TÌNH YÊU BẤT TỬ

Những Câu Chuyện Thú Vị – Ncctv.net

Hoàng Huyền  

TÌNH YÊU BẤT TỬ

Câu chuyện xảy ra ở một bệnh viện nhỏ ở vùng quê hẻo lánh. Ở khoa hóa trị có một phụ nữ trẻ đang trong giai đoạn cuối của căn bệnh ung thư. Tuy luôn bị những cơn đau hành hạ nhưng chưa bao giờ người phụ nữ ấy quên trao cho chúng tôi một nụ cười biết ơn sau những lần điều trị. Những khi chồng cô tới thăm, mắt cô rạng ngời hạnh phúc.

Đó là một người đàn ông đẹp trai, lịch thiệp và cũng thân thiện như vợ mình. Tôi rất ngưỡng mộ chuyện tình của họ. Hằng ngày anh mang đến cho cô những bó hoa tươi thắm cùng nụ cười rạng rỡ, anh đến bên giường nắm lấy tay cô và trò chuyện. Những lúc quá đau đớn, cô khóc và trở nên cáu gắt, anh ôm chặt cô vào lòng, an ủi động viên cho đến khi cơn đau dịu đi. Anh luôn bên cô mỗi khi cô cần, anh giúp cô uống từng ngụm nước và không quên vuốt nhẹ đôi chân mày của cô. Mỗi đêm, trước khi ra về anh luôn đóng cửa để hai người có những giây phút bên nhau. Khi anh đi, chúng tôi thấy cô ấy đã ngủ say mà trên môi vẫn phảng phất nét cười.

Nhưng đêm ấy mọi chuyện đã thay đổi. Khi nhìn vào bảng theo dõi, kết quả cho thấy người vợ trẻ ấy sẽ không qua khỏi đêm nay. Mặc dù rất buồn nhưng tôi biết đó là cách tốt nhất cho cô ấy, từ nay cô sẽ không chịu những cơn đau thêm nữa.

Để bảng theo dõi trên bàn, tôi muốn đến phòng bệnh. Khi tôi bước vào phòng, cô mở mắt nhìn tôi hé môi cười một cách yếu ớt, nhưng hơi thở của cô nghe thật khó nhọc. Chồng cô ngồi bên cô mỉm cười nói: “Cho đến bây giờ món quà tuyệt vời nhất tôi dành cho cô ấy chính là tình yêu của tôi”.

Và tôi đã khóc khi nghe điều đó, tôi nói nếu họ cần bất cứ điều gì thì đừng ngại. Và đêm ấy cô đã ra đi trong vòng tay người chồng yêu dấu. Tôi không biết làm gì hơn ngoài việc cố an ủi và chia sẻ nỗi đau này cùng chồng cô. Với khuôn mặt đẫm nước mắt, anh nghẹn ngào: “Xin hãy cho tôi ở bên cô ấy thêm một lúc”.

Bỗng nhiên từ trong phòng vọng ra một giọng hát trầm ấm mà tôi chưa từng được nghe. Không chỉ riêng tôi mà tất cả mọi người đều bị cuốn hút bởi giọng hát của anh khi anh cất lời bài “Beautiful brown eyes”. Rồi giai điệu khúc ca nhỏ dần, anh mở cửa gọi tôi đến, nhìn sâu vào mắt tôi, ôm chầm lấy tôi rồi nói: “Tôi đã hát bài này mỗi đêm cho cô ấy nghe kể từ ngày chúng tôi quen nhau. Mọi ngày tôi vẫn thường cố giữ cho giọng mình thật nhỏ để khỏi làm phiền bệnh nhân khác. Và tôi chắc rằng đêm nay trên thiên đường cô ấy cũng vẫn nghe tôi hát. Tôi xin lỗi đã quấy rầy mọi người. Tôi chỉ không biết sống ra sao khi thiếu vắng cô ấy, nhưng mỗi đêm tôi vẫn tiếp tục hát. Chị có nghĩ rằng cô ấy nghe thấy tiếng tôi không?”.

Tôi khẽ gật đầu mà nước mắt vẫn tuôn. Anh ôm tôi một lần nữa và cảm ơn tôi cùng tất cả mọi người. Đoạn anh quay bước, cúi đầu khẽ huýt sáo giai điệu thân quen.

Khi anh bước đi, tôi nhìn theo, thầm cầu nguyện cho cô ấy, cho anh và cho tôi một ngày nào đó cũng tìm được một tình yêu như thế.

St

May be an image of prairie gentian, rose and indoor

Bố Ơi Con Đã Hiểu Rồi…

 May be an image of 2 people and text that says 'Há»i bé, thích rạ khỏi nhà vì ở nhà chán lắm. Lớn lên, lại thích quay về nhà vì ngoài đời chán lắm.'

Bố Ơi Con Đã Hiểu Rồi…

Mình không thích nói về cái nghèo, nhưng phải công nhận là khi còn nghèo đói, hầu như con cái nhà nào cũng ngoan ngoãn, biết nhường nhịn, đùm bọc lẫn nhau. Rất lạ.

Trẻ con bây giờ được ăn ngon, mặc đẹp. Vậy nhưng xem ra chúng rất ích kỷ, lười biếng, thậm chí vô cảm và hiếm khi nghe lời. Mình không vơ đũa cả nắm, nhưng dám chắc có nhiều gia đình rơi vào hoàn cảnh này.

Trong nhà, mình cố gắng làm gương để con cái noi theo, như dậy sớm, tập thể dục, gấp chăn gối gọn gàng, giúp vợ làm vài việc vặt như đổ rác, phơi quần áo, quét nhà, nhặt rau, và nhắc trẻ làm theo.

Làm gương mãi nhưng không đứa nào chịu học theo. Đứa đang nghỉ hè thì ngủ đến gần trưa. Đứa đi làm thì giờ làm là 8h30, gần 8h00 mới dậy. Nó ăn uống vội vàng rồi ra đi, không làm tý việc nhà nào. Những khi mình nhắc nhở, vốn rất chiều con nên vợ mình thường im lặng, thành ra con cái vẫn cứ nghĩ là chúng cứ như thế là đúng, còn mình thì xem ra…quá đáng (!).

Nhắc bao nhiêu cũng chẳng ăn thua. Khi kể lại chuyện thời còn bé mình phải chịu khó chịu khổ thế nào, tự lực cánh sinh ra sao để “giáo hóa” thì chúng nó “dẹp” ngay, bảo thời nay khác, thời xưa khác, bố kể để làm gì?.

Một hôm, sau một thời gian dài nói mãi không được, mình quyết định “phát xít” hơn, chuyển từ “khuyến khích” sang “bắt buộc”. Mình gọi đứa đã đi làm dậy sớm hơn và bảo, bố đã nhắc nhở con nhiều lần chuyện không dậy muộn quá, gấp chăn gối, quần áo gọn gàng rồi tập thể dục hoặc giúp mẹ vài việc vặt, nhưng con không nghe. Hôm nay nếu không thực hiện, bố không đồng ý cho con đi làm.

Trước sức ép, con bé gượng làm được vài bữa rồi đâu lại vào đó.

Tiếp theo, mình lại bảo vợ rằng con đã có lương, phải đóng tiền cơm cho mẹ, mỗi tháng một triệu. Vợ mình can, bảo nhà có thiếu gì lắm sao bắt con đóng tiền. Mình nói chỗ tiền đó thấm gì, chỉ là hình thức, nhưng để cho con hiểu được trách nhiệm.

Mấy hôm sau, khi đi tập thể dục về, thấy vợ mếu máo, con nó bảo bố “độc tài” quá, cứ đòi hỏi làm những thứ mà thanh niên bây giờ không đứa nào muốn làm (!), rồi lại còn bắt đóng tiền ăn, coi nó như…người ngoài. Nó thấy bị mất tự do (!), quá nên đã xách vali ra ngoài ở trọ với bạn bè rồi…

Mình bảo em cứ bình tĩnh. Những việc anh bảo nó làm đều muốn tốt cho nó thôi, không có bất cứ điều gì quá đáng cả. Mình không yêu cầu nó ra ngoài ở mà nó tự đi, thì cứ để nó đi, chắc chắn nó sẽ học được nhiểu điều bổ ích…

Hai tháng trôi qua. Thỉnh thoảng ngồi buồn, vợ lại càu nhàu, anh đúng là thô bạo quá, cả nhà đang vui, lại sinh chuyện để con bỏ đi, con nó còn dại, có làm sao lại khổ. Bị vợ than phiền nhiều, có lúc mình cũng tự hỏi hay là mình thô bạo thật?

Khi đứa lớn bỏ đi, vì được chiều từ nhỏ nên đứa bé và vợ mình bỗng dưng trở thành “một phe” riêng và mình trở nên lạc lõng. Có hôm vì quá lo lắng cho con và giận mình, vợ còn bắt ra nằm sofa cho bõ tức!

Thế rồi một hôm, mình vừa đi tập thể dục về thì thấy hai mẹ con đang thủ thỉ với nhau ở phòng trong. Bên cạnh là cái…vali to tướng. Mình đã đoán ra được sự việc, nhưng để giữ thể diện cho con, mình không nói gì.

Gần tới bữa cơm, biết không thể tránh được, con gái mới chạy ra xin lỗi mình, nước mắt ngắn, dài nói rằng con đã hiểu sai về những yêu cầu của bố, đó chỉ là những yêu cầu tối thiểu, làm được dễ dàng. Việc ở riêng không đơn giản chút nào. Khi ở nhà, con được phục vụ đầy đủ “một cách tự động” thì cứ nghĩ là chuyện thường.

Ra ở riêng không tự làm thì chẳng có cái gì hết. Không nấu, không có cơm ăn. Không giặt, hết quần áo mặc. Nước lọc không đun không có mà uống. Tất cả những việc đó con chưa được chuẩn bị để sẵn sàng…

Mình bảo thôi con không cần giải thích nhiều đâu. Con thử nói một câu ngắn gọn xem nào. Nó bảo, bây giờ con mới hiểu được câu mà bố nhắc nhở. Đó là “cho đến trước 18 tuổi thì con nghĩ là con khôn hơn bố, đến 25 tuổi thì con thấy bố cũng chỉ…khôn bằng con, và đến 30 tuổi con mới nhận ra rằng bố…khôn hơn con”.

Mình bảo câu này có phải của bố đâu, nhưng bố rất mừng vì con đã nhận ra được điều đó sớm hơn nhiều so với mong đợi.

Trong không khí trầm lắng của cả nhà, có lẽ mình là người vui nhất, một niềm vui khó tả!

Đang nằm sofa và mải nghĩ về những chuyện vừa xẩy ra thì có tiếng thì thào của vợ, đi ngủ thôi anh, muộn rồi. Hôm nay trời nóng, em…bật điều hòa nhé!

Lượm trên mang…

Câu truyện một con chó

Câu truyện một con chó

Có một lần, tôi gọi taxi để đưa con chó đi khám bệnh. Vì con chó ho rất nặng tiếng nên gây chú ý đến người tài xế. Anh ta quay lại hỏi: “con chó bị cảm lạnh à?”

Tôi đáp: “Đúng vậy, nó ho liên tục từ hôm qua đến giờ.”

Người tài xế thở dài hỏi:”Chà, sao ho giống người vậy.”

Rồi anh ta bắt đầu câu chuyện. Anh ta kể về những trải nghiệm đau khổ khi anh ta nuôi con chó của mình. Nhiều năm trước đây, anh ta nuôi một con chó berger. Nó có thân hình cao lớn, ăn rất khỏe, tiếng sủa của nó rất vang.

Một hôm, anh cảm thấy mình không còn đủ sức để nuôi nó, anh cho nó vào bao tải và chở đi vứt.

Vì sợ nó quay về nhà, anh đã lái xe đến một vùng núi cách nhà hơn 100km rồi thả nó ở đó.. Sau khi thả con chó, anh lái xe thật nhanh, con chó đuổi theo mấy cây số rồi biến mất.

Một tuần lễ sau, vào lúc nửa đêm anh nghe ngoài cửa có tiếng lạch cach. Mở cửa ra nhìn thì hóa ra con chó quay về. Thân hình của nó gầy còm, dáng vẻ bối rối, rõ ràng là nó đã trải qua một thời gian tìm kiếm khá lâu.

Tuy rất ngạc nhiên nhưng anh ta chẳng nói câu nào, lẳng lặng vào trong nhà lấy ra một chiếc bao tải và cho con chó vào, vứt nó đi một lần nữa.

Lần này anh đi theo đường quốc lộ số 1. Dọc đường đi anh nghe thấy tiếng con chó khóc thúc thít. Khi đến nơi, anh ta mở chiếc bao tải ra, thì thấy toàn là máu.

Ở khóe miệng của con chó, máu vẫn tiếp tục trào ra. Anh dùng tay banh miệng con chó ra thì thấy lưỡi nó đã đứt làm đôi. Hóa ra con chó đã cắn lưỡi tự tử.

Khi người tài xế kể xong chuyện, một không khí im lặng lạ thường bao trùm chiếc xe. Từ chiếc kính chiếu hậu, tôi nhìn thấy khóe mắt của anh ta đỏ lên.

Một lát sau, anh ta mới nói: “Mỗi lần nhìn thấy chó của người khác, tôi đều nhớ đến con chó đã cắn lưỡi tự tử của tôi. Sự việc này khiến cho tôi đau khổ suốt cả một đời. Tôi không phải con người. Tôi không phải con chó.”

Nghe xong câu chuyện của người tài xế, trước mắt tôi như hiện ra cảnh tượng: con chó ấy chạy lang thang giữa núi sâu, giữa những cánh đồng hoang, giữa những thành phố ngoại ô. Để trở về nhà gặp lại chủ nhân, nó đã chạy hàng trăm cây số. Khó khăn lắm mới tìm được đường về nhà, vậy mà chủ nhân không những không mở cửa, không một lời động viên nào còn lập tức vứt nó đi lần nữa.

Đây là một cú sốc lớn chừng nào đối với một con chó trung thành và tình nghĩa. Để khỏi bị chối bỏ lần nữa, con chó đã tự kết liễu đời mình.

Người tài xế kể tiếp. Anh đã mang con chó về chôn cất ở trong vườn, thường xuyên cầu nguyện cho nó. Vậy mà đến nay anh vẫn chưa gạt bỏ được nỗi ân hận trong lòng. Vì thế anh thề rằng, phải kể cho những người nuôi chó nghe câu chuyện này, khuyên mọi người hãy yêu quý con chó của mình nhiều hơn.

Anh hy vọng việc này sẽ giúp anh chuộc lại phần nào tội lỗi của mình.

Một con chó có tình có nghĩa nhưng lại bị vứt bỏ một cách vô tình, điều này khiến cho người tài xế đau khổ suốt cả cuộc đời.

Chó còn như thế huống hồ là con người.

Khi ai đó bỏ mặc một người có tình có nghĩa, liệu anh ta có thể sống yên ổn suốt cả cuộc đời hay không?

Với những kẻ làm cha làm mẹ chối bỏ con cái mình, với những kẻ làm con nhưng lại bỏ mặc cha mẹ tuổi già sức yếu thì tội ác lớn biết chừng nào.

Khoai Lang Sưu tầm.

From: Do Tan Hung & KimBằng Nguyễn

 HIẾU THẢO

May be an image of sculpture, outdoors and monument

 HIẾU THẢO

Sưu tầm

Có một ông gần 70 tuổi, góa vợ. Ông có năm người con hiếu thảo và sống rất hòa thuận với nhau. Đứa nào cũng có gia đình riêng khá giả và thành đạt. Ông rất hài lòng, tin tưởng, tự hào về con cái mình.

Xét thấy tuổi cao sức yếu, ông muốn chia toàn bộ gia sản cho con cái để chúng có thêm điều kiện phát triển cơ nghiệp. Ông nghĩ con mình ngoan, hiếu thảo thì mình sống với bất cứ đứa nào cũng tốt.

Căn nhà đang ở, giao cho vợ chồng đứa út và ông sống cùng nó.

Phần tài sản lớn được chia gần như đều nhau cho các con.

Được vài tháng, không khí trong nhà trở nên ngột ngạt. Vợ chồng nó hay xì xào điều gì mà ánh mắt không mấy thiện cảm. Vợ nó hay đụng thúng đá nia, chửi chó mắng mèo những chuyện đâu đâu làm ông nghe, cảm thấy chạnh lòng. Vợ chồng nó thường xuyên cãi nhau, ai cũng trở nên nóng nảy. Con vợ la to: của cải chia đều mà mình phải nuôi ổng thật là không công bằng.

Ông buồn, bỏ sang ở với vợ chồng thằng thứ hai, con thứ ba, thằng thứ tư, con thứ năm, mỗi nhà cũng chỉ được vài tuần là có chuyện.

Chúng hành xử như thể ông là người ở đậu, là của nợ. Chúng họp nhau căng thẳng phân chia nhiệm vụ nuôi báo cô ông. Chúng bốc thăm theo tháng, đứa trúng tháng 2 (28 ngày) cười vui vẻ, đứa trúng tháng 31 ngày, méo mặt. Cứ đến chiều cuối tháng, chúng đẩy ông ra cổng. Ông ôm bọc quần áo, ngồi chờ mấy tiếng đồng hồ, đứa kế mới đến đón.

Quá buồn và thất vọng, ông hay ngồi trước mộ bà, nước mắt chảy dài, chỉ biết tâm sự cùng với bà cho khuây khỏa, trông mong một ngày sẽ đi cùng bà, được sống mãi những tháng ngày hạnh phúc và kiếp sau không mong có những đứa con này.

Thấy tình cảnh bi đát của ông, bạn ông (cũng khá giàu có) tổ chức một bữa tiệc, mời tất cả 5 người con của ông đến dự. Trong men say là đà, ông rỉ tai từng đứa, dẫn đến căn phòng kín, chỉ vào chiếc rương to với nhiều ổ khóa và nói: đây là một nửa gia sản của ba tụi con gửi và ủy quyền cho chú, sau này sẽ chia cho tụi con. Di chúc đã lập chỉ chờ điền % cho từng đứa vào là xong.

Lạ thay, ngày hôm đó chúng tranh nhau chăm sóc ông, đứa nào cũng muốn ông ở với nó. Tình thương đối với cha lai láng còn hơn lúc trước khi chia tài sản.

Ông hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, cảm động rơi nước mắt và nghĩ: đây mới chính là những đứa con thân yêu, những dâu hiền, rể thảo của mình.

Ông được sống những ngày tháng hạnh phúc nhất cuộc đời mình.

Thời gian màu hồng cứ thế trôi đi thêm hơn mười năm nữa thì ông ngã bệnh, tiên lượng không qua khỏi trong vài ngày tới.

Chúng khóc lóc, nắm tay cha không nỡ buông ra, giây phút âm dương chia biệt ngậm ngùi.

Chiếc rương được bạn ông tức tốc chở đến đám tang và được đặt trịnh trọng cạnh quan tài, dưới hàng chục ánh mắt đau đáu nhìn vào.

Tang lễ được cử hành trang trọng, đầy tốn kém, phần mộ uy nghi bên cạnh mộ bà và ước nguyện theo bà của ông cũng đã thành.

Sau phần tang lễ là chiếc rương được chúng nhanh chóng bật nắp mà trong lòng ai cũng hy vọng mình được phần lớn trong di chúc do công chăm sóc, tình thương và hiếu thảo của mình với cha. Nắp rương được mở… một rương đầy cát, một tờ di chúc với nét chữ thân thuộc xiêu vẹo và chữ ký của cha:

CHỈ CÓ NHỮNG KẺ NGỐC MỚI CHIA HẾT GIA TÀI CHO CON MÌNH KHI CÒN SỐNG.

Nguồn Tuấn Mai Sai gòn

Tâm sự người về hưu

Van Pham

Tạo hóa tạo dựng nên muôn loài … Loài nào cũng thương yêu, chăm sóc và nuôi dưỡng con cái trưởng thành (trừ Tu Hú), rồi sau đó để chúng tự lập. Chúng vẫn tiếp tục sinh sôi nẩy nở thế hệ này tiếp diễn thế hệ khác.

Riêng con người tự ru ngủ mình bằng “tình thương con cháu” rồi ôm lấy chúng làm như không có mình chúng không khôn lớn được. Để rồi than van, kể khổ hoặc đời người chỉ biết quanh quẩn trong bốn bức tường & con với cháu?!

*****

Tâm sự người về hưu.

Ông Minh khi đi tị nạn tới Úc thì đã bốn mươi tuổi đời, cái tuổi mà theo người Âu Mỹ là cái tuổi khởi đầu cho công danh sự nghiệp nên cũng không muộn màng lắm đối với một kẻ tị nạn bắt đầu làm lại cuộc đời nơi xứ người như ông. Sau hai mươi lăm năm trời, một phần tư thế kỷ làm việc trả nợ công dân góp phần xây dựng nước Úc, ông về hưu lúc sáu mươi lăm, đúng tuổi hưu trí mà chính phủ đã quy định cho tất cả mọi người dân.

Trước ngày ông thôi việc, nhân viên làm lương tính sổ cho ông thấy ông còn dư tới 146 ngày sick leave (nghỉ bệnh) và ba tháng holiday cộng thêm long service leave (nghỉ thâm niên ba tháng) vị chi là sáu tháng. Theo lụât công đoàn, “sick leave” hằng năm không lấy thì kể như bỏ, chỉ có holiday mới được để dồn năm này qua năm nọ nghỉ chừng nào cũng được.

Vì vậy khi lãnh tiền hưu trí, ông không được lãnh khoản tiền sick leave, bạn bè tiếc hùi hụi cho ông, nói sao lúc đi làm ông không kiếm bệnh để nghỉ, bây giờ không lấy được đồng nào thiệt uổng. Ông Minh nói trời thương cho tôi không bị bệnh là có phước rồi, khi không khai bệnh lấy ngày nghỉ ở nhà chơi thấy quấy lương tâm quá, chừng nào bệnh thiệt hẳn hay. Một con người có bản tính ngay lành chân chỉ như ông vậy dĩ nhiên là không thích ăn không ngồi rồi bởi vì “nhàn cư vi” có ngày sẽ sinh “bất thiện”.

Do đó, trước khi nghỉ làm, ông cứ băn khoăn lo lắng cho thời gian sắp tới ở nhà không có việc gì làm chắc sẽ trở thành bất đắc chí buốn chán sanh tật họăc phát điên lên được. Ông đi kiếm mấy người quen đã về hưu trước mình hỏi thăm coi họ làm gì để đốt thời gian cho hết khoảng đời còn lại. Nghĩ cũng trớ trêu buồn cười thật. Người đi làm thì học hỏi kinh nghiệm là phải, đằng này về hưu cũng phải tìm người vấn kế thọ giáo để noi theo. Khổ thiệt!

Có người bày cho ông Minh đi làm việc thiện nguyện giúp đời tùy theo khả năng và sức khỏe của mình. Có người thì nói:

– Gắn cái internet chơi đi, rất hữu ích, mọi chuyện trên thế giới đều thu gọn trong đó, biết bao nhiêu chuyện cho mình học hỏi nghiên cứu. Còn không thì đi thư viện mượn sách về đọc, nếu có hứng thì dịch bài tiếng Anh gởi đăng báo cho vui. Ôi! Thiếu gì công chuyện, lo gì. Sợ là sợ làm biếng không chịu làm, chớ muốn làm thì biết bao chuyện để làm.

Có người lại cho ý:

– Ông từ trong bộ ra, đã rành rẽ đường đi nước bước như trong lòng bàn tay, hay là mở một văn phòng di trú tư làm chủ, “có ăn’’ lắm đó, nhất là ông được nhiều người biết đến, chắc người ta sẽ ủng hộ ông lắm.

Ông Minh cười lắc đầu nói:

– Tôi “có ăn’’ đủ quá rồi nên giờ đây muốn nghỉ. Nếu muốn làm thì tôi vẫn có thể làm tới bảy mươi. Big boss tôi hỏi mà tôi từ chối đây nè, tội gì lại đút đầu vô nữa cho thêm mệt. Tôi hòng ra khỏi chớ chẳng mong bước vào. Làm cho nhiều chết cũng có mang theo được đâu. Ở nhà hủ hỉ với vợ con cho ấm tuổi già. Từ khi qua Úc tới giờ tôi chưa có dẫn bả đi chơi đâu hết. Cứ lo làm không hà. Tội nghiệp bả cũng không đòi hỏi phàn nàn gì.

Tại tánh ông Minh hay lo xa sợ hờ như vậy chớ ông có hai thằng cháu ngọai, một thằng mới sanh và một thằng một tuổi rưởi. Rồi đây ông mặc sức mà bận rộn bù đầu thở không kịp chớ vợ con đâu dễ gì cho ông ở không mà ông sợ thất nghiệp.

Và cuối cùng thì ngày hưu cũng tới với ông. Ông gác bút, “sayonara” đồng nghiệp bạn bè một đi không trở lại. Về phụ bà xã babysit hai thằng cháu cho con cho rể đi làm. Tưởng đâu out of work thì sẽ có nhiều giờ rảnh rỗi lắm, ai dè nghỉ ở nhà rồi ông mới biết trong nhà ông cái gì cũng có nhưng kiếm không ra chữ “nhàn”.

Bây giờ ông bận tối mặt tối mũi vì công việc nhiều gấp mấy lúc đi làm. Ông chẳng khác nào một Mister Mom, rành sáu câu công việc chăm sóc baby như thay tã, cho bú, bồng bế, hát ru vv…

Mỗi khi cho bú xong bình sữa, ông còn biết ẵm đứng thằng nhỏ lên vuốt vuốt lưng cho tới khi nó ợ được một cái cho tiêu thì mới để nó xuống nằm chơi hay trườn, bò, lăn lết gì đó mặc sức chớ không “ợ” thì một hồi sau nó sẽ ọc sữa tùm lum.

Mỗi khi phải chở bà xã và hai thằng cháu ra ngoài đi shopping hay đi công chuyện, ông đều mặc cái quần cargo kaki sáu túi, hai túi trước, hai túi sau và hai túi hai bên đầu gối. Ông “cụ bị” nào là bình sữa, bình nước, “tù và’’ (núm vú cao su), khăn giấy, mobile phone, chìa khóa xe, chìa khóa nhà… Lung tung như là một anh biệt kích commando trong tư thế sẵn sàng ứng chiến. Có khác chăng là cảm tử quân người ta trang bị vũ khí súng ống, lựu đạn cay, hơi ngạt, dao găm, dây nhợ, vv… Còn ông thì trang bị baby stuff và toys đầy mình.

Người quen nào tình cờ gặp lại ông chắc không tránh khỏi ngạc nhiên lẫn buồn cười không ngờ ông “xuống đời” tới như vậy bởi vì:

Ngày nào cà vạt sơ mi

Bây giờ quần thợ kaki loàng xoàng

Ngày nào cặp táp đường hoàng

Bây giờ bao bị đẩy pram lè phè

Nhưng đối với ông thì ông rất happy với cái job giữ cháu này vì hồi xưa có con, ông bận đi làm suốt, không mấy khi có thời gian enjoy con cái như bây giờ. Về hưu có cháu, hằng ngày được theo dõi mọi biến chuyển của chúng từ tiếng cười tiếng nói bi bô tới những bước chân chập chững đầu tiên té lên té xuống. Hoặc đến khi bọn chúng lên ba lên bốn, ông thường xuyên phải chơi puzzle, leggo hay làm batman, superman, transformer đấu với bọn chúng, ông cảm thấy thích thú làm sao!

Con nít ở xứ giàu có văn minh thật là sung sướng, hồi ông cỡ tuổi bọn chúng bây giờ, quê hương ông giặc giã chiến tranh triền miên, cái ăn còn khó lọ là cái chơi. Ông chỉ có một món đồ chơi duy nhứt là một con trâu được nắn bằng đất sét mà ông đã mừng rỡ đi khoe đầu trên xóm dưới cùng làng.

Khi bọn chúng tới tuổi đi học, ông lại thêm cái job đưa rước hai cháu đến trường. Job này có thời khóa biểu hẳn hoi đúng giờ đúng khắc nhất định cho nên ông càng alert như nhà binh.

Từ ngày bút gác việc thôi

Thân tôi như thể thiên lôi xuống trần

Sớm mai rửa mặt ra sân

Quơ qua quơ lại giãn gân tỉnh người

Rồi vô uống tách sữa tươi

Dông xe ra tiệm mua bao bánh mì

Qua nhà con gái liền khi

Đưa con đưa rể tức thì xuống ga

Chở hai thằng cháu về nhà

Bà cho ăn sáng ông đưa đến trường

Sau khi chở vợ shopping

Về nhà đọc báo xem tin nghe đài

Ăn trưa quấy quá sơ sài

Ra vườn thơ thẩn rồi vào nghỉ lưng

Độ hai giờ rưỡi khoảng chừng

Chạy đi rước cháu về trông tới chiều

Chờ khi điện thoại reo kêu

Ba ơi ra rước, con yêu tới rồi

Cơm chiều chuẩn bị xong xuôi

Cháu, cơm, con, rể về đầy một xe

Đó là mục chánh chủ đề

Còn bao nhiêu chuyện nhiêu khê bên lề

Ngày hơn chục bận đi, về

Chạy xuôi chạy ngược tứ bề gần xa

Lại thêm giúp vợ chuyện nhà

Để bà được chút gọi là xả hơi

Việc nhà là việc chẳng ngơi

Trăm công ngàn việc vừa vơi lại đầy

Giúp cho bà đỡ hao gầy

Kẻo bà đi trước còn ai sớm chiều….

Ngày tháng dần trôi, năm nay hai thằng cháu ngọai ông đã học lớp hai và lớp ba nên đi học về đứa nào cũng có homework (bài làm ở nhà). Ông Minh lại có cơ hội trở về nghề cũ là thầy giáo, dạy kèm hai cháu, chỉ khác là hồi xưa ông dạy lớp tú tài, bây giờ dạy con nít, nhất là hai thằng cháu cưng nên rất khó dạy vì bụt nhà không linh.

Mỗi lần kêu làm homework là ông cháu có cái màn kèo nài trả giá. Cháu thì xin chơi game một chút trước, còn ông thì nói làm bài trước rồi mới được chơi sau. Hai thằng cháu mè nheo mãi rốt cuộc bà phải làm trọng tài phân xử:

– Thôi mới đi học về mà bắt học nữa học sao vô. Cho tụi nó ăn snack (ăn lót bụng), uống nước, nghỉ ngơi coi TV nửa giờ rồi mới học. Học xong thì cho chơi game trong lúc chờ ba má tụi nó về.

Bọn nhỏ nghe vậy thì OK ngay nhưng cũng không bỏ được cái tật được cưng chìu dể ngươi cho nên vừa làm bài vừa chơi, lát lát vẽ bậy vẽ bạ lên giấy họăc khều móc rồi thụi nhau hay có khi làm biếng nằm dài trên bàn làm ông ngoại cứ phải la rầy không ngớt.

Suốt một buổi chiều từ 2 giờ rưỡi cho tới khi ba má bọn chúng về, ông Minh mệt bở hơi với tụi nhỏ; nhiều khi ông phải nhờ bà xã ông kèm một thằng phụ ông. Mà bà xã ông thì đa đoan công chuyện, buông cái này bắt cái kia không hở tay, vừa nấu nướng vừa dọn rửa lau chùi, rồi phải vô hộp sẵn cho con cháu take away mang về ăn chiều, lại phải vừa dòm chừng hai thằng nhỏ không biết lúc nào bọn nó nổi điên đánh nhau chí mạng. Thằng em thì cắc cớ hay chọc cho thằng anh đổ quạu rượt đánh xà ngầu cho đã nư, mà khổ nỗi hai thằng là võ sinh Karate nên nhiều lúc bà ngọai nhào vô can bị bọn nó xuất chiêu té nhào.

Chiều tối sau khi giao trả tụi nhỏ cho ba má chúng, về nhà ăn tối xong thì đã hơn tám giờ. Ông còn giúp bà xã ông hút bụi lau nhà, coi như vừa exersice cho tiêu cơm vừa làm sạch nhà cửa theo thói quen. Sau đó ông ra sau vườn đi tới đi lui nửa giờ tĩnh tâm cầu nguyện, trong lúc bà xã ông chạy đi tắm thì “lội” vô internet coi email. Cứ như vậy ngày này qua ngày nọ, ba cái tạp chí tiếng Anh như Time Magazine hay National Geographic ông đặt mua chất đống cao nghều nghệu mà còn không có thời giờ mở cái bao ra để coi cái tựa nữa nói chi tới chuyện dịch bài. Bây giờ thì ông mới thấy buồn cười cho sự lo lắng thái quá của ông trước kia.

Nỗi băn khoăn của ông trước kia đã có câu giải đáp và bao nhiêu dự tính thực hiện trước khi về hưu giờ đây đã không còn cần thiết hay ý nghĩa gì nữa mà quan trọng nhất đối với ông là hai thằng cháu ngọai yêu quý, niềm vui tuổi già. Không biết lớn lên chút nữa, rời khỏi vòng tay ông để theo chân bạn bè hay lăn vào đời sống, bọn chúng có còn biết tới ông không; nhưng chẳng hề gì, xưa nay nước mắt chảy xuôi, tình thương miễn được trao ra là đã mãn nguyện rồi. Có được đáp lại hay không cũng không cần thiết.

Ông giờ tuổi đã bảy mươi

Còn cháu chỉ mới tuổi mười mà thôi

Cách hơn nửa thế kỷ đời

Cháu cười răng ngọc ông cười răng long

Răng long chẳng phải răng rồng

Mà vì sắp rụng sắp xong kiếp này

Tóc xanh cháu dệt tương lai

Còn ông tóc trắng chờ ngày ra đi

Ra đi ông chẳng để gì

Chỉ mong hai cháu nhớ ghi một điều

Đừng nên tham lắm muốn nhiều

Hãy vui biết đủ những gì trời ban

Ông thương hai cháu vô vàn

Quý như bảo vật trời ban đời này

Đời ông công chức thẳng ngay

Làm lành tích đức để mai cháu nhờ

Cuộc đời hung hiểm không ngờ

Có cây phước đức sẵn chờ chở che

Dù mưa dù nắng không e

Tai qua nạn khỏi thuận ghe xuôi đường

Đời người biết mấy nhiễu nhương

Cầu cho hai cháu trọn đường bình an

“Bình an’’ lời Chúa chúc ban

Bình an thể xác bình an tinh thần

Bấy nhiêu đã đủ phước phần

Để mà vững bước vững tâm vào đời

Gia tài ông chỉ mấy lời

Dù bao phú quý ơn trời vẫn hơn

Bây giờ nếu có ai hỏi ông chớ “out of work” (hết việc làm) ở nhà có buồn chán không thì ông sẽ cười tít mắt nói rằng: “Có rảnh chút nào đâu mà buồn, lo mấy thằng cháu, chăm sóc vườn tược và phụ chút chuyện nhà với bà xã đã hết ngày, không có giờ nghỉ lấy đâu mà chán. Nếu mình đừng nghĩ đến mình nhiều quá mà hãy nghĩ tới những người thân của mình đang rất cần mình thì sẽ thấy mình cũng còn hữu dụng lắm chớ chưa phải “hết xài’’ đâu.

Ông cứ hưu trí đi rồi sẽ biết”.

Nửa đời trả nợ công dân

Tháng năm còn lại đỡ đần cháu con

Một mai nằm xuống yên lòng

Gia đình xã hội không còn nợ ai… chán…!

Nhờ DNA, một ông tìm được mẹ Việt và cha Mỹ sau 50 năm

TÌM MUA THƯỢNG ĐẾ

TÌM MUA THƯỢNG ĐẾ

Bạn hãy dành vài phút đi tìm mua Thượng Đế nhé.

– Chú ơi, ở đây có bán Thượng Đế không?

Người chủ cửa hàng trợn mắt quát:

– Đi chỗ khác chơi, con nít quỷ…

Cậu bé Bonnie trạc 5, 6 tuổi, đi khắp các cửa hàng để tìm mua Thượng Đế trong nhiều tiếng đồng hồ, nhưng đều bị những người lớn quát mắng và đuổi đi…

Đến một cửa hàng thứ 29, cậu bé cũng hỏi người bán hàng câu hỏi đó. Lần này Bonnie được ông chủ 60 tuổi, gương mặt hiền lành, ân cần lắng nghe và hỏi han:

– Con muốn mua Thượng Đế thiệt sao? Nhưng nói cho ông biết là con mua để làm gì?

Cậu bé chảy nước mắt, trả lời:

– Dạ, Chú Rupp của con bị tai nạn, đang hôn mê sắp chết trong bệnh viện, mà bác sỹ nói “Chỉ có Thượng Đế mới có thể cứu được chú”, nên… con đi tìm mua Thượng Đế về để cứu chú của con.

– Ba mẹ con đâu? Ông lão chau mày hỏi.

– Dạ, ba mẹ con chết hết rồi, con chỉ có chú Rupp thôi.

Người đàn ông dừng lại trong cảm xúc và hiểu vấn đề, ông chùng lòng suy tư… rồi hỏi tiếp:

– Con sẽ mua Thượng Đế bằng cái gì?

– Dạ, con chỉ có 1 đô la thôi… Bonnie thút thít, lo sợ.

Ông chủ gật gù, suy nghĩ chút rồi ông cầm lấy 1 đô la của cậu bé đi vào trong.

Chút sau ông bước trở ra với một lọ nước trên tay có dán dòng chữ “Nụ hôn của Thượng Đế” và đưa cho Bonnie.

– May mắn là giá của Thượng Đế cũng chỉ có 1 đô la. Con mang chai nước này về cho chú uống. Ông hy vọng chú Rupp của con sớm hết bệnh.

– Dạ, con cám ơn ông.

Thằng bé cầm chai nước chạy nhanh ra khỏi cửa tiệm. Ông chủ nhìn theo, đôi mắt ông đỏ hoe…

Bonnie chạy nhanh vô phòng bệnh của bệnh viện, mừng rỡ nói:

– Chú Rupp ơi con mang Thượng Đế về cho chú nè…

Mấy ngày sau, một nhóm bác sỹ chuyên khoa trình độ cao đã đến bệnh viện. Họ đã sử dụng kỹ thuật tiên tiến nhất để điều trị cho chú Rupp…

Sau nhiều tuần điều trị, điều kỳ diệu đã xãy ra. Chú Rupp của Bonnie đã hồi phục hoàn toàn… Khi biết được tổng số tiền viện phí trên hóa đơn, chú Rupp gần như ngất xỉu…

Nhưng phía bệnh viện đã nói với chú rằng:

– Anh đừng lo vì đã có một người đến thanh toán tất cả viện phí cho anh rồi. Ông ấy là một tỷ phú về hưu và mở cửa hàng tạp hóa bán cho vui qua ngày… Nhóm chuyên gia y học cũng do ông bỏ ra một số tiền lớn tiền để thuê đến đây trị bịnh cho anh đó…

Chú Rupp cảm động rơi nước mắt…

Bonnie dẫn chú Rupp đến gặp người đàn ông để tạ ơn thì biết ông đã đóng cửa tiệm và đi xa…

Thời gian sau, chú Rupp nhận được một lá thư ở nước ngoài gửi về từ người ân nhân đó:

“Anh Rupp, anh thật may mắn có đứa cháu trai Bonnie. Vì muốn cứu anh, cháu đã cầm 1 đô la đi khắp nơi để tìm mua Thượng Đế… Anh hãy cám ơn Thượng Đế, vì chính Thượng Đế đã cứu tính mạng của anh…

Đọc xong, chú Rupp cúi mặt khóc, những giọt nước mắt như thay lời cảm tạ…

Nhiều năm sau, cậu bé Bonnie lớn lên và trở thành bác sỹ.

Nhớ về câu chuyện năm xưa, Bonnie quyết tâm sống đẹp và giúp tất cả mọi người với những gì anh có thể cũng để thay lời tạ ơn đến Thương Đế và người ân nhân đó, người đã gieo vào lòng anh một đức tin về cái tốt, cái đẹp, đức tin vào Thượng Đế…

Tình yêu và lòng bao dung của Thượng Đế hiện diện trong lòng người là chân lý vĩnh hằng…

From: TU-PHUNG

TRÁI TÁO CỦA STEVE JOBS

TRÁI TÁO CỦA STEVE JOBS

Nguyễn Trần Diệu Hương

Cuộc đời của thiên tài Steve Jobs ngừng ở tuổi 56 để lại tiếc thương cho cả triệu người khắp thế giới. Đóng góp của ông cho khoa học đã tạo cảm hứng cho họa sĩ Gudjonsson vẽ hình ông cầm trái táo đứng trước cửa thiên đường kèm theo lời chú thích: “Có ba trái táo trong lịch sử của nhân loại: trái táo của ông Adam, trái táo của ông Newton và trái táo của ông Jobs.”

Courtesy of Artist Sigudur Gudjonsson and www.bostonherald.com 

Trái táo của ông Adam, trong lãnh vực tôn giáo, là một hình tượng so sánh nhiều hơn là hình ảnh của những trái táo xanh, đỏ, vàng bán ở chợ. Trái táo của ông Newton lẫy lừng trong lịch sử khoa học, là một trái táo thật tròn trĩnh, -rớt từ trên cây xuống ngay trước mặt nhà bác học-, đẻ ra lực hút của trái đất cùng nhiều định luật vật lý  đóng góp cho mọi ngành khoa học, đặc biệt là kỹ nghệ hàng không, và thám hiểm không gian. 

Trái táo, bị cắn mất  một miếng,của ông Jobs thì rất thật và rất gần với đời sống của nhân loại cuối thế kỷ 20, đầu thế kỳ 21, là logo của Công Ty Apple, luôn nằm ở một góc những sản phẩm kỹ thuật của Công ty này.

Máy personal computer (PC) Apple 2 được giới thiệu ở thị trường tiêu thụ Mỹ cuối năm 1977, khi những người Việt Nam tị nạn đầu tiên vẫn còn bỡ ngỡ ở một môi trường sống mới. Những em bé Việt Nam đến trường học Mỹ cuối thập niên 70s là những người Việt Nam đầu tiên quen thuộc với hình ảnh trái táo có màu sắc cầu vòng – bị cắn lẹm mất một miếng ở bên trên – ở góc trái của cái computer Apple 2 vuông vức nằm chễm chệ trong phòng Science Lab của trường. Nhiều trong số em bé Việt Nam năm đó, về sau đã trở thành những kỹ sư computer giòi cả về cả hai mặt software và hardware, thầm lặng góp phần “behind the scene” cho các sản phẩm kỹ thuật càng ngày càng thon nhỏ, tối tân hơn.

***

Khi tôi xách cái túi nylon của Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc đặt chân đến Mỹ, cuộc chiến kỹ thuật và thương mại giữa IBM và Macintosh (sản phẩm của Công Ty Apple) đã đến hồi quyết liệt mà phần thắng có vẻ nghiêng về IBM. Doanh số bán máy computer Macintosh kém xa mức dự đoán. Rất thực dụng kiểu Mỹ, không tình nghĩa, Ban Điều hành của Apple, Inc.  đẩy ông Steve Jobs ra khỏi Công ty do chính ông (cùng một người bạn thời Trung học là Steve Wozniak) góp phần xây dựng nên vì lý do IBM hấp dẫn người  mua hơn là Macintosh. Nhiều người bỏ xó, hoặc cho Macintosh để quay qua mua PC của IBM về sử dụng.  Sức bán của Apple 2 thua xa doanh số của IBM. Lúc đó là vào cuối thập niên 80s, một cái Apple 2 (tên gọi thông thường là Macintosh PC để phân biệt với IBM Computer) vào khoảng một ngàn ba trăm dollars.

Thời đó, computer labs ờ các trường Đại học có hai bên: một bên là IBM Computers, một bên là Apple Computers. Máy personal computer (PC) còn đắt tiền nên đa số sinh viên phải vô lab để làm bài tập vì không có PC ở nhà. Thường thì nếu muốn dùng computer IBM phải chờ đợi, nhưng nếu dùng Macintosh thì lúc nào cũng có máy trống. Thấy rõ điều đó, nhà trường mở rộng IBM section, và thu hẹp Apple section. Ai vào lab thường xuyên đều thấy computer của IBM thắng thế rõ rệt so với Macintosh.  Đó có lẽ cũng là lý do mà sau thất bại của máy điện toán cá nhân Apple 3, Công ty Apple ngừng sản xuất computer, quay qua sản xuất các notebook, và iphone.

Ba “tài sản quý giá” đầu tiên ở Mỹ của một người tị nạn như tôi lúc đó là: cái xe Toyota Celica cũ đã 12 tuổi màu nâu (để làm chân đi học, đi làm), một cái TV mới 13 inches (để improve cách phát âm tiếng Mỹ), và một cái PC cũ có logo trái táo với màu sắc cầu vồng nằm trong cái khung vuông vức, mà mãi về sau, tôi mới biết đó là Apple 2, một trong những công trình tim óc  của  hai thiên tài cùng mang tên Steve (Jobs và Wozniak).

Một người bạn, là một người di tản buồn từ tháng 4/75, mua một cái IBM PC mới, thấy tôi mới khởi đầu vào College với hai bàn tay trắng, không có ba mẹ bên cạnh nâng đỡ; cần làm bài tập nhiều, anh cho tôi  cái computer cũ Apple 2. Khỏi nói  nỗi vui mừng của một người mới vào College có được một cái desktop computer làm của riêng ờ vào cuối thập niên 80. tôi quý Apple 2 ngang với cái Toyota Celica mười hai tuổi mua bằng cả tháng lương đầu tiên của mình. 

Mãi về sau, sau này, dù đã được sử dụng và làm chủ 3 hay 4 computers cùng lúc, dù luôn luôn thích IBM hơn Macintosh, tôi không nỡ đem cho, hay quăng đi cái Apple 2 cũ kỹ. Không chỉ vì đó là tài sản vô giá của tôi trong những ngày đầu lưu lạc quê người, đó là món quà tình nghĩa quý báu, mà còn vì Apple 2 có hình trái táo cắn dở với màu sắc cầu vồng cho tôi niềm tin muôn màu ở quê hương thứ hai.

***

Khả năng thư pháp học được từ một semester duy nhất ở Đại học của Steve Jobs và khả năng tiềm ẩn về hội họa của ông đã làm Apple 2 thành một công cụ không thể thiếu trong công việc của những người làm việc trong lãnh vực graphic design, vẽ kỹ thuật.

Nhưng những người dùng computer trong thương mại hay như một cái kho lưu trữ tư liệu cần thiết thì mê IBM hơn. Do vậy không ngạc nhiên khi Apple không thể nào sánh được với IBM trong doanh số tiêu thụ. Thất bại này như  “một viên gạch  mà cuộc đời liệng thẳng vào mặt” Steve Jobs như ông tự thú trong trong diễn văn nói chuyện với các sinh viên trường Đại học tư Stanford ở thành phố Palo Alto, quê nhà của ông.  Có lẽ đó cũng là lý do mà Macintosh computers chỉ có Apple 1, Apple 2, mãi mãi dừng lại ở Apple 3 non trẻ chết sớm, mà không bao giờ có Apple 4 tiếp  nối.

Apple 1 được tạo nên bởi Jobs và Steve Wozniak, một người bạn lớn hơn từ thời Trung học, cùng có đam mê phát minh máy móc như Steve Jobs. Hai ông Steve, cách nhau 5 tuổi, người nhỏ chững chạc hơn, người lớn hồn nhiên hơn số tuổi của mình, cùng đam mê sáng tạo khoa học, nên trở thành một teamwork bình đẳng rất hữu hiệu. Hai chàng trẻ tuổi thông minh, cùng bỏ học ở năm đầu Đại học, cần cù làm việc vì đam mê ngay trong phòng của ông Jobs (lúc đó vẫn còn ở chung với cha mẹ nuôi).  Những linh kiện điện tử (single circuit board. microprocessor) – được mua từ tiền bán chiếc xe Volkswagen Van cũ của Jobs, và cái máy tính điện tử scientific calculator HP 65 của Wozniak-, càng ngày càng nhiều đầy căn chung cư một phòng của ông Wozniak ở San Jose, đầy phòng của ông Jobs ờ Los Altos, California , rồi  lấn chiếm cả garage của cha mẹ ông Jobs. Chiếc máy điện toán cá nhân được hoàn thành, ông Steve lớn (Wozniak) là người thiết kế, viết thảo chương điện toán, và trực tiếp ráp nối với sự góp ý và giúp sức của ông Steve nhỏ (Jobs), được đặt tên là Apple 1. Nhưng việc bán chiếc máy ra thị trường và lập nên Công ty Điện toán Apple năm 1976 là ý của ông Steve nhỏ.  Ông Wozniak có đầu óc của một nhà phát minh, sự thông minh của một nhà toán học, nhưng người nhìn xa hơn và mang tham vọng đem kỹ thuật nâng cao đời sống nhân loại, nói theo cách của người Mỹ là “think outside the box”, là ông Jobs, người có tham vọng tạo thay đổi, tạo tiến bộ trong đời sống con người.

Steve Jobs and Steve Wozniak in the early 70s (Courtesy of  theguardian.com

Họ cùng là sáng lập viên của Công ty kỹ thuật Apple, cái tên đến từ thói quen thích ăn táo, và từng một thời đi giúp người ta hái táo từ một trang trại ở địa phương của ông Steve nhỏ.  Steve Jobs thích tên “Apple”(trong 4 cái tên cả hai ông Steve nghĩ là sẽ dùng làm tên gọi cho Công ty mới thành lập của mình) vì Apple là tên một loại trái cây, đơn giản, dễ nhớ, và sẽ được xếp trong mẫu tự A đầu tiên trong danh bạ điện thoại. 

Công ty có tên là Apple thì logo phải là một trái táo, nhưng hình vẽ trái táo được thu nhỏ lại hơi giống hình trái cà chua hay trái cherry. Táo phải là táo, rõ ràng và chính xác, không thể lẫn lộn với cà chua hay cherry được. Thế là logo mang hình trái táo bị cắn mất một miếng rất sắc gọn, để chắc chắn là không ai có thể lầm lẫn đó là trái cà chua.  Hầu hết mọi thứ đều là ý kiến của ông Jobs. Ông Wozniak chỉ tập trung vào kỹ thuật và các thảo chương điện toán.

Dĩ nhiên ông Jobs cũng phải làm luôn công việc marketing trong những ngày Apple, Inc. còn là một em bé sơ sinh, chưa ai biết đến. Ông đem sản phẩm đầu tay – máy computer cá nhân Apple 1 hãy còn thô sơ- ra tiếp cận người tiêu thụ bằng cách mở cửa garage nhà cha mẹ nuôi, mời vợ chồng nhà hàng xóm bên kia đường qua giới thiệu. Cũng trạc tuổi cha mẹ nuôi của Steve Jobs, ông bà cụ hàng xóm không biết Steve là:

” Chàng tuổi trẻ vốn dòng… nổi loạn,

xếp bút nghiên theo việc… phiêu lưu”

Ở nhà đối diện đã past được test dành cho các học sinh lớp 10 từ hồi còn là một cậu bé ở lớp 4. Họ lại càng không biết thiên tài còn “chiêu mộ” được một thiên tài khác (the other Steve- Wozniak) cùng chế tạo ra một cái máy điện toán cá nhân đầu tiên nên không chịu phí thì giờ bước qua bên kia đường.

Steve Jobs không phải là người chịu thất bại dễ dàng. Ông ngồi xuống bên cạnh hai người hàng xóm, khôn ngoan đánh đòn tâm lý vào cả ông lẫn bà:

 – Cái máy có thể giúp bác gái cùng những người thích nấu ăn giữ được tất cả recipes nấu ăn mà không cần phải dùng đến những tờ giấy viết tay sắp trong mấy cái hộp giấy. Vừa tiện lợi, vừa ngăn nắp khi cần tìm là có ngay.

– Cái máy có thể giúp bác trai theo dõi kết quả các trận đấu thể thao dễ dàng hơn và có thể giữ đầy đủ số liệu và sự nghiệp của từng cầu thủ hay từng đội mà bác yêu thích từ năm này qua năm khác mà không bao giờ bị lẫn lộn.

– Cái máy được đặt tên là Apple Computer.

Hai người hàng xóm trạc tuổi cha mẹ Steve nghe xuôi tai, mềm lòng cất bước sang garage nhà hàng xóm nghe hai ông Steve thay phiên nhau thuyết trình về cấu trúc của Apple 1 như đang thuyết trình trước các kỹ sư điện tử. Hai nhà phát minh trẻ hào hứng nói về công trình của mình và những ích lợi Apple 1 cung cấp cho đời sống hàng ngày. Ông bà hàng xóm nghe như là “vịt nghe sấm” nhưng mặt mày bà hớn hở vì tưởng tượng việc bếp núc của mình sẽ dễ dàng hơn, không phải dùng kính lúp săm soi tìm từng cái recipe chữ nhỏ lấm lem dầu mỡ. Ánh mắt ông rạng rỡ niềm vui khi hình dung ra cảnh sẽ “nói có sách mách có chứng” về các kết quả thi đấu thể thao mà không phải gân cổ lên to tiếng với các cổ động viên của đội tuyển đối phương.

Childhood family home of Steve Jobs on Crist Drive in Los Altos, California that served as the original site of Apple Computer. It’s  one of historic Los Altos sites in 2013. (Courtesy of mercurynews.com. October 29, 2013)

Và như thế, Apple 1 “ra mắt” người tiêu dùng không kèn, không trống, không ai biết ngoài hai người phát minh trong độ tuổi 20 và hai người hàng xóm đứng tuổi trong một cái garage cũ ở vùng Los Altos, miền Bắc California vào April Fools’ Day, tháng 4 năm 1976. Rất đơn giản nhưng không phải là chuyện “đang giỡn” của ngày April Fool’s Day – “cá tháng tư” – mà là ngày khai sinh của đại công ty Apple lẫy lừng khắp thế giới sau này.

Mặc dù không bán được Apple 1 cho ông bà hàng xóm ở nhà đối diện. Jobs học được bài học marketing thực tế và đã cùng Woz (tên gọi ông Steve lớn) bán được vài trăm computer Apple 1 cho các tiệm bán hàng quanh Mountain View, Los Altos, và Palo Alto bằng cách cổ điển như các em hướng đạo gõ cửa từng nhà bán bánh kẹo gây quỹ. Phát minh đầu tiên hãy còn thô sơ và nhiều khuyết điểm nhưng điều vui nhất và khá thành công là không có cái Apple 1 nào bị trả lại.

Phải đến lúc computer Apple 2 ra đời vào năm 1977 thì logo trái táo mới trở thành một biểu tượng chính thức luôn luôn xuất hiện trên các sản phẩm của Công ty. Logo đầu tiên là một trái táo với 6 màu sắc khác nhau, phản ảnh Apple 2 là máy điện toán cá nhân đầu tiên có thể in ra giấy với 6 màu sắc rõ nét.

Về sau, sau này, Apple 2, Lisa, Mac… hay các sản phẩm điện thoại càng ngày càng nhỏ và có đủ chức năng của máy chụp hình, computer, nối kết với Internet do Apple, Inc. sản xuất, logo vẫn là trái táo cắn dở nhưng nhỏ hơn và thường là màu đen hay màu bạc. Hình như trái táo cắn dở vẫn có hình thù như ngày đầu tiên nhưng màu sắc khác nhau và không còn rực rỡ màu sắc cầu vồng của thuở ban đầu vì “cha đẻ ra trái táo kỹ thuật” đã bắt đầu đi vào giai đoạn thứ ba trong chu kỳ “sinh. lão, bệnh, tử” của đời người vào đầu thế kỷ 21.

 

 

 

 

 

Logo các sản phẩm kỹ thuật của Cty Apple

Cũng vì bệnh ung thư, không còn sức khỏe để làm việc, ông Jobs phải nghỉ dài hạn. Thời gian đó, khi chưa phải là “thường trú nhân” của bệnh viện, ông có thì giờ thực hiện thú tiêu khiển của mình – đi bộ – quanh thành phố Palo Alto, nơi ông ở. Ông thường lái xe đến trường Stanford, lúc nào cũng “đóng bộ” trong  cái quần Jeans Levi’s bạc phếch và cái áo thun cổ cao màu đen, đi quanh quẩn trong campus của ngôi trường Đại học tư đẹp nổi tiếng cả thế giới. Lúc nào mệt, ông ngồi nghỉ trên những băng đá, có khi ngồi bệt dưới một bóng cây, đôi khi mắt nhắm lại tập trung thiền định trong thế giới tĩnh lặng của riêng ông. Sinh viên qua lại, thảng hoặc quan sát người đàn ông gầy yếu, xanh xao. Tuyệt nhiên không ai  nhìn ra đó là Steve Jobs.

Những lúc đó, ông nghĩ về cuộc đời, tự hỏi nếu ông được nuôi dưỡng trong một gia đình giàu có, dư dả để đóng học phí rất cao cho trường Đại học tư Reed College ở Oregon thì chắc là ông sẽ trở thành một nhà Toán học. Ông cũng nghĩ nếu khỏi bệnh, ông sẽ rút ngắn bớt giờ làm việc, thu xếp đi học lại, mặc dù có thể phải đi học dưới một cái tên khác để tránh bị chú ý và mất thì giờ không cần thiết như Steve Wozniak đã làm ở UC Berkeley hơn 20 năm trước.

Những tháng cuối đời, lúc đời sống chỉ còn tính bằng tuần trên mười đầu ngón tay, thân thể mất dần sinh lực, mong manh như một chiếc lá khô sắp lìa cành, thỉnh thoảng ông Jobs vẫn tự lái chiếc xe Mercedes thể thao hai cửa đi làm, đậu ở khu vực sát cửa vào cho người tàn tật mặc dù không có giấy phép.  Ông đi xe Mercedes không phải vì muốn chứng tỏ mình thành công, giàu có mà vì ông rất ngưỡng mộ nhà bác học người Đức Albert Einstein và mê luôn các loại xe do nước Đức sản xuất. Lúc đó, ông Jobs không còn sức khỏe để đi bộ những khoảng cách dài mà cũng có thể thiên tài cho là quy luật dành cho người bình thường không thể áp dụng với mình. Cái xe của ông không hề có bảng số xe từ cả chục năm nay. Vì ông vốn thích sống khép kín, để không ai có thể nhận ra mình.  Dĩ nhiên ông thừa thông minh (và dư tiền) cứ sáu tháng đổi xe một lần để có thể lái xe không có bảng số như luật định cho phép. Cẩn thận như thế, thêm vào đó, bệnh ung thư ở giai đoạn cuối tàn phá cơ thể thiên tài. Bề ngoài của ông Jobs suy sụp nhanh chóng. Ít người nhận ra đó là một khuôn mặt lớn, quen thuộc, một vài lần xuất hiện trên trang bìa các tạp chí khoa học và cả trên  bìa trước của tuần báo Time (thường chỉ in hình các lãnh tụ và các danh nhân trên thế giới).

Thế nên có lần khi ông vừa ra khỏi cửa văn phòng, đúng lúc một gia đình du khách đến chụp hình bên cạnh logo trái táo bị cắn mất một miếng ở cổng chính của trụ sở Công ty Apple ở Cupertino, miến Bắc California. Người cha trong gia đình thấy ông đi ngang qua, chìa cái iphone của mình ra, lịch sự yêu cầu:

–  Ông có thể vui lòng giúp chúng tôi chụp một cái hình cho cả gia đình không?

Rõ ràng là họ không nhận ra người đàn ông cao gầy, râu ria tua tủa, mắt trũng sâu trong cái áo thun cổ cao màu đen và chiếc quần jeans bạc màu có một vài lỗ rách là Steve Jobs.

Ông Jobs gật đầu, cầm cái iphone, điều chỉnh màn ảnh, lùi ra xa vài bước, ngắm nghía cẩn thận như một người thợ chụp hình dạo và bấm ngón tay cái khô khốc, thiếu sinh lực của mình lên màn ảnh, mỉm cười trao trả cái iphone có logo quả táo cho chủ nhân rồi lên xe rời Công tỵ Đó cũng là một trong những lần cuối ông Jobs đến Apple, Inc. và có dịp nhìn thấy một trong những đứa con tinh thần của mình đã góp phần làm thay đổi đời sống của con người.

Cả gia đình người du khách cùng hướng mắt vào tấm hình nhỏ trên iphone, trầm trồ khen người chụp hình chụp rất đẹp và rất rành cách sử dụng iphone, không biết là họ vừa có cơ may hiếm có được Giám đốc Apple, Inc. – người góp phần lớn trong việc sáng tạo tất cả các sản phẩm của Apple, kể cả cái iphone của họ, chụp cho họ một tấm hình có thể là đẹp nhất trong đời.

 

Tượng của Steve Jobs ở Budapest -Hungary-Science Park (Courtesy of GlobalPost. December 21, 2011)

Năm 2005, Steve Jobs được mời nói chuyện với cả ngàn sinh viên tốt nghiệp ở sân trường Stanford. Khác với những diễn giả khác ở các lễ ra trường luôn tô hồng cuộc đời trong con mắt vốn dĩ chỉ toàn màu hồng lạc quan và màu xanh hy vọng của các tân khoa, ông Jobs với kinh nghiệm cá nhân, với những điều học được từ giáo lý đạo Phật đã nói rất thẳng và rất thật:

– Bây giờ các bạn còn trẻ và là sức sống mới của xã hội nhưng một ngày nào đó, không xa, các bạn sẽ già và sẽ bị đào thải. Xin lỗi, nhận xét đó có vẽ bi quan nhưng đó là sự thật  Đời sống có giới hạn, đừng phí thời gian. Hãy làm những gì mình thích.

Lời nhắn nhủ khác thường đó như một loại thuốc đắng giã tật đã giúp rất nhiều sinh viên ra trường năm đó nhận ra mình muốn gì, can đảm bỏ con đường thảm đỏ bằng phẳng, thênh thang đã được cha mẹ trài sẵn để bước vào con đường riêng gập ghềnh, khúc khuỷu của mình. Có người vấp ngã, có người thành công nhưng tất cả đều hạnh phúc với lựa chọn của mình như hình ảnh chàng thanh niên Steve Jobs chưa đến 20 năm xưa, bỏ trường Đại học, cùng một người bạn thân  hăm hở vác ba lô đi vòng quanh Ấn Độ (quê hương của Đức Phật Thích Ca) tìm ra chữ “lặng” trong tâm, đóng góp rất nhiều trong các phát minh khoa học kỹ thuật cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21.

Thiên tài có một bộ óc xuất chúng, một tầm nhìn xa về kỹ thuật nhưng ông vẫn là một con người nên cũng có nhiều điểm yếu. Chẳng hạn, khi trở bệnh nặng, phải nằm ở Intensive Care Unit của bệnh viện Stanford, ông Jobs nổi tiếng khó chịu. Bệnh nhân Steve chỉ nghe lời và cộng tác với 3 người y tá trong mấy chục y tá giỏi nhất của bệnh viện. Ông yếu dần, phải đi bằng cái walker và phải cố gắng bằng tất cả sức lực và ý chí còn lại của mình. Những bước chân chập chững đầu đời ông được nâng đỡ bằng bàn tay của mẹ nuôi (bà Clara Jobs) ở sân sau ngôi nhà thời ấu thơ thuộc thành phố nhỏ Los Altos, miền Bắc California. Cuối đời ông lại tập đi với sự trợ lực của cái khung nhôm walker và sự khuyến khích của vợ (bà Laurene Powell) trong khu ICU của bệnh viện Stanford. Đó là lúc ông sắp đi hết vòng tròn sinh tử của đời người.

Thời trẻ có lần ông Jobs nghĩ đến chuyện xuất gia, đi tu và thành một nhà sư trong một ngôi chùa Phật giáo ở Nhật nhưng một vị thiền sư người Nhật mà ông hết lòng ngưỡng mộ đã khuyên ông đi theo con đường kỹ thuật có hiệu quả hơn là con đường tu hành. Cũng chính thiền sư Kobun Chino Otogawa (1938-2002), cố vấn tinh thần của ông Steve, là người tổ chức lễ cưới cho ông Steve và cô Laurene trong một buổi lễ nhỏ giữa núi rừng gần công viên quốc gia Yosemite năm 1991. Lễ cưới của một nhà tỷ phú trẻ, một thiên tài điện toán, không có khách mời, không có áo quần xênh xang, không có hoa lá muôn màu, chỉ có cô dâu và chú rể đứng nghiêm trang nghe những lời giảng về “duyên và nợ” của một thiền sư Phật giáo người Mỹ gốc Nhật hòa vào tiếng chim hót, tiếng suối reo của đất trời thiên nhiên.

Hình như Steve Jobs sinh ra để chỉ hòa hợp với công việc và các sáng tạo kỹ thuật, ông không hòa hợp với con người. Rất nhiều kỹ sư giỏi, có tài từ chối làm việc với ông vì họ không thể chịu được lối làm việc tuyệt đối hoàn hảo và lối nói thẳng chói tai, làm mất lòng người nghe của sáng lập viên công ty Apple.

Khi ông Jobs qua đời, có một vài người bạn trẻ ở độ tuổi ngoài 20 đã ngồi trong hàng ngũ sinh viên ở trường Đại học Stanford năm 2005, say mê nghe ông nói chuyện năm xưa, đặt những ngọn nến hình trái táo bên cạnh di ảnh của thiên tài, thầm cảm ơn ông giúp họ đủ tự tin đi trên con đường mình chọn.

 

Courtesy of artist Paresh Nath/ National Herald (India) — Courtesy of  artist Nik Scott/ Australia

Là một thiên tài về khoa học điện toán, là một thần tượng của cả triệu người mê các sản phẩm IPhone, IPod, IPad, ITunes (chữ I viết tắt cho chữ Internet), các notebook Mac (do chữ Macintosh viết ngắn lại) là một thần tượng của cà triệu em bé và cả rất nhiều, nhiều người lớn mê bộ phim hoạt họa “Toys Story” được thực hiện bằng graphic design trên computer Mac, ông Steve Jobs cũng có nhiều khuyết điểm như bất cứ ai khác. Dù vậy hình ảnh của trái táo đủ màu bị cắn mất một miếng trên các sản phẩm điện tử của thời các máy computers Apple hay trái táo màu đen nhạt hoặc màu bạc trên các loại IPhone, các máy nghe nhạc IPod nối kết được với Internet mãi mãi là một trong những đóng góp lớn nhất của khoa học cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21. Muốn hái hoa hồng nhiều khi người ta phải chịu rướm máu vì những cái gai nhọn trên cành. Mọi người có cơ hội làm việc trực tiếp với ông Jobs đều nhận ra điều đó.

     Courtesy of artist David Fitzsimmons/ Arizona Daily Star

Có rất nhiều điều chẳng bao giờ một người bình thường như chúng tôi có thể bắt chước ông Jobs hoặc có những chọn lựa như ông nhưng chắc chắn là chúng tôi sẽ theo gương ông, sẽ làm được “Simplicity and Focus” (sống đơn giản và tập trung) như thiên tài đã làm và đã yêu cầu tất cả cộng sự viên của mình làm theo.

          Courtesy of AZQuotes

Mỗi một lần lướt ngón tay trỏ trên màn ảnh Iphone tìm số phone hay một dữ liệu nào đó về một người thân quen, tôi vẫn nghĩ đến ông Steve thông minh với một đời sống không dài nhưng đủ để cho ông tạo được một chỗ đứng rất lớn trong lịch sử khoa học điện toán.

Jobs presenting the iPhone 4 in 2010

Mỗi một lần chọn mua những trái táo ngọt ngọt chua chua, đủ màu, tôi cũng sẽ nhớ đến Steve Jobs và trái táo cắn dở của ông.  Có đến gần cả chục loại táo đủ màu bán trong các chợ nhưng không hiểu tại sao loại táo xanh được trồng từ một tiểu bang Tây Bắc nước Mỹ có dán nhãn hiệu Washington với riêng tôi, vẫn gần với trái táo của Công ty Apple nhất . Có thể vì trái táo xanh gắn liền với  màu xanh tươi tốt, hy vọng của rừng thông bạt ngàn ở tiểu bang Oregon nơi ông Jobs đã học và mang thư pháp vào các máy computer của Apple tạo cho chúng ta nhiều kiểu chữ vừa đẹp, vừa rõ ràng. Có lẽ một người đạo Phật, ăn chay từ nhỏ như ông Steve rất thích ăn táo và các thực vật màu xanh. 

Món ăn ông Jobs thích nhất ngoài táo là cà rốt sống. Ông nhai cà rốt mà không cần đến một thứ nước chấm dressing nào như loài thỏ thưởng thức loại thực vật giòn tan màu vàng cam. Chuyện khó tin nhưng có thật là ở giữa một đất nước thừa mứa thức ăn như Mỹ, trong một thời gian rất dài, ông Jobs chỉ ăn táo và một vài loại rau quả mà không đụng đến thịt và các loại thực phẩm khác nên cho đến bây giờ chỉ có mỗi một trái cây duy nhất là trái táo được đi vào lịch sử khoa học kỹ thuật. Sau khi ông Steve qua đời, hẳn là nhiều “tín đồ” của những dụng cụ điện tử cá nhân sẽ thích ăn táo hơn.

Từng đặt chân đến rất nhiều nơi trên thế giới nhưng Steve Jobs luôn gắn bó đời mình với miền Bắc California. Ông sinh ra ở San Francisco, ấu thời và thiếu thời ở Los Altos, thời trung niên cho đến lúc lìa đời, ông sống ở Palo Alto trong một ngôi nhà cổ kính, nhiều cây mà thời sinh tiền, ông vẫn đi thiền hành bằng chân trần dưới những bóng cây.

Ông chọn nơi an nghỉ ngàn đời ở nghĩa trang tư Alta Mesa Memorial Park cũng thuộc thành phố Palo Alto, rất gần ngôi nhà Steve Jobs sống ở giai đoạn cuối đời (một ngôi nhà đơn giản như ý thích của ông). Steve Jobs muốn được an táng ở đây vì muốn được “làm hàng xóm” của những người ông từng ngưỡng mộ: nhà Sử học Thomas A. Bailey, người đồng sáng lập Công Ty Kỹ thuật Hewlett-Packard: David Packard, William Bradford Shockley Jr, người được giải Nobel Vật Lý năm 1956, Frederick Terman (một trong hai người góp phần tạo nên trung tâm kỹ thuật Silicon Valley của Mỹ và của cả thế giới).

Điều khác biệt duy nhất với “hàng xóm miên viễn” là theo ước nguyện của Steve Jobs, mộ bia của ông không khắc tên, để trống.

Để tưởng nhớ ông, Công Ty Apple đã cho xây một hội trường nằm dưới lòng đất (như người sáng lập Apple đã vĩnh viễn an nghỉ trong lòng đất) rộng 167 ngàn square foot (15,514 mét vuông) ở ngay trụ sở của Apple thuộc thành phố Cupertino. Hội trường, rạp hát này được đặt tên là Steve Jobs Theater có 921 ghế được xây dựng với kỹ thuật hiện đại, được khánh thành vào năm 2017, sáu năm sau khi Steve Jobs về với cát bụi.

In courtesy of www.fosterandpartners.com

***

Ngày được tin ông mất, tôi làm một bài thơ ngắn gởi đến rememberingsteve@apple.com  để góp phần tưởng nhớ nhà phát minh ngắn số:

One of the brightest stars of the world just fell.

But everything you did will be with us forever.

Your life doesn’t last long enough as expectation

But your achievement will be a lifetime motivation for youngsters.

Every time I work on my laptop, I’ll think of you.

Heaven will be opened for someone like you.

Surely you will be happy in a better place

Where there is no war, no killing, and illness.

RIP somewhere that is always calm and peaceful.

Million thanks for leaving behind a technical legacy.

Mong vô cùng một ngày nào đó, chúng ta sẽ có một David, Ted, Anthony, William… Nguyễn, Phạm, Lê, Huỳnh… ở Mỹ hay một Pierre, Daniel, Francois, Jean… Trần, Ngô, Đặng, Lý…  ở Pháp hay một Tuấn, Sơn, Minh, Nam… Bùi, Đoàn, Phan, Trương ở Việt Nam… đi tiếp được con đường ông Steve Jobs đã đi. Lúc đó chắc là bưởi Biên Hòa, chôm chôm Long Khánh, măng cụt Lái Thiêu hay nhãn lồng ở Huế sẽ có chỗ đứng trang trọng cạnh bên trái táo cắn dở mà ông Steve Jobs đã vĩnh viễn bỏ lại …

Nguyễn Trần Diệu Hương

(Bài này viết tháng 10 năm 2011, được hiệu đính lại tháng 10 năm 2021 để tưởng nhớ ông Steve Jobs, 10 năm sau ngày ông qua đời OCT 5- 2011)

From: TƯ-PHUNG

(Viết cho H4, H5 – Kính tặng các Thầy Cô dạy Toán thời Trung học của em) 

Mẹ Ơi!

Van Pham

MỘT GÓC SUY TƯ

Mẹ Ơi!

Chồng mất sớm, bà ở vậy nuôi con. Lúc đứa con gái lớn khôn thành danh ở Mỹ, tháng nào cũng gửi về cho bà một lá thư và 200$ tiêu xài.

Hết xuân này đến xuân kia, cô con gái luôn viện cớ này cớ nọ bận bịu không thể về thăm người mẹ thương yêu.

Khi người mẹ mất, cô về làm đám tang rất to nhưng tuyệt nhiên cô không rơi một giọt nước mắt.

Đến khi mở chiếc rương mà bà cụ luôn để ở đầu giường, bỗng cô òa lên khóc nức nở, ôm lấy quan tài mẹ mình hét lên như điên dại: “Mẹ…Mẹ ơi…”

Mọi người quây quanh xem trong chiếc rương có gì. À, thì ra là một xấp những tờ đô-la mới toanh còn buộc dây. Và một mảnh giấy đã úa vàng, viết nguệch ngoạc ít chữ được dán dính lại với tấm hình cô con gái lúc mới lọt lòng:

“Tiền nhiều quá, mẹ xài không hết con à. Mẹ nhớ con lắm, mỗi khi nghe tiếng xe ôm (honda) là mẹ chạy ra. Lần nào cũng không phải là con hết. Số tiền này mẹ để lại cho con, CON ĐỂ DÀNH PHÒNG KHI ĐAU ỐM nghe con.”

Cô con gái đã có tất cả những gì một người phụ nữ hằng mơ ước: tiền, danh vọng, địa vị, chồng con thành đạt.

Nhưng cô đã mất một điều vô cùng thiêng liêng không thể tìm ở đâu được: MẸ ƠI..!

May be an image of 1 person and text

Chuyện để đời

Le Tu Ngoc

Chuyện để đời

Chuyện xảy ra trong buổi lễ tốt nghiệp cho các Bác sĩ ở Anh năm 1920, có sự tham dự của Thủ tướng Anh thời đó. Trong buổi lễ, như thông lệ, trưởng khoa đứng lên chia sẻ kinh nghiệm với những sinh viên mới ra trường. Lần này ông kể về một sự cố đã xảy ra với ông:

“Lần ấy đã quá nửa đêm, tôi nghe thấy tiếng gõ cửa nhà mình. Khi mở ra tôi thấy một phụ nữ lớn tuổi đang hoảng hốt và bà nói với tôi: “Ôi bác sĩ ơi, con tôi đang bệnh rất nghiêm trọng, xin ông hãy cứu nó”!

Tôi vội chạy ra theo bà ta đến nhà họ mà không kịp nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra. Hôm đó là một đêm giông bão và rất lạnh, trời mưa như trút, lái xe rất nguy hiểm nhưng tôi không kịp lo cho mình nữa.

Nhà bà ta ở ngoại ô Luân Đôn, và sau một hành trình khó khăn, chúng tôi mới tìm đến nơi. Bà sống trong một căn phòng nhỏ với con trai. Khi bước vào phòng, tôi thấy cậu bé nằm trên giường kê ở góc phòng và đang rên rỉ vì đau đớn.

Sau khi tôi khám và kê đơn cho đứa trẻ người mẹ đưa cho tôi một ít tiền. Tôi từ chối và nhẹ nhàng nói với bà rằng tôi không thể nhận vì họ cần chúng hơn tôi nhưng tôi sẽ chăm sóc con bà cho đến khi cậu bé khỏe lại. Trưởng khoa kết thúc bài diễn văn bằng câu:

“Đây chính là cách hành nghề y thực sự vì trở thành Bác sĩ tức là đến gần nhất với Lòng Nhân Ái và là một trong những nghề nghiệp gần gũi nhất với Thiên Chúa”!

Ngay khi Bác sĩ trưởng kết thúc bài phát biểu của mình, Thủ tướng đã bước ra khỏi chỗ ngồi và tiến lên bục giảng.

Ông nói với Trưởng khoa: “Hãy cho phép tôi được hôn tay ông. Tôi đã tìm ông suốt hai mươi năm nay vì tôi chính là đứa trẻ mà ông đã cứu trong câu chuyện vừa rồi. Ôi, mẹ tôi sẽ hạnh phúc và yên lòng yên nghỉ. Trước khi lâm chung bà đã tha thiết yêu cầu tôi đi tìm ông để cảm tạ lòng tốt của ông với chúng tôi khi chúng tôi rơi vào cảnh nghèo khổ”.

Đứa trẻ đáng thương ngày nào chính là Sir Lloyd George, người đã trở thành Thủ tướng Anh!

#Gota chia sẻ từ FB Luong Nguyen

***

Ảnh Wikipedia

David Lloyd George

May be an image of 1 person

Yêu tuyệt vời

Yêu tuyệt vời

Khi bà Clavia Novicova mất ở tuổi 94 tại làng Progress (Tiến bộ) vùng Viễn Đông, Nga, tiễn đưa bà chỉ có dăm ba người, không có người thân, không có bạn bè vì tất cả đã từ lâu về bên kia thế giới.

 Chỉ ở Nhật Bản, các hãng truyền hình lớn nhất đã đưa tin đậm: Người vợ Nga của ông Yasaburo đã mất!

 Ở đất nước mặt trời mọc, bà Clavia đã trở thành biểu tượng của tình yêu và sự hy sinh: sống chung 37 năm, bà đã khuyên chồng trở về nước, về với người thân, về với người vợ Nhật đã chờ ông hơn nửa thế kỷ… 

 Clavia và Yasaburo gặp nhau năm 1959 khi cả hai đều trải qua trại tập trung của Stalin. Bà bị kết án 7 năm tù vì tội “hoang phí tài sản XHCN”, còn ông phải 10 năm “bóc lịch” vì là “gián điệp Nhật”. 

Cả hai lại cùng có nỗi đau riêng: bà đã có chồng, sinh con trai và chờ chồng trở về từ mặt trận. Nhưng khi bà bị kết án đưa đi vùng khỉ ho cò gáy là Kolyma thì chồng bà trở về đã lập gia đình khác. Ông cũng không kém bi kịch: sau khi cưới vợ ở Nhật Bản đã cùng vợ trẻ đến sống ở Triều Tiên và ở đó họ sinh 2 con, 1 trai, 1 gái

Vào mùa thu năm 1945, hồng quân Liên Xô tiến vào Triều Tiên, đã bắt gần như tất cả người Nhật và đưa về Liên Xô cải tạo với tội danh “làm gián điệp chống Liên Xô”. Yasaburo ngồi tù cùng Clavia ở gần thành phố Magadan. Khi ông ra tù, người ta lại quên không đưa ông vào danh sách tù binh chiến tranh để trao trả về Nhật. Thêm nữa, ông tuyệt vọng vì cứ nghĩ vợ con mình đã chết  và sợ hãi không biết đi đâu về đâu, nên rốt cục quyết định nhận quốc tịch Liên Xô, đổi tên thành Yakov Ivanovich.

 Họ gặp ngẫu nhiên. Nàng Clavia thấy một người đàn ông gày gò với  khuôn mặt không có nét Nga, mắt thì ngập tràn nỗi buồn mênh mang nên trái tim bỗng thắt lại vì thương cảm. Sau đó, bạn gái bà rủ bà đến sống ở làng Tiến Bộ, vùng Viễn Đông. Bà tạm biệt ông rời đi.

 Yasaburo viết thư cho bà, nài nỉ đến sống cùng bà ở nơi mới. Ban đầu bà từ chối vì sợ liên lụy khi quan hệ với một hàng binh Nhật, nhưng rồi tình yêu đã thắng và họ sống chung gần 40 năm. Ông làm nghề cắt tóc, chụp ảnh và châm cứu, bà thì trồng cà chua, dưa leo, nuôi dê. Cả hai sống cơ hàn, nhưng êm ấm, hạnh phúc. Ông không bao giờ to tiếng với bà, nhưng chỉ tiếc là hai ông bà không có con. 

Bà thổ lộ: “cả vùng không thể kiếm ra người đàn ông thứ hai: không uống rượu 🍷, không hút thuốc lá 🚬”.

 Yasaburo đã mua về 2 cỗ quan tài để nếu có chết cả hai sẽ cùng chết một ngày.

 Khi bắt đầu Cải tổ và tấm màn sắt buông xuống, một người thân đã kể cho các bạn hàng Nhật về một người Nhật kỳ lạ sống với vợ Nga ở làng Tiến Bộ. Họ về Nhật kiếm tìm người thân của ông Yasaburo, tìm thấy em trai ông, con gái ông và sau đó là người vợ Nhật tên là Hisako. Bà Hisako đã từ Triều Tiên về nước và vẫn chung thủy chờ chồng (con trai họ đã mất ở Triều Tiên). Bà hành nghề y tá và cả đời ky cóp đồng lương ít ỏi để xây cho mình và cho người chồng thất lạc một căn nhà nhỏ. Dù không chắc chắn ông còn sống hay đã mất, bà Hisako vẫn để tên chồng là người sở hữu nhà và tài khoản tiền tiết kiệm gửi ngân hàng. Khi tìm ra thì con gái họ đã ngoài 50 tuổi.

 Sau đó, em trai và con gái ông sang Nga đến làng Tiến Bộ khuyên ông về nước, song ông đã từ chối nói với người vợ Nga “anh không bỏ em, em là tất cả với anh”.

 Bà Clavia đã quyết định đưa ông về lại Nhật vì ở đó điều kiện chăm sóc y tế tốt hơn với người già và nhất là thương cảm người vợ Nhật mòn mỏi chờ chồng, mòn mỏi sống với mong ước được thấy lại mặt chồng, được ôm chồng lần cuối… 

 Một mình bà Clavia đã xoay sở làm cho ông hộ chiếu xuất ngoại, tự bà rút tiền tiết kiệm đổi ra đô la mua vé máy bay và chi phí ăn ở, đi lại cho ông… Và lại còn ly dị ông để ở Nhật Bản ông có lương hưu cũng như có quyền sở hữu và thừa kế tài sản.

Tháng 3 năm 1997, bà mãi mãi chia tay với người chồng Nhật. Yasaburo vẫn thường gửi đồ từ Nhật về cho bà, hàng tuần cứ vào thứ bảy ông lại gọi điện thăm bà…

 Sau khi biết được mối tình xuyên biên giới qua báo chí và cả phim tài liệu, truyện ký, người Nhật đã tổ chức quyên góp tiền cho chuyến đi tới Nhật của “bà Clavia”.

 Bà đến Nhật lúc đã ngoài 80 tuổi và lập tức trở thành nữ anh hùng ở đất nước này. Bà gặp người vợ Nhật của ông, cả hai ôm nhau khóc, họ hiểu nhau không cần phiên dịch.

 Sau đó, bà còn 2 lần đến Nhật, lần cuối là có mặt dự ra mắt vở kịch viết dựa trên câu chuyện về mối tình giữa người phụ nữ Nga và một hàng binh Nhật. Ông Yasaburo và bà Hisako đều muốn Clavia ở lại Nhật Bản, song bà đã từ chối vì muốn Yasaburo của mình “được sống đàng hoàng” và bà đã quen với cuộc sống đạm bạc ở Nga.

Hay tin bà mất, chàng Yasaburo lúc đó đã rất yếu viết thư gửi về làng bằng tiếng Nga

 “Clavia! Anh biết em đã mất và nỗi buồn tràn ngập trong anh. Anh đã định gọi điện cho em ngày 30/8 nhưng anh không còn sức. 40 năm sống cùng em ở Nga, em luôn bên anh, chăm sóc cho anh. Cảm ơn em về tất cả. Anh về được Nhật là nhờ những nỗ lực của em. Anh cám ơn em vô ngần. Anh còn nhớ chúng mình đã đóng quan tài cho cả hai. Giá còn sức khỏe, anh đã lao về bên em, ôm chặt em…nhưng anh không còn sức lực. Hãy ngủ ngon, Clavia yêu dấu! 

Yakov của em”

From: TU-PHUNG

Đôi mắt…

Đôi mắt…

Cuối cùng thì Linda Birtish đã hiến tặng toàn bộ cơ thể mình.

Linda là một  giáo viên rất nổi bật, cô nghĩ nếu có thời gian rảnh rỗi, cô sẽ năng vẽ những bức tranh tuyệt đẹp và sáng tác những bài thơ thật hay. Nhưng đến  năm 28 tuổi, cô bắt đầu bị hành hạ bởi những cơn đau đầu dữ dội. Rồi một  ngày nọ, bác sĩ phát hiện một khối u rất to ở trong não của cô. Họ bảo  rằng cơ hội sống sót sau khi phẫu thuật chỉ khoảng hai phần trăm.

Vì  vậy, thay vì phải tiến hành phẫu thuật ngay, các bác sĩ quyết định trì  hoãn thêm sáu tháng nữa.

Hơn ai hết, cô biết rõ mình có năng  khiếu thiên bẩm về hội họa. Vì thế, trong thời gian sáu tháng chờ đợi cơ  hội chiến thắng tử thần, cô lao vào làm thơ và vẽ tranh không mệt mỏi.

Tất cả những bài thơ của cô, trừ duy nhất một bài, đều được đăng trên các tạp chí nổi tiếng.

Tất cả các bức tranh của cô, trừ duy nhất một  bức, đều được đem triển lãm và bán cho rất nhiều người tại một số phòng  tranh danh tiếng.

Cô gửi gắm vào những bức tranh gam màu tươi sáng của  mình một khát vọng sống mãnh liệt, và gieo vào những vần thơ một cách  nhìn lạc quan, cho dù số phận có quay lưng lại với cô.

Sau sáu  tháng dài chờ đợi, Linda cuối cùng cũng được phẫu thuật. Đêm trước ngày  định mệnh ấy, cô quyết định sẽ cho đi tất cả những gì thuộc về mình. Cô  viết một bản “di chúc” rằng nếu chết đi, cô xin được hiến tặng toàn bộ  các bộ phận trên cơ thể mình cho bất kỳ ai đang cần chúng hơn cô.

Rủi  thay, cuộc phẫu thuật thất bại. Thế là đôi mắt của cô được chuyển đến  một ngân hàng mắt ở Bethesda, Maryland, và từ đó chuyển đến cấy ghép cho  một bệnh nhân sống ở tận vùng phía Nam Carolina. Và một chàng thanh  niên 28 tuổi mù lòa đã có thể nhìn thấy được.

Người thanh niên  và cả gia đình anh ấy đều rất đỗi vui mừng, anh gởi đến ngân hàng mắt  một lá thư cảm ơn vì đã giúp anh được sáng mắt trở lại. Đó chỉ là lá thư cảm ơn thứ hai mà ngân hàng mắt nhận được sau khi đã cho đi hơn 30.000  đôi mắt!

Hơn thế nữa, chàng thanh niên nọ cũng muốn gửi lời cảm  ơn đến gia đình của người đã hiến tặng anh đôi mắt. Anh nghĩ rằng họ  phải là những người vĩ đại lắm mới có được người con sẵn sàng cho đi đôi  mắt của mình.

Các bác sĩ cho anh địa chỉ của gia đình Linda và anh  quyết định bay ngay sang Stalen Island để gặp mặt bằng được những người  đã ban ơn cho mình. Không hề báo trước cho gia đình Linda, anh dò tìm  được địa chỉ của ngôi nhà, đến trước cửa và bấm chuông.

Sau khi nghe anh  thanh niên giới thiệu về mình và mục đích của anh trong chuyến đi này,  bà Birtish xúc động dang đôi tay ôm chầm lấy anh thanh niên nọ và nói:

“Này  chàng trai trẻ, nếu con chưa tìm thấy chỗ nào để nghỉ, vợ chồng ta rất  vui mời con ở lại chơi cùng chúng ta vào dịp cuối tuần này, con nhé!”

Anh  thanh niên rất vui được ở lại cùng gia đình họ. Khi bà Birtish dẫn anh  tham quan căn phòng của Linda ngày trước, anh thấy một cuốn sách của  triết gia Plato trên kệ sách của Linda. Anh cũng đọc Plato bằng chữ Braille (chữ nổi dành cho người khiếm thị).

Rồi anh nhận ra cô gái ấy  rất thích đọc Hegel và một lần nữa, anh cũng từng đọc Hegel bằng chữ  Braille.

Buổi sáng hôm sau, bà Birtish nhìn anh thanh niên với vẻ dịu dàng và nói:

“Con trai ạ, ta chắc chắn là đã gặp con ở đâu đó trước đây rồi, nhưng ta lại không tài nào nhớ được.”

Rồi  bà chợt nhớ ra điều gì đó. Bà chạy vội lên lầu và lấy ra bức tranh cuối  cùng cũng là bức duy nhất mà Linda không bao giờ chịu bán đi khi cô ấy  còn sống. Đấy chính là bức chân dung người đàn ông lý tưởng mà cô đã gặp  trong những giấc mơ của mình.

Thật ngạc nhiên, khuôn mặt trong bức họa kia giống hệt với khuôn mặt người thanh niên đã nhận đôi mắt của Linda.

Sau đó, người mẹ của Linda đọc cho anh nghe một đoạn trong bài thơ cuối cùng mà cô đã viết trên giường bệnh:

“Trong giấc mơ, có 2 trái tim vô tình gặp gỡ họ yêu nhau… nhưng mãi mãi trong cõi thực, họ sẽ không gặp nhau…!”

From: Helen Huong Nguyen