Lối Cũ Chẳng Sao Quên-TRUYỆN NGẮN BÍCH HUYỀN…

TRUYỆN NGẮN BÍCH HUYỀN…

Lối Cũ Chẳng Sao Quên

Đường trần quên lối cũ

Người đời xa cách mãi

Tình trần khôn hàn gắn thương lòng…

(Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay – Đoàn Chuẩn-Từ Linh)

Vĩnh Phú, địa danh tôi muốn quên mà không thể nào quên. Trong suốt hơn mười năm qua và trong cả cuộc đời . K1, K2, K3, K4… những chữ số ký hiệu kinh hoàng. Của tôi. Của những người tù và gia đình họ. Ở rồi, đến rồi, đi rồi…mấy ai muốn quay trở lại? Vậy mà hôm nay tôi vẫn phải trở về đây. Cảnh vật không khác xưa là bao nhiêu dù thời gian trôi qua bốn năm rồi…

Những khẩu hiệu:” Chào mừng thành công Đại Hội Đảng 5″ ,”Đảng Cộng sản Việt Nam – Người lãnh đạo tài tình”, “Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm…” lem luốc màu đỏ vì nước mưa, chảy dài xuống như những dòng nước mắt pha máu ngoằn ngoèo trên từng bờ tường loang lổ, cũ kỹ. Ngay phía dưới lại có hàng chữ mang tính “pháp lệnh” bằng những lời thô tục “Cấm ỉa đái” . Có cả những nét chữ nguệch ngoạc chửi thề. Hình như không một ai để ý.

Ở cái ga xép èo uột gần tận cùng của đất nước này, những con người lam lũ, ngác ngơ, còn đang loay hoay với ký trà, bao gạo, rổ rá nhựa, nồi niêu xoong chảo, xấp vải Chợ Lớn hoa xanh, hoa đỏ…Che che, giấu giấu, tránh con mắt dòm ngó của bọn Công an kinh tế. Chính sách của Đảng đổi mới rồi, tự do buôn bán nhưng người dân lại khổ vì sưu cao thuế nặng.

Theo lời chỉ dẫn, chúng tôi không đến trại Tân Lập bằng đường sông nữa. Đạp xe trên bờ đê. Dắt xe đi bộ qua bãi cát lổn nhổn những vỏ sò, vỏ ốc. Băng ngang qua những thửa ruộng khô cằn của vùng đất miền trung du. Cái hình ảnh “quê em miền trung du, đồng chiêm lúa xanh rì…”của một thời hoàng kim nào xa lắm, nay ở đâu? Giặc tràn về đốt phá thôn làng. Gia đình ly tán. “Vườn không nhà trống tàn hoang” còn trong trí óc non nớt của tuổi thơ tôi. Giờ đây, giặc nào đã làm cho miền Bắc điêu tàn?

Đảng Cộng Sản Việt Nam, đỉnh cao của trí tuệ loài người! Ôi, mỉa mai thay những khẩu hiệu kêu to như những chiếc thùng rỗng! Đảng lãnh đạo tài tình làm sao để bao nhiêu năm đời ta có Đảng, bấy nhiêu năm Đảng phá tàn mạt đời ta? Để những người dân quê hiền hoà cởi mở trở nên ngu ngơ câm lặng đến thế kia sao?

Dân cư ở đây rất thưa thớt. Họ sống trong những mái nhà lụp xụp, vách đất, mái tranh. Mảnh vườn. Rào thưa. Khoảng sân đất. Giếng nước. Chiếc gầu… tất cả đều quá nhỏ bé, trơ trụi, xa lạ. Trẻ con gầy còm, ốm yếu. Quần đùi vá víu miếng nọ miếng kia. Cởi trần, ngồi nghịch đất. Không tiếng nô đùa. Không tiếng hát. Không tiếng nhạc của máy thu thanh. Không cả tiếng chim hót. Như một vùng đất chết.

Ba người anh cùng đi với tôi chuyến này đều là những thanh niên đầy nhiệt huyết của hơn ba mươi năm về trước. Thoát ly gia đình, mang tuổi trẻ của mình cống hiến cho đất nước . Để rồi khi biết mình bị lừa thì đã muộn. Cũng dòng sông Lô nắng vàng lấp lánh nhưng còn đâu tiếng hát rộn ràng? Cũng con đê này của những buổi chiều vai đeo ba lô từ chiến khu về, rầm rập bước chân.

Trong không gian, hồi chuông ngân nga trong chiều thu lộng gió, ba người anh tôi ôn lại một vài kỷ niệm xưa. Tiếc nuối. Tôi làm các anh tỉnh giấc mơ: “Phải chi ngày ấy các anh không đi theo phong trào Thanh Niên Cứu Quốc thì nay em đâu phải đi bốc mộ chồng ở một nơi đèo heo hút gió này !” Ba người anh im lặng. Họ như muốn quên đi những năm tháng sục sôi khí thế cách mạng. Yêu tự do. Yêu tổ quốc. Đánh đuổi giặc Pháp ra khỏi đất nước . Chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày trở về giải phóng thủ đô Hà Nội. Những người bộ độ với tuổi hai mươi. Trẻ trung. Học thức. Hà Nội như đã bừng lên một sức sống mới.

Hà Nội rực rỡ cờ hoa. Hà Nội tưng bừng tiếng hát. Không bao lâu, những cuộc đấu tố dã man diễn ra khắp nơi. Ông bác tôi bị đấu tố, dù có năm người con đi kháng chiến. Nghe tin dữ, các anh về quê xin Đảng khoan hồng. Không những không tha, họ còn xúi giục các anh tôi: phải giác ngộ cách mạng, phải đứng vào hàng ngũ nhân dân, cùng vạch tội, chỉ tên địa chủ cường hào ác bá. Ông bác tôi bị tù. Khổ sai lao động. Thất vọng, đớn đau nhìn bố vác cây, đào đất, khiêng đá, trộn hồ…Những người tù già này làm việc suốt ngày đêm để đạt chỉ tiêu biến khu đất hoang quanh hồ Bảy Mẫu, Hà Nội, thành một công viên mang tên Thống Nhất. Đến thập niên 1980 đổi thành công viên Lê Nin.

Cũng vì sự khổ nhục của người bác thân yêu mà bao lần ra Hà Nội là bấy nhiêu lần tôi không đặt chân vào công viên này. Cũng như tôi đã không đến vui chơi khu K4 Long Khánh, một địa điểm du lịch mới lạ của miền Nam. Vì nơi đây được tạo nên bởi những bàn tay của cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bị Cộng sản tù đầy, hành hạ.

Các anh tôi, vài năm đầu “Sài Gòn giải phóng”, vì đường lối của Đảng, hay vì muốn các em của mình ở miền Nam sớm “giác ngộ” để hoà nhập ngay với cuộc sống mới, đã có những lần tranh luận. Bao giờ cũng trở thành lớn tiếng cãi nhau. Tôi đã làm các anh nhức đầu không ít. Lần cuối cùng, tôi không cãi lại các anh nữa. “Đảng đã cho các anh tôi sáng mắt sáng lòng”. Đó là một lần anh nói với tôi:” Người em không yêu làm em khổ, em đâu có đau bằng anh? Anh đã yêu, anh đã dâng hiến cả cuộc đời mà ngày nay anh bị phụ bạc, anh bị lừa dối…”. Một anh khác: “Viên gạch đã trót để vào xây tường, giờ có rút ra cũng bị vỡ tan. Thôi em ạ, không còn con đường nào khác!”

Trên con đê này, giữa khung cảnh hoang vắng của buổi chiều trung du, bốn anh em đi bên nhau. Thương cho thân mình. Thương cho các anh. Lý tưởng sụp đổ tan tành. Ngày mai đen tối.

Trời chạng vạng. Tôi đã bắt đầu đi những bước thấp bước cao. Quãng đường này làm tôi nhớ lại những lần vượt biên. Xuống ghe tại Nhà Bè khi thành phố còn chìm trong màn đêm. Lên bờ đi bộ băng qua bao nhiêu là thửa ruộng. Vấp ngã bao lần mà không cảm thấy đau đớn vì thần kinh đang trong tình trạng căng thẳng: hồi hộp, lo sợ.

Lần này trên cánh đồng: mệt mỏi, chán chường…

Cũng phải vài giờ nữa mới tới trụ sở Ban Chỉ Huy. Tiếng dế nỉ non. Xa xa ánh đèn leo lét. Cố lê bước tới đó để xin ngủ nhờ qua đêm. Nhìn một căn nhà tương đối khang trang, chúng tôi vào gặp chủ nhà xin ngủ đỡ ngoài mái hiên. Nhưng cũng bị từ chối. Đang lo lắng không biết tôi có đủ sức đi tiếp hay không, thì như có phép lạ, một người đàn bà gánh lúa từ xa đi tới. Bà ta dừng lại:”Các bác tìm nhà ai thế?” Khi biết ý, bà ta mời chúng tôi về nhà. Bốn anh em mừng rỡ như người sắp chết đuối vớ được chiếc phao. Dù gánh lúa nặng trĩu trên vai, bà ta vẫn bước đi thoăn thoắt. Trong khi tôi lẽo đẽo theo sau.

Khi bà đẩy cánh cổng tre, bóng tối làm tôi không thể nhìn rõ một người đàn ông đang xếp lúa ngay đầu nhà. Ông ta không quay lại và cũng không lên tiếng đáp lại lời chào của các anh tôi. Trước thái độ lạnh nhạt đó, chúng tôi hơi e ngại. Trong lòng vẫn mừng thầm không bị đuổi ra.

Một gian nhà ba gian bằng tre sơ sài nhưng gọn ghẽ. Nhìn cách trang trí nhà cửa, nhìn bức tượng Chúa nho nhỏ trên bàn thờ cao, tôi có thể đoán chủ nhân không phải là người quê mùa. Tôi ôm bộ quần áo ra giếng. Những giọt nước mát lạnh làm tôi tỉnh táo lại. Trăng bắt đầu lên. Tôi đã nhìn rõ khung cảnh chung quanh. Mảnh sân hình chữ nhật. Khu vườn nhỏ. Chái bếp cuối sân. Ánh lửa bập bùng. Hàng cây cau vươn cao đón ánh trăng. Tôi liên tưởng tới hàng cau của khu vườn trước nhà tôi ở quê hương. Ngày còn nhỏ, tôi vẫn thường trèo lên nhanh như một chú mèo con để hái quả cau cho mẹ tôi têm trầu đãi khách. Trong không gian thoang thoảng mùi hương hoa thiên lý. Âm thanh tiếng đàn mandoline bản Valse Favorite vui tươi, tiếng hát chan chứa tình quê ” Làng tôi xanh bóng tre. Hồn lắng tiếng chuông ngân. Tiếng chuông nhà thờ rung…” chợt khua động trong tôi ngày tháng êm đềm thời thơ ấu.

Tôi thở thật sâu để nén xúc cảm. Đêm yên lặng. Đêm mờ ảo. Tất cả đều rất mong manh. Một tiếng động nhỏ cũng đủ làm tan vỡ giấc mơ xưa thoáng đến với tôi, đưa tôi về thực tại. Tôi phải vào nhà để bàn chuyện ngày mai.

Tiếng cười nói làm tôi ngạc nhiên. Ông chủ nhà cùng ba anh tôi đang vui vẻ quây quần bên khay trà bốc khói. Thấy tôi vào, ông kéo ghế trịnh trọng mời ngồi. Tôi còn đang ngơ ngác trước thái độ thay đổi nhanh chóng thì một anh đã giải thích: “Ban đầu ông Tuyển tưởng anh em mình đi thăm nuôi tù. Bây giờ ở đây có tù hình sự (những thanh thiếu niên can tội cướp của giết người ). Tù chính trị chuyển đi từ lâu rồi. Một số về trại Hà Nam Ninh. Đa số vào Nam.”

Ông Tuyển đặt ly trà thơm phức trước mặt tôi: “Được biết cô về đây bốc mộ cho chồng, chúng tôi vô cùng cảm kích. Gia đình chúng tôi xin hết sức giúp đỡ cô và các ông anh đây.”

Vầng trán cao. Khuôn mặt chữ điền. Cách nói chuyện lưu loát cùng dáng điệu từ tốn, cử chỉ lịch sự, chứng tỏ ông Tuyển là một người có một số vốn kiến thức về học vấn cũng như về xã hội. Ông cho biết có một người anh là linh mục trong một ngôi nhà thờ vùng đất đỏ Long Khánh.

Ông Tuyển đã sắp xếp chỗ ngủ cho chúng tôi. Để khách được tự do, ông Tuyển dặn dò vợ con và đi vào thôn tìm người quen chuyên việc cải táng.

Gian phòng khách rộng, sơ sài nhưng ngăn nắp. Giường tre, bàn gỗ mộc mạc, thô kệch, được hình thành có lẽ do bàn tay của chủ nhà. Tượng Chúa và tượng Đức Mẹ trên cao là một hình ảnh cảm động hiếm có trong những ngôi nhà tại miền Bắc. Theo như lời ông Tuyển, đời sống gia đình ông bắt đầu khá hơn kể từ khi hợp tác xã nhà nước tan vỡ. Lối làm ăn tập thể nhường lại cho lối khoán sản phẩm. Tuy nhiên, vẫn phải nộp đủ cho nhà nước , cả nhà xúm nhau cày cấy mới có gạo ăn.

Dưới nhà ngang, các con ông bà Tuyển đang đập lúa, giã gạo, sàng sẩy…Mọi người chăm chú làm việc, không tò mò để ý khách phương xa. Tôi mệt mỏi nằm thiếp đi trong chốc lát.

Khi tôi tỉnh dậy, trăng đã lên cao. Ông Tuyển vừa về tới. Tay cầm hai chai rượu và một bó hoa tươi. Ông cho biết đã tìm được một người rất thành thạo trong việc bốc mộ. Chai rượu này để rửa hài cốt. Tìm mua được rượu ở miền núi không phải là chuyện dễ dàng.

Bà Tuyển bưng mâm cơm từ nhà bếp lên. Chúng tôi trải chiếu ngoài hiên, ngồi ăn cơm dưới ánh trăng. Đĩa thịt gà luộc thơm mùi lá chanh thái chỉ rắc lên trên. Tô canh rau “tập tàng”- đủ mọi loại rau hái ngoài vườn – mát ngọt. Tôi không ngờ anh em chúng tôi được đối xử như một thượng khách ở nơi đây. Thế mới biết ở một nơi tưởng chừng như không có, ta vẫn tìm thấy một tấm lòng.

Qua một đêm ngủ với nhiều mộng mị, sáng sớm hôm sau, tôi và các anh đến Bộ Chỉ Huy. Có quãng đường đi được bằng xe đạp. Có quãng đường đá lởm chởm phải dắt bộ. Chỉ huy trại là người mới. Không phải Thiếu Tá Nguyễn Huy Thùy tôi gặp lần trước. Hắn vồn vã thái quá, khiến tôi chỉ im lặng ngồi nghe. Hắn kể chuyện, có một người nước ngoài, cách đây không lâu, về đây bốc mộ bố. Cầm bình hài cốt lên xe, xe không nổ máy. Gọi xe ngựa đến kéo, con ngựa nhảy quớ lên không chịu chạy.

Nhìn hắn ba hoa, ngồi bỏ cả hai chân lên ghế, tôi hơi khó chịu. Nhất là cặp mắt hắn thỉnh thoảng lại nhìn vào mấy bao thuốc là “555” anh tôi mang đến làm quà. ” Ba con năm vừa nằm vừa ký”, cho nên bọn tôi mới được chấp thuận một cách dễ dàng.

Những chuyện hắn nói có thể xảy ra ở đâu, hắn nghe được. Hắn muốn nói đến đời sống tâm linh. Anh em tôi thì có rất ít thời gian. Cũng có thể sau một thời gian quá dài bị đè nén, những con người triệt để chống chủ nghĩa duy tâm ngày nay bắt đầu duy tâm hơn ai hết.

Xe Volga cọc cạch chở chúng tôi đi lên ngọn đồi, nơi an nghỉ của những quân nhân chế độ cũ. Ít ra từ ngày Việt Cộng muốn bang giao với Mỹ, đã có lúc họ bỏ được từ ngữ “ngụy quân ngụy quyền”. Nhưng tiếc thay những tên gọi này vẫn là vết hằn trong lòng người Việt.

Tôi ngồi đợi trong một căn nhà nhỏ dựng sơ sài bằng tre nứa. Nền đất lồi lõm. Trên vách nhỏ treo đủ thứ khẩu hiệu, kế hoạch công tác hàng tháng, tuần… Hình ảnh các lãnh tụ Cộng Sản thế giới và trong nước quá khổ so với bức vách, treo xộc xệch như sắp rơi. Đây là nơi làm việc của toán công an canh gác.

Cách đây bốn năm khi tôi đến nơi đây nhận mộ chồng, cảnh vật chung quanh gọn ghẽ hơn. Hàng ngày còn có bàn tay bạn tù săn sóc. Giờ đây cỏ cây, dây leo chằng chịt, không nhìn thấy lối đi. Hơn một giờ đồng hồ trôi qua, tên công an cầm bản đồ nghĩa trang và các anh tôi trở lại trụ sở với gương mặt thất vọng. Không tìm thấy mộ vì cỏ cây che lấp cả một vùng rộng lớn. Tim tôi như muốn ngừng lại. Chẳng lẽ lại về không?

Tôi xin mọi người hãy cho tôi đến tìm. Tôi thầm cầu nguyện cũng như ở Sài Gòn, mẹ tôi và các em tôi đã cầu nguyện cho chuyến đi của tôi được tốt đẹp.

Kỳ lạ thay! Tôi chỉ vạch lá chui vào đúng một quãng ngắn là tìm ra mộ. Tôi reo to lên. Các anh tôi đứng ngoài không tin. Ngôi mộ có hai bia đá. Tôi lầm thế nào được. Một tấm bia tôi mang từ Hà Nội lên. Một tấm bia nữa của anh em bạn tù đẽo gọt bằng tay. Nét chữ khắc vào đá mờ đi vì rêu phủ.

Trong khi người thợ cải táng chặt cây cối chung quanh, tôi thắp nhang lui cui cắm trên từng ngôi mộ. Đêm mưa, cỏ ướt, ngửi thấy có hơi người, những con vắt nhảy ra, bám lấy chúng tôi. Máu chảy ròng ròng. Tôi muốn ngất người đi vì sợ. Cây cối quang dần. Dầu nóng tôi bôi đầy mặt, mũi, chân, tay, khiến những chú dế bé xíu cũng không dám nhảy ra đột kích nữa.

Một ít trái cây mua vội dọc đường, bó hoa ông Tuyển mua dùm, chúng tôi chỉ có những tấm lòng thành trước linh hồn người đã khuất. Người anh lớn nhất của tôi khấn thật lâu. Những cây nhang cháy rất nhanh, tàn cong vòng…khói nhang thơm toả ngát. Nhát cuốc đầu tiên bổ xuống đất, lòng tôi đau buốt. Tiếng cuốc, xẻng đều đều vang vọng giữa miền rừng núi hoang vu. Từng tảng đất bật lên, tâm hồn tôi như vỡ vụn. Cho tới lúc lưỡi cuốc đụng vào quan tài. Tôi hồi hộp. Các anh tôi nôn nóng.

Khi tôi ra đến Hà Nội, các bậc lão thành có trấn an:”Đất miền núi khô ráo, xương cốt lâu ngày sẽ tan đi. Phải chuẩn bị tinh thần: có thể đứng trước một cái hòm chỉ có đầy cát bụi!”

Thế cho nên khi những nhát búa đầu tiên bổ xuống để nạy nắp quan tài, tôi cứ giật thót mình. Một cảm giác đớn đau như lần đầu tiên nghe thấy tiếng đóng đinh vào quan tài bố tôi lúc liệm quan…

Gỗ áo quan dầy và chắc. Khi chiếc nắp bật lên, tôi lạnh người: chiếc chăn len màu đỏ! Suốt đêm qua, người anh lớn của tôi cứ chợp mắt là nằm mơ thấy xác chồng tôi quấn bằng mảnh vải màu đỏ. Gương mặt các anh tôi xúc động. Bóc lượt chăn len ra là quần áo. Hết lớp áo này đến lớp quần khác. Bàn bè đã dồn tất cả cho người chết mang đi. Nước mắt tôi ràn rụa. Màu xanh lá cây đậm của chiếc áo len mẹ tôi mua tặng, gửi trong năm ký lô quà đầu tiên ra Bắc. Chiếc sơ-mi trắng ngà có từng sợi chỉ xanh xanh, hồng nhạt, mang về Sài Gòn sau chuyến du học tại Mỹ năm 1971. Chai dầu gió, đôi giày ba ta…tất cả tôi đã tự tay xếp vào ba lô trước ngày anh đi trình diện “học tập cải tạo”.

Không còn lầm được. Không còn ảo tưởng:”Đã trốn trại, còn đang ẩn trốn tại một nơi nào.” Tôi mất anh thật rồi! Thế là hết. Tôi khóc nức lên. Trời như nổi gió. Cỏ cây chao đảo. Đồi núi quay cuồng. Quanh tôi cảnh vật mờ đi…

Lâu lắm, khi tôi tỉnh dậy, đống tro tàn của áo quần vừa đốt còn âm ỉ cháy. Trong một cái sanh to bằng gang dùng thổi cơm cho trại tù đã gẫy tay cầm, các anh tôi đã đổ bột nhang thơm với rượu trắng để ngâm xương cốt. Người thợ cải táng cùng các anh tôi quấn giấy bao từng lóng xương, đặt từng mảnh vào trong nhiều túi ni-lông …

Không gian mênh mông yên lặng. Tôi lặng lẽ theo các anh tôi bước nhanh cho kịp chuyến đò cuối cùng…

(Chuyến bốc mộ vào năm 1985)

Trích tập truyện Lối Cũ Chẳng Sao Quên

(The Trail I Never Forget)

May be an illustration of 1 person and text

CÁI CHẾT CỦA NGƯỜI TÙ GIÀ

 Vũ Thư Hiên is with Vũ Lương Vu 

CÁI CHẾT CỦA NGƯỜI TÙ GIÀ

Kính tặng hương hồn bạn tù Nguyễn Thái Bút

1

Người Tù Già nằm bất động.

Lão nằm và nhìn lên bầu trời xám xịt qua song cửa.

Nhìn đăm đăm và nghĩ miên man.

Những ý nghĩ đứt quãng, trôi nổi, bồng bềnh, lẫn lộn. Trùm lên những ý nghĩ vẩn vơ ấy là một màu buồn u tối.

Đầu đông ở thung lũng là thế. Thời tiết thay đổi từng giờ. Mặt trời không cất mình nổi nơi sương mù giăng mắc giữa ban ngày. Những vạt rừng ngàn năm nhấp nhô đậm nhạt trong thứ nửa mù nửa mưa bao quanh trại tù như vành khăn xô rách rưới. Không phải vô lý mà người ta đặt trại tù trong những thung lũng, lão nghĩ. Họ khôn lắm. Không phải chỉ để ngăn tù trốn đâu. Mà để ngăn cả ý nghĩ vượt ngục của tù nữa, nếu như nó dám nảy ra.

Người Tù Già buồn.

Lão biết lão chẳng còn sống bao lâu. Dấu hiệu đầu tiên của cái chết mà lão biết được là đôi chân không còn nghe theo lão. Lão mất hết cảm giác về chúng. Chúng rời bỏ lão một cách chậm chạp, không sao ngăn nổi. Bắt đầu là hai bàn chân, hôm qua, rồi tới đầu gối, sáng nay, và bây giờ – tới hông. Cả cái mùi khăn khẳn dính chặt vào khứu giác, không biết nó xuất phát từ đâu, có phải đấy là mùi của chính lão?

Lão biết lần ngã bệnh này của lão không như những lần trước, trong suốt đời tù đằng đẵng. Mười một năm rồi chứ ít à? Trong mười một năm ấy lão đã vượt qua cái chết không phải một lần. Nhưng lần này thì không, lão biết. Không qua được. Không ăn thua. Thân thể lão đã cạn khả năng sống sót để chờ thêm một năm, hoặc hai năm, như lão từng chờđể được xét tha sau một lệnh. Lệnh, là gọi tắt một kỳ hạn của cái gọi là “tập trung cải tạo”. Một lệnh là ba năm. Hết ba năm này là ba năm khác. Cứ thế mà diễn.

Mà chắc gì lão được tha cơ chứ?

Cái chết toàn năng, cái chết bất khả kháng, như hốc miệng đen ngòm của một con trăn khổng lồ đang nuốt dần cơ thể lão, từng phút một. Rất chậm, nhưng không dừng lấy một giây.

Lão sợ. Lão không muốn chết một tí tẹo nào. Lão muốn sống. Chao ôi, lão muốn sống lắm lắm. Chưa khi nào lão muốn sống bằng lúc này.

Đấy, ngay bây giờ đây này, lão đang muốn kêu, muốn gào lên, muốn thét lên để thiên hạ nghe thấy mà chạy đến, để thiên hạ xúm lại kéo lão ra khỏi cái hốc khủng khiếp đen ngòm kia. Nhưng lão không kêu được. Từ cuống họng lão chỉ phát ra những tiếng ú ớ mà, lạ thay, lão lại nghe rất rõ. Đôi tai nghễnh ngãng nhiều năm bỗng trở lên thính lạ thường. Tưởng chừng cái sống còn lại trong người lão chỉ tập trung nơi thính giác. Nó, và chỉ có nó, nối lão với thế giới bên ngoài.

Nói lão muốn gọi thiên hạ là nói thế thôi, chứ lão biết cả cái thế giới bên ngoài kia chẳng thèm nhòm nhõi gì đến lão. Đối với cái thiên hạ ấy, lão chẳng là cái gì. Bạn tù cũng chẳng đến thăm lão. Họ mệt lử sau một ngày lao động, lết về được tới phòng là nằm vật ra, còn sức nào để nghĩ tới lão cơ chứ. May cho lão, còn có Tỉnh Trưởng, một người tù già, còn già hơn lão nữa, ở ngay đây, trong trạm xá, thỉnh thoảng vẫn lệt xệt từng bước đến bên giường ngó lão một cái.

Lũ bệnh nhân cùng trạm xá với lão ở ngay cạnh lão thì chẳng nói làm gì – còn khuya cái lũ ấy mới nói với lão một lời. Chúng chẳng bệnh tật gì ráo, chúng được nằm trạm xá vì chúng có tiền cống cho thằng Y Tá, cho ông Y Sĩ . Giờ đây chúng đang túm tụm sát phạt nhau trong canh bạc mới mở. Lão nghe rõ mồn một thằng nào cười hô hố, thằng nào đang ngửa cổ reo, thằng nào vỗ đùi đen đét trong khoái trá, thằng nào văng tục chửi đổng trong cơn bực bội.

Y Tá cũng ngồi trong đám bạc. Mặt bì bì, mắt trắng dã, cặp môi mỏng thâm xì mím chặt, va vật quân bài xuống chiếu cái đét và ngửa cổ lên văng một tràng chửi tục. Không cần nhìn, lão cũng biết nước bọt va văng tung toé. Va không thể nói mà không văng nước bọt.

Y Tá vốn là một bác sĩ khoa sản bệnh viện tỉnh, trước nữa là Y Tá huyện, được học bổ túc lên y sĩ, rồi tiếp tục bổ túc lên bác sĩ. Va là tù có án – năm năm vì tội cưỡng dâm bệnh nhân.

Người Tù Già đón va từ lúc va vừa bước xuống ô tô từ trại tỉnh chở tù lên trại trung ương. Đồng hương gặp nhau ở trong tù thì mừng, là lẽ thường. Chẳng gì cũng cùng quê hương bản quán với nhau, chứ trước kia lão đâu có quen va.

Như mọi nông dân, có bao giờ lão đi bệnh viện. Người nông dân nghe đến bệnh viện là hãi rồi, như chết đến đít rồi, không thế thì chẳng ai tới bệnh viện làm gì. Lão không đến bệnh viện vì sợ tốn. Ốm đau đã có lá lẩu trong vườn, nặng hơn thì tìm đến ông lang ngoài chợ.

Va được phân vào toán đan lát của lão. Lão mừng húm. Lão rủ va ăn chung. Chia sẻ với va từng viên thuốc lào. Ở ngoài, nghe nói va béo lắm. Lên trại, va xuống cân vù vù. Gày tong teo. Đi xiêu vẹo. Va quên sạch mọi thứ trên đời, trừ những cái có thể bỏ vào mồm. Đi làm ngoài trại mắt va láo liên lục bới từng khóm cây bụi cỏ kiếm con cào cào, con châu chấu. Hôm nào vớ được con thằn lằn, hôm đó va như sống lại. Người ta quen thấy va vật vờ ngoài sân, hết rẽ vào nhà này lại nhà kia để kiếm miếng ăn. Một trong những cách kiếm ăn lương thiện nhất, ít bị khinh bỉ nhất, là tẩm quất thuê cho lũ “đầu gấu”, lũ “sĩ quan ”.

Cuộc đời đầy những bất ngờ.

“Y tá trại”, trước kia là bác sĩ một bệnh viện trung ương,án chung thân vì tội dùng thạch tín đầu độc vợ, giữ chức này đã nhiều năm nhờ có quan hệ rộng với các quan chức lớn nên luôn được giảm án, rồi đùng một cái được tha trước hạn. Chân y tá trại béo bở có sẵn nhiều ứng viên sáng giá – mấy tù nhân bác sĩ, người đi tù vì tham ô, kẻ vì buôn lậu. Trời xui đất khiến thế nào, va lại được Ban giám thị chọn. Tính về thành phần xuất thân va ăn đứt bọn kia, va không phải chỉ là nông dân nói chung, va là cố nông từ đời ông bà tính về thành phần, là quân chủ lực của cách mạng. Một bước, va lên quan, dù là quan trong tù.

Làm y tá trong tù bảnh lắm. Muốn nghỉ lao động một ngày, hoặc vài ngày trong đời tù triền miên lao động và lao động, những người tù khốn khổ, không trừ một ai, đều phải cầu cạnh y tá. Tuỳ theo cống vật họ dâng mà ,y tá trại sẽ gia ân cho họ nhiều hay ít – từ một hai ngày nghỉ lao động cho đến nằm khểnh ở trạm xá để theo dõi và điều trị.

Nhà bếp, liên minh thần thánh của trạm xá, bao giờ cũng dành cho Y Tá phần béo bở, ngày thường cũng như ngày ăn “tươi”, trong mốì quan hệ hai bên cùng có lợi. Va mau chóng lên cân trở lại. Trơn lông đỏ da. Rồi béo hú. Va thích kể chuyện những người đàn bà đã qua tay va, như những chiến công, và thề sẽ trả thù con mụ bệnh nhân bị cưỡng hiếp đã làm đơn tố cáo va. Con mụ này là cháu họ xa một quan to.

Người Tù Già không trông cậy ở Y Tá một sự chiếu cố nào. Lão biết có trông cậy cũng vô ích. Ở trong tù mà nói chuyện ân tình là là thậm ngu, là chí ngu. Lão chỉ ân hận một điều – ấy là lão đã không đủ khôn ngoan để nghĩ tới chuyện đút lót Y tá như những người tù khác.

– Ở đời chẳng có gì tự nhiên có, chẳng có gì tự nhiên mất – Y Tá triết lý – Không hiểu điều sơ đẳng ấy thì ô hô, có mà ăn cám.

Người Tù Già không nghĩ tới đút lót có cái lý của lão.

Lão có cái gì để mà đút cơ chứ? Trên răng dưới cát-tút, lão là thế. Lão không thuộc loại người giận đời hoặc đám kẻ sĩ dở hơi đã vào tù rồi vẫn còn cương, không chịu cúi đầu trước bọn cán bộ, đừng nói gì tới Y Tá hay trật tự. Nếu có cái để đút thì lão cũng đút rồi.

Cơ mà Y Tá lại nghĩ khác – ừ thì lão không có tiền thật, lão nghèo rớt mồng tơi thật, đúng thế, nhưng lão có thể xin, có thể vay người này người khác chứ. Vẫn còn những bạn tù tốt sẵn lòng giúp lão lúc hiểm nghèo cơ mà. Vay trước trả sau là chuyện thường tình.

Cho nên Y Tá mới giận. Lão cứ ì thần cụ ra, cứ như thể Y Tá là đồng hương của lão thì va phải có trách nhiệm săn sóc lão. Đừng hòng. Còn khuya nhé!

Y Tá đoán sai – lão hành xử như thế, không tính đến chuyện lão không có tiền, cái chính là vì lão coi thường bệnh. Lão xem trận ốm bất ngờ như một sự bất tiện hơn là một bệnh. Lão tin ở đặc tính sống dai của người tù.

Tù là một sinh vật kỳ lạ – sống không mảy may tiện nghi, thiếu thốn đủ đường, mắc đủ mọi bệnh, thế mà vẫn sống nhăn, như để phô bày một hiện tượng không thể giải thích của nhân loại.

Lão không hề nghĩ đến cái chết khi lão khai ốm. Thậm chí lão còn nghĩa là Y Tá đã nhầm khi cho lão đi nằm trạm xá. Kiết lỵ là cái quái gì cơ chứ? Lão đã chứng kiến một lần tù chết hàng loạt trong một trận dịch kiết lỵ. Kinh lắm. Chôn không kịp. Nhưng dịch là dịch, chứ cái kiết lị bình thường, kiết lỵ hàng ngày, có làm thằng chó nào chết đâu? Lần này lão có đau bụng thật, đau quặn, khó chịu lắm, nhưng cũng chỉ như những lần khác, không hơn. Đến bữa lão vẫn “bụp” đến nơi đến chốn, ngoài suất cơm trại còn ngốn cả mấy chét to rau má mới thấy lưng lửng dạ.

Lão chỉ bắt đầu lo, bắt đầu ân hận đã không đút lót Y Tá khi thấy cái bệnh tưởng chừng vớ vẩn ấy ngày một nặng. Lão bị những cơn đau quặn dữ dộ ở bụng dưới. Mót liên tục. Không nhịn được. Mỗi lần đi cầu sức lực của lão như trôi ra theo đám phân lầy nhầy máu.

Y Tá cũng coi thường bệnh của lão. Khi thấy bệnh nặng thêm thì va cho lão ăn cháo với muối. Muối là lành nhất, không gì lành bằng. Với phương pháp điều trị này, bệnh nhân nào rồi cũng khỏi. Trừ những bệnh nhân đã đến cõi. Khi thấy lão đi nhiều quá, mệt quá, thì y cho uống Berberin. Trong trại Berberin là thần dược. Nó là thuốc bách bệnh.

Nhưng Berberin không ăn thua. Uống vào như không uống.

Người Tù Già thầm trách Y Tá trại nhẫn tâm. Va cho lão nằm trạm xá để làm gì, nếu như va không muốn chữa cho lão khỏi?

Lão không biết rằng Y Tá chẳng tốt mà cũng chẳng xấu với lão. Y Tá chỉ làm việc phải làm mà thôi. Đó là lệnh của Ban Giám thị: “Phải giảm tỷ lệ tử vong xuống!”

Số là từ đầu năm tù ở mấy trại trung ương bỗng lăn ra chết như ruồi trong một trận dịch kiết lỵ. Đến nỗi ông Bộ trưởng Bộ Công an phải ra một chỉ thị đặc biệt để chặn đứng tai hoạ. Không phải bỗng nhiên ông quan tâm tới số phận tù nhân. Sự quan tâm bắt đầu từ việc đứa cháu họ mẹ vợ ông Tổng bí thư đảng, làm công an một trại, đến thăm kể cho bà nghe chuyện tù chết la liệt như thế nào. Anh ta muốn bà nói giúp một tiếng để anh ta được chuyển ngành. Là Phật tử thuần thành, bà lựa lời khuyên ông con rể chớ để sự thể như thế mà luỵ đến đời con đời cháu.

Ông Tổng bí thư, tác giả nhiều cuốn sách về chủ nghĩa duy vật, về tính nhân văn xã hội chủ nghĩa, về tính bách chiến bách tvag của chủ nghĩa Mác-Lênin, cười giễu cái sự tin nhảm của bà lão. Ông không tin Trời, không tin Chúa, không tin Phật. Ông chỉ tin ở sức mạnh của cái Đảng dưới quyền ông. Có nó, ông muốn làm gì cũng được.

Ông Bộ trưởng Công an và ông Cục trưởng Cục quản lý trại giam được ông Tổng bí thư triệu lên.

– Đường lối của Đảng ta là trị bệnh cứu người – Tổng bí thư ân cần căn dặn – Trấn áp bọn có hại cho an ninh xã hội, nhất là phản cách mạng, tất nhiên không thể nương nhẹ. Đó là nội dung của chuyên chính vô sản. Nhưng khi chúng nó đã vào tù thì phải coi chúng nó như người bệnh, phải chăm nom cho chúng nó khỏi bệnh, để chúng nó còn sống mà trở thành công dân lương thiện. Các đồng chí làm ăn thế nào để đến nỗi tù chết nhiều đến thế? Tôi chỉ thị các đồng chí phát động ngay một đợt thi đua trong các trại giam để giảm ngay lập tức số tử vong. Tôi nhắc lại, ta phải nhân đạo, ngay cả với kẻ thù … Các đồng chí phải quán triệt đường lối ấy.

Hai ông cấp dưới trở về, nói với cấp dưới nữa, rồi cấp dưới nữa lại nói với cấp dưới nữa. Khi nhắc lại lời ông, họ ngước mắt lên trời:

– Thánh thật! Ngồi một chỗ mà cái gì Cụ cũng biết, biết hết. Vớ vẩn với Cụ, toi có ngày!

2

Người Tù Già lắng nghe. Từ xa vẳng lại tiếng gõ chí chạt, đều đều. Cái gì thế nhỉ? A, đúng rồi – đó tiếng dao thớt. Hớn hở và hối hả. Rộn rã. Tưng bừng. Tiếng dao thớt này nghe vui lắm, phấn khởi lắm. Chắc cva phải là tiếng băm thịt, chặt xương. Không phải tiếng băm rau, không phải. Nhà bếp cái gì cũng băm, cho nó nhanh. Có lần lão đã lầm – hôm đó nhà bếp băm bí đỏ. Nhưng tiếng băm bí đỏ có khác với băm thịt. Để ý thì thấy. Nó cũng phầm phập, nhưng không khô, không gọn. Uể oải. Chậm chạp.

Chao ôi! Lão muốn vỗ trán mà reo lên vì phát hiện, nhưng tay lão yếu quá rồi, nó chỉ còn có thể vỗ được trong ý nghĩ. Lão buồn xỉu. Lão hiểu rằng lão đã mất hết ý thức về thời gian. Lão không còn phân biệt được hôm qua với hôm kia. Lão chỉ còn biết hôm nay. Lão chỉ còn biết cái hiện tại, cái bây giờ.

Ngày lại ngày trong đời tù giống hệt nhau. Thế là lẫn. Lão nhớ được hai lần trại “ăn tươi” trước đó – ngày Quốc tế Lao động Mồng Một Tháng Năm và Mồng Hai Tháng Chín. Giữa hai ngày lễ ấy chẳng có lễ nào khác.

Giờ là Tết. Tết tây cũng được bữa tươi. Nhưng Tết ta mới lớn, mới “nhoè”.

Lão mơ màng, lão hình dung những miếng thịt kho tàu màu cánh gián đẹp như được đánh véc ni, những bát canh xương bò nhuếnh nhoáng hằng hà sa số những sao nhỏ sao to trên mặt nước béo ngậy.

Thảo nào, từ buổi sáng lão đã mơ màng nghe tiếng quạ kêu. Cái giống đến là tài, chúng ngửi được mùi xác chết cách xa cả chục cây số. Thế mà lúc ấy lão đã nghĩ dại – lão nghĩ lũ quạ đánh hơi thấy mùi lão. Lão nghe có người bảo giống quạ biết ở đâu đó có súc vật chết, hoặc người chết. Chim lợn còn thính hơn. Nó còn đánh hơi được cả người sắp chết. Là bởi người sắp chết cũng bốc mùi. Cái mùi ấy mũi người không thấy được.

Lão nhếch mép. Không ai có thể bảo đó là lão cười, bởi cái nhếch mép của lão không thành. Lão đang sung sướng trong lòng. Không phải lũ quạ đánh hơi thấy mùi lão. Chúng nó đánh hơi thấy con lợn hay con bò bị làm thịt dưới kia, chỗ nhà bếp. Lão hình dung bữa tươi sắp được hưởng. Miếng mỡ căng phồng khi cắn vào mới ngon làm sao! Là lão nhớ đến miếng mỡ ở ngoài kia kia, ở cái cuộc sống bên kia bốn bức tường nhà tù kia, chứ ở đây có bao giờ được một miếng như thế. Nhưng mỡ thì ở đâu cũng vẫn là mỡ. Nước mỡ ứa ra sẽ làm cho miệng lão hết khô, lưỡi lão hết sưng tấy. Nó giống như nước mưa nhỏ xuống đất cằn.

Thịt cũng thế. Nó làm cho người ốm khỏe ra, làm cho người già trẻ lại. Chỉ mới nghĩ tới nó lão đã tỉnh hẳn, đã quên bẵng nhưng ý nghĩ đen tối về cái chết.

Lão nhớ lại bữa “ăn tươi” cuối cùng xảy ra hôm nào.

Thông thường một tháng tù được “ăn tươi” một lần. Nhưng đã ba tháng rồi chẳng được một bữa tươi nào sất. Ban giám thị cắt ăn tươi toàn trại vì một vụ trốn tù táo bạo – năm tên tù xổng cùng một lúc vào ban đêm. Ban giám thị cho rằng nhiều người biết sự chuẩn bị của vụ trốn, nhưng không chịu tố cáo.

Lão gượng quay đầu nhìn sang giường bên, nơi những con bạc đang mải mê sát phạt. Lão đã thấy chúng mà cả với nhau về giá cả bữa tươi lớn, đặc biệt, sắp tới.

– Thịt!

Đôi mắt mờ đục của lão sáng lên. Chúng thậm chí còn động đậy trong hai hốc sâu của cái sau này gọi là đầu lâu.

Cái chết giật mình. Nó đang say sưa nuốt dần con mồi, nó đã nuốt tới đầu gối, tới hông. Con mồi đã chịu tho, ngoan ngoãn và yên phận. Vậy mà đùng một cái, cái con mồi mềm oặt, đã hết sức sống, bỗng giãy giụa, đẩy nó ra bằng sức mạnh không ngờ. Cái chết ngừng nuốt, nhẹ nhàng tạm nhả miếng mồi.

Y Tá vừa trang bài vừa bực bội vừa nhìn sang giường Người Tù Già.

– Mẹ kiếp, anh giề chưa chết hử? – va hấm hứ – Đã bảo, đừng có rên! Sốt cả ruột!

Cái đầu của Người Tù Già lắc lư khe khẽ.

A, lão còn lắc đầu được kìa, Y Tá nghĩ. Lão cãi đấy. Rằng lão vẫn còn sống, lão chưa chết. Chao ôi, cái giống tù sống dai khiếp! Một bệnh nhân như thế ở ngoài đời thì đã xong từ lâu. Từ hôm kia. Hoặc tới hôm qua là cùng. Mạch gần như không còn, hơi thở mong manh. Từ giường bệnh của lão bốc lên mùi tanh tưởi. Hồi còn ở bệnh viện – va lúc đó là bác sĩ chứ không phải là Y Tá như trong cái trại khốn kiếp này – va không bao giờ đứng lâu trong phòng bệnh nhân. Va lướt qua các giường bệnh một lượt, hỏi han qua loa, rồi đi thẳng. Cuộc chạy việt dã qua các giường bệnh kết thúc bằng việc rửa ráy không với mục đích sát trùng mà chỉ cốt xua tan uế khí của phòng bệnh dính vào da thịt. Thế mà ở đây, va phải chịu đựng cái cực hình đó. Phòng dành cho Y Tá và phòng bệnh nhân thông với nhau, mùi hôi thối và tanh tưởi của phòng bệnh nhân nồng nặc. Tối đến, người ta khóa tuốt tuột cả va lẫn con bệnh của va trong trạm xá. Ít nhất thì cánh cửa liếp cũng ngăn được một phần cái mùi kinh tởm ấy.

Va từng biết ơn Người Tù Già đã giúp va khi va mới tới trại. Lúc đó va khốn khổ lắm. Lúc đó va nghĩ rồi đây va sẽ phải trả ơn lão. Thế rồi va quên bẵng. Trí nhớ của va không giữ lại ý nghĩ xa xỉ đó. Va đã học được cách sống theo luật rừng, không phải ở đây, mà từ ngoài kia. Rừng thuộc về kẻ mạnh. Kẻ nào không học được cách sống ấy, kẻ đó tiêu. Va cho Người Tù Già được nằm trạm xá không phải như một cử chỉ trả ơn. Va thấy mặt lão đã bạc ra vì bệnh. Theo lệ thường người sắp chết phải được đi qua trạm xá để đến nhà xác.

Người Tù Già lại rên. Y Tá rời mắt khỏi mấy quân bài, nguýt lão:

– Gì?

– N..ư..ơ..ớ..c! – Người Tù Già cố gắng mấp máy cặp môi nứt nẻ.

– Để người ta xong ván bài đã nào. Đang đen bỏ mẹ đây này – Y Tá quát – Đừng có ám quẻ!

– N..ư..ơ..ớ..c!

– Mẹ kiếp, “Anh giề” uống đéo gì mà lắm thế? Này, đây bảo cho mà biết: càng uống nhiều thì càng chóng chết đấy!

Nghe đến tiếng “chết” mặt Người Tù Già co rúm. Đó là nói phóng đại lên, chứ mặt lão không còn có thể co rúm thêm được nữa. Mặt lão méo xệch, đôi mắt láo liên, thất thần. Cái tiếng “chết” thốt ra từ miệng bác sĩ là bản án tử hình đọc cho bệnh nhân.

– Sợ hử? – Y Tá liếc xéo gương mặt méo xệch của lão, vừa lắc lư toàn thân vừa xoi bài – Đừng có sợ. Thằng đéo nào rồi chẳng chết. “Anh giề” chết, tôi chết, nó chết, các ông chết, chúng nó cũng chết. Chết sạch. Kẻ trước người sau, vậy thôi. Đéo có đứa nào thoát.

Y Tá ngửa mặt lên cái trần nhà xạm đen, dấu vết của những bữa sột sệt, cười hô hố.

3

Khi nhà bếp gánh cơm đến trạm xá, thì đám bài lá giải tán.

Sĩ Quan nhún chân nhảy xuống đất, khệnh khạng bước ra khoảng trống trong phòng khám. Va chống nạnh nhìn quanh, hai cánh mũi phập phồng, ngực áo phanh ra phô hình con rắn quấn người đàn bà cởi truồng, và ở bên trên là một trái tim bị tên xuyên thủng. Người đàn bà giãy giụa trong vòng xiết của con rắn khi va cử động. .

Khẩu phần ăn của Y tá ở nhà bếp, quân số của va ở đó. Va bưng bát được lĩnh riêng từ nhà bếp lên, lướt qua đám bệnh nhân đang đứng vòng trong vòng ngoài quanh mấy xoong thức ăn sắp được chia, khẽ dặn Sĩ Quan:

– Chia xong, vào ăn với tao!

– Có cay chứ?

– Nhoè!

Đấy là hai đứa nói về rượu. Y Tá đã loay hoay pha chế chất cay, vừa pha vừa huýt sáo. Đó là một hỗn hợp gồm cồn, mật mía, những viên polyvitamine vàng ươm. Từ lâu, Y Tá sát trùng ngoài da cho bệnh nhân bằng nước sôi để nguội, để dành cồn cho những cuộc nhậu nhẹt. Hội của va là vài Sĩ Quan cổ cánh, Trật tự và Thông tin.

Từ giường của Người Tù Già phát ra một tiếng rên to. Sĩ Quan quay lại, bắt gặp cái nhìn lạnh lẽo của Người Tù Già. Ấy là va có cảm giác như vậy chứ chưa chắc đã là sự thật. Va thấy đôi mắt kẻ hấp hối đang hướng về phía đám đông ồn ào chia thịt bỗng quay về phía va.

Sĩ Quan giật mình trước cái nhìn ấy. Chuyện va bao giờ cũng chiếm phần hơn trong những bữa tươi là chuyện đương nhiên. Những người tù buộc phải chia cho va phần hơn – nhiều hơn, ngon hơn. Va đã gặp những cái nhìn không thiện cảm, nhưng chưa bao giờ va gặp một cái nhìn gườm gườm lạnh lẽo như thế.

Va tiến về phía Người Tù Già.

– “Anh giề” không bằng lòng hử? – va hất hàm hỏi, nhưng không sẵng.

Người Tù Già không trả lời. Từ đôi môi xám xịt của lão phát ra một tiếng hừ, giống một tiếng rên. Lão không nói được nữa rồi.

Sĩ Quan nhẹ nhàng hỏi lại lần nữa, một thái độ không thường có ở va:

– Vậy “anh giề” muốn gì nào? Cân nhá? Hay quay mặt đặt tên?

Người Tù Già vẫn không nói, đôi mắt gắn chặt vào mặt Sĩ Quan. Cái nhìn ấy làm va bối rối. Đó là điều chưa từng xảy ra với va. Vào tù, qua nhiều trại, va không sợ một ai. Va tự tin vì va có những quả đấm thành thục. Ngày trước, va là võ sĩ quyền Anh hạng ruồi, từng lên vũ đài và giật giải vô địch đôi ba lần. Rơi xuống đáy vực xã hội va học thêm võ giang hồ. Trong môn võ không môn phái ấy cái đầu tiên cần có là máu liều. Máu ấy va không thiếu. Nhưng hôm nay va cảm thấy một nỗi sợ hãi mơ hồ. Y Tá bảo lão già chẳng còn mấy nả. Lão già kia, với cái nhìn lạnh lẽo ấy, dám trả thù lắm, dám báo oán lắm, một khi lão thành ma. Đánh nhau với người thì được, đánh nhau với ma làm sao?!

Sĩ Quan đã định bụng nhận phần thịt của mình xong sẽ vào phòng Y Tá với các sĩ quan khác đang đợi va. Nhưng va thấy bữa tươi này cần được chia công bằng. Nếu va có mặt, không đứa nào dám hó hé giở trò bịp bợm. Người Tù Già sẽ được hưởng phần thịt xứng đáng.

– Quay mặt đặt tên nhá?

Va hỏi lại lần nữa, giọng hạ hẳn xuống, dịu dàng. Cái đầu lưa thưa tóc của người hấp hối khẽ cử động. Va hiểu là Người Tù Già gật đầu.

Theo hiệu lệnh câm lặng của va, người tù gày như một bộ xương biết đi liếm đầu bút chì rồi ngồi xổm xuống viết tên những người tù trong trạm xá vào mặt sau vỏ bao thuốc lá đặt trên đầu gối. Người đó viết xong thì một người tù khác cầm tờ giấy lên, quay mặt đi xướng tên người được lĩnh phần, trong khi đích thân Sĩ Quan cầm một cái thìa gõ không theo một thứ tự nào vào từng bát đã được chia. Tên ai được xướng lên trúng vào bát nào thì người có tên nhận bát đó.

Sĩ Quan tự tay bưng bát thịt đến bên giường Người Tù Già, đặt xuống bên cạnh ông

– “Anh giề” ơi, phần Tết của ông anh đây – va nói bằng giọng ngọt ngào và vụng về – tôi bỏ thêm vào cho “anh giề”một miếng phần của tôi nữa đấy, đấy miếng này này. Thế nào, “anh giề” bằng lòng chứ? Phần của “anh giề” không lẫn miếng sụn miếng xương nào đâu, “anh giề” ăn cho khỏe!

Đầu của Người Tù Già đụng đậy, Sĩ Quan hiểu là lão gật, lão hài lòng.

Rồi hạ giọng, va ghé sát vào tai lão thì thầm:

– Nói dại, “anh giề” có đi ngay hôm nay hay ngày mai thì chớ quên phù hộ cho thằng này nhé! Chớ quên rằng thằng này đã tử tế với ông anh.

Va bưng bát thịt của va quay vào phòng trong, ở đó Y Tá đang trịnh trọng rót thứ nước thánh do va chế tạo vào mấy cái chén nhỏ trước những cặp mắt hau háu.

4

Mấy anh tù tự giác đi làm về rẽ qua trạm xá xin thuốc đỏ vừa hút thuốc lá cuốn vừa lắng nghe Y Tá hào hứng kể về những phút cuối cùng của ông lão:

– Cái bát để bên cạnh, ngay chỗ này này, các đằng ấy ạ. “Anh giề” nhà mình thấy cái bát là cố gượng quay đầu lại. Bữa tươi “dầm ”, thịt rang mặn thơm đéo chịu được. Nhưng đến lúc ấy thì “anh giề” hết ngồi lên được rồi. Chết ấy à, chúng mày phải biết, bao giờ cũng phải từ chân lên đầu, ngược lại là không có. Tớ nghe tiếng “anh giề” ú ớ. Chắc lão muốn gọi đứa nào đỡ lão ngồi lên, nhưng lưỡi lão cứng rồi…

Người Tù Già nằm trên giường. Nằm im lặng. Mặt lão xám lại trong vẻ bất cần, trong một vẻ trịnh trọng không nguyên cớ. Trên người lão là tấm chăn rách của trại, phủ ngay ngắn, tấm chăn sợi Nam Định không biết đã được dùng cho bao nhiêu kiếp tù.

– Lão ú ớ một hồi, rồi im bặt, các đằng ấy ạ. Mẹ kiếp, tớ lại ngỡ “anh giề” rên. Mấy hôm nay lão rên suốt ấy mà. Nhưng tớ mặc. Cứ thấy rên mà chạy lại, có mà chạy cả đêm. Ấy vậy, tớ mặc cho lão rên, định bụng ăn xong sẽ cho lão một ống dầu long não. Đã đến nước ấy trời cũng không cứu nổi, dầu long não cứu thế đéo nào được. Nhưng lệ trong nghề tớ là thế, chúng mày ạ – gì thì gì cũng phải cho người hấp hối một mũi tiêm làm phúc. Người không biết thì bảo nó là thuốc hồi dương. Long não chỉ làm cho cái xác sắp chết ấm lên một tẹo thôi. Ra cái vẻ còn nước còn tát ấy mà, chứ ăn thua đếch gì…

– Thế là “anh giề” đi luôn?

Y tá khịt mũi ra chiều khinh bỉ:

– Đi là thế đéo nào? Giống tù là sống dai nhất hạng.

Tỉnh Trưởng lệt xệt đến bên giường người chết. Lão gày tong teo, già nhất trong những người tù già trong toàn trại, mặt nhăn nheo như một quả bưởi héo, nổi tiếng có học nhất trong cộng đồng tù, nhưng ít lời đến nỗi tưởng như câm. Không biết vì lý do gì, nhưng lão cũng được Ban giám thị cho nằm trạm xá từ đời y tá trước. Cái sự được ở trạm xá lâu như thế làm cho lão trở thành có giá, biết đâu tổ con chuồn chuồn, có khi lão có họ hàng hang hốc với ông kễnh nào trong các quan ở Cục hay ở Bộ chửa biết chừng.

Y Tá hằn học nhìn Tỉnh Trưởng. Va coi Tỉnh Trưởng là kẻ làm mất đi một suất trạm xá, suất ấy va có thể “chác” với những người tù khác, nhưng gã e dè không dám xử tệ với Tỉnh Trưởng. Tỉnh Trưởng tlà bạn thiết của Người Tù Già từ những năm cả hai chưa phải nằm trạm xá. Người ta thường thấy bắt gặp họ im lặng ngồi bên nhau sưởi nắng.

Đứng bên người chết, Tỉnh Trưởng nghiêng đầu ngắm nghía bạn mình như thể người ngắm tranh.

– Này, tẩn ngẩn tần ngần làm gì ở đây đấy? – Y Tá nói với Tỉnh Trưởng bằng giọng nhẹ nhàng – Anh giề ạ, rồi anh cũng thế thôi. Chẳng lâu nữa đâu.

Tỉnh Trưởng không nghe thấy câu nói của Y Tá, hoặc làm bộ không nghe thấy. Lão tỉ mẩn xếp lại cái chăn phủ xác chết cho ngay ngắn.

– Tớ tiêm cho “anh giề”một phát long não là “anh giề” hồi lại liền – Y Tá quay lại với câu chuyện – Cứ như thuốc tiên í. Vừa hồi lại là “anh giề” đã cuống lên, ú ớ một chập, mà ú ớ rõ to nhá! Tớ đồ rằng “anh giề” muốn lạy van tớ cứu lão…

– Có khi ông ấy muốn trối trăng điều gì… – Tỉnh Trưởng nói khẽ, như nói một mình.

– Anh bảo sao? Trối trăng à? “Anh giề” ấy thì có cái đéo gì mà trối với trăng chứ. Đừng nói leo! Ra ngoài kia! – Sĩ Quan quát – Tôi bảo anh ra ngoài kia. Tắp lự.

Tỉnh Trưởng lẳng lặng trôi ra ngoài trạm xá như một cái bóng. Lão ngồi bệt xuống đất bên bức vách, úp mặt vào hai bàn tay. Đôi vai gày của lão rung lên từng chập.

– Mặc lão – Y Tá can Sĩ Quan, kể tiếp – Ăn xong, tớ mới ra xem “anh giề” của tớ thế nào rồi, thì cha mẹ ơi, lão đã chống tay trái nhỏm dậy được, tay phải cầm đôi đũa…

– Thánh thật! – một người tù bình luận – Lão nằm liệt từ hôm qua rồi mà.

– Thế mà “anh giề” lại tỉnh, lại nhấc được tay, mới thánh chứ. Từ trước đến nay, các cậu biết, tớ mà đã phán thằng nào mà tớ chịu không chữa được nữa, thì y như rằng thằng ấy ngỏm củ tỏi. Đã tưởng lần này mình sai bét.

– “Anh giề” ghê thật. Chết đi sống lại mấy lần rồi đấy.

– Đéo phải. Tớ không sai. Tớ vẫn đúng. Tớ thấy “anh giề” giơ đôi đũa về phía bát thịt, bàn tay “anh giề” run run, cuối cùng rồi đôi đũa cũng chạm được vào thành bát nghe đánh cóc một cái. Nhưng chỉ đến đấy thôi. Đến lúc “anh giề” run run gắp được một miếng thì hức, “anh giề” nấc lên một tiếng, cả người lão vagiật lên bẳn bặt ….

– Xong phim?

– Xong! – Y tá gật, xác nhận.

– Không thêm một tiếng nào?

– Không. “Anh giề” ngã vật ra, đầu ngoẹo sang một bên. – Y Tá nói – Đéo mẹ, tớ mà đã phán là trúng phóc. Có điều “anh giề” sống dai khủng khiếp. Người khác thì đã ngỏm củ tỏi từ lâu…

– Gắp miếng thịt lên mà không ăn được, cái số con người ta sao mà khốn nạn! – một người chép miệng, lắc đầu – Đúng là nhất ẩm nhất trác giai do tiền định.

– Có cái gì khốn nạn hơn là số phận con người?!!

Người ngồi bên đế thêm và đưa cái điếu cày lên.

– Thế là đéo cần lệnh tha nữa.

Tiếng rít thuốc vang giòn giã.

5

Người Tù Già được chôn chiều hôm đó.

Không người viếng, không tiếng khóc, không vòng hoa. Đám ma tù là thế.

Khi buổi điểm danh lần thứ hai trong ngày kết thúc, tù đã được lùa vào trong các phòng giam, cửa đã được khóa lại, thì mọi thủ tục cho sự ra đi vĩnh viễn của Người Tù Già bắt đầu.

Các bậc chức việc từ khu nhà Ban giám thị ở ngoài trại lục tục mang hồ sơ đến, lấy dấu tay xác chết, đối chiếu mặt xác chết với ảnh trong hồ sơ, lần lượt ký tên vào biên bản. Cái chết như thế mới được coi là hoàn tất.

Lệnh mai táng được phát.

Tổ mai táng gồm bốn người lẻo khoẻo hì hục đặt Người Tù Già nằm vào chiếc áo quan chật chội do đội mộc đóng bằng sáu tấm ván tiết kiệm, mỏng và cong vênh, rồi đóng nắp lại. Tiếng đinh đóng lên ván thiên kêu chan chát. Cái tiếng chan chát ấy chui vào trong các phòng làm cho những người tù lặng đi đúng một phút, như thể họ mặc niệm bạn tù vừa qua đời. Sau đúng phút ấy, phòng nào phòng nấy lại ồn ào như tổ ong.

Luồn hai sợi chão vào đáy, bốn người nọ gánh Người Tù Già ra nghĩa địa.

Theo mệnh lệnh của Sĩ Quan, được phát ra với vẻ mặt nghiêm trang, đội mai táng đặt cái bát sắt tráng men cóc gặm đựng suất thịt của Người Tù Già vào quan tài, bên cạnh ông lão. Bình thường, không ai để phí của giời như thế. Bát thịt – tức là cả cái bát, cả thịt bên trong – sẽ thuộc về một người nào đó, là bạn thân của kẻ xấu số, hoặc một tên “vét đĩa”. Hàng ngũ sĩ quan và “đầu gấu” không bao giờ đụng đến đồ của người chết.

Mệnh lệnh của Sĩ Quan làm mọi người ngạc nhiên. Chưa bao giờ Sĩ Quan ra một lệnh tương tự. Không ai biết rằng va tin Người Tù Già chết vào chính Ngọ sẽ thiêng lắm. Nếu linh hồn Người Tù Già biết va đối tốt với ông ta, va sẽ được lão đền đáp.

Trong trại không có đội mai táng chuyên nghiệp.

Không kể những trận dịch, không phải ngày nào cũng có tù chết, thành thử gọi là đội mai táng cho bảnh, chứ khi nào có người chết thì cán bộ mới gọi người đi chôn.

Người được phân công chôn người chết nhiều lần nghiễm nhiên họp thành đội.

Mỗi lần chôn tù chết, đội được bồi dưỡng một yến sắn, cho dù công việc không vất vả. Đó là mấy người được Ban giám thị đặc biệt tín nhiệm. Tín nhiệm ở đây có nghĩa là người làm việc ấy không lợi dụng cơ hội để trốn trại. Đối với những người được tín nhiệm thì lính áp giải phó mặc họ làm, làm xong tự về. Đi khỏi trại một quãng lính áp giải phẩy tay cho bốn người khiêng áo quan đi, còn tự mình rẽ vào xóm dân ở gần đấy để tán gái, hoặc để mua bán đổi chác.

Khi đám ma ra khỏi cổng trại thì ánh mặt trời đọng trong thung lũng bắt đầu nhạt. Mùa đông, trong lòng chảo lọt thỏm giữa vòng vây của những ngọn núi cao núi thấp ban đêm lạnh thấu xương, nhưng ban ngày thì oi bức. Thứ khí hậu khắc nghiệt này làm cho người ta bao giờ cũng ở trong tâm trạng bực dọc. Những người tù nghe thấy những người coi tù văng tục, không phải một lần:

– Mẹ kiếp, ở cái nơi này mình với thằng tù có khác chó gì nhau!

Tu Sĩ đi đòn trước thở hồng hộc. Lúc qua cổng trại, va lao ào ào, kéo cả bốn người phải lao theo. Va đặc biệt dị ứng với cái cổng trại. Cứ mỗi khi đi qua vòm cổng là va đi thật nhanh, dường như cái cổng đè nặng lên va, rằng nó mới là biểu tượng của sự giam giữ đích thực, mới là nhà tù, chứ không phải phòng giam nơi va ở, không phải khu trại có tường xây bao bọc và dây thép gai bịt bùng mắc trên.

– Này Cha, từ từ chứ nào. Đéo gì mà như ma đuổi thế?

Tên Giết Người càu nhàu. Va bao giờ cũng giữ được dáng nhàn tản. Nhàn tản làm, Nhàn tản ăn. Tưởng chừng khi va giết người đàn bà ở cái ga hẻo lánh để cướp có một cái tay nải không biết trong có gì, va cũng ung dung như thế – rút búa ra, nhằm cẩn thận, rồi bổ một nhát duy nhất. Người nghe hình dung ra cảnh giết người đúng như vậy khi va bình thản kể lại trường hợp phạm tội, vừa kể vừa nhấm nháp từng ngụm trà nóng bỏng.

Tu Sĩ bao giờ cũng nghe lời Tên Giết Người, không dám cãi. Và tránh xa va lúc nào có thể tránh xa. Tu Sĩ sợ va, có vẻ là như thế. Hoặc ít nhất thì cũng rất nể va, như Nhà Báo kết luận. Tu Sĩ bị bắt trong một lần giảng đạo “chui”, trong một bản miền núi. Tội giảng đạo “chui” bị “quả tớm ” đại loại cũng như tội buôn lậu bị bắt với đầy đủ tang chứng, không thể tha. Khác nhau ở chỗ, tên buôn lậu được đưa ra toà xử, có án, còn người giảng đạo chui thì bị “boọp”, tức là “tập trung cải tạo”, thứ tù không biết ngày về.

Nhà Báo, cùng đòn khiêng với Tu Sĩ, thở dài. Trong lòng, va không ưa Tu Sĩ, không ưa cái gọi là đức “khiêm nhường chịu luỵ” của Tu Sĩ. Va là kẻ vô thần. Trong đầu va chỉ có chủ nghĩa duy vật, kết quả của một nền giáo dục duy nhất va được hưởng. Va coi khinh cái cách lý giải mọi sự đời kiểu “Một sợi tóc rơi xuống cũng không ngoài ý Chúa” của tín đồ Thiên Chúa giáo.

Vào tù Nhà Báo mới có dịp thấu hiểu cái xã hội trong đó va phải sống sở dĩ cứ nhơn nhơn tồn tại chính là nhờ thứ “khiêm nhường chịu luỵ” ấy, nơi thay vào Chúa là Đảng và Nhà nước. Nhưng cái lý thuyết lởm khởm nọ một khi đã chui sâu vào đầu va thì cứ ở lì đấy để bắt va suy nghĩ theo cách nó biện giải sự đời. Va không thể hiểu được vì sao con người rất mực hiền lành như Tu Sĩ lại có thể rơi vào sự khốn khó này? Ờ thì chính quyền vô thần không ưa bất cứ tôn giáo nào, nhưng ngoài mặt nó tỏ ra không ngăn cấm tự do tín ngưỡng. Nó chỉ tìm đủ cách không cho các tôn giáo tranh giành địa vị kẻ cai trị về mặt tinh thần với nó mà thôi. Va khác, va có tội thật, vì va đã dám vượt rào phát biểu những ý nghĩ phạm thượng với những kẻ luôn khuyến khích va sử dụng quyền dân chủ để xây dựng đất nước. Chính những kẻ đó đưa va đi tù.

Tu Sĩ ít nói, va giấu giếm làm dấu thánh, giấu giếm đọc kinh vào ban đêm, khi mọi người ngủ say. Những người tù Thiên Chúa giáo kính trọng va. Một lời của Tu Sĩ nói ra được họ coi như một lời của bề trên mà họ phải nghe theo. Qua lời kể của họ, Nhà Báo biết rằng chỉ còn thiếu một chức thánh nữa là Tu Sĩ thành linh mục. Có lẽ vì thế mà những người ngoại giáo trêu chọc gọi Tu Sĩ bằng Cha. Tu Sĩ cam chịu mọi sự trêu chọc và trên gương mặt bất động của va tỏa ra một ánh hạnh phúc, hoặc chí ít cũng là niềm vui từ sự cam chịu đó.

– Này Cha, Cha có nghiệm thấy người chết nặng hơn người sống không? – Nhà Báo bâng quơ hỏi Tu Sĩ – Nói ví thử như lão này, gày như cá mắm, thế mà bây giờ thì nặng chình chịch.

– Cái đó không có lý – Tu Sĩ trả lời – Trọng lượng con người ta lúc sống thế nào thì lúc chết thế vậy.

– Thế thì trong trường hợp này phải có hai thứ trọng lượng, thưa Cha: trọng lượng tuyệt đối và trọng lượng cảm tính. Chính cái chết đã sinh ra cảm giác người chết nặng hơn lúc còn sống

Nhà Báo nói và ngẩng đầu nhìn bầu trời hoàng hôn sơn cước, thứ hoàng hôn cô tịch màu lam ngả sang màu tím. Sương mù trong thung lũng không bao giờ đọng lại dưới lòng chảo lúc hoàng hôn. Chỉ lúc ấy không khí mới có màu hổ phách trong vắt. Mải nhìn trời, va vấp phải hòn đá trồi lên trên mặt đường làm cho cái quan tài nhao đi cùng với cái vấp của va, và từ trong áo quan vẳng ra một tiếng nấc, hoặc một tiếng ợ.

– Cha mẹ ơi, ông ấy còn sống!

Tên Cắp Vặt, trẻ tuổi nhất trong đội mai táng quăng vội cây đòn, nhảy phắt sang một bên. Mặt va trắng bệch. Cái quan tài giộng xuống đường đánh cái kịch, đổ nghiêng. Nghe rõ tiếng xác chết va lục cục vào thành áo quan.

6

Bốn người tù bắt đầu đào huyệt. Trên nghĩa địa tù không có lấy một ngọn gió. Tu Sĩ bắt mệt nhanh hơn ba người còn lại. Mồ hôi chảy thành dòng trên mặt va, mặc dầu khi nắng vừa tắt thì cái lạnh bắt đầu ào ạt dâng lên.

Nhà Báo trầm tư xúc từng xẻng một.

– Cha không cần phải vội – Nhà Báo nhìn Tu Sĩ đang chăm chú đào huyệt – Nghĩa địa không phải bến ô tô. Đã đến đây rồi không ai lỡ chuyến hết.

Tu Sĩ đưa cánh tay quệt mồ hôi trên trán. Trong tầm mắt của va là một vùng nhấp nhô mả lớn mả bé, mả cũ mả mới. Khi Tu Sĩ được đưa tới đây, ba năm trước, nghĩa địa tù chỉ là một mảnh vườn đầy cỏ gà, cỏ xước và những bụi chó đẻ.

– Làm nhanh rồi còn về – Tu Sĩ nói.

– Tôi không vội, thưa Cha – Nhà Báo nói – Tôi không có nhà để mà về. Ở đây, giữa thiên nhiên, tôi thanh thản. Tôi muốn kéo dài thời gian thanh thản này.

– Thôi đi mày – Tên Giết Người gắt – đừng tán dóc. Ta sắp được một bữa sắn nhoè, thanh thản là cái đéo gì.

Nhà Báo nhổ bọt vào lòng bàn tay để cầm cán xẻng cho đỡ rát, lẳng lặng xục lưỡi xẻng vào đất bán sơn địa lổn nhổn sỏi vụn và đá son.

– Mày không thấy lão Tỉnh Trưởng à? Mặt lão bệch ra rồi. Chẳng còn được mấy nả đâu. Lão sẽ đi trước. Sau mới đến lượt thằng Ngựa Điên.

Tên Giết Người thích gọi Nhà Báo bằng “mày” để nhấn mạnh tính chất bình đẳng giữa va và Nhà Báo, thứ bình đẳng chỉ nhờ nhà tù mà có. Ở ngoài đời va chưa từng gặp một nhà báo nào, đừng nói tới chuyện được ngồi ăn cùng, được vỗ vai, được văng tục, được mày tao chi tớ thoải mái với một thằng trí thức như thế.

Nhà Báo trong thâm tâm không thừa nhận sự bình đẳng ấy, va cảm thấy khó chịu, va còn buồn nữa, gọi là tủi thân thì đúng hơn, nhưng va không phản đối. Trong tù cần phải biết chấp nhận mọi điều bất bình thường, phải biết coi tất tật mọi sự là lẽ đương nhiên

Nhà Báo lắc đầu:

– Tỉnh Trưởng còn trụ được lâu.

– Cuộc nào, tao bảo nội trong tuần này là va xong phim – Tên Giết Người hất hàm – Hai suất cơm, chịu không?

– Đừng cuộc – Tu Sĩ khuyên Nhà Báo – Ông ấy nói đúng đấy.

– Tại sao?

– Tôi đã nhìn thấy bóng Thần Chết trên mặt Tỉnh Trưởng.

– Thế còn Ngựa Điên? Cha bảo sao? – Nhà Báo hỏi lại.

– Anh ấy thì đúng là còn lâu.

Tên Giết Người cười lớn. Va không biết kết luận thành lời những ý nghĩ, nhất là những cảm xúc của va.

Ngựa Điên là kẻ mà Tên Giết Người ghét cay ghét đắng. Sự có mặt của Ngựa Điên làm lu mờ danh tiếng của va. Cái tên Ngựa Điên sở dĩ có là do những cái răng cửa dài hơn bình thường và cặp mắt long sòng sọc của người tù mang án chung thân vì tội giết người. Những người tù kính trọng Ngựa Điên vì va giết người chỉ để trả thù cho người cha bị bức tử trong cải cách ruộng đất. Viênquan toà xử cha va về sau giàu sụ, Ngựa Điên hạ sát kẻ thù xong thì chỉ cắt thủ cấp mang về, tịnh không động đến chút gì gọi là của cải. Đặt thủ cấp kẻ thù lên ban thờ cha xong, va xách mã tấu lên đồn Công an đầu thú.

Dọc đường, Tên Cắp Vặt im lặng, không tham gia chuyện người lớn. Bé người, nhưng va có thâm niên tù cao nhất so với các bạn trong đội mai táng. Va vào tù từ lúc còn bị cưỡng bức học trường Phổ thông Công nông nghiệp, thực ra là một hình thức giam giữ thiếu niên hư hỏng. Va bị đưa lên trại sau khi ngủ với một cô giáo ở trường làm cho cô ta có mang.

Cái huyệt được đào xong.

Nhà Báo ngồi lên cán xẻng, bên cạnh quan tài Người Tù Già, nhàn nhã đánh diêm châm điếu thuốc vê. Mấy người kia cũng hút, kể cả Tu Sĩ. Bốn làn khói khét lẹt bay lên trên nền núi xa đã sẫm hơn trên nền trời về tối. Hoàng hôn ở đây bắt đầu sớm nhưng trôi đi rất chậm. Trời mỗi lúc mỗi lạnh.

Tên Giết Người bấm Tên Cắp Vặt, hai đứa lảng ra xa. Ở đó chúng thì thào với nhau, thỉnh thoảng lại liếc về phía Tu Sĩ và Nhà Báo.

Nhà Báo, bằng con mắt nghề nghiệp, đoán chúng đang bàn chuyện gì đen tối. Va theo dõi hai đứa theo thói quen, vì tò mò, chứ mọi âm mưu, mọi thủ đoạn của những người bạn tù đủ mọi loại, đối với va chẳng có nghĩa lý gì. Va đứng trên, đứng xa mọi sự, dửng dưng với mọi sự. Với bộ lạc tù, va được coi là vô hại. Một người dửng dưng với sự đời không bao giờ làm ăng-ten .

Tên Giết Người quay lại bên huyệt, lạnh lùng nói :

– Thưa Cha, xin Cha vui lòng đi ra đàng kia… Một lát thôi. Và quay mặt đi cho con nhờ.

Tu Sĩ không nói không rằng đi ra xa, ở đó va đứng yên như tượng, nhìn lên trời.

– Còn mày nữa, Nhà Báo, mày cũng ra đàng kia. Và quay mặt đi.

– Các anh định làm gì vậy? – Tu Sĩ quay mặt lại, hỏi.

– Cái đó không liên quan đến Cha. Đi xa nữa đi.

Tu Sĩ lẳng lặng bước xa thêm. Va ngắm nghía những đám mây bay chậm trên đỉnh núi cao nhất, lấp lánh màu sắc xà cừ. Những màu sắc thay đổi rất nhanh. Tu Sĩ bất giác nhớ đến những hoàng hôn biển ở quê mình và thở dài. Cuộc đời bên ngoài tù ngục dù sao vẫn đẹp, va sẵn sàng chịu đựng mọi khốn khó Chúa trao.

Nhà Báo cười gượng gạo :

– Tao thì xem được chứ? Vì tò mò thôi.

– Tùy! Nếu mày muốn – Tên Giết Người buông xõng và cầm lấy cái xẻng.

Đôi vai Tu Sĩ giật lên khi nghe tiếng két kéo dài của tấm ván thiên được cậy lên.

– Mày tin là ở trong áo bông? – Tên Giết Người hỏi.

– Người ta bảo thế – Tên Cắp Vặt đáp khẽ.

Tên Giết Người ra lệnh:

– Được. Bây giờ dựng nó dậy.

Tên Cắp Vặt lùi lại, mặt tái mét.

– Em sợ!

– Đồ hèn! – Tên Giết Người cười và nhổ bọt – Quá hèn.

Tên Cắp Vặt xua tay:

– Chớ! Chớ nhổ bọt.

– Thì sao?

– Kiêng đấy.

Tên Giết Người ném cho Tên Cắp Vặt một cái lườm bỏng rẫy rồi xoạc cẳng đứng trên đầu áo quan nhìn xuống.

Va ngạc nhiên thấy sắc mặt Người Tù Già không xám ngoét như lúc nhập quan, mà bỗng có chút hồng. Cái đó có thể do ánh sáng của mặt trời đã lặn phản chiếu từ đám mây trên trời cao mà ra.

Tên Giết Người nhớ đến chuyện một người tù đã đem chôn mà sống lại, bật ván thiên vùng ra khỏi huyệt để lần về trại. Va tát vào má Người Tù Già mấy cái xem lão có phản ứng gì không, nhưng lão nằm yên.

– Đừng, ông – Tên Cắp Vặt nói, giọng van vỉ – Đừng làm thế.

Đáp lại, Tên Giết Người cười khẩy. Va nắm lấy hai vai xác chết, giật mạnh. Xác chết bật dậy, đứng dựa vào ngực Tên Giết Người. Va, một tay đỡ xác chết cho nó khỏi đổ, tay kia lục lọi quần áo người chết.

Nhà Báo nhìn thấy cằm của Người Tù Già tựa vào vai Tên Giết Người, trên gương mặt bất động của xác chết đôi mắt hé mở, lờ đờ.

– Chẳng có chó gì hết – Tên Giết Người càu nhàu – Mày nói thế nào ấy…

– Hay là ở trong áo bông? – Tên Cắp Vặt lí nhí.

– Đưa tao con dao.

Tên Cắp Vặt đưa cho Tên Giết Người con dao to bằng đốt ngón tay làm bằng sắt đai thùng. Roạt, roạt. Tên Giết Người rạch mấy đường làm cho bông gòn trong áo bay loạn lên trong gió.

– Đéo có chó gì hết – va càu nhàu.

– Có khi ông ấy giấu trong quần lót, ông ạ – Tên Cắp Vặt lùi ra xa, mặt xám không kém gì mặt xác chết – Ông “loại” kỹ xem.

– Lại đây, đồ vô tích sự!

Nghe va gọi, Tên Cắp Vặt không những không đến gần mà còn lùi thêm vài bước.

– Lại đây! – Tên Giết Người gắt – Sao mày nhát thế?

Nhưng vô hiệu, Tên Cắp Vặt trợn mắt, cái nhìn dán chặt vào bộ mặt bất động của xác chết.

Nhà Báo nhếch mép, nhưng không cười. Cảnh tượng ấy chẳng thích hợp với nụ cười nào.

– Thôi, mày – Nhà Báo phẩy tay – Chôn đi, rồi còn về.

Ngoái cổ lại, va nhìn thấy Tên Giết Người và Người Tù Già vẫn đứng tựa vào nhau. Hệt như Tên Giết Người đang vuốt ve Người Tù Già và đang thủ thỉ với lão.

– Họ vẫn chưa xong hả? – không quay mặt lại, Tu Sĩ hỏi vọng lại.

– Chưa.

Cảnh tượng Tên Giết Người lục soát xác chết làm cho Nhà Báo thấy trong lòng mình sôi lên một nỗi giận dữ khó hiểu.

Và chẳng biết làm gì với nó, va bước mấy bước về phía Tu Sĩ.

– Này Cha – va nói – Cha tin là có Chúa?

– Tôi hằng tin ở Người – Tu Sĩ đáp, mặt nghiêm trang.

– Vậy thì Chúa ở đâu?

– Chúa ở khắp mọi nơi. Chúa thông biết mọi sự.

– Cả ở đây nữa chứ thưa Cha, – Nhà Báo mai mỉa – Trong cái chốn chúng ta đang ở này này?

– Trong cả chốn này.

– Thật sao?

– Và cả trong ta – Tu Sĩ nhấc tay làm dấu

– Và Chúa công bằng? – Nhà Báo gặng.

Tu Sĩ vẫn nghiêm trang:

– Không ai công bằng hơn Chúa.

Nhà Báo phá lên cười. Tiếng cười ngạo nghễ của va bay xa, đập vào vách núi rồi lại vẳng lại “ha..ha..ha..ha.. ha …a..a…”!

Khi tiếng cười yếu dần rơi xuống ở đâu đó trong những lùm cây đã biến thành những khối đen, Nhà Báo nghe tiếng một vật nặng đập vào gỗ. Va đoán Tên Giết Người đã xong việc, vừa ném Người Tù Già trở lại áo quan.

– Cho mày! – Nhà Báo nghe thấy Tên Giết Người nói.

– Không. Cháu cảm ơn ông.

– Sao? Mày chê ít à?

– Không! Cháu không lấy đâu.

– Mày sợ hả?

Tên Cắp Vặt lắp bắp:

– Cháu thấy… cháu thấy…

– Thấy cái gì?

-… Ông ấy lườm cháu. Tại cháu đầu têu…

Tên Giết Người ngửa mặt lên trời mà cười to.

– Mày không lấy, tao lấy. Tao cóc sợ con khỉ khô nào hết.

Rồi chợt nghĩ ra điều gì, va cúi xuống nhặt cái bát sắt tráng men mà thịt ở trong đã đổ tung toé ra áo quan khi nó bị rơi xuống trên đường.

– Cái bát còn tốt – Tên Giết Người ngắm nghía cái bát rồi nói – Cho mày đấy.

– Không! – Tên Cắp Vặt rền rĩ – Không. Cháu không lấy đâu.

– Thế thì tao cho mày một cái bạt tai – Tên Giết Người quát – Có lấy không? Này đây!

Vang lên một tiếng bốp, rồi tiếng Tên Cắp Vặt nấc lên, không rõ vì đau hay vì sợ.

Tên Giết Người đóng nắp áo quan. Tấm ván thiên xô sang một bên, để lộ nửa mặt người chết, khi bốn người lặng lẽ thòng dây chão vào dưới áo quan để thả nó xuống lỗ huyệt đen ngòm. Chẳng nói chẳng rằng, họ xúc đất đổ xuống cho đến khi nó được lấp đầy. Tu Sĩ là người cuối cùng còn làm việc sau khi ba người kia đã ngồi nghỉ.

Khi nấm mồ đã được Tu Sĩ đắp xong lùm lùm cho ra vẻ một nấm mồ, Tên Cắp Vặt đứng dậy, chạy hộc tốc về phía con suối ở đầu kia của nghĩa địa, từ đó va lặc lè vác một tảng đá đi về phía ba người đứng đợi. Tảng đá nặng làm va thở dốc. Va liếc nhìn Nhà Báo và Tu Sĩ rồi nhẹ nhàng đặt tảng đá xuống đầu nấm mộ. Đoạn lấy tay vun đất chung quanh cho cao thêm.

“Món hối lộ của một lương tâm khiếp đảm”, Nhà Báo nghĩ.

Bốn người tù ra về.

Ngày hết.

Khi họ xuống suối rửa chân tay, Nhà Báo cà khịa với Tu Sĩ :

– Nếu có Chúa và Chúa là công bằng thì ít nhất cũng phải để cho ông lão tội nghiệp nọ ăn xong bữa tươi hôm nay đã… Chúa toàn năng trong trường hợp này còn nhẫn tâm hơn cả người thế tục.

– Lạy Chúa tôi lòng lành! – Tu Sĩ sợ hãi kêu lên.

– Ít nhất thì Chúa cũng phải làm một điều gì đó cho con người bất hạnh ấy chứ, phải không? Nếu không, Chúa sao còn là Chúa?

Tu Sĩ rùng mình trước lời nói báng bổ của Nhà Báo, lẳng lặng ngước mắt lên trời, thành kính làm làm dấu thánh.

– Caeli enarrant gloriam Dei !

Bầu trời đêm chết lặng trước mắt va. Những tầng trời sáng danh Chúa.

Tu Sĩ lẩm bẩm và thở dài não nuột.

1979

NƯỚC MẮM CỦA RIÊNG TÔI

NƯỚC MẮM CỦA RIÊNG TÔI

Tác giả: Bruce Weigl

Giáo sư Bruce Weigl được biết đến như một hiện tượng của thi ca Mỹ . Sinh ngày 27-1-1949 tại Lorain, Ohio , ông từng tham chiến ở chiến trường Quảng Trị từ năm 1967 đến 1968 và đã chứng kiến những sự thật kinh hoàng của cuộc chiến tranh Việt Nam . Trở về sau cuộc chiến , ông tìm đến văn chương như một sự cứu rỗi linh hồn . Sau tập thơ đầu tay Một mối tình (1979) , ông là tác giả của 13 tập thơ riêng và quyển hồi ký nổi tiếng mang tên Vòng tròn của Hạnh . Giáo sư Bruce Weigi nguyên là chủ tịch Chương trình viết văn quốc gia , chủ tịch hội đồng thẩm định thơ của giải thưởng Văn học quốc gia Mỹ . Ông đã nhận được nhiều giải thưởng văn học . Tập thơ Bài hát bom na-pan viết về chiến tranh Việt Nam của ông đã được đề cử cho giải thưởng Pulitzer .

Nước mắm của riêng tôi là một trong những câu chuyện có thật mà ông viết riêng cho tập sách Khi mưa thôi nã đạn .

Tôi ngửi thấy mùi nước mắm lần đầu tiên trong lúc tên lửa và đạn cối pháo kích dữ dội tại một nơi chúng tôi đặt tên là Trại Evans, một căn cứ của lữ đoàn kỵ binh bay số 1 , trong chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, cách Huế 35 km về phía bắc theo quốc lộ số 1 .

Đối diện với hầm trú ẩn của chúng tôi – cái hầm đã cứu mạng chúng tôi rất nhiều lần -là một chiếc lều và hầm trú ẩn của những người lính Việt Nam Cộng Hoà . Lúc đó chúng tôi đã bị hai quả tên lửa 122 li nổ rất gần , một mảnh tên lửa đã xé toang chiếc lều ngủ của những người lính Việt Nam Cộng Hoà dù lúc đó họ thoát chết vì đã kịp ẩn náu dưới hầm sau đợt pháo kích , tôi và một số đồng đội bước khoảng năm mươi mét để quan sát mảnh tên lửa đã xé rách chiếc lều . Khi cách lều chừng mười lăm mét, chúng tôi bị choáng váng bởi một mùi nồng nặc hơn tất cả các loại mùi mà tôi đã từng tiếp xúc. Lúc đó tôi nghĩ phải có một người hoặc con thú to lớn nào đó đã chết và thối rữa gần đó. Tôi không kìm nén dược cơn ho dữ dội, cơn ho đã khiến tôi phải hít thở rất sâu và điều đó làm tôi mắc nghẹn , tiếp tục ho không thể kiềm chế . Tôi di chuyển càng nhanh càng tốt xa khỏi cái lều đã bị tên lửa đánh trúng , nơi những người lính Việt Nam Cộng Hoà đã trữ một lu nước mắm trên dưới 80 lít , một thứ không thể thiếu trong bữa ăn của người Việt . Sau đó tôi mới biết điều này và biết rằng lu nước mắm đậm đặc đó bị mảnh tên lửa bắn vỡ . Nước mắm tràn vào lều , chảy xuống chiếc mương nhỏ gần đó .

Nhưng có điều gì trong cái mùi nồng nặc đó làm tôi thích thú và nó lưu lại trong tôi . Một đôi lần ở trại căn cứ trên quốc lộ số 1 , nơi chiến trường đầy bom và lửa đạn , hoặc ở bãi đậu máy bay gần đó , tôi đã ăn cùng những người lính Việt Nam Cộng Hoà – những người đã vui vẻ cho tôi nhập cuộc . Tôi rất biết ơn họ vì tôi ghét cay ghét đắng lương khô được cung cấp cho lính Mỹ . Có một lần trong những bữa ăn chung đó , tôi hỏi họ về nước mắm . Họ rất vui khi tôi đề cập đến nó – lúc này tôi đã biết đôi chút về tính cách của người Việt – và họ nhanh nhảu rót ra một ít , chan lên một chén cơm trắng nhỏ và đưa cho tôi . Thật là ngon : một sự phối hợp tuyệt vời giữa sự đậm đà và ngọt ngào , và sự trù phú của một dòng sông chảy về bóng tối nơi thời gian chiếm hữu .

Kể từ lúc đó tôi ăn với nước mắm bất cứ khi nào có thể ở chiến trường Việt Nam , nhưng cơ hội đó không nhiều .Dĩ nhiên nước mắm không nằm trong khẩu phần lương khô hoặc trong những bữa ăn được chuẩn bị cho lính Mỹ nơi căn cứ trại . Nhưng tôi luôn giữ hương vị của nó trong tâm trí tôi và chỉ cần nghĩ về nước mắm là tôi đã ứa nước bọt . Tôi tìm hiểu nhiều hơn về nước mắm : nước mắm dùng làm nước chấm , dùng nấu ăn để thêm hương vị và thay cho muối . Trong chiến tranh , một số người Việt thậm chí còn uống nước mắm để giữ cho thân thể họ ấm áp , đặc biệt là khi họ phải ngâm mình xuống nước trong thời gian dài . Với cái mùi đặc biệt của nước mắm , nó cũng giúp mồi hoặc bẫy thú lợi hại hơn . Và nước mắm làm cho tất cả những thứ bạn ăn ngon hơn .

Khi rời chiến trường Việt Nam , tôi nghĩ rằng tôi sẽ không bao giờ quay trở lại . Tôi mang theo rất ít văn hoá Việt về cùng , lý do chính là bởi nền văn hoá đó đã bị ngăn cách với chúng tôi . Tôi biết rằng nó đã bị biệt lập với chúng tôi vì nó là một nền văn hoá lâu đời , giàu có . Nó bị ngăn cách với chúng tôi để chúng tôi không thể nhìn thấy con người Việt Nam như những con người thật , nhất là những con người đang chiến đấu cho miền Bắc , chống lại chúng tôi ở chiến tuyến bên kia , để chúng tôi cảm thấy dễ dàng hơn khi giết họ . Tôi không mang nhiều văn hoá Việt theo về cùng tôi sau chiến tranh , nhưng tôi mang theo tình yêu về một đất nước xanh như thiên đàng , nơi mà những con người tôi gặp luôn luôn tỏ ra tốt bụng và rộng lượng . Tôi cũng đem theo về một balô đầy những nỗi buồn sâu thẳm , một sự trống vắng niềm tin đối với chính phủ của mình . Và tôi đem theo một sự nghiện ngập đối với nước mắm .

Ở Lorain , bang Ohio , một thị xã có nhiều xưởng chế biến sắt nơi tôi sinh ra và lớn lên , không thể nào tìm thấy nước mắm vào tháng 12 năm 1968 . Tôi cũng không thể tìm thấy nước mắm ở Cleveland , không có một nhà hàng , cửa hiệu hoặc chợ bán đồ ăn Việt Nam nào . Lúc đó chưa có một người Việt nào sống ở khu vực xung quanh . Sau khi rời chiến trường , trở về quê hương , tôi thường nhìn đăm đắm qua cửa sổ căn nhà cha tôi , quan sát tuyết phủ đầy những khoảng sân để biết rằng không có ai đang trốn sau bụi cây để tìm cách giết tôi . Tôi cảm thấy an toàn nhưng tôi cũng thấy rất nhớ Việt Nam . Nhưng tôi không thể bày tỏ nỗi nhớ đó với những cựu binh khác và với cả gia đình của mình . Nếu biết , họ sẽ nghĩ rằng có điều gì không ổn với tôi và chiến tranh đã làm tôi mất trí . Vì thế tôi giữ nỗi nhớ đó cho riêng mình . Sau đó thời gian trôi đi như những mảnh vụn trên sông , tôi bị lạc vào cơn mộng tưởng không thể gọi tên . Tôi không là con người của một năm về trước , tôi đã bỏ lại một phần hồn vía của mình ở Việt Nam .

Khi mùa xuân tới , tôi làm một việc mà tôi luôn làm trong mỗi mùa xuân : câu những con cá hồi to đã nảy nở sinh sôi nơi những con sông , dòng suối gần nhà . Sau một ngày may mắn , tôi đem về ba con cá to , mỗi con nặng khoảng hai đến ba cân . Khi làm vảy chúng sau gara ôtô của cha tôi , tôi ngửi thấy mùi cá . Lúc đó tôi nhớ về cuộc trò chuyện với một người lính Việt Nam Cộng Hoà . Chúng tôi đã nói về nước mắm , về việc nó là gia vị quan trọng và đặc biệt nhất trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt Nam , rằng nó có sức mạnh huyền bí để biến đổi hương vị của những loại thức ăn khác nhau , theo những cách khác nhau và về cách làm nước mắm . Cuối câu chuyện , anh ta cho tôi biết cách làm nước mắm tại nhà . Tôi đã quên câu chuyện này cho đến khi tôi làm vảy cá vào mùa xuân mà tôi trở về nhà và bỏ lại rất nhiều trí nhớ của tôi nơi chiến trường xưa . Tôi nhớ anh ấy đã bảo tôi rằng chỉ cần mổ bụng , mổ ruột , xẻ đôi con cá , ướp muối và trải chúng trên những chiếc que xếp sẵn , sau đó cứ chờ chúng rã xuống chiếc nồi bên dưới . Anh ấy nói rằng khi mà chúng đã rã hết ra , tôi sẽ nấu chúng với lửa nhỏ cho đến khi chúng thật nhừ và quánh đặc thành một chất lỏng tuyệt đẹp . Ý nghĩ về nước mắm nơi căn lều của những người lính Việt Nam Cộng Hoà tại trại Evans đưa tôi trở về Việt Nam , và mùi nước mắm rất nặng thật sự đã trở thành mùi của một đất nước .

Vì thế tôi quyết định mà không cần suy nghĩ nhiều là mình sẽ tự làm nước mắm . Tôi ra cửa hàng vật liệu tìm mua dây thép và đinh . Dùng những thanh gỗ thừa trong gara ôtô của cha tôi , tôi dựng một giàn phơi nhỏ . Tôi lấy một chiếc chảo từ bếp của mẹ tôi , dùng gạch kê nó dưới giàn phơi để đón lấy chất lỏng từ những con cá đang rữa ra .

Tôi biết rằng tôi phải chờ chúng rữa , vì thế tôi vào nhà và quên mất nước mắm của riêng tôi đang lên men đằng sau gara ôtô của cha tôi tại thị xã Lorain , bang Ohio , cách cuộc chiến vẫn đang ác liệt mười hai nghìn dặm . Tôi quên như tôi đã để quên phần lớn trí nhớ của mình tại cuộc chiến ấy . Tôi quên cho đến một buổi tối , tôi đang ngồi trong nhà của cha tôi nhìn ra cửa sổ . Tôi không nhớ tôi đã nghĩ gì , nhưng tôi nhớ rằng lúc đó tôi đã loay hoay tìm lối đi cho mình . Tôi biết rằng chiến tranh đã ăn vào tôi và bám riết , không buông tha tôi . Ngồi trong ngôi nhà của cha , tôi nghe có sự náo động bên ngoài và bước sát đến cửa sổ , nhìn ra ngoài và thấy nửa tá xe cảnh sát đang đỗ bên đường và những khoảng sân ngập xanh màu áo cảnh sát . Tôi đi ra ngoài và nhập vào đám đông nơi hàng xóm của tôi đang tụ tập . Tôi hỏi người cảnh sát thường tuần tra quanh khu vực tôi sống rằng điều gì đang xảy ra vậy .

“Có người báo với chúng tôi có một xác chết ở một trong những căn nhà này” – anh ta nói .

“Tại sao họ nghĩ thế ?” – tôi hỏi .

“Chúa ơi – anh ta thốt lên – Vì cái mùi nồng nặc này . Anh không ngửi thấy nó sao ?”

Đứng giữa con phố , ban đêm , xung quanh tôi hàng xóm đang tụ tập như thể một nghi lễ, những khoảng sân nhà đầy cảnh sát , tôi hít hơi thở sâu đầu tiên từ khi tôi ra ngoài . Tôi biết ngay vấn đề và bảo cảnh sát tôi biết mùi nồng nặc phát sinh từ đâu . Ba người cảnh sát và một số hàng xóm đi theo tôi đến giàn phơi , đằng sau gara ôtô của cha tôi . Trước khi họ thấy cảnh tượng phơi cá của tôi , họ choáng váng bởi mùi nồng nặc và buộc phải quay chân .

“Đây là xác chết của anh” – người cảnh sát thường tuần tra khu vực của tôi đứng đằng xa và nói , chỉ tay vào những con cá đang thối rữa .

Sau khi mọi việc đã được giải quyết với cảnh sát và với những người hàng xóm tốt bụng của tôi , tôi hứa với họ rằng tôi sẽ tiêu huỷ những con cá càng sớm càng tốt . Tôi nhặt nhạnh những thứ còn lại của ba con cá hồi và bỏ chúng vào nồi . Bên ngoài nhà , tôi nhóm lửa và nấu những con cá này với lửa thật nhỏ , thật lâu cho đến khi chúng thật nát và hầu như biến thành chất lỏng . Tôi lược bỏ phần xác qua một chiếc rây và lại nấu tiếp . Cuối cùng , màu của chất lỏng trở nên giống màu mặt trời trước khi lặn xuống chân trời .Tôi đổ đầy chất lỏng vào một cái lọ , đậy nắp thật chặt và giấu nó trong phòng ngủ của mình .

Năm 1968 , ở cao nguyên Trung phần Việt Nam , một số người lính Việt Nam Cộng Hoà đã chia cho tôi ăn nhu yếu phẩm của họ , đã dạy tôi cách làm một loại nước từ cá lên men , loại nước giống như thuốc trường sinh bất lão diệu kỳ , như một phương thuốc chữa cho tất cả các loại bệnh thể xác và linh hồn . Đối với riêng tôi , mùi nước mắm đã trở thành mùi của đất nước Việt Nam khi tôi ở Mỹ và thương nhớ về đất nước thứ hai của tôi . Mùa xuân năm ấy , tôi làm nước mắm của riêng mình nơi sân sau của ngôi nhà cha tôi – một người công nhân làm ở xưởng chế biến sắt . Nước mắm ấy tôi đã đậy nắp thật chặt như một loại tinh hoa mà tôi cần phải mãi mãi giữ gìn . Tôi dùng nước mắm một cách bí mật cùng thức ăn , nhưng luôn luôn phải rất cẩn trọng vì mùi của nó rất nặng và vì cảnh sát đã đến thăm hỏi tôi chính vì cái mùi đó .

Sau rất nhiều năm , chiến tranh đã di trú vào tôi , mặc dù làm đủ cách để quên nó , có những điều cứ khắc sâu vào tâm khảm . Khi tôi ăn ở những cửa hiệu , nhà hàng Việt Nam trên đất Mỹ , tôi luôn nói với họ rằng hãy đừng cho tôi nước mắm kiểu Mỹ mà phải là kiểu chính hiệu Việt Nam . Tôi đã học được rằng thức ăn Việt Nam ngon hơn khi nấu với nước mắm ngon , hoặc chấm với nước mắm được pha khéo léo với đủ lượng tỏi , ớt , chanh , nước và đường . Từ một người hâm mộ nước mắm , tôi trở thành một người sành sõi khó tính , lùng sục những cửa hiệu châu Á ở Mỹ để tìm nước mắm ngon . Ở quê hương tôi , trong thập niên 1980 và 1990 , mặc dù người Việt bắt đầu di cư sang , rất khó tìm được nước mắm ngon .

Một số loại nước mắm hình như chỉ được pha bằng nước , muối và màu thực phẩm nhưng đã đánh lừa được những cái mũi to . Chỉ qua một quá trình tìm kiếm công phu , tôi mới tìm được những cửa hiệu tin cậy có thể cung cấp nước mắm tốt cho tôi . Thỉnh thoảng , khi nấu ăn mời bạn bè , tôi dùng một ít nước mắm để nấu những món ăn châu Âu mà họ yêu thích . Và thường sau bữa ăn , bạn tôi sẽ nói rằng thức ăn thật ngon và mùi vị rất đặc biệt , rồi hỏi “Anh đã dùng gia vị gì trong công thức chế biến đấy …? Cái vị này rất đặc biệt” … Tôi không bao giờ kể cho họ nghe . Cho đến hôm nay , tôi muốn giữ bí mật đó cho mình .

Nguyễn Phan Quế Mai dịch

From: Thành Hương Nguyễn

BỨC CHÂN DUNG

Vũ Thư Hiên

BỨC CHÂN DUNG

Cuộc chuyển trại diễn ra đột ngột. Không có lấy một dấu hiệu báo trước, dù nhỏ. Tịnh không. Mà ai chứ tù tinh lắm. Một động thái mơ hồ nhất của Ban Giám thị, chỉ cần khác thường một chút là lập tức được các bình luận gia chính trị cũng như hình sự phân tích, cho ra ngay một kết luận, nói chung và về đại thể, nếu không đúng hẳn thì cũng gần đúng.

Vậy mà không một ai biết trước cuộc chuyển trại. Mọi sự diễn ra hết sức bình thường những ngày trước đó.

Đùng một cái, tai hoạ ập đến. Mọi người nhớn nhác, mặt xám ngoét, nhưng đến lúc ấy thì không còn gì để đối phó nữa rồi, không kịp nữa rồi.

Cuộc sống thường nhật, dù trong trại tù, lâu ngày đã ổn định, đã thành nếp, cho dù tồi tệ đến mấy, bỗng nhiên lộn tùng phèo. Mất mát đủ thứ. Tan đàn xẻ nghé. Trước mặt là một sự tù mù trên hết mọi sự tù mù, tốt ít xấu nhiều.

Những nhà giam được bố trí thành hàng như những cục gạch xám bỗng chốc xôn xao như những tổ ong bò vẽ. Đã tới giờ mở cửa cho tù ra làm vệ sinh cá nhân, ăn sáng rồi đi lao động như thường lệ mà cửa vẫn đóng chặt. Hơn một giờ sau mới thấy một toán quân quan vàng khè xuất hiện ở cổng trại, tiểu liên cầm ngang.

– “Loại ”[1]? – một người trong rất nhiều người chen chúc nhau bám vào song sắt cửa sổ để nhìn ra, nói – Dám lắm.

Đến giữa sân, toán công an tản ra thành từng nhóm nhỏ đi về phía các nhà.

– Có vẻ không phải chuyển trại – một tiếng nói cất lên – Chắc chỉ “loại” thôi…

Một hi vọng thốt thành lời. Nó không được đám đông hưởng ứng.

– Đúng chuyển trại rồi – một người to – Nếu không thì súng ống kè kè làm gì…

– Chuyển trại ắt cánh tự giác phải biết – người khác phản bác – Chuyển trại thì họ đã phải đi dọn tủ, khuân hồ sơ từ mấy hôm trước chứ. Cán bộ có khi nào tự khuân vác…

– Hay là có thanh tra Bộ về chăng?

Gì thì gì, sự bất thường như thế này chắc hẳn lành ít dữ nhiều. Mấy anh tự giác thuộc toán lâm sản hối hả chạy đi thủ tiêu đồ vi phạm nội quy – cẩn tắc vô áy náy. Chỗ thủ tiêu tốt nhất, ai cũng biết, là hố xí cuối phòng. Những viên cai tù trẻ mới vào nghề rất mẫn cán mò mẫm mọi xó xỉnh để tìm cớ trừng phạt bọn tù nhân mất dạy cũng chừa chỗ ấy ra.

Đồ phạm nội quy thì nhiều, kể không xiết. Nó có thể là những ống bương đựng dầu diesel ăn cắp ở tổ máy cày dùng cho việc “sột sệt”, “nhặm xà ”, những bọc trà “tự biên tự diễn” to tú hụ do hái trộm mà có, là quần áo dân sự còn mới để bán cho tù được tha, là bật lửa tàu bò, lưỡi dao cạo râu Tiệp Khắc, những vật dụng đời thường nhờ mua bán đổi chác với dân quanh trại. Có thể kể thêm những dụng cụ sắc nhọn dùng để chế tạo nõ điếu, thìa, hộp đựng thuốc lào, do những tay tổ của nghề chạm trổ làm ra, đẹp còn hơn hàng thủ công mỹ nghệ. Cán bộ thường đặt tù làm những đồ vật cầu kỳ ấy với giá rẻ mạt: vài phong thuốc lào. Những thứ này có thể mang về quê làm quà hoặc bán lại. Được dịp tịch thu vô tội vạ những đồ không đâu có thì ai có thể bỏ qua. Quản giáo và lính thu tất tật mọi vật bằng kim khí, là thứ có thể suy diễn thành dụng cụ cưa chấn song hoặc hung khí cho một cuộc thanh toán giang hồ…

Trong căn phòng tối mờ mịt khói thuốc lào, mấy cái bóng xám vọt vào vọt ra nơi chuồng xí, trong khi ở bên ngoài đã vang lên tiếng khoá mở lạch xạch, tiếng then rít ken két.

– Ê, ra sân tập họp!

– Mang theo đồ đoàn. Không được để lại thứ gì.

Tiếng mấy “ông cán bộ” vang lên nơi cánh cửa vừa được mở rộng. Không khí trong lành của ban mai ùa vào.

Một tiếng ồ ngạc nhiên khe khẽ lan nhanh trong đám tù nhốn nháo. Người ta quýnh quáng:

– “Loại”rồi!

– Chuyển trại là cái chắc.

– Thường, đến trại mới người ta mới “loại” cơ mà.

– Chết cha, con dao mày để đâu? Tao cầm bằng mất toi cái tàu bò[4].

– Suỵt! Giấu không kịp đâu. Vứt.

– Tao nhét bao “ken tẩy ”ở đây đấy nhá. Tao hô rồi đấy. Thằng nào “bẩm” tao xin tí tiết. Trong cái nhà này tao biết tỏng thằng nào là Gia Ve .

Nhưng cả tự giác, tù thường, lẫn Gia Ve, đều chưng hửng khi ở sân trại họ được lệnh rỡ hết đồ đoàn để ra trước mặt. Giờ thì tất cả đều như nhau trong cuộc tổng lục soát.

Hầu như người tù nào cũng có một cái gì đó vi phạm nội quy trại, hoặc nhẹ nhất thì cũng bị coi là trái với nó, nếu trong nội quy chưa ghi đủ. Một cái áo rách xé ra bện thành bùi nhùi giữ lửa có thể bị tình nghi là thứ dùng để vượt tường rào. Một tờ giấy viết dở cũng bị nghi là sự thông tin với bên ngoài chưa kịp chuyển đi.

Già Lương, ông hàng xóm của tôi, ngồi xếp bằng tròn trên giường, bình chân như vại. Trong lúc thiên hạ bấn loạn, chỉ có mình già là tỉnh khô, nhìn đời bằng con mắt bàng quan. Thật vậy, già thì có quái gì mà phải lo.

Người ta sợ mất thứ này thứ khác, cuống cuồng giấu giấu giếm giếm, chứ tài sản của già chỉ có một cái tay nải. Tôi biết tỏng trong đó có gì: một bộ quần áo tù còn lành không mấy khi mặc đến, một cái áo trấn thủ còn khá tươm để dành cho những ngày đại hàn, một sợi chỉ dài quấn quanh một cọng tre với một cái kim bằng cật tre. Không kể mẩu khăn mặt rách, to hơn bàn tay, đã thâm xỉn vì mồ hôi nhiều năm. Đồ vật đáng giá hơn cả thì già đã khoác trên người rồi, đông cũng như hè. Đó là cái áo bông vải kaki xanh Sĩ Lâm , loại bán cho cán bộ chứ không bán cho dân, nhưng cũng đã rách, với những mụn vá sặc sỡ,

Già Lương là tù “số lẻ”, tức tù chính trị. Tôi nằm cạnh ông hơn một năm trời nhưng tịnh không biết ông phạm vào tội gì trong cái sự chính trị rất chi là tù mù ở nước ta. Đáp lại câu hỏi của tôi: ông có phải Ku Dét[8]không? Ông lắc. Có phải ông là Đờ Vờ[9]không? Ông lắc. Hay ông bị quy địa chủ cường hào gian ác, có nợ máu với nhân dân? Ông cũng lắc. Lại hỏi: có phải ông lỡ lời nói xấu chế độ, hoặc lỡ tay chống người nhà nước để phạm tội chống chính quyền địa phương không? Ông cũng lắc nốt. Tóm lại, tại sao già Lương là tù “số lẻ” là câu hỏi không có lời giải đáp. Chỉ biết ông tội danh của ông là “phản động, chống chế độ”, tức là i xì cái tội danh rất chung chung của hơn hai trăm tù “số lẻ” trong trại. Ấy là thân rồi tôi mới dám hỏi già. Chứ trong tù mà hỏi tội danh của nhau là điều tối kỵ. Người ta chỉ tình cờ biết người nào tội gì vào dịp tổng điểm danh, mỗi năm một lần. Chỉ vào dịp ấy cán bộ trại mới gọi tên từng người, mới công khai xướng lên giữa bàn dân thiên hạ rằng ai phạm tội gì, án phạt bao nhiêu năm.

Cuộc lục soát bắt đầu.

Tù ngồi thành từng toán trên sân điểm danh. Mỗi quản giáo trông hai tự giác lục bới tung toé đồ đoàn của từng người. Giờ thì không ai dám thì thào với ai nữa. Sân trại im phăng phắc.

Những người tù, mặt chảy dài, theo dõi đôi tay sục sạo thoăn thoắt của kẻ khám đồ. Chẳng còn cách nào kịp giấu những thứ cầm bằng bị thu. Ở trong tù cái gì cũng quý, từ mẩu đai thùng được mài sắc làm dao chẻ tăm, cắt móng chân móng tay, kể cả mảnh ni-lông gói đồ.

Thường, trong cuộc tổng “loại” như thế cán bộ chỉ thu đồ vi phạm nội quy chứ không phạt kẻ sở hữu. Phạt không xuể. Số người vi phạm nội quy quá đông, mà trại chỉ có một khu kỷ luật với một tá xà lim. Trừ phi phát hiện ra vũ khí, hoặc đồ vật có thể dùng làm vũ khí, đại loại như dao găm hoặc dùi, búa, cưa sắt, người ta mới tống kẻ vi phạm vào “u tì quốc ”, cùm chặt.

Của thu được dần chất thành đống.

Người trông cuộc tổng “loại” là phó giám thị Tằng, biệt hiệu “Tằng ác ôn”. Lùn một mẩu, cằm bạnh, môi thâm, mắt trắng dã, Tằng nghiện ra oai với tù. Đứng trước mặt y, anh tù nào vô phúc có chiều cao nhỉnh hơn y một tí là phải lập tức khuỵu hai đầu gối xuống, cổ rụt lại, hai tay bỏ thõng tối đa – tthấp đi được chừng nào hay chừng ấy. Già Lương thản nhiên nhìn trời. Mọi sự diễn ra chung quanh chẳng làm già động tâm. Cái lối nhìn trời như thế đã nhiều lần bị các quản giáo bắt tội: này, cái anh già vênh vênh cái mặt kia, anh thách thức ai đấy? Anh láo hả? Cụp cái mặt xuống!

Khốn nạn thân già Lương. Nào già có định thách thức ai đâu, có định thách thức cái gì đâu. Tôi biết cái tật ấy của già lắm. Già mải suy cái nghĩ của già, vậy thôi. Có lần mải suy nghĩ và nhìn trời, già đã ăn mấy báng súng vì tội không thèm trả lời cán bộ. Rồi chứng nào tật nấy, già vẫn cứ thế, cứ vênh vênh, không chừa.

– Tránh voi chẳng xấu mặt nào, bác ơi! – trong những trường hợp như thế chính tôi cũng khuyên già – Mình là thằng tù. Một thằng oắt con đáng tuổi cháu gọi bằng ông cũng có quyền cầm roi vụt mình, bác chớ dại…

– Khốn tính tôi cả nghĩ, ông ạ – già chép miệng – Mà đã nghĩ là cứ lan man, dứt không ra. Thí dụ tôi nhớ chuyện các cụ tôi ngày xưa dạy tôi thế nào, các cụ dữ lắm, đòn luôn luôn, có lần tôi mải nhìn trời nhìn đất gặp ông mõ không chào, thế là bị một trận vì tội khinh người… Ông biết đấy, mõ là thứ cùng đinh trong thiên hạ, bị thiên hạ coi rẻ, cơ mà oan cho tôi, tôi nhãng đi không thấy ông ấy, không phải tôi dám khinh. Chao ôi là dữ, cái trận ấy…

Già bắt đầu kể, rồi im bặt, chìm nghỉm trong hồi tưởng..

Lần này cũng vậy. Trung uý Tằng đến trước mặt già mà già không hay. Mà già cao hơn Tằng hẳn một cái đầu. Phải ngước lên mới nhìn được vào mắt già, Tằng đã khó chịu lắm.

– Anh kia, nhìn nhìn cái gì?

Tôi đứng bên già Lương. Tôi huých già một cái mạnh. Già choàng tỉnh. Cúi xuống nhìn Tằng, già chậm rãi hỏi “ông cán bộ ” chỉ đáng tuổi con út hoặc cháu mình:

– Cán bộ hỏi nhà cháu ạ?

– Còn thằng chó nào vào đây nữa? Anh nhìn nhìn cái gì?

Cặp mắt kéo màng của già mở to hơn một chút, đôi lông mày rậm với những sợi lông dài bạc trắng của già hơi nhướng lên một chút.

– Dạ?

Tằng nạt nộ:

– Dạ cái con khỉ. Tôi hỏi anh phải đứng nghiêm trả lời: anh nhìn cái gì?

Già Lương đến lúc ấy mới vỡ câu hỏi. Theo thói quen, già vuốt râu một cái, rồi mới thủng thẳng đáp:

– À, thưa cán bộ, nhà cháu mải nhìn đám mây ạ.

– Đám mây thì có gì mà nhìn? Anh dở người hử?

– Dạ, không, nhà cháu tỉnh trí ạ…

– Thế sao nhìn mây?

– Dạ, nó giống cái kiệu bát cống ạ.

Tằng gườm gườm nhìn già Lương. Rồi hất hàm gọi tay trật tự trại và tay nhà bếp vừa khám xong một người tù ở gần đấy:

– Lại đây. “Loại” thằng này! Tao bảo đảm: nó có vấn đề.

Già Lương lúc ấy mới thật tỉnh hẳn.

Già tự động ngồi xuống, chậm chạp mở nút buộc tay nải. Những ngón tay khô xác run bần bật. Cái đó lại càng gây ra nghi ngờ. Không có gì vi phạm thì sao lại run? Nhưng cả tay trật tự lẫn tay nhà bếp đều biết tỏng ông già là người thế nào. Ông già hiền lành này chẳng có gì để vi phạm nội quy, có “loại” mấy cũng chẳng ra. Ông có bệnh rung tay. Biết thế, họ chỉ thọc vào cái tay nải rách rưới của ông già, khua khoắng lấy lệ. Khi lôi từ trong đó ra bộ cái áo trấn thủ, mẩu khăn mặt hôi rình và rất nhiều mụn vải, mũi họ chun lại.

– Báo cáo ông, không có gì ạ – anh trật tự đứng lên, lễ phép bẩm.

– Chắc không? – Tằng trề môi – Còn cái áo bông kia?

Y hất hàm ra lệnh cho già Lương cởi áo bông ra.

Đúng vào lúc ấy già Lương phạm một sai lầm không tha thứ được – thay vì lễ phép cởi áo đưa cho anh trật tự thì già lại vứt toẹt nó xuống đất. Thái độ ấy của già làm cho tay trật tự nổi cạu. Chẳng nói chẳng rằng, y hằm hằm nắn bóp cái áo bông.

Bỗng mắt y sáng lên. Y mạnh tay xé rách lớp mền cái roạt rồi lôi ra một khúc nứa tép nhỏ xíu.

– Cái gì đây, anh giế ? – giọng trịch thượng, y hỏi.

– Thì anh cứ xem đi. – thay vì ăn nói lễ phép với trật tự trại, ít nhất thì y cũng là bậc chức sắc trong xã hội tù, già khinh khỉnh đáp.

Tằng nheo mắt nhìn ống nứa tép. “Không biết thằng già giấu cái gì trong đó?”.

Mở cái ống không được, nắp của nó gắn liền với thân bằng một thứ nhựa quỷ quái gì không biết, rất chặt, tay trật tự bèn đặt nó lên đầu gối, bẻ gãy đôi. Tiếng nứa vỡ toác. Bên trong là một tờ giấy cuộn tròn.

– Hừm – Tằng nói – anh “giề” này gớm nhỉ? “Yểm ”cái gì đây?

Sống với tù lâu, Tằng thuộc mọi tiếng lóng của lưu manh.

Già Lương biến sắc.

Tay trật tự mở tờ giấy, giơ ra trước mặt. Đó là một bức tranh vẽ bằng bút chì. Trong tranh là hình một ông già quắc thước, chòm râu thưa phơ phất.

– Gì đây, hử? – Tằng dằn giọng.

Già Lương lí nhí:

– Báo cáo cán bộ: cái này là…

– Cái gì?

– Dạ, báo cáo ông, là cái tranh thờ của nhà cháu ạ….

Tằng ra lệnh:

– Đưa tôi!

Tay trật tự cung kính đưa bức tranh cho phó giám thị bằng hai tay.

– Hừm! – Tằng nghiêng ngó ngắm bức tranh, rồi sẵng giọng – Anh này láo. Láo lắm! Anh có biết anh phạm tội gì không?

Già Lương còn lúng túng hơn nữa.

– Dạ, nhà cháu không biết…

– Lại còn vờ! – Tằng gắt – Không biết? Hay cố tình?

Đến lúc ấy thì già Lương quýnh lên, lắp bắp:

– Dạ, thưa cán bộ, nhà cháu…

– Nói, cái gì?

– Nhà cháu…, thưa ông cán bộ, nhà cháu sợ tranh bị ướt, nhà cháu mới cất cẩn thận…

Tằng nguýt:

– Anh vẫn chưa thấy rằng anh có tội?

Già Lương còn luống cuống hơn nữa:

– Dạ, xin ông cán bộ chỉ bảo…

Tằng nghiêm nghị:

– Để tôi giảng cho anh nghe. Tội của anh là thế này: nhân dân ta ai cũng có lòng thành kính lãnh tụ. Thờ Bác không có tội. Nhưng chỗ thờ phụng Bác phải là nơi tôn nghiêm, chỗ tinh khiết, vậy mà anh dám cả gan giấu ảnh Bác trong cái áo hôi thối của anh. Anh phải biết đây là đâu chứ? Đây là nhà tù, hiểu chửa? Thằng tù không có phép được thờ Bác trong cái chốn nhơ nhuốc này, hiểu chửa?

Già Lương lắp bắp:

– Dạ, nhà cháu hiểu… Nhưng, thưa ông xét cho…

Tằng dằn từng tiếng:

– Im cái mồm. Xét xét cái gì? Đừng có mà nguỵ biện. Không có nhưng nhiếc gì hết. Tôi lại không đi guốc vào bụng các anh ấy à. Mười anh bị bắt vào đây, chín anh rưỡi kêu oan. Có mà oan Thị Mầu! Tội lỗi đầy mình còn ngoạc mồm ra kêu Đảng kêu Bác đèn trời soi xét…

Mặt già Lương thượt ra:

– Dạ, quả thật nhà cháu không dám thế, báo cáo ông …

Tằng quát:

– Anh hay đứa nào ở đây dám vẽ ảnh Bác?

Già Lương còn quýnh hơn nữa, đến nỗi nói lắp:

– Dạ, thưa thưa thưa…ông…

Tằng quát to hơn nữa:

– Im tắp lự. Còn thưa bẩm nỗi gì?

Già Lương cúi mặt:

– Dạ, thưa ông cán bộ, không phải ảnh Cụ đâu ạ…

– Còn cãi. Thằng nào vẽ cho anh? Khai ra.

– Dạ…

– Không thưa bẩm gì hết. Tôi hỏi anh: thằng nào vẽ?

Mấy cán bộ thấy ồn ào chạy lại.

Tình hình coi mòi nghiêm trọng. Không phải chuyện chơi. Mặt già Lương rịn mồ hôi.

Anh trật tự ghé vào tai già:

– Khốn nạn, bố ngu như bò í. Có gì cứ khai thật đi, ông cán bộ thương, ông tha cho.

– Nhưng…

– Còn nhưng nhưng cái gì? – anh ta nhăn mặt – Ngu thế. Cứ thưa thật với ông cán bộ. Muốn chết hử?

Già Lương cuống lên, gắt:

– Thì tôi khai thực mà. Anh đừng lên mặt với tôi. Anh cũng là thằng tù như tôi thôi…

Quay sang Tằng, già chắp hai tay van vỉ:

– Thưa ông, nhà cháu xin khai thật… Cái này không phải ảnh Cụ đâu ạ…

– Thế nó còn là cái gì? Hử?

Già Lương ấp úng thẽ thọt:

– Dạ, nó là… , nó là bức tranh thờ của nhà cháu…

Tằng gắt to:

– Của anh, rõ rồi, không phải của anh thì việc gì anh phải “yểm” kỹ thế? Câu hỏi của tôi anh đừng có lờ: thằng nào vẽ? Anh phải thành khẩn khai ra: thằng nào dám vẽ Bác để cho anh thờ trong tù?

– Dạ, nhà cháu…

– Đừng lấy vải thưa che mắt thánh. Sao? Anh không muốn khai hử? Còn muốn che giấu hử?

Già Lương cúi gằm mặt.

– Thằng nào? Nói mau!

Những người tù đứng gần quên cả việc lục soát, chằm chằm nhìn vào mặt già.

– Thưa ông, nhà cháu khai thật ạ. Không phải ảnh Cụ đâu ạ…

– Vẫn còn chối, hử?

– Thật ạ – giờ thì già Lương không kiềm chế được nữa, già nói một thôi một hồi – Nói có trời đất, nhà cháu không dám nói sai. Nhà cháu năm nay gần tám mươi rồi. Chẳng còn mấy nả nữa… Sắp xuống lỗ rồi…Lúc đi trại, mười lăm năm rồi, không phải ít, nhà cháu đi không một hình tích để lại, con cái cháu chắt ở nhà nhiều đứa chỉ nhớ được cái tên chứ không biết mặt… Vậy nên nhà cháu mới cậy người ta hoạ cho một bức…để khi nào có người nhà lên thăm thì cho mang về…

– Hừm – Tằng nheo mắt, chăm chú nhìn lại bức hình, rồi nhìn người tù trước mặt – Tức là, anh nói hình này là hình anh?

– … Dạ, đúng vậy. Nhà cháu nghĩ: nay mai có chết đi thì, thưa ông, cũng còn tấm hình để lại.

Tôi ở với già Lương cả năm mà không biết già có bức hình ấy. Liếc mắt nhìn tờ giấy trong tay Tằng, tôi thấy Tằng không phải không có lý – người trong bức hình quả có hao hao giống lãnh tụ tối cao, cha già dân tộc. Cũng cặp mắt sâu, cũng đôi lưỡng quyền cao, cũng chòm râu thưa “tu bất phủ hầu”, được thiên hạ coi là quý tướng. Không biết già có bức hình này từ khi nào?

Tằng dịu giọng:

– Chắc là hình anh không?

– Dạ, thưa ông cán bộ, có trời đất chứng giám…

– Không cần anh thề. Thề cá trê chui ống. Anh có thề cả trăm lần tôi cũng không tin. Anh trả lời tôi tắp lự: đứa nào vẽ?

– Thưa ông, anh Ca ạ – như chết đuối vớ phải cọc, già Lương chắc mẩm Tằng đã mềm lòng, ngước nhìn hắn bằng cặp mắt ướt nhèm – Anh ấy được tha năm ngoái. Cái anh xương xương người, Ban vẫn thường gọi lên kẻ bảng với làm vườn hoa ấy ạ.

– Ờ…

– Thưa ông, anh ấy có hoa tay, nét vẽ rất có tinh thần…

– Chuyện này rồi phải cho điều tra đến nơi đến chốn. Cái thằng Ca này xem chừng có vấn đề đây. Có âm mưu gì trong chuyện này đây?

– Dạ, đúng là thế ạ.

– Nói để anh biết: tôi sẽ đích thân xem xétviệc này. Tôi sẽ tư về địa phương cho điều tra lại thằng Ca. Các anh đừng có tưởng bở: khỏi vòng cong đuôi, cầm được trong tay tờ lệnh tha là xong, là hết mọi chuyện. Đừng hòng nhé! Ở đâu cũng là đất đai của Đảng, của Bác. Lưới Đảng lồng lộng, con ruồi chui không lọt.

– Thưa ông, xin ông đừng nghĩ oan cho anh ấy – già Lương thấy mình có trách nhiệm bảo vệ tác giả bức hình, lại lắp bắp một thôi một hồi – Anh Ca có án đàng hoàng đấy ạ, không phải tập trung cải tạo như nhà cháu đâu ạ. Anh ấy cũng không phải phản động, không phải kẻ thù của nhân dân đâu ạ. Ông cán bộ cũng biết, anh ấy còn thuộc diện cải tạo tốt đấy ạ. Nhà cháu thấy anh ấy hoạ được, mới nhờ anh ấy hoạ cho một bức. Nể lắm, thương lắm, anh ấy mới hoạ cho nhà cháu. Ông xem lại bức hình, giống in nhà cháu đấy ạ. Anh ấy không dám báng bổ Cụ Hồ đâu ạ… Ông xét cho, anh ấy người hiền lành tử tế…

– Hừm, anh dám bảo thằng Ca là hiền lành tử tế, hử? Người hiền lành tử tế không ai ở tù. Lại còn bảo bức vẽ của nó giống nhà anh, là có tinh thần.

– Dạ.

Tằng vẫn giữ giọng nghiêm khắc, nhưng không còn gay gắt:

– Vẽ anh mà lại hoá ra giống Bác, bậy, bậy hết sức. Phải có ẩn ý gì nó mới vẽ ra thế chứ?

– Thưa, ông đèn giời soi xét – già Lương nói – người già mà lại gày thời hao hao nhau. Ông chớ nghi anh Ca phải tội…

– Nghi đứa nào, nghi cái gì, là quyền của tôi, Tằng cao giọng – Ngay cái chuyện nó vẽ hình cho anh để thờ cũng đáng trừng phạt rồi. Ai cho phép nó vẽ? Nó có xin phép cán bộ được vẽ không? Lại nữa, anh là thằng nào? Hử? Anh là thằng phản động. Có phải thằng phản động không?

– Dạ, thưa ông cán bộ, phải.

– Không ai thờ thằng phản động hết, rõ chửa? Con cháu cũng vậy, không con cháu nào được thờ ông cha phản động. Đứa nào thờ phản động thì đứa ấy cũng là phản động. Anh muốn cả nhà anh kéo nhau vào đây hay sao?

– Dạ, không ạ.

Giọng Tằng “ác ôn” bỗng dịu xuống:

– Thôi được, là nói thế thôi, chứ tôi tha cho anh lần này. Là tôi thương cái tuổi già của anh…

– Dạ, nhà cháu đội ơn Ban…

– Nhưng cái hình này thì tôi thu.

Già Lương mếu máo:

– Thưa ông …

– Còn thưa bẩm cái gì nữa đây?

Già Lương chắp hai tay, van lơn:

– Xin ông cho lại nhà cháu cái hình. Không phải dễ gì nhà cháu được gặp người như anh Ca để có được bức hình này. Nhà cháu thưa thật tình: trong cả gia tộc không còn cái hình nào của nhà cháu cả… Trâu chết để da, người chết cũng phải để lại cái hình cái bóng…

– Im ngay! Không lằng nhằng!

Tằng quát. Tôi thúc cùi chỏ vào mạng sườn ông bạn già. Cú thúc quá mạnh, ông nhăn mặt. Tằng nhìn tôi, lừ mắt.

– Dạ – giọng già Lương run run – Xin ông rón tay…

Tằng bỗng ghé sát mặt già Lương, đăm đăm nhìn. Thằng khốn nạn, y còn định làm gì ông già khốn khổ nữa đây

– Hừm – Tằng ra chiều suy nghĩ – Hừm.

Trong giây phút kéo dài ấy già Lương vẫn còn phấp phỏng chờ đợi, vẫn còn hi vọng, có vẻ là như thế. Biết đâu đấy, dù sao Tằng cũng là người, y ác đấy, nhưng cũng phải có lúc y không ác chứ, y sẽ nghĩ lại cho già cũng nên. Rất có thể y sẽ trao lại cho già bức chân dung để thờ kia, với một câu quát lấy lệ, không quát không được, nhưng y sẽ trả lại. Tôi đoán phỏng thế. Trong phút đó tôi hình dung ra bức hình của già được đặt trang trọng trên ban thờ, trong khói hương vương vất.

Rời khỏi mặt già Lương, Tằng lắc đầu, giọng thương hại:

– Anh là thằng không có trí khôn. Loại ngu lâu, khó đào tạo. Thằng như anh biết bao giờ mới được đánh giá là cải tạo tốt để được hưởng lượng khoan hồng của Đảng…

– Dạ, thưa ông, nhà cháu biết thế ạ, nhà cháu không dám nghĩ tới ngày về đâu ạ… – già Lương vẫn chưa hết hi vọng – Vì thế nhà cháu mới muốn có bức hình, để đến nỗi vi phạm nội quy…

– Nghĩ thế cũng không đúng. Đã vào đây rồi, an tâm cải tạo là tốt, nhưng phải nghĩ tới ngày được Đảng thương đến, Đảng cho về với vợ con chứ…

– Dạ. Cảm ơn ông cán bộ dạy bảo.

– Hừm.

Đúng là Tằng suy nghĩ. Với loại người như Tằng, những phút suy nghĩ rất hiếm hoi. Tôi cho rằng cơn nóng đã dịu, y sẽ cho ông già được phép giữ bức hình.

Tại sao y không thể làm người, dù chỉ trong một phút?

Nhưng tôi sai. Bằng giọng ôn tồn, y nói với già Lương:

– Nói cho anh biết: anh là thằng tù. Đừng có lúc nào quên điều đó. Nhá? Được tha rồi cũng chớ quên. Hồ sơ anh còn đấy, nó sẽ theo anh mãi mãi. Suốt đời. Phàm là thằng tù thì không được hỗn. Không được phép giống Bác. Giống Bác là hỗn đấy. Tù nào cũng thế, tuốt mo, tù hiếp dâm, tù ăn cướp, tù phản động chống chế độ. Không được là không được. Hiểu chửa?

Già Lương nuốt nước bọt đánh ực.

Tằng gập bức hình làm tư, đút vào túi quần.

Đoạn, y vẫy tay gọi anh văn hoá trại đang lui cui khám một người tù gần đấy:

– Ê, văn hoá!

– Dạ, thưa ông gọi!

– Phải. Bỏ đó đã. Mang tông đơ lại đây!

Thoắt cái, anh ta chạy lên phòng văn hoá, cách đấy khá xa, thoắt cái đã đứng nghiêm trước mặt Tằng “ác ôn”, tay phải lăm lăm cái tông đơ.

– Húi trụi cả râu lẫn ria anh này cho tôi!

Nhìn vào mặt già Lương, Tằng xin xít nói qua hai hàm răng nghiến:

– Vào đây rồi mà còn để râu. Lại còn dám nói: hao hao giống Bác. Láo! Láo đến thế là cùng! Húi!

Anh văn hoá trại kiêm phó cạo đưa tông đơ lên.

Tôi nhìn xuống. Tôi không muốn chứng kiến cảnh tượng ấy. Trong tầm mắt của tôi, tôi nhìn thấy những sợi râu bạc trắng rơi xuống. Tôi nhìn thấy đôi chân gày của già Lương kiễng lên, kiễng lên mãi. Ấy là khi cái tông đơ rúc lên hai lỗ mũi già.

Tằng “ác ôn” lững thững rời khỏi chỗ già Lương đứng, tiếp tục chỉ huy cuộc lục soát.

Trong cuộc chuyển trại diễn ra sau đó, khi cuộc tổng “loại” kết thúc, mọi người trên xe chở tù đều im lặng, lắc lư, không ai nói với ai một câu.

Tôi không nghe già Lương ngồi bên tôi than thở.

Ngay cả một tiếng thở dài cũng không.

1990

Lời Tạ Lỗi Muộn Màng

 

NHƯ CHỈ MỚI HÔM QUA – KÝ ỨC MỘT CHUYỆN TÌNH….

Lời Tạ Lỗi Muộn Màng

THANH HÀ/SGN

Viết cho H., Hải Quân Trung úy BTL Bạch Đằng ngày xưa. Nếu anh tình cờ đọc được thì xem như đây là một lời tạ lỗi muộn màng mà khi xưa TH đã giấu lòng mình nói dối anh. Bất luận anh ở nơi nào, TH cầu mong anh luôn được hạnh phúc, an bình và mạnh khỏe.

Ngày ấy cách đây bốn mươi mấy năm. Sài Gòn thanh bình. Giờ tan trường có hai nữ sinh đi học về trên đường Hồng Thập Tự, bước chân thong dong, tóc xõa ngang lưng, trong đồng phục áo dài trắng. Hai chị em ruột, 17 và 18 tuổi, từ một tỉnh ven biển miền Tây lên thủ đô mới vài tuần. Người chị thi đậu tú tài đôi, đang ghi danh chờ nhập học Đại học Luật, cô em đậu xong tú tài một, đáng lẽ chờ xong trung học mới được lên Sài Gòn nhưng ba má thương cô chị chưa bao giờ sống xa nhà, nên để cô em cùng lên cho có chị có em. Hai nữ sinh ấy là người chị thứ ba của tôi và tôi.

Với tôi lúc ấy, được lên học ở Sài Gòn là một giấc mơ tuyệt vời. Sài Gòn là cái nôi của văn minh, tri thức, lịch sự, nhã nhặn. Là nơi hội tụ tinh hoa trong mọi lãnh vực khoa học, giáo dục, văn chương, nghệ thuật…

Biết em gái nhút nhát chưa quen thầy cô, bạn mới, nên chị Ba thỉnh thoảng buổi trưa giờ tan trường hay đến đón tôi cùng đi về cho vui. Hôm ấy, đi đến đoạn công viên Tao Đàn, trong lúc hai chị em còn mãi ngắm cảnh vật bên đường, bỗng xuất hiện hai chàng sĩ quan Hải Quân trong bộ quân phục trắng, cỡi hai chiếc Lambretta trắng từ hướng ngược chiều chạy đến. Họ ngang qua chúng tôi, rồi mấy phút sau lại chạy ngược lên, chầm chậm vượt qua mặt chúng tôi một đoạn rồi… quanh lại. Chị em tôi không thể không chú ý thái độ của hai anh chàng nên thầm thì:

– Hai ông nầy đảo tới đảo lui mấy bận, chắc định làm quen với tụi mình đây!

Quả như chúng tôi đoán. Sau khi lượn lờ mấy vòng, hai chàng quyết định dừng xe cạnh lề đường trước mặt chúng tôi vài mét, chờ chúng tôi đi tới, rồi một trong hai người bắt chuyện làm quen.

Tôi vốn nhút nhát, hay mắc cỡ. Lúc ở nhà, có họ hàng hay khách khứa đến chơi, mới nghe tiếng họ ngoài cổng là tôi trốn mất dạng. Khi học tôi cũng nổi tiếng rụt rè, nhiều năm sau gặp lại các bạn vẫn còn nhắc. Vì vậy khi được hai chàng Hải Quân hỏi chuyện tôi run lắm, tim đập mạnh, nhường hết cho chị Ba trả lời. Thấy đứng giữa đường nói chuyện không tiện, nên sau khi tự giới thiệu, H., một trong hai người hỏi xin số nhà chúng tôi để đến thăm.

Trường hợp H. làm quen với tôi giống một coup de foudre – tình cờ hai ánh mắt thoáng giao nhau trên đường mà anh đã quyết định làm quen ngay lập tức. Có lẽ anh nghĩ nếu không nắm ngay lấy cơ hội thì sẽ chẳng còn dịp nào nữa. Khách quan mà nói, có lẽ chúng tôi rất đẹp đôi. Chàng là trung úy trẻ tuổi đẹp trai, lịch lãm, giọng “Bắc 54” nhẹ nhàng truyền cảm; còn nàng là cô nữ sinh 17 tuổi, xuất thân từ gia đình công chức ở một tỉnh xứ biển, hiền ngoan, xinh xắn. Nhưng tôi, ở tuổi non nớt đó, lại có cái nhìn khác về chính bản thân. Tôi nghĩ về tôi quá khắc khe, tự đánh giá thấp và mặc cảm là mình không xứng với H.

So với H., tôi thấy mình chỉ là một nữ sinh nhà quê vừa lên thành phố, ăn nói vụng về, cư xử ngượng ngập, còn anh là người lịch lãm, tự tin, đôi bàn tay rất đẹp, đẹp hơn cả bàn tay tôi (!). Điểm nào tôi cũng thua anh, ngoại trừ chiều cao thì tôi lại hơn anh, oái oăm là vậy. Phải như thuở ấy tôi đừng quá câu nệ chuyện chiều cao, đừng lo sợ sự phán xét của thiên hạ “ví dầu chồng thấp vợ cao, như đôi đũa lệch so sao cho bằng” mà giữ vững quan niệm tình yêu là sự hòa điệu giữa hai tâm hồn và trái tim, thì hẳn tôi đã giữ được cho mình một mối tình đẹp.

Qua những lần trò chuyện, chúng tôi nhận ra có nhiều điểm tương đồng: đọc cùng loại sách, thơ, văn, yêu mến cùng văn, thi, nhạc sĩ, thưởng thức cùng loại âm nhạc, cùng yêu thích thiên nhiên… Tôi nói rất ngưỡng mộ tiếng hát Thái Thanh, anh tán thành ngay, khen nữ ca sĩ có giọng hát tuyệt vời cùng vóc dáng cao ráo, xinh đẹp. Nghe thế tôi nhủ thầm: thì ra anh thích những phụ nữ dáng cao, thảo nào anh thừa biết tôi cao hơn mà vẫn quyết định làm quen. Tôi luôn mặc cảm việc mình cao hơn H. nên nhiều lần anh ngỏ ý mời tôi đi chơi ngày Chủ Nhật, tôi đều kiếm cớ chối từ, để tránh sánh vai cùng anh ra đường.

Tự xét lòng, tôi biết mình có cảm tình với anh. Nhưng hỡi ơi, vì quan niệm cao thấp vô cùng ngốc nghếch ấy mà tôi đã tự bóp chết đóa-hoa-tình vừa chớm nụ bằng một lời nói dối có chủ ý. Dối với chính lòng và dối với anh. Mỗi lần anh đến thăm, trong tôi có hai tâm trạng trái ngược nhau: vừa vui vì được gặp anh, người bạn trai tế nhị đáng mến, vừa nơm nớp lo sợ anh sẽ khám phá những điểm yếu của mình rồi sẽ thất vọng mà xa lánh. Bây giờ hồi nhớ lại, tôi chắc chắn với sự tinh tế lịch lãm khi ấy anh đã nhận biết tính cách của tôi rồi, nhưng có khi chính những vụng về ngây thơ đó mà anh lại càng thích tôi chăng?

Nhân một dịp lễ, trường cho nghỉ học vài hôm tôi cùng chị Ba về quê thăm gia đình. Vài hôm sau tôi trở lại Sài Gòn thì buổi trưa anh đến thăm. Hôm đó cũng là cơ hội hiếm hoi chỉ chúng tôi với nhau để có thể trao đổi chuyện riêng tư. Anh hỏi tôi:

– Chắc hồi ở Kiên Giang, TH có nhiều người theo đuổi lắm phải không? Và TH đã có người yêu rồi?

Nghe vậy, như từ vô thức, tôi bỗng trả lời ngay:

– Dạ, vì TH lớn lên và đi học ở đó nên TH đã có người yêu rồi anh ạ.

Anh nhìn tôi bằng ánh mắt buồn thiu, thất vọng. Không khí ngưng đọng. Tôi sững sờ, nghe như có gì đó vừa đổ vỡ trong hồn. Sao tôi có thể nói dối dễ dàng như vậy? Một lời nói dối nặng nề nhất – dối gạt người, dối gạt với chính mình.

Khi anh từ giã ra về, tôi muốn gọi anh lại để đính chính là tôi không hề có bạn trai nào hết, khi mà ba má tôi rất nghiêm khắc với năm cô con gái ở tuổi thiếu nữ. Nhưng tôi đã không thể cất lời. Với ý nghĩ non dại, tôi tự nhủ: thôi thì cứ để anh tưởng tôi đã có người yêu rồi xa tôi lúc tình cảm chưa sâu đậm, ít ra anh còn lưu giữ hình ảnh đẹp về tôi hơn là gần gũi nhau lâu ngày thì anh sẽ phát giác những khuyết điểm của tôi rồi thất vọng nhiều hơn.

Từ đó tôi không bao giờ gặp lại H. Theo thời gian, tôi trưởng thành, có cuộc sống an vui bên chồng con, đôi lúc cũng nhớ về quãng đời thanh xuân nhiều mơ mộng, nhưng chỉ thoáng bâng khuâng, rồi quên ngay.

Nhưng có một ngày, như hôm nay, quá khứ tưởng đã nằm yên dưới lớp bụi thời gian, bỗng trồi lên chiếm lấy tâm hồn tôi ào ạt. Có những kỷ niệm đẹp tươi, có những kỷ niệm ray rức. Nghĩ về H., tôi giật mình chợt nhận thức lời nói dối thuở xưa hẳn đã làm tổn thương anh biết bao nhiêu. Tôi muốn gặp anh một lần để đính chính, nhưng biết tìm nơi đâu? H. ơi, bây giờ anh có mạnh khoẻ, hạnh phúc bên vợ hiền con ngoan, hay đã nằm xuống trong trận chiến nào đó, hoặc vùi thây trong trại tù cải tạo, hoặc dưới lòng biển sâu khi vượt biên, di tản?

Tôi mong rằng trời đất sẽ khiến xui để anh đọc được bài viết này. Biết rằng không thể nào thay đổi quá khứ, nhưng giãi bày được nguồn cơn một lời nói năm xưa tôi đã lỡ, thì lòng tôi cũng nhẹ nhàng thanh thản hơn là cứ ôm nỗi ân hận đeo mang suốt đời.

– Hình Minh họa…

– Tác giả Thanh Hà (ảnh tác giả gửi)

MỘT CUỘC TÌNH – (câu chuyện có thật)

 

MỘT CUỘC TÌNH

(câu chuyện có thật)

Sau bao nhiêu ngày nghĩ tới, nghĩ lui bữa nay ăn cơm xong chị nhẹ nhàng mở lời với anh:

Chỉ còn nửa tháng nữa là hết hợp đồng nhà, em tính nói với anh dạo này em không khỏe, mình trả nhà rồi ai về nhà nấy.

Anh giãy nảy lên

“Em nói thế mà nghe được à! thằng này có phải con nít đâu mà vui thì ở, buồn thì đi”

Chị đành phải tung chiêu cuối cùng

Em bị viêm gan siêu vi C, giờ nếu ở chung lây sang cho anh thì nguy hiểm lắm.

Anh hoảng hốt

“Ờ vậy thì đường ai nấy đi, còn tiền cọc tính sao?”

Chị cười buồn!

Mai em về nhà em, anh cứ ở cho hết tháng rồi làm việc với chủ nhà, tiền cọc (thật ra là tiền của chị) anh cứ lấy mà tiêu.

Anh “ừ” nhẹ tênh! Vậy là chấm hết một cuộc tình.

Nửa năm trước chị gặp anh ở câu lạc bộ dưỡng sinh. Cùng cảnh góa bụa nên cả hai dễ dàng tìm được tiếng nói chung.Tuy đã 60 tuổi nhưng trông chị vẫn trắng trẻo, đầy đặn, phúc hậu. Anh hơn chị 5 tuổi nhưng vì chăm tập thể thao nên nhìn anh rất phong độ, đẹp trai. So với ông chồng già đã khuất của chị thì anh hơn hẳn, vừa chiều chuộng, vừa ga lăng. Muốn hoa có hoa, muốn thơ có thơ. Facebook, Zalo, Viber suốt ngày tưng bừng, rộn rã. Ánh mắt lấp lánh của chị như ngầm công bố cho mọi người biết về quan hệ mới của hai anh chị. Các con của chị đều rất thương mẹ nên vui vẻ tán đồng. Mấy người con của anh đã có gia đình riêng cũng không phản đối. Vẫn là đứa con gái mà chị coi như bạn đề nghị:

“Mẹ với bác đi thuê căn hộ ở chừng vài tháng xem sao, nếu hợp thì tiến tới, thông báo với họ hàng hai bên, làm một cái lễ nho nhỏ mẹ à! còn nếu không hợp thì thôi, cũng đỡ mang tiếng”

Vậy là chị bàn với anh rồi cùng đi thuê căn hộ nho nhỏ.Tiền cọc một tháng, tiền nhà 3 tháng chị trả hết vì anh nói sổ tiết kiệm của anh chưa tới kì hạn.

Ngay bữa cơm chung đầu tiên chị đã ngỡ ngàng! Anh ngồi cắm cúi ăn hết món này đến món khác, miệng thì sai chị liên tục. Bữa cơm có một tiếng mà chị đứng lên ngồi xuống không biết bao nhiêu lần, lúc thì lấy ớt, lúc thì thêm mì chính, món thì bỏ thêm một chút đường… Sau đó vừa nhìn chị dọn dẹp bát đĩa anh vừa xỉa răng tanh tách và nói:

“Vợ anh ngày xưa nấu ăn ngon lắm, em cố gắng xem sách dạy nấu ăn đi, anh là ngày phải ăn đủ ba bữa tươm tất, món ăn lúc nào cũng phải nóng sốt, không ăn lại đồ cũ được đâu em”.

Chị chạnh lòng nhớ đến chồng mình. Vì lớn hơn chị nhiều tuổi nên anh rất nhường chị, chị nấu gì anh ăn nấy, đến bữa cơm anh toàn gắp cho chị những món mới còn anh lẳng lặng ăn lại đồ ăn cũ từ bữa trước. Mấy chục năm chung sống chưa khi nào anh đòi hỏi chị bất cứ điều gì.

Ngày nối ngày chị bắt đầu nuối tiếc cuộc sống yên ả trước khi gặp anh. Sáng làm biếng gặm trái bắp rồi coi phim bộ, trưa chiều gọi ông đi qua bà đi lại tô hủ tiếu, đĩa xôi cũng xong. Còn giờ đây mới mở mắt ra chị đã phải tất tả ra chợ lo mua đồ ăn cho đủ 3 bữa tươm tất như lời anh dặn. Về nhà hì hụi, lọ mọ dưới bếp cả buổi, đến bữa thì ngồi như học sinh chưa thuộc bài chờ anh kiểm tra, ban phát những lời khen tặn tiện.

Con anh 3 đứa cộng 6 đứa cháu nội ngoại thường xuyên ghé chơi xem chị chăm anh như thế nào. Mỗi lần tới trẻ con thì la hét, bầy bừa người lớn thì ăn nhậu tới khuya. Khách về chị rửa bát, dọn dẹp còn anh ôm cây đàn guitar ra ban công ngồi gảy. Ngày mới quen nhau chị mê đắm tiếng đàn của anh, ngồi hàng giờ ngắm mái tóc bồng bềnh của anh buông xõa xuống trán. Giờ đây chị mỏi mệt, hững hờ đấm cái lưng nhức nhối vì suốt ngày phải hầu con, trông cháu người ta. (Chồng cũ chị không biết đàn, biết hát nhưng trong nhà từ việc lớn đến việc bé anh cặm cụi làm, lo cho chị hết) Mới hơn 2 tháng chị đã phải tới nhà anh nấu 3 cái đám giỗ, rửa cả một nhà chén bát. Mấy cô em gái anh không hề phụ chị một chút nào mà còn ngồi thi nhau kể anh ngày xưa đẹp trai như thế nào, tài giỏi ra sao, bao nhiêu người đẹp hơn hoa hậu theo đuổi mà anh lại chọn chị, phúc ba đời nhà chị đó nên chị cố gắng mà lo liệu cho tốt.

Thỉnh thoảng hai đứa con chị đảo qua xem mẹ có khỏe không thì anh đi tới, đi lui nhìn đồng hồ ngầm nhắc chị sắp đến giờ nấu cơm. Chị biết ý nói với con lần tới mẹ con gặp nhau ở nhà riêng của chị, giờ chị vẫn đang để không, tranh thủ mỗi lần đi chợ chị ghé về tưới cây, nhổ cỏ, thắp nén nhang cho chồng đỡ quạnh hiu.

Mới hơn 2 tháng mà tiền để dành của chị vơi đi quá nhiều.Trước lúc mất chồng chị đưa cho chị 2 quyển sổ tiết kiệm hơn 2 tỉ. Tiền lãi hàng tháng, tiền các con biếu thêm chị sống rất thoải mái, thỉnh thoảng còn đi du lịch đó đây. Từ ngày quen anh đến giờ mọi chi phí chị phải lo, ngoại trừ tháng đầu chung sống anh góp 5 triệu tiền cơm, anh luôn nói là chờ đến hạn rút tiết kiệm anh sẽ đưa cho chị. Tiền giỗ chạp, tiền đóng học cho cháu anh, chị cũng phải bỏ ra.

Chị chán lắm rồi, chị nản lắm rồi. Ngày khổ một thì đêm khổ mười. Anh thì còn đang hừng hực mà chị nào huyết áp cao, nào tiểu đường chị chiều anh không nổi. Mới vài ngày trước đây sau khi gần gũi anh dài giọng đay nghiến

“Em lúc nào cũng nằm như khúc gỗ ấy, chả bằng một góc vợ anh”.

Rồi anh lăn ra ngáy, còn chị cả đêm ra ban công ngồi ôm mặt khóc. Đến sáng chị quyết định bằng mọi giá phải về nhà cũ thôi.

Anh chị chia tay rất nhẹ nhàng! Giờ mỗi lần nhớ lại chị coi quãng thời gian gần 3 tháng ấy như một giấc mơ, có điều giấc mơ dù đẹp, dù xấu thì cũng phải tỉnh thôi.( st )

May be an image of one or more people and text

BLIND MAN

BLIND MAN

Anh bị mù từ lúc mới sinh ra. Tức là thế giới xung quanh anh chỉ là một màu đen kịt. Thậm chí anh không có cả khái niệm về màu sắc nữa, chỉ biết mẹ anh bảo đó là màu đen.

Mù bẩm sinh ít có cơ hội để phục hồi cho nên những lần đi khám, chữa bệnh thường kỳ đối với cha mẹ anh cũng chỉ là phương pháp để an ủi và nuôi hy vọng cho con mình mà thôi…

Điều mà họ có thể mang lại lợi ích thiết thực nhất cho anh là gửi anh vào một trường học chữ cho người mù …

Từ khi biết đọc, anh hình dung được vạn vật mà không nhất thiết phải dùng đến tay để sờ mó…

Anh rất thích những bông hoa vì thấy nó mềm mại, và có mùi thơm khác nhau… Người ta nói, những người bị mù thì thường các giác quan khác cực kỳ phát triển, điều này rất đúng với anh. Hàng chục các loại hoa khác nhau, chỉ cần đưa lên mũi là anh có thể nói tên vanh vách.Người ta thường khen hoa đẹp, mà chẳng bao giờ thấy ai chê…cho nên anh có ước mơ: Nếu được nhìn thấy ánh sáng cho dù chỉ một lúc thôi thì ngoài cha mẹ ra anh sẽ chọn những bông hoa để ngắm nhìn chiêm ngưỡng…

Từ khi biết đọc, anh còn biết thêm hoa còn là biểu tượng khi người ta ngưỡng mộ tôn sùng lẫn nhau …

Năm nay anh đã 17 tuổi, trong thế giới đen kịt của anh bỗng thỉnh thoảng lại lóe lên những “tia chớp” có màu khang khác, không phải màu đen. Thấy lạ, anh kể với bố mẹ. Họ lập tức đưa con trai đi khám … Sau 2 ngày xem sét kỹ các kết quả khám nghiệm, bác sỹ chuyên ngành gọi riêng cha mẹ anh đến để nói chuyện:
– Con trai của ông bà bị mù bẩm sinh là do thiếu tác động của một loại hormone, chúng tôi đã dùng nhiều loại thuốc để kích hoạt nhưng không có hiệu quả… Năm nay cháu 17 tuổi, tuổi dậy thì. Nội tiết tố trong cơ thể thay đổi, nếu cháu tự nhiên nhìn thấy những tia sáng, điều này chứng tỏ hormone đã có những tác đông tích cực đến thị lực của cháu. Đây là một điều rất đỗi khả quan cho chúng ta… Nếu ông bà đồng ý tôi sẽ gửi các mẫu xét nghiệm của cháu ra nước ngoài. Vạn sự mà được như ý thì chỉ sau một cuộc phẫu thuật của họ, ánh sáng sẽ đến với con trai của ông bà … Có điều là, chi phí cho việc này rất tốn khém, nếu gia đình ta không có điều kiện thì tôi cũng không thể giúp được điều gì hơn…

Tất nhiên là cha mẹ anh đồng ý ngay lập tức, đối với họ việc này không cần phải suy nghĩ vì họ chỉ có với nhau một đứa con trai. Còn chuyện tiền nong thì họ có thể lo được, nếu cần thì sẵn sàng bán đi tất cả để đổi lấy ánh sáng, đã từ lâu tối mờ trong gia đình của mình…
Bác sỹ bổ sung thêm:
– Trong thời gian chờ đợi có khi tới khoảng 2 tháng. Tôi nghĩ, con trai của ông bà phải sống tại trại điều dưỡng và phục hồi khuyết tật cho người mù của chúng tôi, để được theo dõi thường xuyên và sâu sát hơn. Và đặc biệt trong thời gian này, cháu nó tuyệt đối không được khủng hoảng về tinh thần, như tức giận, đau buồn, thất vọng … Tôi nói vậy chắc ông bà hiểu… Tất cả chúng ta phải cố gắng cùng nhau tạo cho cháu một môi trường sống thật bình yên và vui vẻ…

Cô cũng bị “mù”, nhưng chỉ là tạm thời, đó là kết quả của 1 va chạm cơ học trong một tai nạn giao thông…
Cô vào trạm điều dưỡng này đã hơn 3 tuần. Theo lời các bác sỹ thì quá trình phục hồi của cô rất kém bởi vì cô hay khóc và tức giận mỗi khi chạm vào những vết sẹo chưa lành hẳn trên cơ thể và chỉ nhìn thấy trước mặt mình một màn tối đen …

Hôm nay, đang ngồi thừ ra suy nghĩ “chuyện đời” thì cô được bác sỹ trưởng khoa gọi lên phòng khám, nghe nói ông này là chuyên gia lẫy lừng đã mang lại “ánh sáng” không biết cho bao nhiêu người…
– Cháu ngồi xuống đi – Bằng giọng nói đầy truyền cảm và thuyết phục bác sỹ nói với cô gái:
Đáng nhẽ ra cháu được xuất viện từ lâu rồi, nhưng chỉ vì thiếu lạc quan với cuộc đời và hay khóc cho nên cháu cho đến giờ vẫn ngồi trước mặt chú đấy
– Nhưng…Cô định nói gì đó nhưng ông đã ngắt lời:

– Thôi bỏ qua chuyện đó đi, hôm nay chú có một chuyện khiến cháu sẽ vui và không bao giờ khóc nữa, bệnh của cháu chẳng mấy chốc mà lành. Cháu sẽ được giao một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng và sẽ không còn cảm giác là người thừa khi vào đây nữa
Cô bắt đầu thấy tò mò và lần đầu tiên kể từ khi bị tại nạn cô mỉm cười:
– Nhiệm vụ gì thế hả chú ?
– Ngày mai sẽ có một chàng trai trạc tuổi với cháu nhập viện để chờ một ca mổ tại nước ngoài, anh ấy thật đáng thương vì bị mù cả 2 mắt từ lúc mới sinh ra, nhưng lại rất lạc quan và yêu đời, đặc biệt có rất nhiều tài năng mà người bình thường kông thể có. Tiếp xúc với anh ấy, cháu sẽ thấy rất thú vị cho mà xem … Nhiệm vụ của cháu là chủ động tiếp cận làm quen, chia sẻ mọi chuyện buồn vui, mục tiêu là để anh ấy không bị rơi vào trạng thái khủng hoảng tinh thần do nhớ nhà và cô đơn gây ra.

Thấy mình được người lớn tin cậy và cũng vì sự tò mò của một cô gái mới lớn chưa có người yêu, cô gật đầu đồng ý.
Trước khi cô ra về bác sĩ còn nói với theo  “Bằng mọi giá cháu nhé, nhớ đấy! Chú rất hy vọng ở cháu!”

Nhiệm vụ được giao đã hoàn thành một cách xuất sắc. Chỉ có vài ngày mà họ đã thân quen như đã từng biết nhau từ thủa thiếu thời…

Chưa bao giờ cô thấy có một “nhiêm vụ” nào mà nó đáng yêu đến thế! … Chàng trai luôn làm cô ngạc nhiên về tài sử dụng các giác quan khác của một người khiếm thị bẩm sinh … Chỉ cần sờ lên các đồ vật là anh biết ngay chúng được làm bằng gỗ, nhựa hay sắt thép… Hỏi, “tại sao anh biết?” thì nghe câu trả lời rất đơn giản “chúng nóng lạnh khác nhau mà”.

Nhất là tài phân biệt các loại hoa thì cô phục sát đất luôn! Cô hay được bố mẹ, bạn bè mang hoa đến tặng, anh ngửi chúng và gọi tên chẳng bao giờ sai. Thậm chí hoa tulip và thược dược chẳng có mùi vị gì mà anh cũng phân biệt được…

Anh thì cũng “mê” cô chẳng kém, mê từ giọng nói. tiếng cười, đặc biệt là cái sở thích “yêu hoa” của cô rất giống anh. Qua các câu chuyện của cô, thế giới không những trở nên nhiều màu mà nó còn có thêm cả vị nữa, đó chính là vị ngọt của tình yêu mà anh chưa được biết…

Hai tuần đã trôi qua… Tình yêu là bản năng gốc của con người không phận biệt ngoại lệ, nó đã đến là không ai có thể né tránh được… Anh và cô cũng vậy, họ yêu nhau từ lúc nào mà chẳng biết … Gặp nhau từ sáng đến tối mà họ vẫn thấy “thiếu” nhau kinh khủng, màn đêm trong đôi mắt anh luôn luôn có chớp giật, nhất là những khi họ cầm tay, dắt nhau đi chơi…

Tất nhiên nhiệm vụ nào mà chẳng có “sự cố” … Đó là lần anh bỗng nhiên ôm cô thật chặt, cô muốn kêu lên và đẩy anh ra nhưng nhớ lại lời dặn của bác sỹ, cô nhanh trí nói nhỏ vào tai anh “Em bị tai nạn, cơ thể vẫn còn đau lắm, tạm thời mình đừng làm thế anh nhé!” …
Vị bác sỹ đôi khi cũng muốn hỏi cô về cái nhiệm vụ ấy đã làm được đến đâu, nhưng hàng ngày vẫn được nghe tiếng cười của họ từ hành lang vọng vào phòng khám, ông lại thôi và chỉ mỉm cười mãn nguyện…

Một lần anh đợi cô ở trước cổng viện, bỗng có một thứ mùi rất đặc biệt của các loại hoa trộn lẫn nhau… Anh cất tiếng gọi:
– Này! Người bán hoa ơi! Làm ơn lại đây cái nào! …
Bà bán hoa chạy lại:
– Cậu gọi tôi à? không nhìn thấy gì sao mà biết được nhỉ?”
Anh chỉ mỉm cười:
– Bà làm ơn bán cho cháu mấy bông hoa màu vàng và màu tím có được không ạ? Cô ấy thích hai màu này lắm …
Cầm lấy bó hoa nhỏ anh đưa lên mũi hít từng hơi thật dài, cô cũng vừa chạy tới, anh đưa hoa cho cô rồi nói:
– Anh thấy trong sách họ viết, hoa là biểu tượng cho sự tốn sùng và ngưỡng mộ lẫn nhau, em cầm lấy đi, đây là lần đầu tiên anh tặng hoa cho một cô gái đấy …

Cô cầm hoa rồi bẽn lẽn dụi đầu vào ngực anh:
– Em cũng thế, lần đầu tiên được một người đàn ông tặng hoa, em sẽ giữ nó mãi anh nhé!”…
Một tháng trôi qua, cô đã bình phục, hình dáng của anh đã rõ nét chứ không còn “lờ mờ” như xưa, anh cao lớn, đẹp trai còn hơn cả cô tưởng tượng… Đôi khi cô còn chạnh lòng “To cao đẹp giai vậy, sau này khỏi bệnh chắc gì đã đoái hoài đến mình!!”

***

Và tin vui của anh cũng đã đến trước thời hạn… Bên kia họ điện về bảo bệnh nhân phải sang gấp để khỏi bỏ lỡ cơ hội “ngàn năm có một ” . Bệnh của anh là đề tài nghiên cứu khoa học của rất nhiều người cho nên được miễn phí. Gia đình anh chỉ cần phải lo chuyện đi lại ăn ở mà thôi…

Ngày chia tay, thấy anh có vẻ buồn khi cùng cha mẹ bước ra khỏi cổng viện… Cô gọi, anh quay lại, họ ôm chặt lấy nhau, cô thì thào: “anh hãy vui lên, đừng buồn, thành công hay thất bại em cũng vẫn sẽ đợi anh về với em”, nói rồi cô đặt lên môi anh một nụ hôn vụng về nhưng nồng cháy… Lần đầu tiên anh được biết “nụ hôn” có sức mạnh ghê gớm như thế nào. Toàn thân anh như bốc lửa, màn đêm trong mắt anh lại nổi cơn giông tố đầy màu sắc…

Lại một tuần trôi qua, không có ngôn từ nào có thể lột tả hết niềm vui không giới hạn của anh khi được tháo băng trên mắt. Trong cái phòng tối đó, lần đầu tiên trong đời, anh nhìn thấy mọi người và các đồ vật ở xung quanh mình…

Rồi, tất cả đi ra, chỉ còn anh và bố mẹ ở lại ôm nhau mà khóc, nước mắt được nhân ba trong một niềm vui đang nức nở…
Vài ngày sau anh đã được tiếp cận với mặt trời. Việc đầu tiên là anh ra vườn trước cổng bệnh viện để ngắm những bông hoa…
Nếu như mặt trời rực rỡ gấp trăm lần trong tiềm thức , thì những bông hoa còn đẹp hơn gấp nghìn lần so với trí tưởng tượng của anh hồi ấy….
Và anh nghĩ đến cô, anh không biết cô trông như thế nào nhưng tấm lòng cô dành cho anh có lẽ còn đẹp hơn gấp vạn lần mặt trời và hoa…
Anh nhắm mắt lại, trong vườn rất nhiều hoa, nhưng anh không tìm thấy mùi vị của những bông hoa mà anh đã tặng…

Ngày bay về nước, mẹ nói với anh: “Cha mẹ đã sinh ra con lần thứ nhất trong bóng tối nhưng may mắn thay con lại được người ta tái sinh lại dưới ánh mặt trời, con có biết những người ấy là ai không?” Anh trả lời không chút ngần ngừ
– Đó là bác sỹ trưởng khoa viện mắt Trung Ương “…
– Còn ai nữa?”
Anh lắc đầu, thì mẹ nói:
– Là người yêu của con đấy, hơn một tháng chờ đợi phẫu thuật, cô ấy đã đem hết tình yêu, lòng bao dung của người phụ nữ dành cho con, để cảm giác hạnh phúc không rời con nửa bước mặc dù đáng nhẽ ra cô ấy đã được ra viện từ lâu
Bây giờ anh mới hiểu, và càng cảm thấy nhớ cô hơn… Mẹ lại nói:
– Chuyện con lành bệnh mọi người đã biết cả rồi. Họ quyết định ra sân bay để đón con đấy, liệu con có thể dùng trực giác của mình như xưa để tìm ra họ được không?
Anh nói giọng quả quyết
– Con sẽ làm được mà, hãy tin ở con đi…

Qua khỏi hàng rào kiểm soát, trước mắt anh là cả một rừng người, hoa nhiều vô số, họ đang ngóng đợi người thân của mình trở về…
Thấy anh có vẻ hoang mang mất phương hướng, mẹ anh động viên:
– Con hãy tìm đi! họ đứng ở hai nơi khác nhau nhưng đều mang theo những dấu hiệu riêng mà con còn nhớ…
Anh nhắm mắt lại suy nghĩ gì đó rồi nói với mẹ:
– Mẹ lấy cái khăn và bịt mắt con lại đi !”

Mẹ anh làm theo, cả thế giới ngày xưa lại trở về… Anh đi lang thang giữa dòng người…

Thấy chuyện lạ nhiều người quên cả việc đón thân nhân, nhìn anh theo dõi… Bỗng anh dừng lại, cởi khăn che mắt rồi quỳ gối trước một người đàn ông tuổi trung niên giọng ngẹn ngào:
– Chú ơi, con đã về với chú đây này! Cám ơn chú đã đem lại cho con điều rực rỡ nhất của cuộc sống con người là ánh sáng mặt trời…
Người đàn ông vội đỡ anh dậy:
– Con vẫn giỏi giang như xưa, chỉ cần chú mặc bộ blu của bệnh viện có mùi thuốc mà hàng ngày con phải uống là đã nhận ra rồi. Bây giờ thì con hãy đi tìm tình yêu của mình đi, mau lên!”
Anh lại buộc khăn che mắt và đi tiếp vào dòng người, họ như biết chuyện của anh, tất cả đứng im lặng để cổ vũ …

Cô vội đỡ anh lên, vì cô không muốn anh phải quỳ… Anh cũng không cởi khăn vì chỉ muốn cho cô biết rằng cô luôn xinh đẹp và cao cả như xưa, tấm lòng của anh bây giờ dành cho cô vẫn là tấm lòng của thằng mù hồi ấy và sẽ không bao giờ thay đổi theo thời gian…

Họ ôm hôn nhau trong tiếng vỗ tay của tất cả những ai hôm đó đã từng có mặt tại sân bay này…
Có một điều khó hiểu đối với nhiều người là tại sao anh lại tìm ra cô dễ dàng đến như vậy? Chuyện này đối với anh thật đơn giản, anh đi theo mùi vị đặc biệt của một bó hoa mà cô đang cầm ở trên tay, bó hoa mà hôm đó anh đã tặng cô ở cổng bệnh viện, nó đã khô lại nhưng hương vị thì vẫn chưa phai mờ…

07-05-2019

From: TU-PHUNG

Nhà tôi rất nghèo.

Nhà tôi rất nghèo. Nhà nghèo nên cái gì mẹ cũng mang đi bán. Từ mấy ngọn rau ngót, rau mùng tơi đến quả chuối, quả hồng, quả bưởi hay con gà, con chó, con mèo, mẹ đều cho vào cái mẹt con, đội ra chợ bán hết. Mẹ bảo phải bán để dành dụm tiền cho các con ăn học.

Nếu không bán thì mẹ lại để mang đi biếu, đi cho. Mỗi khi ra thăm các bác ở thành phố, có cái gì ngon, cái gì đẹp mẹ đều mang đi làm quà biếu hết. Mẹ bảo của biếu, của cho thì phải đàng hoàng kẻo người ta lại cười cho.

Thế là còn bao nhiêu những cái xấu xí, sâu si, đầu thừa, đuôi thẹo thì để lại nhà dùng. Nhiều khi tôi cứ nghĩ có khi cả đời bố mẹ cũng chả được miếng ăn ngon.

Một hôm, đi học về, thấy mẹ đang vặt lông gà, tôi chạy ào xuống, ôm cổ mẹ, vừa nhảy tưng tưng, vừa reo lên sung sướng:

– “A! Hôm nay nhà mình được ăn thịt gà! Thích quá! Thích quá!”.

Mẹ nuôi hơn chục con gà nhưng trừ dịp tết nhất, giỗ chạp ra chẳng bao giờ thịt nên có khi cả năm mới có miếng thịt gà mà ăn. Cứ nghĩ đến đĩa thịt gà lá chanh, tôi lại thấy đói cồn cào ruột gan, nước miếng chảy qua kẽ răng nuốt không kịp.

Tôi nhún vai mẹ giục:

– “Mẹ thịt gà nhanh lên mẹ, con thèm lắm rồi!”

Mẹ cười:

– “Mẹ cha mày, chỉ được cái ăn là giỏi !”

Hóa ra con gà nhà tôi bị chó vồ. Lúc mẹ phát hiện ra thì nó đã bị ăn mất một góc. Tiếc của, mẹ lôi cổ con chó về, lấy chiếc dép nhựa đánh cho nó mấy cái vào mõm, dí mũi nó sát vào con gà chết dọa sẽ cho ăn riềng nếu còn tái phạm.

Tôi thì lại thấy vô cùng sung sướng, muốn cảm ơn con chó đáng ghét vì nhờ nó mà tôi mới có cơ hội được ăn thịt gà.

Có thịt gà, bữa cơm nhà tôi vui hơn hẳn. Mọi hôm, đến bữa, phải gọi mỏi mồm chị em tôi mới thèm về ăn cơm. Nhưng hôm nay, không đứa nào bảo đứa nào tự giác túc trực ở nhà từ lúc mẹ thịt gà cho đến lúc ăn cơm, không bước ra ngoài nửa bước.

Mẹ cứ quay vòng hết gắp cho bố lại gắp cho chị em tôi mà chẳng thấy gắp cho mình. Tôi vừa nhai nhồm nhoàm vừa hỏi:

– “Ơ, sao mẹ không ăn?”

Mẹ cười bảo:

– “Mẹ không thích ăn thịt gà.”

Thằng em tôi nhe răng cười vô tư:

– “Mẹ ơi, mình ăn thừa của chó mà ngon nhỉ mẹ nhỉ!”

Tôi tức mình quát:

– “Không phải ăn thừa. Đây là mẹ cướp được của nó chứ. Mẹ mà về muộn tí nữa thì con chó đã xơi hết rồi còn đâu nữa mà ăn!”

Mẹ lại gắp cho mỗi đứa một miếng nữa vào bát:

– “Thôi ăn đi! Ăn đi! Chúng mày nhiều chuyện quá!”

Ăn xong, vừa buông đũa buông bát, anh em tôi đã chạy ù đi chơi với cái bụng no nê đầy năng lượng. Nhưng vừa chơi được một tẹo, tôi đã thấy khát nước nên phải chạy về uống. Có lẽ vì món thịt gà rang của mẹ hơi mặn.

Vừa tới cửa bếp, tôi đã phải lùi lại, nép vào sau cánh cửa. Dưới ánh sáng hơi tối của chiếc bóng tiết kiệm điện bị mạng nhện bao phủ, mẹ đang gặm lại những miếng xương gà mà chúng tôi đã ăn. Chẳng biết nó có còn dính tí thịt nào không nhưng nhìn mẹ gặm có vẻ như chúng rất ngon lành.

Lòng tôi thắt lại, tim tôi nhói đau muốn chạy lại ôm mẹ thật chặt nhưng sợ mẹ tủi nên không dám. Tôi khẽ lùi ra ngoài, chạy đến một gốc cây to, ngồi ôm mặt khóc.

Bây giờ, tôi đã học xong đại học, đi làm, có tiền, mỗi lần về nhà đều mua rất nhiều đồ ăn ngon cho mẹ ăn. Nhưng lần nào về cũng thấy đồ ăn trong tủ lạnh vẫn còn nguyên.

Tôi cằn nhằn thì mẹ cười bảo:

– “Răng rụng hết rồi còn đâu nữa mà ăn?”

*Ba Cong.

Oan Trái-Truyện ngắn – Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

Truyện ngắn – Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

Oan Trái

Sau ngày đình chiến theo Hiệp định Geneve năm 1954, Đỗ Thị Tình kết hôn với Phan Văn Anh, một Chính Trị Viên tiểu đoàn của bộ đội Việt Minh.

Một tháng sau, chồng đi tập kết ra Bắc để nàng ở lại trong Nam. Tình có nhan sắc mặn mà nên lắm người tán tỉnh. Vài anh thanh niên trong xã , dăm cán bộ Dân Sự Vụ năng lui tới nhà, khiến Tình lo ngại bỏ quê đến đất Gia Ðịnh vào chùa lánh thân giữ mình. Nàng có hạnh nguyện ở chùa hai năm, chồng về sẽ trở lại đời sống bình thường hưởng cảnh hạnh phúc trần tục.

Thời gian kéo dài, người chồng năm xưa vẫn biền biệt. Tình không ngờ nàng đã chôn gíấu cuộc đời son trẻ của mình trong chiếc áo nâu sòng lại lê thê vô vọng. Và từ một ni cô “Kệ kinh câu cũ thuộc lòng, hương đèn việc trước, trai phòng quen tay.”(*) Ni cô Thích Tâm Ngọc (tục danh Đỗ ThịTình) đã trở thành Sư trụ trì chùa D.Q. thay Sư Bà Thích Tâm Huệ viên tịch.

Bà Đỗ Thị Thân là chị ruột của Sư Trụ trì Thích Tâm Ngọc gởi con trai là Bùi Hữu Thiệt vào chùa D. Q. tạm trú để theo học đại học tại Sài Gòn. Thiệt chỉ lo ăn học, tính tình chất phát ,vô tư.

Một hôm, Thiệt nhận được một số sách tái bản của nhóm Tự Lực Văn Ðoàn do một phật tử vô danh gởi tặng. Các tác phẩm nổi tiếng ngày xưa mà Thiệt rất mê đọc như Gánh Hàng Hoa, Ðọan Tuyệt… Thiệt giật mình bởi khoảng mười trang đầu là truyện, còn những trang trong thì in toàn tài liệu tuyên truyền của Việt cộng như “Những Mẫu Chuyện Trong Ðời Hồ Chủ tịch”, “Ba Mươi Năm Ðời Ta Có Ðảng”… Thiệt bắt đầu lo ngại và nghi ngờ những hoạt động của chùa D. Q. , vì vậy, hắn quyết định xin phép bà dì Trụ trì được vào ở khu nội trú sinh viên với lý do dành thì giờ đến thư viện đọc sách tham khảo.

Vừa tốt nghiệp đại học lại trúng đợt Tổng động viên, Bùi HữuThiệt không chần chừ nhập ngũ khóa Sĩ quan Trừ bị Thủ Ðức. Bà Thân , Mẹ của Thiệt bảo chạy giấy tờ hoãn dịch vì “hoàn cảnh con một” nhưng Thiệt từ chối. Hắn khuyên mẹ yên tâm, sau khi mãn khóa hắn sẽ làm đơn xin phục vụ tại đơn vị không tác chiến. Qua giai đoạn 2, Thiệt được chọn vào khóa sĩ quan kỹ thuật không quân.

Sau bốn năm phục vụ tại phi trường Biên Hòa, Trung úy Bùi Hữu Thiệt cưới vợ và yêu cầu mẹ bán nhà vào ở với hắn nơi cư xá không quân. Bà Thân luyến tiếc ngôi nhà, không nỡ dứt bỏ cái thị trấn mà bà đã gắn bó từ thời ấu thơ, dù biết rằng nơi nầy không còn an ninh nữa.

Ðêm 24 tháng 3 năm 1975, Bộ Chỉ Huy Tiểu khu QN được lệnh rút quân về Chu Lai, nơi đóng quân của BTL Sư đoàn 2 BB. Người người tranh nhau theo chân quân đội rời thị trấn hướng về Chu Lai tìm nơi an toàn. Bà Thân mệt mỏi, cô đơn chẳng màng chạy lánh nạn. Bà chỉ sốt ruột lo lắng cho gia đình con trai ở Biên Hòa có mệnh hệ nào không.

Bà hối hận đã không nghe lời con. Tháng trước đây, Thiệt có đánh điện nhắn mẹ vào Biên Hòa gấp vì tình hình bất ổn. Bà Thân cứ chần chừ mãi đến nay thì muộn rồi. Thôi thì phó mặc cho số mạng. Ý nghĩ như thế, nhưng trước tình hình bất lợi cho phía Quốc gia, trong thâm tâm bà Thân lại mừng thầm rằng bà có cơ hội gặp lại ông Dinh chồng bà và đứa con trai út tên Bùi Văn Thà đã tập kết ra ngoài miền Bắc đã gần hai mươi mốt năm. Niềm hy vọng đoàn tụ với chồng con ngày càng gần giúp cho lòng bà yên ổn trở lại.

********

Chiếc xe con kiểu Liên xô băng qua cổng vào chùa D. Q., theo sau là chiếc Molotova chở đầy bộ đội cộng sản Bắc Việt, kéo theo một khẩu đại pháo. Tất cả dừng trước sân chùa. Người chỉ huy và hai lính bảo vệ xuống xe vào thẳng khu chánh điện.

A Di Ðà Phật, giọng trầm trầm của một Ni cô vẳng lên từ trên điện thờ. Trong bộ cà sa màu khói hương , Ni cô tiến đến trước mặt ba người bộ đội:

– A di đà Phật, quý khách cần gì ?

Người chỉ huy lên tiếng :

– Tôi cần gặp chủ hộ ngôi chùa nầy.

– A Di Ðà Phật, Ni cô quay mặt đi vào cửa hông chánh điện. Một lát sau, sư Trụ Trì đến trứơc mặt ba người đang giương mắt nhìn những tượng phật mạ vàng trên bàn thờ sáng trưng. Không biết trong đầu họ đang nghĩ gì trước cảnh chùa lộng lẫy đến khi vị Sư Trụ Trì lên tiếng A Di Ðà Phật họ mới giật mình hỏi :

– Bà đứng tên chủ hộ chùa nầy phải không ?

– A Di Ðà Phật, thưa phải .

– Tôi là Thủ trưởng của trung đoàn pháo của Cách mạng, được cơ sở địa phương chỉ dẩn đến đây thông báo cho bà rõ một đơn vị pháo của lực lượng cách mạng sẽ đóng chốt tại vườn chùa nầy.

Nghe giọng nói của người xứ Quảng pha giọng Bắc , vị sư Trụ trì ngước nhìn gương mặt người chỉ huy, đột nhiên sư cúi xuống thầm thì: “Ôi, Anh …” rồi ngã khuỵ xuống. Ba lính Bắc Việt quay lưng rời khỏi chánh điện. Các ni cô bên sau điện thờ vội chạy ra dìu sư phụ mình vào trong.

Ðặt sư nằm trên chiếc giường tại phòng tĩnh tâm, các đệ tử nhìn nhau lo ngại. Lần đầu tiên họ thấy tâm tư thầy bất an dường như có điều gì đó đang khuấy động đời sống tu hành . Họ nào biết khuôn mặt người chỉ huy Trung đoàn pháo đã đánh thức ký ức của Sư Trù trì nhớ lại kỷ niệm của hai mươi mốt năm về trước. Lòng rạo rực yêu đương của người con gái trong tuổi xuân thì đã bị lừa dối làm con tin trong sách lược cài người của CS Hà Nội chuẩn bị cho cuộc lấn chiếm Miền Nam sau này càng làm nhói buốt tim bà. Khuôn mặt lạnh lùng khắc khổ của người chồng cũ khơi thêm nỗi đau làm rối loạn Bồ Ðề Tâm của bậc tu hành.

Sư trụ trì ngồi dậy, chậm rãi đi về hướng chánh điện gióng hồi chuông đảnh lễ trước điện thờ Phật rồi tọa thiền dưới chân Ðức Thế Tôn tụng tạng kinh Bát Nhã lấy lại sự yên tĩnh tâm hồn.

*******

Hai mươi mốt năm sống ở miền Bắc, Bùi Mậu Thà được chế độ đào tạo thành một bác sĩ. Đầu năm 1976, Thà về Nam gặp lại mẹ . Người anh cả Bùi Hữu Thiệt sĩ quan miền Nam đang ở trong tù. Bà Đỗ thị Thân mừng rỡ khi gặp lại đứa con trai út sau bao năm trời xa cách. Bà đã ngoài sáu mươi tuổi, dành dụm được một số vàng, thương đứa con xa cách lâu năm nên chia cho Thà một nửa. Năm lượng vàng đối với một bác sĩ ở miền Bắc là cả một gia tài. Thế nhưng,vợ chồng hắn nghi ngờ số vàng mẹ chia có thể chỉ một phần mười hay một phần hai mươi.

Ba tháng sau do vợ hối thúc, Thà quay về đòi mẹ phải đưa thêm vàng. Mẹ thực lòng nhưng con không tin, bà cảm thấy bị xúc phạm nặng nề. Thương con, bà đã gom góp chút của cải cuối cùng chia đều cho hai đứa, thế mà hắn vẫn ngờ vực tấm lòng rộng rãi của mẹ. Bà giận lắm, bèn bảo :

– Năm cây vàng đó là ân huệ của tao cho, mầy chẳng có quyền gì đòi hỏi. Số còn lại là phần của thằng Thiệt, anh ruột mầy đang ở trong trại tù cải tạo, và một ít của tao dành để dưỡng già.

Thà nói :

– Bà quên rằng tên lính ngụy đó đã đi ngược lại truyền thống cách mạng của gia đình ta, mượn bom Mỹ giết chết người cha suốt đời tận tụy với Ðảng để lại những đứa con côi cút ở Hà Tỉnh.

Nhắc đến người chồng phụ bạc, bà Thân không nén được cơn đau. Lão Dinh ra Bắc chưa đầy ba năm là lấy người vợ khác, riêng bà vẫn chung thủy chờ chồng. Sau ngày Ba Mươi tháng Tư 1975 bà Thân mới biết được tin chính xác ông Dinh đã tử thương dưới chân súng phòng không đặt tại cầu Hàm Rồng trong trận máy bay Mỹ ném bôm.

Mối hận tình âm ĩ làm khô héo tim bà. Giờ đây chính miệng thằng con trai út giở giọng chửi anh ruột mình là ngụy lại còn bênh vực người cha đốn mạt , cơn giận ập đến như thác vỡ bờ, bà hét lên :

– Cả lũ bay là đồ bất nghĩa, vô ơn. Cút ! cút ra khỏi nhà tao ngay !

Thà đứng lên, từng bước một đến sát bà mẹ, miệng gầm gừ :

– Không cần bà đuổi, tôi đi ngay bây giờ, nhưng hãy đưa hết vàng đây. Vừa nói hắn vừa chụp lấy cổ mẹ hăm dọa. Bà Thân cảm thấy bị xúc phạm, đưa cao hai tay dùng hết lực cấu vào mặt hắn. Cơn giận sôi lên, Thà siết mạnh tay hơn. Hơi thở bà Thân khò khè, chân tay giựt lên từng hồi rồi cả người bà rũ xuống. Thà hoảng hốt buông tay. Hắn vội vàng vào buồng ngủ lục tìm được gói vàng giấu bên dưới đầu giường rồi lên xe đò ra Bắc, trốn biệt từ ngày đó.

Sau cơn ngất vì nghẹt thở, bà Thân dần dần hồi tỉnh. Khi nhớ ra hành động của thằng con đòi thêm vàng, bà vội vàng vào xem lại số vàng đã cất giấu thì hỡi ôi , thằng con khốn nạn đã lấy đi hết số vàng bà đã dành dụm, gồm 5 cây vàng cho thằng con lớn và 5 cây bà để dành dưỡng già. Bà Thân ngã vật trên giường rồi ngất đi, đến ngày hôm sau bà trút hơi thở cuối cùng.

Ba năm sau ra tù, Bùi Hữu Thiệt ôm mộ mẹ khóc suốt một ngày. Chàng vì mẹ đã trễ chuyến bay cuối cùng ra hạm đội. Mẹ vì chàng quyết giữ năm cây vàng để chàng có phương tiện vượt biên đoàn tụ với vợ con đang ở nước ngoài. Thiệt giận em thì ít, nhưng căm thù cộng sản đã tạo cho con người sống trong chế độ mang tính ác thú.

*******

Người chỉ huy của Trung đoàn pháo Bắc Việt có toán quân đóng chốt tại chùa D. Q. trong những ngày đầu của 30 tháng Tư, bây giờ là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện . Ông vừa ký lệnh trưng dụng ngôi chùa D. Q. làm Trung tâm thương nghiệp và ra lệnh trục xuất tất cả những ai cư trú bất hợp pháp trong chùa.

Sư Trụ trì Tâm Ngọc buông tờ công lệnh có chữ ký của chủ tịch huyện Phan Văn Anh. Bà không tưởng tượng được lại có ngày oan trái đến với bà. Ngôi chùa đã che chở bà những năm tháng còn trẻ trung để tránh cạm bẫy trần tục, giữ trinh tiết chờ chồng. Ngôi chùa đã che giấu cán bộ hoạt động nội thành mỗi khi cơ sở bị phá vỡ. Bà, các sư muội cùng thiện nam tín nữ đã góp công góp của xây dựng, tu sửa ngôi chùa để bây giờ “Cách mạng” gom vào tài sản nhà nước và tước đoạt quyền hành đạo của nhân dân.

Nỗi đau của bà là đã hi sinh cả một thời xuân sắc cho chồng, ngược lại chồng đã quên hẵn bà, xem bà như không còn hiện hữu trên cõi đời nầy !

Ðúng giờ Ngọ ngày Rằm tháng Tư Âm lịch (1978) Ni Sư Thích Tâm Ngọc đã châm lửa tự thiêu giữa sân chùa D. Q. để phản đối chính quyền cộng sản biến ngôi chùa thành trung tâm thương nghiệp. Công an thành phố đã cướp xác sư Trụ trì kín đáo mang đi. Trên cổng chùa, cửa chánh điện được dán đầy những bản sao lệnh trưng dụng ngôi chùa có chữ ký của Chủ tịch huyện Phan Văn Anh.

Ngày hôm sau, Nhật báo “Sài Gòn Giải Phóng” đăng mẩu tin ngắn :

“Một phụ nữ quê quán miền Trung tên Ðỗ Thị Tình mắc bệnh tâm thần, có lẽ vì trắc trở tình duyên nên đã tự thiêu tại sân chùa D. Q. Thi thể đã được chính quyền địa phương an táng.”

********

Chủ tịch huyện Phan Văn Anh đọc lướt qua bản tin trên rồi bình thản đặt tờ báo lên bàn. Cùng lúc, ban văn thư mang vào văn phòng một phong bì lớn, ghi tên người nhận : Phan Văn Anh . Khui bao thư khác thường nầy ông lấy ra một chiếc khăn trắng đã ố màu có thêu hai đóa hoa hồng đan chéo với nhau, một lọn tóc đen dài và một lá thư. Ông tái mặt, vội vàng lùa những món “tang tóc” ấy vào ngăn kéo rồi thẫn thờ đọc lá thư :

Thưa ông Phan Văn Anh,

Tôi viết thư nầy với tư cách của một người phụ nữ mang tên Ðỗ Thị Tình.

Trước tiên, tôi gởi lại chiếc khăn tay mà ông đã tặng cho tôi trong ngày cưới, đó là món quà duy nhất của cô dâu nhận được khi về làm vợ ông. Thứ hai là lọn tóc của tôi đã cất giữ suốt hai mươi năm từ lúc vào chùa quy y. Tôi đã lặng người và khóc hết nước mắt khi mái tóc dài óng mượt của tôi được mẹ bảo dưỡng từ lúc còn bé thơ bị cắt đi. Người con gái mới hai mươi ba tuổi đời đã chịu xuống tóc vào chùa là một quyết định hi sinh vô bờ bến cũng chỉ vì muốn giữ lâý lòng trung trinh tiết nghĩa đối với chồng. Thế mà ông đã nhẫn tâm quên hẳn người vợ ở lại trong Nam. Ngày tôi gặp lại ông sau hơn hai mươi năm xa cách là lúc ông đưa đơn vị pháo đến giẵm nát cảnh chùa mà tôi đã tu tịnh trong suốt thời gian qua. Hành động tiếp theo cuả ông là ký lệnh biến chùa làm nơi buôn bán của nhà nước.

Thần tượng “Cách mạng” trong tôi hoàn toàn sụp đổ . Tài sản đồng bào miền Nam đã bị đảng các ông cướp đọat một cách trắng trợn và chà đạp lên cả quyền sống con người.

Khi ông nhận được thư nầy, tôi với tư cách là Sư Trụ trì chùa D. Q. đã tự thiêu để phản đối chính sách cướp chùa phá đạo của Cộng sản Việt Nam. Tôi vì Ðạo pháp mà thắp sáng ngọn lửa Từ bi Vô úy trong tinh thần Ðại ngã Tinh tấn của Phật Giáo để soi đường cho chúng sanh và hi vọng soi sáng cả lương tri ông .

A Di Ðà Phật.

Ni Sư Thích Tâm Ngọc, trụ trì chùa D.Q.

Ðặt bức thư trên bàn, Phan Văn Anh đưa mắt nhìn khu cây kiểng trước phòng làm việc. Gương mặt ông tối sầm. Kéo chiếc hộc bàn ông nhìn lại lọn tóc đen tuyền nằm khoanh tròn trong bao nylon. Chợt khuôn mặt của người vợ trẻ ngày xưa như thoáng hiện chập chờn bên lọn tóc, ông trầm ngâm, nghĩ ngợi. Một hồi lâu, ông cầm điện thoại gọi phòng công an bảo vệ chính trị hỏi cái xác thiêu ở chùa D. Q. chôn ở nơi nào.

Một tuần lễ sau, đích thân ông lén lút đặt trên ngôi mộ người vợ cũ một bia có khắc hàng chữ : “Nơi an nghỉ của Ðỗ Thị Tình, sinh ngày 18 tháng 4 năm 1931 tại Q. N. Chết ngày 15 tháng 4 năm 1978 tại Gia Ðịnh, thọ 47 tuổi”.

Ông âm thầm thực hiện công việc nầy có lẽ để lương tâm ông đỡ cắn rứt. Nhưng ông không ngờ cử chỉ đó lại càng xúc phạm đến linh hồn người tu sĩ đã dày công tu luyện. Bởi vì trên bia ông đã cố ý giấu nhẹm Pháp danh “Sư Nữ Trụ Trì Chùa D.Q. Thích Tâm Ngọc.”

********

Trước khi thực hiện một chuyến vượt biển, Bùi Hữu Thiệt tìm đến mộ bà dì ruột Ðỗ Thị Tình thắp hương từ biệt. Nhìn tấm bia mộ không tên người phụng lập, lòng Thiệt quặn thắt. Thiệt chấp tay khấn nguyện : “ Dì đã hiến thân cho Ðạo Pháp mang ý nghĩa vô cùng lớn lao. Ngọn lửa Bi Trí Dũng của Phật pháp bùng lên từ thân xác Dì đã thắp sáng lương tri loài người và soi đường cho chế độ này ra khỏi vòng mê lụy.

Thưa Dì, ngày mai nầy con sẽ ra đi, không may gặp hiễm nguy, thân con có thể chìm tan trong biển cả mênh mông nhưng hồn con sẽ nhập cùng với hàng vạn linh hồn của những người bỏ nước ra đi bị tử nạn làm nên những con sóng thần đánh động lương tâm thế giới.

Linh hồn Dì linh thiêng xin phò hộ cho con trong chuyến đi này được bình yên đến được bến bờ Tự do . Con hứa với Dì , nơi vùng đất mới , con sẽ ươm mầm hạt giống Tự do để chờ ngày mang về trồng lại trên mảnh đất quê hương Việt Nam mà hiện nay đang tràn ngập cảnh khổ đau đầy máu và nước mắt !”

May be an image of 1 person and standing

MONG MANH …ĐỢI CHỜ!!!- TRUYỆN NGẮN…

Mời đọc xem bạn có rơi nước mắt không nhé?

Van Pham

TRUYỆN NGẮN…

Một câu chuyện hay và cảm động, nhưng không thấy tên truyện và tác gỉa… Các bạn giúp đặt tên nhé, cái tên này tôi đặt tạm thôi…*

***

MONG MANH …ĐỢI CHỜ!!!

Anh ôm chặt lấy cô vào lòng, hôn lên tóc cô và thì thầm nói:

– Nép vào ngực anh,

cô lặng lẽ gật đầu, bao nhiêu điều muốn nói nhưng không thể nói ra. Nước mắt cô lăn dài trên má. Vậy là chỉ cần trời sáng, chỉ cần đồng hồ cất lên 9 tiếng chuông lạnh lùng, anh sẽ xa cô và chẳng để lại cho cô điều gì ngoài một chữ ‘đợi’.

Anh, con nhà giàu, đẹp trai, sự nghiệp sáng lạng được biết bao người ngưỡng mộ. Cô, chỉ là một đứa trẻ mồ côi, tứ cố vô thân không nơi nương tựa, tương lai của cô chỉ có thể dựa vào tấm bằng đại học còn chưa lấy được.

Chuyện tình của họ cũng như bao chuyện tình không môn đăng hộ đối khác. Gia đình anh, bạn bè anh phản đối và nhìn cô với ánh mắt khinh thường. Khinh thường một con nhỏ trèo cao không biết thân phận. Nhưng tình yêu có bao giờ chịu thua số phận, anh bất chấp tất cả để ở bên cô, sống với cô. Cô đã từng hạnh phúc, đã từng mơ và rồi giấc mơ ấy cũng tan vỡ. Bố mẹ anh dùng đủ mọi cách bắt anh ra nước ngoài, thậm chí là dùng cả sức khỏe và mạng sống của họ.

Anh đầu hàng số phận và ra đi. Cô không trách, cũng không thể trách điều gì cả, nếu giữa tình yêu và bố mẹ thứ anh chỉ có thể mất là tình yêu.

Nhìn bóng lưng anh đi xa dần, cô khuỵu xuống đất, nấc lên không thành tiếng. Chỗ dựa duy nhất của cô, người thân yêu duy nhất của cô đã đi. Giờ đây cô lại chỉ có một mình.

***

4 năm, đối với một số người trôi qua thật nhanh, nhưng đối với anh đó là quãng thời gian dài dường như vô tận. Bốn năm, giờ đây anh đã có được tất cả những gì mà một con người thành đạt cần có. Nhưng tình yêu của anh thì đã mất và có thể mãi mãi không thể tìm lại được.

Khi anh đi cô đã hứa sẽ đợi anh, vậy mà tất cả những gì cô có thể làm là bặt vô âm tín rồi chỉ sau 2 năm anh nghe tin cô lấy chồng. Một người chồng giàu có, lớn tuổi và có thể cho cô tất cả những gì cô muốn. Anh đã không muốn tin nhưng không thể liên lạc với cô để hỏi rõ mọi chuyện. Anh đau khổ, dằn vặt, chờ đợi, cho tới một ngày một tấm thiệp cưới được gởi tới từ gia đình cho anh và tên cô nghiễm nhiên nằm trên đó. Anh đã tin và bắt đầu chấp nhận. Giờ đây khi quay trở lại, mong ước duy nhất của anh là tìm cô để nhìn thấy cô thật sự hạnh phúc…. Và đó cũng là lần cuối anh muốn gặp cô.

Khi những chiếc lá đã bắt đầu ngả màu vàng, khi mà thời tiết đã bắt đầu trở lạnh, cô vội vã khoác lên mình chiếc áo ấm dày, với tay kéo chiếc mũ sụp xuống che đi gương mặt mình. Cô nhanh tay vơ lấy những tờ tiền vương vãi trên tấm trải giường nhàu nhĩ và bước vội ra khỏi khách sạn.

Cô cứ cúi mặt đi, đi rất nhanh như để lẩn trốn ánh mắt dè bỉu của mọi người. Cũng có thể chẳng ai nhìn cô đâu, nhưng một khi đã sai trái thì cảm giác bị người khác khinh rẻ luôn bám theo mình. Vô tình, lúc cô bước đi, một người nhìn thấy cô và sửng sờ làm rơi chiếc cốc rượu.

Anh đứng phắt dậy, đẩy bàn và chạy theo bóng dáng người phụ nữ kia. Có thể cách ăn mặc, trang điểm lòe loẹt và chiếc mũ che đi gần hết khuôn mặt nhưng với anh, hình ảnh của cô đã in đậm trong ký ức nên không thể nào anh không nhận ra cô. Chạy như điên cuồng về phía trước, anh thấy cô đứng lặng lẽ bên cột đèn đường, ánh đèn hắt lên người cô một cách mờ ảo. Anh định chạy tới níu lấy tay cô nhưng rồi một chiếc xe sang trọng trờ tới, cô bước lên xe một cách lạnh lùng và khi chạy lướt qua anh, anh thấy người đàn ông trên xe bắt đầu nhào tới kéo áo cô như một con thú, điên cuồng. Chết lặng…. đây đâu phải là viễn cảnh anh từng nghĩ tới.

Người chồng của cô kia ư? hạnh phúc của cô là thế ư? vậy cô đến khách sạn để làm gì? Bao nhiêu câu hỏi dằn vặt anh, bao nhiêu nghi ngờ dồn nén trong anh bộc phát khiến anh không sao trả lời cho chính mình được.

Cầm trên tay những tờ tiền xanh nhạt cô nhẹ nhàng vuốt thẳng nó một cách cẩn thận và yêu chiều. Với một số người đây là đồng tiền bẩn thỉu nhưng với cô đây là tất cả những hi vọng cô có thể gom lại để mua lấy một hạnh phúc mong manh.

Cầm xấp giấy được thám tử đưa cho mình, nhìn gương mặt cô hiện rõ trên tờ giấy phẳng phiu đó…. Anh bỗng thấy lợm người, tờ giấy trắng trong tay, khuôn mặt tươi cười của cô khiến anh cảm thấy thật buồn nôn. Thì ra đây chính là con đường cô đã chọn, nhơ nhớp và đáng khinh làm sao.

Cô vẫn đứng lặng lẽ trên vỉa hè để chờ người khách tối nay. Chiếc váy đỏ nhẹ nhàng ôm lấy cô làm cô thật nổi bật, vẻ nổi bật đó được đổi lại nhờ ánh mắt soi mói của người đi đường. Khẽ nhếch môi, chính cô còn khinh mình nữa là…. Nụ cười của cô chợt tắt ngấm khi nhìn người đang đứng trước mặt mình.

Anh nhìn cô bằng ánh mắt lạnh lẽo tăm tối nhất. Trong trí nhớ của cô anh luôn nhìn cô ấm áp và dường như hiểu ra mọi chuyện cô bất ngờ cười lớn, cười thật to nhưng đuôi mắt đã ươn ướt từ lúc nào.

Nắm tay cô kéo lên xe, anh lái như điên tới một nơi vắng vẻ… Sau giây phút yên lặng để anh và cô nhìn nhau, tìm ở nhau những điểm gì thay đổi sau từng ấy năm xa cách và thoáng giật mình khi cả hai cùng nhận ra rằng anh vẫn vậy nhưng cô đã thay đổi gần như hoàn toàn:

– “Anh nghe nói em đã lấy chồng, vậy chồng em đâu?” anh lạnh lùng nhìn cô rồi cất giọng.

– “Em thì nghe nói anh đã lấy vợ, vậy vợ anh đâu mà để anh đi tìm ‘gái’ thế này?” Cô nheo mắt hỏi ngược lại anh. Anh sửng sờ nhìn cô. Trò đùa gì thế này?

Nhíu mày nhìn cô, anh không thể thốt lên một lời nào cả. Thì ra có những việc, mọi người sắp đặt thật là khéo, thật là hay…. Dù đó là hiểu lầm nhưng nhìn cô lúc này anh cũng không thể nào nguôi hận. Cứ cho là vì anh, cô cũng không nên biến mình thành loại người như hôm nay.

– “Anh nhìn đủ chưa? Đủ rồi thì đưa em về lại chỗ cũ ngay đi….” Cô gắt lên. Đưa tay mở cửa xe.

– “Tại sao?” mắt vẫn không nhìn cô, bàn tay siết chặt lấy vô lăng anh hỏi cô một cách nặng nề, mệt mỏi.

– “Em cần tiền….”

– Tiền, tất cả chỉ vì đồng tiền thôi sao? Anh tức giận đưa tay lôi cô vào xe và nhấn ga lao đi.

Thoáng bàng hoàng nhìn anh, nhưng rồi cô nhanh chóng lấy lại vẻ mặt bất cần của mình. Có gì đâu, khi bây giờ đã không còn đáng được yêu thương và tôn trọng.

Chiếc xe lao nhanh đến một khách sạn gần đó, anh lôi cô vào trong, nhận chìa khóa rồi lại kéo tay cô lôi lên phòng. Đẩy mạnh cô xuống giường, anh đưa tay đè cô xuống và hôn tới tấp vào môi cô. Nụ hôn mạnh bạo chứa đầy tức giận, đau khổ, không còn là những cữ chỉ âu yếm ngọt ngào như trước đây. Khi chiếc váy trượt xuống khỏi cơ thể, những vết bầm tím trên vai, ngực cô hiện lên rõ ràng dưới ánh đèn, anh ngừng lại. Cô bây giờ không còn là cô gái trong sáng chỉ thuộc về anh, cô bây giờ đã nhàu nhĩ cũ nát và héo úa đến mức đáng giận. Đẩy cô ra, anh đứng dậy nhặt chiếc áo sơ mi mặc vội vào người.

Trước khi quay đi, anh vung tay ném lên giường cho cô những tờ năm trăm ngàn mới tinh rồi bước vội ra khỏi phòng.

” Em cần tiền…. Chỉ cần tiền mà thôi….” Cô cười lên như điên dại, nhặt những đồng tiền anh vứt ra như nâng niu một thứ gì đó đáng quý nhưng rất tiếc là đã vỡ nát mất rồi.

Những ngày sau đó anh lao vào công việc. Những ngày sau đó cô lại lao vào kiếm tiền. Chỉ khi đêm về anh lặng lẽ ôm vào lòng khuôn mặt cô cách đây bốn năm, một khuôn mặt xinh đẹp, trong sạch.

Chỉ khi đêm về, cô lại lê những bước chân nặng nề trên nền gạch bệnh viện, lặng lẽ ôm vào lòng hạnh phúc nhỏ nhoi của riêng cô bằng tấm thân nhơ nhuốc của mình. Và họ không gặp nhau, dù là vô tình hay cố ý.

***

Anh lái xe chậm rãi trên những con đường trước đây anh và cô cùng đi qua. Những kỷ niệm đẹp bỗng trở về nhưng không còn mang lại hơi ấm hạnh phúc, ngọt ngào mà dường như chỉ gợi lại những chua chát, đau thương. Thẩn thờ nhìn về phía bên kia đường, một cảnh tượng đập vào mắt khiến anh khó chịu. Một người đàn bà to béo đang ra sức đánh chửi tới tấp vào mặt một cô gái trẻ. Một tay bà nắm tóc cô, tay kia ra sức kéo tay cô ra và tát mạnh vào mặt cô. Đúng. Cô gái đó chính là cô ấy, là người một thời anh yêu thương, ôm ấp. Những câu chửi rủa từ người đàn bà đó và từ những người xung quanh đập vào tai anh, nhức nhối.

– “Con điếm, mày chết đi…. Dám bu bám theo chồng bà à…. Mày đúng là thứ cặn bã mà.”

– “Cái thứ này không đáng để cứu…” “Cặn bã…”

– “Sao chúng nó còn chường mặt ra ngoài xã hội nhỉ…”

– “Chỉ biết đổ lỗi cho hoàn cảnh…

Anh bật cười, cái giá cho đồng tiền em kiếm được chỉ như vậy thôi đấy. Em thấy không, đến anh còn thấy khinh em nữa là người khác. Cúi đầu bật chìa khóa, anh không còn muốn can thiệp vào cuộc đời cô nữa rồi. Bất chợt, một tiếng thét chói tai vang lên, tiếng rít của bánh xe nghiến trên đường kéo sự chú ý của anh trở lại nơi cô đang đứng…

Thì ra cô lấy sức đẩy người đàn bà đó ra, nhưng lại bất ngờ bị bà ta đẩy ngược lại một cái thật mạnh. Cô bị đẩy ra đường, một chiếc ô tô bất ngờ lao tới không thể tránh kịp đã tông vào cô. Cô nằm đó, máu không ngừng chảy, ướt đẫm mặt đường.

Đẩy cửa xe thật mạnh anh chạy tới chỗ cô, đưa đôi tay run rẩy nâng cô dậy. Anh nhìn cô đau đớn, nỗi đau đè nặng lồng ngực khiến việc gọi tên cô cũng thật khó khăn.

Cô nhìn anh, ánh mắt mờ đục, đưa tay quờ quạng như muốn tìm một thứ gì đó:

– “Giúp em…. ………. Túi……. Xách ……” cô thều thào nhìn anh van nài.

Nhặt chiếc túi xách đưa cho cô, cô run rẩy mở túi xách, nhưng sức cô yếu quá rồi, đến chiếc khóa kéo cũng không thể mở được. Gỡ tay cô ra, anh cúi đầu mở túi, bên trong không có gì cả, ngoài một cuốn sổ cũ kĩ và ố vàng, một tấm ảnh chụp một đứa bé trai ngộ nghĩnh đang cười toe toét. Ấn cuốn sổ vào tay anh, cô ôm lấy tấm ảnh rồi khẽ mỉm cười.

– “Giúp ……………. Em …………..cứu đứa trẻ này….. được không?”

Không kịp nghe câu trả lời từ anh, mắt cô dần khép lại, đôi tay vẫn ôm chặt tấm ảnh vào lòng, môi mỉm cười. Nụ cười cuối cùng của một cuộc đời đầy nước mắt. Trời bắt đầu mưa nặng hạt và cô đã ra đi mãi mãi…

***

Nhiều khi anh cũng tự cảm thấy bản thân mình là một người lạnh lùng, vô cảm. Kể cả lúc nhìn thấy cô nằm trên vũng máu đỏ, đến lúc nhìn chiếc xe cứu thương chở xác cô đi tuyệt nhiên anh không rơi một giọt nước mắt. Ngồi lặng lẽ trong căn phòng quen thuộc của mình, chiếc áo sơ mi trắng anh mặc trên người vẫn loang lỗ những vệt máu của cô.

Đưa tay giở từng trang giấy, nét chữ nghiêng nghiêng quen thuộc, từng dòng, từng dòng, những tâm sự của cô chất chứa trong bốn năm hiện lên trước mắt anh.

Ngày…Tháng … Năm…

Hôm nay anh đi, em về lại căn nhà của chúng ta mà sao thấy trống vắng quá. Thật sự em không muốn như vậy chút nào, nhưng em vẫn sẽ đợi. Em hứa chắc đấy!

Ngày… Tháng… Năm…

Lâu lắm rồi không nghe được tin tức gì từ anh vậy mà lúc nghe được lại là tin anh lấy vợ. Em thật sự hoang mang lắm, không biết có nên tin hay hông đây? Nhưng anh yên tâm, em đã hứa sẽ đợi thì nhất định em sẽ đợi….

Ngày…. Tháng…. Năm….

Hôm nay em thấy khó chịu trong người quá, đã mấy ngày nay không thể ăn được gì cả. Em nhớ anh, nếu anh ở đây anh sẽ chạy ngược chạy xuôi mua thuốc và thức ăn cho em. Hạnh phúc chỉ như vậy thôi nhưng sao lại ngắn ngủi vậy hả anh?

Ngày…. Tháng…. Năm….

Em có thai rồi, đáng lẽ ra phải vui nhưng sao không thể cười nỗi, nước mắt cứ không ngừng tuôn ra. Có con, nhưng em như vậy làm sao nuôi được con đây, làm sao báo cho anh biết đây…. Em bổng tủi thân, tủi thay cho cả con của mình….

Ngày…. Tháng…. Năm….

Bụng em ngày càng lớn, em phải nghỉ học thôi, ước mơ của em chắc chỉ có thể được đến như vậy. Nhưng cũng thật may, có người nhận em vào làm tạp vụ tại một quán ăn, lại thêm một việc nữa để em có thể kiếm tiền mua cho con một chút đồ gì đó khi con ra đời.

Anh à, bao giờ anh sẽ trở về hả anh?

Ngày…. Tháng…. Năm….

Hôm nay tự nhiên lại ngã, nhìn máu chảy ra không ngừng em sợ lắm, em không muốn mất con đâu…. Đi khám thì tất cả vẫn ổn, không sao cả, em mừng đến phát khóc anh ạ. Tối nay lại đau không chịu được, em vỗ nhẹ và thì thầm với con ‘thương mẹ thì đừng làm mẹ đau nữa nhé, làm xong việc này mẹ sẽ về cho con nghỉ ngơi mà’. Đúng là con của anh, ngoan lắm, em hết đau ngay lập tức. Có thể với em bây giờ là hạnh phúc.

Ngày…. Tháng…. Năm….

Con ra đời rồi anh ạ, trông đáng yêu lắm. Nhìn con ngủ ngoan trong tay mình em lại thấy mắt cay cay, ước gì anh ở đây để bế con. Dù chỉ một lần thôi….

Ngày…. Tháng…. Năm….

Sinh nhật con tròn hai tuổi, nhưng ông trời lại tặng con mình món quà độc ác quá anh ạ. Nó đã không có bố, không được sống đầy đủ vậy mà giờ đây lại mắc bệnh ung thư máu. Phải làm sao hả anh? Em nhìn con mê man trong cơn sốt, nhìn những vết bầm tím trên người con mà không thể cầm lòng. Đến giờ phút này em không thể mạnh mẽ được nữa rồi….

Ngày…. Tháng…. Năm….

Xin lỗi anh, em không còn cách nào khác. Tiền điều trị cho con cao quá, em không thể cầm cự được nữa rồi. Công việc hàng ngày của em không đủ đề chi cho những ngày con nằm viện. Em không muốn mất con, em muốn con được ăn ngon, được uống thuốc, em đành phải đánh mất chính mình thôi. Lần đầu làm thật không dễ, nhưng rồi sẽ quen thôi. Em quyết định sẽ không đợi anh nữa vì con cần em hơn. Xin lỗi!!!!

Ngày…. Tháng…. Năm….

Cuối cùng anh cũng trở về, thật buồn cười khi giờ đây anh nhìn em như vậy. Thấy em khác quá nhiều so với tưởng tượng của anh đúng không? Anh nhìn em bằng ánh mắt gê tởm, đúng là con người em đã rách nát thật rồi. Anh vung tiền cho em để xem sĩ diện của em có còn hay không hả? Xin lỗi anh, em không cần sĩ diện nữa rồi, em cần tiền. Tự nhiên em lại thấy vui, tối nay con lại được tiêm thuốc, ăn ngon và là lần đầu tiên con có quà sinh nhật từ bố. Chắc con cũng sẽ vui như em….

Ngày…. Tháng…. Năm….

Tủy của em không tương thích với con, nhưng em nghĩ anh sẽ thích hợp. Sáng mai em sẽ tìm anh, em sẽ cho con gặp anh…. Chờ em nhé….

Một giọt nước mắt nhỏ lên những trang giấy đã nhòe nhoẹt nước mắt của cô. Ôm cuốn nhật kí vào lòng anh khẽ khóc lên không thành tiếng.

***

Anh nhẹ nhàng khép cửa, đứa bé ngước đầu nhìn anh mỉm cười, mặc cho người y tá lấy đi một xi lanh đầy máu, nó vẫn không khóc lấy một tiếng, chỉ khẽ nhíu mày. Khuôn mặt đứa trẻ nhìn kháu khỉnh, thông minh và giống anh như đúc. Đưa tay xoa đầu con anh cúi xuống hỏi nhỏ:

– “Con có đau không?”

– “Đau…. Nhưng con không khóc đâu, mẹ đã dặn là con trai thì không được khóc.”

Đưa bàn tay nhỏ gầy guộc đầy dây nhợ nắm chặt lấy vạt áo của anh, đứa bé yếu ớt reo lên:

– “Bố về rồi, từ giờ con không phải nhìn bố trong ảnh nữa rồi phải không?”

– “Ừm, bố đã về.” *Anh nhìn con âu yếm.

– “Mẹ đâu rồi ạ?” Đứa trẻ lại thều thào hỏi.

Ôm con vào lòng, anh vỗ nhẹ vào lưng con:

– “Mẹ mệt rồi, mẹ phải nghỉ ngơi con ạ. Từ giờ bố thay mẹ chăm sóc con nhé?”

Thằng bé ngọ nguậy gật đâu, những giọt nước mắt nóng hổi của bố lăn dài và ướt đẫm áo nó.

Anh ra đi để lại cho em chữ ‘đợi’ bây giờ em bỏ đi cũng chỉ để lại cho anh một chữ ‘đau’…

From: Van Pham

CHIẾC XÍCH LÔ. Truyện ngắn rất hay-Tác giả: Thanh Thương Hoàng .

 May be an image of 2 people, people sitting and outdoors

CHIẾC XÍCH LÔ. Truyện ngắn rất hay.

Tác gỉa: Thanh Thương Hoàng .

Một câu chuyện tình thời chinh chiến hay như cổ tích; Tháng Tư Đen.

***

Tân ngồi vắt vẻo trên chiếc xích lô ngước nhìn những tảng mây trắng lững lờ trôi trên nền trời xanh thẫm, lòng bâng khuâng nhớ tới những ngày tháng cũ. Lúc ấy vào khoảng mười giờ sáng. Từ khi đạp xe ra khỏi nhà sáng sớm tới giờ anh vẫn chưa kiếm được một “cuốc” nào. Nếu đến trưa vẫn không có khách thì coi như mất toi nửa ngày tiền thuê xe và tất nhiên phải nhịn ăn luôn bữa trưa

Chỗ Tân đậu xe góc đường Lê Lợi – Tự Do, anh cho là rất “địa lợi”, vì phía chéo bên kia đường là khách sạn Đại Lục, nơi có nhiều khách ngoại quốc tới ở. Họ thường bao luôn cả xe ngày để đi “tham quan” khắp Saigon Chợ Lớn. Đồng thời nơi này cũng là nơi có nhiều kỷ niệm với Tân – những ngày tháng cũ trước 75 – anh đã gặp “người yêu lý tưởng” của mình và sau đó cưới làm vợ. Cuộc sống lứa đôi tràn ngập hạnh phúc cho tới ngày 30 tháng 4 đen tối sầu thảm.

Tân móc túi lấy gói thuốc rê vấn một điếu. Vừa phập phèo mấy hơi để dĩ vãng tan theo khói thuốc, thì anh nghe tiếng gọi xích lô bên kia đường. Tân vội quay nhìn. Một người đàn bà đưa tay vẫy gọi. Tân vứt vội mẩu thuốc hút dở, rời khỏi nệm xe, nhẩy phóc lên yên xích lô đạp nhanh tới bên kia vệ đường (vì chỗ này thuộc phạm vi “lãnh thổ” của khách sạn nên họ cấm xích lô đậu. Anh em xích lô chỉ có thể “đột kích” đón khách rồi phóng đi ngay).

“Cô muốn đi đâu?” Tân hỏi bằng tiếng Anh giọng rất chuẩn, rất Mỹ làm cô khách ngạc nhiên. Cô đặt mình lên xe thong thả nói:

”Anh muốn chở tôi đi đâu cũng được. Chạy chậm chậm thôi nhé!”

Tân hỏi lại: “Nghĩa là cô muốn mở một cuộc du lịch bỏ túi trong thành phố?”

“Đúng!”

Trước khi cho xe chuyển bánh, Tân nói: “Cô chưa cho biết sẽ trả tôi bao nhiêu tiền. Chúng ta nên sòng phẳng dứt khoát trước khi bắt đầu.

Cô khách đáp: “Tôi sẽ trả anh như đã trả cho những người trước anh.”

“Nghĩa là…?”

“Nghĩa là mỗi giờ tôi trả anh hai đô la.”

“Cô trả vậy hơi nhiều đấy!”

Cô khách nhắc lại câu hỏi của tôi khi nãy:

“Nghĩa là…?”

“Tôi tính cô một đô la một giờ thôi.”

Cô khách một lần nữa tỏ ra ngạc nhiên nhưng không nói gì.

Hôm qua cô trả cho anh xích lô đúng như giá anh ta đòi, thế mà khi trả tiền còn nằn nì xin thêm. Còn anh xích lô này thì lại xin bớt. Con người xứ sở này có vẻ phức tạp, khó hiểu thật.

Tân từ từ đạp xe về phía chợ Bến Thành. Tới nơi, anh hỏi khách:

”Cô đã biết chợ Bến Thành này chưa?” Và không chờ khách khách trả lời, anh nói tiếp:

“Đây là ngôi chợ lớn nhất của thành phố Saigon và có một bề dầy lịch sử.”

Cô khách mỉm cười. Từ lúc lên xe tới giờ. Tân mới thấy khách cười:

“Tôi biết. Hôm trước một người bạn Việt-Nam đã dẫn tôi vào trong chợ ăn món bún thịt nướng, lạ miệng và ngon lắm! Nhất là cái món nước “sốt” mặn mặn với ngọt ngọt và hơi cay.

“Cô ăn được cả nước mắm?”

“Cũng hơi… khó chịu một chút lúc đầu.”

Thấy sự trao đổi nói năng có vẻ thân mật cởi mở, Tân hỏi:

“Tôi hơi tò mò, xin lỗi trước. Cô tới Saigon du lịch hay làm việc?”

“Tôi tới Saigon có chút việc riêng, tiện thể làm chuyến du lịch luôn.”

“Cô tới đây lần đầu?”

Khách khẽ gật và đôi mắt xanh biếc của cô chớp chớp. Bây giờ Tân mới có dịp quan sát người đẹp. Cô khoảng dưới ba mươi tuổi, thân hình thon thả dong dỏng cao bó gọn trong chiếc robe xuyến hoa văn xanh đậm thật trang nhã. Mớ tóc vàng óng ả của cô chẩy dài buông xõa xuống cái lưng ong. Nước da cô trắng hồng mịn màng. Những sợi lông tơ trên hai cánh tay trần tròn lẳn gợi cảm. Tân cũng đã có dịp vuốt ve những cánh tay như thế, nhưng xa xôi lắm rồi. Theo sự nhận xét sơ khởi của tân thì nhan sắc cô nàng ở mức trung bình nhưng khá quyến rũ và hình như cô có cái duyên ngầm của các cô gái phương Đông.

“Cô mới từ Mỹ tới?” Tân hỏi.

Khách khẽ gật.

“Tôi đoán cô là người miền Đông nước Mỹ, Nếu không ở Washington DC. thì cũng bang nào vùng đó.”

Lần này cô nàng ngoái hẳn mình về phía sau nhìn Tân:

“Anh căn cứ vào đâu mà đoán tôi là người miền Đông?”

Tân hóm hỉnh cười:

“Giọng nói của cô và nhất là nước da của cô. Chỉ có những người sinh sống ở xứ lạnh mới có nước da trắng hồng như cô.” Tân nói nịnh thêm. “Đúng là nước da lý tưởng mà các cô gái mơ ước.”

Cô khách càng thêm ngạc nhiên. Một anh đạp xích lô, tức thuộc giới lao động bình dân thất học, mà lại có vẻ hiểu biết những sự việc ngoài tấm mắt của anh ta. Rồi còn biết cả nịnh đầm với món “võ” của bọn đàn ông có học. Cô cười nhẹ trả lời Tân:

“Anh đoán giỏi đấy! Tôi sinh ra ở thành phố Charlotte bang North Carolina. Lớn lên đi học và sống ở Washington DC.”

Tới chợ bến Thành cô bảo anh ngừng xe để cô vào chợ mua một món gì đó. Cô hỏi anh có đợi được không. Anh gật đầu. Mươi phút sau cô trở ra trên tay cầm một cái gói bọc giấy nhỏ.

“Bây giờ cô muốn tôi chở cô đi đâu?”

“Tùy anh.” Tân suy nghĩ một chút:

“Cô đã vào Chợ Lớn chưa?”

“Hay đấy! Tôi nghe bạn bè nói Chợ Lớn là thành phố của người Hoa như ở Hồng Kông vậy. Nên đi coi cho biết.”

“Cô đã đến Hồng Kông?”

“Tôi đến đó hồi còn là con nhóc đi với bố mẹ.”

Tân có vẻ ngập ngừng trước khi nói:

“Xin lỗi, cô đã lập gia đình?”

“Phải, tôi đã lập gia đình gần mười năm. Vợ chồng tôi có một con gái.”

Nói xong, cô khẽ thở dài, mặt thoáng buồn, sau cặp kính mát nhạt, đôi mắt xanh biếc đăm đăm như nhìn vào cõi xa xăm mơ hồ nào đó. Tân thấy vậy không hỏi nữa. Anh lặng lẽ đạp xe trên đường Trần Hưng Đạo rộng dài, dưới trời nắng bắt đầu gay gắt. Những chiếc xe gắn máy của bọn trẻ gầm rú phóng vùn vụt, đôi lúc cô khách sợ hãi kêu lên vì tưởng nó đâm nhào vào mình. Từ đường Đồng Khánh, cô bỏ Tân ngừng xe trước một tiệm tạp hóa. Lúc trở ra cô khoe với Tân một vật nhỏ:

”Anh thấy đẹp đấy chứ?” Tân thốt lên:

“Tưởng gì, cái này bên Mỹ đâu thiếu.”

“Phải, bên Mỹ không thiếu, nhưng đây là thứ tôi mua ở Chợ Lớn Việt Nam làm kỷ niệm, đồng thời làm quà tặng con gái tôi.”

Dứt lời cô khách lên xe ngồi, Tân đạp tiếp. Chợt cô quay lại hỏi Tân:

“À, tôi quên hỏi anh. Sao anh biết thứ tôi vừa mua bên Mỹ có nhiều?”

“Vì tôi đã ở bên đó và có mua tặng người yêu. Cái cô vừa mua là do người Tàu Chợ Lớn làm nhái theo đồ của Mỹ.”

“Ồ, anh đã ở bên Mỹ?” “Đi du lịch hay du học?”

“Tôi đi học.”

Cô lại thốt lên tiếng kêu ngạc nhiên và nhắc lại:

“Đi học? Thì ra anh sang Mỹ du học!”

“Không phải! Tôi đi lính được tuyển sang Mỹ học lái máy bay. Tôi sang Mỹ với tư cách sinh viên sỹ quan Không Quân!”

Cô khách người Mỹ đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Cô có vẻ thích thú nghe những điều Tân nói. Cái con người lam lũ nghèo khổ đạp xích lô này đã từng là sỹ quan Không Quân và đã sang Mỹ học? Cô nửa tin nửa ngờ, dò đường:

“Anh sống ở Mỹ lâu không? Bang nào nhỉ?”

Tân đưa tay quệt mồ hôi trên trán. Chiếc áo cũ mỏng mầu đen nhiều miếng vá anh mặc ướt đẫm mồ hôi. Tân cảm thấy bắt đầu mệt và khát nước. Chén xôi bắp nhỏ ăn từ sáng sớm, giờ đã tiêu hết. Anh trả lời khách không mấy hào hứng sốt sắng như lúc đầu:

“Tôi học lái máy bay tại Pensacola bang Louisiana vào năm 1967. Thời gian huấn luyện khoảng năm rưỡi. Tới năm 1972 tôi lại có dịp đi tu nghiệp ở Texas hơn tám tháng.”

“Anh còn nhớ tên khóa huấn luyện?”

“Khóa 67A. Khóa này tôi được huấn luyện cùng với toán Pilot Hải Quân Mỹ.”

Sau khi thảng thốt kêu lên tiếng “ô”, cô ngưng hỏi và im lặng một lúc lâu.

Tân cũng chẳng quan tâm đến sự im lặng của cô khách. Anh đang mải lo đối phó với những xe cộ chạy hỗn độn, vô trật tự trên đường phố. Chỉ cần sơ ý một chút, có thể gây ra tai nạn thương tích cho người ngồi trên xe. Hai bên lề đường Đồng Khánh, người người đi lại tấp nập. Hàng hóa của các tiệm bầy tràn ra cả lề đường. Rồi những gánh hàng quà rong, những xe bán nước ngọt, trái cây, tạo nên một cảnh hoạt náo vui mắt. Cô khách có lẽ vui lây với không khí nhộn nhịp này, nhất là nhìn những người đàn bà Hoa mặc những bộ quần áo mỏng, giản dị. Cô hỏi Tân:

“Họ chắc không phải là người Việt?”

“Vâng, họ là người Hoa. Thành phố này là thành phố của người Hoa dù dưới thời Việt Nam Cộng Hòa hay thời Cộng sản cai trị cũng vẫn thế. Khó mà thay đổi được họ!”

“Không phải riêng nước anh. Ở bên Mỹ cũng vậy. Một thời gian nào đó, người Hoa sẽ cai trị thế giới.”

Ngưng chút cô nói tiếp: “Cả về chính trị và kinh tế. Vì thời đại chúng ta, kinh tế đang chi phối thống lĩnh toàn cầu!” Tân cãi:

“Tôi không đồng ý với cô. Người ta đã dùng kinh tế để làm cái roi cai trị, nhưng theo tôi nhất định Cộng sản sẽ thất bại cả về chính trị lẫn kinh tế.”

“Tôi nghĩ với Cộng sản thì chỉ có thể dùng vũ lực.”

“Dùng vũ lực, Mỹ đã thất bại ở Cuba trước đây. Chỉ có Cộng sản mới triệt được Cộng sản thôi. Sức tác động bên ngoài không đủ mạnh bằng sự tự hủy hoại từ bên trong.”

Cả buổi trưa hôm đó, cô khách người Mỹ và anh xích lô đạp mải mê tranh luận về nhiều vấn đề thời sự, chính trị, học thuyết, triết lý, chiến tranh, hòa bình, cộng sản, tư bản… quên cả đường phố chật chội xe cộ chen lấn bừa bãi. Năm đó là năm 1985, thành phố Saigon còn nhiều xe đạp, xe gắn máy, ít xe hơi. Riêng anh đạp xích lô quên cả mệt và đói. Anh đang hào hứng. Đã lâu lắm anh không hề dám nói năng thảo luận với bất cứ ai những vấn đề húy kỵ trên. Nói với cô khác lạ này không sợ báo cáo, không sợ xuyên tạc, chụp mũ. Tân yên tâm tự nhủ mình như vậy nên anh “phát ngôn mạnh bạo xả ga”. Gần xế chiều, Tân đạp xích lô chở cô khách Mỹ về khách sạn Đại Lục. Bước xuống khỏi xe khách mới hỏi:

“Nãy giờ tôi cứ thắc mắc mãi. Anh là sỹ quan Không Quân từng sang Mỹ học lái máy bay, sao lại… lại đi đạp xích lô?”

Tân phì cười trước câu hỏi này. Đúng là một người Mỹ ngây ngô, chẳng biết gì về làn sóng đỏ đang tràn ngập tràn phá hủy hoại khốc liệt cả miền Nam. Anh trả lời:

“Vì tôi bị Cộng sản bắt đi tù.”

“À, ra thế!” “Anh bị tù có lâu không?”

“Gần mười năm.”

“Trời! Anh được tha lâu chưa?”

“Mới sáu tháng.”

“Ô là! Ở tù Cộng sản chắc là khổ lắm?”

“Tất nhiên. Chúng tôi đã trải qua những năm tháng sống thời Trung Cổ.”

“Tại sao các anh không vùng lên phản kháng, chống đối? Dân tộc anh là một dân tộc có cả một lịch sử oai hùng về ý chí quật cường, về truyền thống tranh đấu…”

Tân cười nửa miệng:

“Đồng thời dân tộc tôi cũng có truyền thống nhẫn nhục chịu đựng gian khổ.”

Cô khách người Mỹ mở bóp lấy hai tờ giấy năm đô la đưa cho Tân và hẹn sáng mai tới đón cô đi chơi tiếp. Tân cầm hai tờ giấy bạc ngần ngừ. Anh định đưa trả lại một tờ thì cô khách Mỹ đã bước vào trong khách sạn.

Sáng hôm sau đúng chín giờ, Tân đạp xe tới góc đường Lê Lợi – Tự Do đã nhìn thấy cô khách đứng chờ. Cô giơ tay vẫy chào anh rồi bước lại ngồi lên xe.

“Hôm nay cô muốn đi đâu?”

“Đi đâu cũng được. Tôi muốn có nhiều thì giờ để trò chuyện với anh.”

“Hôm qua cô trả tôi nhiều tiền quá. Công của tôi chỉ đáng nửa số tiền ấy thôi! Thế là hậu hĩnh lắm rồi. Hôm nay tôi sẽ đạp để trừ vào số tiền cô trả dư hôm qua.”

Cô khách Mỹ chỉ cười và chớp chớp đôi mắt xanh biếc không có ý kiến gì, nhưng trong đầu cô nẩy một câu hỏi: sao lại có anh chàng gàn dở thế nhỉ? Đã nghèo khổ mà lại còn chê tiền?

Còn Tân bây giờ mới nhìn thấy đôi mắt xanh mầu ngọc bích và trong sáng như mắt mèo đẹp tuyệt vời của cô. Trong đôi mắt ấy anh đọc thấy nhiều thứ lắm: hiền hòa, dịu dàng, nhân bản và cả nỗi đau tiềm tàng ẩn sâu. Đúng, đôi mắt là linh hồn của con người. Các cụ mình xưa nhận xét thật tài tình tinh vi. Xe chạy ra bờ sông Saigon trước khách sạn Majectic. Cô khách ngỏ ý muốn ngồi chơi nơi vườn hoa. Tân nói đùa:

“Tuy ngồi chơi, tôi vẫn tính tiền cô theo giờ đạp xe đấy!”

“Tốt thôi, không có gì đáng phải bàn cãi!”

Để an toàn, khỏi lo lắng, Tân đặt chiếc xích lô ngay cạnh chỗ ghế ngồi và khóa bánh xe lại bằng dây xích. Anh nói với cô khách Mỹ:

“Cho chắc ăn!”

Cô khách cười: “Xe để sát bên cạnh anh, còn kẻ nào dám cả gan lấy cắp!”

“Bần cùng sinh đạo tặc cô ạ! Dân Việt Nam chúng tôi có câu thành ngữ này. Mà bây giờ thì cả nước đều “bần cùng” nên bất cứ việc gì cũng có thể “sinh đạo tặc”. Họ không ăn cắp nữa mà là ăn cướp. Đã tới mức ăn cướp thì họ đâu còn sợ cái gì. Lão Lê-Nin nói đúng đấy, nếu mất, họ chỉ mất cái cùm thôi!”

Cả hai cùng cất tiếng cười vui vẻ. Bờ sông Saigon lúc nào cũng tụ tập đông người. Thấy khách ngoại quốc, bọn trẻ nhỏ chuyên bán những đồ lặt vặt rẻ tiền cho du khách, xúm lại vây quanh hai người mời mọc, gạ gẫm, nài nỉ. Chúng nói những câu tiếng Mỹ bồi ngây ngô ngộ nghĩnh. Rồi đám bán hàng rong xúm xít như ruồi bu. Tân khó chịu lắm, luôn tay xua đuổi thì bị mắng trả tục tĩu. Còn cô khách Mỹ cứ cười cười lấy làm vui thích hoạt cảnh này. Cô mua một gói đậu phụng rang cho mình, một gói cho Tân và mỗi người một chai côca -cola. Lâu lắm Tân mới uống lại thứ nước ngọt của “đế quốc Mỹ” này. Sao mà ngon ngọt đến thế. Mười mấy năm trời khi ở trong tù và cả lúc về ngoài đời anh chưa một lần được uống lại. Tiền ăn còn lo chưa nổi lấy đâu tiền uống côca -cola. Khi bóc gói đậu phụng, anh thất vọng. Nó đã bị hư từ lâu, nhưng người ta vẫn đem bán. Cô khách nói:

“Nếu ở bên Mỹ, nhà sản xuất bị kiện sặc gạch đấy!”

Vứt hai gói đậu phụng hư xuống sông xong, hai người ngồi nhìn trời đất. Một lúc lâu cô khách chợt hỏi:

“Trong khi ở Mỹ, anh có quen thân người bạn Mỹ nào không?”

“Có chứ! Bạn cùng khóa thì nhiều lắm, nhưng thân thiết thì chỉ một hai người.”

“Anh còn nhớ tên?”

“Nhớ chứ. Một anh tên là Tom Hamilton Một anh tên là Edward Carter. Không biết anh chàng này có họ hàng gì với lão Tổng Thống Jimmy Carter không!”

Cô khách Mỹ nói nhanh: “Edward Carter! Anh có nhớ sai tên không? Anh ta người ra sao?”

Tân vỗ vỗ trán như gọi những hình bóng cũ trở về:

“Anh ta cao lớn hơn tôi một chút và cũng tuổi tôi, năm nay được ba mươi sáu tuổi. Anh em cùng khóa thường nói đùa nếu cái mũi tôi cao một chút, dài hơn một chút, và nước da trắng thì đúng là anh em sinh đôi với Edward Carter.

” Cô khách Mỹ chăm chăm nhìn thẳng vào mặt Tân như quan sát, như dò xét. Rồi cô không giấu được một cái thở dài. Tân ngạc nhiên hỏi:

“Sao, nếu tôi đoán không lầm thì có thể cô quen biết hoặc có họ hàng với anh chàng Edward Carter này.

” Cô khách không trả lời. Cô lơ đãng nhìn sang phía bên kia bờ sông. Miệng cô lầm bầm mấy tiếng gì đó, Tân nghe không rõ. Tân móc túi lấy gói thuốc rê vấn hút.

“Anh hút thuốc gì mà có mùi khét thế?” Cô khách Mỹ hỏi.

“Đây là thuốc rê. Thứ thuốc rẻ tiền nhất của người Việt Nam. Lúc ở trong tù, đối với chúng tôi thuốc này là loại quý đấy cô ạ! Chúng tôi còn hút cả lá chuối khô và rễ cây nữa kìa!”

“Khổ cực vậy, thiếu thốn vậy mà các anh chịu đựng được để còn giữ được mạng sống trở về đời, tài thật!”

“Không ai, kể cả chúng tôi cũng không tin là mình sống nổi. Nhưng như vừa nói với cô đấy. Dân tộc tôi có sức chịu đựng gian khổ, bền bỉ dẻo dai. Hơn trăm năm nay chưa lúc nào dân tộc sống trong thanh bình yên ổn, trong no ấm sung sướng. Chiến tranh cứ tiếp diễn liên miên, hết ngoại xâm lại tới nội chiến, rồi cả nước chịu ảnh tù đầy đói rách nhục nhã. Nếu như người Mỹ của cô thì ít ra cũng chết nửa nước.”

“Sao anh không lái máy bay chạy ra ngoại quốc như một số người đã làm?”

“Tôi còn cha mẹ già. Cha mẹ tôi nhất định không chịu rời bỏ quê hương. Biết rằng ở lại sẽ phải chịu cảnh tù đầy và có thể bị giết chết nữa, nhưng tôi không thể bỏ mặc cha mẹ. Hơn nữa tôi còn con nhỏ mới sinh.”

“Bây giờ chắc con anh đã khá lớn. Thế còn vợ anh? Chị ấy vẫn một lòng đợi anh về? Tôi đọc sách báo thấy họ hết lời ca ngợi người đàn bà Á-Đông lúc nào cũng giữ trọn vẹn tình nghĩa vợ chồng. Dù chồng chết, còn trẻ vẫn ở vậy thờ chồng nuôi con.

” Tân lắc đầu thở dài, vứt mẩu thuốc xuống đất: “Tôi không có cái diễm phúc ấy. Sau khi tôi bị tù, vợ tôi để lại con cho cha mẹ tôi nuôi, đi lấy chồng khác.”

“Ồ, tôi xin lỗi. Tôi không có ý khơi lại sự đau buồn của anh. Nhưng tôi hơi tò mò, thế anh có oán hận người vợ không?”

“Cô ấy còn trẻ nên phải lấy chồng khác, đó là sự thường, có gì mà oán hận. Chỉ có điều hơi buồn là cô ấy lấy kẻ thù của chúng tôi.

” Đôi mắt xanh biếc của cô khách Mỹ chớp chớp. Cô có vẻ xúc động về chuyện riêng tư của Tân.

“Còn cha mẹ anh?”

Tới lượt Tân thở dài nuốt nước bọt như cố nén nỗi đau buồn xuống đáy lòng:

“Cha mẹ tôi đều mất khi tôi còn ở trong tù!”

Cô khách Mỹ kêu lên: “Thế còn đứa nhỏ?”

“May mắn cho nó được ông bà ngoại thương xót đem về nuôi, mặc dù ông bà cũng rất nghèo khổ. Ít ra thì cũng còn có những đốm lửa trong đêm tối phải không? “.

Và lần này chính Tân ngạc nhiên trố mắt nhìn cô khách Mỹ. Cô lấy khăn giấy chậm nước mắt. Cô khóc. Rồi cô đưa đôi mắt xanh biếc đẫm nước mắt nhìn Tân nói:

“Tôi tên Jacqueline Hunter. Còn anh?”

“Tôi là Tân, Đỗ Tân, cựu đại úy phi công Việt Nam Cộng Hòa. Rất hân hạnh được quen biết cô.”

Sau một lúc suy nghĩ đắn đo, Jacqueline nói:

“Anh có thể cho tôi địa chỉ để khi về Mỹ may ra tìm được mấy người bạn cũ của anh. Biết đâu họ chẳng hết lòng lo giúp đỡ can thiệp cho anh.”

“Cám ơn Jacqueline. Tôi ở số nhà…. Hẻm… Đường…. Thành phố Saigon.”

Họ còn ngồi nói chuyện với nhau rất lâu. Jacqueline có ý mời Tân đi dùng bữa trưa, nhưng anh từ chối, mặc dù bụng đang đói. Xuống xe cô móc bóp rút ra tờ giấy một trăm đô đưa Tân, nói:

“Anh cầm lấy để chi dùng. Rất tiếc tôi không thể giúp anh hơn.

” Tân từ chối ngay: “Cám ơn Jacqueline. Tôi cũng rất tiếc không thể nhận số tiền này. Tôi không muốn nhận một sự thương hại, hay một sự bố thí.”

”Không, đây là một tấm lòng. Anh hãy nhận lấy ở đây một tấm lòng.” Dứt lời Jacqueline nhét tờ giấy bạc một trăm đô vào tay Tân và bước nhanh vào trong khách sạn. Trước khi khuất hẳn, cô quay lại nói với Tân:

“Tạm biệt Tân, người bạn mới quý mến của tôi.”

Tân nhìn tờ giấy bạc một trăm đô nằm trong tay sững sờ. Một số tiền quá lớn và quá bất ngờ đối với anh. Chừng như định thần lại được, Tân phóng mình bước nhanh như chạy vào khách sạn, miệng gọi lớn:

“Jacqueline! Jacqueline! Tôi không thể! Tôi không nhận số tiền này. Tôi xin trả lại cô!”

Nhưng Jacqueline đã mất hút. Anh bảo vệ khách sạn thấy gã xích lô chạy xồng xộc vào trong khách sạn miệng la lối ầm ĩ liền chặn Tân lại, nói lớn, giọng hách dịch:

Anh kia! Ra khỏi đây lập tức!”

Tân giơ tờ giấy một trăm đô nói:

“Tôi đưa tiền trả cô khách Mỹ!”

“Cái gì?ạ Cô ta đánh rơi tiền à?”

“Không, cô ấy trả tiền cuốc xe cho tôi một trăm đô, trong khi giá chỉ có năm đô.”

Anh bảo vệ ngẩn người ra nói:

“Lạ nhỉ? Đi cuốc xe có năm đô mà trả một trăm đô? Có khi là đô giả đấy! Đưa đây tôi coi nào!”

Nhưng Tân không đưa làm anh bảo vệ khách sạn nổi giận:

“Thôi, cút cha anh đi. Một trăm đô mà chê à? Anh đạp xe cả năm liệu có kiếm được nổi số tiền này không? Gặp con mụ Mỹ điên khùng vớ món bở thì hãy chuồn mau đi, không nó đổi ý ra đòi lại, thì chỉ có nước ăn cám, anh bạn ạ!”

Tân cầm tờ giấy bạc một trăm đô chậm rãi bước ra khỏi khách sạn. Một trăm đô, đúng là số tiền không nhỏ, nhưng công sức của anh bỏ ra đâu có xứng đáng để nhận sồ tiền này. Thôi sáng mai tới trả cô ta vậy. Cả đêm đó Tân không ngủ được. Anh cứ trằn trọc “đánh vật” mãi với tờ giấy bạc một trăm đô. Tại sao lại có thể như thế nhỉ? Đi cuốc xe áng giá năm đô, cô ta trả một trăm đô. Chẳng lẽ là bạc giả như anh chàng bảo vệ khách sạn nói? Không! Nhất định không phải rồi! Cần gì cô ta phải làm cái việc lươn lẹo dối trá, Vậy tại sao cô ta trả cho mình cả một trăm đô? Thương hại? Bố thí? Một tấm lòng? Dù có là gì đi chăng nữa thì sáng mai cũng vẫn phải trả lại tiền cho cô ấy.

Tân thở dài. Tắt đèn. Bật đèn. Vuốt ve ngắm nghía tờ giấy bạc một trăm đô. Tờ giấy mầu xanh lá cây như sáng rực trong đêm. Một trăm đô đâu có nhỏ. Có khác gì tiền từ trên trời rơi xuống. Nhưng nhất định ngày mai phải trả lại cô ta, cô Jacqueline quý hóa: Tôi rất trân trọng tấm lòng của cô nhưng tôi không thể nhận số tiền này. Chúng ta chỉ mới có hai ngày quen biết, đâu đã có ân tình nghĩa trọng gì. Cám ơn lòng tốt của cô. Cám ơn người đàn bà ở phương trời xa đến. Nghĩ tới những người cùng chung nòi giống sống quanh tôi, cô làm tôi thấy đau đớn tủi nhục.

Hôm sau mới tám giờ sáng, Tân đã đạp xe tới chỗ cũ để đợi Jacqueline, mặc cho một người khách Tây phương đang vẫy tay gọi xe bên kia đường. Anh sốt ruột chờ, đốt hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, thỉnh thoảng thọc tay vào túi quần để yên trí tờ giấy bạc một trăm đô vẫn còn nằm trong đó. Chín giờ đã tới. Rồi chín giờ mười phút. Chín giờ mười lăm phút. Không thấy bóng dáng Jacqueline đâu cả. Chín giờ hai mươi phút. Tân thấy anh bảo vệ khách sạn hôm qua bước lại phía anh. Chẳng lẽ tên này gặp mình kiếm cớ gây sự để đoạt tờ giấy một trăm đô? Tiền bạc làm con người mờ mắt dễ trở thành bất lương. Anh bảo vệ khách sạn tới bên Tân dừng lại và hỏi vẫn giọng hách dịch:

“Có phải anh là người hôm qua chở cô khách Mỹ?”

Tân gật. Anh ta đưa Tân một mảnh giấy:

”Này cầm lấy! Thư của cô ta đấy!” Dứt lời anh ta bước về khách sạn.

Thư là một mảnh giấy nhỏ có in tiêu đề khách sạn. Jacqueline viết bằng tiếng Anh:

“Tân mến! Hôm nay tôi có việc bất thần phải đáp máy bay đi Hà Nội. Chúc vui khỏe. Hẹn gặp lại.”

Cô ký tên một chữ tắt “J”.

2

Những ngày và cả những tháng sau đó Tân vẫn thường đậu xe góc đường Lê Lợi – Tự Do có ý chờ người đẹp Mỹ Quốc bất thần xuất hiện. Anh biết vô vọng nhưng vẫn cứ mong, cứ đợi. Rồi Tân tự an ủi đó là một giấc mơ, một giấc mơ đẹp có thật và sẽ không bao giờ hiện ra lần nữa. Anh chợt nhớ hai câu thơ của nhà văn Duyên Anh mà anh được nghe trong trại tù: “Đời rất hiếm hoi lần Bụt hiện. Cho nên đoạn kết thảm vô cùng.” Đời mình chưa đến đoạn kết, nhưng đến nước này thì đúng là “thảm vô cùng” rồi, còn chờ còn mong gì nữa “lần Bụt hiện”. Rồi anh lại lẩn thẩn nghĩ tới bốn chữ “Hồn Bướm Mơ Tiên” – tên một cuốn truyện của nhà văn Khái Hưng. Hồn Bướm Đỗ Tân đang mơ tới nàng tiên Jacqueline Hunter. Tiên đã về vùng đất Thiên đường của Hạ giới, còn bướm thì vẫn mơ màng nơi chốn địa ngục trần gian. Buổi tối, lúc ấy gần mười hai giờ đêm Tân mới về tới nhà. Hôm nay xui xẻo chỉ chạy được ba “cuốc” xe ngắn, vừa đủ tiền chi cho hai bữa ăn. Tới trước cửa nhà Tân thấy chị chủ nhà đứng ngay trước cửa có vẻ đợi anh. Tân hơi chột dạ. Hôm nay là ngày mùng năm đầu tháng nhưng anh vẫn chưa có tiền trả tiền thuê buồng. Bà ta đợi mình về để đòi đây. Số tiền Jacqueline cho anh đã tiêu hết, “tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống”. Tân định cất tiếng xin khất ít ngày thì chị chủ nhà đã tươi cười đưa anh một tờ giấy, nói:

“Chú Tân có tin vui nè!” Tân cười nhạt:

“Tin vui? Tôi làm gì có tin vui. Giỡn làm chi chị Tư?” Chị cho tôi nợ tiền thuê buồng mấy ngày nữa nghe!”

Chị chủ nhà vẫn cười cười nói:

“Tôi nói thiệt mà! Giấy gọi chú lên Tân Sơn Nhứt lãnh quà từ Mỹ gửi.”

Tân sửng sốt: “Quà ở Mỹ gửi? Lạ nhỉ?” Từ ngày ra tù về Tân chưa hề nhận được một lá thư nào từ ngoại quốc gửi về, nói chi đến việc nhận quà! Anh có nghe tin cánh Không Quân bên Mỹ tổ chức quyên góp tiền bạc cứu trợ, nhưng chưa tới tay anh. Có lẽ vì anh chưa liên lạc được với họ. Tân khấp khởi mừng thầm yên trí đây là quà của “các bạn ta” gửi. Anh cầm tờ giấy báo tin vui bước vào nhà đến bên ngọn đèn điện vàng vọt yếu ớt.

Chị chủ nhà bước theo sau luôn miệng hỏi:

“Sao? Quà của ai gửi vậy?”

Bỗng Tân đưa tay trái đặt lên ngực. Tim anh đập nhanh, dồn dập. Anh coi lại tờ giấy báo tin lần nữa Thật bất ngờ ngoài cả sức tưởng tượng của Tân. Người gửi quà là Jacqueline. Số quà nặng tới hai mươi ký. Ngày hôm sau Tân phải chạy vạy mới mượn được đủ tiền dự phỏng để đóng thuế. Tất nhiên trong số tiền này có cả tiền của chị chủ nhà. Chị cứ luôn miệng lẩm bẩm:

“Trời đâu có phụ kẻ hiền lành.”

3

Washington DC. ngày… tháng… năm….

Tân thân mến,

Khi nhận được thư này tôi hy vọng Tân đã nhận được gói quà tôi gửi. Chắc Tân ngạc nhiên lắm? Những quần áo, vật dụng, radio, cassette không phải của mình tôi đâu mà còn là của một số bạn bè phi công cùng khóa với Tân gửi đấy! Khi ở Hà Nội về nước, tôi liền liên lạc ngay với Trung Tâm Huấn Luyện Fort Worth ở Dallas nên có được một số địa chỉ các bạn đồng khóa với Tân. Biết tin anh họ mừng lắm. Sau khi nghe tôi kể hiện cảnh của anh, họ buồn rầu khổ sở và tức tốc hè nhau góp gửi cho anh một số tiền cũng như vật dụng quần áo. Về tiền được hơn một ngàn đô. Tôi đang tìm cách gửi sao cho sớm đến tay anh mà không bị mất. Tôi mong anh sẽ hài lòng về số quà tặng “đó là những tấm lòng của bạn bè” chứ không phải “sự thương hại hay bố thí” như một lần anh đã hiểu lầm. Sở dĩ chúng tôi gửi tiền và mua những món đồ cho anh là do một người bạn Việt Nam chỉ dẫn. Anh ta bảo những thứ này ở Việt Nam đang bán được giá cao. Bây giờ tôi xin nói một chút về tôi chắc anh sẵn lòng nghe? Tôi đến Việt Nam không phải để du lịch. Tôi đến Việt Nam với mục đích duy nhất tìm kiếm tung tích chồng tôi. Chồng tôi chính là Đại Úy Phi Công Edward Carter thuộc Lực Lượng Hải Quân Hoa Kỳ, người học cùng khóa và là bạn thân của anh.”

Coi tới đây Tân ngừng lại. Bất ngờ quá! Anh cố hình dung lại người bạn phi công cùng khóa Edward Carter. Sau khi mãn khóa về nước, Tân có thư từ qua lại với anh ta, nhưng chỉ được hai năm sau đó mất liên lạc. Anh nhớ mang máng là Edward Carter được thuyên chuyển tới Đệ Thất Hạm Đội ở Thái Bình Dương. Lúc học ở Mỹ, Tân và Edward Carter có nhiều kỷ niệm, nhất là những buổi cuối tuần được nghỉ đi kiếm bồ bịch, mải vui quá ngày phép, hai người bị kỷ luật. Tân thở dài. Mới đó đã mười mấy năm trôi qua. Tân coi tiếp thư:

“Trong một phi vụ oanh tạc vùng Thanh Hóa, máy bay của chồng tôi bị bắn hạ. Anh được báo cáo mất tích.” Tân lại ngưng coi và đặt lá thư xuống cái bàn gỗ nhỏ cũ kỹ đặt nơi đầu giường. Anh chống tay lên cằm, suy nghĩ trong xúc động. Edward bị bắt sống hay bị chết? Nếu bị bắt sống thì nhất định Jacqueline đã biết tin, vì tất cả tù binh Mỹ đều bị nhốt trong “khách sạn Hilton ” ở Hà Nội. Tân cầm thư coi tiếp:

“Tôi không tin thông báo của chính phủ. Bản danh sách quân nhân Mỹ mất tích còn quá dài. Tôi phải tự đi tìm chồng tôi vì tôi tin chồng tôi chưa chết. Chúng tôi mới lập gia đình có một đứa con gái. Khi chồng tôi mất tích nó được hai tuổi.

Tôi đến Việt Nam lần vừa rồi là lần thứ hai. Lần trước tôi đến Hà Nội và đi nhiều nơi, kể cả Thanh Hóa. Mất hơn một tháng chẳng kiếm được tin tức gì. Một người bạn viết thư cho tôi biết ở Saigon có một “tuy-ô” cung cấp người Mỹ mất tích rất đáng tin cậy. Thế là chẳng cần đắn đo suy nghĩ, tôi vội vã book vé bay sang Việt Nam liền. Tôi đã bị lừa nhưng được gặp anh. Đúng như người bạn Mỹ của anh nhận xét. Nếu cái mũi cao thêm một chút, dài thêm một chút, và nước da trắng thì anh đúng là bản sao của chồng tôi. Sao lại có thể có hai người giống nhau như thế và sao lại có sự tình cờ gặp gỡ giữa tôi và anh như thế nhỉ? Hôm đầu tiên ngồi trên chiếc xích lô của anh, tôi ngoái lại nhìn anh, không khỏi giật mình sửng sốt. Suýt chút nữa thì tôi kêu tên chồng. Anh có biết không, trong lúc liên lạc với Trung Tâm Huấn Luyện Fort Worth tôi mới biết thêm anh là người đạt số điểm cao nhất ở khóa đó. Ông chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện già đã về hưu vẫn còn nhớ tới anh và không ngớt lời ca ngợi anh một thanh niên thông minh giầu nghị lực, một phi công đầy triển vọng tài ba. Nói để anh mừng nhé. Các bạn người Mỹ của anh đang vận động với chính phủ can thiệp cho anh sang Mỹ định cư đấy. Công việc này tất nhiên rất khó khăn và nhiều trở ngại, nhưng ai có quyền cấm người ta hy vọng nhỉ, có phải thế không? Từ nay tôi sẽ liên lạc thường xuyên với anh qua thư từ. Anh cần những gì có thể cho tôi biết để tôi và các bạn anh cố gắng giúp. Dưới đây là một số địa chỉ các bạn cùng khóa với anh. Anh nhớ viết thư cho họ nhé. Có mấy người mang cấp bậc Đại Tá rồi đấy. Họ sẽ có thư cho anh, nếu không có gì trở ngại về phía anh.

Chúc anh vui khỏe.”

J.

Ít ngày sau, đúng như thư Jacqueline viết, có một người lạ đem đến cho Tân hơn một ngàn đô. Tân cầm số tiền trong tay mà vẫn ngỡ như mình nằm chiêm bao. Anh không nén được xúc động, tay cầm cây bút run run khi viết mấy chữ biên nhận tiền. Rồi anh thấy đôi mắt mình cay cay… Anh đã không cầm được nước mắt. Đêm đó Tâm nằm mơ thấy mình chở Jacqueline trên xe xích lô. Tới một quãng vắng vẻ Jacqueline bảo anh ngừng xe lại rồi nàng rời khỏi xe, bất thần ôm chầm lấy anh hôn thắm thiết. Khi Tân giật mình thức giấc anh cảm thấy như mùi nước hoa, mùi da thịt của nàng còn phảng phất đâu đây.

4

Tân đi tù khoảng hơn năm thì vợ anh đi lấy chồng khác, một cán bộ ngoài Bắc vào. Chính chị đã dẫn người này lên tận trại tù ép buộc Tân ký giấy ly dị với hứa hẹn sẽ can thiệp cho anh về sớm. Tân chẳng tin vào cái sự hứa hẹn này nhưng với một người vợ sớm thay lòng đổi dạ như vậy, anh không còn gì để lưu luyến cầm giữ. Anh chỉ lo ngại cho đứa con nhỏ mới ba tuổi. Nhưng anh yên tâm phần nào khi biết con mình được ông bà ngoại đem về nhà nuôi. Khi Tân từ trại tù vùng cao nguyên trở về Saigon, anh tới ngay nhà ông bà già vợ. Con gái anh đã hơn mười tuổi, gầy và hơi xanh. Nó ôm chầm lấy bố khóc như mưa. Tân định ở nhờ ông bà già vợ ít ngày nhưng căn phòng quá nhỏ hẹp mà lại chứa những năm người: ông bà già vợ, vợ chồng người em vợ và con gái Tân nên không còn chỗ cho anh. Sau bữa cơm đạm bạc chỉ có rau muống muối mè (để đãi mừng chàng rể ở tù về), Tân phải kiếm cớ đi chỗ khác ngủ, mặc dù ông bà già vợ cố giữ lại “ăn hết nhiều chứ ở hết bao nhiêu”. Đêm đó, đêm đầu tiên được sống tự do ngoài đời, Tân đã phải nằm ngủ trong mái hiên của một ngôi chùa nhỏ ở ngoại ô và phải chen chúc với đám ăn mày, xì ke ma túy. Sáng dậy gói quần áo nhỏ Tân mang từ trại tù về cũng bị “chôm” mất. Tân đi kiếm nhà một người bạn tù về trước anh và được người này giới thiệu việc làm: rửa chén đĩa một tiệm phở. Làm được mấy ngày chưa kịp lãnh lương tuần Tân bị thôi việc. Anh đã làm sứt mẻ và vỡ quá nhiều chén đĩa trong khi rửa.

Có được số tiền “ngoại viện” Tân đem một nửa “phân phối” cho bố mẹ vợ, bạn bè và cả chị chủ nhà. Riêng cô con gái Tân dẫn đi may một lúc mấy bộ quần áo và mua cho chiếc xe đạp để đi học. Tân viết thư gửi Jacqueline bầy tỏ lòng biết ơn. Với các bạn bè người Mỹ cũng vậy. Và cứ thế mỗi tháng Tân nhận được một lá thư của Jaqueline cùng một số tiền hoặc hàng hóa, có lần có cả đồ hộp thức ăn, sữa. Tạm thời qua cơn bĩ cực nhưng Tân vẫn không chịu rời chiếc xích lô. Hàng ngày anh vẫn đạp xe ra phố, không phải để chở khách như trước mà là phương tiện để anh đi đó đây thăm bạn bè ăn nhậu. Thỉnh thoảng anh đạp xe tới góc phố Lê Lợi – Tự Do tưởng nhớ tới Jacqueline và những ngày đầu gặp gỡ. Đôi mắt xanh biếc và mái tóc vàng óng ả chẩy dài xuống lưng của Jacqueline hình như lúc nào cũng hiển hiện trước mắt Tân. Có lý nào cô nàng yêu mình? Tân băn khoăn, thắc mắc, khắc khoải mãi với câu hỏi này. Và đôi lúc anh thấy nhoi nhói nơi tim khi nghĩ rằng chẳng qua cô nàng thương hại mình thôi. Trong những lá thư gửi Jacqueline, Tân đã bóng gió viết về tình cảm của mình đối với nàng, nhưng có lẽ nàng không hiểu sự tế nhị này của người Á Đông. Trong thư hồi âm, Jacqueline vẫn viết nhiều về những ngày ở Việt Nam và hỏi Tân về lịch sử, phong tục, tập quán, phong cảnh và những món ăn của người Việt. Rồi cô hỏi Tân thích nhất món ăn gì của Mỹ và nếu được sang Mỹ định cư thích sống ở đâu. Mỗi lần nhận được thư Jacqueline là buổi tối hôm đó Tân nằm mơ thấy mình sống trên đất Mỹ. Lúc thì lái máy bay, có lúc thì đi hộp đêm với bạn bè người Mỹ nhẩy đầm nhậu nhẹt say khướt. Nhưng nhiều nhất vẫn vẫn là mơ thấy sóng đôi với Jacqueline, hết đi ngắm tuyết ở vùng đồi trắng xóa miền Đông, tới shopping ở các chợ miền Nam Cali nắng ấm. Khi thức giấc Tân thấy tiếc và muốn giấc mơ cứ thế kéo dài mãi.

Mãi Tân mới kiếm được một việc tương đối “độc lập tự do” và hợp với “khả năng” của đa số tù cải tạo về: đạp xích lô. Tuy “lao động” vất vả cực nhọc lại không ”vinh quang” chút nào Tân cũng kiếm được đủ ngày hai bữa ăn và thuê một cái buồng nhỏ trong xóm nhà lá để đêm về có chỗ ngủ. Hôm nào chạy được khá tiền một chút, anh mời cả gia đình bố mẹ vợ và cô con gái đi làm một chầu phở bình dân. Cuộc sống khó khăn chật vật nhưng Tân vẫn lấy làm hài lòng vì dù sao vẫn còn hơn gấp trăm lần trong trại tù cải tạo, có làm không có ăn. Tân cho rằng khi con người đã trải qua cuộc sống trong tù cải tạo của cộng sản rồi thì tất cả mọi sự trên cõi đời này đều… nhẹ như lông hồng!

Buổi sáng hôm đó Tân sửa soạn đạp xích lô đi “tiếu ngạo giang hồ” có một anh công an tìm gặp. Anh ta trố mắt ngạc nhiên khi thấy người mình đi tìm gặp lại là một anh đạp xích lô. Anh ta hỏi đi hỏi lại mãi có đúng tên là Đỗ Tân không rồi mới cho biết lý do. Có ông dân biểu Mỹ muốn gặp. Tân choáng người. Một dân biểu Mỹ muốn gặp anh? Rồi trực giác bén nhậy của Tân cho biết đây là một tin lành. Tân đạp xích lô theo anh công an đến khách sạn Đại Lục nơi trước đây Jacqueline ở. Mọi người làm trong khách sạn đều nhìn Tân với cặp mắt nghi ngờ và kiêng nể. Thì ra ông dân biểu Mỹ là cựu phi công học cùng khóa với Tân. Máy bay của ông bị bắn trong một phi vụ oanh tạc miền Bắc và bị nhốt “khách sạn Hilton ” hơn năm năm thì được thả. Về Mỹ ông ứng cử và đắc cử dân biểu. Jacqueline đã gặp ông trình bầy hoàn cảnh Tân và nhờ ông can thiệp với chính phủ cộng sản Việt Nam. Ông sang đây với một phái đoàn bàn thảo chương trình viện trợ nhân đạo cho Việt Nam, trong đó có “chút việc riêng tư” là can thiệp cho Tân sang Mỹ định cư. Trước khi gặp nhà chức trách, ông muốn gặp Tân để “nhận diện” người bạn đồng khóa năm xưa.

5

“Anh Hoàng thân quý,

Sau khi chia tay anh ở phi trường Tân Sơn Nhất. thấm thoát thế mà đã hơn ba tháng trôi qua. Sở dĩ hôm nay mới viết thư cho anh vì khi đặt chân tới đất Mỹ, khỏi kể nhiều anh cũng thừa biết là tôi bận lắm. Sau khi nghỉ ngơi cho tỉnh người, đồng thời cũng là để gột sạch “bụi bậm xã hội chủ nghĩa” (còn bám chút đỉnh nơi thân thể), tôi và Jacqueline lo tổ chức lễ cưới. Rồi chúng tôi đi Washington DC tới bức tường đá đen ghi tên các chiến sĩ Hoa Kỳ hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam.Chúng tôi dành ít phút cúi đầu tưởng niệm dưới hàng chữ ghi tên Carter.Sau đó chúng tôi đi hưởng tuần trăng mật ở Honolulu. Tiếp theo chúng tôi đi thăm chỗ tôi học lái máy bay năm xưa ở hai bang Lousiana, Texas và các bạn phi công cùng khóa. Ông bạn cựu phi công đương kim dân biểu đã giới thiệu cho tôi một job hợp với khả năng: lái máy bay cho một đồn điền. Còn Jacqueline vẫn tiếp tục nghề cũ y tá bệnh viện. Con gái tôi được Jacqueline và con gái cô quý mến lắm. Hai đứa ngoài giờ học cứ quấn quýt bên nhau như hai chị em ruột. Như anh biết đấy, khi ra đi tôi đã mang theo chiếc xích lô mà tôi phải mua lại với một giá mắc người chủ mới chịu bán. Cứ chủ nhật hoặc những ngày nghỉ lễ, tôi đạp xích lô chở Jacqueline và hai đứa nhỏ chạy lòng vòng trên các đường nhỏ trong thành phố. Đây là một chiếc xe độc đáo duy nhất có ở thành phố này, nên đạp tới đâu cũng được người Mỹ vui vẻ ngắm nghía và trầm trồ giơ tay chào. Có nhiều người bắt tôi xuống xe để cho họ đạp thử và suýt nữa thì làm lật cả xe. Lâu dần người Mỹ quen mắt với chiếc xe xích lô của tôi. Chúng tôi đặt chiếc xích lô ngay trong phòng khách. Nhờ nó, tôi và Jacqueline thành duyên chồng vợ nên chúng tôi vô cùng quý và trân trọng giữ gìn nó.

Hiện tại chúng tôi đang sống tràn trề hạnh phúc. Mùa xuân của cuộc đời tuy đến muộn nhưng chúng tôi bằng lòng lắm với những gì mình đang có, đang sống. Thiên đường có thật anh Hoàng ạ! Và chúng tôi đang tắm trong suối nguồn tươi mát của Thiên Đường.

Xin chúc anh và gia đình mọi điều tốt đẹp. Thỉnh thoảng rảnh rỗi anh nhớ viết thư cho tôi nhé.

Quý mến,

Đỗ Tân. ”

Thanh Thương Hoàng

Món nợ không thể đòi

Món nợ không thể đòi

Nguyễn Ngọc Tư

Mẹ đi đằng trước, con lẽo đẽo theo sau, buổi chợ sớm mai thưa người nhưng chộn rộn vì những câu hỏi ríu ran của thằng nhỏ. Mẹ ơi, con cá gì mà có cái mỏ dài quá vậy, thằng con chỉ tay vào con… vịt, hỏi. Nhưng khi mẹ trả lời đấy là con vịt, nó giãy nảy, con vịt phải có lông chứ. Dằng dặc sau đó là những câu hỏi khác, tại sao con cá kia lại nằm im re, vì sao nó chết, ai làm nó chết. Tại sao cọng rau này màu tím còn rau kia màu xanh. Mẹ vẫn nhẫn nại trả lời con và diễn đạt làm sao cho giản dị, dễ hiểu. Chỉ câu hỏi: “Mẹ ơi, tại sao người ta đem bán cá em bé? Sao người ta không cho cá em bé đi học mẫu giáo mà ăn thịt tụi nó làm chi, tội nghiệp…”, mẹ phải ngẩn ra rất lâu, phân vân tìm câu trả lời. 

 Nhưng không thể lờ đi, vì thằng con ngước con mắt đầy vẻ xót thương nhìn mẹ, như chờ đợi, như van xin, như cầu cứu. Trong cái thau gần đầy nước, hàng triệu con cá con (mà thằng nhỏ xem như bạn đồng trang lứa với nó) đang chen chúc nhau đớp không khí một cách tuyệt vọng. Lứa cá nhỏ hơn đầu đũa này thường là từ 15-30 ngày tuổi, người ta gọi là rồng rồng. Hơi giống trẻ con, lúc mới chào đời rồng rồng có màu đỏ, và ngả sang đen khi chúng lớn dần lên. Lúc ấy, chúng sẽ từ bỏ cái tên cúng cơm của mình, xúng xính với tên mới: Cá lóc.

  Rồng rồng được cá mẹ sinh khi trời bắt đầu rải xuống những sợi mưa. Nước hớn hở dâng lên, tắm mát những ao, đìa đã mỏi mê vì những ngày khô kiệt. Sấm chớp vẫn lừ đừ, gầm gừ trong những đám mây nặng trĩu nước. Sa mưa ! Những nụ mầm mới bắt đầu nhú lên trên những cọng rau muống, rau đắng, rau ngổ… già nua. Những sinh vật của ruộng đồng như cá, ếch… vào mùa sinh sản. Lúc này, trong ao hay xuất hiện những bầy rồng rồng – những quầng đỏ lâm nhâm trên mặt nước, to như cái nia, di chuyển lấp lánh, nhịp nhàng.

 Đây cũng là khoảng thời gian mẹ đi chợ, hay thấy lòng buồn rợn ngợp. Đầu chợ là cá rồng rồng, cuối chợ cũng cá rồng rồng. Trên nền chợ đẫm nước, bên mớ rau đồng xanh non, là những con ếch, nhái đã bị lột da tuyệt vọng chắp tay lạy lia lịa, ọc ạch nhảy trên mâm, na cái bụng trứng lặc lè. Ai cũng có thể nhìn thấy muôn vạn hạt trứng nhỏ lấm tấm bên trong. Dài theo lối đi, người ta bày bán mấy con cá lóc ốm nhom vật vờ bên cạnh lũ cá rô, cũng lép kẹp, chỉ bụng là quá khổ vì phải bọc lấy trứng. Cá quãng này ăn không béo, nhiều nhớt, tanh, thịt cứng, dai nhách. Dường như lũ cá đã cố ép xác, tự làm mình xấu đi, già đi, nhếch nhác, xóa dấu của sự hấp dẫn để bảo vệ lũ con sắp chào đời nhưng cũng không thoát khỏi bàn tay của con người. 

 Nhưng giữa chợ đời, chẳng mấy ai để tâm mà cám cảnh cho phận rồng rồng, cho con cá… có bầu, như mẹ. Hay ai cũng thấy bất nhẫn, nhưng họ cũng im lặng làm ngơ, như mẹ. Khi lấy đũa gắp mớ rồng rồng kho tiêu thơm lựng, họ cũng thấy áy náy, quá nhiều sinh vật mất cơ hội sống chỉ vì một miếng ăn của con người? Hay họ vô tư, chẳng nghĩ gì cả, bằng chứng là những sinh vật tội nghiệp ấy đã bị tận diệt hết sa mưa này đến sa mưa khác, bất chấp lệnh cấm của chính quyền (cũng phải, ngang nhiên bày bán mà có thấy ông chính quyền nào lên tiếng đâu, mắc gì phải sợ).

  Mẹ đắn đo rất lâu, mẹ sợ suy nghĩ kia được nói nên lời sẽ là quá tàn nhẫn đối với đứa trẻ. Cuối cùng, mẹ nói, tại bà con mình còn nghèo. Vì nghèo, nên phải dầm mình kéo từng bầy rồng rồng, lội ròng rãi trên khắp đồng bãi tìm bắt từng con nhái, con ếch để đổi lấy ít gạo. Vì nghèo, nên đang cạy cơm cháy bữa sáng đã lo ngay ngáy bữa chiều, hơi sức đâu nghĩ tới tương lai xa vời. Và vì bụng chưa no, nên những gì người ta rao trên đài, nào là phát triển và bảo vệ nguồn lợi thủy sản, giữ gìn hệ sinh thái… chỉ là những ngôn ngữ xa vời. 

 Mẹ buộc phải nói những điều quá phức tạp, đối với thằng con năm tuổi. Nhưng đó là câu trả lời bao dung nhất, ít đau đớn nhất… Chắc chắn, lớn lên nó sẽ hiểu. Chỉ sợ, lúc đó, những sản vật của ao đồng trở thành hàng quý hiếm. Và vĩnh viễn thằng con không biết âm thanh ếch, nhái kêu ran ngoài đồng sau mưa, cảnh cá rô, thác lác ục sôi dưới đìa mùa hạn, tiếng cá lóc táp lụp bụp như dừa rụng xuống ao.

 Tất cả những thứ ấy, như một món nợ mà lớp con cháu không thể đòi lại từ những thế hệ đi trước. Có trả nổi đâu mà đòi…

 Nguyễn Ngọc Tư.

From: TU-PHUNG