Nhờ DNA, một ông tìm được mẹ Việt và cha Mỹ sau 50 năm

TÌM MUA THƯỢNG ĐẾ

TÌM MUA THƯỢNG ĐẾ

Bạn hãy dành vài phút đi tìm mua Thượng Đế nhé.

– Chú ơi, ở đây có bán Thượng Đế không?

Người chủ cửa hàng trợn mắt quát:

– Đi chỗ khác chơi, con nít quỷ…

Cậu bé Bonnie trạc 5, 6 tuổi, đi khắp các cửa hàng để tìm mua Thượng Đế trong nhiều tiếng đồng hồ, nhưng đều bị những người lớn quát mắng và đuổi đi…

Đến một cửa hàng thứ 29, cậu bé cũng hỏi người bán hàng câu hỏi đó. Lần này Bonnie được ông chủ 60 tuổi, gương mặt hiền lành, ân cần lắng nghe và hỏi han:

– Con muốn mua Thượng Đế thiệt sao? Nhưng nói cho ông biết là con mua để làm gì?

Cậu bé chảy nước mắt, trả lời:

– Dạ, Chú Rupp của con bị tai nạn, đang hôn mê sắp chết trong bệnh viện, mà bác sỹ nói “Chỉ có Thượng Đế mới có thể cứu được chú”, nên… con đi tìm mua Thượng Đế về để cứu chú của con.

– Ba mẹ con đâu? Ông lão chau mày hỏi.

– Dạ, ba mẹ con chết hết rồi, con chỉ có chú Rupp thôi.

Người đàn ông dừng lại trong cảm xúc và hiểu vấn đề, ông chùng lòng suy tư… rồi hỏi tiếp:

– Con sẽ mua Thượng Đế bằng cái gì?

– Dạ, con chỉ có 1 đô la thôi… Bonnie thút thít, lo sợ.

Ông chủ gật gù, suy nghĩ chút rồi ông cầm lấy 1 đô la của cậu bé đi vào trong.

Chút sau ông bước trở ra với một lọ nước trên tay có dán dòng chữ “Nụ hôn của Thượng Đế” và đưa cho Bonnie.

– May mắn là giá của Thượng Đế cũng chỉ có 1 đô la. Con mang chai nước này về cho chú uống. Ông hy vọng chú Rupp của con sớm hết bệnh.

– Dạ, con cám ơn ông.

Thằng bé cầm chai nước chạy nhanh ra khỏi cửa tiệm. Ông chủ nhìn theo, đôi mắt ông đỏ hoe…

Bonnie chạy nhanh vô phòng bệnh của bệnh viện, mừng rỡ nói:

– Chú Rupp ơi con mang Thượng Đế về cho chú nè…

Mấy ngày sau, một nhóm bác sỹ chuyên khoa trình độ cao đã đến bệnh viện. Họ đã sử dụng kỹ thuật tiên tiến nhất để điều trị cho chú Rupp…

Sau nhiều tuần điều trị, điều kỳ diệu đã xãy ra. Chú Rupp của Bonnie đã hồi phục hoàn toàn… Khi biết được tổng số tiền viện phí trên hóa đơn, chú Rupp gần như ngất xỉu…

Nhưng phía bệnh viện đã nói với chú rằng:

– Anh đừng lo vì đã có một người đến thanh toán tất cả viện phí cho anh rồi. Ông ấy là một tỷ phú về hưu và mở cửa hàng tạp hóa bán cho vui qua ngày… Nhóm chuyên gia y học cũng do ông bỏ ra một số tiền lớn tiền để thuê đến đây trị bịnh cho anh đó…

Chú Rupp cảm động rơi nước mắt…

Bonnie dẫn chú Rupp đến gặp người đàn ông để tạ ơn thì biết ông đã đóng cửa tiệm và đi xa…

Thời gian sau, chú Rupp nhận được một lá thư ở nước ngoài gửi về từ người ân nhân đó:

“Anh Rupp, anh thật may mắn có đứa cháu trai Bonnie. Vì muốn cứu anh, cháu đã cầm 1 đô la đi khắp nơi để tìm mua Thượng Đế… Anh hãy cám ơn Thượng Đế, vì chính Thượng Đế đã cứu tính mạng của anh…

Đọc xong, chú Rupp cúi mặt khóc, những giọt nước mắt như thay lời cảm tạ…

Nhiều năm sau, cậu bé Bonnie lớn lên và trở thành bác sỹ.

Nhớ về câu chuyện năm xưa, Bonnie quyết tâm sống đẹp và giúp tất cả mọi người với những gì anh có thể cũng để thay lời tạ ơn đến Thương Đế và người ân nhân đó, người đã gieo vào lòng anh một đức tin về cái tốt, cái đẹp, đức tin vào Thượng Đế…

Tình yêu và lòng bao dung của Thượng Đế hiện diện trong lòng người là chân lý vĩnh hằng…

From: TU-PHUNG

TRÁI TÁO CỦA STEVE JOBS

TRÁI TÁO CỦA STEVE JOBS

Nguyễn Trần Diệu Hương

Cuộc đời của thiên tài Steve Jobs ngừng ở tuổi 56 để lại tiếc thương cho cả triệu người khắp thế giới. Đóng góp của ông cho khoa học đã tạo cảm hứng cho họa sĩ Gudjonsson vẽ hình ông cầm trái táo đứng trước cửa thiên đường kèm theo lời chú thích: “Có ba trái táo trong lịch sử của nhân loại: trái táo của ông Adam, trái táo của ông Newton và trái táo của ông Jobs.”

Courtesy of Artist Sigudur Gudjonsson and www.bostonherald.com 

Trái táo của ông Adam, trong lãnh vực tôn giáo, là một hình tượng so sánh nhiều hơn là hình ảnh của những trái táo xanh, đỏ, vàng bán ở chợ. Trái táo của ông Newton lẫy lừng trong lịch sử khoa học, là một trái táo thật tròn trĩnh, -rớt từ trên cây xuống ngay trước mặt nhà bác học-, đẻ ra lực hút của trái đất cùng nhiều định luật vật lý  đóng góp cho mọi ngành khoa học, đặc biệt là kỹ nghệ hàng không, và thám hiểm không gian. 

Trái táo, bị cắn mất  một miếng,của ông Jobs thì rất thật và rất gần với đời sống của nhân loại cuối thế kỷ 20, đầu thế kỳ 21, là logo của Công Ty Apple, luôn nằm ở một góc những sản phẩm kỹ thuật của Công ty này.

Máy personal computer (PC) Apple 2 được giới thiệu ở thị trường tiêu thụ Mỹ cuối năm 1977, khi những người Việt Nam tị nạn đầu tiên vẫn còn bỡ ngỡ ở một môi trường sống mới. Những em bé Việt Nam đến trường học Mỹ cuối thập niên 70s là những người Việt Nam đầu tiên quen thuộc với hình ảnh trái táo có màu sắc cầu vòng – bị cắn lẹm mất một miếng ở bên trên – ở góc trái của cái computer Apple 2 vuông vức nằm chễm chệ trong phòng Science Lab của trường. Nhiều trong số em bé Việt Nam năm đó, về sau đã trở thành những kỹ sư computer giòi cả về cả hai mặt software và hardware, thầm lặng góp phần “behind the scene” cho các sản phẩm kỹ thuật càng ngày càng thon nhỏ, tối tân hơn.

***

Khi tôi xách cái túi nylon của Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc đặt chân đến Mỹ, cuộc chiến kỹ thuật và thương mại giữa IBM và Macintosh (sản phẩm của Công Ty Apple) đã đến hồi quyết liệt mà phần thắng có vẻ nghiêng về IBM. Doanh số bán máy computer Macintosh kém xa mức dự đoán. Rất thực dụng kiểu Mỹ, không tình nghĩa, Ban Điều hành của Apple, Inc.  đẩy ông Steve Jobs ra khỏi Công ty do chính ông (cùng một người bạn thời Trung học là Steve Wozniak) góp phần xây dựng nên vì lý do IBM hấp dẫn người  mua hơn là Macintosh. Nhiều người bỏ xó, hoặc cho Macintosh để quay qua mua PC của IBM về sử dụng.  Sức bán của Apple 2 thua xa doanh số của IBM. Lúc đó là vào cuối thập niên 80s, một cái Apple 2 (tên gọi thông thường là Macintosh PC để phân biệt với IBM Computer) vào khoảng một ngàn ba trăm dollars.

Thời đó, computer labs ờ các trường Đại học có hai bên: một bên là IBM Computers, một bên là Apple Computers. Máy personal computer (PC) còn đắt tiền nên đa số sinh viên phải vô lab để làm bài tập vì không có PC ở nhà. Thường thì nếu muốn dùng computer IBM phải chờ đợi, nhưng nếu dùng Macintosh thì lúc nào cũng có máy trống. Thấy rõ điều đó, nhà trường mở rộng IBM section, và thu hẹp Apple section. Ai vào lab thường xuyên đều thấy computer của IBM thắng thế rõ rệt so với Macintosh.  Đó có lẽ cũng là lý do mà sau thất bại của máy điện toán cá nhân Apple 3, Công ty Apple ngừng sản xuất computer, quay qua sản xuất các notebook, và iphone.

Ba “tài sản quý giá” đầu tiên ở Mỹ của một người tị nạn như tôi lúc đó là: cái xe Toyota Celica cũ đã 12 tuổi màu nâu (để làm chân đi học, đi làm), một cái TV mới 13 inches (để improve cách phát âm tiếng Mỹ), và một cái PC cũ có logo trái táo với màu sắc cầu vồng nằm trong cái khung vuông vức, mà mãi về sau, tôi mới biết đó là Apple 2, một trong những công trình tim óc  của  hai thiên tài cùng mang tên Steve (Jobs và Wozniak).

Một người bạn, là một người di tản buồn từ tháng 4/75, mua một cái IBM PC mới, thấy tôi mới khởi đầu vào College với hai bàn tay trắng, không có ba mẹ bên cạnh nâng đỡ; cần làm bài tập nhiều, anh cho tôi  cái computer cũ Apple 2. Khỏi nói  nỗi vui mừng của một người mới vào College có được một cái desktop computer làm của riêng ờ vào cuối thập niên 80. tôi quý Apple 2 ngang với cái Toyota Celica mười hai tuổi mua bằng cả tháng lương đầu tiên của mình. 

Mãi về sau, sau này, dù đã được sử dụng và làm chủ 3 hay 4 computers cùng lúc, dù luôn luôn thích IBM hơn Macintosh, tôi không nỡ đem cho, hay quăng đi cái Apple 2 cũ kỹ. Không chỉ vì đó là tài sản vô giá của tôi trong những ngày đầu lưu lạc quê người, đó là món quà tình nghĩa quý báu, mà còn vì Apple 2 có hình trái táo cắn dở với màu sắc cầu vồng cho tôi niềm tin muôn màu ở quê hương thứ hai.

***

Khả năng thư pháp học được từ một semester duy nhất ở Đại học của Steve Jobs và khả năng tiềm ẩn về hội họa của ông đã làm Apple 2 thành một công cụ không thể thiếu trong công việc của những người làm việc trong lãnh vực graphic design, vẽ kỹ thuật.

Nhưng những người dùng computer trong thương mại hay như một cái kho lưu trữ tư liệu cần thiết thì mê IBM hơn. Do vậy không ngạc nhiên khi Apple không thể nào sánh được với IBM trong doanh số tiêu thụ. Thất bại này như  “một viên gạch  mà cuộc đời liệng thẳng vào mặt” Steve Jobs như ông tự thú trong trong diễn văn nói chuyện với các sinh viên trường Đại học tư Stanford ở thành phố Palo Alto, quê nhà của ông.  Có lẽ đó cũng là lý do mà Macintosh computers chỉ có Apple 1, Apple 2, mãi mãi dừng lại ở Apple 3 non trẻ chết sớm, mà không bao giờ có Apple 4 tiếp  nối.

Apple 1 được tạo nên bởi Jobs và Steve Wozniak, một người bạn lớn hơn từ thời Trung học, cùng có đam mê phát minh máy móc như Steve Jobs. Hai ông Steve, cách nhau 5 tuổi, người nhỏ chững chạc hơn, người lớn hồn nhiên hơn số tuổi của mình, cùng đam mê sáng tạo khoa học, nên trở thành một teamwork bình đẳng rất hữu hiệu. Hai chàng trẻ tuổi thông minh, cùng bỏ học ở năm đầu Đại học, cần cù làm việc vì đam mê ngay trong phòng của ông Jobs (lúc đó vẫn còn ở chung với cha mẹ nuôi).  Những linh kiện điện tử (single circuit board. microprocessor) – được mua từ tiền bán chiếc xe Volkswagen Van cũ của Jobs, và cái máy tính điện tử scientific calculator HP 65 của Wozniak-, càng ngày càng nhiều đầy căn chung cư một phòng của ông Wozniak ở San Jose, đầy phòng của ông Jobs ờ Los Altos, California , rồi  lấn chiếm cả garage của cha mẹ ông Jobs. Chiếc máy điện toán cá nhân được hoàn thành, ông Steve lớn (Wozniak) là người thiết kế, viết thảo chương điện toán, và trực tiếp ráp nối với sự góp ý và giúp sức của ông Steve nhỏ (Jobs), được đặt tên là Apple 1. Nhưng việc bán chiếc máy ra thị trường và lập nên Công ty Điện toán Apple năm 1976 là ý của ông Steve nhỏ.  Ông Wozniak có đầu óc của một nhà phát minh, sự thông minh của một nhà toán học, nhưng người nhìn xa hơn và mang tham vọng đem kỹ thuật nâng cao đời sống nhân loại, nói theo cách của người Mỹ là “think outside the box”, là ông Jobs, người có tham vọng tạo thay đổi, tạo tiến bộ trong đời sống con người.

Steve Jobs and Steve Wozniak in the early 70s (Courtesy of  theguardian.com

Họ cùng là sáng lập viên của Công ty kỹ thuật Apple, cái tên đến từ thói quen thích ăn táo, và từng một thời đi giúp người ta hái táo từ một trang trại ở địa phương của ông Steve nhỏ.  Steve Jobs thích tên “Apple”(trong 4 cái tên cả hai ông Steve nghĩ là sẽ dùng làm tên gọi cho Công ty mới thành lập của mình) vì Apple là tên một loại trái cây, đơn giản, dễ nhớ, và sẽ được xếp trong mẫu tự A đầu tiên trong danh bạ điện thoại. 

Công ty có tên là Apple thì logo phải là một trái táo, nhưng hình vẽ trái táo được thu nhỏ lại hơi giống hình trái cà chua hay trái cherry. Táo phải là táo, rõ ràng và chính xác, không thể lẫn lộn với cà chua hay cherry được. Thế là logo mang hình trái táo bị cắn mất một miếng rất sắc gọn, để chắc chắn là không ai có thể lầm lẫn đó là trái cà chua.  Hầu hết mọi thứ đều là ý kiến của ông Jobs. Ông Wozniak chỉ tập trung vào kỹ thuật và các thảo chương điện toán.

Dĩ nhiên ông Jobs cũng phải làm luôn công việc marketing trong những ngày Apple, Inc. còn là một em bé sơ sinh, chưa ai biết đến. Ông đem sản phẩm đầu tay – máy computer cá nhân Apple 1 hãy còn thô sơ- ra tiếp cận người tiêu thụ bằng cách mở cửa garage nhà cha mẹ nuôi, mời vợ chồng nhà hàng xóm bên kia đường qua giới thiệu. Cũng trạc tuổi cha mẹ nuôi của Steve Jobs, ông bà cụ hàng xóm không biết Steve là:

” Chàng tuổi trẻ vốn dòng… nổi loạn,

xếp bút nghiên theo việc… phiêu lưu”

Ở nhà đối diện đã past được test dành cho các học sinh lớp 10 từ hồi còn là một cậu bé ở lớp 4. Họ lại càng không biết thiên tài còn “chiêu mộ” được một thiên tài khác (the other Steve- Wozniak) cùng chế tạo ra một cái máy điện toán cá nhân đầu tiên nên không chịu phí thì giờ bước qua bên kia đường.

Steve Jobs không phải là người chịu thất bại dễ dàng. Ông ngồi xuống bên cạnh hai người hàng xóm, khôn ngoan đánh đòn tâm lý vào cả ông lẫn bà:

 – Cái máy có thể giúp bác gái cùng những người thích nấu ăn giữ được tất cả recipes nấu ăn mà không cần phải dùng đến những tờ giấy viết tay sắp trong mấy cái hộp giấy. Vừa tiện lợi, vừa ngăn nắp khi cần tìm là có ngay.

– Cái máy có thể giúp bác trai theo dõi kết quả các trận đấu thể thao dễ dàng hơn và có thể giữ đầy đủ số liệu và sự nghiệp của từng cầu thủ hay từng đội mà bác yêu thích từ năm này qua năm khác mà không bao giờ bị lẫn lộn.

– Cái máy được đặt tên là Apple Computer.

Hai người hàng xóm trạc tuổi cha mẹ Steve nghe xuôi tai, mềm lòng cất bước sang garage nhà hàng xóm nghe hai ông Steve thay phiên nhau thuyết trình về cấu trúc của Apple 1 như đang thuyết trình trước các kỹ sư điện tử. Hai nhà phát minh trẻ hào hứng nói về công trình của mình và những ích lợi Apple 1 cung cấp cho đời sống hàng ngày. Ông bà hàng xóm nghe như là “vịt nghe sấm” nhưng mặt mày bà hớn hở vì tưởng tượng việc bếp núc của mình sẽ dễ dàng hơn, không phải dùng kính lúp săm soi tìm từng cái recipe chữ nhỏ lấm lem dầu mỡ. Ánh mắt ông rạng rỡ niềm vui khi hình dung ra cảnh sẽ “nói có sách mách có chứng” về các kết quả thi đấu thể thao mà không phải gân cổ lên to tiếng với các cổ động viên của đội tuyển đối phương.

Childhood family home of Steve Jobs on Crist Drive in Los Altos, California that served as the original site of Apple Computer. It’s  one of historic Los Altos sites in 2013. (Courtesy of mercurynews.com. October 29, 2013)

Và như thế, Apple 1 “ra mắt” người tiêu dùng không kèn, không trống, không ai biết ngoài hai người phát minh trong độ tuổi 20 và hai người hàng xóm đứng tuổi trong một cái garage cũ ở vùng Los Altos, miền Bắc California vào April Fools’ Day, tháng 4 năm 1976. Rất đơn giản nhưng không phải là chuyện “đang giỡn” của ngày April Fool’s Day – “cá tháng tư” – mà là ngày khai sinh của đại công ty Apple lẫy lừng khắp thế giới sau này.

Mặc dù không bán được Apple 1 cho ông bà hàng xóm ở nhà đối diện. Jobs học được bài học marketing thực tế và đã cùng Woz (tên gọi ông Steve lớn) bán được vài trăm computer Apple 1 cho các tiệm bán hàng quanh Mountain View, Los Altos, và Palo Alto bằng cách cổ điển như các em hướng đạo gõ cửa từng nhà bán bánh kẹo gây quỹ. Phát minh đầu tiên hãy còn thô sơ và nhiều khuyết điểm nhưng điều vui nhất và khá thành công là không có cái Apple 1 nào bị trả lại.

Phải đến lúc computer Apple 2 ra đời vào năm 1977 thì logo trái táo mới trở thành một biểu tượng chính thức luôn luôn xuất hiện trên các sản phẩm của Công ty. Logo đầu tiên là một trái táo với 6 màu sắc khác nhau, phản ảnh Apple 2 là máy điện toán cá nhân đầu tiên có thể in ra giấy với 6 màu sắc rõ nét.

Về sau, sau này, Apple 2, Lisa, Mac… hay các sản phẩm điện thoại càng ngày càng nhỏ và có đủ chức năng của máy chụp hình, computer, nối kết với Internet do Apple, Inc. sản xuất, logo vẫn là trái táo cắn dở nhưng nhỏ hơn và thường là màu đen hay màu bạc. Hình như trái táo cắn dở vẫn có hình thù như ngày đầu tiên nhưng màu sắc khác nhau và không còn rực rỡ màu sắc cầu vồng của thuở ban đầu vì “cha đẻ ra trái táo kỹ thuật” đã bắt đầu đi vào giai đoạn thứ ba trong chu kỳ “sinh. lão, bệnh, tử” của đời người vào đầu thế kỷ 21.

 

 

 

 

 

Logo các sản phẩm kỹ thuật của Cty Apple

Cũng vì bệnh ung thư, không còn sức khỏe để làm việc, ông Jobs phải nghỉ dài hạn. Thời gian đó, khi chưa phải là “thường trú nhân” của bệnh viện, ông có thì giờ thực hiện thú tiêu khiển của mình – đi bộ – quanh thành phố Palo Alto, nơi ông ở. Ông thường lái xe đến trường Stanford, lúc nào cũng “đóng bộ” trong  cái quần Jeans Levi’s bạc phếch và cái áo thun cổ cao màu đen, đi quanh quẩn trong campus của ngôi trường Đại học tư đẹp nổi tiếng cả thế giới. Lúc nào mệt, ông ngồi nghỉ trên những băng đá, có khi ngồi bệt dưới một bóng cây, đôi khi mắt nhắm lại tập trung thiền định trong thế giới tĩnh lặng của riêng ông. Sinh viên qua lại, thảng hoặc quan sát người đàn ông gầy yếu, xanh xao. Tuyệt nhiên không ai  nhìn ra đó là Steve Jobs.

Những lúc đó, ông nghĩ về cuộc đời, tự hỏi nếu ông được nuôi dưỡng trong một gia đình giàu có, dư dả để đóng học phí rất cao cho trường Đại học tư Reed College ở Oregon thì chắc là ông sẽ trở thành một nhà Toán học. Ông cũng nghĩ nếu khỏi bệnh, ông sẽ rút ngắn bớt giờ làm việc, thu xếp đi học lại, mặc dù có thể phải đi học dưới một cái tên khác để tránh bị chú ý và mất thì giờ không cần thiết như Steve Wozniak đã làm ở UC Berkeley hơn 20 năm trước.

Những tháng cuối đời, lúc đời sống chỉ còn tính bằng tuần trên mười đầu ngón tay, thân thể mất dần sinh lực, mong manh như một chiếc lá khô sắp lìa cành, thỉnh thoảng ông Jobs vẫn tự lái chiếc xe Mercedes thể thao hai cửa đi làm, đậu ở khu vực sát cửa vào cho người tàn tật mặc dù không có giấy phép.  Ông đi xe Mercedes không phải vì muốn chứng tỏ mình thành công, giàu có mà vì ông rất ngưỡng mộ nhà bác học người Đức Albert Einstein và mê luôn các loại xe do nước Đức sản xuất. Lúc đó, ông Jobs không còn sức khỏe để đi bộ những khoảng cách dài mà cũng có thể thiên tài cho là quy luật dành cho người bình thường không thể áp dụng với mình. Cái xe của ông không hề có bảng số xe từ cả chục năm nay. Vì ông vốn thích sống khép kín, để không ai có thể nhận ra mình.  Dĩ nhiên ông thừa thông minh (và dư tiền) cứ sáu tháng đổi xe một lần để có thể lái xe không có bảng số như luật định cho phép. Cẩn thận như thế, thêm vào đó, bệnh ung thư ở giai đoạn cuối tàn phá cơ thể thiên tài. Bề ngoài của ông Jobs suy sụp nhanh chóng. Ít người nhận ra đó là một khuôn mặt lớn, quen thuộc, một vài lần xuất hiện trên trang bìa các tạp chí khoa học và cả trên  bìa trước của tuần báo Time (thường chỉ in hình các lãnh tụ và các danh nhân trên thế giới).

Thế nên có lần khi ông vừa ra khỏi cửa văn phòng, đúng lúc một gia đình du khách đến chụp hình bên cạnh logo trái táo bị cắn mất một miếng ở cổng chính của trụ sở Công ty Apple ở Cupertino, miến Bắc California. Người cha trong gia đình thấy ông đi ngang qua, chìa cái iphone của mình ra, lịch sự yêu cầu:

–  Ông có thể vui lòng giúp chúng tôi chụp một cái hình cho cả gia đình không?

Rõ ràng là họ không nhận ra người đàn ông cao gầy, râu ria tua tủa, mắt trũng sâu trong cái áo thun cổ cao màu đen và chiếc quần jeans bạc màu có một vài lỗ rách là Steve Jobs.

Ông Jobs gật đầu, cầm cái iphone, điều chỉnh màn ảnh, lùi ra xa vài bước, ngắm nghía cẩn thận như một người thợ chụp hình dạo và bấm ngón tay cái khô khốc, thiếu sinh lực của mình lên màn ảnh, mỉm cười trao trả cái iphone có logo quả táo cho chủ nhân rồi lên xe rời Công tỵ Đó cũng là một trong những lần cuối ông Jobs đến Apple, Inc. và có dịp nhìn thấy một trong những đứa con tinh thần của mình đã góp phần làm thay đổi đời sống của con người.

Cả gia đình người du khách cùng hướng mắt vào tấm hình nhỏ trên iphone, trầm trồ khen người chụp hình chụp rất đẹp và rất rành cách sử dụng iphone, không biết là họ vừa có cơ may hiếm có được Giám đốc Apple, Inc. – người góp phần lớn trong việc sáng tạo tất cả các sản phẩm của Apple, kể cả cái iphone của họ, chụp cho họ một tấm hình có thể là đẹp nhất trong đời.

 

Tượng của Steve Jobs ở Budapest -Hungary-Science Park (Courtesy of GlobalPost. December 21, 2011)

Năm 2005, Steve Jobs được mời nói chuyện với cả ngàn sinh viên tốt nghiệp ở sân trường Stanford. Khác với những diễn giả khác ở các lễ ra trường luôn tô hồng cuộc đời trong con mắt vốn dĩ chỉ toàn màu hồng lạc quan và màu xanh hy vọng của các tân khoa, ông Jobs với kinh nghiệm cá nhân, với những điều học được từ giáo lý đạo Phật đã nói rất thẳng và rất thật:

– Bây giờ các bạn còn trẻ và là sức sống mới của xã hội nhưng một ngày nào đó, không xa, các bạn sẽ già và sẽ bị đào thải. Xin lỗi, nhận xét đó có vẽ bi quan nhưng đó là sự thật  Đời sống có giới hạn, đừng phí thời gian. Hãy làm những gì mình thích.

Lời nhắn nhủ khác thường đó như một loại thuốc đắng giã tật đã giúp rất nhiều sinh viên ra trường năm đó nhận ra mình muốn gì, can đảm bỏ con đường thảm đỏ bằng phẳng, thênh thang đã được cha mẹ trài sẵn để bước vào con đường riêng gập ghềnh, khúc khuỷu của mình. Có người vấp ngã, có người thành công nhưng tất cả đều hạnh phúc với lựa chọn của mình như hình ảnh chàng thanh niên Steve Jobs chưa đến 20 năm xưa, bỏ trường Đại học, cùng một người bạn thân  hăm hở vác ba lô đi vòng quanh Ấn Độ (quê hương của Đức Phật Thích Ca) tìm ra chữ “lặng” trong tâm, đóng góp rất nhiều trong các phát minh khoa học kỹ thuật cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21.

Thiên tài có một bộ óc xuất chúng, một tầm nhìn xa về kỹ thuật nhưng ông vẫn là một con người nên cũng có nhiều điểm yếu. Chẳng hạn, khi trở bệnh nặng, phải nằm ở Intensive Care Unit của bệnh viện Stanford, ông Jobs nổi tiếng khó chịu. Bệnh nhân Steve chỉ nghe lời và cộng tác với 3 người y tá trong mấy chục y tá giỏi nhất của bệnh viện. Ông yếu dần, phải đi bằng cái walker và phải cố gắng bằng tất cả sức lực và ý chí còn lại của mình. Những bước chân chập chững đầu đời ông được nâng đỡ bằng bàn tay của mẹ nuôi (bà Clara Jobs) ở sân sau ngôi nhà thời ấu thơ thuộc thành phố nhỏ Los Altos, miền Bắc California. Cuối đời ông lại tập đi với sự trợ lực của cái khung nhôm walker và sự khuyến khích của vợ (bà Laurene Powell) trong khu ICU của bệnh viện Stanford. Đó là lúc ông sắp đi hết vòng tròn sinh tử của đời người.

Thời trẻ có lần ông Jobs nghĩ đến chuyện xuất gia, đi tu và thành một nhà sư trong một ngôi chùa Phật giáo ở Nhật nhưng một vị thiền sư người Nhật mà ông hết lòng ngưỡng mộ đã khuyên ông đi theo con đường kỹ thuật có hiệu quả hơn là con đường tu hành. Cũng chính thiền sư Kobun Chino Otogawa (1938-2002), cố vấn tinh thần của ông Steve, là người tổ chức lễ cưới cho ông Steve và cô Laurene trong một buổi lễ nhỏ giữa núi rừng gần công viên quốc gia Yosemite năm 1991. Lễ cưới của một nhà tỷ phú trẻ, một thiên tài điện toán, không có khách mời, không có áo quần xênh xang, không có hoa lá muôn màu, chỉ có cô dâu và chú rể đứng nghiêm trang nghe những lời giảng về “duyên và nợ” của một thiền sư Phật giáo người Mỹ gốc Nhật hòa vào tiếng chim hót, tiếng suối reo của đất trời thiên nhiên.

Hình như Steve Jobs sinh ra để chỉ hòa hợp với công việc và các sáng tạo kỹ thuật, ông không hòa hợp với con người. Rất nhiều kỹ sư giỏi, có tài từ chối làm việc với ông vì họ không thể chịu được lối làm việc tuyệt đối hoàn hảo và lối nói thẳng chói tai, làm mất lòng người nghe của sáng lập viên công ty Apple.

Khi ông Jobs qua đời, có một vài người bạn trẻ ở độ tuổi ngoài 20 đã ngồi trong hàng ngũ sinh viên ở trường Đại học Stanford năm 2005, say mê nghe ông nói chuyện năm xưa, đặt những ngọn nến hình trái táo bên cạnh di ảnh của thiên tài, thầm cảm ơn ông giúp họ đủ tự tin đi trên con đường mình chọn.

 

Courtesy of artist Paresh Nath/ National Herald (India) — Courtesy of  artist Nik Scott/ Australia

Là một thiên tài về khoa học điện toán, là một thần tượng của cả triệu người mê các sản phẩm IPhone, IPod, IPad, ITunes (chữ I viết tắt cho chữ Internet), các notebook Mac (do chữ Macintosh viết ngắn lại) là một thần tượng của cà triệu em bé và cả rất nhiều, nhiều người lớn mê bộ phim hoạt họa “Toys Story” được thực hiện bằng graphic design trên computer Mac, ông Steve Jobs cũng có nhiều khuyết điểm như bất cứ ai khác. Dù vậy hình ảnh của trái táo đủ màu bị cắn mất một miếng trên các sản phẩm điện tử của thời các máy computers Apple hay trái táo màu đen nhạt hoặc màu bạc trên các loại IPhone, các máy nghe nhạc IPod nối kết được với Internet mãi mãi là một trong những đóng góp lớn nhất của khoa học cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21. Muốn hái hoa hồng nhiều khi người ta phải chịu rướm máu vì những cái gai nhọn trên cành. Mọi người có cơ hội làm việc trực tiếp với ông Jobs đều nhận ra điều đó.

     Courtesy of artist David Fitzsimmons/ Arizona Daily Star

Có rất nhiều điều chẳng bao giờ một người bình thường như chúng tôi có thể bắt chước ông Jobs hoặc có những chọn lựa như ông nhưng chắc chắn là chúng tôi sẽ theo gương ông, sẽ làm được “Simplicity and Focus” (sống đơn giản và tập trung) như thiên tài đã làm và đã yêu cầu tất cả cộng sự viên của mình làm theo.

          Courtesy of AZQuotes

Mỗi một lần lướt ngón tay trỏ trên màn ảnh Iphone tìm số phone hay một dữ liệu nào đó về một người thân quen, tôi vẫn nghĩ đến ông Steve thông minh với một đời sống không dài nhưng đủ để cho ông tạo được một chỗ đứng rất lớn trong lịch sử khoa học điện toán.

Jobs presenting the iPhone 4 in 2010

Mỗi một lần chọn mua những trái táo ngọt ngọt chua chua, đủ màu, tôi cũng sẽ nhớ đến Steve Jobs và trái táo cắn dở của ông.  Có đến gần cả chục loại táo đủ màu bán trong các chợ nhưng không hiểu tại sao loại táo xanh được trồng từ một tiểu bang Tây Bắc nước Mỹ có dán nhãn hiệu Washington với riêng tôi, vẫn gần với trái táo của Công ty Apple nhất . Có thể vì trái táo xanh gắn liền với  màu xanh tươi tốt, hy vọng của rừng thông bạt ngàn ở tiểu bang Oregon nơi ông Jobs đã học và mang thư pháp vào các máy computer của Apple tạo cho chúng ta nhiều kiểu chữ vừa đẹp, vừa rõ ràng. Có lẽ một người đạo Phật, ăn chay từ nhỏ như ông Steve rất thích ăn táo và các thực vật màu xanh. 

Món ăn ông Jobs thích nhất ngoài táo là cà rốt sống. Ông nhai cà rốt mà không cần đến một thứ nước chấm dressing nào như loài thỏ thưởng thức loại thực vật giòn tan màu vàng cam. Chuyện khó tin nhưng có thật là ở giữa một đất nước thừa mứa thức ăn như Mỹ, trong một thời gian rất dài, ông Jobs chỉ ăn táo và một vài loại rau quả mà không đụng đến thịt và các loại thực phẩm khác nên cho đến bây giờ chỉ có mỗi một trái cây duy nhất là trái táo được đi vào lịch sử khoa học kỹ thuật. Sau khi ông Steve qua đời, hẳn là nhiều “tín đồ” của những dụng cụ điện tử cá nhân sẽ thích ăn táo hơn.

Từng đặt chân đến rất nhiều nơi trên thế giới nhưng Steve Jobs luôn gắn bó đời mình với miền Bắc California. Ông sinh ra ở San Francisco, ấu thời và thiếu thời ở Los Altos, thời trung niên cho đến lúc lìa đời, ông sống ở Palo Alto trong một ngôi nhà cổ kính, nhiều cây mà thời sinh tiền, ông vẫn đi thiền hành bằng chân trần dưới những bóng cây.

Ông chọn nơi an nghỉ ngàn đời ở nghĩa trang tư Alta Mesa Memorial Park cũng thuộc thành phố Palo Alto, rất gần ngôi nhà Steve Jobs sống ở giai đoạn cuối đời (một ngôi nhà đơn giản như ý thích của ông). Steve Jobs muốn được an táng ở đây vì muốn được “làm hàng xóm” của những người ông từng ngưỡng mộ: nhà Sử học Thomas A. Bailey, người đồng sáng lập Công Ty Kỹ thuật Hewlett-Packard: David Packard, William Bradford Shockley Jr, người được giải Nobel Vật Lý năm 1956, Frederick Terman (một trong hai người góp phần tạo nên trung tâm kỹ thuật Silicon Valley của Mỹ và của cả thế giới).

Điều khác biệt duy nhất với “hàng xóm miên viễn” là theo ước nguyện của Steve Jobs, mộ bia của ông không khắc tên, để trống.

Để tưởng nhớ ông, Công Ty Apple đã cho xây một hội trường nằm dưới lòng đất (như người sáng lập Apple đã vĩnh viễn an nghỉ trong lòng đất) rộng 167 ngàn square foot (15,514 mét vuông) ở ngay trụ sở của Apple thuộc thành phố Cupertino. Hội trường, rạp hát này được đặt tên là Steve Jobs Theater có 921 ghế được xây dựng với kỹ thuật hiện đại, được khánh thành vào năm 2017, sáu năm sau khi Steve Jobs về với cát bụi.

In courtesy of www.fosterandpartners.com

***

Ngày được tin ông mất, tôi làm một bài thơ ngắn gởi đến rememberingsteve@apple.com  để góp phần tưởng nhớ nhà phát minh ngắn số:

One of the brightest stars of the world just fell.

But everything you did will be with us forever.

Your life doesn’t last long enough as expectation

But your achievement will be a lifetime motivation for youngsters.

Every time I work on my laptop, I’ll think of you.

Heaven will be opened for someone like you.

Surely you will be happy in a better place

Where there is no war, no killing, and illness.

RIP somewhere that is always calm and peaceful.

Million thanks for leaving behind a technical legacy.

Mong vô cùng một ngày nào đó, chúng ta sẽ có một David, Ted, Anthony, William… Nguyễn, Phạm, Lê, Huỳnh… ở Mỹ hay một Pierre, Daniel, Francois, Jean… Trần, Ngô, Đặng, Lý…  ở Pháp hay một Tuấn, Sơn, Minh, Nam… Bùi, Đoàn, Phan, Trương ở Việt Nam… đi tiếp được con đường ông Steve Jobs đã đi. Lúc đó chắc là bưởi Biên Hòa, chôm chôm Long Khánh, măng cụt Lái Thiêu hay nhãn lồng ở Huế sẽ có chỗ đứng trang trọng cạnh bên trái táo cắn dở mà ông Steve Jobs đã vĩnh viễn bỏ lại …

Nguyễn Trần Diệu Hương

(Bài này viết tháng 10 năm 2011, được hiệu đính lại tháng 10 năm 2021 để tưởng nhớ ông Steve Jobs, 10 năm sau ngày ông qua đời OCT 5- 2011)

From: TƯ-PHUNG

(Viết cho H4, H5 – Kính tặng các Thầy Cô dạy Toán thời Trung học của em) 

Mẹ Ơi!

Van Pham

MỘT GÓC SUY TƯ

Mẹ Ơi!

Chồng mất sớm, bà ở vậy nuôi con. Lúc đứa con gái lớn khôn thành danh ở Mỹ, tháng nào cũng gửi về cho bà một lá thư và 200$ tiêu xài.

Hết xuân này đến xuân kia, cô con gái luôn viện cớ này cớ nọ bận bịu không thể về thăm người mẹ thương yêu.

Khi người mẹ mất, cô về làm đám tang rất to nhưng tuyệt nhiên cô không rơi một giọt nước mắt.

Đến khi mở chiếc rương mà bà cụ luôn để ở đầu giường, bỗng cô òa lên khóc nức nở, ôm lấy quan tài mẹ mình hét lên như điên dại: “Mẹ…Mẹ ơi…”

Mọi người quây quanh xem trong chiếc rương có gì. À, thì ra là một xấp những tờ đô-la mới toanh còn buộc dây. Và một mảnh giấy đã úa vàng, viết nguệch ngoạc ít chữ được dán dính lại với tấm hình cô con gái lúc mới lọt lòng:

“Tiền nhiều quá, mẹ xài không hết con à. Mẹ nhớ con lắm, mỗi khi nghe tiếng xe ôm (honda) là mẹ chạy ra. Lần nào cũng không phải là con hết. Số tiền này mẹ để lại cho con, CON ĐỂ DÀNH PHÒNG KHI ĐAU ỐM nghe con.”

Cô con gái đã có tất cả những gì một người phụ nữ hằng mơ ước: tiền, danh vọng, địa vị, chồng con thành đạt.

Nhưng cô đã mất một điều vô cùng thiêng liêng không thể tìm ở đâu được: MẸ ƠI..!

May be an image of 1 person and text

Chuyện để đời

Le Tu Ngoc

Chuyện để đời

Chuyện xảy ra trong buổi lễ tốt nghiệp cho các Bác sĩ ở Anh năm 1920, có sự tham dự của Thủ tướng Anh thời đó. Trong buổi lễ, như thông lệ, trưởng khoa đứng lên chia sẻ kinh nghiệm với những sinh viên mới ra trường. Lần này ông kể về một sự cố đã xảy ra với ông:

“Lần ấy đã quá nửa đêm, tôi nghe thấy tiếng gõ cửa nhà mình. Khi mở ra tôi thấy một phụ nữ lớn tuổi đang hoảng hốt và bà nói với tôi: “Ôi bác sĩ ơi, con tôi đang bệnh rất nghiêm trọng, xin ông hãy cứu nó”!

Tôi vội chạy ra theo bà ta đến nhà họ mà không kịp nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra. Hôm đó là một đêm giông bão và rất lạnh, trời mưa như trút, lái xe rất nguy hiểm nhưng tôi không kịp lo cho mình nữa.

Nhà bà ta ở ngoại ô Luân Đôn, và sau một hành trình khó khăn, chúng tôi mới tìm đến nơi. Bà sống trong một căn phòng nhỏ với con trai. Khi bước vào phòng, tôi thấy cậu bé nằm trên giường kê ở góc phòng và đang rên rỉ vì đau đớn.

Sau khi tôi khám và kê đơn cho đứa trẻ người mẹ đưa cho tôi một ít tiền. Tôi từ chối và nhẹ nhàng nói với bà rằng tôi không thể nhận vì họ cần chúng hơn tôi nhưng tôi sẽ chăm sóc con bà cho đến khi cậu bé khỏe lại. Trưởng khoa kết thúc bài diễn văn bằng câu:

“Đây chính là cách hành nghề y thực sự vì trở thành Bác sĩ tức là đến gần nhất với Lòng Nhân Ái và là một trong những nghề nghiệp gần gũi nhất với Thiên Chúa”!

Ngay khi Bác sĩ trưởng kết thúc bài phát biểu của mình, Thủ tướng đã bước ra khỏi chỗ ngồi và tiến lên bục giảng.

Ông nói với Trưởng khoa: “Hãy cho phép tôi được hôn tay ông. Tôi đã tìm ông suốt hai mươi năm nay vì tôi chính là đứa trẻ mà ông đã cứu trong câu chuyện vừa rồi. Ôi, mẹ tôi sẽ hạnh phúc và yên lòng yên nghỉ. Trước khi lâm chung bà đã tha thiết yêu cầu tôi đi tìm ông để cảm tạ lòng tốt của ông với chúng tôi khi chúng tôi rơi vào cảnh nghèo khổ”.

Đứa trẻ đáng thương ngày nào chính là Sir Lloyd George, người đã trở thành Thủ tướng Anh!

#Gota chia sẻ từ FB Luong Nguyen

***

Ảnh Wikipedia

David Lloyd George

May be an image of 1 person

Yêu tuyệt vời

Yêu tuyệt vời

Khi bà Clavia Novicova mất ở tuổi 94 tại làng Progress (Tiến bộ) vùng Viễn Đông, Nga, tiễn đưa bà chỉ có dăm ba người, không có người thân, không có bạn bè vì tất cả đã từ lâu về bên kia thế giới.

 Chỉ ở Nhật Bản, các hãng truyền hình lớn nhất đã đưa tin đậm: Người vợ Nga của ông Yasaburo đã mất!

 Ở đất nước mặt trời mọc, bà Clavia đã trở thành biểu tượng của tình yêu và sự hy sinh: sống chung 37 năm, bà đã khuyên chồng trở về nước, về với người thân, về với người vợ Nhật đã chờ ông hơn nửa thế kỷ… 

 Clavia và Yasaburo gặp nhau năm 1959 khi cả hai đều trải qua trại tập trung của Stalin. Bà bị kết án 7 năm tù vì tội “hoang phí tài sản XHCN”, còn ông phải 10 năm “bóc lịch” vì là “gián điệp Nhật”. 

Cả hai lại cùng có nỗi đau riêng: bà đã có chồng, sinh con trai và chờ chồng trở về từ mặt trận. Nhưng khi bà bị kết án đưa đi vùng khỉ ho cò gáy là Kolyma thì chồng bà trở về đã lập gia đình khác. Ông cũng không kém bi kịch: sau khi cưới vợ ở Nhật Bản đã cùng vợ trẻ đến sống ở Triều Tiên và ở đó họ sinh 2 con, 1 trai, 1 gái

Vào mùa thu năm 1945, hồng quân Liên Xô tiến vào Triều Tiên, đã bắt gần như tất cả người Nhật và đưa về Liên Xô cải tạo với tội danh “làm gián điệp chống Liên Xô”. Yasaburo ngồi tù cùng Clavia ở gần thành phố Magadan. Khi ông ra tù, người ta lại quên không đưa ông vào danh sách tù binh chiến tranh để trao trả về Nhật. Thêm nữa, ông tuyệt vọng vì cứ nghĩ vợ con mình đã chết  và sợ hãi không biết đi đâu về đâu, nên rốt cục quyết định nhận quốc tịch Liên Xô, đổi tên thành Yakov Ivanovich.

 Họ gặp ngẫu nhiên. Nàng Clavia thấy một người đàn ông gày gò với  khuôn mặt không có nét Nga, mắt thì ngập tràn nỗi buồn mênh mang nên trái tim bỗng thắt lại vì thương cảm. Sau đó, bạn gái bà rủ bà đến sống ở làng Tiến Bộ, vùng Viễn Đông. Bà tạm biệt ông rời đi.

 Yasaburo viết thư cho bà, nài nỉ đến sống cùng bà ở nơi mới. Ban đầu bà từ chối vì sợ liên lụy khi quan hệ với một hàng binh Nhật, nhưng rồi tình yêu đã thắng và họ sống chung gần 40 năm. Ông làm nghề cắt tóc, chụp ảnh và châm cứu, bà thì trồng cà chua, dưa leo, nuôi dê. Cả hai sống cơ hàn, nhưng êm ấm, hạnh phúc. Ông không bao giờ to tiếng với bà, nhưng chỉ tiếc là hai ông bà không có con. 

Bà thổ lộ: “cả vùng không thể kiếm ra người đàn ông thứ hai: không uống rượu 🍷, không hút thuốc lá 🚬”.

 Yasaburo đã mua về 2 cỗ quan tài để nếu có chết cả hai sẽ cùng chết một ngày.

 Khi bắt đầu Cải tổ và tấm màn sắt buông xuống, một người thân đã kể cho các bạn hàng Nhật về một người Nhật kỳ lạ sống với vợ Nga ở làng Tiến Bộ. Họ về Nhật kiếm tìm người thân của ông Yasaburo, tìm thấy em trai ông, con gái ông và sau đó là người vợ Nhật tên là Hisako. Bà Hisako đã từ Triều Tiên về nước và vẫn chung thủy chờ chồng (con trai họ đã mất ở Triều Tiên). Bà hành nghề y tá và cả đời ky cóp đồng lương ít ỏi để xây cho mình và cho người chồng thất lạc một căn nhà nhỏ. Dù không chắc chắn ông còn sống hay đã mất, bà Hisako vẫn để tên chồng là người sở hữu nhà và tài khoản tiền tiết kiệm gửi ngân hàng. Khi tìm ra thì con gái họ đã ngoài 50 tuổi.

 Sau đó, em trai và con gái ông sang Nga đến làng Tiến Bộ khuyên ông về nước, song ông đã từ chối nói với người vợ Nga “anh không bỏ em, em là tất cả với anh”.

 Bà Clavia đã quyết định đưa ông về lại Nhật vì ở đó điều kiện chăm sóc y tế tốt hơn với người già và nhất là thương cảm người vợ Nhật mòn mỏi chờ chồng, mòn mỏi sống với mong ước được thấy lại mặt chồng, được ôm chồng lần cuối… 

 Một mình bà Clavia đã xoay sở làm cho ông hộ chiếu xuất ngoại, tự bà rút tiền tiết kiệm đổi ra đô la mua vé máy bay và chi phí ăn ở, đi lại cho ông… Và lại còn ly dị ông để ở Nhật Bản ông có lương hưu cũng như có quyền sở hữu và thừa kế tài sản.

Tháng 3 năm 1997, bà mãi mãi chia tay với người chồng Nhật. Yasaburo vẫn thường gửi đồ từ Nhật về cho bà, hàng tuần cứ vào thứ bảy ông lại gọi điện thăm bà…

 Sau khi biết được mối tình xuyên biên giới qua báo chí và cả phim tài liệu, truyện ký, người Nhật đã tổ chức quyên góp tiền cho chuyến đi tới Nhật của “bà Clavia”.

 Bà đến Nhật lúc đã ngoài 80 tuổi và lập tức trở thành nữ anh hùng ở đất nước này. Bà gặp người vợ Nhật của ông, cả hai ôm nhau khóc, họ hiểu nhau không cần phiên dịch.

 Sau đó, bà còn 2 lần đến Nhật, lần cuối là có mặt dự ra mắt vở kịch viết dựa trên câu chuyện về mối tình giữa người phụ nữ Nga và một hàng binh Nhật. Ông Yasaburo và bà Hisako đều muốn Clavia ở lại Nhật Bản, song bà đã từ chối vì muốn Yasaburo của mình “được sống đàng hoàng” và bà đã quen với cuộc sống đạm bạc ở Nga.

Hay tin bà mất, chàng Yasaburo lúc đó đã rất yếu viết thư gửi về làng bằng tiếng Nga

 “Clavia! Anh biết em đã mất và nỗi buồn tràn ngập trong anh. Anh đã định gọi điện cho em ngày 30/8 nhưng anh không còn sức. 40 năm sống cùng em ở Nga, em luôn bên anh, chăm sóc cho anh. Cảm ơn em về tất cả. Anh về được Nhật là nhờ những nỗ lực của em. Anh cám ơn em vô ngần. Anh còn nhớ chúng mình đã đóng quan tài cho cả hai. Giá còn sức khỏe, anh đã lao về bên em, ôm chặt em…nhưng anh không còn sức lực. Hãy ngủ ngon, Clavia yêu dấu! 

Yakov của em”

From: TU-PHUNG

Đôi mắt…

Đôi mắt…

Cuối cùng thì Linda Birtish đã hiến tặng toàn bộ cơ thể mình.

Linda là một  giáo viên rất nổi bật, cô nghĩ nếu có thời gian rảnh rỗi, cô sẽ năng vẽ những bức tranh tuyệt đẹp và sáng tác những bài thơ thật hay. Nhưng đến  năm 28 tuổi, cô bắt đầu bị hành hạ bởi những cơn đau đầu dữ dội. Rồi một  ngày nọ, bác sĩ phát hiện một khối u rất to ở trong não của cô. Họ bảo  rằng cơ hội sống sót sau khi phẫu thuật chỉ khoảng hai phần trăm.

Vì  vậy, thay vì phải tiến hành phẫu thuật ngay, các bác sĩ quyết định trì  hoãn thêm sáu tháng nữa.

Hơn ai hết, cô biết rõ mình có năng  khiếu thiên bẩm về hội họa. Vì thế, trong thời gian sáu tháng chờ đợi cơ  hội chiến thắng tử thần, cô lao vào làm thơ và vẽ tranh không mệt mỏi.

Tất cả những bài thơ của cô, trừ duy nhất một bài, đều được đăng trên các tạp chí nổi tiếng.

Tất cả các bức tranh của cô, trừ duy nhất một  bức, đều được đem triển lãm và bán cho rất nhiều người tại một số phòng  tranh danh tiếng.

Cô gửi gắm vào những bức tranh gam màu tươi sáng của  mình một khát vọng sống mãnh liệt, và gieo vào những vần thơ một cách  nhìn lạc quan, cho dù số phận có quay lưng lại với cô.

Sau sáu  tháng dài chờ đợi, Linda cuối cùng cũng được phẫu thuật. Đêm trước ngày  định mệnh ấy, cô quyết định sẽ cho đi tất cả những gì thuộc về mình. Cô  viết một bản “di chúc” rằng nếu chết đi, cô xin được hiến tặng toàn bộ  các bộ phận trên cơ thể mình cho bất kỳ ai đang cần chúng hơn cô.

Rủi  thay, cuộc phẫu thuật thất bại. Thế là đôi mắt của cô được chuyển đến  một ngân hàng mắt ở Bethesda, Maryland, và từ đó chuyển đến cấy ghép cho  một bệnh nhân sống ở tận vùng phía Nam Carolina. Và một chàng thanh  niên 28 tuổi mù lòa đã có thể nhìn thấy được.

Người thanh niên  và cả gia đình anh ấy đều rất đỗi vui mừng, anh gởi đến ngân hàng mắt  một lá thư cảm ơn vì đã giúp anh được sáng mắt trở lại. Đó chỉ là lá thư cảm ơn thứ hai mà ngân hàng mắt nhận được sau khi đã cho đi hơn 30.000  đôi mắt!

Hơn thế nữa, chàng thanh niên nọ cũng muốn gửi lời cảm  ơn đến gia đình của người đã hiến tặng anh đôi mắt. Anh nghĩ rằng họ  phải là những người vĩ đại lắm mới có được người con sẵn sàng cho đi đôi  mắt của mình.

Các bác sĩ cho anh địa chỉ của gia đình Linda và anh  quyết định bay ngay sang Stalen Island để gặp mặt bằng được những người  đã ban ơn cho mình. Không hề báo trước cho gia đình Linda, anh dò tìm  được địa chỉ của ngôi nhà, đến trước cửa và bấm chuông.

Sau khi nghe anh  thanh niên giới thiệu về mình và mục đích của anh trong chuyến đi này,  bà Birtish xúc động dang đôi tay ôm chầm lấy anh thanh niên nọ và nói:

“Này  chàng trai trẻ, nếu con chưa tìm thấy chỗ nào để nghỉ, vợ chồng ta rất  vui mời con ở lại chơi cùng chúng ta vào dịp cuối tuần này, con nhé!”

Anh  thanh niên rất vui được ở lại cùng gia đình họ. Khi bà Birtish dẫn anh  tham quan căn phòng của Linda ngày trước, anh thấy một cuốn sách của  triết gia Plato trên kệ sách của Linda. Anh cũng đọc Plato bằng chữ Braille (chữ nổi dành cho người khiếm thị).

Rồi anh nhận ra cô gái ấy  rất thích đọc Hegel và một lần nữa, anh cũng từng đọc Hegel bằng chữ  Braille.

Buổi sáng hôm sau, bà Birtish nhìn anh thanh niên với vẻ dịu dàng và nói:

“Con trai ạ, ta chắc chắn là đã gặp con ở đâu đó trước đây rồi, nhưng ta lại không tài nào nhớ được.”

Rồi  bà chợt nhớ ra điều gì đó. Bà chạy vội lên lầu và lấy ra bức tranh cuối  cùng cũng là bức duy nhất mà Linda không bao giờ chịu bán đi khi cô ấy  còn sống. Đấy chính là bức chân dung người đàn ông lý tưởng mà cô đã gặp  trong những giấc mơ của mình.

Thật ngạc nhiên, khuôn mặt trong bức họa kia giống hệt với khuôn mặt người thanh niên đã nhận đôi mắt của Linda.

Sau đó, người mẹ của Linda đọc cho anh nghe một đoạn trong bài thơ cuối cùng mà cô đã viết trên giường bệnh:

“Trong giấc mơ, có 2 trái tim vô tình gặp gỡ họ yêu nhau… nhưng mãi mãi trong cõi thực, họ sẽ không gặp nhau…!”

From: Helen Huong Nguyen

Chuyến taxi cuối cùng của đời người

Chuyến taxi cuối cùng của đời người

Hai mươi năm trước đây, tôi lái xe tắc xi để kiếm sống.

Một đêm kia, có người gọi xe ở khu chung cư vào lúc 2 giờ 30 sáng. Tôi đến nơi, các dẫy nhà đều chìm lẫn trong bóng đêm ngoại trừ ánh sáng mù mờ từ khung của sổ kéo màn kín. Trong trường hợp này, các người lái xe thường nhấn còi một hay hai lần và chờ khoảng một phút, nếu không thấy động tĩnh gì là họ lái xe đi…

Nhưng tôi cũng biết rất nhiều người nghèo không có xe cộ gì cả và tắc xi là phương tiện di chuyển duy nhất mà họ trông cậy trong những hoàn cảnh đặc biệt hay trong những giờ giấc bất thường…. Trừ khi linh cảm có gì nguy hiểm ngăn cản, tôi thường ra khỏi xe và đi đến tận cửa, tự nhủ biết đâu có người đang cần tôi giúp…

Nghĩ như thế tôi bước tới gõ cửa.

“Xin chờ một chút” giọng nói rõ ràng là của một người già nhưng vẫn có phần trong trẻo và tôi có thể nghe tiếng của các vật dụng dường như đang bị kéo đi trên sàn nhà… Vài phút sau, cửa mở, một bà cụ khoảng 80 tuổi đứng ngay trước mặt tôi. Cụ mặc chiếc áo đầm dài in hoa, đội cái mũ trắng xinh xắn với dải lụa gài chung quanh, trông giống y như một người nào đó từ cuốn phim của những năm 1940 chợt bước ra, với chiếc va ly vải bên cạnh. Sau lưng cụ, căn phòng chung cư trống trải như quanh năm không có ai cư ngụ, tất cả bàn ghế đều được phủ kín bằng những tấm trải giường. Liếc nhìn qua vai cụ, không có bất kỳ vật dụng nào trên quầy trong bếp hay trên tường cả và sát chân tường trong góc phòng tôi có thể thấy mấy cái thùng giấy đầy những ly tách và khung ảnh sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp.

– Phiền ông mang giúp tôi cái va ly này ra xe…

Tôi đem chiếc va ly cất ở thùng xe phía sau và quay trở lại giúp bà cụ. Cụ nắm cánh tay tôi và từng bước một, tôi dìu cụ xuống đường hướng về chiếc xe… Cụ luôn miệng nói cám ơn… “Không có chi, thưa cụ” – tôi nói, “cháu coi những người lớn tuổi như là mẹ của cháu vậy… ” – Cụ trả lời: “Ông tử tế lắm…. ”.

Sau khi giúp cụ yên ấm trên băng ghế sau, tội ngồi vào ghế lái và nổ máy xe. Cụ đưa cho tôi tờ giấy ghi địa chỉ nơi cụ muốn đến và hỏi tôi, rất nhỏ nhẹ:

– Ông có thể chạy ngang qua dưới phố cho tôi một chút không…

Liếc mắt vào tờ giấy ghi địa chỉ, tôi buột miệng:

– Nếu lái xuống phố thì đường xa hơn và lâu hơn nhiều…

– Cứ thong thả, ông à, không có gì vội vã cả, Tôi chỉ đi tới hospice thôi…

(hospice: nhà dành cho những người sắp từ giã cuôc sống).

Tôi ngước mắt nhìn, qua tấm gương chiếu hậu, đôi mắt cụ long lanh trong bóng tối.

– Tôi không còn ai thân thích trên cõi đời này, và bác sĩ đã nói tôi cũng chẳng còn bao lâu nữa, hai hay ba tuần là nhiều…

Vói tay tắt cái máy ghi khoảng cách và tính tiền, tôi hỏi một cách nhỏ nhẹ:

– Thưa cụ muốn đi qua đường nào trước…

Trong hơn hai giờ kế tiếp, chúng tôi hầu như đi lanh quanh qua từng con đường trong các khu phố.

Cụ chỉ cho tôi toà nhà nhiều tầng mà một thời cụ đã làm người điều khiển thang máy.

Tôi lái xe qua một khu phố với những căn nhà nhỏ đã cũ nhưng xinh xắn, cụ nói với tôi ngày trước khi mới lập gia đình cụ đã ở trong khu này, và chỉ cho tôi căn nhà loang loáng dưới ánh đèn đêm…

Nhìn ánh mắt lưu luyến của cụ, tôi như thấy một trời quá khứ thương yêu đằm thắm của đôi vợ chồng trẻ.

Cụ ra hiệu cho tôi ngừng xe trước nhà kho của cửa tiệm bán giường tủ, bàn ghế, nhẹ nhàng bảo tôi trước đây chỗ này là một vũ trường sang trọng và nổi tiếng, cụ đã từng hãnh diện đến đây khiêu vũ lần đầu khi là một thiếu nữ mười sáu tuổi…

Trong giọng nói cụ tôi thấy thấp thoáng hình ảnh một thiếu nữ trẻ trung sáng ngời với bộ dạ phục xinh đẹp và nụ cười tươi tắn hân hoan… Đôi khi, cụ bảo tôi đậu xe trước một toà nhà nào đó hay ở một góc phố khuất nẻo không tên…. và cụ im lặng thẫn thờ trong bóng tối như đắm chìm với cả một dĩ vãng xa xăm bao la và sâu thẳm…

Khi trời chập choạng trong ánh sáng đầu tiên của ban ngày, cụ nói với tôi khẽ khàng như một hơi thở nhẹ:

– Thôi, mình đi…

Tôi lái xe trong im lặng đến khu nhà hospice. Đó là một dẫy nhà thấp, kín đáo, ngăn nắp và gọn gàng. Tôi vừa ngừng xe là đã có hai người xuất hiện với chiếc xe lăn như là họ đã chờ đợi từ lâu rồi. Tôi bước xuống mở thùng xe phía sau để lấy chiếc va ly nhỏ của cụ mang tới để ngay cửa chính, xong quay trở ra đã thấy cụ đã được đỡ ngồi ngay ngắn trên chiếc xe lăn.

– Bao nhiêu tiền vậy cháu? – Cụ vừa hỏi vừa mở cái bóp nhỏ…

– Cháu không lấy tiền bác đâu… – tôi trả lời.

– Nhưng cháu phải kiếm sống chứ…

– Đã có những khách hàng khác, thưa bác…

Gần như không tính toán so đo, tôi cúi xuống ôm lấy bờ vai cụ. Đáp lại, cụ ôm tôi thật chặt:

– Cám ơn cháu đã cho cụ già này khoảng thời gian thật quý giá và đầy ý nghĩa.

Tôi xiết chặt tay cụ và quay bước đi trong ánh sáng mờ nhạt của một ngày mới đến. Sau lưng tôi có tiếng cửa đóng. Tôi cảm thấy như cả một cuộc đời vừa được khép lại phía sau.

Tôi không có thêm người khách nào khác trong buổi sáng đó. Tôi chạy xe loanh quanh không có mục đích và dường như tôi cũng chẳng biết mình đi đâu nữa…

Suốt cả ngày hôm đó hầu như tôi không thể nói được với ai lời nào cả… Chuyện gì sẽ xẩy ra nếu cụ già gặp phải một người tài xế đang ở cuối buổi làm, nóng nẩy chỉ muốn chóng xong việc để còn về nhà… Chuyện gì sẽ xẩy ra nếu tôi từ chối không nhận đón người khách là cụ hay tôi không bước xuống gõ cửa mà chỉ ngồi trên xe nhận kèn một lần rồi lái xe đi…

Tự nhiên, tôi bỗng nghiệm thấy trong quãng đời trẻ trung ngắn ngủi của mình, dường như là tôi chưa làm được chuyện gì có ý nghĩa hơn là chuyện tôi đã làm trong buổi sáng hôm ấy.

Chúng ta luôn luôn nghĩ rằng cuộc đời sẽ có những khúc quanh quan trọng, đánh dấu bằng những sự việc to lớn, dễ dàng ghi nhớ…

Nhưng thật ra, đẹp nhất vẫn là những phút giây nhỏ bé bất ngờ nhưng có xúc cảm mãnh liệt khiến ta phải bàng hoàng đến tê dại cả tâm hồn…

Xin chia xẻ câu chuyện nhỏ này với các bạn, hy vọng vì thế cuộc đời chung quanh chúng ta sẽ ấm cúng và có ý nghĩa hơn.

Cung Nhật Thành – lược dịch.

Một cơn giận 

Một cơn giận 

Thạch Lam

(Nhà văn Tự Lực Văn Đoàn)

Một truyện ngắn thật hay, thật xúc động, của Thạch Lam

Một buổi tối mùa đông, chúng tôi ngồi trước lò sưởi, trong một căn buồng ấm áp. Tự nhiên trong câu chuyện, một người nói đến những cơn giận tự nhiên đến tràn ngập cả tâm hồn ta và có khi gây nên nhiều cái kết quả không hay. Rồi mỗi người đều bày tỏ ý kiến riêng của mình.

Anh Thanh, từ nãy đến giờ vẫn lặng yên có vẻ trầm ngâm, cất tiếng nói:

– Sự giận dữ có thể sai khiến ta làm những việc nhỏ nhen không ai ngờ. Tôi biết hơn ai hết, vì chính tôi đã trải qua sự đó. Tôi sẽ kể các anh nghe một câu chuyện mà cái kỷ niệm còn in sâu trong trí nhớ tôi.

Cũng một buổi chiều mùa đông như hôm nay, tôi ở tòa báo ra về, trong lòng chán nản và buồn bực. Có những ngày mà tự nhiên không hiểu tại sao, ta thấy khó chịu, và hay gắt gỏng, không muốn làm việc gì. Tôi đang ở vào một ngày như thế mà chiều trời hôm ấy lại ảm đạm và rét mướt càng khiến cho cảm giác đó rõ rệt hơn.

Tôi đi vài bước trên con đường phố vắng người. Một cái xe tay dằng xa đi lại, anh phu xe co ro vì rét, hai tay giấu dưới manh áo tơi tàn. Theo lệ như mọi khi, tôi mặc cả:

– Xe đi không? Bốn xu về gần nhà bò Yên Phụ.

– Thầy cho sáu xu.

– Không, bốn xu là đúng giá rồi.

Tôi vừa nói vừa bước đi. Người phu xe đã có tuổi, cứ kéo cái xe theo sau tôi mà lẩm bẩm: “Bốn đồng xu từ đây về nhà bò”. Cái tiếng nhà bò anh ta nhắc đi nhắc lại làm cho tôi khó chịu. Tôi biết đó là một cách của các phu xe cứ đi theo sau khách để làm cho người ta bực tức, tôi lại càng ghét và quay lại gắt:

– Có đi hay không thì thôi! Đừng có theo sau người ta mà lải nhải.

Thấy tôi gắt, người phu xe đứng lại, không dám theo nữa. Nhưng để tôi đi một quãng xa, anh ta ới gọi:

– Lại đây đi mà.

Rồi anh ta hạ càng xe xuống, cứ đứng yên chỗ ấy đợi chứ không kéo lại phía tôi. Cái cử chỉ ấy làm tôi sinh ghét thêm, đã toan không đi, nhưng lúc ấy không có cái xe nào khác. Tôi giận dữ bước mạnh lên xe, vừa mắng:

– Anh thật là lắm chuyện, không đi ngay lại còn vẽ.

Anh xe cãi lại:

– Từ đây về đấy thầy cho được bốn đồng xu thật rẻ quá!

– Thì ai bảo anh đi? Không có tôi đã gọi xe khác.

Người phu xe khẽ thở dài, yên lặng nhấc xe lên. Lúc bấy giờ tôi mới ngả mình ra phía sau, nhưng thấy cái đệm cứng như gỗ đập vào lưng, tôi cúi xuống bên nhìn cái tay xe.

Tôi đoán không sai, chính là một cái xe hiệu “con lợn” cái tên hiệu cũng xứng đáng một hạng xe tàng ở ngoại ô mà tôi vẫn phải đi. Anh xe này đã vào đây kéo trộm, vì xe ngoại ô không được phép vào thành phố đón khách, nếu không tuân lệnh thì bị phạt từ ba đến bốn đồng bạc. Sự tồi tàn của cái xe làm tôi càng ghét anh xe nữa.

– Xe khổ thế này mà anh lại còn đòi cao giá.

– Xe thế mà thầy chê thì còn thế nào nữa!

Anh xe bướng bỉnh cũng không chịu kém. Tôi nói câu gì là anh ta đối lại liền. Sau cùng, giận quá, tôi dẫm mạnh chân xuống sàn xe, gắt:

– Thôi, câm họng đi, đừng lải nhải nữa.

Sự giận dữ làm cho tôi quên rằng anh xe cũng chỉ có trả lời những câu mắng của tôi mà thôi, và chính tại tôi gắt với anh ta nhiều quá. Nhưng lúc bấy giờ tôi chỉ thấy tức người xe ấy đến cực điểm, vì hắn dám cãi lại tôi mà không sợ.

Xe đi khỏi nhà máy nước thì gặp một người đội xếp tây đi xe đạp lại, theo sau một người đội xếp ta. Tôi nhận thấy anh xe kéo tôi có ý luống cuống và sợ hãi. Có lẽ vì thế mà người cảnh sát để ý, đi giáp vào cái xe kéo để xem dấu hiệu.

– Ê! Đứng lại!

Người kéo xe dừng chân… Anh ta quay lại tôi hớt hải van xin:

– Lạy thầy… thầy nói giúp con… thầy làm ơn…

Dưới ánh đèn tôi thấy mặt anh xe tái mét. Những vết răn in sâu xuống trên mặt già nua hốc hác, chân tay người khốn nạn ấy run bật lên và tôi thấy cái rung động chuyển cả vào chiếc thân xe.

Người cảnh sát tây đến, nói bằng tiếng ta hơi sõi:

– Mày chết nhé! Mày sẽ bị phạt!

Người phu xe ấp úng nói thì ông ta khoát tay bảo im, rồi quay lại tôi hỏi, lần này bằng tiếng Pháp.

– Người này kéo ông từ trong phố ra hay ông đi khứ hồi?

Tôi liếc mắt nhìn anh kéo xe. Trong bóng tối của vành nón qua ngang mặt, tôi thấy hai mắt anh ta long lanh nhìn tôi, như khẩn cầu van xin yên lặng. Tôi biết lời nói của tôi sẽ làm anh ta bị bắt hay không. Những khi nói chuyện với các phu xe khác, tôi được biết rằng nếu người khách nói là đi khứ hồi từ ngoại ô, thì người xe không việc gì. Nhưng lúc ấy, lời van xin của anh xe kia không làm cho tôi động lòng, mà lại làm cho tôi ghét anh thêm. Tôi trả lời người đội xếp:

– Tôi đi từ phố hàng Bún.

– Vậy phiền ông xuống xe.

Rồi anh ta nhìn anh phu xe, cười một cách tinh quái:

– Allez! Đi về bót!

Khi anh phu xe run sợ và hai người cảnh sát đã khuất đầu phố, tôi mới quay đi thong thả trên bờ hè. Cơn giận của tôi đã hết rồi. Sự hối hận dần thấm thía vào lòng tôi, tôi thấy một cái chán nản bực tức rung động trong người.

Tôi rung mình nghĩ đến số phận của anh xe khốn nạn. Ba đồng bạc phạt! Anh ta phải vay cai xe để nộp phạt; nhưng ba đồng bạc nợ ấy, bao giờ anh ta trả xong, sau những ngày nhịn đói, bị cai xe hành hạ, đánh đập vì thù hằn?

Tôi càng nghĩ đến bao nhiêu lại càng khinh bỉ tôi bấy nhiêu. Qua ô Yên Phụ, nhìn thấy những thợ thuyền tấp nập làm việc dưới ánh đèn trong những căn nhà lá lụp xụp, tôi rảo bước đi mau, hình như trông thấy tôi họ sẽ biết cái hành vi khốn nạn và nhỏ nhen đáng bỉ của tôi ban nãy.

Những ngày hôm sau thực là những ngày khổ cho tôi. Lòng hối hận không để tôi yên. Hình như có một cái gì nặng nề đè nén trên ngực làm cho tôi khó thở, và lúc nào hình ảnh anh phu xe cũng hiển hiện ra trước mắt.

Tôi nhất đinh đem tiền đến cho người xe kia để chuộc tội lỗi của mình. Đến phố hàng Bột hỏi dò những người chung quanh xưởng xe, tôi biết được anh xe bị phạt đêm hôm ấy là tên Dư, và ở trong một dãy nhà quá ngã tư Khâm Thiên.

Lần ấy là lần đầu tôi bước vào một chỗ nghèo nàn, khổ sở như thế. Các anh thử tưởng tượng một dãy nhà lụp xụp và thấp lè tè, xiêu vẹo trên bờ một cái đầm mà nước đen và hôi hám tràn cả vào đến thềm nhà. Trong cái hang tối tăm bẩn thỉu ấy, sống một đời khốn nạn những người gầy gò, rách rưới như những người trong một cơn mê.

Người phu xe Dư ở trong ấy. Một bà cụ già gầy giơ xương ngồi cắn chấy ở vệ hè chỉ cho tôi một cái cửa thấp bé ở đầu nhà. Tôi cúi mình bước vào, chỉ thấy tối như bưng lấy mắt và thấy hơi ẩm lạnh thấm vào tận trong mình. Có tiếng người đàn bà khẽ hỏi:

– Bẩm thầy muốn gì?

Khi mắt mắt đã quen tối, tôi nhận thấy người đàn bà vừa hỏi, một bà già ở mép một chiếc giường tre mục nát kê ở sát tường. Sau lưng bà này, một người đàn bà nữa ngồi ôm trong lòng một vật gì hơi động đậy. Cả hai cùng ngước mắt lên nhìn tôi một cách ngạc nhiên và đầu họ chạm vào mái nhà thấp, đầy những mảng giẻ rách nát vắt trên xà.

– Bác Dư có nhà không ?

– Bẩm, chú nó đi về quê vắng từ hôm nọ.

Một vẻ sợ hãi thoáng qua trên mặt đủ tỏ cho tôi biết họ không nói thật, tôi giảng giải:

– Không, cụ cứ nói thật cho tôi biết. Tôi đến để giúp bác ta chứ không có ý gì khác.

Bà cụ nhìn tôi nghĩ ngợi một lát rồi nói:

– Thế thầy đã biết việc chú nó bị bắt xe hôm nọ?

Tôi gật đầu ra hiệu cho bà cụ cứ nói:

– Hôm ấy cai nó phải đem tiền lên nộp phạt để chuộc xe về. Chú nó đã xin khất với cai để rồi trả dần số tiền đó. Nhưng nó nhất định không nghe, bắt phải trả một nửa ngay. Khốn nạn, thì lấy đâu ra mà trả. Thế là bị nó lột quần áo đánh một trận thừa sống thiếu chết thầy ạ. Khi về đây lê đi không đuợc nữa. Thế mà nó còn bắt mai phải trả ngay.

Người đàn bà ngồi trong cất tiếng ốm yếu nói theo:

– Nó còn bảo hễ không trả nó sẽ bắt lấy thẻ.

– Thế bây giờ bác ta đâu?

Bà cụ trả lời:

– Đi ngay từ hôm ấy, mà không biết đi đâu. Đã ba hôm nay chúng tôi dò mà không thấy. Chắc là sợ cai không dám về nữa, dù có về mà không có tiền cũng chết với nó. Thật cũng là cái vạ, nghe đâu chú nó nói hôm ấy tại người khách đi xe không biết nói với người đội xếp thế nào mới bị bắt, chứ không cũng chẳng việc gì.

Tôi yên lặng, trong lòng náo nức

Bà cụ chép miệng, chỉ người đàn bà ngồi sau:

– Tội cho vợ con chú đây, ốm đã mấy ngày hôm nay không có thuốc. Đứa cháu không biết có qua khỏi được không?

Tôi đứng lại gần xem. Trên cánh tay người mẹ, chỉ còn là một dúm thịt con đã nhăn nheo: đứa bé há hốc miệng thở ra, măt xám nhợt. Người mẹ thỉnh thỏang lấy cái lông gà dúng vào chén mật ong để bên cạnh, phết lên lưỡi của đứa bé.

– Cháu nó sài đã hơn một tháng nay. Hôm nọ đã đỡ. Mấy hôm nay vì không có tiền mua thuốc lại tăng. Ông lang bảo cháu khó qua khỏi được.

Người mẹ nói xong nấc lên một tiếng rồi nức nở khóc. Bà cụ già lê nhích lại gần, cúi xuống khe khẽ kéo lại những cái tã rách như xơ mướp.

Cái cảnh đau thương ấy làm tôi rơm rướm nước mắt. Một cảm giác nghẹn ngào đưa lên chẹn lấy cổ. Tôi lấy tờ giấy bạc năm đồng đưa cho người mẹ, rồi vội vàng bươc ra cửa, để mặc hai người nhìn theo ngờ vực.

Qua ngưỡng cửa, tôi va phải một người đàn ông ốm yếu tay cắp một cái áo quan con bằng gỗ mới. Đến bên đường, tôi nghe thấy trong căn nhà lụp xụp đưa ra tiếng khóc của hai người đàn bà.

Đứa bé con đã chết.

Anh Thanh lặng yên một lát như nghĩ ngợi, rồi nói tiếp:

– Cái kỷ niệm buồn rầu ấy cứ theo đuổi tôi mãi mãi đến bây giờ, rõ rệt như các việc mới xảy ra hôm qua. Sự đó nhắc cho tôi nhớ rằng người ta có thể tàn ác một cách dễ dàng. Và mỗi lần tôi nghĩ đến anh phu xe ngoại ô kia, lại thấy đau đớn trong lòng, như có một vết thương chưa khỏi.

THẠCH LAM

From: Tu-Phung

Đến chó nó cũng hổng tin…

Le Tu Ngoc

Đến chó nó cũng hổng tin…

Có ông già nọ đang bị bệnh nan y mà nhà thì rất nghèo nên bà vợ ông lo lắm; tiền đâu thuốc thang cho ông, nếu rủi như ông qua đời thì tiền đâu lo hòm quách, tang lễ cho ông. Một hôm ông nói với vợ điện thằng con đang đi học xa về gấp để ông bàn ít việc trước khi qua đời. Khi thằng con về, ông nói:

– Con đem giấy bút ra; ba nói, con viết cái di chúc cho ba, rồi con đem lên Phường ký; chứ ba qua đời đột ngột thì sẽ khó cho con sau này!

Thằng con nghe vậy, đem giấy ra; ông bảo thằng con viết:

“Khi tôi qua đời, tài sản, nhà cửa, ruộng nương, cây cối, vườn tược và 1000 cây vàng tôi giao hết lại cho đứa con trai độc nhất của tôi…!”.

Khi ông nói đến đây, thằng con hết sức ngạc nhiên nói:

– Ba điên rồi hả ba! Vàng, ba mẹ hiện ko có một phân, ở đâu 1000 cây mà ba nói vậy!

– Mầy điên thì có, mầy khờ thì có! Mầy cứ viết vào; biết đâu sau này mầy làm quan, mầy xây biệt phủ… Họ có kiểm tra thì có cơ sở để nói, chứ mầy nói nuôi gà, nuôi vịt, nấu diệu, làm giày; làm chổi đót thì đến chó nó cũng không tin !!!???

#Gota chia sẻ từ Xuanphung Pham

ảnh minh hoạ từ fb Phan Lê Long

BỮA TIỆC ĐÊM.

BỮA TIỆC ĐÊM.

Chị là Oshin… giúp việc nhà cho một ông chủ ngoại ngũ tuần, rất giàu có.
Đêm xuống, xong việc, chị vội vàng về với đứa con trai nhỏ 5 tuổi suốt ngày ngóng đợi trong căn nhà tồi tàn..
Hôm ấy, chủ nhà có lễ lớn, mời rất nhiều bạn bè quan khách đến dự tiệc đêm. Ông chủ bảo:
-Hôm nay việc nhiều, chị có thể về muộn hơn không?
– Thưa được ạ, có điều đứa con trai nhỏ quá, ở nhà tối một mình lâu sẽ sợ hãi.
Ông chủ ân cần:
– Vậy chị hãy mang cháu đến cùng nhé!

Chị mang theo con trai đến.
Đi đường nói với nó rằng :
-Mẹ sẽ cho con đi dự tiệc đêm.
Thằng bé rất háo hức.
Nó đâu biết là mẹ làm Oshin là như thế nào kia chứ! Vả lại, chị cũng không muốn cho trí tuệ non nớt của nó phải sớm hiểu sự khác biệt giữa người giàu kẻ nghèo. Chị âm thầm mua 2 chiếc xúc xích.

Khách khứa đến mỗi lúc mỗi đông. Ai cũng lịch sự. Ngôi nhà rộng và tráng lệ…
Nhiều người tham quan, đi lại, trò chuyện.
Chị rất bận nên không thường xuyên để mắt được đến đứa con nhếch nhác của mình. Chị sợ hình ảnh nó làm hỏng buổi lễ của mọi người.
Cuối cùng chị cũng tìm ra được cách: đưa nó vào ngồi trong phòng vệ sinh của chủ nhà ,đó có vẻ như là nơi yên tĩnh và không ai dùng tới trong buổi tiệc đêm nay.
Đặt 2 miếng xúc xích vừa mua để vào chiếc đĩa sứ, chị cố lấy giọng vui vẻ nói với con:
– Đây là phòng dành riêng cho con đấy, nào tiệc đêm bắt đầu!
Chị dặn con cứ ngồi yên trong đó đợi khi xong việc chị đón về.
Thằng bé nhìn “căn phòng dành cho nó” thật sạch sẽ thơm tho, đẹp đẽ quá mức mà nó chưa từng được biết.
Nó thích thú vô cùng, ngồi xuống sàn, bắt đầu ăn xúc xích được đặt trên bàn đá có gương, và âm ư hát… tự mừng cho mình.

Tiệc đêm bắt đầu. Người chủ nhà nhớ đến con trai chị, gặp chị đang trong bếp hỏi. Chị trả lời ấp úng:
– Không biết nó đã chạy đi đằng nào…
Ông chủ nhìn chị làm thuê như có vẻ giấu diếm khó nói.
Ông lặng lẽ đi tìm…
Qua phòng vệ sinh thấy tiếng trẻ con hát vọng ra, ông mở cửa, ngây người:
– Cháu nấp ở đây làm gì ? Cháu biết đây là chỗ nào không ?
Thằng bé hồ hởi:
– Đây là phòng ông chủ nhà dành riêng cho cháu dự tiệc đêm, mẹ cháu bảo thế, nhưng cháu muốn có ai cùng với cháu ngồi đây cùng ăn cơ!

Ông chủ nhà thấy sống mũi mình cay xè, cố kìm nước mắt chảy ra, ông đã rõ tất cả, nhẹ nhàng ngồi xuống nói ấm áp:
– Con hãy đợi ta nhé!
Rồi ông quay​ lại bàn tiệc nói với mọi người hãy tự nhiên vui vẻ, còn ông sẽ bận tiếp một người khác đặc biệt của buổi tối hôm nay.
Ông để một chút thức ăn trên cái đĩa to, và mang xuống phòng vệ sinh. Ông gõ cửa phòng lịch sự…
Thằng bé mở cửa…
Ông bước vào:
– Nào chúng ta cùng ăn tiệc trong căn phòng tuyệt vời này nhé!
Thằng bé vui sướng lắm.
Hai người ngồi xuống sàn vừa ăn ngon lành vừa chuyện trò rả rích, lại còn cùng nhau nghêu ngao hát nữa chứ…
Mọi người cũng đã biết.
Liên tục có khách đến ân cần gõ cửa phòng vệ sinh, chào hỏi hai người rất lịch sự và chúc họ ngon miệng, thậm chí nhiều người cùng ngồi xuống sàn hát những bài hát vui của trẻ nhỏ…
Tất cả đều thật chân thành, ấm áp!

Nhiều năm tháng qua đi…
Cậu bé đã rất thành đạt, trở nên giàu có, vươn lên tầng lớp thượng lưu trong xã hội… nhưng không bao giờ quên giúp đỡ những người nghèo khó chăm chỉ.

Một điều quan trọng đã hình thành trong nhân cách của anh: Ông chủ nhà năm xưa đã vô cùng nhân ái và cẩn trọng bảo vệ tình cảm và sự tự tôn của một đứa bé 5 tuổi như thế nào…!!!

From: ngocnga_12 & ThuNNguyen

Lời nói của đứa trẻ nghèo khiến người giàu xấu hổ

Lời nói của đứa trẻ nghèo khiến người giàu xấu hổ

Nhà từ thiện người Mỹ Kenneth Behring đã từng nói: “Đừng bao giờ phán đoán bừa bãi về người khác”…

Vào những năm 1990 của thế kỷ 20, Behring đang đi ngang qua vùng Vịnh San Francisco thì bất ngờ phát hiện chiếc ví của mình bị mất. Người trợ lý lo lắng nói: “Có lẽ nó đã bị mất khi đi bộ qua khu ổ chuột ở Berkeley vào buổi sáng. Vậy phải làm sao bây giờ?”

Behring tỏ ra bất đắc dĩ nói: “Chúng ta chỉ có thể chờ người nhặt được ví liên lạc tới mà thôi”.

Hai giờ sau, người trợ lý thất vọng nói: “Mất rồi, đừng đợi nữa. Chúng ta không nên hy vọng vào những người ở khu ổ chuột”.

“Không, ta vẫn muốn chờ thêm một chút”. Behring bình tĩnh nói.

Nhà từ thiện người Mỹ Kenneth Behring 

Người trợ lý cảm thấy rất khó hiểu, nói: “Trong ví có danh thiếp, người nhặt được nếu như muốn trả lại cho chúng ta thì họ chỉ cần mất vài phút gọi điện thoại. Nhưng chúng ta đã đợi cả buổi chiều, rõ ràng là họ không có ý định trả rồi”. 

Behring vẫn kiên trì chờ đợi. Khi trời sắp tối, chuông điện thoại đột nhiên vang lên. Chính người nhặt ví đã gọi điện và yêu cầu họ đến nhận ví tại một địa điểm trên phố Kata.

Người trợ lý càu nhàu: “Đây lẽ nào là một cái bẫy? Chẳng lẽ họ bắt cóc tống tiền?”

Behring không để ý đến lời nói của người trợ lý, lập tức lái ô tô đến khu phố Kata. Khi đến nơi hẹn, một cậu bé mặc quần áo rách rưới đi tới, trên tay cầm chiếc ví của Behring. Người trợ lý cầm chiếc ví, ông mở ra và đếm đếm, phát hiện thấy trong ví không thiếu một đồng tiền nào. 

“Cháu có một thỉnh cầu”. Cậu bé nghèo nói. “Các ông có thể cho cháu một chút tiền không?” 

Lúc này, người trợ lý cười ha hả: “Ta biết ngay…” Behring vội ngắt lời người trợ lý rồi mỉm cười hỏi cậu bé muốn bao nhiêu tiền.

Cậu bé nghèo không suy nghĩ nhiều liền nói: “Chỉ cần một đô la là đủ”. “Cháu mất rất nhiều thời gian mới tìm được nơi có điện thoại công cộng, nhưng cháu không có tiền, vì vậy cháu phải mượn một đô la của người khác để gọi điện. Giờ cháu cần phải trả lại số tiền này cho người ta”. 

Nhìn vào đôi mắt trong veo của cậu bé, người trợ lý cúi đầu xấu hổ. Behring hào hứng ôm cậu bé.

Ngay lập tức, Behring đã thay đổi kế hoạch từ thiện trước đó của mình. Thay vào đó, ông đầu tư vào việc xây dựng một số trường học ở Berkeley để trẻ em nghèo từ các khu ổ chuột dù không có tiền vẫn được đến trường.

Trong buổi lễ khai giảng, Behring nói: “Đừng phán đoán bừa bãi về người khác. Chúng ta cần cho mỗi người một cơ hội, chào đón một trái tim nhân hậu thuần khiết. Một trái tim như vậy đáng để chúng ta đầu tư”.

San San biên dịch

From: Helen Huong Nguyen