một họa sĩ vẽ cái đẹp lên tranh, không như một nhà điêu khắc chạm hình trong đá, không như nhà văn diễn đạt tư tưởng hay bằng những lời chọn lọc, cũng không như một nhạc sĩ ký thác tâm tình đẹp trong tiếng đàn. Phận sự của bà mẹ chính là nhờ ở sức Chúa giúp đỡ, hình thành nên trong linh hồn những người con hình ảnh của Chúa trên trời.”
Có lẽ không có lời nào hay hơn thế để mô tả về một người mẹ, một người mẹ rất nổi tiếng trong Giáo Hội sẽ mừng vào ngày 27/8 hằng năm: Đó là thánh nữ Monica.
Chúng ta chỉ biết Thánh Mônica qua quyển Tự Thuật của người con là Thánh Augustino. Bà sinh khoảng năm 332 ở Tagaste miền bắc Châu Phi, là con trong một gia đình có đạo. Lúc 18 tuổi, bà phải kết hôn với một người ngoại tên là Patricius theo ý của gia đình và sau đó sinh được 3 người con: người con cả là Augustinô.
Bà luôn theo dõi sự phát triển của con với niềm vui lẫn âu lo. Bà đã phải khóc lóc vì thấy nơi người con của bà có những dấu hiệu sai lạc về luân lý và tinh thần. Dầu vậy bà luôn luôn lấy tình thương khuyên nhủ con. Sau một thời gian quá dài nhưng chưa chinh phục được người con của mình, bà đã được một vị Giám mục, nói chính xác là thánh Ambrosiô, đã an ủi bà: “Không lẽ một người con đã làm cho bà rơi biết bao nhiêu nước mắt, lại phải hư mãi sao?”.
Như vậy là chúng ta thấy không những bà đã lo lắng cho chồng để ông được trở lại đạo một năm trước khi ông qua đời, khoảng năm 371. Rồi sau khi chồng mất, bà đã từ Roma theo người con cả Augustino lên tận Milan nơi ông dạy học để ở nơi đây Bà được chứng kiến cảnh con của mình từ bỏ lạc giáo trở về với Chúa, chịu rửa tội vào đêm Vọng Phục Sinh năm 387 dưới sự hướng dẫn và dìu dắt của Giám Mục Ambrôsiô. Sau khi trở lại, Augustinô, em và mẹ đã quyết định trở về Tagaste.
Mùa thu năm 387 cả ba mẹ con từ bỏ Rôma, lên đường về Châu Phi. Chúng ta hãy nghe chính Augustinô thuật lại những giờ sau hết của mẹ mình trên dương thế: “Con không nhớ rõ con đã trả lời làm sao. Nhưng phỏng năm ngày sau, hay hơn một chút, mẹ con ngã bệnh sốt rét. Đang khi nằm bệnh, thì ngày nọ ngài bất tỉnh, không còn nhận ra những người chung quanh. Chúng con chạy tới thì ngài tỉnh lại ngay, nhìn con và em con đang đứng đó; ngài có vẻ tìm kiếm cái gì đó và bảo chúng con : “Mẹ ở đâu thế này?”
Rồi thấy chúng con buồn sầu và lo sợ, ngài nói: “Các con hãy nhớ chôn mẹ ở nơi đây!’ Con thinh lặng và kìm hãm nước mắt. Nhưng em con nói mấy lời tỏ ý ước ao thấy ngài được chết tại quê nhà hơn là ở tha hương.
Nghe thấy vậy, ngài tỏ vẻ không bằng lòng. Ngài quắc mắt nhìn em con, vì nó đã có những tư tưởng như vậy, rồi nhìn con mà nói: “Con xem, nó nói như vậy đó!” Đoạn ngài bảo hai chúng con: “Các con chôn xác này ở đâu cũng được; các con đừng quá lo về việc đó. Mẹ chỉ xin các con một điều, là bất cứ các con ở đâu, các con hãy nhớ đến mẹ trước bàn thờ Chúa”. Sau khi cố gắng nói được điều đó rồi, mẹ con ở lặng và cơn bệnh gia tăng, làm cho ngài càng đau đớn. Vậy, sau khi thụ bệnh được 9 ngày, thì linh hồn thánh thiện và đạo đức đó đã lìa khỏi xác: ngài được 56 tuổi còn con được 33 tuổi” đúng tuổi sống trên đời của Chúa Giêsu.
Augustinô đã chôn cất mẹ tại Ostia.
Sau này khi nhớ về cái chết của Mẹ mình Augustinô đã viết: “Con mất mẹ cách đột ngột, nhưng con cảm thấy an ủi khi dâng cho Chúa nước mắt con khóc mẹ. Con dâng nước mắt ấy cầu nguyện cho mẹ con. Nếu ai đoán xét con, phạm tội vì khóc thương một bà mẹ chết đi và tạm thời mắt con không còn trông thấy được nữa, thì con xin họ nhớ rằng chính bà đã khóc than biết bao năm trường để mắt bà được trông thấy con sống lại với Chúa, xin họ đừng nhạo cười con, nhưng xin họ cũng khóc lóc vì tội lỗi con đã phạm trước mặt Chúa. Chúa là cha của tất cả anh chị em chúng con trong Đức Kitô.
Ngày nay xác bà được dời về thánh đường kính Thánh Augustinô tại Rôma.
Nguồn: Giáo xứ Ba Thôn





