Khấn Người Tình Địch – TRÀM CÀ MAU
TRUYỆN NGẮN ĐẦU NĂM – TRÀM CÀ MAU
Khấn Người Tình Địch
(Ký cóp cho cọp nó tha….)
Ông Long trịnh trọng mang áo dài đen, quần dài trắng, đội cái khăn đóng màu xanh đậm, giống như các cụ ngày xưa ra đình làng tế lễ. Trên bàn thờ có khung hình bán thân của ông Du, trẻ trung, đẹp trai, môi mỉm cười có duyên, đôi mắt sáng như nhìn chăm chăm vào người đối diện. Giữa bàn có con gà trống luộc vàng ươm, với hai cái chuôi cánh xòe ra gài từ cổ lên miệng. Một dĩa hoa quả màu sắc tươi thắm đơm cao đầy, và hơn chục dĩa thức ăn, có dĩa còn nóng, bốc hơi, thơm ngào ngạt.
Sau khi đốt hương trầm, ông Long đưa hai bàn tay chắp vào nhau nâng lên ngang trán, và nghiêm trang thì thầm khấn vái người khuất mặt:
“Lạy hương hồn ông Du, có linh thiêng thì về đây dự tiệc, và chứng giám cho tấm lòng thành nầy. Ngày xưa, ông và tôi là hai kẻ tình địch, nhưng không hề kình nhau, cũng chưa ghét nhau bao giờ. Hồi đó, ông và tôi cùng yêu thương Thiên Hương, nàng thì lửng lơ, tình cảm không nghiêng hẳn về bên nào. Ông tin nàng yêu ông hơn, tôi tin nàng yêu tôi hơn. Dĩ nhiên, ai cũng chủ quan, và có quyền tin chắc như vậy. Thiên Hương đẹp, yểu điệu, học hành chăm chỉ, tính tình dịu dàng, lịch thiệp, con nhà gia giáo, được nâng niu cưng chìu. Nàng như một đóa hoa rực rỡ nhưng mong manh. Nhan sắc tươi thắm diễm lệ của nàng làm không biết bao nhiêu anh con trai trong thành phố nầy mê mẩn muốn cầu thân. Nhưng ông và tôi là hai kẻ chiếm được một khoảng tương đối lớn trong trái tim nàng. Tất nhiên còn nhiều kẻ khác cũng có được một phần nhỏ trong trái tim chật chội đó, vì họ cũng là những kẻ có danh phận giữa xã hội. Họ cũng đứng đắn, đàng hoàng, đủ tư cách để theo đuổi và có thể bảo đảm cho nàng một tương lai sung sướng an bình hạnh phúc.
Tôi chỉ là một kẻ may mắn bất ngờ được lọt mắt xanh, và được nàng dành cho một phần đáng kể trong tim. Ông đừng hỏi tại sao, vì tình yêu vốn lạ kỳ, không thể giải thích được tại sao. Tôi tha thiết yêu nàng mà trong lòng ngày đêm luôn đau đớn nhức nhối. Bởi tôi biết thân phận của mình. Tôi thua kém rất nhiều người. Thua trên nhiều mặt. Nếu tôi và Thiên Hương nên duyên phận, thì liệu tôi có đem đến cho nàng một cuộc sống tinh thần và vật chất chan hòa hạnh phúc hay không.
Tôi cũng thua ông đủ mọi mặt. Ông học giỏi hơn tôi, gia đình giàu có, thể chất khang kiện, chơi thể thao có hạng, mặt mày ông sáng sủa hơn tôi bội phần. Thơ tình ông viết thiết tha ướt át hơn cái lối viết chân chất cộc lốc của tôi. Không những thế, ông còn là một thi sĩ, thơ ông truyền cảm, mênh mang triết lý cao siêu. Tôi thì một câu vè cũng viết không ra hồn. Thế mà cũng lạ, Thiên Hương vẫn dành cho tôi một mối tình cảm nồng nàn không thua gì ông. Chuyện tình yêu, cũng khó mà giải thích bằng lý trí được.
Tôi cũng yêu Thiên Hương không thua gì tình yêu của ông dành cho nàng. Tôi cũng có thể liều mạng xin cưới nàng làm vợ, và sau đó xả thân lao động cật lực để xây đắp hạnh phúc gia đình. Cũng có thể chúng tôi sẽ có hạnh phúc lứa đôi tràn đầy. Để được vậy, tôi biết sẽ phải vất vả cật lực suốt cả một cuộc đời còn lại.
Nhưng có lần tôi nghe mẹ nàng nói đùa rằng, đem cả chuyến xe lửa mười toa cũng chở chưa hết những kẻ si mê và theo đuổi Thiên HươngTôi giật mình, và lý trí tôi thức giấc để nhận ra rằng, tôi chưa đủ tài ba và năng lực để gánh chịu những hiễm họa trong tương lai khi làm chồng một người đàn bà sắc nước hương trời như Thiên Hương. Lại nữa, bố tôi thường tỉ tê nhắc nhở rằng, xưa nay trong sử sách, đàn bà đẹp thường chịu nhiều gian truân.
Phần lớn vì ngoại cảnh, bởi chung quanh họ khi nào cũng có đông đảo bọn đàn ông liều mạng muốn chinh phục, muốn chiếm đoạt, dù cho họ đã có gia đình. Những loại đàn ông nầy đầy rẫy trong bất cứ xã hội nào, bất cứ thời đại nào. Một phần khác, cũng tại chính cái tâm của một số người nhan sắc, họ nghĩ cái đẹp có sức mạnh và quyền lực. Họ có quyền đòi hỏi, yêu sách, mọi người phải chấp nhận. Cũng đúng một phần nào.
Vả lại, lòng người vốn yếu đuối, mà cám dỗ thì giăng mắc dày đặc, rất dễ bị vô tình mắc phải lưới bẩy. Thoát được hàng chục cám dỗ mà chỉ cần vướng vào một lần thôi, thế cũng đủ hư hỏng cả cuộc đời. Người đàn bà đẹp đoan trang, thường phải vất vả chiến đấu kiên cường với bọn đàn ông háo sắc, chúng đem quyền lực, lời ngon ngọt nịnh hót và tiền tài ra làm mồi câu dụ dỗ. Không vững lòng thì ngã gục. Khi tôi đã để một chút lý trí vào tình yêu, thì bớt mù quáng. Không mù quáng thì chẳng phải là tình yêu chân thực nữa.
Đó, tôi còn có chút sáng suốt để nhận chân ra rằng nếu nàng kết duyên cùng ông, thì sẽ có được nhiều hạnh phúc hơn làm vợ tôi. Tôi tự hào rằng đó cũng là một thứ tình yêu hy sinh cao thượng mà tôi dành cho Thiên Hương. Tôi quan niệm tình yêu là dâng hiến, không phải là chiếm doạt. Bởi vậy, tôi đã rút lui, để dành cho ông cái hạnh phúc bên nàng, cũng là trút lên ông gánh nặng mà tôi tự lượng sức mình khó gánh nỗi. Ông đã vừa hạnh phúc, vừa vất vả ray rứt khổ đau để cầm giữ canh chừng nàng.
Có thể người ta nghĩ tôi thiếu dũng cảm, thiếu hy sinh, sợ gian khổ. Cũng đúng phần nào. Nhưng nếu tôi thừa dũng cảm, thì có nên đánh đổi hạnh phúc cá nhân của một cuộc đời thong dong, khoáng dật, để có cuộc sống bên người đẹp mà biết chắc rằng sẽ khó thỏa mãn được đòi hỏi về vật chất lẫn tinh thần mai sau. Điều đó, gần như tất yếu. Tôi biết mình chưa là dũng sĩ, thì đừng cưỡi ngựa chiến.
Ông đã tưởng tôi rút lui để nhường tình yêu cho ông. Tôi đâu có được cao thượng như thế. Trong tình yêu, có lẽ không ai muốn nhường cho ai. Tôi rút lui, một phần cũng vì tôi yêu thương nàng bằng thứ tình dâng hiến, không phải tình chiếm hữu vị kỷ. Quan trọng nhất là vì hạnh phúc lâu dài của nàng.
Nàng yêu tôi, nhưng tôi biết nàng cũng yêu ông. Tất nhiên, khi được sống cùng ông, dù trong hạnh phúc tràn đầy, nàng vẫn không quên tôi, vẫn ray rứt tiếc thương, nhớ nhung tôi. Cũng như nếu nàng lấy được tôi, thì sẽ thương tiếc nhớ nhung ông. Đó cũng là tâm lý thường tình, người ta không quý cái trong tay bằng cái chưa có. Có lẽ ông cũng biết điều đó, nên không ghen tương với tôi. Ông lo đối phó, ngăn chận những bọn háo sắc, toan tính chinh phục đàn bà đẹp cũng đã mệt nhọc vất vả lắm rồi. Bọn háo sắc đó chưa hẵn là vô đạo, thiếu vắng lương tâm, nhưng khi lòng ham muốn nổi lên, thì tâm trí mịt mù u tối, như bị ma quỷ xúi dục làm điều mà đôi khi họ không muốn. Tôi biết, tôi không đủ bản lĩnh cao cường và nhẫn nại như ông để gìn giữ một nhan sắc đầy quyến rủ lộng lẫy như Thiên Hương. Dù cho nàng trong trắng, đoan trang đạo đức. Tôi cám ơn ông khéo léo dìu nàng đi yên bình trong trong dòng đời cạm bẫy bão táp.
Ông và nàng vẫn thường thăm viếng liên lạc thân thiết với tôi. Khi gặp nhau, tôi vẫn tìm được ánh mắt yêu thương dịu dàng kín đáo của Thiên Hương. Có lẽ ông cũng biết, vì tình yêu thường ít khi dấu được ai. Nhưng ông không nhỏ nhen ghen tức, vì ông vui khi thấy nàng được vui. Ông cũng không mát chi cả. Ông biết rõ chúng tôi không bao giờ phiêu lưu đi vượt qua lằn ranh lễ giáo.
Ông là một người chồng lý tưởng, lo lắng vun đắp hạnh phúc gia đình, bảo đãm cho vợ con đời sống tinh thần vật chất thong dong đầy đủ. Ông không cờ bạc, không rượu chè, chẳng trai gái, hiếm khi vung vít bù khú với bạn bè. Thì giờ của ông để làm ra tài sản, tiền bạc. Cũng vì quá yêu thương gia đình, hết sức lo lắng cho tương lại vợ con, nên ông không còn có nhiều thì giờ để sống cho tình yêu tuyệt vời của mối tình mà Thiên Hương dành cho ông. Có lẽ ông cũng biết, ngoài cuộc sống vật chất dư thừa, ngoài tiện nghi đầy đủ, nhiều người còn một thứ nhu cầu tinh thần khác cần được thỏa mãn, không có nó không chết, nhưng cũng quan trọng, chỉ sau tự do, cơm áo, an toàn và bình yên mà thôi.
Ông trời không công bằng, con người tốt lành như ông lại chết sớm, để lại vợ đẹp, con ngoan, gia tài phong phú đồ sộ.
Tôi kê vai vào thay ông, chăm sóc nửa cuộc đời còn lại của Thiên Hương. Đem thêm hạnh phúc cho nàng. Những thứ hạnh phúc mà ông vì bận rộn làm ăn chưa có thì giờ để chung hưởng cùng nàng. Nhà lầu ông tôi ở, xe tốt của Thiên Hương tôi đi, tiền bạc của ông trong ngân hàng tôi quản trị. Với danh nghĩa ông, tôi đem phân phát và chia bớt vật chất dư thừa cho vơi khổ của những mảnh đời bất hạnh. Trong lòng tôi, vô cùng biết ơn ông, đã để lại cho tôi người vợ đẹp, hiền lành, dịu dàng; để tôi có dịp đền đáp mối thâm tình chôn dấu trong tim nàng bao nhiêu năm nay. Cám ơn cái tài sản to tát của ông để cho tôi làm phương tiện tạo dựng hạnh phúc và sung sướng vui hưởng bên nàng.
Về ở với Thiên Hương, tôi khám phá ra ông là người cần kiệm, giàu có nứt vách, mà sống đời đơn sơ giản dị. Đa số áo quần ông là đồ cũ mua chợ trời, chợ sân cỏ. Những cái áo vét của ông cũ mèm, sổ lai, áo lót sờn mòn, mỏng tanh, thủng lỗ chỗ nhiều nơi, tươm nát ở vòng cổ. Đức cần kiệm của ông như thế đó, tôi vô cùng khâm phục và tự thấy xấu hổ. Tôi không phải thuộc loại người vắt mũi bỏ miệng, lương bổng của tôi cũng khá, nhiều đồng nghiệp dư sức mua nhà, nuôi vợ nuôi con. Thế mà tôi tháng nào tiêu sạch tháng đó, không nợ nần là quý lắm rồi. Tôi cũng đâu có phung phí, cờ bạc, trai gái, hút xách gì đâu.
Cách sinh hoạt ăn uống của ông cũng cẩn thận, vệ sinh, đạm bạc. Ông sợ mỡ, sợ đường, sợ muối, sợ chất bột. Cứ thứ gì ngon miệng thì ông sợ và kiêng dè, giữ gìn, ngại không tốt cho sức khỏe. Ngon nhưng không dám ăn thường, ăn nhiều. Cứ rau đậu làm căn bản và ông vui trong cuộc sinh hoạt đạm bạc đó, nên vợ con ông ít khi được hướng thụ cái thú ẩm thực. Thuốc lá ông cũng không hút bao giờ. Đời sống ông lành mạnh đến thế đó, mà trời không thương, bắt ông đi sớm, lìa trần gian. Vợ ông may mắn có tôi kê vai vào chăm nom chìu chuộng. Ông cứ tin tôi đi, nếu tôi không đủ sức đem lại cho nàng hạnh phúc bằng, hay hơn khi đang sống cùng ông, thì tôi cũng hành động lại như ngày xưa, hy sinh tình yêu, để nàng đi tìm nơi khác có tràn đầy hạnh phúc hơn.
Ông cũng đừng lo lắng sợ tôi tiêu xài phí phạm tài sản mồ hôi nước mắt đã gom góp suốt cả đời ông. Nếu là tiền của tôi, thì tôi tiêu không e dè, nhưng tiền ông, tôi sẽ đắn đo khi tiêu pha.
Tôi cưng chìu Thiên Hương, âu yếm dịu dàng chăm sóc, và không bao giờ để phật lòng trái ý nàng. Đó cũng là cách đền bù lại thời gian chúng tôi xa cách nhau. Tôi phục vụ nàng như một tên nô lệ dưới chân một bà hoàng bà chúa. Nàng thỏa mãn cái tự ái của phái nữ. Chỉ chừng đó thôi, đủ làm nàng sung sướng ngất ngây. Nàng cứ nghĩ tôi là kẻ chung tình, mãi thương yêu nàng, nên không chịu lập gia đình. Đâu phải vậy, tôi cũng có nhiều mối tình trong đời, nhưng những tình yêu không đủ to tát để hy sinh cả cuộc sống độc thân thong dong của tôi. Tôi không dám đính chính, cứ để nàng hiểu lầm như thế cho trọn niềm vui. Không mất gì cả. Vả lại, tôi có đính chính, chắc nàng cũng không tin đâu.
Tôi nguyện với mình, làm sao cho nàng cảm thấy đời sống mới hạnh phúc sung sướng từng ngày, từng giờ, từng phút. Sống một ngày vui một ngày, sống một giờ vui một giờ. Trong vòng tay yêu thương của tôi, trái tim nàng chan hòa ấm áp hạnh phúc. Tôi tin, ở nơi suối vàng, ông cũng mong nàng được sung sướng hạnh phúc, quên đi mất mát thương đau. Tôi đã giúp ông làm được điều đó cho nàng.
Lấy tiền ông, tôi mua vui, tạo hạnh phúc cho Thiên Hương, những thú vui mà nàng chưa được nếm trãi. Tôi đưa nàng đi chu du khắp năm châu bốn biển. Thăm những danh lam thắng cảnh trên khắp địa cầu nầy. Tử Âu, Á, Úc, Phi, Mỹ châu. Đến các nơi thiên hạ thường ước mơ được viếng thăm. Nơi nào vui thì ở lại nhiều ngày, nhiều tuần, thích thú tận hưởng những lễ hội, những sinh hoạt từng địa phương. Đi, vui và sống. Nàng đã được thưởng thức những món ăn đặc biệt, ngon, lạ, hiếm có của nhiều quốc gia trên thế giới nầy. Không thiếu thức nào. Cũng có khi hơi phí phạm tiền bạc, nhưng bù lại được sống thực, sống tận tình.
Tôi đưa nàng lên những du thuyền mới nhất, lộng lẫy và diễm lệ nhất, cùng ngao du đây đó. Sống như những bậc vương giả, như đã về đến cõi tây phương cực lạc, vui chơi, ăn uống, được phục vụ tận tình ngày cũng như đêm. Có ca nhạc, thể thao, đàn hát, các trò chơi lành mạnh, nhàn nhã nằm bên hồ tắm trên du thuyền, ăn uống liên miên không ngừng. Đi từ Thái Bình Dương băng qua Đại Tây Dương, và có lần ở trên du thuyền cả tháng, lang thang qua các hải đảo, khởi đi từ Mỹ Châu đến Âu Châu. Có lẽ Thiên Hương đã và đang sống những ngày tháng sung sướng hạnh phúc tuyệt vời trong tình yêu dâng hiến và lãng mạn của tôi. Tôi nghĩ, ông cũng chẳng thèm ghen tức với cái hạnh phúc triền miên của Thiên Hương. Bởi vì hạnh phúc của nàng cũng là hạnh phúc của ông và cả của tôi.”
Sau khi khấn vái tỉ tê dài dòng, ông Long quỳ gối nằm úp người vái bốn lạy. Rồi trịnh trọng rót rượu lễ ra ly, dặt lên bàn. Xong lấy xấp tiền âm phủ in màu xanh giống hệt đồng đô-la Mỹ, cầm một cọc lớn, mỗi tờ có mệnh giá mười triệu đô, châm lửa đốt vào cái thùng nhôm, khói bay nghi ngút. Ông cười và lẩm bẩm: “Cả trăm triệu đô-la, tiêu chi cho hết.” ./.
TẤM LÒNG LƯƠNG THIỆN
Le Bao Lien
TẤM LÒNG LƯƠNG THIỆN
Một công ty nọ có truyền thống tổ chức tiệc và rút thăm trúng thưởng vào Giáng sinh mỗi năm. Theo quy định rút thăm trúng thưởng, mỗi thành viên tham gia đều phải đóng góp 10 USD làm lệ phí.. Toàn công ty có 300 người, và phần thưởng chính là tổng số tiền của 300 người gộp lại: 3.000 USD. Ai may mắn sẽ được mang toàn bộ số tiền đó về nhà.
Vào ngày tổ chức lễ bốc thăm, không khí náo nhiệt tưng bừng hơn bao giờ hết, ai nấy cũng mong đợi tới giờ vàng để thử vận may của mình. Mỗi người đều được phát một mẩu giấy để ghi tên mình trước khi bỏ vào thùng bốc thăm trúng thưởng. Và trong lúc chuẩn bị ghi tên, một cậu nhân viên trẻ chợt phân vân suy nghĩ:
“Cô lao công Sarah là người có gia cảnh khó khăn nhất, con cái lại mắc nhiều bệnh tật, mà cô thì không có tiền để phẫu thuật cho con. Giá như cô có được số tiền này thì tốt biết mấy, nhưng cô lấy đâu ra 10 USD để tham gia cơ chứ?”.
Nghĩ rồi cậu không cần đắn đo mà quyết định sẽ ghi tên cô Sarah thay vì ghi tên mình lên đó. Mặc dù vẫn biết cơ hội quá mong manh, chỉ có 1/300 cơ hội, nhưng cậu vẫn cầu mong vận may mỉm cười với cô.
Tới lúc chuẩn bị rút thăm, không khí hồi hộp không kém phần căng thẳng. Mọi người cùng nhìn lên khán đài khi giám đốc công ty chọn ra tấm phiếu may mắn. Ở bên dưới, cậu thanh niên trẻ không ngừng cầu Chúa, cầu Chúa hãy giúp đỡ cô Sarah…
Vị giám đốc từ từ mở mẩu giấy ra… Tích tắc, tích tắc, mọi người đều nín thở chờ đợi đến mức tiếng kim đồng hồ cũng có thể nghe thấy. Khi nhìn vào cái tên trên tấm phiếu may mắn ấy, giám đốc bất giác mỉm cười… rồi ông đọc to lên. Và… kỳ tích thật sự đã xuất hiện! Khi cái tên Sarah được xướng lên, những tràng vỗ tay chúc mừng vang lên không ngớt tràn ngập cả hội trường. Cô Sarah vừa vui mừng vừa bất ngờ vì không biết mình được tham gia. Khi bước lên bục nhận phần thưởng, cô rối rít cảm ơn: “Tôi thật may mắn, có số tiền này con tôi được cứu rồi, cảm ơn mọi người, cảm ơn mọi người!”.
Buổi tiệc diễn ra trong những tiếng nói cười và tiếng nâng ly chúc tụng. Chàng nhân viên trẻ miên man suy nghĩ về cái kết có hậu của đêm Giáng sinh năm ấy, bởi mọi thứ xảy ra như một kỳ tích. Cậu vừa bước dạo xung quanh vừa chúc tụng mọi người một Giáng sinh vui vẻ. Vô tình đi qua thùng phiếu, thuận tay cậu rút lấy 1 tờ ra xem, và… lạ chưa kìa, trên mảnh giấy đó có tên cô Sarah. Cậu không dám tin vào mắt mình nên vội vàng rút ra thêm một mẩu giấy, và một mẩu giấy nữa, tất đều có tên cô Sarah trên đó.
Một nỗi xúc động dâng trào trong lòng cậu, giống như những cơn sóng thuỷ triều dâng lên mãnh liệt. Hai mắt cậu đỏ lên, những giọt nước mắt hạnh phúc không ngừng tuôn rơi. Cậu nhận ra một điều, thế giới này thực sự tồn tại “kỳ tích đêm Giáng sinh”, chỉ có điều kỳ tích đó không phải từ trên trời rơi xuống, mà nó được tạo ra bởi những con người có tấm lòng lương thiện quanh ta.
Và thế giới này sẽ trở thành thiên đường mà không cần bạn phải là vĩ nhân. Đôi khi bạn sẽ thấy những gì mình cho đi quá nhỏ nhoi, đến độ bạn thấy dù có làm nó hay không thì cũng không có gì đáng kể.Tuy nhiên “Đừng thấy việc Thiện nhỏ mà không làm”.Chỉ cần bạn bắt đầu bằng một ngọn cỏ, thế giới sẽ trở thành cánh đồng hoa rực rỡ.
(Fb Quoc Thang Mai. Ảnh Phạm Anh Dũng)
MỘT CÁI ÔM CÓ THỂ THAY ĐỔI CUỘC ĐỜI MỘT CON NGƯỜI
Nguyen NhienNhững Câu Chuyện Thú Vị – Ncctv.net
MỘT CÁI ÔM CÓ THỂ THAY ĐỔI CUỘC ĐỜI MỘT CON NGƯỜI
Bài và ảnh: Sưu tầm
1/Một ngày nhiều năm về trước, bà giáo đang ngủ trưa ở nhà, đột nhiên, chuông điện thoại reo lên. Bà cầm điện thoại lên nghe, thấy rất ồn ào, và tiếng của một người : “Con gái nhà bà lấy trộm sách, bị chúng tôi bắt được, bà đến đây ngay đi !”.
Trong điện thoại bà còn nghe thấy tiếng khóc của một bé gái, và tiếng quát của người bên cạnh.
Bà quay đầu lại chỗ ti-vi, thấy đứa con gái của mình vẫn nằm đó, bà lập tức hiểu ra. Bà như thấy hình ảnh một cô bé, với ánh mắt rất sợ hãi, và mong đợi sự giúp đỡ. Cô bé đang ở trong hoàn cảnh vô cùng xấu hổ. Nghĩ thế, bà liền hỏi địa chỉ tiệm sách, và vội vàng đi đến đó.
Đúng như bà nghĩ, một cô bé đứng trong tiệm sách, nước mắt chảy ròng, sợ hãi, bên cạnh là đám đông người đang lớn tiếng trách cứ.
Bà bước đến, ôm cô bé vào lòng, và nói với các nhân viên của nhà sách : “Có gì thì nói chuyện với tôi ! Tôi là mẹ của con bé, đừng làm trẻ con sợ !”.
Bà trả tiền sách và tiền phạt. Dẫn cô bé về nhà mình. Rồi bà tranh thủ dọn dẹp nhà cửa, không hỏi một câu nào. Sau đó bà dịu dàng nói : “Nếu con muốn đọc sách thì hãy đến nhà dì, dì có rất nhiều sách !”. Và để cô bé ra về.
Cô bé vẫn chưa hết sợ hãi, nhìn bà thật lâu, rồi chạy vụt mất. Từ đó trở đi không xuất hiện nữa.
2/Vào một ngày nhiều năm sau, bà giáo nghe tiếng gõ cửa rất nhẹ, bà mở cửa thì thấy một cô gái lạ đứng trước cửa, vẻ mặt rất tươi, trên tay có cầm một gói quà. “Cô tìm ai ?” . Bà có chút nghi hoặc. Cô gái có vẻ xúc động, nên không nói được lời nào …
Khi nghe cô gái trẻ kể lại bà mới nhớ. Cô bé năm xưa vừa nhận được bằng Đại học, đã tìm được một công việc. Bây giờ đến thăm bà.
Cô gái rơm rớm nước mắt nói : “Trong lúc vội vã, họ đã gọi nhầm số, may mà gọi trúng vào nhà dì. Cho đến tận bây giờ, con vẫn không hiểu tại sao, lúc đó dì lại nhận làm mẹ để giúp con. Bao nhiêu năm nay trong tâm con rất cảm kích dì, và luôn có một tâm nguyện gọi dì một tiếng : “Mẹ”.
Vừa dứt lời, nước mắt liền tuôn trào trên khuôn mặt cô gái.
Mắt của bà giáo cũng bắt đầu nhòa đi. Sau một lúc, bà mới tò mò hỏi :
– Nếu ta không giúp con, thì kết quả sẽ như thết nào ?
Cô gái nghĩ một lát, rồi lắc đầu nói :
– Con cũng không biết nữa. Có thể con sẽ làm chuyện ngốc nghếch gì đó !
Nhìn khuôn mặt tươi tắn hạnh phúc của cô gái, bà mỉm cười. Rốt cuộc bà đã có một lựa chọn đúng đắn vào lúc đó, nếu không thì không biết điều tồi tệ gì sẽ xảy ra …
3/Ngoài “Yêu thương” ra, động từ đẹp nhất trên thế gian chính là “Giúp đỡ”, một việc làm đáng được ngưỡng mộ nhất trong xã hội.
Khi gặp người cần sự giúp đỡ, hãy cố gắng giúp họ, vì có thể một cái chìa tay của bạn, sẽ làm thay đổi cuộc đời một con người.
“…Xin Sẽ Được” – Nguoiviettudo
“…Xin Sẽ Được” – Nguoiviettudo
“…Ngày 22 tháng mười hai năm 1976 tôi bước chân ra khỏi nhà tù Pleiku. Tôi bị bắt ở Kontum cách đó khoảng bảy tháng. Từ Saigon đi xe đò lên cái tỉnh tận cùng biên giới ở phía Tây, chưa kịp nằm nóng lưng công an đã đến thăm hỏi, còng tay tống vào tù một tháng trời chờ xe đưa về trại giam tỉnh Pleiku. Hồi đó thời sinh viên khờ khạo, chưa bao giờ rời nơi sinh ra và lớn lên ở Saigon, chuyến đi Kontum là một mạo hiểm lớn. Vì quá nhiều lần toan tính vượt biên bằng tàu thất bại tôi quyết định thử thời vận lần nữa bằng đường bộ. Đâu có biết rằng những ngày vừa sau 30/4/ 75 VC chăng lưới tình báo nhân dân ở khắp mọi hang cùng ngõ hẻm, ngơ ngơ ngáo ngáo như tôi khi đến một địa phương xa lạ chắc chắn sẽ lọt ngay vào tầm ngắm của an ninh.
Lục soát ba-lô tôi đem theo, bọn chúng thấy một cuộn dây đi rừng và tai hại hơn nữa, một viên đạn colt 45 nằm lẫn lộn trong mớ quần áo, bèn đẩy tôi vào ngay biệt giam. May cho tôi ngoại trừ tang vật hiện trường chúng không tìm được gì khác. Tôi vẫn còn giữ tấm thẻ sinh viên đại học Khoa Học Saigon và thẻ căn cước nên chúng không biết khép tôi vào tội gì . Sau này tôi mới biết với VC , tội tình nghi nặng hơn bất cứ tội nào khác. Ăn cắp ăn trộm còn có án về, tình nghi thì “mút chỉ cà tha” . Ba năm là chuyện nhỏ, có người đã phải “ học tập“ trên chục năm trời ngày trở về ba má vợ con nhìn không ra.
Khoảng một tháng sau khi tạm giam ở Kontum, CA chuyển tôi về Pleiku. Địa ngục trần gian bắt đầu hiện ra trước mặt tôi. Chỉ có ba phòng sức chứa khoảng 150 người , nay bị dồn nhét hơn ba trăm . Một biệt giam gồm khoảng trên mười hộc (dành cho 10 người) chất đến ba chục mạng. Lần đầu tiên ở tù tôi chỉ muốn tự tử. Chung quanh tôi đa số là Fulro cắc-kè-bông với vết thẹo ghẻ lở phủ kín người. Cấp bậc nhỏ nhất là thằng Giu Se Mới, khoảng 20 tuổi đại úy Fulro. Tôi nằm chung hộc với nó và thẳng Y Nguoun, thiếu tá, bị bắt vì chỉ huy một đại đội tấn công đồn Công An quân số khoảng mười bốn mạng. Đánh đấm thế nào mà thiếu tá Y Nguoun bị bắt sống , lính lác chạy tán loạn, đồn CA thì vẫn còn nguyên.
Đó là lần đầu tiên tôi biết con rận. Sáng sớm thức dậy nhìn thấy một giọt máu nhỏ bằng đầu kim đi chuyển trên cánh tay, tôi kinh ngạc không biết là cái gì. Giu Se Mới chụp ngay lấy bỏ vào miệng cắn cái cóc . Nó còn khuyến khích tôi “ thử đi, ngọt lắm “. Ông nội tôi cũng không dám thử.
Mỗi ngày, chúng tôi được múc nước vào rửa ráy buồng giam một lần, ai có nhiệm vụ trực hôm đó đuoc hưởng thêm phần cơm cháy. Một thằng giết người (dân tộc Kinh) đang chờ ngày ra tòa vẫn dành giựt nhiệm vụ này với Thượng để có thêm cơm ăn. Ỷ mình Việt Nam chính cống nó ăn hiếp bọn Thượng khờ khạo (hay giả khờ qua ải). Thùng đựng nước là một thùng đạn lớn dùng chứa đủ thứ từ rác rưởi, ỉa đái, khạc nhổ. Sáng sớm hai thằng khiêng đổ ra đống rác rồi súc sơ sài bằng nước giếng, sau đó múc nước cũng từ giếng vào tắm rửa. Có lần tôi còn thấy rõ cục đàm của thằng nào nổi lều bều trên mặt. Không ăn nhằm gì hết với tù biệt giam vì cắc-kè-bông không sợ lở, chỉ việc vớt bỏ rồi thoải mái mà xối lên người, kỳ cọ với xà bông cục. Dân Thượng địa phương có thăm nuôi, sáu thằng Việt Nam chúng tôi đói khát muôn năm.
Đó là lý do tại sao sạch sẽ tắm rửa như vậy mà anh Fulro nào cũng thành cắc-kè bông. Thăm nuôi nghèo nàn, thiếu dinh dưỡng lại không ánh nắng mặt trời (biệt giam bị cấm ra khỏi khu vực buồng tối), vệ sinh tệ hại, không bị ghẻ đầy người mới là chuyện lạ.
Cuối cùng tôi chuyển đến phòng ngoài. Ra rồi tôi lại nhớ thời gian nằm “ hộc “. Dù sao thỉnh thoảng cũng được chia cho vài hơi thuốc rê quấn giấy bọc lương khô Trung Cộng. Hút cháy cổ mà vẫn ngon, hoặc chí ít cũng nếm được mẩu bánh đậu xanh (lương khô Tàu) lớn bằng đầu ngón tay cái.
Tôi biết ơn Giu Se Mới đã “bố thí“ vì trong biệt giam hai phong lương khô cộng với sáu điếu thuốc rê đổi được áo jacket lính Dù mặc rất ấm với khí hậu miền núi. “ Thấy cái mặt mày khờ, tao tội nghiệp”. Không có sự tội nghiệp của đại úy Giu Se Mới suốt đời tôi cũng chẳng biết hương vị “ ration C “ Tàu nó như thế nào..
Nhất y nhất quởn từ ngày bước lên chiếc xe đò định mệnh vốn liếng đi theo tôi cho tới ngày rời khỏi nhà tù chỉ bấy nhiêu để chống chọi cái rét khủng khiếp mùa đông .
Tôi bắt đầu có ghẻ, ghẻ mọc khắp nơi trên người bất kể chỗ kín hay hở. Ghẻ và đói là hai kẻ thù khủng khiếp hành hạ những thằng tù ngày cũng như đêm. Ghẻ và đói lại tàn ác hơn với những thằng tù “xa xứ“ quê quán ở tận Saigon như tôi. Tù Saigon đông lắm, nhưng đường xá xa xôi nhất là vào những ngày mới bị VC chiếm đóng miền Nam, phương tiện giao thông nghèo nàn, chẳng thằng nào có thăm nuôi. Bao nhiêu quần áo mang theo đã đổi lấy lương khô, thuốc rê, còn lại thì đem ra quấn hết vào người. Tù khổ nhưng rận rệp lại mừng vì càng ngày càng mập mạp , chỗ trú ẩn ấm cúng sau mấy lớp quần áo.
Buổi sáng tù được ra tắm nắng mỗi thằng tự mài lấy cho mình một cây kim từ những miếng sắt vụn kiếm được. Có hai lợi ích khi sở hữu một cây kim: để may lại bộ đồ rách (chỉ là những sợi nilon rút ra từ bao tải) và để bắt con ghẻ. Nhiều thằng tù không ngồi được vì đít đầy ghẻ mủ, chổng mông cho một thằng khác chà sát xịt máu rồi rửa bằng nước muối. Đó là cách trị ghẻ duy nhất tù nghĩ ra được.
(Sau 30/4/75, ở tù là chuyện dĩ nhiên đối với tất cả những ai sinh ra và sống dưới chế độ VNCH. Con nít ba tuổi còn phải đi tù với mẹ, nhiều bà lặc lè cái bụng cũng ngồi vài tháng vì tội vượt biên hoặc buôn bán lặt vặt. Hề là người miền Nam (không theo VC) thì phải “ học tập cải tạo “, đó là quy luật. )
Một đêm lúc còn trong hộc, bỗng dưng tôi thức dậy vào khoảng ba giờ sáng, chắc tại mấy con rận rệp cắn ngứa ngáy quá chịu không nổi. Thình lình tôi nghe văng vẳng từ xa vọng lại tiếng chuông nhà thờ. Tiếng chuông boong boong vọng vào tai rồi thấm dần đến quả tim từ lâu đã quên bẵng. Tôi nằm trong này hơn hai tháng rồi, chưa biết bao giờ mới được cho ra phòng ngoài chứ đừng nói gì đến được tha. Bao nhiêu ký ức hiện trong đầu tôi, những ngày còn ở ngoài đời.
Tôi là người Công Giáo, theo kiểu ông bà cha mẹ có đạo thì đương nhiên tôi cũng có đạo. Từ lúc lớn khôn tôi chẳng ý thức gì về vấn đề tôn giáo, nhưng phải đi lễ mỗi Chúa Nhật là một cực hình (tôi thà rong chơi với bạn bè trong mấy quán cà phê ). Sinh viên năm thứ ba ĐHKH Saigon tôi thích những nơi có nhạc TCS, lơ mơ điếu thuốc quấn Bồ Đà . Hồi nhỏ ba má tôi vẫn buộc chúng tôi phải đi lễ chung với gia đình, nhưng khi bước vào đại học, ông bà để chúng tôi tự do. Tôi trịch thượng so sánh những linh mục với những con quạ đen .
Nhưng đêm hôm đó, tôi bị “đánh thức“. Tiếng chuông vọng lại nhắc đến những Giáng Sinh gia đình thiếu vắng tôi trong lễ nửa đêm. Hình ảnh ba má tôi chăm chỉ dự lễ đều đặn nhất là sau ngày đại tang của đất nước. Ông bà cầu nguyện điều gì tôi không biết nhưng gương mặt già nua của cha mẹ giờ đây hiện rõ ràng trong tâm trí. Tôi bật khóc, tự nhiên tôi ngồi dậy, hai cái còng chữ u dưới chân rọt rẹt làm Giu Se Mới cằn nhằn “ngủ đi thằng Sài Gòn“. Tôi không ngủ được nữa, lần đầu tiên sau bao nhiêu lâu tôi mấp máy môi đọc một kinh Lạy cha ba kinh Kính Mừng một kinh Sáng Danh. Rồi tôi quyết định make a deal với Thiên Chúa. Tôi thưa như thế này:
– Lạy Chúa, bao lâu rồi con đã không dự lễ với ba má, Xin cho con được về trước Giáng Sinh năm nay, con muốn cùng ba má con dự thánh lễ Giáng Sinh . Nếu có thể xin hãy cho con điều đó. Nếu không xin hãy cất linh hồn con, con hết chịu nổi rồi. Sau Giáng Sinh nếu còn ở trong này con sẽ chẳng tha thiết điều gì nữa, cho con chết đi thì hơn.
Như đã nói, tội của tôi là tội “ tình nghi ” mà đối với VC “ tình nghi ” nặng hơn “ tình thiệt “. Tình thiệt còn có ngày về, tình nghi thì cứ “mút mùa Lệ Thủy”. Do đó cầu nguyện là một chuyện, cầu được ước thấy lại là chuyện khác. Tôi đinh ninh như thế và rồi tôi quên đi những gì mình đã thưa vào đêm thức dậy ba giờ sáng.
Ngày 22 tháng Mười Hai năm 1976. Đang lúc ra tắm nắng tù được lệnh trở vào phòng giam, thường là lệnh chuyến đi lao động những tù đã có án. Trước đó hai ngày ngày 20/12/1976 tôi chợt nhớ lại lời cầu xin của mình và lòng buồn rười rượi vì chắc chắn sẽ còn ở đây lâu. Thân thể tôi giờ như một bộ xương khô, cái đói chiếm trọn đầu óc. Đã có lần tôi suýt nhặt một trái ớt hiểm nằm giữa đống phân vì thèm. Tôi sắp chết rồi.
Đợt đầu được gọi ra để chuyển trại, cửa phòng giam mở khoảng mười lăm phút để tù có án tập trung . Sau đó lại đóng. Điều này hơi bất thường vì trước đây chưa từng . Hóa ra còn một đợt kêu tên nữa cho về. Tên tôi nằm hàng thứ ba mươi sáu.
Tôi đi như bay ra khỏi nhà giam, đầu óc tôi tê điếng chẳng còn cảm giác Điều tôi không ngờ đã đến. Tôi bước ngang Biệt Giam thấy mặt Giu Se Mới cười và nghe rõ tiếng nói của nó : “thằng Saigon về rồi! ”. Cảm ơn mày nha Giu Se Mới, tao sẽ nhớ mày và Y Nguoun
Hồi bị bắt tôi còn ít tiền, công an VC trả lại tôi đầy đủ (Điều này cũng đã làm tôi ngạc nhiên một thời gian, ít quá không đáng để lấy?). Tôi mua ngay một nải chuối, mấy cái bánh tét, tất cả những gì tôi thèm khát mà số tiền có thể mua được. Kết quả thấy ngay lập tức, tôi đứng dậy không nổi. Bao tử bị o ép thời gian dài nay căng ra quá độ làm tôi bị bội thực. Tôi ráng lết ra bến xe, trên người còn mặc bộ đồ tù trại phát. Ra đến đó tôi ngồi trên một băng ghế dài, ngẫm nghĩ cách đề về nhà. Tiền đã hết, làm thế nào đây? Cách duy nhất tôi có thể thực hiện lúc này là cầu nguyện. Tôi lại thưa:
– Lạy Chúa Chúa đã nghe lời con kêu xin , cho con được ra tù mà chỉ còn hai ngày nữa là đến Giáng Sinh, con lại không có tiền . Không lẽ Chúa bỏ con bơ vơ ở nơi này? Vậy thì cho con ra tù để làm gì?
Còn đang lẩm bẩm, tôi chợt nghe có tiếng nói
– Sao ngồi đây?.
Tôi ngước lên, trước mặt là một người đàn ông trung niên, ăn mặc như nông dân. Giọng miền Nam hơi phảng phất Trung Phần. Anh nhìn tôi có vẻ thông cảm (chắc tại bộ đồ tù)
Tôi thưa thiệt:
– Dạ tôi mới tù ra, nhà ở tận Saigon không biết làm sao đề về nhà
– Vậy hả, tôi tên Tường, mà nè sáng giờ ăn uống gì chưa?
Mặc dù ăn no đến bội thực, bao tử đang hành hạ nhưng cái đói ám ảnh khiến tôi buông vội (vì tưởng như mình vẫn đang rất đói ):
– Dạ chưa
– Vậy ngồi đây chờ chút tôi đi chút xíu quay lại.
Tôi bàng hoàng, kinh ngạc. Như thể Chúa đang ở trước mặt tôi, Ngài đang trò chuyện, đang nghe những lời kêu van thống thiết và gởi một thiên sứ đến giúp tôi . Anh là Thiên Sứ của Thiên Chúa hay người thường vậy anh Tường?
Anh trở lại với khúc bánh mì:
– Nè ăn đi, tôi đã sắp xếp một chỗ cho anh trên chiếc xe đò về Saigon rồi.
Tôi theo anh, anh dẫn tôi lên chiếc xe, nói gì đó với người tài xế, rồi ngoắc tay:
– Về nhà bình yên nghe
Tôi vẫn không biết anh có phải là Thiên Thần Bổn Mệnh của tôi, vì thời điểm đó, đâu có ai muốn rắc rối, dây dưa với người lạ nhất là một thằng tù còn mang trên người bộ quần áo . Càng co cụm, khép kín càng tốt. Ai biết ai… là ai!
Tôi lên xe ôm cái bụng cóc ọc ạch vì thức ăn nằm ủ trong đó. Cứ khoảng một cây số tôi lại xin người tài xế ngừng lại để đi cầu. Trên dưới đều không ra được làm tôi như người sắp chết. Bụng tôi căng cứng giống trái banh chờ lúc bùng nổ. Tôi lại lâm râm cầu nguyện. Những lời kinh phần nào làm đau đớn dịu xuống, nhưng hỗn tạp hàng chục loại thức ăn trong dạ dày khiến tôi chỉ muốn chết cho xong. Hành khách đi chung xe không ai dám nói chuyện với tôi, họ chỉ liếc mắt nhìn, người đầu tiên ngồi hàng cuối đứng dậy xuống, đi ngang qua ném cho tôi hai đòn bánh tét rồi đi thẳng. Người thứ hai, thứ ba giả bộ để rơi tờ giấy bạc, gói thuốc. Tôi cảm ơn họ những người xa lạ chỉ vì bộ đồ tù tôi mặc trên người sẵn sàng nhường nhịn chia sẻ chút vật thực rất nghèo nàn của họ. Những ngày đầu mất nước chẳng ai giàu có đủ để chia sẽ phần sở hữu của mình. Chắc họ đoán tôi là tù VC vừa được tha, mà đã là tù VC thì (ngoài hình sự ) tất cả đều là anh hùng . Cảm ơn họ, những người miền Nam giàu lòng vị tha
Tối hôm đó xe ngừng lại ở Qui Nhơn. Nhờ có tiền tôi thuê được cái ghế bố . Tôi muốn ngủ nhưng đau đớn quá đến bật khóc. Tôi lại ngồi dậy thầm thì cầu xin:
– Lạy Chúa, Chúa đã cho con ra tù, cho con có phương tiện về nhà không lẽ Chúa để con chết ở đây? Chúa biết là con cũng sắp chết rồi. Con thở không nổi nữa, đau quá Chúa ơi
Cầu nguyện một chặp, tôi mệt nằm xuống thiếp đi. Đoán chừng khoảng mười lăm phút sau, tôi ngồi bật dậy. Một con nôn thốc nôn tháo tống khứ hết mọi thức ăn đã nằm trong bao tử tôi hai ngày nay. Tôi tưởng sau đó tôi sẽ chết, thật lạ, hết cơn nôn tôi cảm thấy mình khỏe khoắn như chưa bao giờ khỏe như thế. Tối hôm đó tôi ngủ say như một đứa trẻ vừa no sữa
Xe đến ven thị xã Phan Thiết thì ngưng lại. Lệnh giới nghiêm không cho phép xe lưu thông qua thành phố sau nửa đêm. Đó là tôi đoán vậy, còn thật sự như thế nào tôi không biết. Đêm đó cũng như mọi người chúng tôi nằm lăn lóc ở hai bên vệ đường trong khách sạn “Ngàn Sao“ ( nhìn lên trời thấy sao không!)
Sáng ngày 24/12/1976 tôi về tới nhà. Con chó Lucky má tôi thừa hưởng từ người dì đã đi tản qua Canada để lại. Nó gốc quân khuyển thường được ăn đồ ngon cho tới khi về với má tôi và sống dưới chế độ VC. Tội nghiệp “ thằng nhỏ “ phải tập ăn mọi thứ má tôi có thể chia cho nó. Chơi láng hết từ khoai mì khoai lang, cám heo v..v . Hai “ đứa ” tụi tôi vẫn chơi thân với nhau trước ngày tôi đi tù.
Nghe tiếng người Lucky từ trong nhà chạy ào ra sủa dữ dội. Tôi la khẽ “ Lucky, tao nè “ nghe tiếng tôi nó ư ử mừng rỡ, chân cào lên hàng rào đuôi vẫy dữ dội. Má tôi đang ăn cơm, nghe chó sủa vội chạy ra coi là ai, tay vẫn còn cầm chén. Vừa nhìn thấy tôi, má chết sững
– Trời ơi , ông ơi, thằng Bảy nó về rồi nè.
Ba tôi chạy ra, mếu máo. Má tôi mở cổng, ôm chầm lấy tôi, Lucky nhảy chồm lên người tôi, ba tôi cứ cầm tay tôi mà lắc. Sau này khi bình tĩnh tôi mới biết ba má tôi tưởng tôi đã chết rồi vì không có tin tức gì hết từ ngày tôi bỏ đi. Ba má biết tôi tìm cách vượt biên đường bộ. Thú dữ, Khờ Me Đỏ, VC chắc là tôi không tài nào đi lọt. Thậm chí má tôi đã xin lễ cầu hồn cho tôi. Tôi đâu có dám cho ba má tôi biết bị tù ở Pleiku sợ ông bà tuổi già sức yếu lại lo gồng gánh thăm nuôi. Cuối cùng tôi chịu hết nỗi đánh liều gởi lén thằng bạn được tha bức thư cầu cứu chỉ cách ngày tôi được tự do có một tuần lễ. May là thằng bạn chắc về tới nhà vui quá quên giao thư. Cảm ơn nó, nếu không tôi lại làm khổ ba má tôi lần nữa.
Tính ra VC giam tôi hơn sáu tháng . Sáu tháng với một thằng thư sinh như tôi, từ nhỏ tới lớn chỉ biết ăn bám vào cha mẹ là cả một khoảng thời gian khủng khiếp. Tôi biết được con rận hình dạng ra sao, con cái ghẻ nhớ như thế nào và làm cách nào bắt “quả tang hung thủ“ bằng đầu kim mài nhọn từ mảnh sắt vụn. Tôi biết sự dã man khi bệnh “ đói “ hành hạ , cảm giác “ sung sướng đến tê dại “ lúc áp chai thủy tinh nước nóng vào hai cái mông đầy ghẻ, hoặc khi thằng bạn “ghẻ “ chà bật máu mủ rồi chế nước muối lên. Gọi là bạn ghẻ vì chúng tôi sẽ luân phiên “ điều trị “ bệnh ghẻ cho nhau theo lối đó.
Tôi cũng phải cảm ơn VC. Nghe lạ quá ha? Nhưng đúng là nhờ VC, bao tử tôi giờ vô địch. Tôi có thể ăn bất cứ con gì miễn là nó nhúc nhích (tôi đã từng nếm “hương vị“ rận no máu khi cắn cái cóc trong miệng ). Bây giờ nhiều khi ăn thức ăn để lâu hoặc cơm thiu người khác sẽ bị ngộ độc thực phẩm, còn tôi hả ? “ vô tư “! Vi trùng sợ tôi chứ tôi đếch ngán bất cứ vi trùng nào. Sống sót tù VC tôi có thể sống sót mọi nơi, mọi hoàn cảnh vì tận cùng của sự khủng khiếp là Hỏa Ngục mà so với tù VC chắc còn thua một bậc.
Câu chuyện này hoàn toàn có thật mà bao nhiêu năm nay tôi muốn kể lại để VINH DANH và CÁM ƠN Thiên Chúa, những vì không biết cách viết, cộng thêm với sự lười biếng, lo toan cuộc sống tôi chưa làm được. Tin hay không tuỳ quý vị, nhưng ơn Thiên Chúa ban cho có thật, nhất là cộng thêm lời cầu bầu rất linh nghiệm của Mẹ Maria.
Còn đối với anh Tường tôi vẫn cầu nguyện cho anh (tôi rất muốn biết anh chỉ là một người giàu lòng nhân đạo tình cờ đi ngang qua hay anh thật sự là một Thiên Sứ được sai đến?)
Tôi xin lỗi, tôi quên phần kết luận: chỉ trong vòng có hai ngày, từ trưa 22/12/1976 với một cái bụng bội thực gần chết, với phương tiện giao thông nghèo nàn dưới sự điều hành của VC đi từ Pleiku (cách xa Saigon bao nhiêu cây số ? ) , tôi đã về tới nhà mình vào đúng trưa ngày 24/12/1976. Điều đó có nghĩa là đêm Giáng Sinh tôi đã được tham dự Thánh lễ nửa đêm với ba má mình như lời nguyện xin trong phòng biệt giam ở Pleiku…”
VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN TRỜI
BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO NGƯỜI THIỆN TÂM
(Theo lời kể của một người bạn)
Nguoiviettudo
TIẾNG RAO
TIẾNG RAO
Chồng mất, mẹ bước thêm bước nữa nhưng cũng không sao thoát được cái gánh chè.
Sáng nay tôi phải dậy sớm hơn mọi ngày để giúp vài chuyện vặt. Do tối qua mẹ ốm.
Bố dượng từ trong phòng bước ra càu nhàu mẹ:
– Bà chai sạn rồi phải không? Bà mắc chứng lạnh cảm từ bao giờ thế?
Mẹ đáp lời thật hiền:
– Mình nói bé thôi, kẻo con nó nghe… Hôm qua gánh suốt ngày ngoài đường, chỉ bán được vài chén, phần thì lo thâm vốn, phần thì lo không có tiền đóng tiền trường cho thằng Tí nay mai. Hơn nữa em cũng sốt cả đêm, mình biết mà.
Nghe đến đây, bố dượng càng gắt hơn :
– Bà nói toàn những lý do không dính dáng gì đến chuyện tối qua…
Mắt mẹ đỏ hoe, mẹ kê vai vào cái gánh chè rồi thủng thẳng bước đi.
Từ xa xa tiếng rao não nùng của người đàn bà, cả một đời trong nghèo hèn khốn khó, biết có dội vào thành lòng của bố dượng tôi không…?
” Ai ăn chè đậu đen nước cốt dừa đường cát trắng……. không. “
Fb Viết Châu Nguyễn
CHỒNG CHẬM CHẠP
CHỒNG CHẬM CHẠP
Tình yêu thì không có lý do. Nhưng cuộc chung sống nào cũng có va chạm, thách thức, có bao cơn sóng gió chực chờ đánh tan tành mọi sự gắn kết.
***
Quán cà phê của chị mới dựng lên chỉ chừng 5 năm, nhưng đã trở thành địa chỉ quen thuộc của cả xóm.
Ai cũng biết, cái quán đông khách là nhờ sự duyên dáng của bà chủ. Chị xinh đẹp, tháo vát và lanh lẹ. Nhưng cũng chính vì thế, những thắc mắc càng đổ dồn về phía ông chủ – một người đàn ông chậm chạp, mờ nhạt, kiệm lời.
Chị lanh lẹ một cách tinh tế. Chị thoăn thoắt làm công việc của 3 – 4 người nhưng mặt mũi vẫn tươi như hoa, vẫn đon đả phục vụ và thuộc làu thói quen, sở thích của từng vị khách. Chị chạy tới chạy lui không ngừng từ sớm đến đêm.
Anh chỉ phụ dắt xe. Khu vực để xe thì lọt thỏm trong sân nên công việc của anh cũng không mấy nặng nề. Người ta nhìn vào chỉ thấy chị chạy như con thoi còn anh thì lầm lì đứng đó.
Trong khi chị hớn hở chào mời thì anh nói năng nhát gừng, đôi lúc còn tỏ ra nặng nề khi thấy những chiếc xe đậu không ngay ngắn.
Khách vào quán hay cố đi thật nhanh qua khu vực để xe, để đỡ phải giao tiếp lâu với anh, mà cũng để tiến vào không gian của chị thật lẹ.
Thỉnh thoảng, vẫn có người dừng giữa cuộc trò chuyện, hất cằm ra sân mà hỏi chị: “Chồng cô đó hả?”, chị cười: “Dạ, ông xã tui đó!”. Giọng chị to rõ, như cố để cho con người đang lúi húi ngoài kia nghe thấy.
Chẳng ai hiểu một người chồng như thế thì có gì để mà tự hào giới thiệu. Một người vô tâm cũng có thể thấy vợ chồng họ như đôi đũa lệch.
Có bữa, thấy anh đi ngang, nhóm tài xế là khách quen bèn nói vu vơ:
– Mới sáng sớm mà hanh nắng rồi, có cái bạt sao không kéo lại che cho khách?
Anh bèn đi lại tháo dây, kéo bạt che kín cả quán. Lúc này đám tài xế lại lao nhao:
– Mới sáng mà che kín mít vậy, phí gió trời!
Chừng như nghe không rõ, anh lúng túng, chau mày làm ra vẻ khó hiểu. Bên này, đám khách quen lại phá lên cười, tranh nhau nói mấy câu yêu sách chẳng đâu vào đâu. Một trong số đó còn nói: “Ông chủ này coi bộ lãng tai!”. Lúc này, chị chủ quán phăng phăng bước tới, đon đả cười với cả chồng lẫn khách:
– Quán này chuyên môn hóa cao lắm nghen, kéo bạt chừng nào là do tui phụ trách, ông chủ chủ yếu đứng đó kiểm soát tui thôi à!
Nói xong, chị lấy lại sợi dây thừng từ tay chồng, kéo ngược tấm bạt hở ra một nửa, vừa che được nắng, vừa lấy được gió trời. Xong việc, chị nói:
– Anh coi ăn sáng cho kịp giờ, đồ ăn em để sẵn trong lồng bàn nhen!
Anh quay đi. Cái giọng ngọt như mía lùi của cô vợ tươi tắn như đẩy ông chồng khù khờ lên một trời danh giá. Thấy cái vẻ ù lì của anh, người ta ưa làm tội làm tình. Nhưng chỉ cần một lần bị chị dẹp gọn, kẻ yêu sách kia cũng phải nể anh thêm mấy bậc. Bởi, chẳng cần biết anh khù khờ ra sao, chỉ riêng việc được một người đàn bà thông minh một lòng yêu kính là đã “có số má” rồi.
– thì chắc chắn, người này phải có một điều gì đó khiến người kia còn muốn gắn bó.
Chị nói:
Hôm đó quán vắng, tôi đến thì gặp lúc chị thảnh thơi ngồi nghỉ mệt, còn anh lúi húi tỉa tót cây cối. Quán không quá rộng, nhưng luôn cho cảm giác xanh tươi. Đó chính là vì mớ cây cối được đặt đúng chỗ, được trồng theo tầng với chậu nhỏ, chậu lớn. Tôi khen:
– Chị không có nhân viên mà vẫn giữ được cái quán sạch sẽ tươi mát hoài hè!
– Tại tui có ổng!
Chị tiếp tục huyên thuyên rằng anh giỏi về cây cối ra sao, anh bỏ ngủ trưa để chăm chút “bầy cây” này thế nào. Tôi chợt hiểu về cách mà họ gắn bó trong cái quán này. Tôi hỏi:
– Ảnh hiền queo mà chị thì lẹ làng vậy, sống sao cho khỏi lệch nhịp?
Chị đáp thiệt nhanh:
– Quan trọng là mình chọn cuộc chiến nào thôi cưng ơi. Tụi chị bán quán, nhằm ngay cái thế mạnh ăn nói của chị nên chị nổi hơn. Ảnh giỏi kỹ thuật, giỏi cây cối, giỏi kiên trì… thì không ăn thua lắm với chuyện tiếp khách. Nhưng đừng tưởng vậy là mình ngon hơn ảnh nghen! Không có ảnh lo hậu kỳ, điện nước, cây cối, nhạt nhẽo… thì chị cũng chịu chết à. Người ta không biết thì nói này nói kia, chứ mình là vợ chồng, mình biết chồng mình giỏi gì, mình dở cái gì, là sống được hết!
Tôi vỡ lẽ hoàn toàn. Và chợt giật mình, nếu vợ chồng nào cũng biết cái giỏi, cái dở của nhau, thì chẳng “cuộc chiến” nào, chẳng tình thế nào có thể đẩy người ta vào những hoang mang của lệch pha, hơn kém, đến mức thấy chẳng biết so sao cho bằng như lúc đầu…
Tác giả: Trà Giang
Từ fb Viết Châu Nguyễn
Món quà giáng sinh lớn nhất trong đời
Dieu Le
Món quà giáng sinh lớn nhất trong đời
Giáng sinh năm trước, tôi nhận một món quà từ một người trong hãng. Chị này người Phi. Lúc tôi phỏng vấn chị, chị chưa biết gì nhiều về công việc. Cái tôi thấy ở chị: hiền, có vẻ rất chu đáo. Và rồi, tôi vẫn mướn. Đây không phải là lần đầu tiên tôi mướn người Phi. Nhiều rồi. Phần lớn đều rất siêng năng, chú tâm vào công việc. Chưa bao giờ tôi thất vọng hay than phiền một ai trong số họ. Vì thế tôi mướn chị cũng là lẽ thường, dù kinh nghiệm thua nhiều ứng viên khác.
Vào làm một thời gian, chị rất chịu khó học hỏi. Chỉ trong một thời gian ngắn, chị làm giỏi hơn một số người có thâm niêm cao hơn chị. Khi nào cần, chị có mặt, bất kỳ sáng sớm, hay tối mịt, dù thứ bảy hoặc Chủ Nhật.
Một lần ngồi nói chuyện, chị nói: anh đã cứu gia đình tôi. Chị kể …
Gia đình tôi 4 người (hai vợ chồng, hai con gái) được bảo lãnh từ Phi sang. Hai đứa con đi học trung học, hai vợ chồng kiếm việc gần 5 tháng không có nơi nào nhận. Vậy mà, tôi nhận chị vào làm với mức lương trên tối thiểu vài đồng (dù lúc đó đối với chị mức lương tối thiểu đã là hạnh phúc). Một tuần sau, duyên lành đến, chồng chị cũng kiếm được việc làm. Chị nói: có lẽ nhờ may mắn từ anh. Kể từ đó, sáng sáng anh chở chị đi làm, rồi anh tới hãng sau. Chiều tối, chị xong việc trước, vẫn phải đợi anh làm xong ca rồi mới tới đón chị. Cho đến hôm nay vẫn vậy.
Chị vào làm gần 3 năm, tôi thăng chức cho chị 1 lần và tăng lương 3 lần, trong đó có 1 lần điều chỉnh lương theo thị trường. Lần nào cũng hậu hĩnh vì cái tâm chị đã bỏ vào trong công việc.
Dịp Giáng sinh năm rồi, chị tặng tôi một món quà. Chị vào sớm, để món quà trên bàn của tôi. Món quà được bỏ trong một hộp giấy và bọc thật đẹp. Tôi vào làm, thấy món quà và quyết không nhận, trả lại chị. Chị muốn khóc, rồi nói: Nó không có giá trị gì về tiền bạc. Tôi biết là cái gì dính dáng đến tiền bạc là không đúng. Tôi đã làm nó mấy ngày. Chỉ vài đồng cho miếng bìa cứng và một ít giấy màu, cùng cái khung hình. Bỏ công ra làm những bông hoa, nhưng tôi không khéo tay nên làm đi làm lại…
Nghe vậy, tôi đồng ý nhận. Mở ra, tôi thấy đó là một bức tranh, làm thủ công, kết nối những bông hoa giấy nho nhỏ. Bên dưới viết mấy chữ: cám ơn gia đình họ Lê. Tôi lặng người. Món quà mấy đồng mà sao tôi thấy nó lớn vô cùng. Tôi nhận món quà và ôm nó vào lòng hết sức trân trọng. Tôi dặn chị: đây là lần duy nhất và cuối cùng tôi nhận quà từ chị, cũng như từ bất kỳ nhân viên nào khác.
Chị vui lắm, mà tôi thấy khóe mắt chị ươn ướt. Rồi chị nói: nhờ việc làm này mà gia đình tôi có khả năng ra ở riêng được, sau gần 6 tháng sống với gia đình người anh với bao khó khăn, hệ lụy. Chị nói tiếp … tôi không mường tượng được chuyện gì sẽ xảy ra nếu lúc đó chúng tôi không kiếm được việc làm. Bây giờ, hai đứa con gái đã lớn, một đứa vào đại học, đứa kia sẽ vào năm sau. Không có ông mở rộng vòng tay, dễ gì tôi có một công việc như hôm nay. Tôi hứa sẽ không tặng ông bất kỳ thứ gì nữa. Tôi sẽ làm hết sức để không phụ lòng ông…
Những lời nói mộc mạc của chị làm tôi lâng lâng, mắt cay cay. Trong đời, tôi nhiều lần nhận quà Giáng sinh, từ người thân, cũng như từ sếp lớn. Tuy nhiên, đây là món quà giáng sinh lớn nhất và ý nghĩa nhất mà tôi nhận được từ trước tới nay, dù chỉ là vài bông hoa giấy với hàng chữ viết tay không phải nhà nghề.
Ngẫm lại, trong đời đôi lúc món quà lớn nhất không cần là món quà đắc tiền nhất, mà có khi dù chỉ dăm đồng. Và hạnh phúc, nhiều khi chỉ là một lời nói, một câu viết, đó là những thứ không thể đo bằng vật chất phù du.
Đoàn Nhã Văn (LT)
Mùa Giáng Sinh 2021
#Từ fb Nguyễn Học
Truyện ngắn – GHEN…
Truyện ngắn
GHEN….
Nhìn cảnh chồng chị nằm ôm đứa con gái trẻ trung mơn mởn mà một lần chị bắt gặp tại trận do người quen thông báo.
Từ đó cứ đêm về! Chị lại nằm khóc… Chị đã nhiều lần khuyên nhủ, chồng chị cứ hứa… nhưng rồi lại đi nhậu và lại vắng nhà.
Nhiều đêm, chị chợt thức giấc quờ quạng, rờ rẫm trong đêm tối để rồi hốt hoảng khi thấy chiếc giường trống rỗng… Chồng chị đi đâu? Đi uống rượu? Hay lại đi vỗ về nhân tình?
Riết rồi chị cảm thấy từ tinh thần đến thân xác rã rời, mệt mỏi với những lời hứa… với lo sợ những đứa con không cha để rồi lại tha thứ…
“Tao thấy ông P nhà mày lại cặp với con nhỏ lần trước…” Bạn thân chị gọi điện cho chị ré lên “Đi thôi, tao dắt thêm mấy đứa, bọn mình đánh cho chúng nó không còn mặt mũi mà ra đường…”
Chị hờ hững nhìn vào màn hình điện thoại! Chị có còn ghen tuông hay không?
Không! Chị mệt mỏi lắm rồi…
– “Sao mày không đánh chúng nó? Mày chịu thua à?” Bạn chị khó chịu hỏi. Bình thường tính chị cứng rắn và đôi khi đanh đá… Vậy mà…
– “Tao mệt rồi!” Chị cười mỉm “Lấy chồng không phải để hôm nay đi đánh ghen, ngày mai đi rình rập. Lấy chồng là để được yêu thương, được chiều chuộng, được trân trọng, được nâng niu. Đàn bà sinh ra là để được yêu, chứ không phải để chà đạp. Anh ta không còn yêu tao, tao sẽ tìm người khác nâng niu mình!”
Chị nói là làm! Chị viết sẵn giấy ly hôn, nói anh ký vào!
Anh bĩu môi, nghĩ chị “lại đe doạ” như những lần trước! Thứ đàn bà như vợ anh “không nhan sắc, không có sức quyến rũ”, bỏ anh ư? Chuyện cười!
Anh không biết rằng chị không hề nói đùa, anh chỉ vui mừng vì chị “hiền dịu đi, không còn ghen tuông” nói chính xác là “không quan tâm đến anh nữa”. Anh tự hào về điều này, để rồi tự hào cặp bồ cách công khai!!!
Chị cười nhạt bản thân. Bản thân chị đã mất giá trị như thế nào để anh coi thường chị như vậy? Hoá ra trong mắt anh chị chỉ là con đàn bà xấu xí – ỷ lại – ghen tuông vớ vẩn!
Chị dẹp bỏ chuyện ly dị sang một bên, chính thức gửi con đi nhà trẻ để dành thời gian cho mình.
Trước tiên chị đăng ký một lớp thể dục thẫm mỹ. Sau đó chị lập một ngân quỹ riêng, sắm sửa cho mình những bộ quần áo đẹp, hàng hiệu đắt tiền, đổi kiểu tóc mới.
Chưa đủ, chị quyết định đi thẩm mỹ. Nâng một chút mũi, cắt một chút mí, xâm lại đôi môi, tân trang lại làn da…
Ban đầu chồng chị còn dè bỉu, dần dà anh thấy chị đẹp lên, anh lại đâm lo!
Anh bắt đầu ít ra đường, ở nhà theo dõi nhất cử nhất động của chị xem chị đi đâu? làm gì? với ai?
Có lần anh thấy chị bước lên một chiếc ô tô sang trọng.
Lần khác anh lại thấy chị ăn trưa cùng đồng nghiệp cơ quan!
Anh ghen, hình như anh đang ghen!
Tình nhân của anh cũng bắt đầu “ghen ngược”, liên tiếp nhắn tin nguyền rủa chị, “khuyên” chị nên bỏ anh, để anh được tự do!
Chị cười nhạt, chụp ảnh đơn ly dị gửi tới cho cô ta “Em này, chị đã đưa lá đơn này ra cách đây nửa năm nhưng anh không ký! Mong em giúp chị khuyên chồng chị ký vào nhé!”
Một hôm anh về nhà nồng nặc mùi rượu, anh lao tới ôm chị, định gần gũi với chị nhưng chị cự tuyệt!
“Ô, cô không cần tôi à? Hay cô có người đàn ông khác?”
Chị thở dài không đáp.
“Cô muốn gì? Muốn ly dị lắm ư? Đến nỗi gửi cho con bồ của tôi lá đơn ly hôn? Cô đưa đây, tôi sẽ ký…”
Chị lẳng lặng rút lá đơn đã được chuẩn bị trước nửa năm vứt trước mặt anh. Anh lạnh lùng ký vào rồi lăn ra ngủ…
Sáng hôm sau tỉnh lại, anh thấy nhà mình trống vắng. Vợ không thấy, con không thấy!
Anh kêu to “Em ơi…” Nhưng không có một tiếng hồi âm!
Anh nhìn thấy một lá thư ngay ngắn trên bàn.
“Anh à, cho phép em được gọi anh là “chồng” lần cuối cùng, mặc dù với em tình nghĩa vợ chồng đã cắt đứt từ nửa năm trước, ngày em đi đánh ghen bắt được anh trong khách sạn – nhưng em không ra tay ấy!
Có những việc không thể lặp đi lặp lại quá nhiều lần, em là vợ anh, nhưng không phải là người sẽ yêu anh cả đời, chạy theo cái bóng của anh cả đời, ghen với tình nhân của anh cả đời!
Em là con người – có trái tim, có máu thịt! Em biết đau, biêt tổn thương, biết rỉ máu. Và khi nỗi đau quá nặng nề, giống như một khối ung nhọt, em sẽ lạnh lùng cắt nó đi mà không hề hối tiếc…
Vậy em sẽ rời xa anh, để anh tự do với người đàn bà mà anh cảm thấy hứng thú, với người đàn bà anh đang rung động!
Còn em, em sẽ đi tìm tự do cho riêng mình!”
Anh gấp lá thư lại, bàn tay quờ quạng sờ vào khoảng không. Vợ anh… đã bỏ anh đi xa rồi…
Nữ hành khách bị mời xuống khỏi máy bay trong im lặng.
Nữ hành khách bị mời xuống khỏi máy bay trong im lặng.
‘Rất hiếm có chuyện hãng hàng không mời hành khách ra khỏi máy bay khi chuẩn bị cất cánh nhưng với nhiều nguyên nhân khác nhau thì vẫn có những trường hợp như vậy. Cô Peggy Uhle là một trong những hành khách như vậy nhưng nguyên nhân thực sự lại khiến người khác vô cùng cảm động’.
Tháng 5.2015, một máy bay thuộc hãng hàng không Southwest Airlines đang chuẩn bị cất cánh từ Chicago đi Columbus. Tất mọi việc đều rất bình thường, hành khách đã lên máy bay, làm thủ tục đầy đủ, tắt hết các thiết bị điện tử, thắt dây an toàn, tất cả đã chuẩn bị sẵn sàng cất cánh. Nhưng máy bay không cất cánh lên không trung mà lăn bánh quay lại điểm tập kết.
– Bất ngờ, một tiếp viên trong khoang lái tiến đến chỗ nữ hành khách Peggy nhẹ nhàng mời cô xuống máy bay. “Tôi cứ nghĩ là mình ngồi nhầm máy bay. Vì vậy nên mới bị tiếp viên hàng không mời xuống”, Peggy nói.
Sau khi bước vào khu vực check in, nhân viên của hãng hàng không Southwest nhanh chóng làm các thủ tục đổi thẻ lên máy bay giúp Peggy.
Lúc đến quầy check in, cô được yêu cầu gọi cho chồng mình, cô không hiểu nhưng vẫn ngay lập tức gọi cho chồng.
Lúc này, chồng Peggy nói, con trai 24 tuổi của họở bang Colorado, Denver bị chấn thương não, đã rơi vào tình trạng hôn mê và đang được các cấp cứu trong bệnh viện.
Chồng Peggy rất lo lắng cho tình trạng của con trai nên rất mong cô có thể bay đến Denver ngay lập tức. Tin tức này giống như sét đánh ngang tai làm cô không thể kiềm được nước mắt, cô chỉ muốn ngay lập tức lên máy bay bay đến chỗ con trai.
Sự bất ngờ từ hãng hàng không Peggy chia sẻ, thì ra chồng cô đã gọi điện cho hãng hàng không, hy vọng họ thông báo để cô có thể bay về với con trai càng sớm càng tốt. Hãng hàng không hay tin này đã lập tức sắp xếp một chuyến bay sớm nhất cho Peggy đến Denver, hạ cánh sau 2 giờ, hơn nữa họ còn trả toàn bộ chi phí cho chuyến bay của cô.
Khi Peggy được đưa đến khu vực hành khách chờ lên máy bay, nhân viên hãng đã an ủi để cô bớt căng thẳng và lo lắng.
Khi đến giờ, hãng hàng không yêu cầu tất cả hàng khách xếp hàng chờ nhường quyền ưu tiên cho Peggy, và sắp xếp cô ngồi ngay đầu cửa cabin. Như vậy khi đến Denver cô có thể ngay lập tức xuống máy bay.
Vừa lo lắng cho con trai Peggy vừa vô cùng biết ơn đối với hãng hàng không, điều mà cô không nghĩ đến đó là họ còn chu đáo giúp cô tìm hành lý và chuyển sang Denver.
Khi Peggy đến Denver cái đầu tiên nhận được không phải là hành lý mà là hộp cơm trưa. Và tất cả các dịch vụ này được cung cấp bởi hãng hàng không Southwest Airlines.
Trân trọng mạng sống con người
Hãng hàng không không hề quảng cáo cho hành động này nhưng Peggy và gia đình cô muốn làm một điều gì đó để đền đáp cho lòng tốt của họ.
“Southwest Airlines không thu phí đổi chuyến bay của tôi, cũng không thu phí chuyển hành lý của tôi hay những phí dịch vụ khác”. Peggy nói: “Tôi đã nhận được những dịch vụ tốt nhất, trước đây chúng tôi đã rất thích Southwest Airlines. Bây giờ chúng tôi không thể dùng bất cứ từ ngữ nào để biểu đạt sự biết ơn của mình đối với Southwest Airlines”.
Peggy cũng chia sẻ thêm sau đó chồng cô và cô đã nhận được điện thoại của hãng hỏi thăm tình hình của con trai cô. Điều này làm cô càng gia tăng thêm sự cảm kích. Sau sự việc 3 tuần, tình trạng của con trai cô đã dần tốt lên và đang hồi phục nhanh.
TM SG đăng câu chuyện này với một lời nhắn nhủ tới các hãng hàng không Việt Nam: đừng lợi dụng dịch WH, đừng đề xuất những quy định quái đản, chỉ nhằm để bóp cổ những Thượng đế của mình những thời điểm khó khăn nhất. Thượng đế sẽ không bao giờ tha thứ!
Từ fb Lê Văn Thông
From: Anh Dang & KimBang Nguyen
Trích tự truyện “Nơi làng quê heo hút”
Trích tự truyện “Nơi làng quê heo hút”
Sau sự kiện Tháng Tư, 1975, tôi rời đất Bắc vào kiếm sống ở miền Nam (Sài Gòn, Vĩnh Long).
Ở vùng đất mới này, có thời gian, tôi giống như một người nội trợ
Đôi khi, tôi cảm thấy thú vị từ công việc chợ búa, mua bán này. Vì ở môi trường ấy, tôi biết thêm được nhiều thứ, về một xã hội tư bản cách đó chưa lâu , mà tôi chỉ biết qua sách báo xã hội chủ nghĩa miền Bắc từng mô tả..
Cái “văn hóa mua bán” của người miền Nam, khác người miền Bắc rất xa .
Sau năm 1975, ở miền Nam, tuy xã hội chủ nghĩa đã thay thế , nhưng “tàn dư chủ nghĩa tư bản”* vẫn còn “rơi rớt lại” rất nhiều.
Câu nói: “Thuận mua vừa bán”, luôn thể hiện rất rõ . Người bán không nói thách quá, hay hét giá, để rồi người mua phải cò kè bớt một thêm hai .
Hồi đầu, lúc mua cái gì đó ở chợ, ở tiệm, tôi cũng thường bắt chước người miền Bắc, mặc cả (trả giá). Nhưng đều được người bán nhẹ nhàng trả lời : “Giá nhứt định”.Có người còn giải thích thêm là, giá mua vào bao nhiêu, chỉ lời được bao nhiêu, và mong khách hàng hiểu cho. Nghe rất sòng phẳng, thỏa đáng, dễ chấp nhận.
Những tiểu thương buôn bán ở chợ, không hề trương lên những khẩu hiệu như là : “Vui lòng khách đến , vừa lòng khách đi”; hoặc: “Khách hàng là thượng đế” như trong các cửa hàng mậu dịch quốc doanh của nhà nước sau này.
Nhưng họ luôn tìm cách làm hài lòng người mua.
Họ có vẻ rất hiểu về nguyên lý “cộng sinh” của vạn vật trên thế giới này. Nghĩa là “dựa vào nhau mà sống, đôi bên đều có lợi”.
Tôi còn nhớ, chỉ mới vài lần ra chợ mua đồ ăn thức uống, rau củ quả, mà những lần sau, tôi vừa xuất hiện, thì người bán hàng đã vồn vã, như là quen biết từ lâu rồi.
Những câu chào hỏi kiểu như là:
– “Hôm nay ‘cưng’ lấy mấy kí ( kilogam , kg, cân)?” Hoặc:
– “Lấy một chục như hôm qua hen?” Hoặc:
– “ Cân loại chiên (rán) rồi , đặng về khỏi chiên nghe ! v.v..
Miệng họ vừa nói, tai vừa nghe, tay thì thoăn thoắt chọn lựa, cân, đong, đếm , bỏ vào bịch (túi) ni lông, buộc lại gọn gàng, đưa cho người mua , rồi tính tiền. (khách đi rồi, còn dặn với theo : Hôm sau nhớ ghé ủng hộ nghe !)
Đôi khi người bán tự ý cho người mua, thêm một thứ gì đó, làm cho người mua cảm thấy vui. Chẳng hạn, mua bó rau thì cho thêm trái ớt, hay cọng hành, cọng ngò v.v…
Có lần, tôi ghé hàng trái cây, nói là tôi mua một chục trái vú sữa (loại trái cây tôi thấy lần đầu), Chị bán hàng tay thoăn thoắt lựa mười hai trái, bỏ vào bịch đưa cho tôi. Tôi nhắc chị đếm lộn rồi, dư hai trái. Chị nhìn tôi cười vẻ trìu mến và “thương hại”, rồi nói ,không lộn đâu, “chục” của người Nam đó chú ạ. Chị còn nói, nếu chú đi về miền Tây như Vĩnh long, Cần Thơ … , thì “chục” là mười bốn hoặc mười sáu. Còn về miệt vườn thì chục không biết là bao nhiêu! Chị lại cười. Còn tôi thì tròn xoe mắt vì thấy lạ!
Chính những câu hỏi thân thiện, những câu chuyện cởi mở, những hành vi đẹp trong buôn bán ấy của người bán hàng, đã giúp kéo người mua lại gần, tạo tinh thần hợp tác.
Đồng thời ngầm ý khẳng định cuộc giao dịch, mua bán, nhất định phải được xảy ra!
Tôi nghĩ, thì ra xã hội theo “cơ chế thị trường của tư bản” không phải mọi thứ đều xấu, như tôi từng được giáo dục trước đó.(mà dường như trái ngược).
Khi sống ở miền Bắc, vào những năm đầu thập niên bảy mươi, hàng tháng tôi phải đến các cửa hàng quốc doanh của nhà nước, xếp hàng mua lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm, dầu hỏa v.v…
Việc mua bán, vào thời kỳ mà người ta quen gọi là “quan liêu bao cấp” ấy, diễn ra thật đáng khiếp sợ:
Cảnh chen lấn, tranh giành, ẩu đả, chửi bới nhau, xảy ra thường xuyên.
Khách hàng giống như một đám ăn mày đói khát, chầu chực để được phát chẩn bần, hoặc được bố thí..
Phiếu mua thịt (dùng để mua thịt), nhưng người bán đưa cho da hoăc xương ; mua gạo nhưng đưa cho ngô ( bắp) hoặc sắn (khoai mì) cũng phải chịu, nếu như không “móc ngoặc”* được với nhân viên bán hàng.
Những người “mậu dịch viên” ấy mới thật sự là thượng đế. Họ muốn quát mắng ai cũng được. Dù khách hàng là những người đáng tuổi cha mẹ ông bà của họ!
Vì miếng ăn mà phải nhẫn nhịn cho qua. Người mua không hề có lựa chọn. Những nơi như thế là đất sống của “giai cấp” lưu manh, bọn móc túi, bọn “phe phẩy” *
Vì thế, thời kỳ đầu mới sống ở miền Nam, tôi thấy mọi thứ đều lạ lẫm. Không riêng tôi, mà bất kỳ ai đã từng sống ở miền Bắc XHCN, rồi vào Nam thì đều có cảm giác như vậy. Kể cả những trí thức từng du học ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu về cũng thế…
Có mấy em sinh viên lớp ngữ văn Đại học Cần Thơ, đã kể lại cho tôi nghe, câu chuyện về một “giáo sư thỉnh giảng” từ Hà Nội vào, nghe thật thương cảm .
Câu chuyện thế này: Thầy Nguyễn Xuân Khu, vốn là người từng du học Liên Xô, trở về làm giáo sư ngôn ngữ học, ở một trường đại học danh tiếng Hà Nội.
Sau năm 1975, chưa lâu, có lần thầy Khu được thỉnh giảng chuyên đề “phương pháp dạy ngôn ngữ” ở khoa ngữ văn Đại học Cần Thơ.
Thầy được bố trí ở trong một căn phòng, khu tập thể giảng viên. Suốt hơn một tháng trời, ngoài giờ giảng bài trên lớp, thầy chỉ đóng cửa lại ngồi trong phòng, không đi đâu cả.
Nhiều hôm sinh viên đến mời thầy đi uống cà phê , giao lưu cho khuây khỏa, vì sợ thầy xa gia đình nên buồn. Nhưng thầy đều từ chối. Sinh viên nghĩ rằng, các thầy ngoài Bắc vào hay giữ thể diện, ngại tiếp xúc với sinh viên, nên mới như thế!
Không ngờ, những ngày cuối, sắp kết thúc chuyên đề của thầy, các cô cậu sinh viên miền Nam mới hiểu được sự tình, khá bất ngờ.
Thì ra, thầy chỉ có một bộ quần áo mặc khi lên lớp, hoặc đi ra ngoài. Cho nên, hôm nào nghỉ ở nhà , thì cởi ra giặt, chờ nó khô, vì vậy không thể đi đâu được.
Thầy nói ở ngoài đó (miền Bắc), giáo sư như thầy, được cấp phiếu mua năm mét vải, để mặc trong một năm.
Cho nên, các thầy cô giáo ngoài miền Bắc mặc quần áo vá lên lớp, là chuyện bình thường! (Đợt này thầy không đem theo mấy bộ quần áo vá mà thầy thường mặc, vì sợ “mang tiếng”!)
Thầy còn kể, khi biết thầy sắp đi giảng trong miền Nam, vợ thầy dặn , lúc về nhớ mua vài cân (kg) đường, vài ba hộp sữa cho con. Vì nghe nói, trong Nam giá đường sữa rẻ, và hiện bán tự do, không cần tem phiếu.
Một hôm thầy ghé chợ Cần Thơ, đảo qua các hàng bán đường sữa, và thực phẩm chế biến, xem thử. Thầy đã bị choáng, trước cảnh tượng buôn bán tấp nập, và “hoành tráng” ở đấy.
Chỉ mới nhìn hàng mẫu thôi, thầy Khu đã thấy ngây ngất.! Cửa hàng mậu dịch quốc doanh của nhà nước ở ngoài Bắc, cũng chẳng được như thế.
Có đến hàng mấy chục loại đường khác nhau. Mỗi loại đựng trong một cái thau bự chảng, đổ vun đầy lên, thành hình ngọn núi, trên “đỉnh núi” cắm một bảng tên loại và giá cả, để khách hàng tiện lựa chọn.
Sữa hộp cũng đủ các loại, được chồng lên thành những “tòa tháp”, giá cả rõ ràng, khách hàng tùy ý chọn mua.Lần đó thầy lúng túng chẳng biết mua gì.
Chuyện đi chợ mua quà bất thành ấy của thầy, không biết sao, đã lọt vào mắt đám sinh viên mấy lớp thầy đang dạy. Nên họ đã bảo nhau nhanh chóng tổ chức liên hoan trước thời hạn để tiễn thầy.
Hôm ấy, lớp trưởng và một số bạn đại diện, khệ nệ mang quà đến, chất đầy cả bàn viết trong phòng thầy. Mươi ký đường cát trắng, dăm ký đường thốt nốt( Một đặc sản của người Khmer Nam Bộ, lấy từ tinh chất của hoa cây thốt nốt); mươi hộp sữa; một giỏ trái măng cụt (loại trái cây đắt tiền ,chỉ có ở miền Nam ) . một túi ni lông đựng sáu xấp vải, đủ may ba bộ đồ tây; cùng với một số cà vạt, và dây nịt ( thắt lưng) v.v..
Lớp trưởng và các thành viên khoanh tay, đứng phía bên này bàn, đối diện thầy, kính cẩn nói lời cảm ơn công lao giảng dạy của thầy trong thời gian qua..
Rồi thuyết minh giới thiệu những món quà “của ít lòng nhiều”, mong được thầy nhận cho.
Thầy cũng đứng dậy đáp lễ, vẻ đầy xúc động. Có vài âm thanh nhỏ, đứt đoạn, từ trong cổ họng thầy thốt ra:
– “Tôi…tôi…tôi…”
Rồi không nghe thầy nói gì nữa!
Mắt thầy rơm rớm !.
Có thể, đây là lần đầu tiên trong cuộc đời làm giáo chức của mình, thầy cảm nhận được lòng quý trọng, và sự quan tâm rất cụ thể.
Cũng rất có thể , thầy bỗng nhớ đến những đứa học trò thân yêu của thầy ở ngoài Bắc, mà lòng thấy xót xa !
Chúng còn đói rách, thiếu thốn hơn thầy nhiều, nên dù muốn có chút quà để bày tỏ lòng thành kính đối với thầy, thì cũng không thể làm được ! ( Phú quý sinh lễ nghĩa mà. Nghèo khổ quá đành thất lễ thôi ! )
Câu chuyện về giáo sư Khu, làm tôi nhớ đến một người rất nổi tiếng, cũng gặp tình huống tương tự. Đó là tác giả bài quốc ca Việt Nam và nhiều nhạc phẩm trữ tình bất hủ khácBạn tôi kể lại, về nhạc sĩ Văn Cao, lần đó , thế này:
Vì nổi tiếng, cho nên sau năm 1975, có lần ông được người phụ trách câu lạc bộ một nhà văn hóa ở Sài Gòn, mời đến giao lưu, nhân dịp ông vào thăm người bà con trong Nam .
Cụ thế là ông đến an tọa trên sân khấu, để người ta mua vé, vào chiêm ngưỡng cái dung nhan vô cùng khắc khổ của ông.
Thỉnh thoảng, ông cũng phải trả lời những câu hỏi của những người tò mò. Đại loại như:
– “Thưa bác, bác đã sáng tác bài ‘Tiến Quân Ca’ lúc bác bao nhiêu tuổi ạ ?” Hoặc:
-” Trong bài hát có câu ‘ Cờ pha máu chiến thắng mang hồn nước’. Máu đó, là bác muốn nói đến máu của ai ạ ? v.v..
Nghe nói , chẳng những Văn Cao có công lớn , làm ra bài quốc ca, mà ông còn trực tiếp cầm súng lục đi ám sát, thủ tiêu kẻ bị nghi là Việt gian phản bội, trong đội ngũ cách mạng, theo lệnh của lãnh đạo cộng sản nữa.
Tuy có công lớn; nhưng rồi ông bị xem như đã từng dính líu đến vụ án “Nhân văn-Giai phẩm chống đảng”, nên dường như không bao giờ được tiếp xúc với công chúng.
Lần này, cuối buổi giao lưu, cả hội trường đứng dậy, vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt. Các cô gái mặc áo dài, ôm hoa đến tặng. Người tổ chức nói lời cảm ơn chân thành, và gửi ông chiếc phong bì đựng tiền thù laÔng đã sững người ra, và … khóc!
Có lẽ đây là lần đầu tiên, người nhạc sĩ tài ba, đã cảm nhận được sự tôn vinh thật lòng, và cụ thể của đám đông công chúng !
Thì ra, “tàn dư tư bản” còn hàm nghĩa tốt, chứ không phải chỉ là nghĩa xấu, như tôi từng được học trong các giờ chính trị !
P/S…
-Ảnh tác giả (cũ , phút giây thư giãn và suy ngẫm chuyện đời.
-“Móc ngoặc” : Cách giao dịch lén lút , vụng trộm, đi đêm với nhau của kẻ có quyền thời đó.
– “Phe phẩy”: buôn gian bán lậu, cách kiếm sống của đám người thất nghiệp ở thành thị ,rất đông đúc thời ấy.
– “Tàn dư tư bản”: những thứ xấu xa do xã hội tư bản để lại (cách nói của người cs cầm quyền).
From: Cam Tuyet & KimBang Nguyen
Lê Đình Khẩn (ảnh tác giả)
Cô gái rơi thẳng từ máy bay độ cao 3000m xuống đất
Cô gái rơi thẳng từ máy bay độ cao 3000m xuống đất
Chuyện ly kỳ như phim về cô gái rơi thẳng từ máy bay độ cao 3000m xuống đất, 10 ngày sau được tìm thấy trong bộ dạng không thể tin được. Điều kỳ diệu vẫn xảy ra sau khi chiếc máy bay bị sét đánh, lao xuống đất, vỡ tan tành, tưởng chẳng có ai sống sót.
Đêm Giáng sinh “nhớ đời”
Vào đêm Giáng sinh năm 1971, chỉ vài giờ sau khi dự lễ tốt nghiệp trung học, cô gái tên Juliane Koepcke (17 tuổi) và mẹ là bà Maria đã đáp chuyến bay từ thủ đô Lima (Peru) đến thành phố Pucallpa (Peru). 2 mẹ con dự định đến đoàn tụ với cha của Juliane, ông Hans-Wilhelm, một nhà động vật học nổi tiếng người Đức đang làm việc tại một trạm nghiên cứu xa xôi trong rừng nhiệt đới.
![]() |
Hình ảnh Juliane Koepcke trước khi gặp tai nạn máy bay.
Bay được khoảng 30 phút, máy bay đi vào đám mây đen, rất dày. “Những đám mây càng lúc càng đen khiến hành khách trên chuyến bay trở nên hỗn loạn hơn. Sau đó, chúng tôi đang ở giữa những đám mây đen như mực và một cơn bão kèm theo sấm sét”, Juliane nói. “Xung quanh chúng tôi tối đen như mực và có sấm chớp liên tục. Sau đó, tôi thấy một ánh sáng lấp lánh ở cánh phải… Động cơ máy bay bị sét đánh trúng”.
Chuyện máy bay bị sét đánh không phải là kỳ lạ nhưng thường thì không có vấn đề nào quá nghiêm trọng xảy ra. Vậy mà, lần này, có một vấn đề lớn.
“Ngay sau khi phần cánh gặp sự cố, chiếc máy bay đã bị xé toạc, phần lớn là do chiếc máy bay loại Electra mà chúng ngồi trên đó không được chế tạo để bay trong vùng nhiễu động nặng, do đặc điểm đôi cánh của nó”, Juliane cho biết.
Trái ngược với thông tin được đăng tải trên truyền thông, Juliane khẳng định rằng cánh máy bay “chắc chắn không phát nổ”. Đúng hơn thì chiếc máy bay chỉ đơn giản là bị vỡ một miếng sau khi cánh rơi ra.
Những lời cuối cùng mà Juliane nghe từ mẹ mình là khi sét đánh vào cánh. Sau đó, Juliane bị đẩy ra khỏi máy bay và rơi ở độ cao khoảng hơn 3.000 mét xuống khu rừng nhiệt đới rậm rạp của Peru, trong tình trạng vẫn được dây an toàn siết chặt vào ghế.
Juliane kể lại giây phút Tử thần cận kề: “Tôi nghe thấy tiếng động cơ cực kỳ lớn và mọi người la hét và sau đó máy bay rơi rất nhanh. Và sau đó là không khí yên tĩnh – cực kỳ tĩnh lặng so với tiếng ồn ào trước đó. Tôi chỉ nghe thấy tiếng gió bên tai. Tôi vẫn còn ngồi trên chiếc ghế. Mẹ tôi và người đàn ông ngồi cạnh lối đi trên máy bay đều bị đẩy ra khỏi chỗ ngồi. Tôi đã rơi tự do, đó là những gì tôi nhớ rất rõ. Tôi thậm chí còn đủ tỉnh táo để nhận ra bên dưới là khu rừng – sau này tôi mô tả nó giống như cây súp lơ xanh. Sau đó, tôi bất tỉnh và tới ngày hôm sau thì tỉnh lại”.
Điều kỳ diệu không tưởng
Juliane trở thành người sống sót duy nhất trong chuyến bay mang số hiệu Lansa 508 khi ấy, tất cả 91 hành khách khác và phi hành đoàn thiệt mạng. Không biết chính xác yếu tố nào đã giúp Juliane sống sót nhưng một số người suy đoán rằng chiếc ghế khiến Juliane xoay như một chiếc trực thăng, và sau đó giúp cô hạ cánh nhẹ nhàng nhờ rơi vào khu rừng rậm nhiều tán cây. Trên thực tế, bản thân đệm ngồi của chiếc ghế cũng có thể đóng một vai trò nhỏ.
Dù là gì đi nữa, trong khoảng hơn 19 giờ tiếp theo, Juliane mất dần ý thức và tại một thời điểm nào đó mà cô không biết, cô đã cố gắng tháo dây ra khỏi ghế và chui xuống gầm ghế, cô nghĩ đó là một phản ứng với mưa.
Cuối cùng, vào lúc 9 giờ sáng, cô bắt đầu tỉnh táo và có phần bàng hoàng khi nhận ra tình hình của mình. Juliane nằm trên mặt đất, chỉ mặc một chiếc váy ngắn không tay và cũng chẳng có dép hay cặp kính.
Khi ấy, Juliane không nhận ra tất cả vết thương của mình nhưng quả thực cô đã sống sót một cách thần kỳ sau cú ngã với một xương quai xanh bị gãy; chấn thương đứt dây chằng chéo trước; một bên mắt sưng húp nhắm nghiền; mao mạch trong mắt bị bung ra (do sự giảm áp nhanh chóng từ máy bay); một đốt sống cổ của cô ấy bị ảnh hưởng; một phần ống chân bị gãy; và một số vết thương sâu trên tay và chân.
Bản năng sinh tồn mãnh liệt
Juliane đã mất nửa ngày để có thể đứng mà không bị choáng váng, nhưng cuối cùng cô đã xoay xở được và việc đầu tiên cô làm là bắt đầu tìm kiếm mẹ rồi sau đó bỏ cuộc. Tuy nhiên, trong quá trình tìm kiếm mẹ, Juliane đã tìm thấy một túi kẹo, đó là thức ăn duy nhất mà cô có trong suốt cuộc hành trình của mình, và quan trọng hơn là có một con suối. Cha của Juliane đã từng cho cô một lời khuyên rất hữu ích rằng nếu cô bị lạc trong khu rừng nhiệt đới và bắt gặp một con suối hoặc con sông, cô nên đi theo nó về phía hạ lưu; bởi vì mọi người có xu hướng sinh sống ở gần khu vực có nước.
Nghĩ vậy, Juliane lên đường. Juliane hiểu rõ rằng rắn đặc biệt thích nằm ngụy trang dưới những chiếc lá khô, vì vậy khi đi qua đoạn không có nước, cô dùng chiếc giày ném về phía trước để kiểm tra xem có rắn hoặc các vật cản trở khác không (Juliane không thể nhìn rõ do thiếu kính). Juliane nghĩ lội dưới nước càng nhiều càng tốt, vì nó dễ đi hơn là đi qua những tán lá rậm rạp. Tất nhiên, vẫn có mối nguy hiểm tiềm ẩn.
Trong vòng vài ngày, Juliane bắt đầu nghe thấy tiếng kền kền vua xung quanh mình, âm thanh mà cô nhận ra khi sống tại trạm nghiên cứu của cha mẹ mình một năm rưỡi trước đó, chỉ cách nơi máy bay rơi khoảng 48km. Bởi vì kền kền vua thường chỉ hạ cánh khi có xác chết xung quanh, cô ấy đoán rằng chắc chắn phải có xác chết. Vào ngày thứ 4, Juliane cuối cùng đã phát hiện ra 3 hành khách khác đã tử vong trong tư thế đầu cúi xuống đất, tay vẫn nắm chặt vào ghế.
![]() |
“Mắt tôi lúc đó mờ lắm nên không nhìn thấy rõ. Tôi chỉ nhìn thấy bàn chân của họ chổng ngược lên. Tôi dùng một cây gậy chọc vào họ, tôi không dám chạm tay vào. Tôi không ngửi thấy mùi xác chết phân hủy. Ý tôi là, chắc chắn, sự phân hủy hẳn đã bắt đầu, nhưng tôi không thể ngửi thấy. Tôi có thể biết đó là một phụ nữ bởi vì cô ấy có móng chân bóng bẩy và 2 người còn lại chắc hẳn là hai người đàn ông, dựa vào đặc điểm quần và giày của họ. Sau đó tôi bước tiếp, nhưng trong giây phút đầu tiên khi tìm thấy họ, tôi giống như bị tê liệt”, Juliane kể.
Trong quá trình di chuyển, một số vết thương của Juliane bị nhiễm trùng và một vết thương lớn trên cánh tay phải của cô bắt đầu xuất hiện giòi. Đây là điều mà cô đã từng chứng kiến xảy ra với con chó của mình trước đây, và cả kết cục đau đớn thảm hại của nó. Dù cố gắng hết sức, Juliane vẫn không thể lấy được giòi ra ngoài vì chúng đã nằm quá sâu trong vết thương.
![]() |
Vào ngày thứ 10, Juliane tình cờ gặp một chiếc thuyền, mà lúc này, cô vẫn nghĩ đó là một ảo ảnh cho đến khi cô đến gần và chạm vào nó. Bên cạnh chiếc thuyền là một con đường, cô đã bò lên (lúc này rất yếu nên việc đi lên con đường hơi khó khăn). Cuối con đường là một túp lều nhỏ có một thợ săn đang sống ở đó. Nhưng lúc đó thợ săn đi vắng, Juliane tìm thấy một động cơ và một ít nhiên liệu diesel trong cái thùng.
Juliane dùng một cái ống để hút một ít nhiên liệu trong thùng ra và đắp lên vết thương bị giòi bọ của mình, điều mà cha cô đã làm với con chó của cô, mặc dù bằng dầu hỏa. Mặc dù cực kỳ đau đớn, nhưng nó thực sự hiệu quả và hầu hết những con giòi, ban đầu cố gắng chui sâu hơn vào cánh tay của cô, cuối cùng đã nổi lên bề mặt và cô có thể gắp chúng ra.
Sau đó, Juliane nằm ngủ trong túp lều, nhưng thấy nền đất quá cứng nên cô quay trở lại bờ sông và nằm trên cát. Ngày hôm sau, Juliane thức dậy và nghe thấy tiếng ếch nhái xung quanh mình, cô cố gắng bắt một số con để ăn. May mắn cho Juliane là cô đã không bắt được con nào vì chúng là những con ếch phi tiêu độc. Tại thời điểm này, Juliane đang phân vân về việc có nên đi thuyền hay không, điều mà cô không muốn làm như ăn trộm, nhưng cuối cùng cô quyết định qua đêm tại túp lều.
Nhưng cuối cùng thì Juliane cũng không phải ngủ một mình. 3 người đàn ông vừa ra khỏi rừng thì nhìn thấy cô gái. Ban đầu, họ còn tưởng cô là “Yemanjá”, một loại thủy thần tóc vàng, da nhợt nhạt.
Juliane giải thích những gì đã xảy ra, cách cô đến được đó, và may mắn là họ cũng đã nghe nói về vụ tai nạn máy bay, vì vậy đã chấp nhận câu chuyện của cô gái. Sau đó, họ cho Juliane ăn và chăm sóc vết thương cho cô tốt nhất có thể và đưa cô về phía hạ lưu trong khoảng bảy giờ đi thuyền.
Khi đến đó, một phi công địa phương biết một số nhà truyền giáo gần đó đang điều hành một bệnh viện ở Pucuallpa. Phi công đã đưa Juliane đi viện sau 15 phút bay. Chỉ 1 sau khi được giải cứu, cô đã được đoàn tụ với cha mình.
Sau đó, Juliane đã giúp lực lượng chức năng tìm kiếm xác định vị trí xảy ra vụ tai nạn. Vào ngày 12 tháng 1, họ cuối cùng đã phát hiện ra thi thể của mẹ cô. Giống như Juliane, mẹ của cô dường như đã sống sót sau cú ngã. Tuy nhiên, những vết thương của bà khiến bà không thể di chuyển rồi tử vong vài ngày sau đó.
Juliane giờ đây được biết đến với cái tên Juliane Diller, đã có bằng Tiến sĩ về Động vật học và là thủ thư tại Bộ sưu tập Động vật học Bang Bacarian ở Munich.
Cuốn tự truyện của cô mang tên “When I Fell From The Sky” (“Als ich vom Himmel fiel”) được phát hành vào ngày 10 tháng 3 năm 2011 và cô đã nhận được Giải thưởng Văn học Corine.
From: TU-PHUNG
















