Đến chó nó cũng hổng tin…

Le Tu Ngoc

Đến chó nó cũng hổng tin…

Có ông già nọ đang bị bệnh nan y mà nhà thì rất nghèo nên bà vợ ông lo lắm; tiền đâu thuốc thang cho ông, nếu rủi như ông qua đời thì tiền đâu lo hòm quách, tang lễ cho ông. Một hôm ông nói với vợ điện thằng con đang đi học xa về gấp để ông bàn ít việc trước khi qua đời. Khi thằng con về, ông nói:

– Con đem giấy bút ra; ba nói, con viết cái di chúc cho ba, rồi con đem lên Phường ký; chứ ba qua đời đột ngột thì sẽ khó cho con sau này!

Thằng con nghe vậy, đem giấy ra; ông bảo thằng con viết:

“Khi tôi qua đời, tài sản, nhà cửa, ruộng nương, cây cối, vườn tược và 1000 cây vàng tôi giao hết lại cho đứa con trai độc nhất của tôi…!”.

Khi ông nói đến đây, thằng con hết sức ngạc nhiên nói:

– Ba điên rồi hả ba! Vàng, ba mẹ hiện ko có một phân, ở đâu 1000 cây mà ba nói vậy!

– Mầy điên thì có, mầy khờ thì có! Mầy cứ viết vào; biết đâu sau này mầy làm quan, mầy xây biệt phủ… Họ có kiểm tra thì có cơ sở để nói, chứ mầy nói nuôi gà, nuôi vịt, nấu diệu, làm giày; làm chổi đót thì đến chó nó cũng không tin !!!???

#Gota chia sẻ từ Xuanphung Pham

ảnh minh hoạ từ fb Phan Lê Long

BỮA TIỆC ĐÊM.

BỮA TIỆC ĐÊM.

Chị là Oshin… giúp việc nhà cho một ông chủ ngoại ngũ tuần, rất giàu có.
Đêm xuống, xong việc, chị vội vàng về với đứa con trai nhỏ 5 tuổi suốt ngày ngóng đợi trong căn nhà tồi tàn..
Hôm ấy, chủ nhà có lễ lớn, mời rất nhiều bạn bè quan khách đến dự tiệc đêm. Ông chủ bảo:
-Hôm nay việc nhiều, chị có thể về muộn hơn không?
– Thưa được ạ, có điều đứa con trai nhỏ quá, ở nhà tối một mình lâu sẽ sợ hãi.
Ông chủ ân cần:
– Vậy chị hãy mang cháu đến cùng nhé!

Chị mang theo con trai đến.
Đi đường nói với nó rằng :
-Mẹ sẽ cho con đi dự tiệc đêm.
Thằng bé rất háo hức.
Nó đâu biết là mẹ làm Oshin là như thế nào kia chứ! Vả lại, chị cũng không muốn cho trí tuệ non nớt của nó phải sớm hiểu sự khác biệt giữa người giàu kẻ nghèo. Chị âm thầm mua 2 chiếc xúc xích.

Khách khứa đến mỗi lúc mỗi đông. Ai cũng lịch sự. Ngôi nhà rộng và tráng lệ…
Nhiều người tham quan, đi lại, trò chuyện.
Chị rất bận nên không thường xuyên để mắt được đến đứa con nhếch nhác của mình. Chị sợ hình ảnh nó làm hỏng buổi lễ của mọi người.
Cuối cùng chị cũng tìm ra được cách: đưa nó vào ngồi trong phòng vệ sinh của chủ nhà ,đó có vẻ như là nơi yên tĩnh và không ai dùng tới trong buổi tiệc đêm nay.
Đặt 2 miếng xúc xích vừa mua để vào chiếc đĩa sứ, chị cố lấy giọng vui vẻ nói với con:
– Đây là phòng dành riêng cho con đấy, nào tiệc đêm bắt đầu!
Chị dặn con cứ ngồi yên trong đó đợi khi xong việc chị đón về.
Thằng bé nhìn “căn phòng dành cho nó” thật sạch sẽ thơm tho, đẹp đẽ quá mức mà nó chưa từng được biết.
Nó thích thú vô cùng, ngồi xuống sàn, bắt đầu ăn xúc xích được đặt trên bàn đá có gương, và âm ư hát… tự mừng cho mình.

Tiệc đêm bắt đầu. Người chủ nhà nhớ đến con trai chị, gặp chị đang trong bếp hỏi. Chị trả lời ấp úng:
– Không biết nó đã chạy đi đằng nào…
Ông chủ nhìn chị làm thuê như có vẻ giấu diếm khó nói.
Ông lặng lẽ đi tìm…
Qua phòng vệ sinh thấy tiếng trẻ con hát vọng ra, ông mở cửa, ngây người:
– Cháu nấp ở đây làm gì ? Cháu biết đây là chỗ nào không ?
Thằng bé hồ hởi:
– Đây là phòng ông chủ nhà dành riêng cho cháu dự tiệc đêm, mẹ cháu bảo thế, nhưng cháu muốn có ai cùng với cháu ngồi đây cùng ăn cơ!

Ông chủ nhà thấy sống mũi mình cay xè, cố kìm nước mắt chảy ra, ông đã rõ tất cả, nhẹ nhàng ngồi xuống nói ấm áp:
– Con hãy đợi ta nhé!
Rồi ông quay​ lại bàn tiệc nói với mọi người hãy tự nhiên vui vẻ, còn ông sẽ bận tiếp một người khác đặc biệt của buổi tối hôm nay.
Ông để một chút thức ăn trên cái đĩa to, và mang xuống phòng vệ sinh. Ông gõ cửa phòng lịch sự…
Thằng bé mở cửa…
Ông bước vào:
– Nào chúng ta cùng ăn tiệc trong căn phòng tuyệt vời này nhé!
Thằng bé vui sướng lắm.
Hai người ngồi xuống sàn vừa ăn ngon lành vừa chuyện trò rả rích, lại còn cùng nhau nghêu ngao hát nữa chứ…
Mọi người cũng đã biết.
Liên tục có khách đến ân cần gõ cửa phòng vệ sinh, chào hỏi hai người rất lịch sự và chúc họ ngon miệng, thậm chí nhiều người cùng ngồi xuống sàn hát những bài hát vui của trẻ nhỏ…
Tất cả đều thật chân thành, ấm áp!

Nhiều năm tháng qua đi…
Cậu bé đã rất thành đạt, trở nên giàu có, vươn lên tầng lớp thượng lưu trong xã hội… nhưng không bao giờ quên giúp đỡ những người nghèo khó chăm chỉ.

Một điều quan trọng đã hình thành trong nhân cách của anh: Ông chủ nhà năm xưa đã vô cùng nhân ái và cẩn trọng bảo vệ tình cảm và sự tự tôn của một đứa bé 5 tuổi như thế nào…!!!

From: ngocnga_12 & ThuNNguyen

Lời nói của đứa trẻ nghèo khiến người giàu xấu hổ

Lời nói của đứa trẻ nghèo khiến người giàu xấu hổ

Nhà từ thiện người Mỹ Kenneth Behring đã từng nói: “Đừng bao giờ phán đoán bừa bãi về người khác”…

Vào những năm 1990 của thế kỷ 20, Behring đang đi ngang qua vùng Vịnh San Francisco thì bất ngờ phát hiện chiếc ví của mình bị mất. Người trợ lý lo lắng nói: “Có lẽ nó đã bị mất khi đi bộ qua khu ổ chuột ở Berkeley vào buổi sáng. Vậy phải làm sao bây giờ?”

Behring tỏ ra bất đắc dĩ nói: “Chúng ta chỉ có thể chờ người nhặt được ví liên lạc tới mà thôi”.

Hai giờ sau, người trợ lý thất vọng nói: “Mất rồi, đừng đợi nữa. Chúng ta không nên hy vọng vào những người ở khu ổ chuột”.

“Không, ta vẫn muốn chờ thêm một chút”. Behring bình tĩnh nói.

Nhà từ thiện người Mỹ Kenneth Behring 

Người trợ lý cảm thấy rất khó hiểu, nói: “Trong ví có danh thiếp, người nhặt được nếu như muốn trả lại cho chúng ta thì họ chỉ cần mất vài phút gọi điện thoại. Nhưng chúng ta đã đợi cả buổi chiều, rõ ràng là họ không có ý định trả rồi”. 

Behring vẫn kiên trì chờ đợi. Khi trời sắp tối, chuông điện thoại đột nhiên vang lên. Chính người nhặt ví đã gọi điện và yêu cầu họ đến nhận ví tại một địa điểm trên phố Kata.

Người trợ lý càu nhàu: “Đây lẽ nào là một cái bẫy? Chẳng lẽ họ bắt cóc tống tiền?”

Behring không để ý đến lời nói của người trợ lý, lập tức lái ô tô đến khu phố Kata. Khi đến nơi hẹn, một cậu bé mặc quần áo rách rưới đi tới, trên tay cầm chiếc ví của Behring. Người trợ lý cầm chiếc ví, ông mở ra và đếm đếm, phát hiện thấy trong ví không thiếu một đồng tiền nào. 

“Cháu có một thỉnh cầu”. Cậu bé nghèo nói. “Các ông có thể cho cháu một chút tiền không?” 

Lúc này, người trợ lý cười ha hả: “Ta biết ngay…” Behring vội ngắt lời người trợ lý rồi mỉm cười hỏi cậu bé muốn bao nhiêu tiền.

Cậu bé nghèo không suy nghĩ nhiều liền nói: “Chỉ cần một đô la là đủ”. “Cháu mất rất nhiều thời gian mới tìm được nơi có điện thoại công cộng, nhưng cháu không có tiền, vì vậy cháu phải mượn một đô la của người khác để gọi điện. Giờ cháu cần phải trả lại số tiền này cho người ta”. 

Nhìn vào đôi mắt trong veo của cậu bé, người trợ lý cúi đầu xấu hổ. Behring hào hứng ôm cậu bé.

Ngay lập tức, Behring đã thay đổi kế hoạch từ thiện trước đó của mình. Thay vào đó, ông đầu tư vào việc xây dựng một số trường học ở Berkeley để trẻ em nghèo từ các khu ổ chuột dù không có tiền vẫn được đến trường.

Trong buổi lễ khai giảng, Behring nói: “Đừng phán đoán bừa bãi về người khác. Chúng ta cần cho mỗi người một cơ hội, chào đón một trái tim nhân hậu thuần khiết. Một trái tim như vậy đáng để chúng ta đầu tư”.

San San biên dịch

From: Helen Huong Nguyen

VỢ LỚN – VỢ NHỎ…!

Những Câu Chuyện Thú Vị – Ncctv.net

Đinh Trực    

VỢ LỚN – VỢ NHỎ…!

Cưới nhau được hơn hai tháng thì ông đi tập kết, bỏ lại cho người vợ trẻ 20 tuổi và nhà cửa, ruộng vườn cùng cha, mẹ già yếu nay bệnh mai đau…! Khi ông còn xa miệt mù bên chiến tuyến, thì ở quê nhà song thân của ông lần lượt qua đời…!

Mồ yên mả đẹp cho Ba, Má chồng xong, cô vợ tiếp tục thủ tiết chờ chồng, lo canh tác ruộng vườn, giữ gìn đất cát, thờ cúng, chăm sóc mồ mã tổ tiên bên chồng, bỏ hết những lời ngọt ngào yêu thương của những người đàn ông xa gần vây quanh ngỏ ý…

Sau ngày 30/4/1975, bà càng thấp thỏm mong ngóng ông về. Bộ lư hương trên bàn thờ được bà lau chùi không biết bao nhiêu lần, màu đồng đã lên nước sáng choang, cơ ngơi trên dưới, trong nhà ngoài vườn luôn sạch sẽ, ngăn nắp. Bà sợ ông về mà nhà cửa bộn bề thì bị trách chưa tròn phận vợ hiền…!

Nghe trong xã có ai đi tập kết trở về là bà tới hỏi thăm ngoài đó có gặp ông không, nhưng chỉ nhận lại lắc đầu từ họ…, nhưng họ nói không có giấy báo tử thì cứ yên tâm chờ ông về…

Bà mừng lắm…, tối nằm nhẩm tính năm nay bà 41 tuổi, còn ông 43 không biết có còn đẻ con được hay không, nếu ông trở về thì bà sẽ sinh cho dòng họ chồng một, hai đứa con nói dõi tông đường, có người đốt nhang thờ tự trước bàn thờ…!

Bà cảm thấy nóng ran mặt mũi vì mắc cỡ với ý nghĩ đó nhưng nỗi khát khao được làm vợ, làm mẹ vẫn âm ỉ hơn trong lòng suốt 20 năm qua, chẳng dám nói cùng ai…, nay đang bùng lên dữ dội trong lòng bà…

Sáng bà dậy sớm đón xe lam xuống Bệnh viện, Bác sỹ khám xong, nói bà vẫn còn khả năng làm mẹ, như lượm được vàng, trên đường về bà ghé chợ mua vài món đồ riêng của đàn bà mà lâu nay vì xa chồng bà đã không nhớ tới, về nhà bà tìm chỗ kín đáo để cất, sợ chị em bạn nhìn thấy thì chỉ có nước độn thổ…

Tháng 10 âm lịch trời lập đông, gió bấc thổi ù ù trên đọt cây vú sửa sau vườn…, thì bỗng ông trở về nhưng không phải một mình mà với bà vợ, người một tỉnh miền Trung và hai đứa con, một trai một gái đã gần 20 tuổi…

Chỉ vài ngày sau, khi sự đau đớn, hụt hẫng tận cùng vẫn còn nguyên, chưa kịp hoàn hồn để tính toán được gì cho mình thì bà đã bị mẹ con vợ nhỏ thẳng tay đuổi ra khỏi nhà, ông có can ngăn nhưng rất yếu ớt vì hình như ông đã bị lép vế trong cái gia đình đó từ lâu.

Bà vốn ăn nói nhỏ nhẹ, kính trên nhường dưới nên không phải là đối thủ của bà vợ sau, miệng ào ào tuôn những ngôn từ đanh đá có vần có điệu cướp lời không cho ai nói, cùng sự phụ họa của hai đứa con cũng chanh chua không thua gì mẹ.

Nghĩ tại ông Trời bắt mình bạc phận, vô duyên, bà nước mắt ngắn dài lo thu dọn áo quần dù chưa biết sẽ đi đâu khi Ba, Má ruột cũng đã mất, còn đứa em trai duy nhất thì ở bên vợ xa quê…

Nhưng bà con lối xóm và dòng họ bên chồng thì không chịu thua, họ đồng lòng lên tiếng phản đối, cuối cùng bà cũng được chia ba công ruộng gò, giáp ranh nghĩa địa của xã. Còn lại một mẫu ruộng tốt và mảnh vườn gần hai công có căn nhà thờ trong xóm phải giao lại cho ông và mẹ con vợ nhỏ.

Làng xóm xúm nhau đào đất đắp nền dựng một căn nhà lá ngoài ruộng để bà ở, rồi người này cho cái lu, người kia cho cái chén, đôi đũa…. Mỗi tối vài chị em bạn tới ngủ qua đêm để bà làm quen từ từ với chuyện nhà ở sát bên nghĩa địa.

Người vợ lớn thực tế không chồng, không con từ đó làm lụng sinh sống trên đám ruộng của mình…

Ông chồng không dám, dù chỉ một lần đến căn nhà lá của bà, còn bà thì bị mẹ con vợ nhỏ cấm bước vô căn nhà thờ do bà giữ gìn, chăm sóc hơn 20 năm nên bà dành dụm mua một cái tủ thờ để cúng kiếng Ba Má chồng…!

Thời kinh tế thị trường, mẹ con vợ nhỏ bán sạch ruộng vườn tổ tiên của ông để lấy tiền về “xây dựng kinh tế” ngoài quê, chỉ chừa mỗi căn nhà thờ cho ông ở vì không hiểu sao lần này Ông nhất định không theo vợ nhỏ về tỉnh ngoài Trung đó…?

Càng lớn tuổi ông càng nhiều bệnh nên đi đứng, vệ sinh rất khó khăn nhưng chỉ sống một mình, không vợ, không con, không cả tiền chi tiêu trong căn nhà thờ đã bắt đầu hoang tàn, đổ nát và nồng nặc mùi xú uế do ông thải ra lâu ngày không ai dọn rửa.

Cám cảnh cô đơn của chồng xưa…!

Bà lại sớm sớm chiều chiều chăm lo cho ông. Ngôi nhà thờ nhờ vậy lại được gọn gàng, sạch sẽ, nhang khói ấm cúng chứ không lạnh lẽo như trước…!

Nghĩa địa giải tỏa để xây chợ, Xã lên Phường, lên Quận, mấy đám ruộng gò có vị trí xấu của bà tự nhiên có hai mặt tiền mà mặt tiền, giáp với ngôi chợ mới, dài hơn trăm mét nên có giá hàng ngàn lượng vàng… Biết tin này, Mẹ con vợ nhỏ tức tốc “Nam tiến”, họ kéo nhiều người đồng hương tới chửi bới, la lối hăm dọa buộc bà phải “trả ngay đất của tổ tông cho con của bà…?”.

Chuyện chia đất lúc bà bị đẩy đuổi năm xưa được một người am hiểu giúp làm giấy tờ đúng qui định nên bà đã được cấp giấy đỏ, nhân chứng sống còn nhiều, ông giờ cũng cứng rắn bảo vệ lẽ phải chứ không yếu đuối mặc cho vợ nhỏ muốn làm gì thì làm. Mẹ con vợ nhỏ bị lập Biên bản gây rối trật tự công cộng, đám người lạ mặt bị buộc phải lập tức giải tán nếu không sẽ bị áp dụng biện pháp cưỡng chế, lại thêm bà con mỗi người một câu chê bai, đàn ông trai tráng trong phường biết chuyện kéo tới rần rần, tỏ rõ thái độ sẵn sàng ra tay bảo vệ bà nếu bên kia dám làm liều nên mẹ con vợ nhỏ cùng đám đồng hương đành phải vội vã rời khỏi hiện trường…

Ngày ông về với tổ tiên…, chỉ có bà và ít người bên họ chồng đứng cạnh quan tài, bà vẫn để tang chồng dù chỉ được làm vợ một lần nữa với ông khi chưa đầy 6 tháng…!

Nhưng may mắn thay, bà đã có giọt máu của ông đã chảy trong huyết quản…!

Bà có tìm được số điện thoại rồi nhờ người gọi báo nhưng vợ nhỏ của ông, bà vợ nhỏ không còn sức để đi xa vì đã nhiều năm bệnh tật triền miên, hai đứa con của vợ nhỏ đã đi khỏi xứ từ lâu, không biết làm ăn ra sao mà không thấy về, cũng rất ít khi gọi điện dù chúng biết rõ mẹ đẻ đang sống quạnh quẽ một mình với tuổi già ốm yếu ở quê nhà…!

Ngẫm ra, bà là một người có tình người trong thiên hạ…!

(Đinh Trực sưu tầm)

KHÔNG CÓ TÌNH THƯƠNG NÀO CAO CẢ HƠN TÌNH THƯƠNG CỦA NGƯỜI ĐÃ THÍ MẠNG SỐNG VÌ BẠN HỮU CỦA MÌNH.

Ngỗng Canada

 Ngỗng Canada

(Hien Pham Facebook)

Bài PHẠM HIỀN

Ngày đó mới về nông trại ở, thấy cái gì hay con gì cũng ngắm.

Hãng cho làm ở nhà, giờ giấc không cần thiết phải theo giờ hành chính nhưng phải hoàn tất project đúng kỳ hạn. Mình tranh thủ làm nên có nhiều thời giờ rảnh để ngắm.

Buổi chiều nọ đi lại một gốc bụi cây thì thấy con ngỗng Canada đang nằm trong tổ. Mình lại gần nên nó bay đi. Nhìn vào tổ thấy có ba trứng ngỗng to nên cầm ra ngoài khoe. Sau đó bỏ trứng lại nhưng con ngỗng không bay về tổ nữa. Sau này mình mới biết ngỗng mẹ ngửi mùi tay người là nó bỏ. Buộc mình phải đem trứng bỏ trong lò ấp. Khi nở ra thì chỉ có hai con. Còn một trứng thì bị hư.

Từ đó mình làm mẹ ngỗng Canada. Lúc nào cũng để nó theo mình. Cặp đôi lớn như thổi lúc nào cũng quanh quẩn bên mình. Lớn xác nhưng chưa biết bay dù mình thấy hai đứa nó cũng có thân xác to bằng những con ngoài trời.

Rồi tháng ngày qua đi, con mình nó cũng biết bay. Mỗi lần thấy ngỗng trời bay đậu gần nhà thì mình bò theo để con mình nó ra gặp bà con cùng giống của nó. Biết đâu nó sẽ theo bầy. Mình quan niệm của thiên nhiên trả về thiên nhiên nếu hợp với hoàn cảnh ưa thích của nó. Cặp con mình cũng bay lại làm quen với bầy. Rồi một ngày cặp con của mình nó vỗ cánh theo bầy. Con nó lượn một vòng nhìn mình lần cuối rồi mất dần về hướng Bắc.

Nuôi hơn một năm trời, bắt từng con trùng, hái từng ngọn cỏ đút nó ăn nên tình cảm cũng dính liền với nó. Nhớ và thương nó nhiều.

Rồi tháng ngày bận rộn nên mình cũng quên, thì hai đứa con mình nó bay về. Hơi ngờ ngợ vì nó dẫn thêm năm con khác nữa (con của nó). Lúc đó mình mới biết hai con của mình là đực cái.

Hai đứa nó lại gần và để mình ôm nó vuốt ve nó. Tuyệt nhiên năm đứa con của nó đứng xa xa nhìn. Mình đem bắp cho hai đứa ăn nhưng con nó không ăn từ tay mình, ngay cả lúc mình giục bắp gần tụi nó, nhưng tụi nhỏ không ăn. Nó lòng vòng bay đi và về trong một tuần rồi bay mất.

Hàng năm vào cuối tháng 11 thì hai đứa nó về và dẫn theo một bầy ngỗng mỗi năm mỗi nhiều hơn. Cứ thế hai đứa ở nhà một tuần rồi mất dạng.

Mỗi năm mỗi về và năm thứ 14 thì về chỉ một con, nguyên đàn của nó chỉ bay lạng về ngày đầu rồi bay mất. Lính cảm cho mình biết là một đứa bị chết.

Mình bắt đầu đọc sách về loại ngỗng Canada. Loài này chỉ một vợ, một chồng. Nếu một trong hai con chết thì con kia sẽ không bao giờ tìm bạn tình. Trước khi chết bao giờ nó cũng về nơi nguyên thủy của nó.

Nó ở với mình một năm. Nó bay đi bay về và tối ngủ lại nhà. Rồi bỗng nhiên nó chỉ nằm trong tổ không bay đi đâu, mình đem cỏ tươi và nước nhưng nó không ăn. Được ba ngày như vậy thì mình tính đưa đi bác sĩ thú y. Mình nghĩ nó bệnh…. nhưng tối đó mình lại, nó chúi đầu vào lòng mình. Mình ôm nó thật lâu rồi mới vào nhà. Đêm đó nó qua đời , thọ 15 năm… không ngờ nó nhịn đói, khát để chết.

Buồn mấy tháng trời. Giờ mỗi lần thấy ngỗng Canada là nhớ nó.
Tuổi thọ của ngỗng Canada là 25 năm.
Nhớ con quá!

(Nguồn: Hien Pham Facebook. Tác giả ghi chi tiết trên Facebook là đã về hưu ở Arlington, Texas, từng làm kỹ sư tại hãng Fujitsu Americas, dạy toán ở đại học DeVry University.)

Một câu chuyện về lòng kiên trì 

Một câu chuyện về lòng kiên trì 

Tôi là cựu giáo viên dạy nhạc tại một trường tiểu học ở DeMoines. Tôi luôn kiếm được lợi tức từ công việc dạy đàn dương cầm _ đó là một công việc mà tôi đã làm suốt 30 năm qua. Trong thời gian đó, tôi đã gặp nhiều trẻ em có những khả năng về âm nhạc ở nhiều cấp độ khác nhau. Tôi chưa bao giờ có hứng thú trong việc có học sinh thuộc dạng “cần nâng đỡ” mặc dù tôi đã từng dạy một vài học sinh tài năng. Tuy nhiên tôi cũng dành thì giờ vào những học sinh mà tôi gọi là “trơ nhạc”. Một trong những học sinh đó là Robby.

Robby đã 11 tuổi khi mẹ cậu thả vào lớp trong bài học dương cầm đầu tiên. Tôi thích những học sinh (đặc biệt là những cậu bé) bắt đầu ở lứa tuổi nhỏ hơn, và nói điều đó với Robby. Nhưng Robby nói rằng mẹ cậu luôn luôn mơ ước được nghe cậu chơi dương cầm. Vì vậy tôi đã nhận cậu vào học. Thế là Robby bắt đầu những bài học dương cầm đầu tiên và tôi nghĩ rằng đó là sự cố gắng vô vọng. Robby càng cố gắng, cậu càng thiếu khả năng cảm thụ âm nhạc cần thiết để tiến bộ. Nhưng cậu rất nghiêm túc trong việc ôn lại những bài học và những bản nhạc sơ đẳng mà tôi yêu cầu cất cả các học sinh của mình đều phải học. Sau nhiều tháng ròng rã, cậu miệt mài cố gắng và tôi vẫn cứ lắng nghe và cố động viên cậu. Cứ hết mỗi bài học hàng tuần, cậu luôn nói: “Một ngày nào đó mẹ em sẽ đến đây để nghe em chơi đàn”. Nhưng điều đó dường như vô vọng. Cậu không hề có một năng khiếu bẩm sinh nào. Tôi chỉ thấy mẹ cậu (một phụ nữ không chồng) ở một khoảng cách khá xa khi thả cậu xuống xe và chờ cậu trong một chiếc xe hơi cũ mèm khi đến đón cậu. Bà luôn vẫy tay và mỉm cười nhưng không bao giờ ở lại lâu.

Thế rồi một ngày nọ Robby không đến học nữa, tôi định gọi điện cho cậu nhưng thôi, bởi vì cậu không hề có chút năng khiếu nào, có lẽ cậu đã quyết định theo đuổi một con đường khác. Tôi cũng vui khi cậu không đến nữa. Cậu làm cho sự quảng bá trong việc dạy dỗ của tôi mất ưu thế! Vài tuần sau đó, tôi gởi đến nhà những học sinh của mình các tờ bướm thông báo cho buổi diễn tấu sắp tới. Trước sự ngạc nhiên của tôi, Robby (cũng đã nhận một tờ bướm) hỏi xem cậu có được tham dự biểu diễn hay không. Tôi bảo với cậu, buổi diễn chỉ dành cho học sinh đang học, vì cậu đã thôi học nên cậu sẽ không đủ khả năng thực hiện. Cậu nói rằng mẹ cậu đang ốm và không thể chở cậu đi học nữa, nhưng cậu vẫn luôn luyện tập. “Cô Hondorf… cô cho em diễn một lần thôi…”, cậu nài nỉ. Tôi không hiểu điều gì đã xui khiến tôi cho phép cậu chơi trong buổi trình tấu đó. Có thể là cậu đã tha thiết quá, hoặc là một điều gì đó trong tôi đã bảo mách tôi rằng điều đó là đúng. 

Đêm biểu diễn đã đến. Trong hội trường đông nghịt những phụ huynh, bạn bè và họ hàng. Tôi bố trí cho Robby ở cuối chương trình trước khi tôi xuất hiện để kết thúc và cảm ơn những học sinh đã trình diễn. Tôi nghĩ rằng tất cả những rủi ro mà cậu có thể gây ra cũng là lúc kết thúc và nếu có bề gì thì tôi cũng có thể “chữa cháy” cho sự biểu diễn yếu kém của cậu bằng tiết mục “hạ màn” của tôi. Và buổi biểu diễn trôi qua không một trở ngại nào. Những học sinh đã luyện tập nhuần nhuyễn và trình bày rất tốt. Thế rồi Robby bước ra sân khấu. A? quần cậu nhàu nát và mái tóc như tổ quạ.

“Tại sao cậu lại không ăn vận như những học sinh khác nhỉ? Tôi nghĩ “Tại sao ít ra mẹ cậu lại không chải tóc cho cậu vào cái đêm đặc biệt như thế này chứ?” 

Robby mở nắp đàn lên và bắt đầu. Tôi ngạc nhiên khi thấy cậu tuyên bố rằng cậu chọn bản Concerto số 21 cung Đô trưởng của Mozart. Tôi hoàn toàn bất ngờ khi nghe những gì tiếp theo đó. Những ngón tay của cậu lấp lánh, nhảy múa trên những phím ngà. Cậu đã chơi những giai điệu từ nhẹ nhàng êm dịu đến hùng tráng… thật có hồn và đầy điêu luyện trong sự phối âm tuyệt diệu của nhạc Mozart. Chưa bao giờ tôi nghe một đứa trẻ ở tuổi ấy trình bày nhạc Mozart hay đến thế. Sau 6 phút rưỡi cậu đã kết thúc trong một âm thanh huy hoàng mạnh mẽ và mọi người đều đứng lên vỗ tay. Không nén được lệ tràn trong mắt, tôi chạy lên sân khấu và vòng tay ôm lấy Robby trong hạnh phúc: “Cô chưa bao giờ nghe em chơi hay như thế Robby ạ. Làm sao em có thể làm được điều đó?”. Robby giải thích qua chiếc micro “Thưa cô Hondorf… cô có nhớ là em đã kể rằng mẹ em đang ốm? Thực ra, mẹ em đã bị ung thư và qua đời sáng nay. Mẹ em bị điếc bẩm sinh vì vậy đêm nay là đêm đầu tiên mẹ em nghe thấy em đàn. Em muốn làm điều gì đó thật là đặc biệt”.

Tối hôm ấy, trong hội trường không đôi mắt nào không nhỏ lệ. Khi những người ở Trại Xã Hội đưa cậu từ sân khấu trở về trại mồ côi tôi nhận thấy mắt họ đỏ và sưng mọng. Tôi chợt nghĩ, đời tôi nhiều ý nghĩa biết bao khi đã từng nhận một học sinh như Robby. Không, tôi chưa bao giờ nhận một học sinh nào “cần nâng đỡ”, nhưng đêm đó tôi trở thành người được nâng đỡ bởi Robby. Cậu là thầy của tôi và tôi chỉ là một học trò. Bởi vì cậu đã dạy cho tôi ý nghĩa của sự kiên trì, của tình yêu và niềm tin trong chính con người của chúng ta và điều đó có thể tạo ra cho người khác một cơ hội mà chúng ta không biết vì sao. Điều này càng đặc biệt ý nghĩa hơn khi sau này tôi biết Robby bị chết trong vụ nổ bom điên rồ tại tòa nhà Alfred P. Murrah Federal ở thành phố Oklahoma vào tháng 4 năm 1995 nơi cậu đang biểu diễn.

( Từ Reader’s Digest)

From: Tu-Phung

Tôi cay đắng vì không thể tha thứ cho mình

Le Tu Ngoc

Dưới đây là tâm sự của 1 vị giáo sư già kể về mối tình ngoài luồng của mình lúc còn trẻ, đăng trên trang Chuyện Khó tin nhưng có thật

Tôi cay đắng vì không thể tha thứ cho mình

Phải giấu đi một sự thật điều đó đã là quá sức đối với con người. Mang mặc cảm tội lỗi mà mình dù đã tìm mọi cách để tha thứ cho mình rồi mà không thể được, điều đó còn kinh khủng hơn. Thực sự tôi vô cùng cay đắng vì tôi không thể tha thứ cho mình…

Điều cay đắng nhất của tôi là không thể tha thứ cho chính bản thân mình.

Mặc dù chuyện của tôi rất ít ai biết, nếu không nói rằng chỉ tôi mới biết tội lỗi của tôi. Nếu ai đó cho rằng, thời gian có thể tha thứ cho tất cả, sự sám hối bản thân có thể gột rửa đi tất cả, than ôi đó chỉ là sự ngụy biện, sự lừa dối chính mình thêm một lần nữa.

Tôi đã giấu mình trong bóng tối quá lâu, và tôi bất lực, tôi cay đắng nhận ra rằng không có cách gì cứu chữa lành được vết thương trong tâm hồn tôi.

Tôi năm nay đã ngoài 60, là một vị giáo sư khả kính, sống ở một thành phố lớn.

Cách đây vài chục năm, xảy ra một chuyện hết sức đau khổ.

Tôi công tác ở một viện nghiên cứu, tôi đã có vợ và con ở quê. Tôi phải lòng một nhân viên cấp dưới của tôi ở viện. Phải nói một cách trung thực là cô gái đó rất mê tôi, tôn thờ tôi như một thần tượng. Chính cô đã chủ động bày tỏ tình cảm với tôi và dâng hiến cuộc đời trong trắng của cô ấy cho tôi mà không một đòi hỏi.

Đó là một mối tình đau khổ và ngang trái, vì thật lòng trước tình yêu si mê và cuồng nhiệt của một thiếu nữ trong trắng và ngây thơ, tôi không thể không đắm mình ngây ngất, nhưng tôi luôn cảm thấy đau khổ vì tôi không còn cơ hội để tiến tới hôn nhân với cô ấy được.

Cô gái ấy là một người rất thông minh, lòng tự trọng cao. Biết tôi dằn vặt và đau khổ vì yêu, cô luôn an ủi động viên tôi rằng cô ấy chỉ yêu tôi chứ không có ý định cưới tôi, không có ý định lấy tôi làm chồng.

Tôi và cô gái yêu nhau lén lút được 5 tháng thì tôi có giấy mời đi học nghiên cứu sinh ở Liên Xô. Tôi thở phào vì có lẽ cuộc chia tay khá dài trong năm tới có thể sẽ giúp cả tôi và cô gái chấm dứt được mối tình tội lỗi không có đoạn kết.

Nhưng nghĩ đến chuyện phải xa người mình yêu, lòng tôi đứt đoạn.

Tôi đã đi âm thầm một mình trong đêm trên những con phố vắng, nước mắt chảy đầm đìa vì bất lực, vì tất cả dường như đắm chìm trong ngõ cụt. Đúng vào lúc tôi đang làm thủ tục để đi học thì cả cơ quan choáng váng vì phát hiện ra người yêu tôi đã lùm lùm một cái bụng chửa.

Không chồng mà chửa ở thời bao cấp năm xưa thì khủng khiếp đến chừng nào. Dư luận rủa nguyền, đồng nghiệp khinh bỉ, xóm giềng miệt thị.

Đau đớn cho tôi là lúc đấy tôi vừa được quy hoạch từ trưởng ban lên viện phó (mới quy hoạch chứ chưa bổ nhiệm) tương lai đang vô cùng sáng sủa, con đường thăng tiến đang rộng mở ở phía trước, lại là ủy viên ban chấp hành Đảng ủy cơ quan và vì vụ việc xảy ra trong ban của tôi nên tôi phải trực tiếp đứng ra xử lý kỷ luật cô gái nhân viên cấp dưới của tôi vì cô ta phạm tội sinh hoạt không lành mạnh, xấu xa dẫn đến chửa hoang.

Khốn thay, trong quá trình yêu đương, tôi không hề phát hiện ra cô ấy có thai. Cô ấy cũng không hề nói gì, không đả động tới việc có thai với tôi. Cô ấy không bao giờ biểu hiện sẽ làm một cái gì đó để bó buộc tôi với cô ấy.

Tóm lại là tôi hết sức bất ngờ, choáng váng và bản thân cũng không hiểu tại sao lại xảy ra như vậy. Việc có thai là do Hội Phụ nữ cơ quan phát hiện ra và làm đơn tố cáo gửi lên Đảng ủy cơ quan và Viện trưởng.

Chao ôi, khó có thể mô tả được tâm trạng của tôi lúc đó. Hoang mang cực độ, sợ hãi đến cực độ, lo lắng đến cực độ. Ngay sau khi cả cơ quan phát giác chuyện cô ấy có mang, tối hôm đó, một cuộc họp cơ quan bất thường xảy ra.

Tôi như người mất hồn với bản án tử hình lơ lửng trước mặt. Thú nhận hay không thú nhận, nếu thú nhận tôi có tình yêu nhưng mất hết tất cả, đạo đức, danh vọng và sự nghiệp. Không thú nhận, tôi thành kẻ đê hèn trong mắt người tôi yêu.

Thực ra mọi chuyện diễn biến quá nhanh, tôi không còn đủ thời gian, sức lực và sự tỉnh táo để mà suy nghĩ.

Cuộc họp hôm đó, dưới sự chủ trì của Viện trưởng, Hoa, cô gái tôi yêu sẽ phải khai nhận tác giả của cái bào thai trong bụng cô và chấp nhận án kỷ luật của cơ quan, bị khai trừ khỏi Đảng và nguy cơ bị đuổi việc là chắc chắn, ngoại trừ người yêu của cô đứng ra nhận và xin cưới cô.

Cuộc họp diễn ra trong căng thẳng tột cùng.

Hoa tuyệt đối tránh mặt tôi. Không nhìn tôi dù chỉ một ánh mắt. Tôi nhớ năm đó là mùa đông, giữa tiết đông hàn mà mồ hôi tôi vã ra như tắm. Mặc cho ông Viện trưởng và bà Hội trưởng Hội Phụ nữ cơ quan kiên quyết tra khảo, Hoa vẫn một mực cúi đầu im lặng.

Sau hơn một tiếng nghe lời thóa mạ và chỉ trích về mặt đạo đức của bà Hội trưởng Hội Phụ nữ cơ quan và của Viện trưởng, đến cuối cuộc họp, bất ngờ Hoàng, một nhân viên cấp dưới của tôi lúc này mới vụt đứng lên nói: “Tôi xin nhận hết mọi tội lỗi. Cái thai trong bụng cô ấy là của tôi. Tôi xin phép được cưới cô ấy làm vợ”.

Cả căn phòng lặng đi. Tất cả ai có mặt lúc đấy đều quay lại đổ dồn ánh mắt vào Hoàng. Hoàng đứng đầu hơi cúi, gương mặt tái đi vì căng thẳng.

Chuyện là thế. Sau cuộc họp khủng khiếp ấy, tôi khăn gói sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh đúng như lịch trình. Thực lòng, tôi rất sợ hãi khi phải đối diện với Hoa, với Hoàng, đều là nhân viên cấp dưới của tôi.

Trước khi bay, tôi có tranh thủ gặp Hoa để xin lỗi cô ấy và mong cô ấy tha thứ.

Thật bất ngờ, Hoa đã bình thản thú nhận với tôi một tin sét đánh: “Anh hãy yên tâm đi học và phấn đấu cho sự nghiệp. Em không dám nói cho anh biết. Đứa con trong bụng chính là con của Hoàng. Em không thể làm gì được, em không biết nói với anh thế nào để anh hiểu, em không có lý do gì để cho anh biết sự thật này. Chính em mới là người có lỗi với anh. Chính em mới là người mong được anh tha thứ”.

Năm đó là một mùa đông buồn thê lương nhưng trong lòng tôi hết sức nhẹ nhõm. Tôi đau đớn và buồn đến tê người, nhưng đó là một nỗi buồn thanh khiết, nó làm cho tôi thanh thản hơn. Tôi đã bay sang Nga và bỏ lại phía sau những dông gió cuộc đời.

Thời gian tôi học tập ở Liên Xô tất cả tổng cộng gần chục năm. Tôi đón vợ và các con sang Liên Xô để gia đình được gần gũi bên nhau. Thú thực tôi đã hoàn toàn quên được Hoa và mối tình ngang trái ấy.

Thế nhưng, 10 năm sau, khi về nước, tôi đã xin chuyển công tác sang một viện khác để tránh những ký ức đau buồn. Tôi không hề biết rằng cả Hoa và Hoàng đều không công tác ở viện cũ nữa. Oái oăm thay, khi trở về nước, những ký ức về mối tình và cuộc họp kỷ luật người tôi yêu lại hiện lên rõ mồn một.

Trong thi thoảng những lần trở về của ký ức đau nhói, tôi đã thoáng nghĩ Hoa và Hoàng nói dối tôi. Tôi đã nghĩ cái thai trong bụng Hoa là của tôi chứ không thể là của ai khác. Và thế là tôi đã bí mật đi tìm kiếm Hoa.

Sau một thời gian kiếm tìm, cuối cùng tôi cũng gặp được Hoa. Gia đình Hoa bây giờ sinh sống ở Sài Gòn. Chồng của Hoa là Hoàng. Sau khi bỏ việc ở viện, Hoa và Hoàng dắt díu nhau vào Sài Gòn lập nghiệp và khá thành công trong kinh doanh.

Gặp lại Hoa sau 20 năm xa cách, Hoa không thay đổi là bao, vẫn đôi mắt ấy, nụ cười ấy, chỉ có điều là tất cả trở nên đằm thắm hơn xưa. Từ xa tôi đã nhận ra Hoa, còn cô ấy có vẻ như không nhận ra tôi là ai.

Sau khi tôi giới thiệu và khơi gợi lại những kỷ niệm, Hoa mới vỗ trán ồ lên ra chiều kinh ngạc vì nhớ ra chuyện cũ. Tối hôm đó, vợ chồng Hoa mời tôi đi ăn tối cùng với gia đình cô trên danh nghĩa tôi là sếp cũ của hai người.

Một bữa tối lòng tôi quặn thắt khi xuất hiện bên cạnh vợ chồng Hoa là hai cậu con trai và một cô con gái nhỏ. Cậu cả, đứa con mà tôi khắc khoải nhớ, khắc khoải nghi ngờ giờ đã tròn 20, đang là sinh viên năm thứ 3 của một trường đại học.

Cậu mang một vóc dáng khác, một gương mặt khác biệt hoàn toàn so với bố và hai em, nếu không nói rằng đó là nguyên bản thời trẻ của tôi. Suốt cả bữa cơm, tôi như người không hồn vía. Hoa lặng lẽ cười nói bên Hoàng, còn Hoàng thì tự hào kể cho tôi nghe về cậu con trai cả, về những thành tích học tập của con.

Hoàng còn vỗ vai con và nhắc lại chuyện cũ một cách âu yếm: “Con biết không, ngày trước bố mẹ yêu nhau, lỡ ăn cơm trước kẻng, mẹ con có con nhưng bố mẹ chưa kịp cưới nhau. Cả cơ quan bố và mẹ họp lại để kỷ luật mẹ. Có bác đây chứng kiến. Suýt nữa bố không nhanh mồm thú tội là cả hai bố mẹ đi đứt đấy”.

Hoa âu yếm ngả đầu lên vai chồng cười. Tôi nghe những lời Hoàng nói mà chết lặng, trong lòng tê tái.

Vợ chồng Hoàng và các con của họ tiễn tôi về Bắc trong quyến luyến. Đứng trên máy bay, đôi mắt tôi nhòa lệ. Còn Hoa, cô ấy mỉm cười rất tươi và thanh thản bên chồng.

Khó có thể nói hết tâm trạng của tôi ngày ấy. Tôi đã vô cùng xấu hổ với lương tâm, xấu hổ với Hoa, Hoàng và tất cả mọi người.

Có lẽ không một ai biết tôi và Hoa từng yêu nhau ngoài tôi và cô ấy. Không ai biết để mà phán xét tôi, mà khinh bỉ tôi. Thế nhưng kể từ ngày đó, tôi cảm thấy danh vị giáo sư mà tôi khoác lên mình đêm ngày trở thành một tấm áo giáp nặng trĩu.

Tất cả những sự tôn kính của đồng nghiệp, bạn bè, con cháu gia tộc đối với tôi trở thành một gánh nặng đáng sợ.

Phải giấu đi một sự thật điều đó đã là quá sức đối với con người. Mang mặc cảm tội lỗi mà mình dù đã tìm mọi cách để tha thứ cho mình rồi mà không thể được, điều đó còn kinh khủng hơn. Thực sự tôi vô cùng cay đắng vì tôi không thể tha thứ cho mình.

***

Ps: anh chị có điều gì u uất mà muốn giãi bày cho nhẹ lòng, gửi cho em, em đăng lên fb; em hứa giữ bí mật danh tính, sống để bụng chết mang đi …

Thiên Đường Cũng Lầm Lỗi

Van Pham

NƠI NÀO CHÚNG TA CẢM THẤY YÊU THÍCH VÀ HẠNH PHÚC VỚI NÓ THÌ ĐÓ LÀ THIÊN ĐÀNG MÀ CHÚNG TA ĐANG TÌM KIẾM….

CHUYỆN PHIẾM ThaiNC…

***

Thiên Đường Cũng Lầm Lỗi

Josh Smith. là một sinh viên đẹp trai, cầu thủ chơi Baseball cho một trường đại học nổi tiếng tại California, tương lai sáng ngời, bỗng nhiên một hôm ra đường bị tai nạn xe hơi đụng chết…

Khi hồn Josh Smith lên tới thiên đường mới biết có sự lầm lẫn. Thiên đường làm lỗi lộn tên anh với một Josh Smith khác, nhưng đã trễ, không thể trở lại trần gian vì thân xác của Josh đã được hiến tặng mọi bộ phận cho y khoa Hoa Kỳ nên tất cả đã không còn gì.

Josh giận quá đòi kiện lên Thượng Đế. May sao Thánh Phê-Rô đã tìm được phương pháp đền bù cho anh.

Thánh Phê-Rô tìm ra một người Josh Smith khác 35 tuổi, thô lỗ, say sưa, đáng lẽ phải chết do say rượu đi bộ hôm nay sẽ bị đụng xe nên sắp đặt cho anh sống lại vói thể xác của Josh Smith này. Không còn đường nào khác hơn anh đồng ý chịu.

Khi Josh tỉnh lại và hỡi ơi với cái thân xác xấu xí, ù lì, và đặc biệt là một ngưòi Mỹ da mầu, hoàn toàn khác với anh. Thiên đường cho anh một đặc ân là vẫn còn nhớ một số quá khứ kiếp trước, để anh đủ nhận thức nàng Sue và thằng con Michael, là vợ và con của người tên Josh Smith kia đã chết. Anh chỉ mượn thân xác của ông ta để tạm thời sống lại mà thôi. Họ không phải là vợ và con của mình.

Nhưng dù anh nói cách nào đi nữa vẫn không ai tin. Mọi người cho rằng sau tai nạn đầu óc anh có vấn đê phải đưa đi bác sĩ tâm thần, và dĩ nhiên là không có kết quả gì.

Dù muốn hay không Josh Smith cũng phải ở lại đây với ngôi nhà của Josh Smith kia, với nàng Sue luôn luôn hiền dịu, chiều chuộng chồng, và với thằng con tên Michael 12 tuổi sợ bố nó như sợ cọp.

Thời gian mấy tháng nữa trôi qua, Josh Smith sống trong sự thưong yêu của Sue. Anh cảm động khám phá ra rằng người đàn ông trước mang hình hài của anh đang mang vốn là một thằng hay say sưa, vô tài, không nghề ngỗng gì chắc chắn, và chỉ sống chủ yếu vào đồng lương cần cù của vợ là nàng Sue. Nhưng nàng Sue thì vẫn luôn một mực thương yêu chồng và con vô cùng.

Một hôm anh ở nhà thấy thằng con Michael đang treo một cái bánh xe cũ ngoài sân và chăm chỉ đứng từ xa cố liệng trái banh vào lỗ hổng ở giữa cái bánh. Té ra thằng con Michael đang tập luyện để thành một pitcher cho đội Baseball của trường nó. Josh Smith bỗng thấy cánh tay mình rung động. Tâm thức của một Josh Smith của kiếp trước, tay ném pitcher số một của đội Baseball trường UCLA bỗng nhiên cuồn cuồn trở về trên cánh tay. Anh lấy trái banh từ thằng Michael, và chỉ một cái vung tay là trái banh đi vào tâm điểm cái bánh xe trước cặp mắt kinh ngạc của thằng bé.

Để chứng minh không phải là may mắn, Josh Smith lần lượt đứng thật xa, dưới bất kỳ góc độ nào trái banh cũng dễ dàng trúng tâm điểm …Lần lượt những đường banh nổi tiếng của Josh Smith ngày nào, nào là “fast ball” “curved ball” “Breakng ball”, “Change up”…tất cả những đường banh tuyệt kỷ đó lần lượt trở về thể hiện trong những cú ném thần sầu của anh trước cặp mắt tròn xoe không thể nào tin nỗi đây là sự thật của thằng bé Michael.

Josh Smith reo lên sung sướng. Thiên đường đã vô tình hay cố ý để lại một tài nghệ, khả năng chơi bóng tuyệt vời ngày trước của anh lại cho anh không suy suyển mảy may.

Một tháng sau, anh ra sức huấn luyện, truyền dạy cho thằng con Michael những đường ném bóng tuyệt vời của anh. Tài nghệ chơi baseball của thằng Michael tiến bộ cực kỳ đến nỗi nhà trường chú ý, dọ hỏi và biết bố nó là Josh Smith đã dạy nó làm cả trường ngạc nhiên.

Tuy vậy, sự thật vẫn là sự thật. Nhà trường của Michael mời Josh Smith về làm huấn luyện viên cho đội baseball của trường chuẩn bị tham dự giải vô địch hằng năm của các trường trung học.

Từ ngày tìm lại được khả năng chơi baseball của mình, Josh Smith đã có được niềm vui trở lại. Anh cảm thấy cuộc sống hiện tại của mình thật ra cũng…not bad. Một mặt anh mang hết tài nghệ ra sức truyền dạy cho thằng đệ tử ruột là Michael Smith trở thành một picher có triển vọng và tương lai, mặt kia ra sức huấn luyện cho đội baseball trường Michael chuẩn bị cho giải State Championship.

Sáu tháng trôi qua. Josh Smith ngoài những lúc chơi Baseball, anh dần dần sống hài hòa trong thân xác của Josh Smith kia. Anh là một người chồng, người cha gương mẫu, không hề say sưa thô lỗ đánh đập vợ con như Josh Smith kia đã từng làm, lại có công ăn việc làm vững vàng và được dân cư thành phố kính trọng.

Có hai người hạnh phúc sung sướng nhất trên đời là nàng Sue và thằng Michael. Họ hoàn toàn không biết gì về chuyện cải xác hoàn hồn của hai người đàn ông cùng mang tên Josh Smith này. Họ chỉ tin rằng Thượng Đế đã nghe thấy những lời cầu nguyện của họ và đã cho chồng và cha của hai người thay đổi hoàn toàn.

******

Đội bóng trường Michael Smith vào chung kết giải State Championship tiểu bang Alabama.

Michale Smith ném trái banh cuối cùng kết thúc trận đấu. Thắng hay thua quyết định ở đường banh này. Đường “Breaking Ball” tuyệt kỷ của Josh Smith truyền dạy cho Michael loại được đấu thủ bên kia mang về chiến thắng đầy vẻ vang cho Winslow Middle High School ngôi vị State Championship đầu tiên của trường.

Sau khi trọng tài vung tay ra hiệu là Michael Smith chiến thắng, khán giả ùa ra sân, và không ai nhanh bằng chính ông huấn luyện viên Josh Smith cùng bà vợ là nàng Sue. Hai người cùng ôm choàng lấy Michael mừng rỡ. Thằng Michael bật khóc. Sue bật khóc. Và lạ thay, Josh Smith cũng bật khóc.

Giữa lúc đó Thánh Phê-Rô từ Thiên Đường hiện ra. Thánh cho Josh hay đã đúng thời hạn một năm giao ước giữa hai người. Ông đã tìm ra một hình hài khác đúng y như Josh Smith ngày trước để anh có thể hoàn toàn phục sinh vĩnh viễn trong thể xác đó, không cần phải sống tạm bợ trong thân xác xấu xí hiện thời của anh. Anh cần phải …ra đi!

Nhưng Josh đã nói với thánh Phê Rô, anh đang thoả mãn với hoàn cảnh hiện tại, hạnh phúc với tình yêu chân thành của Sue cùng thằng bé Michael, và cảm thấy không cần phải thay đổi gì khác hơn. Anh không còn luyến tiếc kiếp sống trước nữa, đồng ý hủy bỏ lời giao ước với thánh Phê-Rô và tình nguyện ở lại trong thể xác này vĩnh viễn.

Thánh Phê Rô chấp thuận, chúc lành cho gia đình Smiths, và từ giã.

Josh và Sue hôn nhau thắm thiết như chưa bao giờ họ được hôn nhau đắm say như vậy.

May be an image of one or more people, people playing sports and text

Một Người Quen – Đỗ Duy Ngọc

Kimtrong Lam  Lương Văn Can 75.

Một Người Quen –

Đỗ Duy Ngọc

Tui biết anh ta khi tham gia vào chiến dịch X1, chiến dịch đánh tư sản đầu tiên của chính quyền Cộng Sản tại miền Nam sau 1975. Tui hồi đó thất nghiệp dài cồ, chẳng làm chi ra tiền, đói nhăn răng, cơm chẳng có mà ăn, bán hết áo quần, giày dép rồi tới sách báo, đến lúc chẳng còn gì để bán, nên khi được gợi ý tham gia có cơm ăn là ghi tên ngay.

Bọn tui bị tập trung vào tối 9.9.1975, xe đưa đến trường Pétrus Ký. Ngồi chờ dài cổ mà không biết tập trung để làm gì? Đến nửa đêm thì được chia thành từng nhóm nhỏ, có xe chở đi.

Nhóm của tui có tui với Lượng là gốc sinh viên Đại học Vạn Hạnh, bổ sung thêm một tên ở Đại Học Khoa Học tên Trung, thêm hai người nữa đến giờ chẳng nhớ tên. Tổ trưởng của toán là anh ta, một sĩ quan quân đội Bắc Việt. Anh ta nói tiếng Bắc giọng nhà quê, tụi tui nghe tiếng được tiếng mất. Lại thêm có nhiều từ nghe hơi lạ tai như khắc phục, tranh thủ, phấn đấu…nên nhiều khi tụi tui đoán ra yêu cầu của anh ta mà thực hiện.

Tổ của tụi tui đóng quân ở trên lầu của một khách sạn của người Hoa ở đường Đồng Khánh, nhiệm vụ giữ một điện đài liên lạc, nhưng cũng ít khi thấy có ai gọi hoặc nhắn nhủ chi.

Công việc chẳng có gì, chỉ quanh quẩn trong phòng, rồi chia nhau đi lang thang mấy căn phố đìu hiu, những hàng quán chắc hẳn ngày xưa rất nhộn nhịp. Anh bộ đội chỉ huy của tụi tui thấy cái gì cũng lạ, nhìn cái gì cũng thắc mắc.

Nhiều hôm anh đứng ở balcon, mắt cứ ngước nhìn những toà nhà cao tầng và bảo với tụi tui, sao họ có thể xây được những cái nhà cao và to thế. Có lần tui đi ra phố Lê Lợi, mua về mấy ổ bánh mì thịt với paté, mời anh ta ăn, anh ăn mà miệng cứ xuýt xoa họ làm bằng thứ gì sao nó ngon quá vậy!

Thật ra bánh mì lúc đó chẳng còn ngon như bánh hồi trước 75 vì thực phẩm đã bắt đầu khan hiếm rồi, dù bộ đội mới chiếm Sài Gòn hơn bốn tháng. Nói tóm lại là anh ta hoàn toàn xa lạ với những sản phẩm và cuộc sống văn minh của Sài Gòn.

Anh bảo từ bé đến ngày đi bộ đội vào Nam, anh chỉ ở quê, mò cua bắt ốc, nhiều khi không đủ gạo mà ăn, độn khoai sắn, có lúc độn rau, sống rất thiếu thốn. Thịt bò, thịt heo là những món ăn mơ ước chỉ có ngày Tết hay ngày kỵ giỗ mới có một miếng trơn mồm.

Anh chỉ mong đủ lớn để được vào bộ đội, có cơm ăn. Chiều chiều anh hay rủ tui đi ngắm hàng hóa, anh nhìn những món hàng với ánh mắt khát khao, thèm thuồng. Anh nói với tui là anh mê nhất đồng hồ không người lái có hai cừa sổ và cái đài có band hát nhạc.

Anh thổ lộ là muốn mua quà gởi về cho bố mẹ và các em ngoài ấy mà chẳng có tiền. Anh ta thật thà, không có bệnh nổ như những anh bộ đội miền Bắc khác, nên tụi tui cũng có chút cảm tình. Tình cảm này xuất phát từ lòng thương hại nhiều hơn, dù anh đang là kẻ chiến thắng và đang là người chỉ huy tụi tui.

Một hôm phòng chúng tôi xuất hiện một tù nhân. Ông ta người Hoa, dáng to lớn, bị trói thúc ké vào một chiếc ghế. Nghe thoang thoáng ông ta là một tay tư sản giàu lắm ở Chợ Lớn, khai báo tài sản chưa đầy đủ nên bị bắt tạm giam để điều tra tiếp.

Thế là tụi tui trở thành những tên lính canh, thay phiên nhau canh gác với khẩu súng carbine của nhân dân tự vệ. Đêm đó, tui được phân công gác từ 12 giờ đêm đến 2 giờ sáng, tui ngồi canh mà mắt cứ díu lại, chập chờn.

Bỗng có tiếng gọi khẽ: Nị à, nị à…. Tui choàng ngay dậy, ông Tàu gật gật đầu, có vẻ muốn nói gì với tui. Tui ngần ngừ đi lại, ông ta nói nhỏ: “Nị cởi trói cho ngộ, rồi mở cửa sổ. Ngộ thoát được sẽ gởi cho nị 5 lượng vàng, bảo đảm sẽ có người đưa tận tay nị.”

Thấy tui có vẻ không tin, ông ta nói tiếp, giọng cầu khẩn: “Tin ngộ đi, ở Chợ Lớn này ai cũng biết tên ngộ, ngộ không nói láo đâu, mở trói cho ngộ, ngày mai sẽ có người mang vàng trao tận tay nị”

Thời điểm đó, đối với tui, vàng chẳng có giá trị gì, mà thật ra tui cũng chẳng biết trị giá của nó thì đúng hơn. Hơn nữa, tui vốn nhát gan, nên sợ nếu tên này trốn, chắc tui phải lãnh đủ.

Nghe nói mấy ông cộng sản này kỉ luật nghiêm lắm, nên tui càng sợ. Tui lắc đầu, đưa tay ngang cổ, ra dấu cắt đầu, sợ lắm. Ông nhìn tui, thất vọng…

Người gác kế tui là anh ta, anh sĩ quan Việt cộng. Tui về giường nằm mà cứ nghĩ về ông Tàu, tự hỏi từ lầu ba này mà ông ta nhảy xuống thì không chết cũng què, sao ông ta tính chuyện gan trời vậy. Lan man nghĩ thế thôi, tui đi vào giấc ngủ lúc nào chẳng biết.

Đang say ngủ thì bỗng tui nghe một tiếng rầm như vật gì bị rớt, hốt hoảng choàng dậy, tui thấy cửa sổ mở toang, ông Tàu biến đâu mất, anh ta thì đang loay hoay với cây súng, lên đạn lốp cốp rồi mới hô lớn: Đứng lại, đứng lại không tao bắn…

Thế rồi anh chìa súng ra cửa sổ, chĩa súng lên trời bắn một tràng, rồi mới chạy xuống cầu thang. Tụi tui tỉnh ngủ hẳn, lật đật chạy theo anh. Xuống đến sân, thấy một chiếc xe hơi rồ máy chạy như bay ra đường….

Tui không biết anh ta có bị cấp trên kỉ luật gì không, hôm sau vẫn thấy anh ta sinh hoạt bình thường, cũng chẳng nhắc gì tới vụ ông Tàu trốn thoát. Thế nhưng trong lòng tôi vẫn dấy lên một nỗi nghi ngờ, tui tin chính anh là kẻ cởi trói và mở cửa cho tù nhân trốn thoát. Nghi vậy thôi, nhưng tui chẳng kể với ai.

Mấy bữa sau, vào buổi chiều, anh ta ôm về một cái máy radio cassette, tay đeo một chiếc đồng hồ Seiko. Nhìn những vật này, tui càng tin chắc anh ta chính là người giúp ông Tàu trốn chạy.

Suốt ngày anh ra cứ loay hoay với chiếc máy và cái đồng hồ. Mấy thằng tui hướng dẫn cách sử dụng máy cassette, dạy anh ta cách lấy giờ, cách chuyển lịch cho đồng hồ. Bày đủ cách mà anh ta chẳng nhở gì, chỉ có nút tắt mở, bấm play, bấm chuyển band qua lại, từng đó thôi mà anh ta cứ mãi quên, không nhớ.

Cứ mỗi lần mở máy là một lần hỏi. Bực mình quá, tụi tui bảo trong đầu anh chứa gì mà sao anh ngu thế. Anh ta chỉ cười, phô hết hàm răng hô rồi bẽn lẽn: “Thì tại tớ vốn nhà quê mà…” Thấy tội nghiệp, tụi tui lại bày cho anh.

Hơn tháng sau thì tổ chúng tôi giải tán, ai về nhà nấy. Ở chung nhau gần hai tháng, nhưng thật sự chẳng gắn bó gì với nhau lắm, vì trong mỗi người đều mang mỗi tâm trạng khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, toan tính khác nhau, nên cũng chẳng có tiễn đưa, tan hàng trong lặng lẽ.

****

Năm 1998, công ty tui mở thêm một nhà máy in và một xưởng chế bản điện tử, xin giấy phép khó khăn, phải ra tận Hà Nội. Tui là giám đốc nên lãnh trách nhiệm ra ngoài đó để vận động kiếm cho được tờ giấy phép.

Người phụ trách ký giấy cho tui là một cán bộ cấp cục trưởng của Bộ Văn Hoá. Tay này rất quan cách, ăn nói, đi đứng rất bệ vệ, ra dáng lãnh đạo lắm. Dù đã có thư gởi gắm, có ngay phong bì lần gặp đầu tiên nhưng y cứ chần chừ, chưa chịu ký. Mời đi ăn mấy lần mà ông quan này vẫn chưa nhận lời, sau phải nhờ qua một quan lớn khác, y mới chịu đi.

Vào tiệc, y gọi món rất sành sỏi, gọi rượu toàn thứ cao cấp, chứng tỏ y là dân chơi thứ thiệt. Khi ăn, y còn dạy cho cả bàn là ăn bào ngư phải ăn như thế này, rùa vàng, vi cá phải ăn như thế kia, ăn món nào với rượu nào, y biểu diễn khui rượu, rót rượu rất nhuần nhuyễn, cả bàn há mỏ ra nghe, tui chỉ cười nhạt.

Y nói nhiều, nhưng chẳng ăn gì, mời mãi cũng chỉ động đũa đôi ba miếng gọi là, y bảo nhà hàng này làm món ăn chưa đúng điệu, mặc dù bữa tiệc đó tui phải thanh toán cả đống tiền.

Vì tờ giấy phép đó, tui phải bám ở Hà Nội suốt gần ba tuần lễ. Và ngày nào cũng nhậu nhẹt, ăn chơi. Càng tiếp cận ông quan này, tui cứ ngờ ngợ, thấy có nét hao hao một người nào đó mà mình đã gặp trong đời. Nghĩ mãi mà chẳng nhớ ra. Cuối cùng thì tôi cũng nhận được tờ giấy phép, đổi lại, tui cũng hao khá bộn.

Ngày cuối trước khi về lại Sài Gòn, tui được y chiếu cố mời về nhà nhậu như để trả lễ, vì theo y, không đâu nhậu ngon bằng ở nhà y, có đầu bếp riêng, thức ăn nhập khẩu tươi ngon, có rượu xịn, và hơn hết, theo lời y khoe, ở Hà Nội này, không có nhà hàng nào có dàn máy nghe nhạc so sánh được với dàn máy của y.

Nhà y không lớn lắm, nhưng nằm trên con đường đẹp với những hàng cây. Nhà nhỏ, nhưng trang trí toàn những vật đắt tiền. Sập gụ, tủ chè, tượng đứng, tượng ngồi, đồ sứ, ngà voi, ngọc xanh, ngọc đỏ lủ khủ. Tui choáng với tủ đồng hồ đeo tay của y, toàn thứ dữ: Patek Philippe, Omega Constellation, Jaeger Lecoultre, Constantin, Piguet, Longines…nhưng đúng như y nói, dàn máy nghe nhạc của y mới sợ, to đùng, sáng lóa, chắc phải vài trăm ngàn đô.

Làm quan giàu thật. Dàn máy khủng đặt trên chiếc tủ bằng gỗ quý, chạm trổ tinh vi, đánh verni màu nâu nhạt trông rất đẹp. Trên chiếc loa lớn đen tuyền có một khung ảnh bằng vàng cũng chạm trổ khá cầu kỳ. Trong ảnh là hình của một anh bộ đội, đàng sau lưng là chợ Bến Thành, tấm hình đã úa màu thời gian, nhìn không hợp lắm với cái khung.

Thoáng nhìn hình, tôi nhận ra ngay khuôn mặt của người sĩ quan chỉ huy tụi tui hồi đi chiến dịch X1. Hàm răng hô, khuôn mặt hiền hiền, ngu ngu. Tui buột miệng: Hình ai đây anh? Y cười rổn rảng: “Tớ đấy, chụp hồi mới giải phóng Sài Gòn, nhìn khác quá, phải không? Hồi đấy chẳng còn giữ được tấm hình nào, chỉ còn duy nhất tấm này. Kỷ niệm đấy, quý lắm đấy!”

Tui suýt kêu lên, nhận người quen cũ, nhưng kịp dừng lại. Thời gian đã đổi thay, cuộc đời đã đổi thay, vị trí cũng đổi thay, liệu y còn nhớ thời kỳ đó không? Hay y cố tình quên đi rồi, nhắc lại thật tình là không có lợi.

Nhưng tui cứ băn khoăn mãi là y làm cách nào mà có được sự thay đổi lạ lùng quá xá vậy. Tui hình dung lại khuôn mặt của anh ta, nhớ lại ánh mắt thèm thuồng của anh ta trước những hàng hoá của Sài Gòn, sự nhẫn nhịn của anh ta khi tụi tui bảo anh ngu vì dạy mãi mà vẫn không sử dụng được cái máy cassette.

Cuộc đời chuyển biến kinh thật, đúng là đổi đời. Thấy tui đứng ngẩn ngơ trước dàn máy, anh nói lớn:” Sao? Dàn máy ngon chứ? Âm thanh tuyệt hảo. Mở ra nghe đi rồi sẽ thấy. Ông nhấn nút đi, nút trắng đấy”.

Tui nhìn hàng nút, thấy nút nào cũng lấp lánh, nút nào cũng một màu nên lưỡng lự chưa biết phải nhấn nút nào thì lại nghe y với một giọng đầy quyền lực pha chút chế giễu: “Thôi vào ngồi nhậu đi ông nội, sao mà nhà quê thế, đến cái nút mà cũng không biết bấm”

Tui tự nhủ, hoá ra cuộc đời là một vòng tròn, luân chuyển thế vai nhau.

DODUYNGOC

May be an image of 3 people, people standing, outdoors and text

Ăn cắp cái chết – Phiên tòa tại Lạng Sơn năm 1985

Ở trong trường người ta thường đem những câu chuyện như lão Hạc, chị Dậu, chí Phèo để phê phán chế độ tàn ác của thực dân phong kiến. Nhưng những câu chuyện đó so với hiện thực XHCN thì còn thua xa lắm. Tình cờ đọc được câu chuyện trên trang nhà của anh @Khiem Nguyenanh, xin chia sẻ với các bạn.

Ăn cắp cái chết – Phiên tòa tại Lạng Sơn năm 1985

Nhân lần đi thăm miền Bắc, trong một buổi sáng lang thang không có việc gì làm, tôi đã có dịp tham dự một phiên toà Đại hình tại Thị xã Lạng Sơn.

Lạng Sơn lúc đó còn nghèo lắm, dấu vết chiến tranh trong cuộc chiến năm 1979 với Trung cộng vẫn còn y nguyên. Sau mấy năm mất mùa, mức sống người dân lại càng thê thảm hơn.

Thị xã nhỏ “đi dăm buớc, đã về chốn cũ” nhưng lại khó mà kiếm được thứ gì để ăn sáng ngoài vài củ khoai luộc và ấm nước chè tươi.

Trong một bối cảnh như thế mà lại có vụ xử một can phạm với tội danh: “cố sát và cực kỳ ngoan cố, không thành khẩn khai báo” khiến tôi cảm thấy rờn rợn nhưng lại hết sức tò mò !

Pháp đình là một ngôi chòi lá và “toà án” vẫn còn dùng trống và chiêng để kêu gọi dân chúng tụ tập tham gia phiên xử công khai, đúng với “pháp chế” cuả nhà nước.

Phạm nhân bị truy tố với tội danh: ” cố tình đầu độc người em gái ruột, cũng vừa là hàng xóm” đã bị giam giữ từ hơn một năm trước, nhưng trông lại là một người có vẻ mặt hiền lành, nhẫn nhục, trên mặt và thân thể còn nguyên dấu vết cuả nhục hình từ những trận tra tấn, do công an “tức quá” vì:

– “tội đã rành rành như thế mà đánh mãi … nó vẫn nhất định không chịu khai !”

Phiên toà kết thúc khá nhanh chóng, sau khi chủ tịch hội đồng xử án nêu câu hỏi:

– Tội giết người của anh rõ ràng như ban ngày! tại sao anh không chịu khai, mà lại còn tìm cách “giả vờ” tự tử để trốn tránh pháp luật.

Và đây là lần đầu tiên sau hơn một năm trời không nói một lời nào, phạm nhân đã mở miệng tự “biện hộ”:

– Thưa quan toà, tôi sống với một đứa con trai 3 tuổi, mẹ nó đã chết vì … đói và bệnh sau khi sanh nó, vì đói khổ quá, không có gì cho con ăn nên tôi không muốn sống nữa và đã đánh cắp con gà duy nhất cuả em tôi để nấu một nồi cháo trộn với thuốc độc, dự định sáng dậy hai bố con sẽ ăn để được chết theo mẹ nó.

Nhưng chẳng may tôi lại ngủ quên đi nên em rể tôi đã sang “trộm” lại nồi cháo để ăn nên mới ra nông nỗi, chết hết cả nhà, chứ tôi giết chúng nó làm gì !

– Đúng ra là họ đã ” ăn cắp” cái chết cuả hai bố con tôi !

Được bà mẹ và láng giềng đều bênh vực nên toà đã xử tha bổng, và nạn nhân được nói lời cuối cùng trước khi được phóng thích.

– Xin toà xét cho tôi được ở lại luôn trong tù, vì dù sao cũng còn chút khoai sắn để ăn, chứ bây giờ ra ngoài, tôi cũng sẽ tự tử nữa thì ai chôn tôi ?

Đời này đâu còn cái gì gọi là “đáng buồn” nữa phải không ?

Vàng- truyện ngắn: nguyễn đại thuật

Vàng

truyện ngắn: nguyễn đại thuật

 Mỗi ngày hai buổi đi về sở làm, Quốc phải đi qua ga xe điện ngầm Montparnasse làm trạm trung chuyển.

Có một ngày, đường xe điện ngầm về nhà Quốc tạm ngừng hoạt động để sửa chữa, Quốc phải xử dụng đường xe điện ngầm khác trên cùng một ga trung chuyển, nhưng phải mượn lối đi qua hai thảm thang máy khá dài…

Khi vừa qua khỏi thảm thang máy thứ hai vài bước, Quốc thoáng thấy có một người phụ nữ ngồi xin tiền. Một chân bà bị teo nhỏ co quặp lại, ngắn hơn chân kia, một cặp nạng bằng kim loại sáng bóng sạch sẽ nằm hai bên. Bà có vóc dáng của một người Á châu và ánh mắt của bà khiến Quốc cảm nhận như đã nhìn thấy ánh mắt nầy ở một nơi nào đó rất mơ hồ…

Dòng người phía sau Quốc thúc đẩy Quốc tiến về phía trước. Quốc vẫn đi, lòng tự hỏi, tại sao giữa Paris của nước Pháp lúc nầy lại có người khuyết tật ăn xin ?

Chính sách an sinh xã hội của Pháp không thể để sự việc như thế nầy xẩy ra, trừ trường hợp người nhập cư bất hợp pháp chưa được chính quyền chấp thuận cho cư trú dài hay ngắn hạn. Người khuyết tật là ưu tiên của chính sách an sinh xã hội Pháp.

Những ngày sau đó, buổi chiều đi làm về, khi bước ra khỏi thảm thang máy thứ hai Quốc vẫn thấy người đàn bà khuyết tật ngồi ngay tại một địa điểm như những ngày hôm trước, dưới đất, trước mặt là một hộp giấy nhỏ để người hảo tâm bỏ tiền vào. Bà ngồi im lặng, không một lời hỏi xin khách đi ngang qua. Có lúc Quốc nhìn bà, mỉm cười. Quốc định ngừng lại bỏ tiền vào hôp giấy, nhưng một ý nghĩ chợt dến, Quốc tiếp tục đi. Quốc tự nhủ: “Những người như bà nầy được xã hội ưu tiên giúp đỡ, không đến nỗi nào phải xin ăn… làm ê mặt nước Pháp quá !“.

Một ngày giữa tuần, sở làm có công việc cần giải quyết gấp, tám giờ tối Quốc mới ra khỏi sở làm. Khi đến cuối thảm thang máy thứ hai Quốc không nhìn thấy người đàn bà khuyết tật ngồi nơi chỗ cũ. Sau giờ cao điểm trong hành lang ga rất thưa người, Quốc có thể nhìn thấy bà nếu bà đang di chuyển một nơi nào gần đó. …

Nhưng khi đến bến xe điện, Quốc thấy người đàn bà khuyết tật đang đứng chờ chuyến xe đến, trên cùng hướng của tuyến đường Quốc xử dụng. Quốc đến bên cạnh bà, cũng vừa lúc xe đến. Quốc đưa tay đẩy nhẹ sau lưng bà bước lên tàu. Một hành động tự phát nhân cách của một nguời trước một đồng loại khuyết tật dù không được yêu cầu. Xe thưa thớt khách. Vừa ngồi xuống ghế, người đàn bà khuyết tật xếp hai nạng chung với nhau để qua phiá bên chân bị tật. Quốc ngồi vào ghế đối diện. Bà mỉm cười nhìn Quôc, nói bằng tiếng Pháp:

– Cám ơn ông.

– Thưa bà không có gì. Quốc trả lời.

Bà nhìn Quốc, hai mắt mở lớn, Quốc vẫn thấy ánh mắt nầy mình đã gặp ở một nơi nào đó. Bà hỏi:

– Nhìn ông, nhận ra ông là người Châu-Á, nhưng không biết ông là người nước nào ?.

– Tôi là người Việt-nam.

Bà cười, giọng cười đầy thiện cảm :

– Tôi cũng là người Việt-nam như ông, tiếc rằng tôi không nói được tiếng Việt, còn ông, ông nói được tiếng Việt không ?

Quốc gật đầu:

– Tôi qua đây không lâu lắm nên còn nói được tiếng Việt như người trong nước. Vẻ mặt bà thoáng suy tư :

– Mình người Việt, không nói được tiếng Việt, cũng thiệt thòi phải không ông ?

Quốc chưa kip trả lời câu hỏi thì loa phát thanh trên tàu điện ngầm thông báo trạm đến để Quốc đổi tàu.

Quốc hỏi:

– Bà xuống trạm nào ?

– Tôi sẽ xuống trạm cuối của đường tàu nầy, nhà tôi gần đó.

Đúng lúc, cửa tàu tự động mở, Quốc xuống xe. Khách xuống xe và khách lên xe che khuất tầm nhìn của Quốc đang quay người lại để chào bà.

Ngày hôm sau, đường xe điện ngầm tạm ngừng lưu thông để sửa chữa hoạt động trở lại, Quốc xử dụng đường xe điện ngầm cũ nên không còn gặp, nhìn lại người đàn bà khuyết tật, tuy nhiên lòng Quốc vẫn phân vân: “Bà ta, người gốc Viêt-nam, không biết nói tiếng Việt, chỉ nói được tiếng Pháp, đi xin tiền giữa thủ đô nước Pháp, không bị người Pháp có lòng tự ái dân tộc pha lẫn bản chất kỳ thị màu da xua đuổi ! Ngay chính bản thân, khi nhìn thấy người đàn bà khuyết tật nầy xin tiền Quốc cũng cảm thấy khó chịu… bà làm tổn thương đến chính sách an sinh xã hội nước Pháp.!“. Quốc nghĩ, không biết có cần thiết gặp lại người đàn bà nầy không ? Vì bà là đồng hương cơ cực ? Vì sao bà bị tật nguyền như vậy ?

* * *

Thời gian trôi qua, Quốc đã không còn nhớ gì đến người đàn bà khuyết tật. Khoảng sáu tháng sau, buổi tối ngồi xem tin tức thời sự của đài truyền hình France 3, một đài địa phương của thủ đô Paris và vùng phụ cận, một bản tin được phát ra với hình ảnh người đàn bà khuyết tật xin tiền trong hầm xe điện ngầm đang trao một phong bì cho cho một người, cùng lời của người phát tin: “Hôm nay là năm thứ sáu, bà Thérèse Tran một người tàn tật, đã trao tặng cho hội Chữ Thập Đỏ nước Pháp 5.000 francs, số tiền nầy do bà quyên được hàng ngày của khách lai vãng trong những hầm xe điện ngầm của thành phố Paris. Quý khán thính giả của đài đã từng được xem bảng tường trình bằng hình ảnh công việc của bà trong một chương trình ĐÓNG GÓP CHO TỔ CHỨC NHÂN ĐẠO trước đây trên đài truyền hình của chúng tôi. Bác sĩ đại diện hội Chữ Thập Đỏ Pháp đang nhận số tiền nầy từ tay bà”.

Bản tin tức khích-động trí tò mò của Quốc. Ngày hôm sau trên dường từ sở làm trở về nhà, Quốc chọn tuyến đường xe điện ngầm thời gian trước đây đã cùng bà xử dụng chung một chuyến. Khi đi qua khỏi thảm thang máy thứ hai, Quốc nhìn thấy bà vẫn còn ngồi tại chỗ. Quốc tiến thẳng vào hành lang đường hầm, đến tuyến đường xe điện, cố ý ngồi chờ gặp bà. Gần mười chuyến tàu ngừng cho khách lên xuống rồi tiếp tục chạy…. Quốc nhìn thấy bà đang chống nạng xuất hiện đầu đường hầm, Quốc đi nhanh về phía bà ngỏ lời chào. Bà chào lại và đưa tay bắt tay Quốc. Bà cười rất tươi, nói với Quốc:

– Lần đầu tiên gặp ông cùng trên tuyến xe nầy cũng khá lâu, tưởng là không còn gặp lại ông nữa, Paris có hơn mười tuyến đường xe điện ngầm và hàng vài chục ga trung chuyển… gặp nhau lại trên cùng tuyến xe rất hiếm. Gặp ông lúc đó, thấy ông lạnh lùng đối diện với một người ăn xin vì đói ăn và tàn tật như tôi. Hôm nay có khác, thấy nét mặt ông tươi vui và còn chờ tôi để trể mấy chuyến xe ? Nếu tôi đoán không sai, ông muốn gặp tôi hôm nay vì đêm qua ông đã nhìn và nghe được mẫu tin tức về tôi trên đài truyền hình France 3, một người đàn bà Pháp gốc Việt, tật nguyền ăn xin để làm việc thiện ? Và rất tiếc phải để ông chờ… vì tôi có thấy ông đi qua chỗ tôi vừa rồi…giờ nầy ông vẫn còn ở đây ?

Quốc cảm thấy bối rối trước những lời khẳng định và nhạy bén của bà, Quốc chưa kịp đáp lời thì chiếc tàu điện ngừng, cửa mở, hành khách lên tàu. Một hành khách lịch sự nhường chỗ cho bà. Quốc đứng bên cạnh và có dịp quan sát khuôn mặt thanh tú của bà, mái tóc đen chen lẫn vài sợi trắng hai bên thái dương.

Cặp mắt của bà có một sức lôi cuốn kỳ lạ, người nhìn cảm thấy như bản thân mình bị thâu nhỏ lại như bị hút vào bên trong… Cặp mắt mà Quốc đã nhìn thấy một nơi nào đó vào một thời kỳ rất xa, và rất xa. Xe ngừng. Khách xuống, không có khách lên. Quốc ngồi xuống chiếc ghế trống bên cạnh bà. Hai người không nói gì với nhau cho đến lúc loa tàu báo tên trạm ngừng sắp tới, bà hỏi Quốc:

– Chắc ông xuống trạm này vì kỳ trước ông đã xuống đây ?

Quốc cười, lắc đầu:

– Hôm nay tôi không xuống đây, xin được theo bà để được nghe bà cho nghe chuyện bà đi quyên xin tiền làm từ thiện.

Bà cười, hai tay ôm hai chiếc nạng vào người, nói:

– Ông thấy đó, vừa rồi tôi nói có sai đâu, hôm nay ông đón gặp tôi chỉ vì tin túc về tôi trên đài truyền hình tối hôm qua. Có lẽ trước đây ông không theo dõi tin tức trên truyền hình France 3 nên không biết. Tàu chạy ồn quá, vậy hãy đợi đến trạm cuối, bên ngoài ga có quán nước, chúng ta đến đó nói chuyện thoải mái hơn, và đây cũng là người Việt Nam đầu tiên trực tiếp muốn biết chuyện nầy. Mong rằng ông không phải là người của tòa Đại sứ Việt nam, phỏng vấn, ghi âm lén rồi tráo trở chỉnh sửa, viết lại … trái với trung thực rồi họ cho là đài France 3 tuyên truyền, hư cấu, giàn dựng… Chuyện của tôi là chuyện của tôi, chỉ vậy thôi.

Hai người đi vào một quán nước gần kế lối ra của hầm xe điện ngầm. Thời tiết đang vào cuối tháng tư nhưng vẫn còn se lạnh, bà chọn một bàn bên ngoài quán và nói với Quốc:

– Chắc là hôm nay tôi sẽ về nhà trễ, mẹ tôi sẽ phải đi tìm đón về, ngồi bên ngoài để bà dễ tìm thấy, trời còn lạnh, nếu ngồi bên trong thì ấm hơn. Tôi vẫn có thói quen, những chiều tối không việc gì làm, ở nhà buồn lắm hay ra ngồi đây uống cà phê nhìn người qua lại, về nhà trễ, bà cụ đi tìm đón về…. lại nghe những lời trách hàm chứa yêu thương.. đã trở thành thói quen không bỏ được. Nhà cũng gần đây nhưng cũng tội cho bà cụ, vào mùa đông, khi có tuyết rơi, bà cũng đội tuyết đi tìm đứa con tàn tật nầy !

Hai tách cà phê được mang đến, bà đưa tay phải lấy viên đường. Quốc nhìn thấy bàn tay của bà bị co quắp trừ ngón cái và ngón trỏ còn cử động được, ba ngón còn lại áp chặt vào lòng bàn tay. Bà cầm muỗng khuấy tách cà phê nhẹ nhàng và rất bình thường, không vướng víu…. Quốc thấy lòng dâng lên nỗi ái ngại khi vừa khám phá thêm bàn tay của bà, Quốc quên đi ly cà-phê của mình…. đến khi cà phê được nhấm nháp rồi để xuống bàn, Quốc đang tìm lời đề vào câu chuyện thì bà nói như để nhắc Quốc:

– Không biết tôi phải gọi ông là gì đây ? Còn tên tôi thì ông đã biết rồi, trên đài truyền hình France 3, nay giới thiệu thì quá trễ. Khỏi cần lặp lại phải không ông ?

Bà cười vui vẻ, tự nhiên. Quốc nhận ra sự vụng về của mình, ấp úng trả lời:

– Được gặp bà hôm nay, lòng tôi phấn khởi vô cùng, nên quên giới thiệu tên, mong bà thông cảm. Xin bà gọi tôi là Nguyễn… Nguyễn Minh Quốc.

– Việt nam mình sao nhiều Nguyễn thế ! Đi đâu trên xứ Tây nầy cũng gặp Nguyễn.

Bà cười, hai mắt nhíu lại nhìn Quốc, tay bị tật cầm chiếc muỗng gõ nhẹ vào thành miệng tách cà phê. Quốc vui theo cái vui của bà, đề cập thẳng vào chuyện:

– Bà Trần có thể kể cho tôi câu chuyện về trường hợp nào đưa bà vào việc làm ăn xin để có tiền giúp cho Hội Từ Thiện ?

Bà trầm ngâm một chốc rồi bắt đầu câu chuyện:

– Tôi rời Việt nam vào năm tôi được sáu tuổi vì lý do thương tật của tôi. Vào thời đó Việt Nam đang có chiến tranh và tôi cũng là một nạn nhân của chiến tranh. Tôi là nạn nhân của chiến tranh, nhưng bị thương tật do bị tra tấn, không phải do bom đạn. Lúc đó ba tôi lái xe cho bịnh viện Grall của Pháp ở Sài gòn, trong khi mẹ tôi và tôi sống ở quê nhà, thị trấn Vĩnh điện, miền trung Việt nam, chỉ cách xa thành phố cổ Hội An không tới mười cây số. Mẹ tôi có một tủ kính nhỏ buôn bán vòng vàng trong chợ. Buổi sáng tôi theo mẹ ra chợ, buổi chiều tan chợ, theo mẹ về nhà. Buổi tối, thỉnh thoảng mẹ tôi dạy tôi đọc và tập viết chữ a, b, c, đ. Tôi chưa đến trường, mẹ nói tôi còn quá nhỏ, chưa đủ tuổi đến trường. Đêm nằm ngủ với mẹ, tôi nghe có tiếng ì ầm từ xa xa vọng vào nhà, tôi hỏi mẹ đó là tiếng gì thì nghe mẹ thở dài, giọng buồn buồn trả lời:

– Đó là tiếng súng đại bác, chắc là hai bên đang đánh nhau một nơi nào đó, chiến tranh ngày một rộng ra, dân ở quê bắt đầu khổ rồi, buôn bán ế ẩm.

Nói xong, mẹ ôm tôi vào lòng, im lặng, tôi nghe tiếng đập của tim mẹ. Rồi một đêm đang ngủ, tôi giật mình thức dậy vì nghe tiếng súng nổ “cắc bùm”…”tạch… tạch”, tiếng “chéo chéo“ của đạn bay…. tiêng gà kêu “cục tác” “cục cục”, tiếng heo kêu “ụt..ụt”, có tiếng trẻ con khóc ré lên có lẽ vì sợ… rồi có tiếng ai đó nói to: “Chắc mấy Ổng đang đánh úp quận. Ở đâu mà mấy Ổng về tứ bề, đông thiệt là đông ?”.

Mẹ lôi tôi ra khỏi giường, đẩy tôi xuống bên dưới giường, mẹ nằm bên cạnh. Người mẹ tôi run rẩy, tôi cũng run như mẹ.

Trước đấy không lâu, nghe lời khuyên của bạn bè trong chợ, mẹ đã nhờ người ta mua bao cát nhỏ chất quanh giường ngủ thay vì đào hầm để tránh đạn….nay hai mẹ con tôi có chổ nằm để tránh đạn. Rồi tiếng súng im bặt. Tiếng chân người chạy vội vã, tiếng đập cửa liên hồi, tiếng gọi tên người nầy rồi người khác… tiếng năn nỉ, ấm ức khóc … Lại một tiếng la to: “Bắn“… một tiếng súng nổ…. tiếng đàn bà con nít khóc ré lên nghe thảm thiết. Mẹ ôm chặt tôi rồi. Mẹ kéo nhẹ tôi ra khỏi gầm giường vừa lúc có tiếng đập cửa ầm ầm, tiếng chân đá vào cửa rầm rầm… Có tiếng ra lệnh: “Mở cửa ! mở cửa ! Nếu không tuân lệnh, quân Giải phóng sẽ phá cửa… nếu không mở, chống đối, quân Giải phóng sẽ bắn tại chỗ! “. Mẹ khóc, run lẩy bẩy tiến về phía cửa, trả lời lập cập :

– Tôi mở…tôi mở…nhà không có đàn ông, con trai, chỉ có hai mẹ con tôi là đàn bà con gái! Cửa mở, ánh sáng tràn vào. Tôi nhìn thấy có mấy người ùa vào nhà. Mẹ tôi co rúm người lại. Những người nầy có mang súng chạy tìm kiếm, lục lạo khắp nơi trong nhà, họ nhìn xuống hầm giường mẹ con tôi ngủ và hét lên: “Có còn ai trốn trong đó không thì ra ngay, bắt được quân Giải phóng sẽ không tha!“

Áo quần họ mặc không giống như áo quần quân lính Quốc gia ở quận. Người mặc quần ngắn, kẻ mặc quần dài, áo tay ngắn, tay dài. Người đi chân không, người mang dép vỏ lốp xe. Đàn ông mang súng, con gái có nguời cầm gậy, có người tay không.

Sau khi lục soát nhà xong, một người trong toán lục soát tiến ra cửa nói lớn:

– Báo cáo đồng chí, đã lục soát xong, không có gì khả nghi.

Một người đi vào. Lưng có đeo một súng ngắn. Tôi nhận ra ngay là anh Kéo vì anh mặc cái quần kaki đen có cái lỗ bị cháy nơi đầu gối. Cái quần kaki đen nầy ba tôi mua ở Sài gòn tặng anh Kéo nhân dịp về ăn Tết với gia đình hơn một năm trước đây, mặc dầu anh đội cái mũ tai bèo che phủ hơn nửa phần mặt. Cái lỗ bị rách của cái quần nơi đầu gối là do anh Kéo tạo ra một phần, một phần do tôi. Ngày hôm đó mồng bốn tết mẹ mở cửa hàng, sau tết nên có không ít người đến mua bán. Anh Kéo làm việc cho tiệm vàng của mẹ. Anh thử vàng thật hay giả, anh làm nhẫn, làm giây chuyền. Hôm đó khách hơi đông, anh Kéo quên tắt lửa ống hàn xì khi anh đang trao đổi chuyện với khách hàng, vô ý, mỏ hàn xì làm quần anh bị cháy thủng một lỗ nơi đầu gối, cái quần kaki đen ba tôi mua tặng mặc dịp tết. Khi không còn khách hàng, tôi tinh-nghịch cho ngón tay trỏ vào cái lỗ bị cháy của ống quần kéo mạnh tay, cái lỗ bị cháy rách rộng ra, anh Kéo không nói gì, chỉ cúi xuống vuốt vuốt chỗ bị thủng rách. Nhưng tôi bị mẹ phát cho mấy bàn tay vào mông vì cái tội tinh nghịch.

Mặt trời đã mọc. Anh Kéo lôi mẹ vào góc nhà, anh rút khẩu súng đeo bên hông dí vào trán mẹ. Mẹ tựa lưng vào tường, người khụy xuống nhưng đứng vững bằng hai tay chống trên hai đầu gối. Miệng mẹ hả ra, hai mắt mở to, đầy nước mắt. Anh Kéo hỏi lớn:

– Vàng để đâu, đem hết ra đây đóng góp cho Mặt Trận. Mẹ ngồi bệt xuống đất, hai tay chấp lại, vừa vái anh Kéo liên hồi vừa chỉ cái bình hoa cắm hoa giấy trên bàn thờ, nói không thành tiếng:

– Có bao nhiêu tôi giấu hết trong cái bình hoa đó, lạy ông, ông lấy hết đi và tha cho hai mẹ con tôi.

Lúc anh Kéo đi đến bàn thờ cầm cái bình hoa lên, vứt những bông hoa giấy rồi trút hết những vòng vàng trong bình xuống mặt bàn thờ, tôi thấy hai mắt anh sáng lên, mặt mất dần vẻ hung ác. Trong lúc anh Kéo đang lấy những chiếc nhẫn vàng đeo vào những ngón tay, tôi bò đến ngồi bên cạnh mẹ, khóc ấm ức. Khi anh Kéo lấy hết vàng trên bàn, anh quay lại đứng trước mẹ, lúc nầy mặt anh trở lại hung dữ như trước. Anh dí mũi súng vào trán mẹ hét lên:

– Vàng còn dấu nơi nào nữa hãy chỉ mau, nếu còn dấu diếm Cách mạng sẽ không tha chết đâu!

Mẹ lại khóc, lại chấp tay vái lạy anh Kéo. Lần nầy mẹ quỳ hai gối, đầu rạp xuống trước chân anh Kéo, mẹ nói đứt từng hơi một:

– Ông biết rồi mà, trước đây ông làm việc với tôi, ông biết tôi chỉ có vốn liếng ba lượng vàng, làm thành mẫu mà bày trong tủ kiếng. Khi bán gần hết tôi phải vào Hội An mua thêm vàng cho đủ số vốn ba lượng. Nay còn bấy nhiêu đã chỉ cho ông rồi đó, ông đã lấy hết rồi, đâu còn mô nữa mà giấu.

Anh Kéo ra dấu tay kêu hai người cùng trong nhóm rồi ra lệnh:

– Hãy trói con mẹ nầy lại hỏi còn vàng giấu đâu, nó ngoan cố, thay mặt chính quyền Cách mạng bắn bỏ.

Tôi nghe nói bắn chết mẹ, tôi vùng đứng lên chạy đến ôm cánh tay anh Kéo, nước mắt chan hòa, tôi xin anh Kéo tha cho mẹ, đừng bắn mẹ. Anh Kéo vung tay thật mạnh làm tôi té nhào xuống đất. Anh ra lệnh:

– Các đồng chí cột chân con nhỏ nầy lại treo lên xà nhà để xem mẹ nó còn ngoan cố tới đâu, còn giấu vàng mà không chịu khai báo.

Tôi bị hai người đè xuống nền đất, họ cột một chân của tôi rồi kéo lên treo lơ lững giữa nhà. Tôi vùng vẫy, kêu la trong sự đau đớn. Mẹ nằm co rúm trên nền nhà, dường như sự sợ hãi chen lẫn đau đớn tột cùng làm mẹ mất trí, mẹ lảm nhảm:

– Anh làm cho tôi, anh biết mà, vốn liếng của tôi chỉ có ba lượng làm mẫu cho khách lựa chọn… khi gần hết hàng… phải vào Hội an mua thêm vàng cho đủ ba lượng… nay anh làm Cách mạng, anh lấy hết rồi… còn đâu nữa mà giấu! Anh tha cho con tôi, nó còn nhỏ, nó có biết gì đâu!

Tôi nghe có tiếng họ nói với nhau:

– Con mẹ nầy còn ngoan cố, không nên tha cho nó, các đồng chí đồng ý không?

– Đồng ý…đồng ý!

Cái chân bị cột của tôi càng lúc càng làm tôi đau thêm. Tiếng đồng ý, đồng ý làm tôi khiếp người. Đến một lúc tôi nghe từ cái chân bị cột căng đến tột cùng, tôi nghe từ khớp xương mông phát ra một âm thanh nhu một cành cây khô có ai dẫm lên làm gãy, tôi hét lên và không còn nghe biết gì quanh tôi.

Rồi tôi nghe có tiếng gọi nhau, tiếng chân chạy rầm rập, tiếng súng nổ thưa thớt, tiếng trẻ con gọi cha, gọi mẹ, gọi anh, gọi chị. Tiếng khóc rưng rức âm độ khác nhau trong cả khu xóm. Tôi mở mắt nhìn quanh nhà, duy nhất chỉ còn mẹ đang đứng trên ghế, nâng người tôi lên, với tư thế nầy tôi cảm thấy chân bị trói của tôi bớt đau một chút. Mẹ tìm cách mở giây đỡ tôi xuống đất không được, mẹ đứng như vậy vừa nâng người tôi vừa ôm tôi vào ngực, áp mặt vào thân tôi. Hơi thở của mẹ dồn dập, nóng hổi, thổn thức. Toàn thân tôi, tay chân tê lạnh, chỉ có đầu và mặt tôi nóng hừng hực, hai mắt tôi như có những ngôi sao nằm bên trong.

Cả khu xóm lại yên lặng…. Tiếng một ai đó nói lớn như muốn cho mọi người cùng nghe:

– Chúng nó rút đi rồi. Lính Quốc gia từ Đà nẵng kéo vô, từ Hội an đổ xuống đông lắm. Có tiếng vỗ tay rời rạc, có tiếng nói với nhau mang âm hưởng vui mừng và bình tĩnh hơn.

Mẹ thở ra một hơi dài thật mạnh, rồi kêu lớn:

– Bà con ơi, có ai đó cứu con tôi với… không thì nó chết mất. Bà con ơi, xin cứu con tôi…

Tiếng kêu cứu của mẹ như muốn làm vỡ tung ngôi nhà mái tôn. Nhiều người chạy đến, những ông bà lớn tuổi và con nít. Mấy ông mấy bà tìm cách tháo giây trói không được. Họ dùng dao cắt đứt giây, tôi rơi xuống. Mẹ và mấy ông mấy bà cố đỡ tôi cho khỏi rơi xuống đất, nhưng đà rơi và sức nặng của cơ thể tôi đã không giữ lại được giữa những bàn tay. Tôi rơi xuống nền đất, mẹ ngã trên người tôi vì cố giữ tôi trên tay.

Tôi hét lên…và không còn biết gì nữa.

Chị Thérèse nói tiếp, giọng nhẫn nhục:

– Khi tôi tỉnh lại, mẹ đang ngồi bên tôi, mệt mỏi và buồn rầu. Mẹ cười, hai môi như bị méo, để bàn tay lên trán tôi, mẹ hỏi giọng nghẹn ngào:

– Con tỉnh lại rồi, con còn bị đau nhiều không ? Con ráng chịu đựng rồi sẽ khỏi, con của mẹ !

Tôi cảm thấy một nửa thân tôi và toàn chân bên trái bị bó cứng, bàn tay bên phải cũng bị bó cứng, tôi không cựa quậy được. Toàn thân tôi còn đau đớn nhưng tôi cảm thấy chịu đựng được nên gật đầu như trả lời cho mẹ tôi rằng không còn đau nhiều, tôi muốn nhìn thấy mẹ an tâm. Tôi được điều trị thương tật ở bịnh viện Hội an. Chân phải của tôi bị trật xương khớp háng, các mạch máu không dẫn máu đến được nên toàn chân phải bị chết. Bàn tay phải của tôi bị gãy mấy ngón tay, vì khi được cắt giây bị treo trên sà nhà rơi xuống, bàn tay tôi chống đất trước. Hội đồng bác sĩ của bịnh viện không chấp thuận đề nghị của bác sĩ điều trị cắt một phần chân của tôi vì sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Ba tháng sau tôi được xuất viện, chân tôi không duỗi thẳng được, vẫn cong, nên tôi phải dùng nạng. Ba ngón tay của bàn tay phải bị gãy, khép vào lòng bàn tay không cử động được. Mẹ bán nhà, hai mẹ con vào Sài gòn sống với ba. Biết được tình trạng thương tật của tôi, bác sĩ người Pháp giám đốc bịnh viện Grall cũng là hội trưởng hội Chữ Thập Đỏ của Pháp tại Việt nam đã làm thủ tục đưa tôi qua Pháp để được tiếp tục chữa trị. Một gia đình người Pháp không con nhận bảo trợ cho tôi. Tôi rời Việt nam năm 1967, vừa đúng sáu tuổi. Gia đình người Pháp bảo trợ cho tôi gốc Bồ đào Nha rất sùng đạo Thiên chúa. Chồng làm việc cho một hãng bào chế thuốc. Vợ là y tá điều dưỡng của một bịnh viện. Gia đình cư ngụ vùng Bắc thành phố Paris.

Một tuần có hai ngày tôi được xe bịnh viện đón đưa đến trung tâm Phục hồi Chức năng để được săn sóc thương tật. Những ngày còn lại trong tuần tôi cũng đươc xe đưa đón đi học tại một trường dành cho trẻ em khuyết tật.

Mặc dầu được chữa trị bằng phương tiện y khoa tân tiến vào thời đó, thương tật của tôi không trở lại bình thường… và tôi trở thành khuyết tật vĩnh viễn. Gia đình bảo trợ tôi không muốn tôi trở lại Viêt nam, làm thủ tục xin nhận tôi làm con với sự đồng ý của ba mẹ tôi. Tôi tiếp tục được đi học chữ tại trường cho người khuyết tật đến hết chương trình trung học. Cuối tuần hay những ngày nghỉ lễ, tôi phụ giúp cho chi hội Chữ Thập Đỏ địa phương, làm nhiệm vụ tiếp nhận tặng phẩm và tiền bạc của những người hảo tâm đem đến ủng hộ cho hội hoặc đôi khi lập thành nhóm đi lạc quyên ngoài đường phố hay tại các trung tâm thương mại lớn.

Năm 1975, tôi đang chuẩn bị vào trung học đệ nhị cấp thì tại Việt nam chính quyền Cộng sản Miền Bắc đánh chiếm và cai trị Miền Nam. Ba mẹ tôi được sứ quán Pháp cho phép theo nhân viên người Pháp phục vụ tại bịnh viện Grall qua Pháp tị nạn vì sợ chính quyền mới qui tội làm việc cho ngoại bang. Tôi tiếp tục học hết trung học, vào đại học, rồi ra trường đi dạy. Hai người bảo trợ cũng là cha mẹ nuôi tôi sau nầy lần lượt theo hầu Đức chúa trời vì cao tuổi. Ba tôi cũng rời bỏ hai mẹ con tôi sau một cơn bệnh đột ngột vì tim. Năm đó, tôi ba mươi bảy tuổi. Me rời bỏ tỉnh, lên Paris sống chung với tôi. Theo lời trăn trối của ba muốn đem tro cốt về quê nhà, mẹ và tôi quyết định đi về thăm Việt nam. Sau khi tro cốt của ba được được gởi trong chùa ở Hội an và vài ngày thăm viếng bạn bè quen biết, mẹ và tôi trở ra Vĩnh Điện thăm làng xóm cũ. Tôi không còn ghi nhớ gì nhiều khung cảnh ở đây vì đã rời gần ba mươi năm trước. Chỉ nghe người thân quen của mẹ nhắc lại chuyện giặc giã ba mươi năm trước tấn công và chiếm đóng thị xã và tôi là một phần nhỏ trong những tai ương ở xóm cũ. Chúng tôi lên đường vào Sai gòn để trở lại Pháp, trước khi đi mẹ mời vài người thân quen ngày trước cùng buôn bán trong chợ cạnh tủ vàng của mẹ, tham dự một bữa cơm thân mật tại một nhà hàng nhỏ. Đang lúc ăn và chuyện trò vui vẻ thì bỗng dưng mọi người ngừng nói. Một ông bác hỏi mẹ:

– Thím Ba có nhận người nầy là ai không?

Ông nhìn về hướng cửa vào nhà hàng ăn. Tôi và mẹ nhìn theo hướng nhìn của ông….

Một ông già chống nạng cụt một chân, hai mắt bị mù, được một cô gái có cổ nghiêng qua một bên, mặt hướng lên trời dẫn đi. Hai người tiến gần đến bàn ăn của chúng tôi. Họ đang đi xin ăn.

Mẹ tôi lắc đầu trả lời bác, nói “không biết”.

– Thằng Kéo mà thím không nhận ra sao, ngày trước nó là thợ làm vàng cho thím đó ? Ông bác nói với mẹ.

Mẹ mở to mắt, miệng hả ra, rồi nhắm mắt lại thở ra, khi nhận ra tên nguời làm hồi truớc. Tôi thấy toàn thân cứng lạnh, sợ hãi khi nhìn lại kẻ đã cột treo mình lên sà nhà để tra khảo mẹ nơi dấu vàng mấy chục năm trước. Ông bác kể:

– Sau cái năm nó kéo du kích về đánh chiếm Vĩnh Điện mình một đêm, một ngày, thì thị xã được lính Quốc gia chiếm lại bọn nó rút về Gò nổi, bị máy bay Quốc gia dập bom banh càng, nó mất một chân…Sau chiến tranh, chính-quyền mới cho làm khóm trưởng đâu bên Gò nổi, một đêm tối, sau khi đi vận động nông dân vào hợp tác xã nông nghiêp, trên đường về, nó bị mấy người lạ mặt chận lại đánh bị thuơng nặng, làm mù hai mắt, rồi trói lại bỏ trong ruộng dâu. Đứa con gái dẫn nó đi ăn xin là con của nó, khi sinh ra đã bị tật như vậy.“

Tôi nhìn cô gái, mặt cứ ngữa nhìn lên trời. Tôi chợt nhớ đến cái đêm tôi bị trói, treo lên sà nhà, mặt mẹ lúc nào cũng ngước lên nhìn tôi, đau đớn, sợ hãi và chan hòa nước mắt. Còn cô gái nầy suốt đời phải ngước mặt nhìn trời là tại làm sao vậy ? Trần gian nầy đang quá khổ đau nên không dám nhìn xuống ? Cầu xin ơn trên tha lỗi cho cha mình đã một thời gieo rắc tang thương cho đồng bào mình ? Nếu đúng vậy thì tội tình nầy đã đến với cô một cách bất công và cay nghiệt ! Lòng tôi ái ngại khi nhìn thấy cô.

Ông bác kể tiếp:

– Chính quyền địa phương xếp nó vào diện thương binh liệt sĩ, được trợ cấp, nhưng không đủ sống, dân địa phương xa lánh vì sự tàn bạo nó đã gây ra trước đây, rồi vợ bỏ, để lại đứa con rồi đi biệt xứ. Hàng ngày hai cha con rời làng vào đây xin ăn. Khi hai người ăn xin đến gần bàn ăn, mẹ tự nhiên đứng lên vội vàng đi vào nhà vệ sinh. Tôi cũng đứng lên, đi “lọc cọc” theo mẹ . Hai mẹ con đứng yên lặng trong nhà vệ sinh, không trao đổi với nhau một lời, chỉ nhìn nhau…..

Khi hai mẹ con trở ra lại bàn ăn, hai người ăn xin đã đi qua những bàn thực khách khác.

Bữa cơm thân mật chấm dứt, mọi người chia tay với những chúc lành đẹp nhất. Dưới ánh sáng vàng vọt của những cột điện ven đường, hai người ăn xin đang đi phía trước, dưới những hàng cây khẳng khiu, thưa lá. Khi vượt qua hai người ăn xin, tôi dừng lại, cho tay vào túi xách lấy ra mấy tờ bạc dúi vào tay cô gái rồi theo mẹ băng qua đường một cách vội vàng. Trong đêm tối yên tĩnh, tôi nghe rõ tiếng nạng “cộp…cộp “của anh Kéo vang lên chen cùng tiêng nạng “cộp…cộp” của tôi nghe buồn da diết.

Trong những ngay chờ đợi chuyến bay về lại Pháp tại Sài gòn, một buổi sáng, mẹ và tôi dùng điểm tâm tại một tiệm phở. Khi hai mẹ con tôi vừa ăn xong thì một người đàn ông không còn chân lết đến bên cạnh nhìn thẳng vào hai mẹ con tôi, đưa một một túi nhựa ra trước mặt, hỏi:

– Hai bà ăn xong rồi, phần dư còn lại không ăn hết, xin cho vào túi nhựa của tôi.

Mẹ e ngại trút phần ăn còn lại của hai tô phở vào túi nhựa với nét mặt đầy xúc động, rồi lặng lẽ lấy mấy tờ bạc để vào tay ông, mẹ nói:

– Chú giữ lấy tiền nầy để mua thêm thứ gì để ăn. Người đàn ông cầm tiền, cứ chăm chăm nhìn mặt mẹ rồi lết ra bên ngoài tiệm phở. Bên ngoài có một đám con nít, tay xách thùng đánh giày, tay cầm vé số, tay cầm lon xin tiền, tay cầm túi nhựa xin thức ăn thừa, muốn vào tiệm nhưng bị người quản lý ngăn chận. Khi mẹ và tôi bước ra khỏi tiệm phở, lũ con nít ùa tới vây quanh, mỗi đứa nói một câu lao nhao, mẹ đưa tay nhẹ nhàng gạt chúng qua một bên để có lối đi cho hai mẹ con. Giữa lúc đó, từ trong một góc, người ăn xin cụt hai chân lết lần về phía chúng tôi, hỏi lớn:

– Có phải bà là thím Ba ngày xưa có tủ vàng trong chợ Vĩnh Điện không ? Cháu nhìn không sai đâu. Hồi đó thím nổi tiếng khu Vĩnh điện, mọi người đều nói như vậy. Mắt thím đẹp, ai cũng biết. Con Chút, con gái của thím cũng có cặp mắt giống thím như vậy. Cô nầy chắc là con Chút ngày xưa, bị mấy thằng trong rừng ra quậy phá phố Vĩnh Điện bắt treo lên khảo vàng nhà thím, làm nó bị thương, phải không thím ?

Ông vừa nói vừa chỉ tay vào tôi. Tôi ngạc nhiên, cố tìm trong trí nhớ người nầy là ai….Thấy mẹ do dự một lúc rồi gật đầu xác nhận. Mẹ lại hỏi:

– Tôi nay lớn tuổi rồi, trí nhớ không còn như trước, không nhớ chú là ai vậy?

Người ăn xin cụt hai chân nói giọng vui mừng:

– Cháu là con ông Tư Cải cùng xóm với thím đó, cháu là thằng Lự đây. Hồi thằng Kéo đem du kích của nó đánh Vĩnh Điện, nó bắt ông già cháu đi theo vì ông không chịu đóng thuế nông hội cho chúng. Mấy tháng sau dân chúng vớt được xác ông già cháu nổi trên bến đò Hoa trà. Đêm đó thằng Kéo vào nhà thím treo con Chút lên kèo nhà để khảo vàng, chuyện ấy ai cũng biết.

Mẹ thừ người ra, mặt đượm nét sầu đau. Còn tôi, khi được nghe nhắc đến tên Chút, cái tên mà ba mươi năm nay không còn ai nhắc đến, đã vào trong quên lãng của mọi người, nay được nghe lại, tôi bồi hồi xúc động. Ký ức tuổi thơ của tôi chợt thức giấc: Thằng Lự đây sao ? Hồi đó hai đứa cùng lũ bạn trong xóm, suốt ngày lêu lỗng ngoài xóm, chơi lò cò, chơi nhảy dây, chơi u, chơi ném lon… thằng Lự khỏe mạnh, thường hay bênh vực tôi mỗi khi bị bọn trẻ khác hiếp đáp ! Tôi đang nghĩ đến ngày xa xưa, thì nghe tiếng mẹ :

– Tại sao cháu ra nông nổi tàn tật như thế nầy ?

– Năm 1979, cháu bị bắt vào lính, đưa ra Bắc đánh nhau vời Trung quốc, cháu bị thương cụt hai chân. Đời sống khổ lắm thím, nhà nước trợ cấp nhưng sống vẫn thiếu trước hụt sau… người ta quy kết trước đây ông già cháu có tội với cách mạng vì không nộp thuế nông hội, nay mặc dầu cháu hy sinh một phần cơ thể cho đất nước, nhưng cháu phải tiếp tục trả cái nợ trước đây của ông già, vì vậy phần trợ cấp thương binh của cháu bị địa phương cắt giảm không đủ vào đâu nên cháu phải xin ăn.

Tôi nhìn thân thể tật nguyền và teo gầy của Lự, nước mắt ứa ra. Tôi bước lần đến bên Lự, buông nạng, quỳ một chân trước Lự, nhìn sững Lự rồi bật khóc như ngày nào bị chúng bạn hiếp đáp, khóc to lên để Lự chạy đến bênh vực, che chở. Tôi nghe từ phía Lự cũng có tiếng nấc lên, thổn thức. Trong làn nước mắt, tôi thấy tôi đang chạy trốn thật nhanh, đàng sau, Lự đứng giang hai tay như người hiệp sĩ ngăn cản lũ cướp là đám con nít đưổi theo sau trong khi hơn thua nhau trong một trò chơi giành giựt nhau của trẻ con.

Tôi im lặng. Lự im lặng. Mẹ nhẹ nhàng kéo tay tôi đứng dậy. Tôi đứng lên. Lự vẫn ngồi bất động. Chung quanh có nhiều người hiếu kỳ đứng lại nhìn chúng tôi. Mẹ gọi hai xe xích lô, mẹ một chiếc, tôi ngồi chung xe với Lự. Trên đường dẫn về nhà Lự, tôi chẳng nhìn thấy gì ngoài những hình ảnh một thời thơ ấu của tôi cuộn chảy về như một dòng sông ký ức. Tôi nhìn thấy một con bé lúc nào cũng được che chở, được binh vực dù con bé sai quấy, ngay cả khi con bé đó tham lam lấy đồ chơi của người khác làm của mình. Nhưng rồi cũng có lúc con bé trở nên hung dữ, ném dép và đá sỏi vào Lự vì con bé bị ngăn chận không cho leo lên cây hái mấy trái ổi, sợ bị té. Một viên đá đă làm trán Lự chảy máu, Lự kéo áo lau máu, chạy về nhà. Con bé chạy theo, Lự khép cửa không cho nó vào nhà, Lự giận, con bé ngồi bên ngoài lo sợ cho vết thương của Lự, khóc ấm ức… Kỷ niệm đang trở về, trong vô thức, tôi đưa bàn tay thương tật sờ lên trán Lự, nơi vết thương của ngày nào… Bỗng nhiên Lự cũng đưa một tay lên vỗ nhẹ vào tay tôi đang dặt trên trán Lự . Lự cười và nói như nói với tôi và như nói với chính mình:

– Sẹo của vết thương đã phai theo thời gian, nhưng kỷ niệm về vết thương vẫn nhớ mãi.

Lự nói, mắt vẫn nhìn về phía trước. Lự đã hiểu lòng tôi khi bàn tay tôi để lên trán Lự để nhớ về tháng năm thơ ấu thân yêu. Tôi nhìn Lự, ngầm nói lên lời cảm ơn tình bạn thân ái vẫn còn lại với tháng năm. Lự sống với gia đình em gái trong khu ngã tư Bảy Hiền, nơi dân Quảng nam, vùng Gò nổi, vốn tiếng tăm với nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt Lụa, Thao, Đũi, bỏ xứ vào đây lập nghiệp, tránh chiến tranh ác liệt. Vợ chồng em gái Lự làm nghề vệ sinh, hốt rác trong khu phố, nuôi ba đứa con, thiếu trước hụt sau nên việc ăn uống cá nhân Lự tự giải quyêt. Lự cần một nơi tránh gió tránh mưa nắng nơi nhà em gái. Tôi rất đau lòng cho cuộc sống của Lự. Có lúc tôi vu vơ nghĩ quanh: “Cái đêm anh Kéo bắt treo tôi lên sà nhà… Lự lúc đó đang ở đâu mà không xuất hiện cứu tôi ? “. Rồi tôi tự cười mình… ba mươi bảy tuổi rồi… còn nghĩ đến ngày xưa còn bé ! Tiểu hiệp sĩ ngày xưa oai nghi như một thiên thần, nay thiên thần đã gãy cánh !

Mẹ đồng ý xin hoãn chuyến bay về lại Pháp ba ngày theo đề nghị của tôi. Tôi có thời gian giúp Lự khám sức khỏe toàn diện cũng như đi mua cho Lự một chiếc xe lăn. Mẹ tôi giúp Lự và gia đình em gái Lự một số tiền để xoay sở sinh sống. Có một điều Lự phàn nàn với tôi là tại sao không gọi Kéo là tên Kéo, thằng Kéo mà gọi là anh Kéo, nó là tên ác ôn mà. Tôi trả lời một cách thản nhiên:

– Đó chỉ là thói quen thôi, dù gọi tên Kéo, thằng Kéo hay là gì gì đi nữa thì Kéo vẫn là kẻ độc ác, đáng nguyền rủa…

Sau chuyến về Viêt nam rồi trở lại Paris, sức khỏe của mẹ bắt đầu sa sút. Cùng lúc trường học giảm tối đa giáo viên giảng dạy vì số lượng học sinh ngày một giảm vì người Pháp không muốn sinh con. Lợi dụng bị thuyên chuyển làm việc xa nhà, thân tàn tật di chuyển khó khăn, tôi xin nghỉ việc để có thời gian lo săn sóc mẹ. Thời gian rảnh rỗi, tôi vẫn tiếp tục làm việc thiện nguyện cho Hội Chữ Thập Đỏ. Rồi chiến tranh ở Bắc Phi, chiến tranh ở Trung đông liên tiếp xẩy ra, tôi có dịp theo hội cứu giúp trong các trại tỵ nạn nơi xẩy ra chiến cuộc. Sự tàn phá, chết chóc do chiến-tranh tạo ra gây cho tôi kiệt lực. Người ta nhân danh chiến tranh để giải phóng con người ra khỏi đói nghèo và áp bức, nhưng sau chiến tranh, đói nghèo và áp bức càng gia tăng do hậu quả cuộc chiến để lại và lòng tham muốn quyền lực chiếm đoạt và sự trả thù của bên thắng cuộc đối với kẻ thua cuộc. Cường độ của độc ác, bóc lột, đói nghèo gia tăng thì lòng nhân đạo giúp đỡ nhau đi xuống. Chiến tranh ở Việt nam có “Kéo” ác độc chủ động tham dự, “Lự” bị cưỡng bách, có “Chút” là tôi, một thường dân vô tội, thì các nạn nhân chiến tranh ở Trung đông, Bắc Phi cũng không khác. Tôi nói lòng nhân đạo đi xuống là muốn nói lòng nhân đạo tự nguyện đối với nạn nhân của mọi biến cố xa gần, trực tiếp hay gián tiếp đã trở nên cằn cỗi… nên một số anh chị em trong hội tự chọn cho mình một phương cách hữu hiệu, an toàn để tạo thêm nguồn tài chánh cho trung ương, và tôi đã chọn là mỗi tuần tôi để ra ba buổi chiều xin tiền trong hầm xe điện ngầm. Lúc đầu chuyện không đơn giản, vì anh chị em trong nhóm thấy quyết định của tôi có vẻ sẽ gây bất mãn và gây dị nghị cho tổ chức, nhưng tôi đã thuyết phục được họ vì tôi làm không nhân danh hội, chỉ có tính cách cá nhân. Những tuần lễ đầu tiên, khách qua lại trong đường hầm xe điện ngầm ném cho tôi những cái nhíu mày tỏ vẻ bực bội. Tôi biết, một người khuyết tật ở xứ Pháp nầy sẽ được xã hội bảo bọc chu toàn nên xin ăn là điều sỉ nhục cho đất nước. Tôi để hộp xin tiền trước mặt, ngồi im, hai mắt nhắm lại. Một ngày qua đi, ba ngày trong tuần qua đi, không có một xu nào được ném vào hộp. Qua tuần lễ thứ hai, lác đác tôi nghe có tiếng tiền kim loại được ném vào hộp…. Rồi một tuần sau đó, niềm vui và tin tưởng đến với tôi. Một nhóm học trò cũ của tôi được cô thầy giáo hướng dẫn du hành nghiên cứu thực tế bên ngoài xã hội để áp dụng cho một chương trình học trong lớp đi ngang qua chỗ tôi ngồi xin. Có lẽ do sự giải thích của cô thầy giáo đồng nghiệp cũ của tôi về việc làm của tôi nên các em vây quanh tôi vỗ tay reo hò, nhiều em bỏ tiền vào hộp. Có em giải thích việc làm của tôi với khách qua lại dừng chân vì hiếu kỳ, họ cũng bỏ tiền vào hộp. Hôm đó, lần đầu tiên trong những ngày bắt đầu xin tiền, tôi nhận được khá nhiều tiền, lòng thật vui, đầy phấn khởi. Cũng có lẽ sau ngày hôm đó, những cái nhìn của khách qua lại ném cho có nhiều thiện cảm hơn, có khách dừng chân, nhẹ nhàng bỏ những tờ giấy bạc hay những đồng tiền bằng kim loại vào hộp, không quên kèm thêm một nụ cười. Hạnh phúc nhất đến với tôi là sau một năm thực hiên việc xin tiền, đài truyền hình France 3 đưa tin tức công việc của tôi cho mọi người biết. Có một câu hỏi mà câu trả lời tôi thích nhất từ đó cho tới nay. Người ta hỏi:

– Bà là người Pháp, gốc Việt nam, có phải việc làm của bà nhằm mục đích có tiền góp cho hội Chữ Thập Đỏ dành riêng giúp cho những nhu cầu cần thiết hàn gắn những vết thương do thiên tai tạo ra bên Việt nam ?

– Thưa không phải là như vậy. Việc tôi làm là để đóng góp tài chánh cho hội Chữ Thập Đỏ. Sự đóng góp của tôi không bằng một hạt cát trong đại dương mênh mông. Việc phân phối giúp đỡ theo nhu cầu ở một nơi nào đó là do Hội nghiên cứu và quyết định. Hội Chữ Thập Đỏ làm việc cho toàn thế giới, không riêng cho một nước nào. Ngay tại nước Pháp của chúng ta, cũng có những lúc, có những nơi cần có sự góp sức của hội Chữ Thập Đỏ.

* * *

Tôi nhấp cạn phần còn lại của tách cà phê, lòng cảm thấy nhói vì câu chuyện.

vàng

truyện ngắn: nguyễn đại thuật

❤ ❤
May be an image of outdoors