Ăn cắp cái chết – Phiên tòa tại Lạng Sơn năm 1985

Ở trong trường người ta thường đem những câu chuyện như lão Hạc, chị Dậu, chí Phèo để phê phán chế độ tàn ác của thực dân phong kiến. Nhưng những câu chuyện đó so với hiện thực XHCN thì còn thua xa lắm. Tình cờ đọc được câu chuyện trên trang nhà của anh @Khiem Nguyenanh, xin chia sẻ với các bạn.

Ăn cắp cái chết – Phiên tòa tại Lạng Sơn năm 1985

Nhân lần đi thăm miền Bắc, trong một buổi sáng lang thang không có việc gì làm, tôi đã có dịp tham dự một phiên toà Đại hình tại Thị xã Lạng Sơn.

Lạng Sơn lúc đó còn nghèo lắm, dấu vết chiến tranh trong cuộc chiến năm 1979 với Trung cộng vẫn còn y nguyên. Sau mấy năm mất mùa, mức sống người dân lại càng thê thảm hơn.

Thị xã nhỏ “đi dăm buớc, đã về chốn cũ” nhưng lại khó mà kiếm được thứ gì để ăn sáng ngoài vài củ khoai luộc và ấm nước chè tươi.

Trong một bối cảnh như thế mà lại có vụ xử một can phạm với tội danh: “cố sát và cực kỳ ngoan cố, không thành khẩn khai báo” khiến tôi cảm thấy rờn rợn nhưng lại hết sức tò mò !

Pháp đình là một ngôi chòi lá và “toà án” vẫn còn dùng trống và chiêng để kêu gọi dân chúng tụ tập tham gia phiên xử công khai, đúng với “pháp chế” cuả nhà nước.

Phạm nhân bị truy tố với tội danh: ” cố tình đầu độc người em gái ruột, cũng vừa là hàng xóm” đã bị giam giữ từ hơn một năm trước, nhưng trông lại là một người có vẻ mặt hiền lành, nhẫn nhục, trên mặt và thân thể còn nguyên dấu vết cuả nhục hình từ những trận tra tấn, do công an “tức quá” vì:

– “tội đã rành rành như thế mà đánh mãi … nó vẫn nhất định không chịu khai !”

Phiên toà kết thúc khá nhanh chóng, sau khi chủ tịch hội đồng xử án nêu câu hỏi:

– Tội giết người của anh rõ ràng như ban ngày! tại sao anh không chịu khai, mà lại còn tìm cách “giả vờ” tự tử để trốn tránh pháp luật.

Và đây là lần đầu tiên sau hơn một năm trời không nói một lời nào, phạm nhân đã mở miệng tự “biện hộ”:

– Thưa quan toà, tôi sống với một đứa con trai 3 tuổi, mẹ nó đã chết vì … đói và bệnh sau khi sanh nó, vì đói khổ quá, không có gì cho con ăn nên tôi không muốn sống nữa và đã đánh cắp con gà duy nhất cuả em tôi để nấu một nồi cháo trộn với thuốc độc, dự định sáng dậy hai bố con sẽ ăn để được chết theo mẹ nó.

Nhưng chẳng may tôi lại ngủ quên đi nên em rể tôi đã sang “trộm” lại nồi cháo để ăn nên mới ra nông nỗi, chết hết cả nhà, chứ tôi giết chúng nó làm gì !

– Đúng ra là họ đã ” ăn cắp” cái chết cuả hai bố con tôi !

Được bà mẹ và láng giềng đều bênh vực nên toà đã xử tha bổng, và nạn nhân được nói lời cuối cùng trước khi được phóng thích.

– Xin toà xét cho tôi được ở lại luôn trong tù, vì dù sao cũng còn chút khoai sắn để ăn, chứ bây giờ ra ngoài, tôi cũng sẽ tự tử nữa thì ai chôn tôi ?

Đời này đâu còn cái gì gọi là “đáng buồn” nữa phải không ?

Vàng- truyện ngắn: nguyễn đại thuật

Vàng

truyện ngắn: nguyễn đại thuật

 Mỗi ngày hai buổi đi về sở làm, Quốc phải đi qua ga xe điện ngầm Montparnasse làm trạm trung chuyển.

Có một ngày, đường xe điện ngầm về nhà Quốc tạm ngừng hoạt động để sửa chữa, Quốc phải xử dụng đường xe điện ngầm khác trên cùng một ga trung chuyển, nhưng phải mượn lối đi qua hai thảm thang máy khá dài…

Khi vừa qua khỏi thảm thang máy thứ hai vài bước, Quốc thoáng thấy có một người phụ nữ ngồi xin tiền. Một chân bà bị teo nhỏ co quặp lại, ngắn hơn chân kia, một cặp nạng bằng kim loại sáng bóng sạch sẽ nằm hai bên. Bà có vóc dáng của một người Á châu và ánh mắt của bà khiến Quốc cảm nhận như đã nhìn thấy ánh mắt nầy ở một nơi nào đó rất mơ hồ…

Dòng người phía sau Quốc thúc đẩy Quốc tiến về phía trước. Quốc vẫn đi, lòng tự hỏi, tại sao giữa Paris của nước Pháp lúc nầy lại có người khuyết tật ăn xin ?

Chính sách an sinh xã hội của Pháp không thể để sự việc như thế nầy xẩy ra, trừ trường hợp người nhập cư bất hợp pháp chưa được chính quyền chấp thuận cho cư trú dài hay ngắn hạn. Người khuyết tật là ưu tiên của chính sách an sinh xã hội Pháp.

Những ngày sau đó, buổi chiều đi làm về, khi bước ra khỏi thảm thang máy thứ hai Quốc vẫn thấy người đàn bà khuyết tật ngồi ngay tại một địa điểm như những ngày hôm trước, dưới đất, trước mặt là một hộp giấy nhỏ để người hảo tâm bỏ tiền vào. Bà ngồi im lặng, không một lời hỏi xin khách đi ngang qua. Có lúc Quốc nhìn bà, mỉm cười. Quốc định ngừng lại bỏ tiền vào hôp giấy, nhưng một ý nghĩ chợt dến, Quốc tiếp tục đi. Quốc tự nhủ: “Những người như bà nầy được xã hội ưu tiên giúp đỡ, không đến nỗi nào phải xin ăn… làm ê mặt nước Pháp quá !“.

Một ngày giữa tuần, sở làm có công việc cần giải quyết gấp, tám giờ tối Quốc mới ra khỏi sở làm. Khi đến cuối thảm thang máy thứ hai Quốc không nhìn thấy người đàn bà khuyết tật ngồi nơi chỗ cũ. Sau giờ cao điểm trong hành lang ga rất thưa người, Quốc có thể nhìn thấy bà nếu bà đang di chuyển một nơi nào gần đó. …

Nhưng khi đến bến xe điện, Quốc thấy người đàn bà khuyết tật đang đứng chờ chuyến xe đến, trên cùng hướng của tuyến đường Quốc xử dụng. Quốc đến bên cạnh bà, cũng vừa lúc xe đến. Quốc đưa tay đẩy nhẹ sau lưng bà bước lên tàu. Một hành động tự phát nhân cách của một nguời trước một đồng loại khuyết tật dù không được yêu cầu. Xe thưa thớt khách. Vừa ngồi xuống ghế, người đàn bà khuyết tật xếp hai nạng chung với nhau để qua phiá bên chân bị tật. Quốc ngồi vào ghế đối diện. Bà mỉm cười nhìn Quôc, nói bằng tiếng Pháp:

– Cám ơn ông.

– Thưa bà không có gì. Quốc trả lời.

Bà nhìn Quốc, hai mắt mở lớn, Quốc vẫn thấy ánh mắt nầy mình đã gặp ở một nơi nào đó. Bà hỏi:

– Nhìn ông, nhận ra ông là người Châu-Á, nhưng không biết ông là người nước nào ?.

– Tôi là người Việt-nam.

Bà cười, giọng cười đầy thiện cảm :

– Tôi cũng là người Việt-nam như ông, tiếc rằng tôi không nói được tiếng Việt, còn ông, ông nói được tiếng Việt không ?

Quốc gật đầu:

– Tôi qua đây không lâu lắm nên còn nói được tiếng Việt như người trong nước. Vẻ mặt bà thoáng suy tư :

– Mình người Việt, không nói được tiếng Việt, cũng thiệt thòi phải không ông ?

Quốc chưa kip trả lời câu hỏi thì loa phát thanh trên tàu điện ngầm thông báo trạm đến để Quốc đổi tàu.

Quốc hỏi:

– Bà xuống trạm nào ?

– Tôi sẽ xuống trạm cuối của đường tàu nầy, nhà tôi gần đó.

Đúng lúc, cửa tàu tự động mở, Quốc xuống xe. Khách xuống xe và khách lên xe che khuất tầm nhìn của Quốc đang quay người lại để chào bà.

Ngày hôm sau, đường xe điện ngầm tạm ngừng lưu thông để sửa chữa hoạt động trở lại, Quốc xử dụng đường xe điện ngầm cũ nên không còn gặp, nhìn lại người đàn bà khuyết tật, tuy nhiên lòng Quốc vẫn phân vân: “Bà ta, người gốc Viêt-nam, không biết nói tiếng Việt, chỉ nói được tiếng Pháp, đi xin tiền giữa thủ đô nước Pháp, không bị người Pháp có lòng tự ái dân tộc pha lẫn bản chất kỳ thị màu da xua đuổi ! Ngay chính bản thân, khi nhìn thấy người đàn bà khuyết tật nầy xin tiền Quốc cũng cảm thấy khó chịu… bà làm tổn thương đến chính sách an sinh xã hội nước Pháp.!“. Quốc nghĩ, không biết có cần thiết gặp lại người đàn bà nầy không ? Vì bà là đồng hương cơ cực ? Vì sao bà bị tật nguyền như vậy ?

* * *

Thời gian trôi qua, Quốc đã không còn nhớ gì đến người đàn bà khuyết tật. Khoảng sáu tháng sau, buổi tối ngồi xem tin tức thời sự của đài truyền hình France 3, một đài địa phương của thủ đô Paris và vùng phụ cận, một bản tin được phát ra với hình ảnh người đàn bà khuyết tật xin tiền trong hầm xe điện ngầm đang trao một phong bì cho cho một người, cùng lời của người phát tin: “Hôm nay là năm thứ sáu, bà Thérèse Tran một người tàn tật, đã trao tặng cho hội Chữ Thập Đỏ nước Pháp 5.000 francs, số tiền nầy do bà quyên được hàng ngày của khách lai vãng trong những hầm xe điện ngầm của thành phố Paris. Quý khán thính giả của đài đã từng được xem bảng tường trình bằng hình ảnh công việc của bà trong một chương trình ĐÓNG GÓP CHO TỔ CHỨC NHÂN ĐẠO trước đây trên đài truyền hình của chúng tôi. Bác sĩ đại diện hội Chữ Thập Đỏ Pháp đang nhận số tiền nầy từ tay bà”.

Bản tin tức khích-động trí tò mò của Quốc. Ngày hôm sau trên dường từ sở làm trở về nhà, Quốc chọn tuyến đường xe điện ngầm thời gian trước đây đã cùng bà xử dụng chung một chuyến. Khi đi qua khỏi thảm thang máy thứ hai, Quốc nhìn thấy bà vẫn còn ngồi tại chỗ. Quốc tiến thẳng vào hành lang đường hầm, đến tuyến đường xe điện, cố ý ngồi chờ gặp bà. Gần mười chuyến tàu ngừng cho khách lên xuống rồi tiếp tục chạy…. Quốc nhìn thấy bà đang chống nạng xuất hiện đầu đường hầm, Quốc đi nhanh về phía bà ngỏ lời chào. Bà chào lại và đưa tay bắt tay Quốc. Bà cười rất tươi, nói với Quốc:

– Lần đầu tiên gặp ông cùng trên tuyến xe nầy cũng khá lâu, tưởng là không còn gặp lại ông nữa, Paris có hơn mười tuyến đường xe điện ngầm và hàng vài chục ga trung chuyển… gặp nhau lại trên cùng tuyến xe rất hiếm. Gặp ông lúc đó, thấy ông lạnh lùng đối diện với một người ăn xin vì đói ăn và tàn tật như tôi. Hôm nay có khác, thấy nét mặt ông tươi vui và còn chờ tôi để trể mấy chuyến xe ? Nếu tôi đoán không sai, ông muốn gặp tôi hôm nay vì đêm qua ông đã nhìn và nghe được mẫu tin tức về tôi trên đài truyền hình France 3, một người đàn bà Pháp gốc Việt, tật nguyền ăn xin để làm việc thiện ? Và rất tiếc phải để ông chờ… vì tôi có thấy ông đi qua chỗ tôi vừa rồi…giờ nầy ông vẫn còn ở đây ?

Quốc cảm thấy bối rối trước những lời khẳng định và nhạy bén của bà, Quốc chưa kịp đáp lời thì chiếc tàu điện ngừng, cửa mở, hành khách lên tàu. Một hành khách lịch sự nhường chỗ cho bà. Quốc đứng bên cạnh và có dịp quan sát khuôn mặt thanh tú của bà, mái tóc đen chen lẫn vài sợi trắng hai bên thái dương.

Cặp mắt của bà có một sức lôi cuốn kỳ lạ, người nhìn cảm thấy như bản thân mình bị thâu nhỏ lại như bị hút vào bên trong… Cặp mắt mà Quốc đã nhìn thấy một nơi nào đó vào một thời kỳ rất xa, và rất xa. Xe ngừng. Khách xuống, không có khách lên. Quốc ngồi xuống chiếc ghế trống bên cạnh bà. Hai người không nói gì với nhau cho đến lúc loa tàu báo tên trạm ngừng sắp tới, bà hỏi Quốc:

– Chắc ông xuống trạm này vì kỳ trước ông đã xuống đây ?

Quốc cười, lắc đầu:

– Hôm nay tôi không xuống đây, xin được theo bà để được nghe bà cho nghe chuyện bà đi quyên xin tiền làm từ thiện.

Bà cười, hai tay ôm hai chiếc nạng vào người, nói:

– Ông thấy đó, vừa rồi tôi nói có sai đâu, hôm nay ông đón gặp tôi chỉ vì tin túc về tôi trên đài truyền hình tối hôm qua. Có lẽ trước đây ông không theo dõi tin tức trên truyền hình France 3 nên không biết. Tàu chạy ồn quá, vậy hãy đợi đến trạm cuối, bên ngoài ga có quán nước, chúng ta đến đó nói chuyện thoải mái hơn, và đây cũng là người Việt Nam đầu tiên trực tiếp muốn biết chuyện nầy. Mong rằng ông không phải là người của tòa Đại sứ Việt nam, phỏng vấn, ghi âm lén rồi tráo trở chỉnh sửa, viết lại … trái với trung thực rồi họ cho là đài France 3 tuyên truyền, hư cấu, giàn dựng… Chuyện của tôi là chuyện của tôi, chỉ vậy thôi.

Hai người đi vào một quán nước gần kế lối ra của hầm xe điện ngầm. Thời tiết đang vào cuối tháng tư nhưng vẫn còn se lạnh, bà chọn một bàn bên ngoài quán và nói với Quốc:

– Chắc là hôm nay tôi sẽ về nhà trễ, mẹ tôi sẽ phải đi tìm đón về, ngồi bên ngoài để bà dễ tìm thấy, trời còn lạnh, nếu ngồi bên trong thì ấm hơn. Tôi vẫn có thói quen, những chiều tối không việc gì làm, ở nhà buồn lắm hay ra ngồi đây uống cà phê nhìn người qua lại, về nhà trễ, bà cụ đi tìm đón về…. lại nghe những lời trách hàm chứa yêu thương.. đã trở thành thói quen không bỏ được. Nhà cũng gần đây nhưng cũng tội cho bà cụ, vào mùa đông, khi có tuyết rơi, bà cũng đội tuyết đi tìm đứa con tàn tật nầy !

Hai tách cà phê được mang đến, bà đưa tay phải lấy viên đường. Quốc nhìn thấy bàn tay của bà bị co quắp trừ ngón cái và ngón trỏ còn cử động được, ba ngón còn lại áp chặt vào lòng bàn tay. Bà cầm muỗng khuấy tách cà phê nhẹ nhàng và rất bình thường, không vướng víu…. Quốc thấy lòng dâng lên nỗi ái ngại khi vừa khám phá thêm bàn tay của bà, Quốc quên đi ly cà-phê của mình…. đến khi cà phê được nhấm nháp rồi để xuống bàn, Quốc đang tìm lời đề vào câu chuyện thì bà nói như để nhắc Quốc:

– Không biết tôi phải gọi ông là gì đây ? Còn tên tôi thì ông đã biết rồi, trên đài truyền hình France 3, nay giới thiệu thì quá trễ. Khỏi cần lặp lại phải không ông ?

Bà cười vui vẻ, tự nhiên. Quốc nhận ra sự vụng về của mình, ấp úng trả lời:

– Được gặp bà hôm nay, lòng tôi phấn khởi vô cùng, nên quên giới thiệu tên, mong bà thông cảm. Xin bà gọi tôi là Nguyễn… Nguyễn Minh Quốc.

– Việt nam mình sao nhiều Nguyễn thế ! Đi đâu trên xứ Tây nầy cũng gặp Nguyễn.

Bà cười, hai mắt nhíu lại nhìn Quốc, tay bị tật cầm chiếc muỗng gõ nhẹ vào thành miệng tách cà phê. Quốc vui theo cái vui của bà, đề cập thẳng vào chuyện:

– Bà Trần có thể kể cho tôi câu chuyện về trường hợp nào đưa bà vào việc làm ăn xin để có tiền giúp cho Hội Từ Thiện ?

Bà trầm ngâm một chốc rồi bắt đầu câu chuyện:

– Tôi rời Việt nam vào năm tôi được sáu tuổi vì lý do thương tật của tôi. Vào thời đó Việt Nam đang có chiến tranh và tôi cũng là một nạn nhân của chiến tranh. Tôi là nạn nhân của chiến tranh, nhưng bị thương tật do bị tra tấn, không phải do bom đạn. Lúc đó ba tôi lái xe cho bịnh viện Grall của Pháp ở Sài gòn, trong khi mẹ tôi và tôi sống ở quê nhà, thị trấn Vĩnh điện, miền trung Việt nam, chỉ cách xa thành phố cổ Hội An không tới mười cây số. Mẹ tôi có một tủ kính nhỏ buôn bán vòng vàng trong chợ. Buổi sáng tôi theo mẹ ra chợ, buổi chiều tan chợ, theo mẹ về nhà. Buổi tối, thỉnh thoảng mẹ tôi dạy tôi đọc và tập viết chữ a, b, c, đ. Tôi chưa đến trường, mẹ nói tôi còn quá nhỏ, chưa đủ tuổi đến trường. Đêm nằm ngủ với mẹ, tôi nghe có tiếng ì ầm từ xa xa vọng vào nhà, tôi hỏi mẹ đó là tiếng gì thì nghe mẹ thở dài, giọng buồn buồn trả lời:

– Đó là tiếng súng đại bác, chắc là hai bên đang đánh nhau một nơi nào đó, chiến tranh ngày một rộng ra, dân ở quê bắt đầu khổ rồi, buôn bán ế ẩm.

Nói xong, mẹ ôm tôi vào lòng, im lặng, tôi nghe tiếng đập của tim mẹ. Rồi một đêm đang ngủ, tôi giật mình thức dậy vì nghe tiếng súng nổ “cắc bùm”…”tạch… tạch”, tiếng “chéo chéo“ của đạn bay…. tiêng gà kêu “cục tác” “cục cục”, tiếng heo kêu “ụt..ụt”, có tiếng trẻ con khóc ré lên có lẽ vì sợ… rồi có tiếng ai đó nói to: “Chắc mấy Ổng đang đánh úp quận. Ở đâu mà mấy Ổng về tứ bề, đông thiệt là đông ?”.

Mẹ lôi tôi ra khỏi giường, đẩy tôi xuống bên dưới giường, mẹ nằm bên cạnh. Người mẹ tôi run rẩy, tôi cũng run như mẹ.

Trước đấy không lâu, nghe lời khuyên của bạn bè trong chợ, mẹ đã nhờ người ta mua bao cát nhỏ chất quanh giường ngủ thay vì đào hầm để tránh đạn….nay hai mẹ con tôi có chổ nằm để tránh đạn. Rồi tiếng súng im bặt. Tiếng chân người chạy vội vã, tiếng đập cửa liên hồi, tiếng gọi tên người nầy rồi người khác… tiếng năn nỉ, ấm ức khóc … Lại một tiếng la to: “Bắn“… một tiếng súng nổ…. tiếng đàn bà con nít khóc ré lên nghe thảm thiết. Mẹ ôm chặt tôi rồi. Mẹ kéo nhẹ tôi ra khỏi gầm giường vừa lúc có tiếng đập cửa ầm ầm, tiếng chân đá vào cửa rầm rầm… Có tiếng ra lệnh: “Mở cửa ! mở cửa ! Nếu không tuân lệnh, quân Giải phóng sẽ phá cửa… nếu không mở, chống đối, quân Giải phóng sẽ bắn tại chỗ! “. Mẹ khóc, run lẩy bẩy tiến về phía cửa, trả lời lập cập :

– Tôi mở…tôi mở…nhà không có đàn ông, con trai, chỉ có hai mẹ con tôi là đàn bà con gái! Cửa mở, ánh sáng tràn vào. Tôi nhìn thấy có mấy người ùa vào nhà. Mẹ tôi co rúm người lại. Những người nầy có mang súng chạy tìm kiếm, lục lạo khắp nơi trong nhà, họ nhìn xuống hầm giường mẹ con tôi ngủ và hét lên: “Có còn ai trốn trong đó không thì ra ngay, bắt được quân Giải phóng sẽ không tha!“

Áo quần họ mặc không giống như áo quần quân lính Quốc gia ở quận. Người mặc quần ngắn, kẻ mặc quần dài, áo tay ngắn, tay dài. Người đi chân không, người mang dép vỏ lốp xe. Đàn ông mang súng, con gái có nguời cầm gậy, có người tay không.

Sau khi lục soát nhà xong, một người trong toán lục soát tiến ra cửa nói lớn:

– Báo cáo đồng chí, đã lục soát xong, không có gì khả nghi.

Một người đi vào. Lưng có đeo một súng ngắn. Tôi nhận ra ngay là anh Kéo vì anh mặc cái quần kaki đen có cái lỗ bị cháy nơi đầu gối. Cái quần kaki đen nầy ba tôi mua ở Sài gòn tặng anh Kéo nhân dịp về ăn Tết với gia đình hơn một năm trước đây, mặc dầu anh đội cái mũ tai bèo che phủ hơn nửa phần mặt. Cái lỗ bị rách của cái quần nơi đầu gối là do anh Kéo tạo ra một phần, một phần do tôi. Ngày hôm đó mồng bốn tết mẹ mở cửa hàng, sau tết nên có không ít người đến mua bán. Anh Kéo làm việc cho tiệm vàng của mẹ. Anh thử vàng thật hay giả, anh làm nhẫn, làm giây chuyền. Hôm đó khách hơi đông, anh Kéo quên tắt lửa ống hàn xì khi anh đang trao đổi chuyện với khách hàng, vô ý, mỏ hàn xì làm quần anh bị cháy thủng một lỗ nơi đầu gối, cái quần kaki đen ba tôi mua tặng mặc dịp tết. Khi không còn khách hàng, tôi tinh-nghịch cho ngón tay trỏ vào cái lỗ bị cháy của ống quần kéo mạnh tay, cái lỗ bị cháy rách rộng ra, anh Kéo không nói gì, chỉ cúi xuống vuốt vuốt chỗ bị thủng rách. Nhưng tôi bị mẹ phát cho mấy bàn tay vào mông vì cái tội tinh nghịch.

Mặt trời đã mọc. Anh Kéo lôi mẹ vào góc nhà, anh rút khẩu súng đeo bên hông dí vào trán mẹ. Mẹ tựa lưng vào tường, người khụy xuống nhưng đứng vững bằng hai tay chống trên hai đầu gối. Miệng mẹ hả ra, hai mắt mở to, đầy nước mắt. Anh Kéo hỏi lớn:

– Vàng để đâu, đem hết ra đây đóng góp cho Mặt Trận. Mẹ ngồi bệt xuống đất, hai tay chấp lại, vừa vái anh Kéo liên hồi vừa chỉ cái bình hoa cắm hoa giấy trên bàn thờ, nói không thành tiếng:

– Có bao nhiêu tôi giấu hết trong cái bình hoa đó, lạy ông, ông lấy hết đi và tha cho hai mẹ con tôi.

Lúc anh Kéo đi đến bàn thờ cầm cái bình hoa lên, vứt những bông hoa giấy rồi trút hết những vòng vàng trong bình xuống mặt bàn thờ, tôi thấy hai mắt anh sáng lên, mặt mất dần vẻ hung ác. Trong lúc anh Kéo đang lấy những chiếc nhẫn vàng đeo vào những ngón tay, tôi bò đến ngồi bên cạnh mẹ, khóc ấm ức. Khi anh Kéo lấy hết vàng trên bàn, anh quay lại đứng trước mẹ, lúc nầy mặt anh trở lại hung dữ như trước. Anh dí mũi súng vào trán mẹ hét lên:

– Vàng còn dấu nơi nào nữa hãy chỉ mau, nếu còn dấu diếm Cách mạng sẽ không tha chết đâu!

Mẹ lại khóc, lại chấp tay vái lạy anh Kéo. Lần nầy mẹ quỳ hai gối, đầu rạp xuống trước chân anh Kéo, mẹ nói đứt từng hơi một:

– Ông biết rồi mà, trước đây ông làm việc với tôi, ông biết tôi chỉ có vốn liếng ba lượng vàng, làm thành mẫu mà bày trong tủ kiếng. Khi bán gần hết tôi phải vào Hội An mua thêm vàng cho đủ số vốn ba lượng. Nay còn bấy nhiêu đã chỉ cho ông rồi đó, ông đã lấy hết rồi, đâu còn mô nữa mà giấu.

Anh Kéo ra dấu tay kêu hai người cùng trong nhóm rồi ra lệnh:

– Hãy trói con mẹ nầy lại hỏi còn vàng giấu đâu, nó ngoan cố, thay mặt chính quyền Cách mạng bắn bỏ.

Tôi nghe nói bắn chết mẹ, tôi vùng đứng lên chạy đến ôm cánh tay anh Kéo, nước mắt chan hòa, tôi xin anh Kéo tha cho mẹ, đừng bắn mẹ. Anh Kéo vung tay thật mạnh làm tôi té nhào xuống đất. Anh ra lệnh:

– Các đồng chí cột chân con nhỏ nầy lại treo lên xà nhà để xem mẹ nó còn ngoan cố tới đâu, còn giấu vàng mà không chịu khai báo.

Tôi bị hai người đè xuống nền đất, họ cột một chân của tôi rồi kéo lên treo lơ lững giữa nhà. Tôi vùng vẫy, kêu la trong sự đau đớn. Mẹ nằm co rúm trên nền nhà, dường như sự sợ hãi chen lẫn đau đớn tột cùng làm mẹ mất trí, mẹ lảm nhảm:

– Anh làm cho tôi, anh biết mà, vốn liếng của tôi chỉ có ba lượng làm mẫu cho khách lựa chọn… khi gần hết hàng… phải vào Hội an mua thêm vàng cho đủ ba lượng… nay anh làm Cách mạng, anh lấy hết rồi… còn đâu nữa mà giấu! Anh tha cho con tôi, nó còn nhỏ, nó có biết gì đâu!

Tôi nghe có tiếng họ nói với nhau:

– Con mẹ nầy còn ngoan cố, không nên tha cho nó, các đồng chí đồng ý không?

– Đồng ý…đồng ý!

Cái chân bị cột của tôi càng lúc càng làm tôi đau thêm. Tiếng đồng ý, đồng ý làm tôi khiếp người. Đến một lúc tôi nghe từ cái chân bị cột căng đến tột cùng, tôi nghe từ khớp xương mông phát ra một âm thanh nhu một cành cây khô có ai dẫm lên làm gãy, tôi hét lên và không còn nghe biết gì quanh tôi.

Rồi tôi nghe có tiếng gọi nhau, tiếng chân chạy rầm rập, tiếng súng nổ thưa thớt, tiếng trẻ con gọi cha, gọi mẹ, gọi anh, gọi chị. Tiếng khóc rưng rức âm độ khác nhau trong cả khu xóm. Tôi mở mắt nhìn quanh nhà, duy nhất chỉ còn mẹ đang đứng trên ghế, nâng người tôi lên, với tư thế nầy tôi cảm thấy chân bị trói của tôi bớt đau một chút. Mẹ tìm cách mở giây đỡ tôi xuống đất không được, mẹ đứng như vậy vừa nâng người tôi vừa ôm tôi vào ngực, áp mặt vào thân tôi. Hơi thở của mẹ dồn dập, nóng hổi, thổn thức. Toàn thân tôi, tay chân tê lạnh, chỉ có đầu và mặt tôi nóng hừng hực, hai mắt tôi như có những ngôi sao nằm bên trong.

Cả khu xóm lại yên lặng…. Tiếng một ai đó nói lớn như muốn cho mọi người cùng nghe:

– Chúng nó rút đi rồi. Lính Quốc gia từ Đà nẵng kéo vô, từ Hội an đổ xuống đông lắm. Có tiếng vỗ tay rời rạc, có tiếng nói với nhau mang âm hưởng vui mừng và bình tĩnh hơn.

Mẹ thở ra một hơi dài thật mạnh, rồi kêu lớn:

– Bà con ơi, có ai đó cứu con tôi với… không thì nó chết mất. Bà con ơi, xin cứu con tôi…

Tiếng kêu cứu của mẹ như muốn làm vỡ tung ngôi nhà mái tôn. Nhiều người chạy đến, những ông bà lớn tuổi và con nít. Mấy ông mấy bà tìm cách tháo giây trói không được. Họ dùng dao cắt đứt giây, tôi rơi xuống. Mẹ và mấy ông mấy bà cố đỡ tôi cho khỏi rơi xuống đất, nhưng đà rơi và sức nặng của cơ thể tôi đã không giữ lại được giữa những bàn tay. Tôi rơi xuống nền đất, mẹ ngã trên người tôi vì cố giữ tôi trên tay.

Tôi hét lên…và không còn biết gì nữa.

Chị Thérèse nói tiếp, giọng nhẫn nhục:

– Khi tôi tỉnh lại, mẹ đang ngồi bên tôi, mệt mỏi và buồn rầu. Mẹ cười, hai môi như bị méo, để bàn tay lên trán tôi, mẹ hỏi giọng nghẹn ngào:

– Con tỉnh lại rồi, con còn bị đau nhiều không ? Con ráng chịu đựng rồi sẽ khỏi, con của mẹ !

Tôi cảm thấy một nửa thân tôi và toàn chân bên trái bị bó cứng, bàn tay bên phải cũng bị bó cứng, tôi không cựa quậy được. Toàn thân tôi còn đau đớn nhưng tôi cảm thấy chịu đựng được nên gật đầu như trả lời cho mẹ tôi rằng không còn đau nhiều, tôi muốn nhìn thấy mẹ an tâm. Tôi được điều trị thương tật ở bịnh viện Hội an. Chân phải của tôi bị trật xương khớp háng, các mạch máu không dẫn máu đến được nên toàn chân phải bị chết. Bàn tay phải của tôi bị gãy mấy ngón tay, vì khi được cắt giây bị treo trên sà nhà rơi xuống, bàn tay tôi chống đất trước. Hội đồng bác sĩ của bịnh viện không chấp thuận đề nghị của bác sĩ điều trị cắt một phần chân của tôi vì sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Ba tháng sau tôi được xuất viện, chân tôi không duỗi thẳng được, vẫn cong, nên tôi phải dùng nạng. Ba ngón tay của bàn tay phải bị gãy, khép vào lòng bàn tay không cử động được. Mẹ bán nhà, hai mẹ con vào Sài gòn sống với ba. Biết được tình trạng thương tật của tôi, bác sĩ người Pháp giám đốc bịnh viện Grall cũng là hội trưởng hội Chữ Thập Đỏ của Pháp tại Việt nam đã làm thủ tục đưa tôi qua Pháp để được tiếp tục chữa trị. Một gia đình người Pháp không con nhận bảo trợ cho tôi. Tôi rời Việt nam năm 1967, vừa đúng sáu tuổi. Gia đình người Pháp bảo trợ cho tôi gốc Bồ đào Nha rất sùng đạo Thiên chúa. Chồng làm việc cho một hãng bào chế thuốc. Vợ là y tá điều dưỡng của một bịnh viện. Gia đình cư ngụ vùng Bắc thành phố Paris.

Một tuần có hai ngày tôi được xe bịnh viện đón đưa đến trung tâm Phục hồi Chức năng để được săn sóc thương tật. Những ngày còn lại trong tuần tôi cũng đươc xe đưa đón đi học tại một trường dành cho trẻ em khuyết tật.

Mặc dầu được chữa trị bằng phương tiện y khoa tân tiến vào thời đó, thương tật của tôi không trở lại bình thường… và tôi trở thành khuyết tật vĩnh viễn. Gia đình bảo trợ tôi không muốn tôi trở lại Viêt nam, làm thủ tục xin nhận tôi làm con với sự đồng ý của ba mẹ tôi. Tôi tiếp tục được đi học chữ tại trường cho người khuyết tật đến hết chương trình trung học. Cuối tuần hay những ngày nghỉ lễ, tôi phụ giúp cho chi hội Chữ Thập Đỏ địa phương, làm nhiệm vụ tiếp nhận tặng phẩm và tiền bạc của những người hảo tâm đem đến ủng hộ cho hội hoặc đôi khi lập thành nhóm đi lạc quyên ngoài đường phố hay tại các trung tâm thương mại lớn.

Năm 1975, tôi đang chuẩn bị vào trung học đệ nhị cấp thì tại Việt nam chính quyền Cộng sản Miền Bắc đánh chiếm và cai trị Miền Nam. Ba mẹ tôi được sứ quán Pháp cho phép theo nhân viên người Pháp phục vụ tại bịnh viện Grall qua Pháp tị nạn vì sợ chính quyền mới qui tội làm việc cho ngoại bang. Tôi tiếp tục học hết trung học, vào đại học, rồi ra trường đi dạy. Hai người bảo trợ cũng là cha mẹ nuôi tôi sau nầy lần lượt theo hầu Đức chúa trời vì cao tuổi. Ba tôi cũng rời bỏ hai mẹ con tôi sau một cơn bệnh đột ngột vì tim. Năm đó, tôi ba mươi bảy tuổi. Me rời bỏ tỉnh, lên Paris sống chung với tôi. Theo lời trăn trối của ba muốn đem tro cốt về quê nhà, mẹ và tôi quyết định đi về thăm Việt nam. Sau khi tro cốt của ba được được gởi trong chùa ở Hội an và vài ngày thăm viếng bạn bè quen biết, mẹ và tôi trở ra Vĩnh Điện thăm làng xóm cũ. Tôi không còn ghi nhớ gì nhiều khung cảnh ở đây vì đã rời gần ba mươi năm trước. Chỉ nghe người thân quen của mẹ nhắc lại chuyện giặc giã ba mươi năm trước tấn công và chiếm đóng thị xã và tôi là một phần nhỏ trong những tai ương ở xóm cũ. Chúng tôi lên đường vào Sai gòn để trở lại Pháp, trước khi đi mẹ mời vài người thân quen ngày trước cùng buôn bán trong chợ cạnh tủ vàng của mẹ, tham dự một bữa cơm thân mật tại một nhà hàng nhỏ. Đang lúc ăn và chuyện trò vui vẻ thì bỗng dưng mọi người ngừng nói. Một ông bác hỏi mẹ:

– Thím Ba có nhận người nầy là ai không?

Ông nhìn về hướng cửa vào nhà hàng ăn. Tôi và mẹ nhìn theo hướng nhìn của ông….

Một ông già chống nạng cụt một chân, hai mắt bị mù, được một cô gái có cổ nghiêng qua một bên, mặt hướng lên trời dẫn đi. Hai người tiến gần đến bàn ăn của chúng tôi. Họ đang đi xin ăn.

Mẹ tôi lắc đầu trả lời bác, nói “không biết”.

– Thằng Kéo mà thím không nhận ra sao, ngày trước nó là thợ làm vàng cho thím đó ? Ông bác nói với mẹ.

Mẹ mở to mắt, miệng hả ra, rồi nhắm mắt lại thở ra, khi nhận ra tên nguời làm hồi truớc. Tôi thấy toàn thân cứng lạnh, sợ hãi khi nhìn lại kẻ đã cột treo mình lên sà nhà để tra khảo mẹ nơi dấu vàng mấy chục năm trước. Ông bác kể:

– Sau cái năm nó kéo du kích về đánh chiếm Vĩnh Điện mình một đêm, một ngày, thì thị xã được lính Quốc gia chiếm lại bọn nó rút về Gò nổi, bị máy bay Quốc gia dập bom banh càng, nó mất một chân…Sau chiến tranh, chính-quyền mới cho làm khóm trưởng đâu bên Gò nổi, một đêm tối, sau khi đi vận động nông dân vào hợp tác xã nông nghiêp, trên đường về, nó bị mấy người lạ mặt chận lại đánh bị thuơng nặng, làm mù hai mắt, rồi trói lại bỏ trong ruộng dâu. Đứa con gái dẫn nó đi ăn xin là con của nó, khi sinh ra đã bị tật như vậy.“

Tôi nhìn cô gái, mặt cứ ngữa nhìn lên trời. Tôi chợt nhớ đến cái đêm tôi bị trói, treo lên sà nhà, mặt mẹ lúc nào cũng ngước lên nhìn tôi, đau đớn, sợ hãi và chan hòa nước mắt. Còn cô gái nầy suốt đời phải ngước mặt nhìn trời là tại làm sao vậy ? Trần gian nầy đang quá khổ đau nên không dám nhìn xuống ? Cầu xin ơn trên tha lỗi cho cha mình đã một thời gieo rắc tang thương cho đồng bào mình ? Nếu đúng vậy thì tội tình nầy đã đến với cô một cách bất công và cay nghiệt ! Lòng tôi ái ngại khi nhìn thấy cô.

Ông bác kể tiếp:

– Chính quyền địa phương xếp nó vào diện thương binh liệt sĩ, được trợ cấp, nhưng không đủ sống, dân địa phương xa lánh vì sự tàn bạo nó đã gây ra trước đây, rồi vợ bỏ, để lại đứa con rồi đi biệt xứ. Hàng ngày hai cha con rời làng vào đây xin ăn. Khi hai người ăn xin đến gần bàn ăn, mẹ tự nhiên đứng lên vội vàng đi vào nhà vệ sinh. Tôi cũng đứng lên, đi “lọc cọc” theo mẹ . Hai mẹ con đứng yên lặng trong nhà vệ sinh, không trao đổi với nhau một lời, chỉ nhìn nhau…..

Khi hai mẹ con trở ra lại bàn ăn, hai người ăn xin đã đi qua những bàn thực khách khác.

Bữa cơm thân mật chấm dứt, mọi người chia tay với những chúc lành đẹp nhất. Dưới ánh sáng vàng vọt của những cột điện ven đường, hai người ăn xin đang đi phía trước, dưới những hàng cây khẳng khiu, thưa lá. Khi vượt qua hai người ăn xin, tôi dừng lại, cho tay vào túi xách lấy ra mấy tờ bạc dúi vào tay cô gái rồi theo mẹ băng qua đường một cách vội vàng. Trong đêm tối yên tĩnh, tôi nghe rõ tiếng nạng “cộp…cộp “của anh Kéo vang lên chen cùng tiêng nạng “cộp…cộp” của tôi nghe buồn da diết.

Trong những ngay chờ đợi chuyến bay về lại Pháp tại Sài gòn, một buổi sáng, mẹ và tôi dùng điểm tâm tại một tiệm phở. Khi hai mẹ con tôi vừa ăn xong thì một người đàn ông không còn chân lết đến bên cạnh nhìn thẳng vào hai mẹ con tôi, đưa một một túi nhựa ra trước mặt, hỏi:

– Hai bà ăn xong rồi, phần dư còn lại không ăn hết, xin cho vào túi nhựa của tôi.

Mẹ e ngại trút phần ăn còn lại của hai tô phở vào túi nhựa với nét mặt đầy xúc động, rồi lặng lẽ lấy mấy tờ bạc để vào tay ông, mẹ nói:

– Chú giữ lấy tiền nầy để mua thêm thứ gì để ăn. Người đàn ông cầm tiền, cứ chăm chăm nhìn mặt mẹ rồi lết ra bên ngoài tiệm phở. Bên ngoài có một đám con nít, tay xách thùng đánh giày, tay cầm vé số, tay cầm lon xin tiền, tay cầm túi nhựa xin thức ăn thừa, muốn vào tiệm nhưng bị người quản lý ngăn chận. Khi mẹ và tôi bước ra khỏi tiệm phở, lũ con nít ùa tới vây quanh, mỗi đứa nói một câu lao nhao, mẹ đưa tay nhẹ nhàng gạt chúng qua một bên để có lối đi cho hai mẹ con. Giữa lúc đó, từ trong một góc, người ăn xin cụt hai chân lết lần về phía chúng tôi, hỏi lớn:

– Có phải bà là thím Ba ngày xưa có tủ vàng trong chợ Vĩnh Điện không ? Cháu nhìn không sai đâu. Hồi đó thím nổi tiếng khu Vĩnh điện, mọi người đều nói như vậy. Mắt thím đẹp, ai cũng biết. Con Chút, con gái của thím cũng có cặp mắt giống thím như vậy. Cô nầy chắc là con Chút ngày xưa, bị mấy thằng trong rừng ra quậy phá phố Vĩnh Điện bắt treo lên khảo vàng nhà thím, làm nó bị thương, phải không thím ?

Ông vừa nói vừa chỉ tay vào tôi. Tôi ngạc nhiên, cố tìm trong trí nhớ người nầy là ai….Thấy mẹ do dự một lúc rồi gật đầu xác nhận. Mẹ lại hỏi:

– Tôi nay lớn tuổi rồi, trí nhớ không còn như trước, không nhớ chú là ai vậy?

Người ăn xin cụt hai chân nói giọng vui mừng:

– Cháu là con ông Tư Cải cùng xóm với thím đó, cháu là thằng Lự đây. Hồi thằng Kéo đem du kích của nó đánh Vĩnh Điện, nó bắt ông già cháu đi theo vì ông không chịu đóng thuế nông hội cho chúng. Mấy tháng sau dân chúng vớt được xác ông già cháu nổi trên bến đò Hoa trà. Đêm đó thằng Kéo vào nhà thím treo con Chút lên kèo nhà để khảo vàng, chuyện ấy ai cũng biết.

Mẹ thừ người ra, mặt đượm nét sầu đau. Còn tôi, khi được nghe nhắc đến tên Chút, cái tên mà ba mươi năm nay không còn ai nhắc đến, đã vào trong quên lãng của mọi người, nay được nghe lại, tôi bồi hồi xúc động. Ký ức tuổi thơ của tôi chợt thức giấc: Thằng Lự đây sao ? Hồi đó hai đứa cùng lũ bạn trong xóm, suốt ngày lêu lỗng ngoài xóm, chơi lò cò, chơi nhảy dây, chơi u, chơi ném lon… thằng Lự khỏe mạnh, thường hay bênh vực tôi mỗi khi bị bọn trẻ khác hiếp đáp ! Tôi đang nghĩ đến ngày xa xưa, thì nghe tiếng mẹ :

– Tại sao cháu ra nông nổi tàn tật như thế nầy ?

– Năm 1979, cháu bị bắt vào lính, đưa ra Bắc đánh nhau vời Trung quốc, cháu bị thương cụt hai chân. Đời sống khổ lắm thím, nhà nước trợ cấp nhưng sống vẫn thiếu trước hụt sau… người ta quy kết trước đây ông già cháu có tội với cách mạng vì không nộp thuế nông hội, nay mặc dầu cháu hy sinh một phần cơ thể cho đất nước, nhưng cháu phải tiếp tục trả cái nợ trước đây của ông già, vì vậy phần trợ cấp thương binh của cháu bị địa phương cắt giảm không đủ vào đâu nên cháu phải xin ăn.

Tôi nhìn thân thể tật nguyền và teo gầy của Lự, nước mắt ứa ra. Tôi bước lần đến bên Lự, buông nạng, quỳ một chân trước Lự, nhìn sững Lự rồi bật khóc như ngày nào bị chúng bạn hiếp đáp, khóc to lên để Lự chạy đến bênh vực, che chở. Tôi nghe từ phía Lự cũng có tiếng nấc lên, thổn thức. Trong làn nước mắt, tôi thấy tôi đang chạy trốn thật nhanh, đàng sau, Lự đứng giang hai tay như người hiệp sĩ ngăn cản lũ cướp là đám con nít đưổi theo sau trong khi hơn thua nhau trong một trò chơi giành giựt nhau của trẻ con.

Tôi im lặng. Lự im lặng. Mẹ nhẹ nhàng kéo tay tôi đứng dậy. Tôi đứng lên. Lự vẫn ngồi bất động. Chung quanh có nhiều người hiếu kỳ đứng lại nhìn chúng tôi. Mẹ gọi hai xe xích lô, mẹ một chiếc, tôi ngồi chung xe với Lự. Trên đường dẫn về nhà Lự, tôi chẳng nhìn thấy gì ngoài những hình ảnh một thời thơ ấu của tôi cuộn chảy về như một dòng sông ký ức. Tôi nhìn thấy một con bé lúc nào cũng được che chở, được binh vực dù con bé sai quấy, ngay cả khi con bé đó tham lam lấy đồ chơi của người khác làm của mình. Nhưng rồi cũng có lúc con bé trở nên hung dữ, ném dép và đá sỏi vào Lự vì con bé bị ngăn chận không cho leo lên cây hái mấy trái ổi, sợ bị té. Một viên đá đă làm trán Lự chảy máu, Lự kéo áo lau máu, chạy về nhà. Con bé chạy theo, Lự khép cửa không cho nó vào nhà, Lự giận, con bé ngồi bên ngoài lo sợ cho vết thương của Lự, khóc ấm ức… Kỷ niệm đang trở về, trong vô thức, tôi đưa bàn tay thương tật sờ lên trán Lự, nơi vết thương của ngày nào… Bỗng nhiên Lự cũng đưa một tay lên vỗ nhẹ vào tay tôi đang dặt trên trán Lự . Lự cười và nói như nói với tôi và như nói với chính mình:

– Sẹo của vết thương đã phai theo thời gian, nhưng kỷ niệm về vết thương vẫn nhớ mãi.

Lự nói, mắt vẫn nhìn về phía trước. Lự đã hiểu lòng tôi khi bàn tay tôi để lên trán Lự để nhớ về tháng năm thơ ấu thân yêu. Tôi nhìn Lự, ngầm nói lên lời cảm ơn tình bạn thân ái vẫn còn lại với tháng năm. Lự sống với gia đình em gái trong khu ngã tư Bảy Hiền, nơi dân Quảng nam, vùng Gò nổi, vốn tiếng tăm với nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt Lụa, Thao, Đũi, bỏ xứ vào đây lập nghiệp, tránh chiến tranh ác liệt. Vợ chồng em gái Lự làm nghề vệ sinh, hốt rác trong khu phố, nuôi ba đứa con, thiếu trước hụt sau nên việc ăn uống cá nhân Lự tự giải quyêt. Lự cần một nơi tránh gió tránh mưa nắng nơi nhà em gái. Tôi rất đau lòng cho cuộc sống của Lự. Có lúc tôi vu vơ nghĩ quanh: “Cái đêm anh Kéo bắt treo tôi lên sà nhà… Lự lúc đó đang ở đâu mà không xuất hiện cứu tôi ? “. Rồi tôi tự cười mình… ba mươi bảy tuổi rồi… còn nghĩ đến ngày xưa còn bé ! Tiểu hiệp sĩ ngày xưa oai nghi như một thiên thần, nay thiên thần đã gãy cánh !

Mẹ đồng ý xin hoãn chuyến bay về lại Pháp ba ngày theo đề nghị của tôi. Tôi có thời gian giúp Lự khám sức khỏe toàn diện cũng như đi mua cho Lự một chiếc xe lăn. Mẹ tôi giúp Lự và gia đình em gái Lự một số tiền để xoay sở sinh sống. Có một điều Lự phàn nàn với tôi là tại sao không gọi Kéo là tên Kéo, thằng Kéo mà gọi là anh Kéo, nó là tên ác ôn mà. Tôi trả lời một cách thản nhiên:

– Đó chỉ là thói quen thôi, dù gọi tên Kéo, thằng Kéo hay là gì gì đi nữa thì Kéo vẫn là kẻ độc ác, đáng nguyền rủa…

Sau chuyến về Viêt nam rồi trở lại Paris, sức khỏe của mẹ bắt đầu sa sút. Cùng lúc trường học giảm tối đa giáo viên giảng dạy vì số lượng học sinh ngày một giảm vì người Pháp không muốn sinh con. Lợi dụng bị thuyên chuyển làm việc xa nhà, thân tàn tật di chuyển khó khăn, tôi xin nghỉ việc để có thời gian lo săn sóc mẹ. Thời gian rảnh rỗi, tôi vẫn tiếp tục làm việc thiện nguyện cho Hội Chữ Thập Đỏ. Rồi chiến tranh ở Bắc Phi, chiến tranh ở Trung đông liên tiếp xẩy ra, tôi có dịp theo hội cứu giúp trong các trại tỵ nạn nơi xẩy ra chiến cuộc. Sự tàn phá, chết chóc do chiến-tranh tạo ra gây cho tôi kiệt lực. Người ta nhân danh chiến tranh để giải phóng con người ra khỏi đói nghèo và áp bức, nhưng sau chiến tranh, đói nghèo và áp bức càng gia tăng do hậu quả cuộc chiến để lại và lòng tham muốn quyền lực chiếm đoạt và sự trả thù của bên thắng cuộc đối với kẻ thua cuộc. Cường độ của độc ác, bóc lột, đói nghèo gia tăng thì lòng nhân đạo giúp đỡ nhau đi xuống. Chiến tranh ở Việt nam có “Kéo” ác độc chủ động tham dự, “Lự” bị cưỡng bách, có “Chút” là tôi, một thường dân vô tội, thì các nạn nhân chiến tranh ở Trung đông, Bắc Phi cũng không khác. Tôi nói lòng nhân đạo đi xuống là muốn nói lòng nhân đạo tự nguyện đối với nạn nhân của mọi biến cố xa gần, trực tiếp hay gián tiếp đã trở nên cằn cỗi… nên một số anh chị em trong hội tự chọn cho mình một phương cách hữu hiệu, an toàn để tạo thêm nguồn tài chánh cho trung ương, và tôi đã chọn là mỗi tuần tôi để ra ba buổi chiều xin tiền trong hầm xe điện ngầm. Lúc đầu chuyện không đơn giản, vì anh chị em trong nhóm thấy quyết định của tôi có vẻ sẽ gây bất mãn và gây dị nghị cho tổ chức, nhưng tôi đã thuyết phục được họ vì tôi làm không nhân danh hội, chỉ có tính cách cá nhân. Những tuần lễ đầu tiên, khách qua lại trong đường hầm xe điện ngầm ném cho tôi những cái nhíu mày tỏ vẻ bực bội. Tôi biết, một người khuyết tật ở xứ Pháp nầy sẽ được xã hội bảo bọc chu toàn nên xin ăn là điều sỉ nhục cho đất nước. Tôi để hộp xin tiền trước mặt, ngồi im, hai mắt nhắm lại. Một ngày qua đi, ba ngày trong tuần qua đi, không có một xu nào được ném vào hộp. Qua tuần lễ thứ hai, lác đác tôi nghe có tiếng tiền kim loại được ném vào hộp…. Rồi một tuần sau đó, niềm vui và tin tưởng đến với tôi. Một nhóm học trò cũ của tôi được cô thầy giáo hướng dẫn du hành nghiên cứu thực tế bên ngoài xã hội để áp dụng cho một chương trình học trong lớp đi ngang qua chỗ tôi ngồi xin. Có lẽ do sự giải thích của cô thầy giáo đồng nghiệp cũ của tôi về việc làm của tôi nên các em vây quanh tôi vỗ tay reo hò, nhiều em bỏ tiền vào hộp. Có em giải thích việc làm của tôi với khách qua lại dừng chân vì hiếu kỳ, họ cũng bỏ tiền vào hộp. Hôm đó, lần đầu tiên trong những ngày bắt đầu xin tiền, tôi nhận được khá nhiều tiền, lòng thật vui, đầy phấn khởi. Cũng có lẽ sau ngày hôm đó, những cái nhìn của khách qua lại ném cho có nhiều thiện cảm hơn, có khách dừng chân, nhẹ nhàng bỏ những tờ giấy bạc hay những đồng tiền bằng kim loại vào hộp, không quên kèm thêm một nụ cười. Hạnh phúc nhất đến với tôi là sau một năm thực hiên việc xin tiền, đài truyền hình France 3 đưa tin tức công việc của tôi cho mọi người biết. Có một câu hỏi mà câu trả lời tôi thích nhất từ đó cho tới nay. Người ta hỏi:

– Bà là người Pháp, gốc Việt nam, có phải việc làm của bà nhằm mục đích có tiền góp cho hội Chữ Thập Đỏ dành riêng giúp cho những nhu cầu cần thiết hàn gắn những vết thương do thiên tai tạo ra bên Việt nam ?

– Thưa không phải là như vậy. Việc tôi làm là để đóng góp tài chánh cho hội Chữ Thập Đỏ. Sự đóng góp của tôi không bằng một hạt cát trong đại dương mênh mông. Việc phân phối giúp đỡ theo nhu cầu ở một nơi nào đó là do Hội nghiên cứu và quyết định. Hội Chữ Thập Đỏ làm việc cho toàn thế giới, không riêng cho một nước nào. Ngay tại nước Pháp của chúng ta, cũng có những lúc, có những nơi cần có sự góp sức của hội Chữ Thập Đỏ.

* * *

Tôi nhấp cạn phần còn lại của tách cà phê, lòng cảm thấy nhói vì câu chuyện.

vàng

truyện ngắn: nguyễn đại thuật

❤ ❤
May be an image of outdoors

NGƯỜI MẸ CỦA THIÊN TÀI

Le Tu Ngoc

NGƯỜI MẸ CỦA THIÊN TÀI

Đó là một ngày đẹp trời vào những năm 1854~1855, khi cậu bé Thomas mới khoảng 7 tuổi. Hôm ấy, Thomas chạy từ trường về nhà và nói với mẹ: “Mẹ, thầy giáo bảo con đưa cho mẹ cái này!”

Bà Nancy Elliott cẩn thận mở ra đọc, bên trong là lá thư của giáo viên chủ nhiệm gửi phụ huynh em Thomas. Bỗng nước mắt bà giàn giụa khiến cậu bé Thomas đứng ngẩn người ra vì kinh ngạc, cậu hỏi mẹ rằng thầy giáo đã viết gì trong đó?

Ngập ngừng một lát, bà Nancy đọc to lá thư cho con trai mình:

“Con trai của ông bà là một Thiên Tài! Nhưng ngôi trường này quá nhỏ, các giáo viên của chúng tôi cũng không có đủ năng lực để dạy dỗ cậu bé. Bởi vậy, xin ông bà hãy tự kèm cặp con trai mình”.

Nhiều năm sau đó, mẹ của Thomas đã qua đời, còn con trai bà thì trở thành một trong những nhà phát minh vĩ đại nhất thế kỷ 20, người được mệnh danh là “Thầy phù thủy ở Menlo Park” nhờ những sáng chế thiên tài cống hiến cho nhân loại. Một ngày khi Thomas xem lại những kỷ vật của gia đình, cậu vô tình nhìn thấy một tờ giấy gập nhỏ được cất trong ngăn kéo bàn. Thomas tò mò đã mở ra đọc, trước mắt cậu chính là lá thư của thầy giáo năm nào. Trên đó viết:

“Con trai ông bà là đứa trẻ rối trí (tâm thần). Chúng tôi không thể chấp nhận cho trò ấy đến trường được nữa”.

Thomas đã khóc hàng giờ sau khi đọc lá thư ấy. Về sau, cậu viết trong nhật ký rằng:

“Thomas Alva Edison là một đứa trẻ rối trí, mà, nhờ có một người mẹ anh hùng, cậu đã trở thành thiên tài của thế kỷ”.

Câu chuyện trên là một giai thoại nổi tiếng về thiên tài sáng chế Thomas Edison. Việc thầy giáo gọi Edison là đứa trẻ “rối trí” là có thật, việc Edison bị đuổi học là có thật, và việc Edison được mẹ kèm cặp riêng tại nhà cũng là có thật.

Ngày nay chúng ta nhắc về Thomas Edison như một nhà phát minh lỗi lạc, một biểu tượng của trí tuệ và thành công. Thế nhưng tuổi thơ của ông lại gắn liền với một chuỗi những thất bại. Các giáo viên trong trường ruồng bỏ và coi Edison là đứa trẻ đần độn “không thể dạy dỗ được”; cha của ông thì cho rằng Edison có vấn đề về thần kinh và chậm phát triển, mãi tới 4 tuổi mới bắt đầu biết nói; bác sĩ gia đình thì e ngại rằng trí não của Edison bị tổn hại từ thuở lọt lòng; bản thân ông cũng là đứa trẻ yếu ớt và hay đau ốm, đến mức người ta lo sợ rằng Edison sẽ không thể sống tới tuổi trưởng thành…

Thế nhưng, khi tất cả mọi người đều quay lưng và nói rằng Edison là không có triển vọng, thì vẫn có một người luôn đặt trọn niềm tin vào ông. Đó chính là “người mẹ của Thiên tài” bà Nancy Elliott – người không bao giờ từ bỏ hy vọng vào con trai mình. Chính tình yêu và sự hy sinh vĩ đại ấy đã nâng đỡ và đánh thức tiềm năng trong ông, gieo vào ông những hạt giống của niềm tin để chúng nảy nở, đơm hoa, rồi kết trái. Và nếu không có một người mẹ như bà Nancy Elliott, có lẽ nhân loại chúng ta sẽ vắng bóng những chiếc bóng đèn điện, những chiếc máy quay đĩa, máy chiếu phim, máy ghi âm, và hàng ngàn phát minh ưu việt khác.

Trong cuốn tiểu sử cuộc đời mình cũng như rất nhiều bài phỏng vấn khác nhau, Edison luôn nhắc về mẹ với tấm lòng thành kính. Đối với ông, mẹ là người phụ nữ tuyệt vời, người đã khiến ông tự hứa với bản thân rằng cần phải làm điều gì đó để bà luôn tự hào về con trai mình. “Mẹ có sức ảnh hưởng sâu sắc trong suốt cuộc đời tôi. Tôi đã luôn là một đứa trẻ bất cẩn, và với một người mẹ có tính khí khác nhau thì đáng lẽ tôi đã trở nên hư hỏng. Nhưng chính sự kiên định, ngọt ngào, và dịu dàng của mẹ đã tạo nên sức mạnh to lớn để giữ tôi bước đi trên con đường ngay chính. Chính mẹ đã tạo ra tôi. Bà rất tin tưởng và chắc chắn về tôi; và tôi cảm thấy rằng tôi có điều gì đó để sống, một ai đó mà tôi không thể làm cho thất vọng.”

Dưới đây là bộ phim ngắn dựa trên giai thoại kể trên về Thomas Edison và mẹ ông, bà Nancy Elliott:

https://www.facebook.com/songdeptv1/videos/1500345386715528/?hc_location=ufi

Lời bàn:

Có rất nhiều giai thoại khác nhau về Edison, và mỗi câu chuyện trong số đó đều để lại dư âm khó phai mờ trong chúng ta. Nhưng riêng trong câu chuyện kể trên, tôi lại cảm nhận được giá trị to lớn của niềm tin và tình yêu thương.

Niềm tin không hình dáng, vậy mà có sức mạnh để giúp ta làm nên những điều lớn lao. Niềm tin cho ta thêm quyết tâm để theo đuổi giấc mơ, thêm nghị lực để vượt qua gian khó, và thêm động lực để biến những điều không thể thành có thể. Cũng như cậu bé Thomas năm nào, ai dám khẳng định đứa trẻ chậm nói và yếu ớt ấy lại là người mở đầu cho những phát minh khoa học sau này? Vậy nhưng đó lại là sự thật, để chúng ta tự nhìn lại bản thân: Bạn có dám tin tưởng vào chính mình hay không?

Bài học thứ hai là tình yêu thương. Ai đó nói tình yêu của người mẹ là vĩ đại nhất trên cuộc đời này, và đúng như vậy. Tình yêu ấy không chỉ nâng đỡ, mà còn có thể thay đổi một con người.

Và điều cuối cùng mà tôi muốn nhắc đến, đó là sức mạnh của những lời nói đẹp. Một lời nói có thể vùi dập tinh thần, nhưng cũng một lời nói lại có thể nâng đỡ và cổ vũ con người. Bởi vậy, hà cớ gì chúng ta cứ phải buông ra những lời than phiền, oán trách, hay chê bai một ai đó? Chỉ cần thay đổi một chút thôi, hãy nói về khuyết điểm bằng những lời khuyên nhủ, nói về ưu điểm bằng những lời động viên, và nói về thành tựu bằng những lời khích lệ, biết đâu bạn sẽ góp phần tạo ra một kỳ tích trong tương lai?

Hồng Liên.

Bức tượng Thomas Edison và mẹ tại quê nhà ở Milan, Ohio

#gota st

May be an image of 2 people, outdoors and monument

Thư Gửi Người Chồng Cũ – Truyện ngắn

Thư Gửi Người Chồng Cũ- Truyện ngắn

Hương Thủy

Mình biết nhau từ thời mới lớn, cùng đi trên một con đường đến trường, chỉ khác lớp. Gặp nhau có cười – cùng xóm mà – nhưng không thân. Tuổi dậy thì có nhiều rung động nhưng không cùng tần số. Bên ni biết bên tê “bồ” ai.

Anh nghèo – lạ thiệt, em quen ai cũng nghèo – Cha chết năm Mậu Thân 1968, tìm ra xác ở Thành Lồi sau ba tháng. Từ Huế, anh ra Quảng Trị nhờ ông chú nuôi dưỡng. Nhà ở trong xóm Hói, đi học trời lạnh chỉ có cái áo khoác mong manh.

Con nhà nghèo thường học chăm. Anh thuộc loại cần cù, chịu khó. Mặt xương, ngực lép do thiếu ăn. Em nhìn thấy tội. Nhưng phải công nhận anh có đôi mắt đẹp.

Năm 1972, mùa hè đỏ lửa, trường Nguyễn Hoàng tan tác. Nhà em chạy vào Đà Nẵng, ở trại tạm cư bên Non Nước một thời gian rồi chuyển về đường Đống Đa. Em thi đậu vào Đại Học Sư Phạm Huế. Ba và anh chị thương con út, gởi vào Internat Jeanne D’Arc của các Soeur dòng Saint Paul, một cư xá thuộc loại quý tộc. Ăn có người dọn, giặt ủi có người lo, thậm chí buổi chiều có cả gouter. Em học thêm tiếng Pháp với Soeur Madelaine. Cuộc sống hồn nhiên, vô tư lự.

Em gặp lại anh ở Huế. Anh học trường Luật. Mặt mày sáng sủa nhưng vẫn phải sống nương nhờ vào bà dì đại lý gạo ở đường Quỳnh Lưu. Mạ và các em sống trong ngôi nhà tranh ở làng Đốc Sơ ngoài cửa An Hòa. Mình hỏi thăm nhau như những người bạn cùng xóm, cùng quê. Anh vẫn có một chút mặc cảm trước em. Mỗi mùa hè, em bay về Đà Lạt. Ở đó có anh chị của em, có người yêu em…

Có một lần, em tình cờ bắt gặp người yêu em đi cùng một cô gái trên chuyến xe đò An Cựu trong đợt công tác Chiến Tranh Chính Trị ở Quân Khu I. Lòng kiêu hãnh của em bị tổn thương. Anh ấy cũng không kịp giải thích. Em cắt thư từ. Em đi chơi với Kim Chi, Tường Vy, với nhóm quý tộc… Tất cả những nơi sang trọng ở Huế đều có dấu chân em.

Em lại gặp anh. Em biết anh có tình cảm với em. Anh tháp tùng em cùng Ma Soeur Chantal trên chiếc xe Jeep của Robert Lửa Nguyễn Xuân Phúc điều phái ra Quảng Trị theo lời xin của em với ông anh kết nghĩa. Chúng ta đã đến căn nhà xưa của em, đã ngậm ngùi nhìn đống gạch ngói đổ nát. Chúng ta nhắc tên những người hàng xóm cũ. Chúng ta xem trao trả tù binh trên sông Thạch Hãn. Em có đến thăm anh ở căn nhà của bạn anh trên đường Nguyễn Công Trứ nhưng sau đó chúng ta chia tay nhau.

Năm 1975, em bước xuống cuộc đời. Nhà em hai anh rể và hai anh trai đi cải tạo. Ba em đã già, mất tiền gởi ngân hàng, mất luôn tiền hưu trí công chức chưa kịp lãnh. Nội trú xưa trở thành doanh trại Quân Đội Nhân Dân. Từ giã cuộc sống phồn hoa, em ở cùng bạn thân Kim Chi trong một căn phòng trọ đường Trương Định. Hai đứa ăn một phần cơm, phần gạo tiêu chuẩn bán đi lấy tiền chi dụng. Người yêu em “nghìn trùng xa cách”. Còn anh, thỉnh thoảng em gặp đi với một cô bé cũng dễ thương, ở đâu trong Thành Nội.

Em ra trường đổi về tỉnh Lâm Đồng. Không phải ngẫu nhiên mà em chọn đây. Đà Lạt, thành phố tuổi nhỏ thân quen; Đà Lạt, nơi chị em đang sống; Đà Lạt, dấu ấn mối tình đầu của em với cái nắm tay trong một đêm tối có tiếng rì rào của rặng thông trước hiên nhà.

Một lần nữa chúng ta gặp nhau. Có phải bàn tay định mệnh? Trường Luật bãi bỏ, anh vào Sài Gòn sống nhờ bè bạn, chuyển sang trường Kinh Tế. Ra trường cũng đổi về Lâm Đồng.

“Tha hương ngộ cố tri”, một hạnh phúc mà bài thơ xưa đã nói. Mạ anh đã mất, các em anh ly tán. Em bùi ngùi. Chúng ta thân nhau hơn. Em xác xơ với cái ngành sư phạm, quần áo rộng thênh. Anh thi thoảng được mua hàng tiêu chuẩn đặc lợi của ngành nhưng cũng chỉ đủ tiền đóng cơm tập thể và hút thuốc..

Rồi chúng ta quyết định lấy nhau. Từ tình yêu ư? Không hẳn thế. Do thời cuộc thì đúng hơn. Chúng ta không có những cuộc hẹn hò thơ mộng.. Chúng ta cũng không có những bức thư tình ngọt ngào đằm thắm. Nhà cô người yêu cũ của anh chê anh “tứ cố vô thân”. Sau bao năm bặt tin, em cũng biết người yêu xưa của mình đã có vợ ở quê. Số mệnh! Thôi thì đành. Đám cưới của em không có xe hoa, không có pháo nổ, không có ảnh màu. Ba em thở dài, cho hai chỉ vàng làm vốn.

Chúng ta đã trải qua thời bao cấp khốn khó. Con chúng ta đặt tên Chou và Beurre. Nghe cứ như Tây nhưng thực sự đó là món ăn thường nhật của gia đình ta. Mãi đến bây giờ em còn phát sợ cái món su xào. Những lần về Sài Gòn thăm chị, em xách theo ba kí lô trà khô lèn chặt để kiếm thêm chi phí. Những lần cơ quan kiểm kê, anh nhặt nhạnh giấy vụn về bán kiếm cho con hộp sữa Ông Thọ vàng khè. Chúng ta sống bình thường, cũng có những giận hờn nhưng không trầm trọng. Tất cả đều cắm mặt vào mưu sinh, hơi đâu mà cãi cọ khi tiêu chuẩn hàng tháng là 7 kg gạo hẩm và 3 kg bo bo. Gia tài của chúng ta là những đứa con và hai chiếc xe đạp. Em không hề than thân trách phận khi biết hai cô bạn thân của mình đều có được những ông chồng giàu có. Em dặn mình nhìn xuống chớ nhìn lên. Dù rằng nếu không sự thay đổi thời cuộc, chúng ta khó lấy nhau.

Bắt đầu có những biến chuyển về chính trị, về kinh tế. Đời sống dễ thở hơn. Với khả năng của anh, đã có con mắt xanh nhìn đến. Anh bỏ ngân hàng với cái Phòng Kế Hoạch qua Kho Bạc Huyện với chức vụ giám đốc. Anh mừng, em vui. Con chúng ta có hộp sữa Liên Sô Simillac, rồi sữa Meiji của Nhật.

Nhưng từ đó anh cũng về khuya hơn, miệng nồng nặc hơi men. Ngôn ngữ, phong thái anh cũng dần thay đổi, thay đổi đến độ em ngạc nhiên nhưng nghĩ chắc nghề nghiệp tạo tính cách. Đàn ông Huế ai cũng có chút máu gia trưởng. Anh có lần bảo em, nếu có dịp về Huế sẽ cho gia đình người yêu cũ biết thế nào là thằng “tứ cố vô thân”. Em im lặng cảnh cáo anh “Kho Bạc Nhà Nước nhưng Tòa Án Nhân Dân”.

Không chỉ dừng ngang đó. Những cuộc giao tiếp kéo dài với những quan hệ phức tạp. Đàn ông ai cũng có máu chinh phục, thích được ngợi ca, thích nghe những lời ngon ngọt, thích được người khác tôn vinh. Em thì ngây thơ. Hơn nữa nghề giáo, cứ nghĩ ai cũng nghiêm túc. Anh có những chuyến đi giao lưu, những cô em kết nghĩa và kết luôn tình. Đã có những lời đồn đãi đến tai em. Em nhớ lời giảng của Père Nguyễn Thế Huynh dòng Sulpice trong giờ Tâm Lý Học Đường. Một người đàn ông nghèo khổ khi thành đạt, anh ta sẽ có hai khả năng. Một là anh ta sẽ vô cùng kỹ càng để chắt bóp; hai là anh ta sẽ tự tôn để giã từ dĩ vãng đời mình. Anh ở trạng thái nào đây?

Em không như những người phụ nữ khác. Hay là em chủ quan? Những người vợ thông thường chắc họ sẽ ghen tuông, khóc lóc, cấu xé, sẽ áp dụng các biện pháp thắt chặt. Đằng này, với cá tính kiêu hãnh em im lặng, tự ái, cười nhếch môi. Ôi chao! Cái complex supériorité hay do một cuộc hôn nhân không xuất phát từ tình yêu???

Em không biết nhưng rõ ràng căn nhà gỗ chắp vá của chúng ta không còn là tổ ấm. Anh ít về nhà, có một căn phòng trên cơ quan và tuyệt đối em không hề bén mảng. Anh đã có điện thoại di động đem phô trương một cách buồn cười, tự hào biết hát Karaoke, nhậu rượu ngoại thay vì bia nặng bụng… Lâu rồi, chúng ta không còn ngủ chung. Anh có một chìa khóa riêng và em cũng không còn kiên nhẫn để chờ đợi thứ giờ giấc bất thường ấy.

Và cứ thế. Sợi dây càng lúc càng căng. Anh tự tôn, em tự ái. Em đã đọc được bức thư của cô em “kết nghĩa” Nha Trang. Cô ta còn gọi điện thoại đến nhà. Em dững dưng. Lòng nguội lạnh. Cô ta đòi happy ending; anh muốn làm quân tử cứu vớt đời hồng nhan. Em biết anh từ những ngày ốm đói hàn vi; cô ta biết anh khi chối bỏ quá khứ một cách phũ phàng. Muốn, em nhường!

Ba em đau, anh không hề quan tâm. Anh ở hẳn trên cơ quan. Ơn trời, anh chị ở nước ngoài gởi tiền về chu cấp, Ba không phải lệ thuộc vào ai. Có một lần Ba bảo với em “Hình như nhà con có tình nhân?”. Ôi, ba em vẫn giữ thứ ngôn ngữ lịch sự của một nhà giáo có nhân cách. Em tránh né trả lời. Anh xúc tiến việc lo cho cô em “kết nghĩa” nhỡ nhàng một chỗ làm.

Thái độ cao ngạo của em như chọc tức anh. Cả tỉnh lẻ biết anh có bồ. Em lặng lẽ đi về mặt nhìn đất hoặc nhìn trời. Không tâm sự, không than van.

Ngày ba em mất, anh không có mặt. Đám tang cử hành, anh không chít khăn tang. Thiên hạ đàm tiếu, anh giải thích sao đó, em không quan tâm. Bao uất hận em chôn kín trong lòng. Anh xử sự như một tên vô văn hóa và gia đình em không bao giờ chấp nhận. Tháng sau ta chính thức chia tay. May mắn là ba em đã không còn thấy để đau lòng. Cuộc ly hôn lặng lẽ. Do quen biết chúng ta chỉ ra tòa một lần. Các con ở với em như một sự tất nhiên và em cũng cay đắng mà hiểu rằng vì sao anh không giành giật. Ba tháng sau anh lấy vợ. Đám cưới ở Nha trang, chắc chắn là to hơn cái đám cưới nghèo nàn trong quá khứ mà anh đã không đủ tiền mua cho em một cái nhẫn. Anh cũng khá khôn ngoan khi không tổ chức trong cái thị xã này.

Em khô nước mắt, ghi một câu trên bàn làm việc: “Revenge by work, work and work“.

Ngành giáo dục cũng có những thay đổi. Cái mà người ta hô hào cải cách chính là cái mà em đã học, đã am tường thời cũ. Em viết những bài nghiên cứu về đổi mới sách giáo khoa, đổi mới chương trình. Em được chú ý với những bài tham luận phê phán cách học, cách dạy duy ý chí. Em được mời tham dự các hội thảo khoa học trên toàn quốc. Và em nhận ra rằng mình phải có một cái học vị với đời và cũng để mưu sinh.

Biết bao nhiêu khổ cực mà em đã cắn răng chịu đựng. Sau những buổi học, em đón chuyến xe đêm đi về nhà, giặt đống áo quần lớn, kho cho con một nồi thức ăn rồi trở lại trường, vào thư viện nghiên cứu đề tài mình bảo vệ.

Và em đã đạt được điều em muốn. Luận án có điểm cao nhất.

Em, người đàn ông trong thân xác người đàn bà. Em, cây liễu không núp được bóng tùng quân đành tự mình trở thành cây thông trong gió bão.. Với mối quan hệ tốt em có thể về Sài Gòn dạy một trường đại học như có giáo sư đã đề nghị. Sau bao đêm suy nghĩ, em đã quyết định ở lại đây để ngạo nghễ nhìn anh và nhìn đời.

Cùng môt lúc em dạy bốn trường: Công lập, bán công, dân lập và trung tâm giáo dục. Em mở thêm ba cours luyện thi đại học. Ăn toàn cơm hộp và fast food cho qua bữa. Có những buổi từ trường về, em nằm xoài ra giường 15 phút để thở rồi trở dậy dạy, dạy và dạy… Bây giờ nghĩ lại em còn rùng mình, không hiểu mình tìm đâu ra sức lực. Hay nói cách khác em không dám đau. Em vắt kiệt sức mình để chứng minh không có anh, em vẫn sống tốt.

Trời thương. Em dạy nhiệt tình, có uy tín, ra đề trúng tủ, phụ huynh tin tưởng gởi gắm, học sinh càng lúc càng đông, chỗ ngồi chật kín. Có tiền em vẫn không dám tiêu vì dư âm những ngày cùng khổ đè nặng. Em mua miếng đất nhỏ hộ thân.

Rồi thời buổi kinh tế thị trường, đất lên giá. Em đổi miếng nhỏ mua miếng lớn, đổi miếng xấu qua miếng đẹp, từ một miếng lên hai miếng… “Thánh nhân đãi kẻ khù khờ“ hay hương hồn ba mẹ phò trợ, em thoát cảnh “Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi”. Em mua căn nhà nhỏ ở Quận I thành phố cho hai con học đại học; em đập căn nhà chắp vá từng là tổ ấm của đôi ta để xây nhà mới. Và em là một trong những cô giáo đầu tiên mua xe hơi trong thành phố này.

Em hận anh vô cùng. Em làm là để trả hận. Mỗi lần cầm xấp tiền trong tay em nhớ lời anh nói với anh trai em “Không có tôi, bà ấy sẽ lê la đầu đường xó chợ”; em nhớ những lời anh đi thanh minh thanh nga sau cuộc ly hôn. Anh là đàn ông mà sao không có cái trượng phu khí phách; em nhớ đến món nợ em phải trả ngân hàng khi anh đi cầm cái sổ nhà để lập tổ uyên ương. Chồng cũ của em, anh còn nhớ chăng anh??? Ngày em biết mình trọng bệnh, em đã lập một cái di chúc có dòng chữ in đậm “Khi Mẹ chết tuyệt đối không cho Ba có mặt ở đám tang”.

Đám cưới con trai dù đau nhưng em rực rỡ với nụ cười mỹ mãn. Mọi chuyện đều do em thu xếp. Anh chỉ là nhân vật phụ. Trưởng nam của chúng ta đó. Cháu đích tôn của dòng họ anh đó nhưng anh không thể tổ chức ở nhà mình như em đề nghị. Em chủ động cầm tay anh đi lên khán phòng. Mọi người vỗ tay khen em lịch sự như quý bà mà không biết chân em đang run rẩy vì bệnh. Em cố đứng vững với những cơn thở dốc. Nhưng cái em muốn là anh phải thấy sự thành đạt của em. Em muốn anh thấy sự sai lầm của mình. Em muốn anh nhớ lại thứ ngôn ngữ cay nghiệt như của một poissonnier mà anh đã từng buông thả. Bao giờ em cũng vẫn lịch sự hơn anh.

Trong cái xã hội “Đảng làm chủ” thì cái lý lịch đen ngòm của anh là rào cản lớn. Ba lần thẩm định vẫn không giúp anh tồn tại trên ghế giám đốc. Anh chỉ là một trái chanh bị thải loại sau khi vắt cạn kiệt. Anh về hưu non, ngôn ngữ nhuộm màu bất đắc chí. Phải chăng theo thuyết nhà Phật gọi là “Quả báo nhãn tiền”?

Sỹ diện của một người đàn ông khiến anh không nói ra nhưng em biết chắc anh đã ân hận. Anh không còn chê bai em nữa. Anh đã khen em với người khác. Anh đã cười với em một nụ cười ngượng ngập. Nhưng tim em đã chết.

Gần hai mươi năm. Thời gian như nước trôi qua cầu, cái gì mà chẳng cũ. Cô vợ mới của anh chắc cũng cũ theo tháng năm. Đã có lúc em muốn hỏi cô ta “Có hạnh phúc không em?” nhưng nét mặt sầu thảm của cô ta đã là câu trả lời. Câu hỏi của em có thể trở thành sự mai mỉa.

Anh không có con với người vợ mới. Các con dù ở với em nhưng sợi dây huyết thống vẫn ràng buộc. Chưa bao giờ em ngăn cản hoặc phản đối chuyện các con chu cấp và trả cả nợ cho anh. Em vẫn tự hào chúng là những đứa con có hiếu.

Các con rồi sẽ bay xa. Chỉ còn lại em với nỗi ngậm ngùi. Em đã hy sinh tất cả những gì mình có, kể cả cuộc hôn nhân có thể diễn ra với một gentleman luôn theo dõi cuộc đời em gần hai mươi năm. Anh đã làm em “Kinh cung chi điểu”. Em không dám mạo hiểm. Đêm đêm em chỉ có thể sống đẹp với mối tình đầu qua hồi ức.

Chúng ta đều đã già. Lục thập nhi nhĩ thuận. Em không hận anh nữa. Tout homme est sujet à l’erreur. Em cũng đã có những sai lầm.

Chồng cũ của em. Đêm qua em đã châm vào lửa bản di chúc cay nghiệt ấy. Em đã thật sự buông xả. Dù sao anh cũng là ba của những đứa con em. Dù sao em cũng cám ơn anh đã giúp em tự khẳng định mình./.

Hương Thủy

From: Do Tan Hung & Kim Bang Nguyen 

Hột Xoàn – TRUYỆN NGẮN – TRẦN THỊ DIỆU TÂM…

Van Pham

Hột Xoàn

TRUYỆN NGẮN – TRẦN THỊ DIỆU TÂM….

Trong đời sống đơn sơ tầm thường giản dị ở chốn bếp núc, người đàn bà như chị biết rất nhiều loại ngũ cốc, nôm na là biết nhiều loại hột. Kể sao cho xiết, nhưng thật tình mà nói, chị chỉ thích có mỗi một thứ, loại hột này không có khả năng nẩy mầm cho cây cho trái, nhưng có khả năng làm sảng khoái tâm hồn chị.

Đó là hột xoàn .

Hột xoàn là thứ hột cho ánh sáng lấp lánh, nhìn phát mỏi mắt, nhìn mà mê tơi. Không có ánh sáng nào đẹp bằng ánh sáng của hột xoàn. Đàn bà ai chả thích, đâu phải một mình chị. Trong lúc ngồi ăn cơm, chị đem chuyện yêu mến hột xoàn ra tâm sự cùng chồng.

Chồng chị gắt: Chồng không mê, lại đi mê hột xoàn! Đừng có dại.

Chị cụt hứng. Chị không dại, cũng không điên. Khi biết mình còn ham mê, nghĩa là mình còn ham sống, ham yêu cuộc đời này lắm. Niềm ham mê ấy một mình chị biết một mình mình hay. Chị dành dụm mỗi tháng một lần, số tiền mặt tiết kiệm rút ra từ ngân quỹ gia đình. Như con kiến dự trữ lương thực trong suốt hai năm liền.

Vì nhà không có tủ có khóa, chị đành giấu số tiền đó mỗi nơi một ít, không nên để chung một chỗ. Nhưng với thời gian hai năm sau, trí nhớ chị có đôi chút lãng đãng, nhất là những góc kín đáo. Thấy chị lục lọi tim kiếm, cô con gái sốt ruột hỏi mẹ: ” Mẹ tìm gì vậy ? Nói con tìm giúp cho “. Chị không trả lời. Chồng chị cũng thắc mắc: ” Em sao cứ thấy dọn dẹp đồ đạc suốt vậy? “

Cho biết làm gì chứ, con không tin, huống chi tin chồng, nhất là chuyện mình cất giấu tiền để tiêu riêng. Chị thấy nó không ổn chút nào, vì thấy không ổn , không đúng, chị càng náo nức thêm. Chờ lúc chồng con kẻ đi làm người đi học, chị lấy cớ xếp dọn tất cả đồ đạc trong nhà, áo quần lâu không mặc cho hội từ thiện. Và chị đã kiếm được những gói tiền cất dấu lâu nay, “thật mừng như tiền ai cho”.

May mắn trí nhớ của chị còn sáng lắm. Sau khi kiểm kê tài sản, chị xếp lại xấp tiền ngay ngắn, thứ tự mặt trước mặt sau. Đồng tiền ơ-rô cũng hơi lạ, mỗi loại đều có kích cỡ khác nhau, có lẽ người mù cũng có thể đếm tiền được, và màu sắc tươi tắn, tiền thì phải tươi đẹp chứ.

Chị đếm đi đếm lại, mĩm cười số tiền dành dụm cũng được vài ngàn (chị không nói rõ chính xác bao nhiêu, nên người viết không biết được). Tính vốn cẩn thận, chị cuộn xấp tiền lại với sợi dây thun gọn gàng cho vào một túi vải nhỏ. Cử chỉ này làm chị nhớ đến mẹ chị ngày xưa ở quê nhà thường hay cuộn tiền để dành cho gọn và dễ cất dấu.

Chị thực hiện điều ao ước bấy lâu nay, chị sẽ mua chiếc nhẫn hột xoàn lấp lánh ấy. Chiếc nhẫn nằm trong tủ kính của cửa hiệu có tên Éternelle, chị vốn không mấy giỏi tiếng bản xứ, nhưng lờ mờ hiểu rằng nó có ý nghĩa là mãi mãi. Ai mà không quý trọng những gì thuộc về mãi mãi bất diệt.

Biết bao nhiêu cặp tình nhân, đám cưới đều tặng vợ chiếc nhẫn hột xoàn kim cương lấp lánh, hy vọng chiếc nhẫn sáng ngời ấy giữ gìn hạnh phúc tình yêu của họ đến suôt đời. Nếu người ta bỏ nhau, không phải tại nó mà tại họ muốn bỏ nhau. Chứ nó là thứ thủy chung muôn năm, nó là thứ bất diệt .

Trước đây, mỗi lần lên phố vào trung tâm mua sắm, chị luôn đến trước của hàng Éternelle , ngắm nhìn mấy chiếc nhẫn hột xoàn, ước chi một chiếc sẽ đeo vào ngón tay chị một ngày nào đó. Chị không hề biết hột xoàn loại nào là tốt nhất, đẹp nhất, nước sáng xanh hay sáng tím. Tuy nhiên chiếc nhẫn sẽ kèm theo một hóa đơn giá trị.

Từ ao ước, đến chiếm hữu là một tiến trình tự nhiên của con người.

Nó phải ở trong bàn tay chị, chị là sở hữu chủ. Nếu mua được, chị sẽ ngắm nó thường xuyên, không cần phải đi qua mấy chuyến mê-trô mới gập nó yêu kiều trong tủ kính.

Chị tự tin đi vào Éternelle với số tiền trong túi, (mấy lần trước chị rất e dè). Cô gái bán hàng có vẻ thờ ơ với chị, có lẽ vì biết người đàn bà này đã nhiều lần đến xem nhưng rồi đi ra, hỏi gì cũng lắc đầu.

Nhưng lần này thì khác nhé. Chị chỉ chiêc nhẫn có giá tiền vừa đúng, nó được tôn vinh để riêng chờ đợi chị. Cô bán hàng vội vàng chạy đến gần, nhẹ nhàng mở tủ kính, chị rất hổi hộp.

-Bà muốn chiếc này ?

Chị cười gật đầu. Cô bán hàng ân cần mời chị đến ghế ngồi có đèn rọi sáng. Cô nhẹ nhàng cầm lấy bàn tay chị và xỏ chiếc nhẫn vào ngón tay giữa, thật là vừa vặn như chiếc nhẫn được tạo ra cho chính tay chị, không ai khác cả.

– Chiếc nhẫn thật thích hợp với bà !

Cô gái cười rất tươi chứng tỏ cho chị thấy đó là sự thật không chối cãi. Chị mãn nguyện khi trả tiền, cảm thấy mình được đối xử rất lịch sự trang trọng , chị trở thành một vị thượng đế trong giây phút ấy!

Thực hiện được điều mơ ước lâu nay, có ai vui hơn chị. Trong khoảng đường từ Eternelle về nhà, đó là khoảng thời gian hạnh phúc đời chị, chị mân mê chiếc nhẫn không rời mắt. Sau khi về nhà, chị vẫn còn đắm đuối với chiếc nhẫn kỳ diệu đó. Nhưng

thời gian đẹp

đẽ ấy tồn tại không được bao lâu.

Chiếc nhẫn sáng nhấp nhánh ấy bỗng dưng làm nổi bật bàn tay xương xẩu nhiều gân xanh nổi lên vì làm lụng lâu năm, bàn tay của tháng năm mòn mỏi của một người đàn bà chỉ biết bổn phận.

Chị co bàn tay lại, cảm thấy rung động toàn thân: Chị không có bàn tay đẹp để mang một chiếc nhẫn hột xoàn. Viên kim cương này không làm tăng thêm giá trị cho chị chút nào. Tuy nhiên để đánh tan mặc cảm, chị đeo nó thường xuyên, Mỗi lần ra phố, chị cố giữ một cảm giác tự tin, nhưng hình như chẳng ai trên đường phố biết rằng chị đang đeo trên ngón tay một chiếc nhẫn có giá trị vài ngàn bạc.

Vậy niềm mơ ước ấy , chiếc nhẫn quý giá ấy có thực không ? Chị nghi hoặc về giá trị của chiếc nhẫn và hoài nghi luôn chính mình ! Chị đã nhầm lẫn, nhầm lẫn gì, chị không giải thích được sự thất vọng ấy, chỉ thấy sao mà buồn. Chị có cảm tưởng bao nhiều kỳ vọng về một ước mơ , nay ước mơ được thực hiện bỗng dưng nó tầm thường thế nào ! Hay chính vì bàn tay chị không xứng đáng chăng ?

Buổi tối, chồng con đều ngủ, chị đem chiếc nhẫn ra ngắm nghía, trong bóng đêm, viên hột xoàn không còn chiếu sáng , nó chỉ nhấp nhánh rực rỡ chói lòa khi nhận được ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào, ánh nắng mặt trời hay ánh đèn điện .

Tự thân nó không có gì cả, nó phải nhờ, phải phụ thuộc vào ánh sáng khác để khoe khoang vẻ đẹp . Nó chỉ là một viên sỏi đá. Chị nắm chặt chiếc nhẫn trong tay khi nhận ra giá trị thật của nó, nó không có hào quang. Lúc chiếc nhẫn nằm trong tủ kính, trông nó sang trọng biết bao nhiêu , sao bây giờ lại thấy tầm thường thế !

Không gian nhà bếp là nơi chốn thân thương nhất của chị, hầu như chị sống nơi này nhiều nhất thời gian mỗi ngày, chị cho rằng cất nó nơi đây sẽ dễ dàng nhớ hơn bất cứ nơi khác trong nhà. Chị gói chiếc nhẫn trong túi ny-lông nhỏ, dấu trong một lọ bột làm bánh. Tụi trộm cắp sẽ không thế nào tìm thấy, chúng nó hay rình mò các gia đình Châu Á vì cất giấu tiền mặt và nữ trang trong nhà.

Một thời gian sau, nhân dịp phải đi dự đám cưới con nhà bạn, chị sửa soạn áo quần và chợt nhớ tới món nữ trang quý báu của mình, ít ra chị cũng có một cái gì để mình nhấp nháy với đời. Dạ tiệc đầy ánh sáng, chắc chắn chiếc nhẫn của chị sẽ chiếu rực rỡ hơn ngày thường trong bóng đêm.

Chị cảm thấy phấn khởi. Nhưng chị tìm mãi cũng không thấy lọ đựng bột làm bánh nơi đâu, chị dọn hết các tủ bếp suốt một buổi sáng tìm chiếc nhẫn, nhưng vẫn biệt tăm. Chị nghi ngờ về trí nhớ của mình lo sợ một triệu chứng bệnh hoạn đến quá sớm.

Buổi chiều khi cô con gái đi làm về, chị nói : “Mẹ định làm bánh, nhưng tìm mãi không thấy lọ bột nếp đâu cả “.

Cô con gái trả lời ” Hôm trước con thấy lon bột làm bánh của mẹ để lâu ngày quá, con gián bò vào con đem vất thùng rác hết. Mẹ cẩn thận, con mua thuốc diệt gián rồi.

Câu trả lời của con làm chị hoảng hốt bàng hoàng, nhưng chị không dám nói sự thật đau xót đó. Chị sẽ bị chồng con trách móc đủ. Chị nghẹn ngào muốn khóc, thấy mình thật vô duyên và không may mắn.

Nhưng suy đi nghĩ lại, cũng lỗi tại mình.

Chiếc nhẫn hột xoàn không thích hợp với số phần chị, chị tìm hiểu nó là kim, mạng chị là mộc. Theo dịch lý ngũ hành, kim khắc mộc, thôi thì của đi thay người. Lý ra chi không nên mơ tưởng nó, không nên mua nó với số tiền dành dụm của gia đình . Nó là gì ? chiếc nhẫn hột xoàn lóng lánh kia ?

Người ta nói mơ ước có khi đem lại niềm vui sống cho tâm hồn, nhưng giờ đây chị không còn dám mơ ước điều gì nữa. Một thử thách kinh nghiệm đau xót vừa mới trải qua, chi sợ hãi thấy mình đã nhầm lẫn tai hại. Thanh thản với hiện tại là điều quý giá nhất với chị từ đây.

Chị là người chủ thực sự với căn phòng bếp thân thương này, hằng ngày những mùi vị của hành tỏi, tiêu ớt, nước mắm, đó là nhũng gia vị nồng nàn ấm áp tâm hồn chị . Chính đó mới là sự thực cuộc sống của chị. Tai sao chị đi tìm đâu xa những bóng bẫy lấp lánh huyễn hoặc không thuộc đời sống chị ? Chị tự hỏi và cũng không biết câu trả lời.

May be an image of ring

Phi Công & Máy Bay Bà Già -Truyện Ngắn – từ FB Nguyễn Ngọc Bích.

 May be an image of text that says '7 F-15'

Truyện Ngắn – từ FB Nguyễn Ngọc Bích.

***

Phi Công & Máy Bay Bà Già

Lần đầu gặp mặt, Hân ngỡ ngàng khi “đối tượng” là một thanh niên mặt búng ra sữa. Thế nhưng, hắn luôn mồm xưng anh và gọi cô là em.

Hân quen Khương trên một trang web hò hẹn online. Tất cả khởi đầu từ một đoạn giới thiệu mang đầy tính khiêu khích: “Trần Lê Ngọc Hân, viết lách tự do, sinh năm 1974, tuổi Dần. Ai không sợ bị thịt thì cứ nhào vô”.

Ba ngày sau khi đăng hai câu giới thiệu ấy. Hân nhận được rất nhiều thư nhưng cô khá ấn tượng trước một lá thư khiêu khích không kém trong hộp mail: “Nguyễn Đăng Khương, thiết kế nội thất, tuổi Mèo. Mèo là chú của cọp nên không sợ bị thịt, sẵn sàng nhào vô”. Đọc e-mail, Hân khinh khỉnh: “Nhỏ hơn một tuổi à? Cũng không đến nỗi”. Thế nhưng, Khương chỉ mới 20 xuân xanh, thua Hân 13 tuổi, vẫn đang học đại học. Cũng là Mèo nhưng đi sau Hân hơn một con giáp.

Buổi hẹn hò offline đầu tiên ở Hands, quán cà phê yêu thích của Hân nhìn khuôn mặt búng ra sữa của Khương, Hân suýt té ghế. “Em trêu tôi đấy à?”, Hân gằn giọng. Khương tỉnh queo: “Ban đầu định là vậy nhưng bây giờ thì không. Chị đẹp hơn em nghĩ”, Hân xô ghế đứng dậy, quay đi không thèm ngó lại.

Thế nhưng Khương không dễ bảo như Hân nghĩ. Một tháng sau buổi hẹn hò thất bại ấy, Khương xuất hiện trước mặt Hân, cũng tại Hands, với dáng vẻ hoàn toàn khác. Tóc húi cua, hàm râu quai nón gọn gàng, vóc dáng cao ráo, săn chắc nổi bật trong chiếc áo pull màu đỏ vang và quần bò bạc thếch. Trước ánh mắt sững sờ của Hân, Hương nhe răng: “Sao? Bây giờ tôi xưng anh với Hân được chưa?”.

Hân tự rủa sả mình sao lại tiết lộ quán cà phê Hands và cả thói quen ngồi đồng ở đây để Khương biết đường mò đến. Cô đốp chát ngay: “Trừ khi em tẩy được cả giấy khai sinh”.

“Giấy tờ không quan trọng, một người làm việc tự do, chẳng bao giờ ký hợp đồng như em hẳn phải hiểu điều đấy chứ”, Khương đốp chát lại.

“Nhưng như vậy không có nghĩa em có thể lớn lên bằng tôi”, Hân phản bác.

Khương gân cổ cãi: “Cũng không có nghĩa là anh nhỏ hơn em, phải không? Thôi thì em cứ xem anh như là một con mèo, còn em là một con cọp, bỏ qua chuyện tuổi tác, được không?”. “Chị không rảnh để chơi với em, nhóc à!”. “Vậy có rảnh để yêu không?”. “Không, chỉ rảnh để cưới thôi”.

Khương im lặng. Hân vẫn giữ gương mặt điềm tĩnh nhưng trong bụng hò reo chiến thắng . Đàn ông nào cũng vậy, nghe đám cưới là rụt vòi, huống chi Khương chỉ mới 20 tuổi, còn thích bay nhảy. Thật tình, Hân cũng thấy tiếc cậu, chàng đẹp trai này nhưng giá 20 nhân thêm cho hai thì còn có cơ may…

Đột ngột, Khương lên tiếng: “Em hứa đấy nhé, rảnh để cưới, ghi cho anh địa chỉ nhà em, mai anh sang nhà hỏi cưới”.

Hân sa sầm nét mặt: “Đùa đủ rồi đấy, cậu làm tôi bực rồi đấy!”.

Khương vẫn kiên nhẫn: “Người ta bảo con gái tuổi Dần thường muộn chồng. Nếu lấy chồng sớm thế nào cũng goá bụa. Em bây giờ lấy chồng được rồi, anh cũng không sợ bị em khắc chết”.

Hân bật cười, không thể nghĩ ra thêm lý do để xua đuổi con mèo si tình từ trên trời rơi xuống này. Vậy là yêu nhau!

Một ngày mưa, Hân nằm cuộn tròn tấm chăn mỏng, gối đầu lên ngực Khương, thì thầm: “Em muốn sinh con”, Khương ngái ngủ: “Bao giờ?”. Ngay bây giờ, em muốn làm tình không dùng bao cao su”. Khương giật mình, tỉnh cả ngủ, mắt mở to: “Em đùa à?”.

“Không, em nói thật. Em đã hơn 30 tuổi rồi, cũng đã đến lúc sinh con”. Khương im lặng. Hân lại tiếp: “Anh không cần lo. Em tôn thờ chủ nghĩa độc thân nên chỉ muốn sinh con chứ chẳng ràng buộc trách nhiệm gì ở anh cả. Nếu thích, anh có thể đến thăm con, không thì thôi, em chẳng mang con đến mè nheo hay làm phiền anh đâu”.

Khương vẫn im lặng.

“Chắc lại sắp vùng ra khỏi chăn và bỏ chạy. Rồng hay mèo hay ngựa thì cũng nhát như nhau cả, ôi đàn ông”. Hân nghĩ một cách ca thán. Trải qua vài ba mối tình, Hân không còn ngạc nhiên hay đau lòng trước phản ứng hiện giờ của Khương. Những người tình trước của cô có say đắm đến mấy cũng bỏ chạy khi nghe đến chuyện sinh con.

Khương bước ra khỏi chăn thật nhưng không khoác áo và rời khỏi phòng như những anh chàng khác.

Anh lặng lẽ rít thuốc hồi lâu rồi bảo: “Mình cưới nhé!”. Hân tưởng mình nghe lầm: “Sao?”. Khương quay lại nhìn cô, cười dịu dàng: “Đám cưới, anh nói là mình làm đám cưới”. Đến lượt Hân im lặng, cô chưa lường trước tình huống này.

Nhìn vẻ mặt của Khương, Hân biết anh không đùa. Hân khinh khỉnh: “Anh không cần vì đứa con mà cưới cả con vợ già đâu. Em nói rồi, em tôn thờ chủ nghĩa độc thân”.

Khương bật cười, dụi đầu vào ngực Hân: “Anh không vì đứa con mà cưới em. Anh muốn dùng đám cưới để hợp thức hoá mong ước sinh con của em, không được sao? Bỏ quách cái chủ nghĩa độc thân của em đi, cũng đã đến lúc em cần một gia đình đúng nghĩa rồi đấy cưng” và anh hôn cô thật nồng nàn.

Khương nói là làm nên ngay tuần sau, anh đưa cô về ra mắt mẹ và xin cưới. Bố Khương mất từ khi anh còn nhỏ, nhà chỉ có hai mẹ con. Mẹ Khương đón Hân bằng ánh mắt sắc sảo pha chút lạnh lùng.

Khương chỉ mới hơn 21 tuổi, chưa đến lúc lập gia đình, bà tự hỏi ở cô gái này có điều gì khiến con trai mình say mê đến vậy. Hân rợn người khi mẹ Khương đưa mắt “chiếu tướng” cô từ đầu đến chân mình. Cô chưa từng biết sợ ai hay điều gì nhưng giờ đây, tim cô đang đập mạnh. Rõ ràng, mẹ Khương không như những trở ngại mà Hân từng đối đầu.

Sau mấy phút căng thẳng, bà tằng hắng hỏi: “Cháu là người ở đâu?”. “Dạ, cháu sinh ra ở Sài Gòn nhưng cả nhà cháu đã qua Mỹ định cư, chỉ còn mình cháu ở đây thôi ạ”.

“Sao cháu không đi theo họ?”.

“Dạ, tại vì cháu thích ở Việt Nam”, Hân đáp hơi khiên cưỡng, không lý nào lại nói với mẹ chồng tương lai rằng mình ở lại Việt Nam lúc ấy chẳng qua vì mối tình đầu với một anh chàng kiến trúc sư.

“Cháu bao tuổi rồi?”.

Hân lúng túng. Yêu Khương đã hơn năm nhưng cô vẫn ngại khi thú nhận với ai đó cô hơn anh 13 tuổi, dù sau khi Khương nỗ lực thay đổi ngoại hình, trông cô chẳng đến nỗi già hơn anh.

Ngay lập tức, Khương đỡ lời cho người yêu: “Dạ, cô ấy tuổi Dần ạ”.

Gương mặt mẹ Khương bỗng biến sắc, bà gằn giọng: “Tuổi Dần thì không được, không cưới xin gì cả”. Khương thảng thốt: “Sao vậy mẹ?”.

Sao trăng gì? Con gái tuổi Dần lấy chồng sớm có số sát phu, con thừa biết mà”.

Trời ơi, đó chỉ là chuyện vớ vẩn. Sao mẹ tin được”.

“Không vớ vẩn, nếu muốn, hai đứa chờ mười năm sau, bước qua tuổi 30 rồi cưới”. Mẹ Khương nói với giọng đắc thắng, bà thừa biết chẳng đứa con gái nào chịu điều kiện vô lý này.

Khương cũng đắc thắng đáp ngay mà quên mất điều mình đang cố giấu: “Cô ấy đã qua ba mươi rồi mẹ ơi”. Nhìn đôi mắt mở to của mẹ Khương lúc ấy, Hân rên thầm trong bụng: “Thôi rồi”.

Sau ngày hôm ấy, sóng gió phủ chụp lên mối tình của họ. Mẹ Khương kiên quyết phản đối, thậm chí lấy cái chết để doạ con. Khương cố gắng thuyết phục mẹ nhưng vô ích. Sợ Hân buồn, anh khuyên cô kiên nhẫn cho anh thêm thời gian.

Trước mặt Khương, Hân luôn tỏ ra điềm tĩnh nhưng đêm về, cô ôm gối khóc. Đã lâu lắm rồi từ sau mối tình đầu tan vỡ cũng bởi định kiến tuổi Dần, Hân mới khóc vì một người đàn ông.

Nửa năm sau, mẹ Khương tìm gặp Hân. Cô hẹn bà ở Hands vào ngày 28 Tết, ngày làm việc cuối cùng trước Tết Nguyên Đán của Hands. Năm nào cũng vậy, Hands luôn đóng cửa vào 28 Tết và khai trương lại vào mùng Bốn. Hân vẫn còn nhớ ngày đầu tiên mình lồng tay vào tay Khương cũng là 28 Tết.

Hands nằm cuối một con hẻm nhỏ yên tĩnh giữa trung tâm thành phố sầm uất. Người không biết khó có thể tìm ra Hands giữa những con đường ngoằn ngoèo và chi chít như bàn cờ. Hands nhỏ, có chưa đến năm cái bàn nhưng nhờ vậy mà tuyệt đối yên tĩnh. Hân vẫn thường một mình đến Hands với chiếc laptop, ngồi vào chiếc bàn kê sát ô cửa sổ trắng và gõ lóc cóc viết bài. Và giờ đây, cô cũng đang ngồi ở chiếc bàn ấy, đối diện với mẹ Khương.

Mẹ Khương mở đầu chuyện một cách nhẹ nhàng: “Cháu có thật sự muốn làm con dâu của bác không?”.

Hân im lặng, cân nhắc hồi lâu và khẽ đáp: “Cháu thật sự muốn làm vợ Khương và cháu mong bác đồng ý”.

Vẫn giữ vẻ tự nhiên, bà hỏi: “Cháu nghĩ Khương muốn cưới cháu vì điều gì?”. Hân im lặng, cô muốn trả lời vì tình yêu nhưng không hiểu sao không thể thốt nên lời. Mẹ Khương mỉm cười ý nhị: “Cháu không đủ can đảm để trả lời vì tình yêu, đúng không?”. Hân mím chặt môi: “Bác muốn nói gì?”.

Mẹ Khương vẫn điềm tĩnh: “Bác muốn cháu chủ động rời xa Khương trong một năm, không liên lạc và không giải thích bất kỳ điều gì cả. Nếu nó thật sự yêu cháu, nó sẽ vượt qua khoảng thời gian ấy và sẵn lòng chờ cháu quay về. Khi ấy, bác sẽ không phản đối chuyện đám cưới nữa. còn ngược lại, tình cảm hiện giờ nó dành cho cháu chỉ là đam mê nhất thời và hai đứa nên kết thúc. Bác cũng đang thắc mắc liệu cháu có thật sự tin là Khương yêu mình không hay chỉ đang say mê một phụ nữ từng trải và có chút nhan sắc. Sao? Cháu có tự tin để thử không?”.

Bằng những nhận xét tinh tế của mình, bà thừa hiểu Hân là cô gái ngang tàng và có lòng tự tôn rất cao. Bà biết mình đã đánh trúng đòn và chắc chắn Hân sẽ đồng ý. Một cách chậm chạp, Hân khẳng định lại điều bà đang nghĩ: “Quyết định như vậy, bác nhé!”.

Một năm trôi qua, Hân đang ngồi trên taxi đến Hands. Cây kim giờ trên tay của cô đang nhích dần đến số 11. Đêm đã khuya nhưng Sài Gòn vẫn chưa muốn ngủ. Hôm nay là 28 Tết. “Lại là ngày 28, không biết nên yêu thương hay nguyền rủa nó đây?”, Hân vừa nghĩ vừa nhìn mông lung.

Không khí hội hè phủ khắp nơi nhưng lòng Hân trống rỗng. Cô vừa mong gặp lại Khương vừa sợ mình sẽ thất vọng.

Một năm qua, giữ đúng lời hứa vời mẹ Khương, Hân bẻ sim điện thoại, thay đổi chỗ ở, đóng cửa Facebook, không đến Hands và bất cứ nơi nào khác mà Khương có thể tìm đến. Cô vác ba lô đi khắp nơi, từ Đà Lạt, Nha Trang đến Hà Nội, Sa Pa… Cô đi vừa để viết bài vừa để quên đi nỗi cô đơn đang giày vò mình.

Hân biết ở Sài Gòn, Khương đang điên cuồng tìm cô. Hân đau lòng khi nghĩ đến gương mặt hốc hác và đôi mắt trũng sâu của anh. Ngày nào, Khương cũng gửi e-mail cho Hân và giăng trên Facebook lời van xin tha thiết: “Hân, em đang ở đâu? Đừng tránh mặt anh nữa!”. Hân đọc hết, biết hết nhưng im lặng. Cô chỉ biết động viên chính mình và đánh dấu chéo vào quyển lịch cầm tay khi mỗi ngày trôi qua.

Đã có lúc Hân tưởng mình bỏ cuộc khi những lá e-mail của Khương thưa dần rồi mất hẳn. Dòng chữ tha thiết trên Facebook đã được thay bằng những câu cập nhật cuộc sống thường ngày của anh.

Thỉnh thoảng, Khương lại khoe những tấm ảnh anh chụp khi đi du lịch đâu đó, vây quanh anh luôn có những cô gái xinh đẹp và trẻ trung. Hình ảnh đó làm Hân vừa ghen vừa có cảm tưởng mình như bị xóa sổ khỏi cuộc đời của Khương.

Những lúc ấy, Hân ngồi lặng câm trước laptop và nhếch mép: “Đàn ông…” nhưng nước mắt lại rơi trên má cô nóng hổi. Hân quệt đi ngay, dù gì, đây cũng không phải lần đầu tiên cô không được lựa chọn. Là con gái tuổi Dần, Hân đã khá quen với điều này. Người tình đầu của Hân cũng đã không thể vượt qua định kiến của gia đình và bỏ rơi cô chỉ vì hai chữ “tuổi Dần”. Với những người tình sau, Hân chẳng bao giờ đặt quá nhiều hy vọng vào họ. Rồi cũng như nhau cả thôi!

Thế nhưng lần này khác, Hân biết mình yêu Khương, yêu thật sự kể từ sau mối tình đầu nên cô không thể dễ dàng bỏ cuộc. Máy bay bà già thì đã sao? Tuổi Dần thì đã sao? Chẳng lẽ cô không được quyền yêu như bao người phụ nữ khác? Và Hân vẫn ôm ấp một hy vọng nhỏ nhoi, vẫn đánh dấu chéo vào quyển lịch cầm tay khi mỗi ngày trôi qua. Cô chờ ngày được gặp lại Khương.

Chiếc taxi đỗ xịch trước con hẻm nhỏ cắt ngang những dòng suy nghĩ của Hân. Cô thanh toán cước phí rồi lặng lẽ gõ chân trên con đường lồi lõm quen thuộc. Bây giờ là 11 giờ rưỡi đêm 28 Tết và cô đang đến Hands. Nếu thật sự yêu và còn nhớ Hân, Khương chắc chắn đang đợi cô ở Hands, ít nhất là qua 12 giờ đêm nay.

Hands không khác một năm trước là mấy. Vẫn một mảng tường trắng in đầy những dấu tay bằng sơn đủ màu của các vị khách, vẫn những chiếc bàn gỗ mộc mạc được lau chùi sạch sẽ đến bóng loáng, vân những cây mai giả nhỏ xíu đặt trên bàn và những phong bao lì xì đỏ đính lục lạc đong đưa reo vui bên ô cửa sổ…

Hân đưa mắt tìm kiếm chiếc bàn kê sát ô cửa sổ trắng. Tim cô như rơi tõm xuống. Chiếc bàn trống không. Hân đưa mắt nhìn quanh. Hands vẫn còn lác đác dăm vị khách nhưng tuyệt nhiên không có người cô muốn tìm.

Hân tưởng như mình không đứng vững. Một cơn khó thở dâng lên khiến tim Hân đau thắt. Cô ôm lấy lồng ngực, lê chân khó nhọc về phía chiếc bàn quen thuộc và gọi một ly cappuchino. Mọi vật trước mắt cô nhoè đi. Hân biết mình đang khóc. Cô quệt nước mắt và cố gượng cười với cô phục vụ, nhưng nụ cười của cô phản chiếu xuống vệt nước trên mặt bàn trông méo mó và thảm hại như nụ cười của anh hề vào ngày rạp xiếc vắng khách.

Cô phục vụ ái ngại hỏi: “Chị không sao chứ?”. Hân lắc đầu, cố pha trò: “Không, chỉ là tôi có hẹn một người quan trọng nhưng lại bị cho leo cây”.

Cô phục vụ cợt vỗ tay lên trán: “à, thì ra là chị” rồi quày quả đi về phía quầy bar. Cô gái trở lại với một chiếc máy MP3 và bảo: “Sáng nay, có một anh chàng cũng nói câu tương tự như chị vậy. Anh ấy nhờ tôi trao lại thứ này cho cô gái nào ngồi ở chiếc bàn kê sát cửa sổ và cũng bị người ta cho leo cây”.

Hân đón chiếc máy từ tay cô phục vụ, tim cô đập mạnh liên hồi. Tay run run, cô gắn tai nghe và nhấn nút play. Giọng Khương vang lên trầm ấm như đang ở thật gần: “Em đang khóc vì anh đã không đến, có phải không? Anh đã chờ em suốt một năm qua ở Hands và lần nào, anh cũng thất vọng ra về. Anh liên lạc với em bằng mọi cách nhưng vô ích. Anh biết em vẫn quan sát anh từng ngày, anh van xin em rồi khiêu khích em trên Facebook để em xuất hiện nhưng tất cả đều công cốc”.

“Anh tự hỏi mình đã làm gì sai để em phải xa lánh anh như vậy? Sáng nay, anh đến Hands từ rất sớm và chờ em đến tận trưa. Em vẫn mất hút. Anh thật sự không đủ kiên nhẫn nữa. Khi em nghe được những lời này, anh đã ngồi trên máy bay sang Pháp. Anh sẽ làm việc ở đó trong ba năm và có thể lâu hơn. Có lẽ chúng ta không còn gặp lại nhau. Chúc em mạnh khoẻ và hạnh phúc”.

Những lời cuối của Khương như nhoè đi. Hai tai Hân lùng bùng, cô ngồi phỗng như tượng rồi đột ngột đứng bật dậy. “Không thể như thế! Mình phải ra sân bay”, Hân hốt hoảng vùng chạy. Cô va mạnh vào chiếc bàn và đánh đổ ly cappuchino. Dòng cà phê nóng rẫy đổ trên tay cô nhức buốt nhưng Hân không quan tâm. Cô luýnh quýnh chạy đi nhưng vấp phải chiếc ghế và ngã sõng soài. “Mình và Khương không thể kết thúc như vậy, không thể”, Hân bật khóc ngon lành như một đứa trẻ.

Chợt một đôi tay mạnh mẽ nâng cô dậy và ôm siết cô vào lòng. Mùi da thịt quen thuộc khiến Hân như bừng tỉnh. Trước khi Hân kịp nhận biết điều gì đang xảy ra, một nụ hôn nồng nàn gắn chặt lên môi cô và giọng Khương thầm thì: “Em là cọp mà sao mít ướt thế? Anh mới trêu một tí đã khóc, vậy mà nỡ bỏ anh đi suốt một năm trời?”.

Hân lắp bắp:”Anh… anh… không phải là anh…”. Khương mỉm cười dịu dàng: “Anh chẳng đi đâu cả, có đi cũng phải tha con cọp này cùng đi. Anh chờ em ở đây suốt một năm qua. Em ác lắm, thoả thuận với mẹ mà chẳng nói với anh câu nào”.

“Anh biết hết rồi sao?”.

Sáng nay, mẹ đã kể hết cho anh nghe và dặn anh phải đến đây đón em. Mẹ biết chúng ta yêu thương nhau thật lòng nên không phản đối nữa. Về nhà thôi em, mẹ đã làm thức ăn khuya, chờ con dâu tương lai về đó”.

CHỊ HAI…!

Những Câu Chuyện Thú Vị – Ncctv.net

Đinh Trực  

CHỊ HAI…!

Hôm nay đám giỗ Cha. Chị Hai lọ mọ từ dưới quê lên thật sớm, tay xách nách mang nào là chuối nào là rau và con gà, nào là gạo nếp mới…, vừa bước tới cổng thì thấy vợ thằng Út đi ra. Chị Hai cất tiếng:

– Tui mới lên…., Mợ út khỏe không?

Không trả lời trả vốn, vợ thằng Út đi thẳng ra cổng, chị Hai tiu nghỉu đi thẳng vô trong nhà, thấy Má đang ngồi xếp giấy tiền vàng mã, chị Hai ôm sà lấy má:

– Thưa Má, con mới lên…!

Má xoa đầu chị Hai .

-Ừhm. . . Hai mới lên đó hả con….?

Mùa màng lúc rày sao rồi, cả tháng nay không thấy bây lên chơi, má nhớ quá chừng… Thôi con Hai đi rửa mặt rồi xuống phụ mọi người một tay….

Thằng Út nãy giờ đứng đó, không thèm nhìn lấy chị Hai một cái, lên tiếng.

– Hổng còn bộ đồ nào tươm tất nữa sao mà ăn bận lôi thôi lết thết vậy…? Cứ ở yên dưới đó, rảnh tui chở Má xuống thăm, chứ lên đây chi vậy….

Chị Hai lủi thủi đi thẳng xuống bếp, Má nhìn theo, thở dài….!

Đang loay hoay dọn bàn thờ, nghe tiếng còi xe bin bin, thằng Út nhìn ra thấy hai chiếc xe ô tô mới toanh đậu trước sân, liền hối hả mừng rỡ

– Wow! anh Ba, chị Tư qua kìa má…!

Thằng Út chạy ra sân niềm nở, phụ anh Ba, chị Tư bê đồ vô nhà.

Buổi trưa khách khứa đến rất đông, Thằng Út là một giám đốc công ty nước ngoài nên nó mời toàn quan chức, đại gia, người nào người nấy đều mập mạp, ăn mặc cực sang.

Buổi tiệc bắt đầu, chủ khách cụng ly rôm rả. Má nhìn quanh không thấy chị Hai đâu, vội vã lên tiếng:

– “Con Hai đâu rồi, làm cái gì mà lụm cụm mãi dưới bếp vậy, lên đây ngồi ăn với Má…”*

Chị Hai rón rén đi lên, thằng Út đứng phắt dậy đi tới chặn chị Hai lại .

– Chị ngồi ăn với sắp nhỏ dưới bếp đi…. Chứ trên này ngồi bàn, quan khách họ nhìn vào thì tui cất cái mặt đi đâu.

Chị Hai khựng lại, lau vội giọt nước mắt sém trào ra ngoài, lầm lủi đi xuống bếp. Má nghe thằng Út nói vậy, buông đũa đi vào phòng…

Tiệc tàn, Thằng Ba, con Tư vào phòng chào Má về, thấy đôi mắt Má đỏ hoe, hai đứa xúm vào hỏi lo lắng.

– Má sao vậy? Sao Má khóc? Má nhớ ba hay bịnh gì nói cho tụi con biết…

Má giọng khản đặc….

– Bây khoan hãy về, nán lại đây một chút…. Con Tư ra gọi thằng Út và con Hai vào đây Má có chuyện muốn nói….

Bốn đứa con ngồi bên, má chậm rải nói.

-Bây có biết không, từ khi Ba của bây mất, con Hai phải bỏ học nửa chừng đi ở đợ cho người ta để kiếm tiền phụ má lo cho bây ăn học, bao nhiêu tủi nhục, cực khổ con Hai nó gánh hết… !

Có lần, chủ nhà mất chỉ vàng nghi ngờ con Hai lấy, rồi họ xúm vào đánh con Hai tả tơi, nó chạy về nhà mặt tím bầm, tóc tai rối bời, quần áo rách tả tơi, nó khóc tức tưởi. Má ôm nó vào lòng mà cảm thấy đứt từng khúc ruột…!

Từ đó, nó nguyện với lòng là không để cho bây khổ cực nên nó cày thuê gánh mướn, ai thuê gì làm nấy, miễn đủ tiền lo cho tụi bây ăn học, quên cả tuổi thanh xuân để cho bây được như ngày hôm nay….

Thằng Ba bây giờ là giám đốc bệnh viện, con Tư là một doanh nhân thành đạt, thằng Út là giám đốc của một tập đoàn nước ngoài. Còn con Hai, nó hy sinh cả đời, không chồng, không con, vì lo cho em mình, bây giờ nó nhận được cái gì đây…?

Nó nhận được sự hắt hủi của mấy đứa em mình, nó nhận được sự khinh bỉ của chính mấy đứa em của nó…!

Thằng Ba, con Tư, thằng Út, tụi bây phải biết thương yêu con Hai, má thì gần đất xa trời, mà thấy cảnh như thế này, má có nhắm mắt xuôi tay cũng không yên lòng.. Má buồn lắm các con ơi…, nhìn thấy chị hai của bây như vầy, má không chịu được, cứ mỗi lần nhìn thấy nó là má không cầm được nước mắt…!

Nếu lúc xưa nó không lo cho bay thì bây giờ nó cũng có chồng có con có cái như người ta… Má còn nhớ hoài, lúc xưa có thằng đó yêu nó quá chừng chừng, cái hôm mà thằng đó đến xin hỏi cưới, con Hai nó mới nói:

“Tui theo anh về nhà anh, rồi ai lo cho tụi em tui…!”. Từ đó, thằng bồ nó bỏ đi biệt xứ, nửa đêm thức giấc thì lúc nào ta cũng thấy con hai cầm tấm hình thằng đó mà thở dài thở ngắn, nó thầm nuốt cái đau buồn vào tận trong lòng, âm thầm chịu đựng một mình mà lo cho bây đó…

Thằng Ba, con Tư thằng Út nghe má nói, chợt hiểu ra, đứa nào cũng mắt đỏ hoe, chúng đã hiểu ra là mình có lỗi với chị Hai quá nhiều, ba đứa tụi nó nhào tới ôm chặt lấy chị Hai, mà khóc…!

Bỗng dưng nhà bên cạnh vang lên bài hát “Chị tôi”, khiến mọi người càng khóc thêm, khóc vì không phải buồn mà khóc là để mừng vì mấy đứa em đã tìm được Chị Hai sau những năm trời bị ruồng bỏ…!

“… Nhà tôi trên bến sông có chiếc cầu nhỏ cong cong.

Hàng cau dưới nắng trong lá trầu không

Chị tôi trông dễ thương bán rau chợ cầu Ðông í a.

Chị tôi chưa lấy chồng.

Thời con gái lưng ong có bao người thầm mong theo.

Mẹ dục con gái yêu lấy chồng đi.

Chị thương hai đứa em thương mẹ già con đau í a.

Chị tôi chưa lấy chồng….!”.

(Đinh Trực sưu tầm)

 

 

 

MỐI TÌNH KHÔNG CHIẾN TUYẾN

May be a black-and-white image of one or more people

Lê Văn Hòa

“MỐI TÌNH KHÔNG CHIẾN TUYẾN

Tác giả của bài viết này từng là một sĩ quan QLVNCH, đang cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO-20. Ông nhớ về một kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời binh nghiệp của chính mình:

Có một nữ chiến binh VC bị thương trong một trận chiến đẫm máu đã được ông cứu chữa. Sau chiến tranh, người nữ chiến binh VC ấy đã vào tận trại cải tạo tìm thăm người cựu sĩ quan QLVNCH. Khi được tự do, 2 người đã thành vợ chồng và họ sang Mỹ sinh sống…

Câu chuyện của 2 người lính từng một thời là “kẻ thù” của nhau, ngỡ như chỉ có trong tiểu thuyết, thật cảm động, đầy tính nhân văn và vượt qua những bất đồng về lý tưởng. Nó chứng minh một điều không phải ta dễ dàng nhận ra: Trong chiến tranh, trái tim yêu thương sẽ chiến thắng sự hận thù, dù ở bên kia chiến tuyến …

“Sau 3 ngày quần thảo ác liệt với đối phương, chúng tôi mới chiếm được mục tiêu. Một đơn vị VC thuộc tỉnh Bến Tre đã bị xóa sổ, nhưng đơn vị của chúng tôi cũng bị thiệt hại nặng nề không kém!

Trung đội 4 của tôi được lệnh bung rộng ra kiểm soát từng hầm hố, từng công sự của đối phương. Cảnh vật hoang tàn đổ nát, những thân cây dừa bị mảnh đạn pháo binh băm nát lỗ chỗ. Hầu như không còn chỗ nào nguyên vẹn, mùi thuốc súng nồng nặc khó chịu vẫn còn vương lại nơi đâỵ.

Tôi với Kính, người mang máy truyền tin, cẩn thận từng bước trên bờ mương nhỏ.

Chợt Kính giơ tay ra hiệu:

– Sếp ơi! Coi chừng, hình như có người trong lùm cây đàng kia.

– Tản rộng ra, theo dõi kỹ chung quanh và coi chừng trái nổ gài lại đó.

Tôi ra lệnh cho Kính xong là lom khom phóng qua những thân cây nằm ngổn ngang trên mặt đất. Khẩu M16 lên đạn sẳn sàng. Kính theo kế bên hông…

Những tiếng rên nho nhỏ từ trong lùm cây rậm rạp, ngày càng nghe rõ dần…

– Một nữ “Vi xi”! – Kính nói nhỏ.

Kinh nghiệm chiến trận cho tôi biết không bao giờ hấp tấp trước mọi tình huống. Có thể đối phương gài mìn bẫy xung quanh, hoặc gỉa vờ bị thương để dẫn dụ đối phương tới gần rồi sát hại.

Giơ ngón tay ra hiệu lệnh và chỉ vào lùm cây, tôi quan sát lần nữa rồi rón rén bước nhẹ, đằng kia thằng Kính lăm le khẩu súng trên tay trông chừng. Tôi lấy mũi súng vạch đám lá, một cô gái còn rất trẻ trạc độ 18 – 19 tuổi, tóc tết đuôi sam, nằm gối đầu lên chiếc ba-lô mầu “cứt ngựa”, vai trái bị trúng đạn máu tuôn ra ướt đẫm, mắt nhắm nghiền nhưng miệng vẩn không ngớt rên rỉ:

– Nước… Nước… Cho tôi miếng nước.

Trước tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của cô địch quân sau khi ngừng tiếng súng, việc đầu tiên là phải cầm máu. Tôi lấy băng cá nhân lau nhẹ trên vết thương. Đoạn dùng lưỡi lê cắt khoảng áo trên vai, đỡ cô ngồi dựa vào người, tôi đoạn bảo Kính:

– Mày băng dùm cho tao, nhớ nhẹ taỵ!

– Ông nhân từ quá, gặp em đi một mình là con nhỏ này tiêu đời! – Kính vừa băng vừa cằn nhằn.

Tôi im lặng không nói gì. Thằng Kính cũng có lý. Những người lính ra trận làm sao tránh khỏi thương vong. Liệu VC có nhân từ với những người anh em của tôi không?

– Nước… Cho tôi xin miếng nước.

– ĐM… Câm miệng lại!

Kính văng tục và gầm ghè giận dữ. Tôi lừ mắt nhìn người đệ tử ra vẻ không hài lòng.

– Mày đừng nói như vậy, với một người sắp chết, mình đừng nuôi thù hận nữa. Thôi mày ra ngoài trông chừng cho tao đi!

Tôi lấy cái khăn màu tím cột trên vai áo (dấu hiệu nhận diện của đơn vị) thấm chút nước rót từ bình tông lau nhẹ trên mặt cô gái. Tôi ngẩn người trong giây lát vì sắc đẹp của nữ địch quân: khuôn mặt thanh tú với hàng mi cong vút nhất là sống mũi cao nôm cô phảng phất như minh tinh màn bạc. Dù trắng xanh vì mất máu, nhưng cô ta vẫn có nét thu hút đặc biệt…

Ghé bình tông nước vào miệng cô gái, tôi nói nhỏ:

– Cô uống đi, nhớ từ từ từng chút một.

Cô gái ngoan ngoãn nghe lời như một em bé, rồi thều thào:

– Cám ơn ông nhìều – Giọng cô nói yếu ớt và mệt mỏi.

– Tôi sẽ tiêm cho cô 2 mũi thuốc trụ sinh và cầm máu, cố chịu đau nghe.

– Không cần đâu, làm phiền ông nhiều rồi. Vả lại tôi cũng sắp chết…

– Tầm bậy, vết thương này đâu có gì nguy hiểm!

– Xin ông đừng an ủi như vậy. Hồi nãy ông nói tôi sắp chết…

– Tại vì… Tại vì… Tôi không muốn lính của mình ăn nói kỳ cục như vậy…

Cô gái mở mắt nhìn tôi với vẻ cám ơn, trong đáy mắt chứa nhiều điều muốn nói. Lâu lắm cô lại thều thào:

– Bây giờ ông sẽ làm gì với tôi? Bắn một phát súng có lẽ nhẹ nhàng hơn là giao tôi cho cấp trên của ông…

Thật tình tôi không biết trả lời sao với cô, chưa kịp phản ứng thì cô tiếp:

– Tôi sinh ra ở miền đất mênh mông sông nước này. Ba má tôi đều đã chết vì bom đạn Mỹ. Hãy để thân xác tôi cũng vùi xuống đất mẹ quê hương. Ông đừng giao tôi cho ai hết. Tôi xin ông…

– Thôi được rồi, tôi sẽ làm theo lời yêu cầu của cô. Nhưng trước nhất hãy để tôi tiêm thuốc cái đã, đừng bướng bỉnh như vậy.

Cô gật nhẹ đầu mà không nói lời nào. Kéo ống tay áo lên, lộ làn da trắng nõn nà. Tôi chăm chú chích mũi Penicilline mà không thấy má của cô thoáng đỏ vì hổ thẹn mà chỉ thấy cô nhăn nhó suýt soa vì đau, tôi bật cười:

– Cô cũng là lính, đã đánh trận bị thương, bị bắn không đau, chỉ có mũi kim bé tí tẹo mà cô rên rỉ, nhăn nhó như…

– Sao không đau, ông muốn nói tôi như… khỉ chứ gì?

Cô cướp lời. Tôi cười trừ, đỡ cô gái nằm xuống ngay ngắn trên mấy tầu lá chuối rồi đứng dậy lấy trong ba-lô mấy hộp lương khô, bình nước đầy và cuộn băng cứu thương, tất cả đặt bên cạnh cô rồi nghiêm nghị nói:

– Đơn vị tôi sẽ di chuyển đi nơi khác bất cứ lúc nào để tìm các đồng chí của cô. Những thứ nầy cần thiết cho cô, tôi hy vọng người của cô sẽ trở lại tìm và cứu sống đồng đội của mình.

Tôi lấy khăn nhúng nước lau mặt cho cô đoạn cẩn thận lấy mấy tàu lá dừa che kín lại cô VC đang nằm.

– Này… Ông tên là gì vậy?

– Có quan trọng lắm không?

– Ít ra sống hay chết tôi còn biết tên người đã đối xử tốt với mình chứ.

– Vậy thì cô nói với Diêm Vương gã đó là Lam, Trần Hoài Lam, và cô xin với ổng cho tôi tai qua nạn khỏi trong chiến tranh này!

Tôi nghe tiếng cô cười nhỏ cùng tiếng nói thật nhẹ:

– Dạ, Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tai qua nạn khỏi.

Quyên, người con gái mà tôi gặp gỡ một lần, và chỉ một lần duy nhất trong cuộc đời kế từ đó. Bước chân người lính như tôi đã qua mọi đoạn đường đất nước, những trận đánh đẫm máu bằng cái chết của đôi bên lên rất cao. Vài lần bị thương nặng nhẹ nhưng tính mạng vẫn còn giữ được, phải chăng Quyên hằng đêm cầu nguyện cho tôi được tai qua nạn khỏi như nàng đã hứa.

Đất nước hoà bình, tiếng súng lặng im, những người từng là sĩ quan QLVNCH như tôi và bạn bè khác dù không bị trả thù, “tắm máu”, nhưng đều phải ra trình diện, rồi tập trung đi trại cải tạo…

Một ngày đẹp trời, trại Bù Gia Mập, nơi tôi đang “lao động là vinh quang” có cơn bão rừng rất lớn, mọi người được phép nghỉ tại lán. Anh Đan, khối trưởng nhận thư từ Quản giáo phân phát cho anh em. Là một kẻ không thân nhân, không họ hàng, tôi lảng đi nơi khác cho đỡ tủi thân.

– Trần Hoài Lam có thư!

Cả phòng xôn xao ngạc nhiên vì ai cũng biết tôi là thằng “mồ côi”, là “con bà Phước”, danh từ ám chỉ những kẻ không có ai thăm viếng lẫn thư từ.

Rất ngạc nhiên tôi nghĩ thầm trong bụng có lẽ trùng tên với một người nào đó nên im lặng.

– Trần Hoài Lam có thư!

Người khối trưởng lập lại với vẻ khó chịu.

Tôi dè dặt bước tới trong trạng thái hoang mang.

– Có thật là của tôi không anh Đan?

– Tên anh rành rành trên phong bì làm sao sai được. Thôi nhận đi cho tôi còn làm việc, nếu có sai thì cho tôi biết.

Cầm lá thư tôi lật qua lật lại, xem kỹ có phải đúng tên mình không. Hoàn toàn đúng nhưng tuồng chữ lạ hoắc và cái tên cũng chưa bao nghe qua, nhưng một điều chắc chắn người viết là phái nữ, nét chữ mềm mại thẳng đứng nhưng rõ ràng. Trần Hoài Quyên, thật là lạ, trùng họ, trùng chữ lót, chỉ khác tên. Tôi tứ cố vô thân làm gì có họ hàng.

Tôi hồi hộp đến run rẩy mở ra đọc:

“Anh Lam! Có lẽ anh ngạc nhiên lúc nhận thư của Quyên, người con gái xa lạ gởi đến cho mình, nhưng khi em nói câu này chắc chắn anh hình dung Quyên là ai: Đi lính bị thương, bị bắn không đau, chỉ mủi kim bé tí teo này mà nhăn nhó rên rỉ như…”.

Đọc mấy dòng chữ trên, tôi lặng người rất lâu, bàng hoàng và xúc động hơn bao giờ hết khi nhớ lại trong trận đánh ấy, một nữ VC khuôn mặt bê bết sình đất, tóc tai rũ rượi gối đầu trên ba lô nhỏ, ánh mắt thất thần khi tôi đến gần rồi nhẹ nhàng lấy khăn lau cho cô, khuôn mặt thiên thần trong sáng hiện ra…

“Đúng như anh nói, đêm hôm ấy đồng đội đã mang em ra khỏi nơi mù mịt khói lửa và chữa trị ở bệnh viện đã chiến. Sau khi rời khỏi bệnh viện, em xin về đơn vị thành phố để họat động…

Chính hành động của anh đã làm thay đổi quan niệm của em.

Những người đối đầu không hẳn đều tàn ác, bằng chứng là anh. Anh đối xử thật tốt, thật nhân đạo với “kẻ thù”. Dù rằng thuộc hạ của anh nói đúng, không biết bao người đã ngã xuống vì những viên đạn của đối phương, mà có thể trong đó có cả em từng bắn ra…

Hòa Bình tái lập, nhưng em không vui vì nhiều người còn tư tưởng hận thù. Em rất buồn vì biết anh đang đi cải tạo… Nhưng em không thể nào quên anh. Vì thế, em đã cậy cục, tìm kiếm tin tức của anh qua các trại học tập. Trời không phụ lòng người, rốt cục em cũng tìm ra anh. Anh Lam! Còn nhớ những gì em đã nói trước khi anh từ gĩa ra đi không: Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tránh được mũi tên hòn đạn”.

Em đã cầu nguyện như vậy mỗi đêm để ơn trên ban mọi điều lành đến cho anh tai qua nạn khỏi đúng như lời đã hứa. Em đang thu xếp công việc để đến thăm anh kỳ tới. Mong được găp lại anh. Hy vọng đừng làm mặt lạ với Quyên”.

Từ đó tôi không còn là người cô độc nữa, Quyên thăm đều đặn, lần nào cũng khóc, giọt nước mắt long lanh trên má làm tôi xúc động muốn khóc theo.

Ân tình của em làm sao tôi báo đáp cho nổi, cho tới khi tôi được tự do và làm thủ tục sang Mỹ sinh sống…

Tôi đã cầu hôn với Quyên và em đồng ý.

Quyên bây giờ là mẹ của bầy con 3 đứa kháu khỉnh, xinh đẹp. Em chu toàn nhiệm vụ của người vợ hiền, người mẹ nhân ái. Sống ở xứ người văn minh tân tiến nhưng Quyên vẫn là của tôi dạo nào, vẫn áo bà ba và sợi thung buộc trên tóc. Những đêm con cái ngon giấc, em qua nằm kế bên tôi thủ thỉ trò chuyện tâm sự:

– Quyên à, em thương anh từ lúc nào.

– Kỳ cục, ai mà nhớ, hỏi bậy bạ không à”. Em mắc cở phụng phịu.

– Vậy thì thôi anh không hỏi nữa. Tôi làm bộ giận dỗi quay mặt đi nơi khác.

– Thôi đừng giận nữa, em nói, nhưng cấm không được cười à nha…

Quyên bắt tôi thề thốt đủ mọi điều rồi mới nói:

– Em yêu từ lúc anh kéo tay áo lên để tiêm thuốc. Mắc cỡ muốn chết, đã vậy còn ghẹo người ta này nọ. Anh biết không, cái khăn màu tím ngày đó anh lau mặt cho, em giữ mãi trong người, đi đâu cũng xếp lại bỏ vào túi áo, lâu lâu mở ra xem sợ rớt mất.

Tôi cảm động hôn lên trán vợ, không ngờ cô yêu thương mình đến như vậy:

– Anh biết không, có một hôm em giặt xong phơi ở hàng rào gió thổi mất tiêu. Trời đất, em khóc mấy ngày trời, bỏ ăn, bỏ ngủ, đi tìm nó. Không hiểu sao nó lại về với em, đứa bạn nhặt được mang trả lại. Nó nói cái khăn này bay tới tận khu ủy, cách đó gần 5 cây số. Em tin rằng anh luôn luôn bên cạnh để giúp em vượt qua nguy hiểm. Hôm bị thương nếu gặp người khác có lẽ cuộc đời của em không biết ra sao. Có lẽ bị chết không chừng…

Quyên ngủ say bên vai tôi, tiếng thở nhẹ nhàng êm ái. Một điều huyền diệu khó tin nhưng thật sự là vậy. Phải chăng duyên số đưa đẩy để tôi gặp em trong hoàn cảnh đó. Đúng như Quyên nói, nếu gặp người khác em có thể bị bắn chết hoặc chết vì vết thương. Hôn lên trán vợ, tôi thì thầm:

– Duyên nợ trời định em ạ.

Bên vai tôi, Quyên ngủ ngon lành khuôn mặt thiên thần không gợn chút bụi trần.

Tình yêu và hạnh phúc của chúng tôi đã đi qua chiến tranh như thế!”

(ST)

Vụng Đường Tu – TRUYỆN NGẮN 2 KỲ – VŨ CÔNG YNH

TRUYỆN NGẮN 2 KỲ – VŨ CÔNG YNH

Truyện kể về một chàng tị nạn Việt đã quyết chí đi tu, nhưng rồi vướng món nợ… tóc vàng

***

Vụng Đường Tu

  1. Tên Mỹ nghe quen mà khó nhớ

Hắn ra trường tại một đai học ở Texas, rồi đi kiếm việc vào lúc mà nền kinh tế nước Mỹ đang xuống dốc, mà kinh nghiệm cũng như vốn liếng tiếng Anh chuyên môn của hắn thì chưa đủ khá, để có thế cạnh tranh với những sinh viên khác, nên việc kiếm job đầy gian nan vất vả.

Nhớ hồi còn trong nước, dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, học sinh phải phấn khởi để học tiếng Liên Xô hay Trung Quốc cho thức thời, thì mấy thằng “ngụy” con như hắn lại đi học tiếng của “đế quốc” Mỹ. Sau mấy năm trung học, cứ tưởng trong đầu đã đầy những chữ của đế quốc, vậy mà hắn, thằng con trai 17 tuổi, được cha mẹ kiếm đường cho đi vượt biên đến trai tị nạn, lúc phỏng vấn xếp lớp Anh văn, lại chỉ được bà giáo người Mỹ cho vào Cấp Một vì giọng đọc sai bét của mình. Nghĩa là chỉ hơn một bậc, so với mấy ông bà già và đám còn nít chẳng biết tí gì về tiếng Anh.

Đáng buồn, nhưng hắn vẫn không dám trách mấy ông thầy giáo ở Việt Nam vì “…nửa chữ cũng là thầy.” Phải thông cảm cho thầy, khi mà nghề dạy học chủ yếu là để bán ô mai, cóc, ổi, bánh kẹo trong lớp, hầu kiếm thêm thu nhập. Chính hắn cũng đã nhiều lần phụ thầy cô giáo mang những túi bánh kẹo vào lớp rồi chuyền tay nhau mua giúp thầy cô. Học tiếng Mỹ, vừa ngậm kẹo, vừa tập đọc theo giọng hờ hững của cô giáo đang lẩm nhẩm đếm tiền lẻ, thì giỏi được như hắn bây giờ cũng là khá rồi, tự trách làm gì. Thôi! Coi như học lại từ đầu cho chắc ăn!

Vậy nên những ngày trên đảo, chẳng những hắn yên tâm học Anh văn, mà còn nghe lời khuyên của bà giáo, hắn tình nguyện đi làm không công cho văn phòng Cao Ủy Tị Nạn. Quét dọn và thu xếp hồ sơ, để có dịp nghe tiếng Mỹ cho thủng lỗ tai. Nhưng càng nghe, hắn càng thấy chữ nghĩa nhảy múa lung tung, đến nhức cả đầu!

Ấy vậy mà khi đến Mỹ, rồi liều mình vào đại học nộp đơn, nói chuyện bằng tay quơ quào thế nào mà hắn cũng được nhận, và được gọi đi học vào một buổi sớm mùa xuân có nắng hanh vàng phủ trên những thảm cỏ xanh rì trên sân trường. Hắn thấy cuộc đời quả là thần tiên!

Mà thần tiên hơn nữa, là hắn cũng từ từ qua được những môn học cần đến nhiều tiếng Anh như English Composition, U.S. Politics, History…, là những môn khó gặm cho một thằng con trai tị nạn như hắn. Cũng may, nhờ những lớp học về toán và khoa học, mà hắn trụ được cho tới ngày tốt nghiệp. Và rồi, để bảo đảm cho vị thế của một công dân trong xã hội, hắn nộp đơn xin vào quốc tịch Mỹ. Nghe lời khuyên của những đàn anh ra trường đang có việc làm, hắn đã lấy tên Mỹ, để khi đi phỏng vấn xin việc, những ông chủ hãng không phải méo miệng mà gọi hắn bằng tên Việt Nam, như vậy dễ có cảm tình hơn!

Colin Do – Nghe cũng có vẻ Mỹ đấy! Đang lúc hắn rất tự hào về cái tên vừa dễ đọc, dễ viết, mà lại dễ nhớ…, thì Đông, một trong những thằng bạn chung phòng, không đồng ý:

– Mẹ…! Đang không lấy tên Mỹ làm gì, Cô Lìn với chả Cô Lèo… Tao mà làm sếp đi phỏng vấn mấy thằng Á Châu, cứ thấy tên Mỹ họ Việt là tao loại… Ai kiện, cho là kỳ thị thì tao chịu… Tên cha ông đặt cho, lại bỏ đi là làm sao?

Thằng bạn nó nói cũng có lý, nhưng tên Mỹ hay Việt thì cũng chỉ để gọi thôi! Hắn gãi gãi đầu…, mình tóc đen, mũi tẹt thế này, dù có gọi bằng tên Mỹ cả chục lần thì cũng chẳng khác Việt Nam được, chắc tổ tiên bất chợt hiện lên cũng vẫn nhận ra…! Hắn nhủ lòng như thế, để yên tâm mà đi xin việc.

Hắn gửi resume đi các nơi. Cũng hên là nước Mỹ chỉ có năm mươi tiểu bang, chứ nếu một trăm tiểu bang thì hắn còn tốn khối tiền gởi hồ sơ, để rồi toàn nhận được phúc đáp là những sự từ chối. Bạn bè có đứa lên giọng dọa nạt là bằng kỹ sư điện của hắn, chỉ có nước bỏ đi nếu như một năm mà chưa xin được việc, khiến hắn thở dài lo lắng! Rồi đứa khác lại cười cười cho rằng nước Mỹ, quả là u mê, nên vẫn chưa nhận ra được một con người tài năng như hắn…

Chẳng biết tụi nó nói thật hay nói chơi!

Đến gần nửa năm trời, sau khi thấy hắn vẫn ngày ngày nhai mì gói, thằng bạn chung phòng tội nghiệp, nhờ quen biết, xin cho hắn vào làm trong một hãng sản xuất bóng đèn, giúp hắn có tiền mà share tiền phòng. Tám tiếng một ngày, làm việc dây chuyền, đếm đủ 20 bóng cho vào một thùng, rồi đếm đến thùng khác…

Được cái hắn giỏi toán nên đếm chả mấy khi sai! Hắn gật gật đầu, “làm” bóng đèn, nghe cũng có vẻ dính dáng ít nhiều về…điện, điện tử, hy vọng bằng cấp của mình nhờ vậy mà không đến nỗi bỏ đi như lời thằng bạn độc miệng.

Xem ra, trời chẳng phụ lòng người, một buổi chiều, hắn nhận được thư gọi đi phỏng vấn technician job từ hãng Boeing, mà vì gởi nhiều đơn quá, hắn cũng chẳng nhớ là mình đã xin việc này khi nào! Technician cũng tốt thôi, được phỏng vấn là may rồi, hắn tự khuyến khích, ít ra là có cơ hội học hỏi kinh nghiệm phỏng vấn như thế nào. Boeing mà, máy bay bay đầy trời chứ dở sao!

Vậy mà hắn lại được nhận ngay. Bắt tay tạm biệt ông supervisor, hắn mừng rối rít.

Thế rồi, chẳng biết nhờ ai mách nước là trong resume, nếu khai vừa đi học vừa đi làm thì dễ “câu” job kỹ sư hơn. Cũng giống như bán một món hàng mà chứng tỏ được món hàng đó sẽ có giá, thì người mua dễ để mắt đến. Nghe cũng xuôi tại, nên hắn đi thi lấy cái GRE test, rồi xin vào trường, học tiếp Master bằng tiền trợ cấp của hãng.

Hình như hắn đã đoán đúng, đi học lại chưa được một năm, “tiếng tăm” cần cù siêng học của hắn đã đến được tai của management trong hãng. Cũng đúng thôi, hãng trả tiền học, nhưng có mấy đứa còn kém cỏi để vừa đi học vừa đi làm như hắn đâu, nên tên của hắn thường xuyên nằm chình ình trên phòng Tài Chánh của Human Resources chờ ký giấy nhận tiền. Cũng vừa lúc hãng đang cần một kỹ sư cho ca làm buổi chiều, bà Mỹ già Julie – Engineering Manager – 20 năm kinh nghiệm để mướn những “nhân tài” với số lương rẻ mạt cho hãng, nghĩ đến đơn của thằng Việt Nam ốm nhách, nhưng chăm chỉ…, bà cho ngay tên của hắn vào Promotion List.

Ôi, cuộc đời quả là đáng sống. Đường quan lộ sáng chói như ánh đèn 100 watts trong đêm tối mênh mông, vì vừa được đi học, vừa được làm đúng nghề như hằng mơ ước.

Hắn đậu xe vào parking-lot rồi nhanh nhẹn khoác backpack lên lưng, tất bật phóng vào lớp học.

Bữa nay trong lớp chia nhóm để làm project cuối khoá. Hắn chọn lớp này, Biomedical Instrumentation and Robotics, làm môn học lựa chọn để hy vọng dễ đậu điểm cao. Môn học được học chung với những sinh viên năm chót của ngành Biomedical Engineering.

Nhìn danh sách các nhóm được dán trên của lớp, hắn mong được xếp chung với những đứa nổi tiếng siêng học, như những du sinh đến từ Ấn Độ thì đỡ quá, hắn sẽ có cơ hội phát huy tính dựa dẫm của mình. Những hắn bỗng giật mình khi thấy tên của mình chung nhóm với hai đứa con gái. Vậy là mệt rồi! Chung với ai chứ với con gái thì hắn đã có kinh nghiệm nhiều lần. Cố nài lưng ra mà làm bài, làm programs, làm projects… Đúng thì xong nợ, mà sai thì cũng chỉ có mình hắn bỏ thời giờ ra sửa lại.

Thực ra, cũng có những đứa con gái giỏi, siêng năng, nhưng số hắn hình như lận đận với đám bạn…làm biếng. Nghĩ lại, từ năm thứ nhất vào trường đến giờ, hắn đã chẳng may mắn để vào được nhóm nào có mấy đứa siêng học cả. Nếu hên, được “lọt sàng” mấy đứa con gái, thì lại “xuống nia” với mấy trự con trai mà lấy sự nghiệp ngồi hành lang cafeteria là chính. Nơi có những ly cà phê với điếu thuốc cháy dở, và ánh mắt trần tục ngắm nghía con gái qua lại, như một hobby trong cuộc sống… Hắn thở dài, mùa học này quả là xui cho một thằng đi học part-time như hắn!

Ừ, hắn chỉ lấy hai lớp học trong niên khóa này vì còn phải đi làm.Cũng nhờ bà sếp tốt bụng, không giao cho những việc nặng nhọc nên hắn có thời gian đi học. Nghĩ đến khuôn mặt hiền lành nhưng không kém phần cương nghị của bà, hắn thấy mình thật may mắn được là một trong những nhân viên có bà sếp như thế.

– Hi…!

Đang suy nghĩ cách nào, xin với bà sếp già, cho thêm giờ rảnh để làm project ở trường, hắn quay lại vì nghe có giọng con gái gọi phía sau… “Hừ…! Làm mình giật bắn cả người, cứ tưởng bà sếp Mỹ hiện ra…” Nhưng không phải. Trời ạ! Trước mắt hắn là đứa con gái xinh đẹp trong lớp, mà hắn chẳng biết tên, hay nói đúng ra là chẳng có cơ hội biết tên.

– Are you Colin…?

Hắn gật gật.

Vì chẳng biết tên nàng là gì, lại bản tính chậm chạp, hắn cứ trân trân nhìn đứa con gái tóc vàng, mắt nâu, đang ban phát những lời nhỏ nhẹ chào hỏi. Chắc tội nghiệp thằng học sinh Á Châu ngớ ngẩn, đứa con gái giơ tay cho hắn bắt:

– Im Jackqueline… Very glad to join your group!

À thì ra vậy! Hắn đương thắc mắc tên những đứa con gái chung nhóm, thì con nhỏ co-worker này lại tự động dẫn xác tới. Bàn tay mềm ấm của cô làm hắn thấy tự tin hơn:

– Good, so am I..! Jack… Jack…!

Hắn lắp bắp tên của nàng, làm đứa con gái phải nhắc lại:

– Jackqueline! Nhưng “mày” cứ gọi là Jackie được rồi!

Danh xưng của Mỹ quả là bình đẳng, chẳng phải nghĩ ngợi, anh, em… lôi thôi như Việt Nam. Cứ “you, you, me, me…” mà lại tiện. Hắn thở phào:

– Yeah! I am pleasure…, rất hân hạnh…!

Vậy là hắn quen nàng, rồi được quen luôn cả Teresa, em Mễ đen đen, lùn lùn, có cái bụng tròn quay, cùng chung nhóm ba đứa với nhau.

Coi như xong, phận trai mười hai bến nước, hắn trôi dạt vào nhóm với hai em, một Mỹ, một Mễ. Em Mễ tóc đen, và nàng, tóc mây vàng óng ả! Hắn phân biệt như vậy cho dễ liên tưởng. Việt, Mỹ, Mễ…, vậy ra nhóm của hắn là một pha trộn đặc chế đấy. Trời đôi khi có vẻ bất công, chẳng hiểu sao lại lơ đãng nặn ra một đứa con gái tròn tròn, ngăm ngăm như em Mễ, bên cạnh một đứa thon gọn, hồng hào như nàng thế kia, lại còn bắt hai đứa chung một nhóm với nhau. Hắn lắc đầu, ngầm đưa mắt nhìn hai em group-mates để cố tìm hiểu ý nghĩa khôi hài của Thượng Đế.

Ấy vậy mà em Mễ lại có vẻ siêng và học giỏi. Sau khi bàn bạc, biết hắn đang làm cho Boeing, em Mễ sốt sắng, tình nguyện thu thập bài vở, liên hệ với các nhóm khác lấy tin tức, và học hỏi kinh nghiệm qua lại. Em đề nghị giao cho hắn công việc lắp ráp và thực hiện đề án, còn em Mỹ trắng phụ trách phần trình bày.

Đáng khâm phục! Em Teresa, Mễ đen… nhưng đầu óc thật là thông minh sáng suốt, quả là một nhân tài trong làng quản trị! Phần mình, hắn thấy như vậy là đúng lắm. Hắn chỉ chờ con nhỏ soạn bài vở, tài liệu. Phần lắp ráp, thực hiện thì quá dễ đối với hắn. Hắn sẽ mang vào phòng thí nghiệm trong hãng, nối nối, ráp ráp, rồi thử ngiệm vài ba bữa là xong… Phần nàng, em Mỹ trắng, hắn tin là nàng cũng chẳng có gì trở ngại, vì vừa trắng trẻo, cười tươi, lại nói tiếng Mỹ giỏi hơn cả Mỹ, thì phần trình bày của em ăn đứt các nhóm khác là cái chắc. Hắn thấy yên tâm để lấy điểm “A” cho môn học này!

Ngày nộp project, đúng như dự đoán, nhờ tài khéo trình bày của em Mỹ trắng, nhóm hắn được điểm tối đa. Thực là giỏi, hắn tự động mời hai em đi McDonalds để mừng chiến thắng! Em Mễ đen thoái thác vì bận công việc. Em Mỹ trắng nháy mắt “méc” với hắn là Teresa muốn đi chơi với bạn trai. Vậy sao, em Mễ có bạn trai! Hắn không biết là tai mình có nghe lộn không? Thì ra, Thượng Đế hằng chí công vô tư, để người ta mất cái này, thì sẽ cho cái khác đền bù. Hắn thầm cám ơn em Mễ. Ừ, cứ đi đi, để mình hắn với nàng được rồi…!

Ngồi vào trong xe, lấy tay hất mái tóc vàng, nàng hỏi hắn:

– Bữa nay “you” không phải về đi làm à?

Hắn gật gật đầu:

– Có, nhưng “tao” xin đi làm trễ, để được đưa người đẹp đi ăn McDonalds, tưởng thưởng tài khéo của cô ấy!

Chẳng biết sao mọi ngày vụng về, mà bữa nay hắn lại nói được một câu tài hoa như vậy! Đứa con gái lấy làm hài lòng:

– Okay, chiều nay “tao” rảnh, mình có thế đi lâu một chút.

Mặc dù được nàng “cho phép” đi lâu, nhưng trong đầu hắn cũng chỉ nghĩ đưa nàng vào McDonalds, ăn xong rồi còn về làm việc. Thực ra, hắn cũng chẳng biết đi đâu ngoài tiệm fast food này của Mỹ. Đã bảo hắn là thằng quê mùa lắm mà! Qua Mỹ gần 10 năm trời, mà có biết một quán ăn sang trọng nào đâu! Quanh đi quẩn lại cũng chỉ mấy món ăn bình dân, nếu không là phở ở quán Việt Nam thì cũng hamburgers, hotdogs…hay pizzas nơi những tiệm Mỹ.

Nhưng nàng lại có vẻ sốt sắng vì được đi ăn với hắn ở cái tiệm bình dân này. Thật là chân tình! Chắc là đang vui vì qua được một môn học, hay vì trời còn đang Xuân mát mẻ, nàng hạ cửa xe xuống, chỉ vào những bụi hoa được cắm trồng thẳng hàng trên những ngôi mộ trong một nghĩa trang:

– Oh! “Mày” coi kìa, hoa nghĩa trang đẹp quá…! I really like to be here…!

Nghe mà phát ớn! Ở đâu không ở, lại thích ở nghĩa trang. Hắn thì không, mặc dù phải công nhận, nghĩa trang bên Mỹ quả là đẹp như lời nhận định của nàng, hắn cười cười:

– Yeah! Đẹp lắm, nhưng “tao” không thích vào “nằm” ở đây…! Vậy nên lúc nào cũng cầu Chúa cho được sống lâu.

Nàng cười lớn tiếng vì câu khôi hài của hắn, rồi nhìn nắng hồng lung linh trên những đóa hoa ra vẻ thích thú…

Cũng chỉ hơn nửa giờ để ăn, mà nàng hỏi về cuộc đời, công danh, và sự nghiệp của hắn còn hơn cả bà manager phỏng vấn đơn xin việc của hắn trước đây. Ăn xong, hắn đưa nàng về lại sân trường. Đứa con gái chia tay hắn với một tiếng cám ơn ngọt như giọng nói của nàng. Đã tới giờ phải đến hãng, hắn tự nhủ là sẽ nói chuyện với nàng sau:

– Bye Jen…! À không phải…, Jackie ạ!

Hắn chẳng biết tên của học sinh trong lớp nhiều, nhất lại là tên con gái Mỹ, nghe thì quen mà khó nhớ. Dù vừa ăn trưa, nói chuyện với nhau, nhưng đến tên của nàng hắn vẫn còn mại mại, lúc nhớ lúc không…

Gọi lại tên em một lần nữa

Để chắc rằng ta đã không sai

Tên Mỹ nghe quen mà khó nhớ

Lần này, lần trước sớm phôi phai…

Sở dĩ hắn phải lẩm bẩm tên nàng, vì hồi nào đến giờ, con gái, nhất là tên con gái, đối với hắn là một cái gì như dị ứng, rất khó nhớ trong đầu… Chắc một phần vì nhát gái, phần nữa, dù có vẻ mơ hồ nhưng lại quan trọng hơn, là trong thâm tâm sâu thẳm, hắn muốn…đi tu.

Vâng. Đi tu!

Chẳng biết sao lúc nhỏ, 7, 8 tuổi, những dịp theo mẹ vào thăm cha xứ. Ông cha già vuốt tóc hắn, hỏi xem có muốn đi tu không, thì hắn lắc đầu quầy quậy. Dù vẫn biết đi tu sẽ được nhiều kẹo như những hũ kẹo xanh đỏ trên bàn của cha, những hắn vẫn sợ phải vào nhà Chúa…!

Thế nhưng, chỉ từ hồi qua Mỹ đến giờ, tư tưởng đi tu, dâng cuộc đời cho Chúa lại vẩn vơ trong đầu. Chẳng phải vì hắn sợ đàn bà con gái đến độ không dám đến gần, hay vì hắn… chỉ thích con trai?

Không, chẳng thế thế được! Đôi lúc vui chơi uống cà phê với đám con trai, lỡ có đứa nào ôm vai, hay lỡ đặt tay lên đùi hắn, hắn vội hất tay ra, rùng mình vì thấy kì cục… Như vậy chắc hắn không thế là “gay”, như báo chí hay sách vở diễn tả rồi. Lại nữa, một bằng chứng chắc chắn hơn, là khi nhìn một đứa con gái đẹp như nàng, hắn thấy tâm hồn mình có chút rung động rõ ràng mà! Quái lạ, vậy sao giờ lại có tâm tình muốn đi tu mà trước đây không có nhỉ. Hắn lẩm bẩm thắc mắc như thế!

Để rồi một lần, hắn đánh bạo đi gặp một bác sĩ tâm lý xin ý kiến. Biết đâu trong một gene sâu thẳm nào đó của tâm hồn, do ông bà truyền lại, có liên hệ đến một… tu sĩ nào đó thì sao? Sau khi khám bệnh, hỏi thăm, trò chuyện tỉ mỉ, vị bác sĩ tâm lý, nổi tiếng nhiều thân chủ nhất trong thành phố, phán một câu rất an tâm là hắn… bình thường, chỉ vì chưa gặp người con gái, đúng tần số trái tim, để cùng rung động đó thôi!

Ra thế đấy, chắc là ông nói đúng! Vì từ hồi qua Mỹ đến giờ, hắn đã gặp ai “tương xứng” để thương yêu đâu. Vốn rụt rè, lại bận rộn học hành, hắn chưa quen được đứa con gái nào thì cũng không có gì là lạ! Hắn an tâm và tin vào Chúa sẽ sắp xếp cuộc đời cho riêng mình.

***

  1. Gặp lại nhau, ngờ ngợ tên em

Hắn thường lại một nhà nguyện nhỏ, trong khuôn viên trường học, để đi lễ vào mỗi buổi chiều thứ Bảy thay cho lễ Chúa Nhật. Cũng nhờ đi lễ mà hắn quen được cha Joe! Chẳng nhớ last-name của cha là gì, chỉ biết cả bọn Việt Nam như hắn vẫn thích gọi cha bằng first-name cho dễ – Father Joe – Cha đúng là một gương mẫu về đạo đức và khiệm nhượng…! Hàng tuần vẫn đều đặn và sốt sắng làm lễ trong ngôi nhà nguyện nhỏ, mà đia phận thuê cho, đến cả chục năm rồi cũng nên.

Cha nghèo quá, vì khả năng tài chánh của cha chỉ có vậy. Bổng lộc giáo phận cấp phát chỉ là một chếc xe Printo cũ kỹ, chẳng biết được sản xuất từ năm nào, mà sơn trên mui xe đã tróc loang lổ như một gã trọc đầu ghẻ lở… Tiền xin lễ thì chẳng có! Học sinh chừng hơn chục đứa, siêng thì đi lễ, làm biếng thì ngủ khì. Con chiên học sinh của cha đi lễ lơ phơ lất phất như vậy, lại nghèo nữa, tiền đâu mà xin lễ, để cha có thêm được một hai chục bạc đổ xăng? Nghèo vậy, nhưng thấy cha lúc nào cũng vui vẻ trong bộ áo lễ vàng ố, đã sờn mòn nhiều nơi. Tội nghiệp và khâm phục một vị chân tu, hắn bỗng thấy cuộc sống dâng mình cho Thiên Chúa như ông thực là vĩ đại.

Cha có biệt tài làm những học sinh ngoại quốc, nhất là những thằng tị nạn như hắn dễ hiểu với giọng giảng hay và rõ ràng của ông. Hắn bị cuốn hút dễ dàng bởi những bài giảng này. Có thể vì sẵn mến mộ ông cha nghèo khó, mà những lời dạy của cha đã lọt được vào tai của hắn không chừng! Nên sau mỗi buổi lễ, hắn dành ra đôi ba phút chuyện trò cùng ông, coi ông như một cha linh hướng, và xin cha một lời khuyên về ý định đi tu của mình.

Vi cha nhân từ, sau vài lần trò truyện, nhìn sâu vào mắt thằng con tị nạn…

Cuộc đời phụng sự Thiên Chúa thì chẳng lúc nào là quá muộn. Khuôn mặt xương xương, khắc khổ, nhưng hiền hiền của hắn làm cha nhớ lại những khuôn mặt, và những ánh mắt, mà cha đã có dịp gặp gỡ khi đến phục vụ tại một trai tị nạn ở Á Châu. Cha đã hiểu thế nào là nỗi chết trên gương mặt những thuyền nhân, lảo đảo như vẫn còn say sóng, khi đặt chân lên đất liền. Những đôi mắt thăm thẳm, thẫn thờ và vô vọng như đang mong chờ một phép lạ nào đó, đưa người thân của họ, từ vũng biển đen sâu trở về. Rồi cũng chính những ánh mắt vô vọng này, đã chạy đến cùng cha, cầu khẩn lời cứu rỗi trong lúc tuyệt vọng vì bị từ chối quyền tị nạn. Người Việt Nam, đáng là một dân tộc được Chúa cứu vớt nhất, bởi những đau thương mà chế độ cộng sản đã đày đọa họ.

Vì sẵn có cảm tình với người tị nạn, nên khi nghe tâm sự và ước muốn của hắn là trở thành một tu sĩ, cha đã sốt sắng hứa sẽ bảo trợ hắn về tinh thần, và liên lạc với tòa Giám Mục để giúp hắn dễ dàng hơn trong việc chấp thuận vào Seminary. Khi được nhận, ông sẽ cho hắn biết ngay. Tuy nhiên, ông vẫn muốn có thêm thời gian để tìm hiểu về hắn, nên khuyên hắn hãy tiếp tục học hành, lấy cho xong mảnh bằng Master. Và quan trọng nhất là tiếp tục cầu nguyện, cố gắng tìm hiểu ý đinh đi tu của mình trong một thời gian nữa. Cứ giữ liên lạc tốt với ông. Vâng lời cha, hắn chờ đợi, để một dịp nào đó, nghe được tiếng Chúa gọi rõ ràng hơn.

Chưa nghe được tiếng Chúa gọi thiết tha, thì một lần nữa, hắn lại gặp nàng nơi nhà nguyện cha Joe. Đôi mắt tròn, màu hổ phách ngỡ ngàng của nàng, như rất ngạc nhiên khi thấy hắn ở đây. Không chờ hắn lên tiếng, nàng bước lại, cầm tay hắn lắc lắc:

– Oh my God…! Youre here, Colin? You… cũng Công Giáo à!

Hắn từ từ buông bàn tay nàng ra, cười vui vẻ:

– Yeah! “Tao” đi lễ ở đây mỗi chiều thứ Bảy…

Đứa con gái ngạc nhiên:

– Really! Gặp “mày” ở đây “tao” mừng quá Colin à…!

– Cám ơn “mày”…Jen…, Jenny…!

Cô lắc lắc đầu:

– Jackqueline… Jackie!

– Hà hà, sorry…! “Tao” cũng mừng lắm khi gặp “mày”.

Hắn cười với đứa bạn mà mấy tháng rồi, từ khi hết học chung, bây giờ mới gặp lại. Cái con nhỏ Mỹ này thực là có tâm hồn Á Đông, nó làm cho thằng tị nạn như hắn, đỡ mang mặc cảm thua thiệt của một đứa chậm chạp khi đặt chân qua Mỹ. Nhìn nụ cười, và cái lắc đầu của đứa con gái làm rung những sợi tóc nhuộm nắng chiều, hắn thầm cám ơn tính vui vẻ và thân mật mà nàng dành cho hắn…

Vài tháng sau,

Mình gặp lại nhau

Ngờ ngợ tên em câu nói chuyện

Lắc đầu, em nhắc ta lần nữa

Bằng tóc hong vàng nắng thiên thâu…!

Trong khi đó, đứa con gái nhìn điệu bộ như một thầy tu của hắn mà tức cười. Hắn vừa nghiêm trang, sợ nghiêm trang còn hơn cả cha Joe lúc chuẩn bị lên làm lễ, lại vừa ngồ ngộ, hay hay vì những câu nói thật thà. Quả là một run rủi tình cờ, vì nàng ít bước chân đến nhà thờ. Nếu như hôm qua, không vì lục lại đống sách vở, để vô tình thấy hình ảnh người mẹ nuôi trong cuốn album, thì đã chẳng có một phút đạo đức bất ngờ như hôm nay, đi lễ mà gặp hắn. Nàng không hỏi, nhưng chắc là hắn ở apartment gần đây. Nàng chợt cười lên một tiếng nhỏ, khi nghĩ có lần nào, thằng con trai này mời nàng về phòng chơi? Nhìn cái mặt khờ khờ của hắn, thì chắc là không rồi! Một cảm giác vui vui chợt đến, nàng nghĩ nếu sau mùa học tới, tốt nghiệp, mà vẫn còn sinh sống gần khu vực trường học này, nàng sẽ đi lễ thường xuyên hơn để có dịp gặp nhau.

Quả thực, căn phòng hắn ở thì gần trường học, nhưng lại không tiện để cho một nữ lưu nào đến thăm, vì tính bừa bộn của ba gã con trai độc thân. Từ lúc bắt được cái job làm trong Boeing, hắn đã có dự định dọn đi chỗ khác, thuê riêng cho mình một căn phòng cho xôm tụ. Hắn không muốn mua nhà, vì ý định đi tu mãnh liệt trong đầu, tuy nhiên một chỗ ở gọn gàng cũng tốt cho cuộc sống. Những hắn lại cảm thấy buồn khi phải xa hai thằng bạn chung phòng… Thôi, ở đây cho tới lúc tất cả ra trường, cho có tình có nghĩa những ngày cơm nguội, mì gói với nhau…

Rồi con nhà Đông cũng tới ngày tốt nghiệp. Anh chàng vẫn giữ vững lập trường, không thèm lấy tên Mỹ, vẫn Đinh Văn Đông, mà đọc theo lối Mỹ không dấu là Dong Dinh, cái tên nghe chắc chắn như đinh đóng cột, chẳng sợ té. Không thân nhân, Đông chỉ có hắn là bạn. Ngày lễ ra trường, hắn có nhiệm vụ mang máy ảnh chụp cho thằng bạn thân tình vài pô hình, như lời Đông đề nghị, để gởi về Việt Nam, vì bà mẹ Đông muốn đi khoe hàng xóm, có thằng con bên Mỹ đang đứng ngang hàng với những khoa học gia thế giới!

(còn tiếp 1 kỳ)

May be an image of text

Vụng Đường Tu – (tiếp theo và hết)

TRUYỆN NGẮN 2 KỲ – VŨ CÔNG YNH

Truyện kể về một chàng tị nạn Việt đã quyết chí đi tu, nhưng rồi vướng món nợ… tóc vàng

***

Vụng Đường Tu – (tiếp theo và hết)

. . . . . . . . . . . . . . .

Hắn cố tình đến sớm một chút để kiếm ngoại cảnh chụp vài ba pô trước khi cả bọn kéo nhau vào hội trường làm lễ mãn khóa. Bất chợt, cũng một giọng con gái phía sau:

– Hey! Colin, Colin…!

Quay đằng sau, thì ra… lại là nàng. Con bé nhảy lên mừng rỡ, chạy đến bên hắn. Hắn thấy vui vì bất ngờ gặp lại nàng ở đây, cũng tung tăng áo mão ra trường như ai!

– Hi Julia… Oh! No… Jennete…

Đứa con gái tròn đôi mắt trong veo nhìn hắn, rồi vừa cười vừa nhắc:

– Jackqueline… Jackie…!

Hắn thân mật vỗ vai nàng:

– Sorry…! Hi Jackie…

Congratulations!

Hắn muốn nói thêm vài câu cho đỡ ngượng về sự quên tên nàng của hắn, và cũng muốn cho nàng được vui hơn trong ngày ra trường của cô, nhưng với bản tính khá kín đáo, và khả năng chuyện trò của hắn, nhất là bằng tiếng Mỹ, chỉ khéo được đến như vậy, nên hắn cảm thấy lúng túng. Đứa con gái hình như không để ý đến sự lúng túng đó, nó tự nhiên:

– Thank you!

Rồi đưa má ra cho hắn, chờ một nụ hôn

chúc mừng

… Nhưng quả là thất vọng! Hắn quê mùa quá để biết hành xử một cách văn minh như vậy! Con nhỏ chờ một chút không thấy cái hôn của thằng con trai, đành giơ tay khoác tay hắn:

– Come with me, my dear…!

Hắn thoái thác:

– No, no! Im with friends today…

Con nhỏ kéo dài đuôi mắt, cười thông cảm:

– Okay, chờ “tao” ở đây… Right here – Please! Sau ceremony… Có chuyện hay lắm!

Hắn nhìn sâu vào đôi mắt nâu tròn của nàng, gật gật đầu.

Đứa con gái vụt trở lại đám bạn cùng di. Phần hắn, quay lại tiếp tục nhiệm vụ chụp hình, mà trong ngực trái tim vẫn còn đập rộn rã, và hơi mắc cở với bạn bè vì sự thân tình của đứa con gái. Nàng không đi cùng gia đình, mà đi chung một đám bạn bè. Ừ phải, đã có lần nàng kể cho nghe là mẹ nuôi nàng mất ngay sau khi nàng bước chân vào đại học. Không nói về cha, nhưng hắn hiểu là nàng đang chỉ có một mình trên đời.

Tới giờ hành lễ, hắn theo thằng bạn ra xếp hàng chuẩn bị vào hội trường mà trong đầu vẫn vảng vất một đôi mắt nâu, to tròn long lanh…

Một năm sau,

Mình gặp lại nhau

Chào em, tên đánh mất đâu rồi?

Nhìn ta, em nhắc thêm lần nữa

Nâu mắt màu hổ phách chơi vơi…!

Sau buổi lễ, hắn theo Đông cùng đám bạn đến một nhà hàng Việt Nam để

chúc mừng

nhau. Đến hơn 9 giờ đêm, hắn mới giật mình về lời hứa chờ đợi nàng sau buổi lễ ra trường. Hắn hối hận quá, vì đã không nhớ ở lại để xem nàng có gì muốn chia sẻ. Lại càng ân hận hơn vì từ hồi nào đến giờ, chẳng giữ số phone của nàng trong bóp. Làm sao để gọi đến nàng một lời xin lỗi? Thôi đành chờ có dịp gặp lại, hắn sẽ nói lời tạ lỗi sau.

Nhưng không có dịp nào cho hắn nói lời xin lỗi, vì đến cả mấy năm rồi, hai đứa chẳng gặp lại nhau!

Ngày tháng qua đi, hắn dường như đã quên cô bạn chung lớp, để vẫn đều đều làm việc, đi lễ hàng tuần, và chờ tin tức của father Joe. Hắn đã may mắn lấy xong mảnh bằng Master như lời cha khuyên nhủ, và mỗi tối trước khi đi ngủ, đều thầm thì cầu xin Chúa như lời cha hướng dẫn, chỉ còn chờ nơi cha một tin mừng là hắn mãn nguyện.

Nhưng chưa nhận được tin mừng của cha để nhập Chủng Viện, thì đã nhận được những lời vàng ngọc, của mấy ông già tị nạn trong hãng, khuyên… lấy vợ. Chẳng là, hàng ngày hắn đi xuống cafeteria trong hãng, ghé bàn mấy ông già Việt Nam cùng ăn với nhau, để có dịp nghe mấy ông kể chuyện đánh giặc ngày trước.

Già Bảo, một cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà chính hiệu, cả gia đình chạy khỏi Việt Nam vào ngày 30/4/75. Đi làm lúc nào ông cũng măc sơ mi, được phủ ngoài bằng chiếc áo len, không xanh thì đỏ, dù trời nắng hay mưa. Ông thấy hắn ăn lunch mà chẳng thèm hâm nóng cái hambuger được mua từ ban sáng, nên tội nghiệp, lên tiếng:

– Lấy vợ đi chú, có vợ đỡ lắm, thích lắm…!

Hắn hỏi lại ông:

– Thích cái gì hả bố…?

Rồi hắn chọc ghẹo thêm:

– Để được vợ đan áo len cho mặc phải không ạ…?

Ông không giận vì biết tính hắn vui vẻ, nên cố giải thích:

– Chú chẳng biết gì cả, ngoài cái được an ui về tinh thần, lại còn được ăn uống đầy đủ, ấm áp cả thế xác nữa đấy…!

Hắn cười:

– Chắc chắn rồi, bố thì lúc nào mà chẳng có cơm canh nóng sốt mà ăn, có phải nhai hambuger nguội ngắc bao giờ…!

– Ấy, chỉ được cái nói nhảm… Không tin à, cứ lấy vợ đi thì khắc biết. Hà hà…, bây giờ cho tôi lấy vợ nữa, tôi vẫn sẵn sàng…!

Hắn cười theo câu nói của ông:

– Vâng, vậy thì thích nhỉ…?

Ông hăng hái giải thích thêm:

– Không thích mà khối ông có vợ lớn vợ bé đấy, chú không thấy à.

Hắn ngừng nhai miếng bánh trong miệng để đồng ý với ông:

– Vâng, đúng rồi.

Thấy hắn vui vẻ, một ông khác hỏi:

– Thế cậu qua Mỹ lâu chưa…?

Hắn vừa đặt lon coke xuống mặt bàn, vừa trả lời:

– Cũng được gần mười năm rồi bác ạ.

– Thế… đằng ý… chưa có vợ thực đấy à? Để tớ làm mai cho…!

Tí nữa thì hắn phì cười vì cái giọng Bắc kỳ, giống hệt kiểu cách mà bố hắn vẫn thường nói ở Việt Nam.

– Không bác ơi…! Cháu muốn đi tu…!

Mấy ông già cười hinh hích cho cái tính khôi hài của hắn. Ừ phải, chẳng ai tin là hắn sẽ đi tu đâu. Thời buổi này, nhất là bên Mỹ, sống ở ngoài đời chẳng đầy đủ và thích thú hơn là đi tu à? Mà có phải như ở Việt Nam cấm đoán, để không cho hắn hàng ngày đến nhà thờ đọc kinh đâu? Hay nếu muốn phục vụ tha nhân thì hắn có thể vào bệnh viện xin làm thiện nguyện cơ mà. Vậy thì đi tu làm gì cho…uổng!

Câu chuyện chỉ quanh đi quẩn lại như vậy, nhưng hắn thấy rất thích thú để được nói chuyện với mấy ông già “ôm chân đế quốc” này. Một ngày không được nói chuyện với mấy ông, hắn thấy buồn buồn như thiếu thốn cái gì. Vừa được nghe và nói chuyện bằng tiếng Việt, vừa được tìm hiểu những chuyện chính trị, quân sự… mặc dù những trận đánh mà mấy ông kể, hắn chẳng biết có từ đời nào…!

Cũng vì chăm chú học hỏi, nghe chuyện, mà hắn rất được lòng mấy ông. Có ông còn hăng hái hứa sẽ gả con gái cho hắn nếu hai đứa hợp nhau… Già Bảo sốt sắng hơn, mang cả hình con gái út đang học lớp 8 ra khoe. Đứa con gái, mà hai vợ chồng đã cố đẻ “vớt” sau ngày qua Mỹ, để được làm bố mẹ công dân Mỹ mới sanh.

Nhưng tội nghiệp! ông nào biết ý định đi tu của hắn. Mà thật, đứa con gái lớp 8, con ông, biết đâu, lại chẳng có dịp chờ hắn làm linh mục, rồi về làm lễ trong ngày đám cưới của nó. Lúc ấy già Bảo chắc sẽ cám ơn hắn lắm. Bây giờ thì chẳng ai tin là hắn muốn đi tu…!

Thôi đành gật đầu cho mấy ông già vui vẻ, trước khi tạm biệt nhau, vì hắn phải đi Seattle cho chương trình huấn nghiệp của hãng trong một tháng.

III. Phải rồi. Tên Em Ta Đã Nhớ

Phi cơ dừng và đổi chuyến tại phi trường Denver, hắn lấy hành lý từ ngăn đựng đồ, rồi đi vào hành lang phi trường để đến chuyến bay kế tiếp. Trước mắt hắn là một thiếu nữ tay dắt đứa con khoảng 3, 4 tuổi, tay kia kéo theo chiếc roller, trên lưng còn đeo thêm một backpack. Cái backpack khá lớn đủ để che mất tấm lưng và mái tóc của cô. Một món đồ chơi rơi xuống thảm hành lang từ tay thằng bé. Người thiếu nữ dắt con, trong khi mắt vẫn mải nhìn số gate của hãng máy bay, không để ý đến thằng bé đang cố vụt khỏi tay mẹ để nhặt món đồ chơi lên. Hắn nhặt lên giùm và đưa vào tay nó. Người thiếu nữ quay lại, rồi dường như… nhận ra hắn là một người quen, nàng dừng hẳn lại, tròn mắt:

– You! You… again… Colin… Arent you…? Thank goodness!

Đang chú ý đến nét mặt biết ơn của thằng bé lúc nhận lại món đồ chơi, hắn giật mình khi thấy người con gái gọi đúng tên mình. Mái tóc cắt ngắn của cô làm hắn chưa thế xắp sếp hình ảnh trong đầu để biết đã gặp người này ở đâu. Nhưng ánh mắt của nàng làm hắn chợt cười lên vì đã nhận ra đứa con gái chung lớp mấy năm trước… Bất ngờ, bất ngờ quá, lại bất ngờ hơn nữa khi gặp lại nàng đi cùng đứa con trai 3, 4 tuổi. Hắn cứ đinh ninh là không còn thấy nhau nữa. Bây giờ tại một tiểu bang xa xôi này, hai tâm hồn “cô đơn” gặp lại nhau. Hắn cười vì chữ “cô đơn” vụt lên trong đầu. Cô đơn đâu mà cô đơn…! Vì hắn đã có Chúa, còn nàng thì đã có thằng con đi theo đây.

Hắn lấy tay đập đập vào trán để tìm tên nàng:

– Chính…hắn… Colin đây! Jeannette…Ah… Jenny…, “mày” khoẻ không?

Nàng phì cười vì cái tên mới mà hắn đặt cho cô:

– Not Jenny…, Jackqueline… Jackie!

– “Tao” sorry! Thực có lỗi với “mày”, Jackie! Mừng quá “tao” quên…!

Qủa là hắn cũng có tài lấp liếm.

Đứa con gái vui vì bất ngờ gặp lại hắn ở đây. Nàng nhìn vào mắt hắn, rồi lấy bàn tay mềm mại, vỗ vỗ vào ngay chỗ trái tim trên ngực hắn:

– “Jackie”… okay! Keep me here…, memorize it by here!

Hắn có vẻ cảm động, vì sự nhắc nhở một cách dễ mến của nàng, nên thấy tự nhiên trở lại:

– Không ngờ được gặp lại “mày” ở đây… Is this your son!

Người con gái cười tươi:

– Yeah! My son… Andy!

Rồi nhìn vào ngón tay không đeo nhẫn của hắn, nàng tiếp:

– Youre not yet married… Hah?

– No… Never!

Hắn vừa cười vừa trả lời cô. Nàng nhăn nhăn mũi rồi cười lớn hơn:

– Youre…“chicken”, Colin…!

Ha ha, hắn phì cười vì câu nàng chê hắn là đồ chết nhát. Phải! “Tao” nhát như “gà”, “tao” sợ có người nào đó nhốt “tao” trong chuồng, nên không tài như “mày” để có con dắt theo… Hắn

chúc mừng

đứa con gái:

Congratulations

! “Mày”… đã lập gia đình!

Đúa con gái lắc lắc đầu:

– Uh…uh! Im single… Single mom!

Ừ phải, cứ nhìn một đứa con gái Mỹ dắt con, mà tưởng là nó có chồng, thì tầm bậy hết sức. Thằng bé nãy giờ, theo dõi mẹ nói chuyện với người đàn ông lạ, xen vào:

– Ive no…daddy!

Bây giờ hắn mới để ý hơn đến thằng bé, mái tóc vàng giống mẹ dài phủ quá tai, nhìn nó trông giống như một đứa con gái nghịch ngợm… Hắn giơ tay ra với nó:

– Hi… Im Colin… Give me a five…!

Thằng bé đập vào tay hắn, rồi rụt tay lại khoe món đồ chơi:

– Ive new Superman!

Hắn vờ ngạc nghiên với cái game nhỏ có hình Superman bên trên:

– Wow! I like it! Did your mom buy it?

Thằng bé gật gật đầu:

– Yeah!

Vậy là hắn gặp lại nàng nơi đây, để biết nàng làm engineer cho một công ty ở Denver đã mấy năm rồi. Bữa nay, hết contract, nàng trở về Dallas để nhận việc mới thì bất ngờ gặp lại nhau tại phi trường này… Trái đất quả là tròn!

Jackie bỗng im lặng, nhìn thằng con trai Việt Nam vừa gần gũi vừa xa lạ này. Thật chẳng biết sao nàng lại có cảm tình với hắn, chắc tại vì hắn có nét gì đó chân thật, đem đến cho nàng sự an tâm khi tiếp xúc. Nghĩ lại, những lúc cùng hắn làm bài, những buổi gặp gỡ, đi ăn…, Jackie chưa hề thấy hắn có một cử chỉ nào tỏ ra để ý đến sắc đẹp của nàng…

Cô thắc mắc và cố tìm hiểu về hắn nhưng đành chiu thua, chỉ biết công nhận một điều là hắn nice, hắn tốt với nàng. Có thể hắn là người tốt thứ hai sau mẹ nuôi của nàng. Người mẹ nuôi mà Jackie hết sức thương yêu. Người đã lãnh nhận nàng từ một Adoption Center nào mà nàng chẳng hình dung ra được vì còn quá nhỏ. Bà đã chết sau khi nàng vào đại học được hơn một năm.

Đi học, sống vào tiền Grants trợ cấp và tiền làm Work-Study, Jackie có bản tính rất tự lập. Kinh nghiệm “single mom” của người mẹ nuôi trước đây, làm nàng cố cứng rắn với mình trong việc liên hệ trai gái. Chẳng phải vì nàng Công Giáo, coi chuyện đó là tội lỗi, cũng chẳng phải là nàng không thiết đến những thèm khát xác thịt, nhưng Jackie ngần ngại về sự chân thành từ những đứa con trai chung quanh, và cũng ưu tư chuyện học hành sợ mất thời gian về những giao tiếp đó. Nên nàng vẫn tự nhủ, sẽ chỉ có bạn trai khi xong đại học, và cố gắng chỉ có sex với đứa con trai sẽ là chồng của nàng. Bởi vậy mà đám bạn classmates luôn bảo nàng cổ điển như một cây phong cầm cũ trong góc nhà thờ, nhưng kệ, Jackie cố đặt ra cho mình một nguyên tắc sống như vậy…!

Nhớ lại buổi chiều ngày ra trường gặp hắn, Jackie đã có ý đinh nhờ thằng kỹ sư tóc đen này làm partner cùng đi chơi trong một bar rượu, với nhóm bạn của nàng. Rồi có thể sau đó sẽ rủ hắn về phòng mình. Nhưng đáng tiếc là hắn đã quên, hay từ chối không đến chỗ hẹn. Jackie thực không biết có phải buồn vì hắn lỗi hẹn không, mà đã uống nhiều rượu quá! Sau đó, cả bọn kéo nhau về nhà một đứa bạn. Lần đầu tiên vui chơi của một đứa con gái biết hạn chế như nàng, không ngờ kết cuộc lại đến như vậy! Say quá, Jackie chẳng còn biết gì hơn là vùi đầu chung chạ với đám bạn trai gái! Chắc chắn hắn chẳng biết được nàng đã có một đứa con ngay đêm hôm đó, chỉ sau vài tiếng đồng hồ từ khi hắn thất hẹn với nàng.

Ra trường, Jackie được nhận ngay vào một hãng sản xuất dụng cụ y khoa. Từ đó nàng cắm cúi đi làm nuôi con, và cũng đã có một hai mối tình hờ hững, quen rồi thôi. Đã hơn bốn năm rồi bây giờ mới gặp lại nhau, thấy hắn chững chạc và tự tin hơn. Jackie mơ hồ chẳng hiểu sao lại thấy vui vui khi biết hắn còn độc thân. Nhưng thôi, thắc mắc làm gì, chỉ biết rằng có lúc nàng đã thấy thích hắn, thích được đi chơi, ăn uống, và ngay cả có lúc muốn được cùng hắn lên giường!

Jackie cười một mình khi nghĩ nếu như đêm đó đi với nhau, thì cuộc đời của nàng đã như thế nào nhỉ? Và đứa con, nếu có, chắc sẽ không giống như đứa con trai của nàng hôm nay. Đứa bé, mà đến giờ này, Jackie vẫn chẳng biết được cha nó là ai trong đám bạn bè ngày ra trường đó. Nàng đã có lần nói với con, khi nó hỏi về daddy.

Thằng bé ngước đôi mắt trong xanh lên hỏi mẹ:

– “Sao vậy…?”

Nàng không muốn gợi vào đầu con một câu chuyện rắc rối, nên trả lời:

– “Mẹ giận “him”…”

Thằng bé năn nỉ mẹ:

– “Cho daddy về đi – Mom…!”

Nàng cười cười vuốt tóc con:

– “Chỉ khi nào daddy khóc trước mặt, mẹ mới cho về…”

Thằng nhỏ tưởng thật, yên tâm, quay mặt vào tường, ngủ tiếp.

Đáng thương cho nó, chắc nó muốn có một daddy như những đứa trẻ khác. Phần nàng, gặp lại nhau hôm nay, nàng có vẻ an tâm vì biết hắn vẫn ở Dallas. Như vậy là có dịp gặp lại nhau. Jackie tự nhủ, từ giờ, sẽ chủ động và biểu lộ sự quan tâm hơn đến gã “cố nhân” này… Cô thấy phấn khởi với ý nghĩ đó, cũng vừa lúc chuyến bay chuẩn bị cất cánh. Jackie hỏi số phone để sẽ gọi hắn sau. Gã con trai đưa cho nàng cái business card…

Vài năm sau,

Mình gặp lại nhau

Tên em, ta vỗ trán đi tìm

Em cười, nhắc ta thêm lần nữa

Răng trắng muôn đời… sữa bình nguyên…!

Hắn giơ tay vẫy mẹ con nàng, đang chuẩn bị bước vào khung hành lang hẹp dẫn đến cửa máy bay, trong nụ cười xinh đẹp của người con gái!

Về lại Dallas, cũng vừa lúc hắn nhận được giấy báo của cha Joe cho biết đã được nhận vào trường Seminary. Tội cho cha, chắc không gặp được hắn trên phone, lại không thấy hắn đi lễ, nên đã gởi thư này. Cha hẹn vài ba tuần lễ nữa, cha đi cấm phòng và vacation về, hắn sẽ đến gặp cha ký giấy tờ, và những dặn dò cần thiết, để chuẩn bị vào chủng viện cho khóa học mùa tới.

Ôi! Niềm mơ ước của hắn bây giờ đã thành sự thực! Chúa đã đáp ứng lời cầu xin của hắn. Hắn xúc động vì tin được nhận vào Chủng Viện cũng mãnh liệt như nỗi xúc động lúc được tầu Mỹ với lên, từ chiếc thuyền mong manh lênh đênh, ngày vượt thoát khỏi Việt Nam trước đây. Hắn cúi đầu cầu nguyện… “Vâng, Chúa đã cứu vớt con một lần trên đại dương gầm thét, bây giờ lại cứu vớt con lần nữa, đang lúc lênh đênh cuộc đời giữa trần thế này. Xin cám ơn Ngài…!”

Tiếng chuông điện thoại reo, hắn liên tưởng đến vị linh mục hiền lành. Chắc là cha gọi mình đây. Nhấc lên, tiếng nói đầu giây bên kia có vẻ gấp rút:

– Đây là Bệnh Viện St. Paul… May I speek with Mr. Do…please!

Hắn giật mình như linh tính có điềm gì chẳng lành:

– Vâng… chính tôi!

– Ông có quen Jackie không? Jackqueline Thompson?

Hắn lẩm nhẩm nhắc lại:

– Jackie… Jackie… Ah, vâng, tôi là bạn cô ta…!

Tiếng đầu giây bên kia:

– Hãy đến bệnh viện, bác sĩ cần nói chuyện với ông!

Khi đến bệnh viện, thì hắn được cho biết nàng đã chết vì một tại nan xe trên đường đón con đi học về. Nàng nằm kia, còn thằng Andy, con nàng, cũng đang được điều trị tại bệnh viện vì một vết cắt ở tay. Vì nàng không còn ai là thân nhân, mà chỉ có tấm danh thiếp của hắn trong túi xách, nên hắn là người được gọi đến, gặp gỡ ban chung sự nhà thương để bàn về cái chết của nàng. Thực là sững sờ, hắn không thế tưởng tượng nổi, sao có sự bất ngờ đau thương như vậy đến với mẹ con nàng…!

Nàng nhắm mắt như đang ngủ, khuôn mặt bình thản. Hắn liên tưởng đến những lời nói, đến bàn tay mềm ấm đặt trên ngực của hắn, cũng như những cử chỉ chân tình của nàng trước kia, để cảm nhận được nỗi ngậm ngùi, xót thương cho người con gái, dâng lên từ trái tim hắn…

Rồi lần này,

Kìa em, gặp lại

Nằm khép hoa môi giấc quan tài

Đôi môi lần chót gặp ta nhắc

Nghe nhớ bằng tim…, chớ bằng tai!

Bệnh viện dành quyền cho hắn, nếu muốn, đứng ra để chôn cất nàng, hay để sở Xã Hội lo việc ma chay, coi như xác chết vô thừa nhận. Nhà quàn cũng cho hắn biết về số tiền chi phí để chôn cất, vì gia tài của nàng lúc này, ngoài cái xe móp méo, mà bảng số vẫn còn là Denver, thì tài khoản, như statement nhà bank trong ngăn của túi xách, chỉ còn gần ngàn bạc. Điều đáng buồn là bảo hiểm xe đã hết hạn hai hôm mà nàng chưa đóng tiền đáo hạn, và xui hơn nữa, kẻ đụng nàng là một gã Mỹ đen say xỉn mà cả năm rồi chẳng biết đến bảo hiểm xe là gì!

Thương cho nàng, hắn không nỡ để nàng ra đi như một kẻ vô thừa nhận như thế. Ít ra trên đời này, nàng còn có hắn. Rồi chợt nghĩ đến thằng Andy đang nằm bệnh viện, nó cũng cần được săn sóc, vỗ về, nhưng hắn chưa biết phải lo cho nó như thế nào? Hắn nghĩ đến số tiền mấy năm nay đi làm dành dụm được. Hắn không tiếc vì nghĩ rằng đồng tiền Chúa ban, nên trả lại cho Chúa qua những người anh em bất hạnh chung quanh… Vâng, xin Chúa giúp con trong cơn khó khăn này! Hắn đồng ý đứng ra chôn cất nàng, và ưu ái hơn, còn chọn cho nàng đúng mảnh đất nghĩa trang mà nàng mơ ước trong một lần hai đứa chạy xe qua.

Sau tang lễ, hắn đến thăm Andy xem tình trạng nó ra sao. Cũng giống như me, nó giờ chỉ còn hắn là thân nhân độc nhất trên cõi đời. Hắn ghé vào Toys R Us mua game cho thằng bé, rồi đến nhà thương, đi thang máy lên phòng bệnh. Dường như nó nhận ra hắn là người quen mà đã có lần nói chuyện với mommy, nên mở đôi mắt xanh tròn nhìn hắn:

– Wheres mom!

Hắn lấy tay vuốt mái tóc vàng của đứa trẻ tội ngiệp:

– Shes being in rest…!

Thằng bé không hiểu là mẹ nó đã chết:

– Take me to mom… Please!

Hắn phân vân không biết có nên cho nó biết là mẹ nó chết hay không? Cũng không biết là nhân viên bệnh viện có cho thằng bé biết là nó đã mồ côi mẹ không…? Hắn kiếm cách an ủi nó:

– I will…!

Tiếng bật khóc của thằng bé làm hắn mủi lòng. Lau mắt cho nó, hắn dỗ dành:

– Mom… đã về nghỉ bên God, nhưng giờ vẫn còn ta! My son…, Andy!

– No…! Youre not my…daddy!

Sau câu nói, nó lại khóc rống lên. Một nhân viên bệnh viện đến cho nó uống thuốc. Thằng bé vùng vằng nắm áo hắn. Tội nghiệp thằng nhỏ mồ côi, hắn bế xốc nó lên dỗ dành. Nhưng dỗ con nít không phải nghề của hắn. Thằng bé nhoài người ra:

– No…. Please…Let me be with mom…!

Hắn vỗ vỗ lưng nó:

– Okay…Okay…Andy, I promise…!

Thằng bé có vẻ nín khóc vì lời hứa của hắn, nó ngước đôi mắt còn ướt sũng những giọt nước:

– O…k…ay…!

Lấy tay không bị băng quệt nước mắt, nó chịu uống miếng thuốc màu đỏ, rồi tiếp tục:

– Im hungry…now!

“Gà trống nuôi con…!” Đây là lần đầu tiên hắn bận rộn với con nít là thằng Andy bên cạnh. Đặt nó xuống giường, rồi lấy phần ăn trong bệnh viện, hắn đút một miếng nhỏ vào miệng nó. Thằng bé lắc đầu:

– I wanna go to McDonalds.

Hắn dỗ dành:

– Okay, well be there…!

Hơn tuần sau, thằng bé được xuất viện. Hắn theo nhân viên Xã Hội đến Child Protective Services, để ký giấy chứng nhận được đi thăm nó tại một nhà trẻ thuộc sở Xã hội, cho đến khi sở kiếm được cho nó một cha mẹ nuôi chính thức.

Hắn quyết định sẽ gởi đơn xin thôi việc ở hãng sau ngày đến gặp cha Joe, ký giấy vào Chủng Viện. Cám ơn cha, một vị bề trên nhân từ và đáng kính. Hắn cũng dự trù mua biếu cha bộ áo lễ, thay cho bộ áo cũ đã sờn rách, mong rằng cha sẽ vui. Trước khi đi thăm Andy, hắn lấy là thư của cha ra xem lại cho chắc ăn, rồi tiện tay, nhét lá thư của cha vào túi áo, nhẹ bước ra khỏi phòng.

Hôm nay thứ Bảy, hắn sẽ đưa Andy đi thăm mẹ nó như lời hứa. Mà có thể, đây là lần chót gặp nó trước khi hắn đi tu. Hắn đang suy nghĩ, sau này không biết ai sẽ là người đến thăm, và ai sẽ là cha mẹ nuôi của nó. Hắn nhẹ lắc đầu, tội nghiệp thằng bé mồ côi!

Trong đầu hắn chợt có ý tưởng làm cha nuôi cho Andy. Ừ phải, hắn có đủ điều kiện và công việc như đòi hỏi của sở Xã Hội. Andy là một đứa bé ngoan hiền, dễ thương, nhất là nó lại là con của nàng.

Thực tốt đẹp cho cuộc đời đứa bé, nếu như Andy được sống với hắn. Hắn đã may mắn được nước Mỹ đùm bọc, nuôi dưỡng, giáo dục, và tạo cho công việc, được hưởng mọi quyền tự do, và nhất là được sống trong một xã hội đầy tình người, nên bây giờ có cơ hội để đền đáp lại xã hội nhân bản đó, làm sao nỡ ngoảnh mặt khước từ?

Nhưng cuộc đời hắn, đã nuôi ý định tận hiến cho Thiên Chúa từ lâu, bây giờ mới được toại nguyện. Còn gì trên đời hơn nữa mà không đón nhận? Hắn sẽ từ giã công việc và những vị tiền bối ở Boeing, từ giã bạn bè, từ giã những buổi chiều đi lang thang sân trường đai học, và buồn hơn, là bây giờ sẽ phải từ giã Andy, không thể hàng tuần đến thăm nó được nữa.

Hắn lại nghĩ đến số tiền để dành, dù không còn nhiều, nhưng chẳng biết luật lệ Chủng Viện có cho tu sinh quyền giữ tiền riêng không? Dù được hay không, hắn nghĩ, sẽ chia số tiền, một nữa cho thằng Andy vì nó còn nhỏ quá, cần được đền bù vì những bất hạnh của một đứa trẻ mồ côi. Hắn cũng gởi về Việt Nam cho cha mẹ một ít, còn lại sẽ đặt hết dưới sự quản lý của Chủng Viện. Nghĩ được như vậy hắn cảm thấy yên tâm.

Hắn ghé vào McDonalds mua cho thằng bé phần Happy Meal, vì nó thích những đồ chơi nho nhỏ trong phần ăn này. Tiện tay, hắn lấy thêm vài tờ napkins nhét vào túi áo. Sau đó hắn dừng xe trước chợ mua một bó hoa tươi cho nàng. Vậy là đủ, hắn sẽ cùng thằng bé dắt tay nhau đi thăm mẹ của nó.

Đường vào nghĩa trang vắng lặng vào một buổi chiều thứ Bảy, có nắng lung linh bao phủ trên những đóa hoa như nàng vẫn mơ ước. Hắn xuống xe, cầm theo bó hoa và tay kia dắt theo thằng bé. Nếu không vì mái tóc vàng giống mẹ của nó, thì người ta sẽ nghĩ đó là hai cha con thực sự. Thằng bé hớn hở vì được đi chơi. Đến bữa nay, dường như nó đã phần nào quên được mẹ, vì có nhiều bạn mới cùng tuổi, và nhiều đồ chơi trong nhà trẻ của sở Xã Hội.

Đến trước mộ của nàng, hắn lặng lẽ cắm hoa vào khay được gắn trước mộ bia. Thằng Andy rụt rè, nắm chặt tay hắn. Trong đầu óc bé nhỏ của nó mường tượng ra được là từ nay sẽ không còn được gặp mẹ nữa. Mắt nó đỏ hoe chực khóc. Hắn cúi xuống, ôm và vỗ về nó, thằng bé dụi dụi mắt vào cổ áo của hắn:

– Mama nằm đây hả…?

Hắn vỗ vỗ lưng nó:

– Ừ, nằm đây, và mama happy lắm khi thấy mình đến đây hôm nay…!

Thằng bé xụi xùi:

– I miss mama…!

– Me too, Andy! Mama cũng nhớ Andy…, và muốn Andy là một good kid. Lets pray…

Hắn lặng lẽ cúi đầu. Nhưng thằng bé chẳng yên lặng được lâu, nó vụt ra khỏi tay hắn để đi nhặt những cánh hoa cỏ nhỏ bé chung quanh, trong khi hắn lâm râm những lời kinh nguyện.

Hắn quỳ gối, lấy tay sờ vào tấm hình trên mộ bia. Vẫn mái tóc, vẫn đôi mắt, vẫn nụ cười… đã đi vào tâm hồn hắn. Hắn chạm tay vào nét chữ khắc bên dưới rồi chợt thở dài, vì nghĩ lại những lúc nàng phải nhắc tên của nàng cho hắn. Ôi đầu óc của gã tị nạn Việt Nam, sao mà kém cỏi và vô tình!

Bây giờ thì nàng yên tâm rồi, vì không còn phải nhắc tên cho hắn nữa. Tên của nàng đã rất rõ nét trên mộ bia và ngay cả trong trái tim của hắn. Nhìn vào ánh mắt, dù nàng đang cười với hắn, nhưng có một nét gì như là trách móc!

Hắn ngậm ngùi, cầu mong nàng thứ lỗi, và hứa sẽ săn sóc Andy với tất cả khả năng của mình. Nghĩ tới đó, hắn thấy mắt mình cay cay! Hắn thầm thì nhắc lại tên nàng, mà đây là lần đầu tiên hắn đã không quên và không bị vấp váp…

Phải rồi,

Tên em, ta đã nhớ

Âm hưởng mang máng giọt cô liêu

Di ảnh long lanh lòng ta khóc

Tên em…rõ nét… mộ bia chiều…!

Thằng bé chợt nhìn thấy người đàn ông khóc. Nó nhớ lại những lời mẹ nói trước đây… À, đây đúng là daddy của nó…, là người đàn ông khóc trước mặt mẹ! Vậy mà bấy lâu nay nó không nhận ra… Nó hấp tấp chạy lại ôm lấy cổ hắn:

– “Daddy…Daddy…, mình về nhà đi …!”

Tiếng gọi của thằng bé làm hắn xúc động. Hắn gục đầu xuống mái tóc vàng của nó, rút tờ napkin lau nước mắt, lá thư của cha Joe rơi theo xuống đất. Hắn thẫn thờ, nghĩ ngợi…, rồi cuối cùng nhặt thư của cha lên, thở dài:

– Ừ mình về, từ nay con sẽ ở với daddy!

Hắn dự định sẽ đến gặp cha Joe, kể chuyện về Andy như một lời xin lỗi vì không còn ý định đi tu nữa, và mong cha vẫn tiếp tục cầu nguyện cho cuộc đời trần tục của hai cha con hắn, được bắt đầu từ ngày hôm nay…

Xem đầy đủ trong:

https://maybienvh.wordpress.com/2016/02/24/vung-duong-tu/

Từng bị đuổi học vì cầm dao, nhờ cha mẹ, cô gái gốc Việt trở thành nhà giáo

  Nếu bạn có một đứa con ngỗ ngáo hay làm một việc gì đó vi phạm pháp luật và bi cảnh sắt bắt hay bị đưa ra Tòa. Là cha mẹ bạn sẽ xử trí ra sao? Bạn cứ để pháp luật trừng trị, mà không thèm quan tâm? Hay bằng mọi giá phải cứu và đưa nó về với gia đình? Hãy đọc qua câu chuyện này để lấy kinh nghiệm hay góp ý nếu bạn có biện pháp nào hay hơn?…

***

Từng bị đuổi học vì cầm dao, nhờ cha mẹ, cô gái gốc Việt trở thành nhà giáo

Tâm An

GARDEN GROVE, California (NV) – Gặp Tiffany Nguyễn, cô gái gốc Việt 32 tuổi, hiện đã tốt nghiệp cao học ngành giáo dục và đang là giáo viên tại một trường Trung Học Đệ Nhất Cấp (Middle School) với mức lương khá cao, không ai có thể ngờ cô đã từng bị đuổi học vì cầm dao tới trường, khiến cha mẹ cô một phen điêu đứng.

“Bố tôi là người tuyệt vời. Ông là người luôn chủ động giải quyết sự việc, nhờ vậy mà tôi đã vượt qua lỗi lầm để có được ngày hôm nay,” Tiffany tâm sự như vậy, nhân lúc ghé thăm cha của cô, tại nơi ông làm việc miệt mài suốt mấy chục năm qua, để nuôi cô nên người.

“Mẹ cũng rất yêu thương và luôn đồng hành với tôi nhưng bà là người dễ xúc cảm. Bố đã giúp tôi trở nên mạnh mẽ tự tin hơn,” cô nói thêm.

Mang dao tới trường vì bị bắt nạt

Câu chuyện xảy ra vào khoảng 18 năm về trước, lúc Tiffany mới bước vào năm đầu tiên trung học.

“Năm đó tôi mới quen biết một anh chàng là họ hàng của bạn tôi. Anh ta đã có bạn gái nhưng lại thú nhận với cô này là anh ta thích tôi. Thế là ngay lập tức có một ‘đàn chị’ thuộc hàng ‘gangster’ học lớp 12, là bạn của cô bạn gái đó, đòi gặp tôi để hẹn một cuộc ‘đánh ghen.’ Mặc dù tôi đã giải thích với chị ta rằng tôi không hề có tình cảm gì với anh chàng đó hết, nhưng chị ta vẫn không chấp nhận làm hòa, vẫn muốn đánh nhau với tôi,” Tiffany kể lại câu chuyện.

“Tôi đã nói với giáo viên nhưng họ lại nói nếu tôi còn bị đe dọa nữa, hãy nói với giám thị của trường. Ngày hôm sau, chị ta lại hối thúc tôi để hẹn một cuộc đánh nhau. Tôi đành hẹn chị ta vào trưa ngày hôm sau,” Tiffany kể tiếp.

“Tôi không dám nói với cha mẹ mình vì sợ họ lo lắng. Tôi hỏi một người bạn trong trường hợp này nên làm gì để chống đỡ đây? Người bạn khuyên tôi nên cầm một con dao để phòng khi chị ta kéo nhiều người tới vây đánh tôi một lúc,” cô kể thêm.

Thế là cô bé 15 tuổi đã lặng lẽ lấy con dao từ bếp của nhà mình, loại dao dùng để cắt thịt bò bít tết, cho vào ba lô tới trường. Mặc dù cô biết rằng một học sinh có thể bị phạt rất nặng khi mang vũ khí tới trường, nhưng “lúc đó tôi không quan tâm tới điều gì khác ngoài tự vệ bản thân,” Tiffany kể lại.

“Sau giờ học, chúng tôi gặp nhau ở bãi đậu xe tại trường. Chị ta có xe hơi riêng còn tôi thì không. Mới chỉ bắt đầu đánh nhau, con dao vẫn nằm trong cặp, thì đã thấy giám thị đang từ xa đi tới. Chắc có ai đó gọi ông. Thấy thế, chị kia vội vàng nhảy lên xe hơi chạy vụt mất còn trơ lại mình tôi. Tội sợ quá lấy con dao vứt vào bụi rậm gần đó rồi chạy. Cuối cùng, tôi bị giám thị bắt lại, cùng với con dao họ tìm ra trong bụi,” cô kể.

Bài thơ ông viết cho con gái Tiffany. (Hình: Nhân vật cung cấp)

Khi ấy, nhà trường lập tức gọi cảnh sát tới, đồng thời họ cũng gọi điện thoại để báo tin cho cha mẹ cô.

“Các giáo viên không bao giờ hỏi lý do vì sao tôi phải cầm dao tới trường. Họ chỉ quan tâm tới việc có một học sinh dao (được coi là cầm vũ khí) tới trường, điều này vi phạm nghiêm trọng luật lệ của trường và cần phải trừng phạt,” Tiffany kể tiếp.

Phản ứng của cha mẹ

Khi nhận được cuộc gọi từ ban giám hiệu thông báo về việc con gái “cầm vũ khí tới trường đánh nhau,” ông Thi Nguyễn, cha của Tiffany, hết sức “bàng hoàng.”

“Lúc đó, tôi có cảm giác như chính tôi đang vướng vào rắc rối, chứ không phải con tôi. Tôi đi ngay tới trường muốn xem chuyện gì xảy ra. Tôi muốn biết lý do vì sao con tôi lại làm như vậy,” ông bồi hồi nhớ lại.

Trên đường tới trường, ông thầm nghĩ: “Sao tính con gái mình nó giống cái tính ‘không biết sợ ai’ của mình đến thế! Lỗi cũng tại mình một phần, mình đã mải làm việc quá, không có thì giờ theo sát con.”

“Có đôi lần nó nói với tôi là nó bị ăn hiếp ở trường, nhưng tôi lại chủ quan không cho đó là vấn đề nghiêm trọng. Tôi nói vui với nó: Ai ăn hiếp con, con ăn hiếp lại nó. Nếu nó đánh con, con đánh lại nó, nhưng đừng bao giờ đánh nó trước,” người cha tâm sự.

Lời nói đó của cha lại khiến cô bé 15 tuổi nhớ mãi tới bây giờ, bởi cô rất thần tượng cha và luôn xem lời cha như là một chân lý.

Tại buổi họp hội đồng kỷ luật, với hành động cầm dao tới trường, bất kể với lý do gì, Tiffany đã bị đuổi học một năm trên toàn học khu. Trong khi kẻ gây hấn là cô học sinh lớp 12 kia lại không hề bị trừng phạt, vẫn tiếp tục được học ở đó.

Khi nhà trường hỏi về suy nghĩ của mình tại hội đồng kỷ luật, trái với suy nghĩ của mọi người, Tiffany không hề tỏ ra hối hận, cô bé trả lời: “Tôi mang dao là để tự bảo vệ mình. Nếu như có gặp cảnh tương tự, tôi sẽ làm y chang như vậy nữa!”

Không ai quan tâm, cô bé vẫn bị trừng phạt.

Không một lời trách mắng con, ông Thi tỏ ra rất bình tĩnh và ấm áp. Ông đưa con gái về nhà, trong đầu ông chỉ nghĩ một điều duy nhất: “Làm sao để giúp con vượt qua rắc rối này, làm sao giải quyết?”

“Mẹ tôi khóc ngất, bà như điên lên. Bà hỏi tại sao tôi lại làm như vậy, bất kể là tôi có giải thích thế nào,” Tiffany nhớ lại.

Người cha tuyệt vời

Thông thường, những học sinh bị đuổi học, sẽ phải tới một trường học đặc biệt dành riêng cho họ, tương tự như trường Hare High School ở Garden Grove hay trường Harbor Learning Center ở Fountain Valley.

Ông Thi bàn với vợ: “Chúng ta bằng mọi giá, dù có phải tốn rất nhiều tiền bạc, cũng không thể để con mình vào môi trường như thế được.”

Hai cha con đã đi tới hàng chục trường học ở Orange County và khu lân cận để xin cho Tiffany tiếp tục học lớp 9. Nhưng tất cả các trường đều bị từ chối nhận con ông vào học, vì đó là lệnh trừng phạt trên phạm vi toàn học khu, không phải chỉ ở mỗi trường trung học hiện tại.

“Cuối cùng, có một trường tư ở bên Công Giáo đã chịu nhận con tôi vào học, với một điều kiện: Con tôi phải học Kinh Thánh,” ông Thi kể.

Tiffany tỏ ra rất chán nản khi học ở ngôi trường mới vì nhà cô không phải đạo Công Giáo. Trường cách nhà khá xa, nhưng cha cô luôn đưa đón con mỗi ngày. Ông đi mua những cuốn Kinh Thánh cho cô học. Mỗi khi nhìn thấy con buồn, người cha lại động viên: “Con ráng một năm thôi, chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác. Con thấy đấy!”

Đọng lại nhất trong câu chuyện này là hình ảnh người cha tuổi xế chiều, ngồi yên lặng nhìn ra mặt hồ xa xăm, cô con gái duy nhất đang tuổi trăng tròn, thấy thế, bèn lại gần hỏi cha: “Bố buồn à? Con hư nên bố không còn thương con nữa phải không bố?”

Người cha vẫn nhìn xa xăm, chậm rãi trả lời: “Con ngoan bố cũng thương. Con hư, bố cũng vẫn thương. Chỉ có điều… nếu con ngoan, thì bố vui, còn con hư, thì bố buồn! Vậy thôi.”

Câu nói đó đã khiến Tiffany yên tâm và có động lực để cố gắng không làm cha mẹ buồn lần nữa. Sau hai tháng học ở trường Công Giáo, cô đạt điểm cao nhất cả lớp bài kiểm tra về Kinh Thánh và các môn khác.

Sau khi một năm học tại trường Công Giáo, cô được trở lại trường trung học công lập để học lớp 10 như những bạn bè khác. Nhưng cha cô đã chọn trường khác, ông không muốn cô trở lại trường học cũ để bị ám ảnh những ký ức buồn.

Chia sẻ kinh nghiệm làm cha của mình, ông Thi cho biết: “Tôi luôn lắng nghe những điều con tôi chia sẻ và không đánh giá hay cấm cản. Tuổi trẻ cũng có lúc nó đòi đi chơi khuya, đi quán bar, đi tiệc, tôi vẫn cho con đi thoải mái, chỉ với một điều kiện là tôi sẽ chở nó đến nơi, rồi chừng nào về thì tôi sẽ ra đón về.”

“Tiffany có phòng riêng từ khi rất nhỏ. Tôi nói với nó rằng ‘ba mẹ sẽ yên tâm khi thấy con ở trong phòng luôn được bình an.’ Vì thế nó luôn mở cửa phòng, để chúng tôi yên lòng,” ông nói.

Học bổng $10,000 cho cô học trò từng bị đuổi học

Tiffany đã tốt nghiệp lớp 12 với học lực giỏi và nhận được học bổng trị giá $10,000 cho bốn năm học đại học. Tuy vậy, vì học lớp 9 tại trường Công Giáo không được chấp nhận, cô đã không đủ tiêu chuẩn để được tuyển thẳng vào đại học University of Irvine (UCI).

Cũng may vẫn còn một lựa chọn khác, đó là học hai năm tại trường Orange Coast College (OCC) sau đó mới chuyển tiếp lên đại học.

Cô cho biết: “Điều làm tôi thay đổi nhiều nhất là khi tôi được bố mẹ mua cho chiếc xe hơi để đi làm thêm. Tôi đi làm 40 giờ/tuần , người ta chỉ trả tôi có $6/giờ, trừ tiền đổ xăng đi cũng không còn bao nhiêu. Tôi nhận ra rằng kiếm đồng tiền nếu không có học hành, thì không hề dễ dàng.”

“Từ đó tôi thấm thía câu nói của bố tôi ‘con muốn thích làm cái gì cũng được, ngay cả việc bố không thích như xăm mình hay đi quán bar, mua sắm… nhưng trước hết con phải học, để có nghề nghiệp, có tiền lương cao, rồi thì con mới có được những thứ con thích,” cô nói thêm.

Với sự dìu dắt của người cha, sự dạy dỗ nghiêm khắc của người mẹ, Tiffany luôn cố gắng học để “không làm cha mẹ buồn” và để “có tiền làm những thứ mình thích.”

Cô đã tốt nghiệp OCC với kết quả học tập tuyệt đối 4.0, và tốt nghiệp UCI, đồng thời sau đó tốt nghiệp cao học ngành giáo dục tại đại học Chapman University.

Tiffany chia sẻ: “Nếu như không có được người cha tuyệt vời như vậy. Nếu như cha mẹ đều chỉ biết trách mắng tôi, không nghe tôi giải thích, không đồng hành cùng tôi, có lẽ tôi sẽ cảm thấy cả thế giới quay lưng lại với mình. Có thể một đứa trẻ như tôi sẽ bỏ nhà ra đi, gặp những người bạn xấu và không biết tương lai sẽ đi về đâu.”

Khi đã “đủ lông đủ cánh,” chính ông Thi đã đề nghị con gái phải dọn ra ngoài, mặc dù ông bà rất nhớ con vì Tiffany là đứa con duy nhất. “Tôi nghĩ mình không nên ích kỷ cho bản thân, phải để nó có cuộc sống riêng của nó. Mặc dù con tôi là đứa sống tự lập từ nhỏ,” ông nói.

“Hồi Tiffany 2-3 tuổi, bác sĩ khuyên chúng tôi nên có đứa con thứ hai, vì bé bị một căn bệnh chỉ có 10% khả năng sống sót,” ông Thi tâm sự.

“Tôi đã trả lời bác sĩ rằng: nếu có đứa con nữa, thì khác gì là chấp nhận từ bỏ đứa con này? Tôi sẽ không làm vậy. Hoặc là có nó hoặc là không,” người cha già ngoài 70 tuổi kể về lý do vì sao ông bà chỉ có một đứa con. Có lẽ vì sự quyết tâm của ông mà cô bé đã khỏi bệnh một cách kỳ diệu.

Giờ đây khi đã trở thành một cô giáo dạy các em học sinh đang tuổi mới lớn, giống mình 18 năm về trước, Tiffany bày tỏ: “Tôi nói với học sinh của mình, nếu mình muốn bạn khác đối xử tốt với mình ra sao, hãy làm tương tự như vậy với họ. Nếu gặp ai ăn hiếp mình thì phải nói ngay với thầy cô và giám thị cũng như cha mẹ mình.”

Cô cho biết: “Luật pháp hiện nay đã thay đổi rất nhiều, chẳng hạn như bắt buộc nhà trường và thầy cô phải có trách nhiệm trước pháp luật để các học sinh không bị ăn hiếp. Có nghĩa là cha mẹ có thể kiện nhà trường nếu như con họ rơi vào tình cảnh như tôi ngày xưa. Ngoài ra, một em học sinh bị ăn hiếp, nếu lỡ cầm dao tới trường tự vệ, thì có thể chỉ bị trường đó cho ngừng học một năm, chứ không phải bị ‘expel’ toàn học khu như vậy. Điều đó công bằng hơn, giúp ngăn chặn được vấn nạn bị ăn hiếp trong trường học hơn.”

Tiffany chia sẻ: “Tôi chọn nghề giáo viên vì tôi thích dạy học và muốn có một nghề thu nhập ổn định để sau này lo cho ba mẹ lúc tuổi già.”

Nghe được câu này từ đứa con trưởng thành, chắc hẳn cha mẹ cô rất hạnh phúc!

HÌNH:

– Bài thơ ông viết cho con gái Tiffany. (Hình: Nhân vật cung cấp)

– Lá thư của trường Orange Coast College cho thấy Tiffany là một trong 478 sinh viên đạt điểm tối đa 4.0 trong khi trường có 24,000 sinh viên. (Hình: Nhân vật cung cấp)

– – Tiffany cùng cha mẹ hạnh phúc trong lễ tốt nghiệp cao học ngành giáo dục tại đại học Chapman University. (Hình: Nhân vật cung cấp)

Đám Cưới, Khi Thầy Tu Cưới Vợ – Người Phương Nam

Kimtrong Lam  Lương Văn Can 75.

Đám Cưới, Khi Thầy Tu Cưới Vợ –

Người Phương Nam

Tuesday, August 24, 2021

Nói tới đám cưới thì người ta sẽ nghĩ ngay đến hai bên gia đình, một bên là đàng trai và một bên là đàng gái, gia tộc đàng trai sẽ qua đàng gái rước dâu và gia tộc nhà gái phải đưa con gái về nhà chồng. Nhưng ở đây, cái đám cưới này không có chuyện rước dâu, không có chuyện “cô dâu từ giã mẹ cha, bước đi một bước lệ sa mấy hàng” như những cô dâu khác mà vẫn ở nguyên nhà cha mẹ ruột như từ khi mới lọt lòng mẹ chào đời. Ngược lại chàng rể tạm thời phải theo về nhà vợ ở rể bởi vì chưa tìm đâu được một túp lều lý tưởng hay một mái thảo trang thơ mộng ưng ý để rước nàng “về dinh” như bao chàng rể trên đời.

Chuyện là như vầy. Chàng rể tên Nguyên, nguyên là một thầy tu xuất, một môn đệ Ki tô đã đánh mất niềm tin phụng vụ đang tập tễnh làm quen với tục lụy đời trần. Vốn liếng vào đời chỉ có mớ văn bằng chữ nghĩa còn tiền của thì một xu dính túi cũng không bởi vì thầy đã nguyện làm tôi tớ Chúa sống khó nghèo từ bao nhiêu năm qua. Sở dĩ thầy hòan tục là vì căn tu thầy đã hết hay nói đúng hơn ở trong chăn mới biết chăn có rận. Thiên hạ bên ngòai, có lẽ ai cũng tưởng rằng tu viện, giáo đường là nơi truyền bá đức tin, là nền tảng căn bản của đạo đức, bác ái và công bằng nhưng có biết đâu thực tế bên trong thì lắm chuyện phũ phàng, chướng tai gai mắt chỉ vì những kẻ bề trên đã lạm quyền ỷ thế bất công trong cách hành xử đối đãi với sư huynh đệ dưới trướng. Thầy đã quá bất mãn chán chường nên quyết định dẹp quách chiếc áo nhà tu nhập cuộc với đời thường cưới vợ cho xong. Thầy có thể hy sinh dâng cả cuộc đời mình cho Chúa nhưng không cam lòng bị hiếp đáp triền miên tháng này qua năm nọ. Thà làm người thế gian sống cuộc đời bình thường như bao nhiêu người trần tục khác, miễn sao lương thiện ngay lành giữ trọn mười điều răn là đã đẹp ý Chúa chớ cần chi khóac áo tu hành sớm kinh chiều kệ nhưng trong bụng một bồ dao găm luôn nghĩ cách hãm hại người, miệng nói giáo lý giáo điều nhưng lòng dạ hẹp hòi thâm độc như rắn rít.

Cô dâu là Kim Châu, con gái lớn của ông bà tài phú nhà máy lúa gạo người Tiều minh hương. Cô không thuộc lọai người đẹp, chỉ được cái là mặt mày sáng láng trắng trẻo dễ thương nên đã làm xao xuyến trái tim côi của ông thầy dòng xưa nay vốn chỉ biết một lòng yêu mến trung thành thờ phượng Chúa. Cô gặp thầy rất ngẫu nhiên như định mệnh dun rủi khi vào học trường dòng nam bốn năm về trước. Lúc ấy thầy dạy môn sinh ngữ Pháp lớp cô. Suốt niên học, mỗi giờ Pháp văn, người trên bục giảng, kẻ dưới bàn học, cả hai thường bắt gặp ánh mắt trìu mến len lén gởi trao nhau. Lời tuy chưa tỏ nhưng lòng đã nghe cảm giác thân quen từ kiếp nào để rồi kịp lúc tan trường thầy đã thề ước chuyện trăm năm, hẹn vài năm sau sẽ trở về xin cưới cô làm vợ. Chuyện tình lúc bắt đầu tưởng đã ngang trái bất thành bởi đạo đời ngăn cách nhưng kết cuộc định mệnh đã cho hai người một happy ending bằng một cái đám cưới “một chiều” không giống ai thời bấy giờ.

Lúc rời khỏi nhà dòng, thầy Nguyên như một vị quan liêm chính hồi hưu không của cải, không cửa không nhà, chỉ võn vẹn một túi xách tay đựng vài bộ quần áo với mấy quyển sách học làm người đắc nhân tâm (có lẽ vì trong nhà dòng thầy chỉ biết nếm mùi thất nhân tâm) và 5000 đồng (thuở đó lương giáo sư cấp hai khỏang ba mươi lăm ngàn đồng một tháng) của bề trên ban cho làm vốn vào đời. Trong lúc thất sở thân sơ đó, thầy phải tá túc nhà bà chị cả vài tuần đầu trong thời gian chờ nộp đơn xin về quê vợ lập nghiệp, cái nghề dạy học cố hữu của thầy nhưng phen này đi dạy nhứt định là lãnh lương hẳn hoi chớ nếu “dạy chùa” thì lấy gì mà nuôi sống bản thân và đồng thời còn phải dành dụm để sắm sửa cưới vợ mua nhà.

Khi ấy là đang mùa nghỉ hè, nếu như còn trong dòng thì thường khi học trò bãi trường, các thầy tu phải đi cấm phòng, cầu nguyện, tịnh tâm ở một nơi nào đó tùy bề trên giám tỉnh chỉ định cũng kiểu như những cao thủ võ lâm tới thời kỳ nhập thất bế môn luyện công vậy. Nhưng bây giờ thì thầy đã hòan tòan tự tại thong dong như chim được xổ lồng, như cá được thả về sông mặc tình bay lượn theo ý muốn, không còn lo sợ bề trên áp bức, bề dưới sàm tấu thưa gởi gì nữa. Thầy xuống vườn trái cây mấy chục mẫu của bà chị ở Cái Mơn nghỉ ngơi một tuần, trèo lên cây hái trái chín ăn cho thỏa thích, họăc cùng mấy đứa cháu đi câu tôm tát đìa bắt cá, hít thở không khí tự do bỏ những khi bị gò bó buộc mình tuân theo những quy luật khắt khe quá đáng của nhà dòng. Vườn nhà bà chị trồng đủ lọai trái ngon giống tốt, cam, dâu, xòai, mít, sầu riêng, măng cụt, bòn bon, chôm chôm nhãn. Mỗi mùa trái cây thu họach mấy chục triệu đồng đến nỗi không dám gởi ngân hàng mà phải dấu vào những hộp biscuits treo trên ngọn cây dừa.

Kế đó thầy xuống Sóc Trăng thăm cô bồ và luôn tiện tìm nhà trọ để mai mốt khi về đây dạy mới có nơi ăn chốn ở. Thầy tìm đến dì Sáu, bà bếp nấu ăn trong trường dòng khi xưa nhờ tìm một nơi trú ngụ. Dì Sáu giới thiệu thầy với dì Ba, chị của dì. Dì Ba có hai người con đã lớn, con gái thì đã theo chồng ra riêng, còn con trai đi lính đóng quân ở tận Bảo Lộc nên nhà cửa rộng rãi dư phòng. Có người xin ở trọ, kiếm thêm được chút lợi tức, dì Ba vui vẻ chấp thuận ngay vô điều kiện.

Tưởng rằng mọi việc sẽ suông sẻ diễn tiến theo dự tính của thầy, nào ngờ đâu thầy dọn vào ở nhà dì Ba chưa nóng chỗ nằm thì một buổi chiều dì Ba nhận được tin con tử trận. Dì vật vã khóc lóc thảm thiết và dị đoan cho rằng chính thầy Nguyên đã đem cái xui xẻo đến cho gia đình dì khiến con dì mất mạng. Thật là phi lý hoang đường! Con người sinh ra ai cũng có sẵn số mệnh đặt để, một khi đã tới số thì cho dù có trốn trong nhà cũng nhào lăn ra chết bất đắc kỳ tử huống chi mang thân làm lính vào sanh ra tử nơi chiến trường đạn lạc tên bay. Súng đạn đâu có mắt có tròng, trúng ai thì người đó nấy chịu. Cái chết của con dì đâu có mắc mớ tới thầy mà chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng dì Ba đã nghĩ vậy thì thầy cũng không còn lòng dạ nào ở lại nhà dì thêm nữa.

Cạnh nhà dì Ba là nhà một anh chàng thiếu úy văn phòng. Anh thiếu úy này tên Lộc còn độc thân, con một gia đình khá giả quê quán Cần Thơ nhưng vì nhiệm sở ở Sóc Trăng nên phải đóng đô ở Sóc Trăng. Biết tình cảnh của thầy Nguyên, Lộc hào hiệp rủ qua ở chung cho có bạn. Hai tuần sau khi thầy Nguyên dọn vào, nhân được ngày phép cuối tuần, Lộc rủ thầy thứ bảy tới đi tắm biển ở bãi Mỏ Ó (bãi biển có hình dạng mỏ ó) với nhóm bạn của anh ta. Thầy Nguyên đã nhận lời, hẹn sau khi đi Saigon bổ túc hồ sơ hõan dịch xong trong vòng ba ngày sẽ về đi chơi với Lộc. Nhưng không hiểu số mạng khiến xui thế nào mà thay vì nghỉ phép ngày thứ bảy như đã nói với thầy, Lộc lại nghỉ ngày thứ năm trong lúc thầy còn đang lo giấy tờ ở Saigon. Do vậy, Lộc và mấy người bạn gồm ba anh sinh viên và một ông thầy chùa trẻ kéo nhau đi tắm biển trước ngày dự định.

Chiều tối thứ sáu, thầy Nguyên trở về từ Sàigòn, về tới nhà thầy muốn mở cửa vào tắm rửa nghỉ ngơi nhưng không mở được. Lấy làm lạ, thầy chạy qua tìm bà hàng xóm kế bên dọ hỏi:

– Bác Hai à, làm ơn cho tôi hỏi thăm. Anh Lộc có nhắn gì với bác không? Sao tôi mở cửa nhà không được, hình như có ai đã thay ổ khóa rồi thì phải?

Bác Hai rầu rầu nói :

– Cậu mới ở Saigon về nên không hay thiếu úy Lộc đã chết rồi. Sáng hôm qua cậu ta ra cửa còn gặp tôi chào vui vẻ nói bữa nay được nghỉ phép đi tắm biển xả hơi một bữa. Vậy mà hồi sáng này, người nhà của cậu ta đã tới lấy hết đồ đạc đem về Cần Thơ và đổi ổ khóa nhà. Tôi chạy qua hỏi có chuyện gì thì họ cho tôi biết cậu Lộc đã bị Việt cộng phục kích bắn chết hôm qua ngòai bãi biển Mỏ Ó. Thiệt không ngờ, tội nghiệp hết sức! Còn trẻ quá mà.!

Thầy Nguyên không tin nổi những gì mình nghe, hỏi lại như hỏi chính mình:

– Có thật không bác? Anh Lộc có hẹn với tôi ngày mai mới đi biển mà sao lại bỏ đi trước như vậy chớ.

Bác Hai thở dài lắc đầu bảo :

– Phần số con người biết sao mà nói cậu ơi! Nếu biết trước thì cậu ấy đã không chết. Chắc nhờ mạng cậu lớn nên trời xui đất khiến Lộc thất hẹn với cậu đi trước để cậu khỏi chết chung đó mà, hay đúng hơn là số của cậu Lộc chỉ hưởng dương tới đây thôi. Người nhà đã đem xác cậu ấy về quê chờ chôn cất. Cậu có muốn đi thăm cậu ấy lần cuối thì ngày mai cũng còn kịp. Thôi, tối nay nếu cậu không vào nhà được thì qua ở tạm nhà tôi đi rồi sáng mai hãy tính.

Sáng sớm hôm sau, sau khi cám ơn lòng tốt của bác Hai cho ngủ nhờ qua đêm, thầy Nguyên vội vã đi Cần Thơ tìm đến gia đình Lộc chia buồn và hỏi thăm tự sự. Người nhà của Lộc kể lại rằng hôm sáng thứ năm Lộc cùng ba anh bạn sinh viên và một ông thầy chùa đi chơi biển Mỏ Ó. Sau khi tắm xong nhảy lên xe jeep đề máy định về thì máy xe không nổ vì bình xăng đã bị ai đổ cát vào. Liền khi ấy Việt cộng núp gần đâu đó trong những lùm cây rậm rạp bắn ra hàng lọat súng xối xả khiến ba người chết liền tại chỗ là Lộc, một anh sinh viên và một ông thầy chùa . Còn hai anh bạn kia may mắn nhanh chân phóng xuống biển lội trối chết mới thóat thân còn mạng trở về báo tin cho gia đình Lộc.

Thầy Nguyên bùi ngùi đến trước linh cữu của Lộc thắp lên ba nén nhang khấn nguyện cho vong linh người bạn vắn số sớm được siêu thóat yên nghỉ, người bạn tuy chỉ sơ giao nhưng rất phóng khoáng nhiệt tình đã giúp đỡ thầy trong cơn lỡ bước bơ vơ không nơi tá túc. Hình ảnh trẻ trung với nụ cười ngạo đời của Lộc còn hiển hiện rành rành trước mắt như mới hôm qua mà giờ đây đã âm dương cách biệt khiến thầy không khỏi xúc động bi ai. Quả thật vô thường!

Thôi thế thì anh trước tôi sau

Lẽ tử sinh ai tránh được nào

Anh đi trước có tôi đưa tiễn

Tôi đi sau ai tiễn ai chào

Thế là thầy Nguyên lại trở về tình trạng cù bơ cù bấc không cửa không nhà. Thầy kể lại mọi việc với gia đình cô Châu. Ba má cô Châu nghe vậy mới bàn tính với nhau hay là cho thầy về ở chung trong nhà mình cho rồi, chớ mà cứ để thầy đi lang bang hết chỗ này đến chỗ nọ, đi tới đâu người ta chết tới đó, đành rằng là do số mạng nhưng rủi thay lại nhè lúc thầy đang ở trọ trong nhà họ, nếu đồn ra ngòai thì chắc sẽ mang tiếng là sát chủ chớ chẳng chơi.

Riêng cô Châu, cô cũng nơm nớp lo sợ người yêu của cô nếu cứ đi lòng vòng bên ngòai, nay tắp nhà này mai đậu nhà kia, với bản chất thật thà dễ tin, không biết gì là cạm bẫy cuộc đời, biết đâu có ngày thầy bị người ta “vớt” hay gài cho một cái bầu như anh chàng Điệp trong chuyện tình Lan và Điệp thì cô chỉ có nước đi tu như Lan mà thôi. Thế nên, thấy ba má dễ dãi cô mạnh dạn nói tọac ra nỗi lo âu của mình, đôn đốc ba má cô đem thầy về “cất” ở nhà mình luôn cho chắc ăn. Nhưng mà thầy với cô chưa có lễ nghi gì chính thức ra mắt bà con chòm xóm, nếu để thầy khơi khơi vào nhà thì e rằng sẽ bị thiên hạ đàm tiếu dị nghị. Do đó, ba má cô mới bảo thầy về quê mời người lớn trong gia đình tới làm lễ hỏi ra mắt bà con ở đây chiếu lệ trước rồi từ từ mới coi ngày lành tháng tốt làm đám cưới cho danh chánh ngôn thuận sống chung nhà.

Trong lúc thầy Nguyên về quê mời người nhà qua hỏi vợ thì ở đây ba má cô Châu lo đặt thèo lèo, bánh mứt và chuẩn bị sẵn những lễ vật mà đáng lẽ phía nhà trai cần phải “đi mâm” mang qua nhà gái cầu hôn. Nhưng vì biết chắc trăm phần trăm là thầy Nguyên không thể nào hiểu nổi ba cái tập tục rình rang phiền phức này nên hai ông bà phải sắp xếp dàn dựng mọi thứ giùm cho thầy. Đồng thời hai ông bà cũng đi mời bà con thân tộc và xóm giềng chung quanh đến dự lễ hỏi của con gái mình. Chỉ là một tiệc trà đơn sơ, bánh bao xíu mại, cà phê sữa nóng để trình làng chàng rể tương lai với họ hàng là thầy Nguyên có thể ung dung xách đồ đạc dọn vào ở chung một nhà mà không sợ thiên hạ dèm pha.

Và cũng sau đám hỏi thì ngày tựu trường cũng đã tới để thầy từ đây có thể bắt đầu tạo lập cuộc đời của riêng mình. Với mớ văn bằng và kinh nghiệm sư phạm bao năm, thầy tin rằng mình sẽ làm nên một tương lai tươi sáng, hạnh phúc hơn sau những tháng năm dài dấn thân phụng vụ cho một lý tưởng thiêng liêng mà tới đây thầy nhận thấy đã đủ để chuyển hướng đời. Hai hôm đầu đi dạy, vì chưa đủ tiền mua xe nên thầy phải đi bộ hoặc nếu nhằm giờ dạy ở trường quận thì phải đón xe lam. Ông già vợ tương lai thấy vậy “coi không được” nên mới mua liền cho thầy một chiếc Honda 50 cc làm chân để thầy chạy tới chạy lui cho khỏi tủi thân với đồng nghiệp bạn bè. Nhờ vậy mà thầy mới có thể đi dạy hai ba trường kịp giờ trong cùng một ngày. Thời gian đó, cũng nhờ ăn ở trong nhà vợ sắp cưới, tiền lương mỗi tháng của thầy dư trọn vẹn không mẻ một xu nào cho nên mỗi tháng thầy mua một cây vàng để lên. Tích trữ thứ gì khác thì cũng có thể hư hao phá giá chớ vàng y thì bốn mùa tứ quý đều thích dụng, bất cứ lúc nào cũng dễ mua dễ bán. Tính như thầy vậy thiệt là chắc cú an tòan.

Rồi một ngày đẹp trời, gia đình cô Châu tổ chức lễ cưới cho hai người. Dù đám cưới này không có rước dâu nhưng ông cậu bà con đang trấn nhiệm chức vụ tỉnh trưởng Sóc Trăng thời bấy giờ cũng hào sảng cho mượn chiếc xe riêng của ông làm xe hoa đưa cô dâu chú rể đến nhà thờ. Sau nghi thức hôn phối ở nhà thờ, về nhà là tới cái màn nhóm họ đàng gái, đãi đằng bà con chị em phía cô dâu. Tiếng là nhóm họ đàng gái chớ thật ra là hai đàng nhập một bởi vì chú rể đã ở trọ trong nhà hằng mấy tháng. Nhà cô dâu hôm nay được che lều dựng rạp treo đèn kết hoa và đặt bàn ghế ra tận giữa đường lộ để bà con khách khứa có đủ chỗ ngồi ăn uống chung vui. Bữa tiệc nhóm họ đêm đó có nhiều món lai rai như bì cuốn, bún chả giò, bánh mì cà ri, cháo gà xé phay do mấy chị em bạn dì giúp làm rất hợp khẩu mấy ông bợm nhậu, nhứt là những ông đồng nghiệp của thầy Nguyên, uống sao mà như hũ chìm. Nhà ba má cô Châu ở cạnh bên Ty cảnh sát nên mấy ông cảnh sát trực đêm hôm đó cũng được chủ nhà chơi đẹp mời nhấm nháp vài ly hả hê phê đời.

Và ngày kế tiếp hôn lễ mới chính thức cử hành trong gia tộc. Thầy Nguyên rời nhà đi tu từ khi còn rất nhỏ nên đã bị người nhà lãng quên theo thời gian, cả đời không ai đếm xỉa tới thầy đang làm gì, ở đâu hay sống ra sao. Anh chị em thầy cộng lại có hơn một tá nhưng chẳng ai bận tâm tới chuyện thầy ra dòng cưới vợ. Vì thế bên nhà gái phải chủ trì mọi việc từ A tới Z, từ đôi bông tai, chiếc nhẫn cưới cho đến sính lễ mâm quà, nhứt nhứt đều do đàng gái sắp đặt. Thiệt tình! cũng vì thông cảm cho hòan cảnh đon chiếc của thầy, có người nhà như không, không ai lo giúp chỉ dẫn cho nên bên nhà gái phải gánh hết trong việc hợp thức hóa cuộc chung sống cho con mình. Mình tốt với rể thì sau này nó sẽ tốt lại với con mình chớ có lỗ lã gì đâu. Chuyện vợ chồng là chuyện trăm năm, quan trọng là tình nghĩa một đời chớ sá gì vật chất chi ly trước mắt.

Bà dì và má cô Châu cũng khéo tính, đã mượn nhà một bà hàng xóm thân tình làm nhà đàng trai để từ đó bưng mâm qua nhà đàng gái chiếu lệ. Lễ vật cả thảy là tám mâm gồm có heo sữa quay, trầu cau, bốn chai rượu, bốn hộp trà, hai mâm trái cây, một mâm bánh bía, một mâm biscuits hiệu Lu của Pháp. Đàng gái nhận lễ vật và mời đàng trai (cũng do đàng gái đạo diễn) vào nhà, lên đèn cưới rồi chào ra mắt bà con từ già tới trẻ cho dù đã biết rành nhau quá xá nhưng cũng phải diễn tuồng cho đủ lễ bởi vì:

Thói đời hay chuộng bề ngòai

Làm cho đẹp mặt đẹp mày mới cam

Làm lễ xong, cả đám kéo nhau đến nhà hàng dự tiệc. Ba cô Châu là người làm lúa gạo nên đa số khách mời là bạn làm ăn. Bên thầy Nguyên thì chỉ cần một bàn là đủ cho các thầy giáo chung vui quắc cần câu với thầy. Ai uống rượu uống bia gì thì uống, còn thầy chỉ uống nước ngọt hay nước lã cầm cự chớ xưa nay chưa từng uống giọt rượu hay biết đến điếu thuốc bao giờ. Người thì nói cô dâu có phước gặp được người chồng có học thức lại đàng hòang chân chỉ không biết rượu chè bài bạc hút sách chi chi. Người thì cho là chàng rể tốt số cưới được con nhà tử tế hiền lành nề nếp. Và mọi người đều xúm nhau cụng ly chúc phúc cho đôi tân nương tân lang. Ôi thôi! Biết bao là lời tán tụng đẹp đẽ ngọt ngào đầu môi không ngớt. Tốt số hoặc có phước hay không thì phải về lâu về dài mới biết chớ bây giờ trước mắt mọi người thì hẳn nhiên là một họat cảnh hạnh phúc nhứt trong các màn kịch của cuộc đời.

Hôn nhân là một cuộc hành trình lâu dài suốt kiếp mà đám cưới chỉ là bước khởi đầu cho cuộc hành trình đó. Và rủi thay, “hôn nhân là mồ chôn ái tình”, là phản diện của tình yêu. Sau ngày cưới, sau tuần trăng mật, chung sống bên nhau hằng ngày mới biết chân tướng của nhau. Đường dài thăm thẳm, tương lai ai biết được, là một con đường được trải thảm hoa êm ả đẹp như trong truyện cổ tích hay đầy đá sỏi gập ghềnh, đất bằng dậy sóng?! Có đi trọn đường tình được hay không còn tùy ở sự nhẫn nhịn hy sinh và biết chia sẻ cảm thông với nhau của mỗi cặp vợ chồng…

Người Phương Nam