Cái dáng rất buồn

Cái dáng rất buồn

Tôi có hai người bạn cũng bị bịnh lú lẫn, hai người bạn này đã chết. Tình trạng của anh giống như bài viết này.  

Trần Mộng Tú

Anh bước vào giai đoạn lú lẫn (Alzheimer) ở cuối đời. Mấy năm nay anh đã thay đổi rất nhiều. Bắt đầu anh quên quên nhớ nhớ, tiếp đến là anh dễ xúc động, anh hay khóc. Mấy năm trước, nghe cô bạn đọc Thơ của anh, anh cười, anh nhớ lại, đọc tiếp theo, chỉ độ một năm sau đó, anh không đọc theo nữa, anh chỉ nghiêng đầu lắng nghe, rồi bật khóc.. Hình như anh biết được người kia vừa nói ra những câu gì rất thân yêu, rất thân thuộc với mình, và điều đó làm anh xúc động, anh khóc rưng rức. Chị lại nhỏ nhẹ dỗ anh:

– Nín đi, nín đi, Thơ của anh, cô ấy nhớ đấy mà, phải vui chứ.

Anh nghe chị, ngoan như em bé, lau nước mắt, bằng mấy ngón tay, rồi cười, một nụ cười rất thơ trẻ.

Những năm kế tiếp, anh bắt đầu quên mặt họ hàng, quên mặt những người bạn thân, anh chỉ nhớ có chị thôi. Anh 85 tuổi, chị 80 tuổi. Hai vợ chồng già sống với nhau, con trai, con gái đều có gia đình. Đứa ở xa, đứa ở gần cũng vậy thôi. Một năm tụ họp gia đình đôi ba lần vào dịp Lễ, Tết.

Khi anh mới bắt đầu lãng quên, sức khỏe anh vẫn còn tốt, sáng sáng chị chở anh tới Gym. Chị bơi lội, anh ngồi ngoài nắng hóng mặt trời. Chị đi chợ, đi tới nhà bạn họp mặt luôn luôn có anh đi theo. Mỗi ngày anh một chậm hơn và quên nhiều hơn nhưng anh vẫn tự lo được vệ sinh cho mình, chị chỉ cần nhắc.

Rồi bỗng một ngày anh không làm gì một mình được nữa, chị phải phụ anh. Cơ thể chị nhỏ quá so với anh, chị không thể khênh vác, tắm gội cho anh được. Anh bắt đầu ngu ngơ như một đứa trẻ còn mặc tã, mà anh đang mặc tã thật, chị không thể nào khênh, đỡ anh làm những việc vệ sinh cá nhân cho anh. Chị gọi con, con trai chị từ tiểu bang xa về tìm Home Care để gửi Bố vào.

Tìm mãi mới được một nơi gần nhà, Mẹ chỉ lái xe có 8 phút là thăm được Bố. Số tiền hơi cao, nhưng để con lo.

Con ở lại thêm vài ngày nữa yên tâm có chỗ tốt cho Bố mà Mẹ không phải đi xa, muốn thăm Bố lúc nào cũng được. Chị ngậm ngùi:

– Ừ thôi con về nhà với vợ, con đi.

Mấy hôm có con, chị yên tâm.. Con đi rồi, chị một mình trống trải, thấy căn nhà của mình sao nó rộng mênh mông thế này, căn nhà không có anh bỗng tự nhiên thành xa lạ, giống như chính chị cũng vừa dọn vào một ngôi nhà mới, chị buồn trống cả hồn. Buổi tối đi ngủ chị nghĩ tới anh ở nhà mới với những người xa lạ chắc anh còn buồn hơn chị bây giờ. Thương anh quá, chị mong sao cho đến sáng để vào thăm anh.

Anh đã ở nhà mới được hai tuần, mỗi ngày chị tới thăm, người ta không cho chị vào hẳn phòng anh, ngay cả phòng khách cũng chưa được vào (vì đang thời Đại Dịch), họ đưa anh ra ngoài hàng hiên, nơi đó có sẵn mấy cái ghế cho anh chị ngồi gặp nhau. Chị thấy anh sạch sẽ, tươm tất chị cũng mừng, nhưng mỗi lần thấy anh hiền lành như một đứa trẻ ngoan, chị lại mủi lòng.

Sao anh thay đổi nhanh thế! Gặp chị anh không vui, chị đứng lên về anh không buồn, trên nét mặt anh chị không thấy một cảm xúc nào, anh nhìn chị như nhìn cái cây hay bức tường trước mặt, ánh mắt anh không vui, không buồn. Con chim sẻ sà xuống sân cỏ trước mặt hai người, chị cầm tay anh lay lay, chỉ anh, anh nhìn mà như không nhìn, ánh mắt anh không biểu lộ một cảm xúc nào.

Khi tới thăm anh, chị cứ đinh ninh là khi anh bước ra, thấy chị, ánh mắt anh sẽ sáng lên, miệng anh sẽ mỉm cười và khi chị bịn rịn chia tay về, ánh mắt anh sẽ buồn buồn, tay anh sẽ nắm chặt tay chị. Nhưng không, anh thản nhiên đứng lên đi vào, không hề quay đầu lại.

Chị không thấy anh khổ, không thấy anh buồn hay vui. Hình như anh không còn cảm giác buồn vui nữa. Sao anh thay đổi nhanh thế!

Chị nghĩ tới ba tháng mùa Đông sắp tới, người ta đã cho chị biết là sẽ không có thăm viếng vì trời lạnh người già yếu không thể ra ngoài hiên được và thân nhân vẫn chưa được quyền vào bên trong, nếu đại dịch vẫn còn.

Chị nghĩ tới nét mặt vô cảm xúc của anh, nghĩ tới hình ảnh anh đi vào không hề quay đầu lại và chị đứng ứa nước mắt nhìn theo dáng cái lưng im lặng của anh khuất sau cánh cửa.

Trời ơi trong 3 tháng mùa Đông, ngay cả cái lưng im lặng, cái dáng rất buồn đó, chị cũng không được nhìn thấy, mặc dù nó vẫn hiện hữu.

Bất giác chị ôm mặt mình nấc lên.

Trần Mộng Tú

Tháng 9-18-2020

From: TU-PHUNG

BÁC CẢ HÀ ĐÔNG

 

BÁC CẢ HÀ ĐÔNG

Phố Nhà Rượu là nơi gia đình tôi ở lâu nhất. Từ nhà 27 Bis chúng tôi dọn tới nhà 65 cùng phố. Nhà 65 là ngôi nhà thứ ba trong cuộc sống không yên chỗ. Nó lớn hơn ngôi nhà thứ hai, có nhiều phòng hơn. Gia đình đã lớn thêm với ba em tôi lần lượt ra đời.

Thay vào chị Nhài Hiên là chị Tường ở quê lên. Chị xấp xỉ tuổi cha mẹ tôi, gọi cha mẹ tôi bằng cậu mợ xưng em, còn chúng tôi gọi chị bằng chị. Cách xưng hô này được giữ mãi. Vì sao lại như thế thì khi tôi về quê được bà chị cả của cha tôi là cô Gái dẫn tích tôi mới hiểu. Duyên do chị Tường là một đứa bé mới đẻ bị mẹ vứt ở bụi tre đầu ngõ, ông nội tôi dậy sớm nghe tiếng trẻ khóc, mới lần ra xem rồi thương tình ông bồng về cho bà nội nuôi.

Chị lớn lên, trở thành người nhà. Cô Gái không giải thích vì sao chị không được coi là con nuôi. Chắc vì gia đình đã đông con cái nên không coi chị là đứa con thêm. Thấp, đậm người, cục mịch, mặt mũi xấu xí, lúc nào cũng cau có, chúng tôi không yêu chị Tường. Không giống chị Nhài Hiên dịu dàng, chị Tường luôn quát nạt, bắt chúng tôi vào khuôn vào phép.

Tôi biết bác Cả Hà Đông năm tôi lên mười.

Một hôm cha tôi trở về, mặt đăm chiêu. Ông nói nhỏ với mẹ tôi:

– Anh Sao Đỏ đã vượt ngục!

– Anh ấy hiện ở đâu? – mẹ tôi lo lắng.

– Đang đợi xem sao. Tụi nó lùng dữ lắm. Treo giải thưởng một vạn đồng Đông Dương cho cái đầu Sao Đỏ.

– Đã có chỗ trốn cho anh ấy chưa?

– Mình phải lo cho anh ấy thôi!

Mẹ tôi nói không nên để Sao Đỏ ở nơi nào khác, mọi chỗ đều không an toàn, đều nguy hiểm, tốt nhất là đưa về nhà mình. Đó mới là chỗ mật thám ít ngờ nhất – Nguyễn Lương Bằng không thể mạo hiểm trốn ở nhà bạn tù vừa được tha.

Hôm sau cha tôi mang về tờ Tin Mới với dòng nhắn tin trong mục Rao vặt: “Ông Cả Hà Đông đang ở đâu, về ngay, cả nhà đợi ông”.

Về khuya hai hôm sau, một người đàn ông gày còm, mặt quắt, vận áo the thâm, quần cháo lòng, một tay cầm cái ô cụp, tay kia xách gói vải trong có một viên ngói tây, gõ cửa vào nhà tôi.

Cha tôi hé cửa cho ông vào nhà. Hai người ôm chầm lấy nhau, cười ra nước mắt.

Trước khi vào nhà tôi, ông ngó nghiêng đống ngói ở nhà bên rồi vờ vào hỏi mua. Người đàn ông ra tiếp ông nhà quê là ông Trần Trọng Kim, về sau làm thủ tướng chính phủ Việt Nam khi Nhật hất cẳng Pháp, độc chiếm Đông Dương.

Năm 2003, nhân trò chuyện với ông Bùi Diễm, cựu đại sứ Việt Nam Cộng hoà ở Hoa Kỳ, ông cho hay ông từng ở chính ngôi nhà số 65 của chúng tôi vào thời gian cuộc chiến Việt-Pháp 1946-1954. Trong cuộc đời không thiếu những tình cờ hi hữu.

Căn phòng nhỏ của chị Tường được dành riêng cho ông Sao Đỏ. Ông ở yên trong đó, không bước chân ra ngoài. Chúng tôi được bố mẹ dặn đi dặn lại rằng nếu bất ngờ có ai hỏi thì nói rằng chỉ có một người đến chơi tên là Bác Cả Hà Đông. Chị Tường ngoan đạo đã được cha mẹ tôi huấn luyện để biết cách bảo vệ cán bộ cách mạng.

Bí danh Ông Cả Hà Đông có từ ngày đó. Nếu nó có trước chắc cha tôi đã không dùng nó để viết trong mục Rao Vặt.

Mẹ tôi bận bịu suốt dưới bếp lo nấu nướng những món tẩm bổ : chim câu tần hạt sen, chân giò hầm thuốc bắc… mang vào tận giường cho bác Cả Hà Đông. Chúng tôi chưa bao giờ được biết đến những món ăn ngon như thế. Khi mẹ tôi nấu nhiều, ông ăn không hết, chúng tôi mới được nếm náp chút ít.

Bận bịu lo kinh tế cho Đảng, cho các đồng chí đang trốn tránh, mẹ tôi mặc chị Tường lo cơm nước. Tôi nhớ rất lâu món rau muống sống chấm bỗng rượu, Rau muống ăn sống thường được chẻ nhỏ, nhưng chị Tường chỉ vặn cọng rau làm đôi làm ba rồi đập vào lòng bàn tay cho giập. Bỗng rượu là đồ cho lợn, được nhà máy rượu thải ra qua những lỗ ở bức tường bao quanh cho những xe bò quây cót chở đi, muốn xin bao nhiêu cũng được.

Trong bảo tàng nhà ngục Sơn La cho đến nay vẫn còn bức ảnh cha tôi và bác Cả Hà Đông chụp chung. Trong ảnh, hai người mặc quần trắng áo trắng có in số tù trên ngực.

Thời Tây đô hộ, chế độ giam cầm xem ra dễ dãi. Người tù được phép chụp ảnh kỷ niệm. Cha tôi kể: bức ảnh do một ông thợ ngoài phố được phép vào trong nhà tù chụp cho tù.

Số phận bức ảnh hai người tù khá long đong. Khi cha tôi bị bắt, nó lập tức bị hạ xuống, bị tiêu huỷ. Nghe nói rồi sau người ta vất vả mới tìm lại được để bổ sung vào số hiện vật cho bảo tàng nhà ngục Sơn La.

Tôi thường ngờ vực nhìn những đồ vật được trưng bày ở các bảo tàng, các nhà lưu niệm – không thể nào biết chúng là đồ thật hay đồ giả. Cây đào Tô Hiệu nổi tiếng trong các hồi ký cách mạng là một cây đào khác được trồng ở chỗ khác. Nếu là trí nhớ của một người thì có thể nhầm. Nhưng đàng này các ông Đặng Kim Giang, Trần Huy Liệu, Lưu Động và cha tôi là bạn tù của Tô Hiệu nhận xét thế thì rõ ràng người ta đã bịa ra một hiện vật. Đến cái máy chữ Hermes Baby trong ảnh cụ Hồ làm việc tại chiến khu Việt Bắc do nhiếp ảnh gia Đinh Đăng Định chụp được trưng bày trong bảo tàng cũng không phải chính nó. Cái máy chữ cũ ấy cha tôi xin cụ Hồ mang về cho tôi, rồi một người bạn mượn không trả. Chắc người ta đã mua một cái Hermes Baby ở chợ giời thay vào.

Chuyện không tôn trọng cái thật, hồn nhiên làm cái giả, không phải chỉ trong lĩnh vực bảo tàng. Ngành làm phim ở các nước xã hội chủ nghĩa cũng thuần thục trong việc chế tạo cảnh giả. Trong phim Việt Nam Chiến Đấu (tên Việt: Việt Nam Trên Đường Thắng Lợi) nhiều cảnh của bậc thầy phim tài liệu Liên Xô Roman Karmen quay cũng là cảnh giả, bố trí để quay, chứ không phải cảnh được quay tại trận. Cũng trong phim ấy, cảnh con hổ Việt Nam đi lại trong rừng, xuống suối uống nước, chính tôi quay bằng máy Eymo 35 ly, cũng là cảnh giả. Người ta phải bẫy con hổ rồi mang cái cũi lim nhốt nó tới một nơi rộng rãi được rào san sát bằng tre gộc. Nói cho công bằng, phim này phải làm cấp tốc để hoàn thành vào năm 1954, những người làm phim không có cả thời gian lẫn thiết bị tốt mà các nhà quay phim thế giới động vật bây giờ có.

Kể từ năm 1954 khi tôn ti trật tự mới do tổng bí thư Trường Chinh kiên trì thiết lập thì trong số bạn bè thời hoạt động bí mật chỉ có bác Cả Hà Đông là người còn thỉnh thoảng lui tới gia đình tôi. Những nhà cách mạng thường xuyên lui tới, trú ngụ trong nhà tôi, nay trở thành “lãnh tụ” hoặc quan chức lớn thì biến mất như bốc hơi.

Bác Cả Hà Đông giàu tình cảm, sống xuề xoà, bình dân, là có thực, kể cả khi ông đã trở thành quan lớn. Bác đến chơi là đến chơi, vậy thôi, hàn huyên với cha mẹ tôi, thăm chúng tôi, những đứa cháu, chứ chẳng có mục đích nào khác.

Thế mà rồi việc bạn bè bình thường đến thăm nhau trong những thời gian sau khi cách mạng đã có chính quyền cũng bị công an theo dõi, mới lạ. Tôi không biết người ta

theo dõi quan hệ giữa cha tôi và ông Nguyễn Lương Bằng từ khi nào.

Sau này tôi đọc nhiều hồi ký mới biết ở nước cộng sản nào cũng vậy, sự theo dõi nhau giữa những người trong đảng, đặc biệt giữa những người có địa vị trong nhóm cầm quyền, là chuyện không hề lạ. Theo dõi và tố cáo được khuyến khích trong toàn xã hội trở thành một thói thường. Sau khi chế độ cộng sản sụp đổ người dân Cộng hòa Dân chủ Đức mới sững sờ trước những chồng hồ sơ cao ngất: con báo cáo cha mẹ, vợ báo cáo chồng, bè bạn thân thiết báo cáo nhau… ngồn ngộn trong kho lưu trữ của cơ quan an ninh STASI.

Những người trong ban lãnh đạo đảng tất nhiên biết Nguyễn Lương Bằng thân với cha mẹ tôi. Mà tính ngang ngạnh của cha tôi không phải là điều khó thấy. Những câu nói như “Vớ vẩn, xưng vì nhân dân quên mình là ngoa ngôn, là bịp bợm. Chúa Giê Su kêu gọi: “Hãy thương yêu người ta như mình vậy” hai nghìn năm rồi mà loài người chưa theo được, làm gì có chuyện quên mình vì dân”. Hoặc “Dạy học trò phải yêu nước vì nước ta giàu và đẹp là bậy. Thế nếu nước nghèo và xấu thì không yêu nó à?” vv… được đưa vào hồ sơ theo dõi, khi tôi vào tù mới biết. Chuyện người cách mạng cũ nay có chính quyền theo dõi nhau là chuyện bình thường, nhưng từ khi có sự rạn nứt trong đảng về quan điểm cách mạng bạo lực thì sự theo dõi ấy mới được đặc biệt tăng cường.

Ở Hỏa Lò Hà Nội, Huỳnh Ngự, cục phó Cục Chấp pháp, tra hỏi tôi rất nhiều về Nguyễn Lương Bằng, y vặn vẹo đủ đường, cứ như thể ông cũng là một nghi can trong vụ án. Trong khi đó thì ở bên ngoài Hỏa Lò Nguyễn Lương Bằng vẫn đường đường là Chủ nhiệm Ban kiểm tra Trung ương Đảng, người cầm thanh kiếm bảo vệ đảng. Còn hơn thế: ông là một người trong những người chủ trương vụ bắt bớ những đảng viên bất đồng với đường lối chung của đảng.

Thời gian tôi học điện ảnh ở Moskva những năm 50 thế kỷ trước, ông Nguyễn Lương Bằng là đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Liên Xô. Thỉnh thoảng ông gọi tôi đến ăn cơm với ông.

Một hôm đang ăn ông bảo tôi:

– Bác nói điều này, cháu nhớ lấy nhá: “Đàn bà một người thì đoàn kết, hai người thì chia rẽ. Đừng có quên”!

Ông đang buồn phiền vì cuộc cãi vã giữa vợ ông, cũng là một nhân viên sứ quán, với mấy bà khác cùng cơ quan. Nhớ lại câu nói của ông, tôi cứ buồn cười mãi. Có những tình tiết không quan trọng chút nào nhưng chúng lại đọng rất lâu trong trí nhớ.

Tôi rất yêu bác Cả Hà Đông những ngày ấy.

Nhưng tôi đã mất ông, ông bác tôi từng yêu quý.

Vào năm tù thứ ba hay thứ tư tôi không nhớ, tôi phải rất vất vả mới viết được một bức thư để gửi ông. Trong những nhà tù tôi trải qua, người bị giam không có quyền được đọc, thậm chí một mảnh giấy báo bọc đồ tiếp tế cũng bị lột ra, đừng nói tới viết. Tôi phải lấy nhựa thuốc lào đọng trong cái điếu tự tạo làm mực, lấy cật bương làm bút để viết trên mặt sau vỏ bao thuốc lá.

Tôi viết thế này:

“Thưa bác. Cháu đề nghị bác, với tư cách người cầm thanh kiếm bảo vệ sự trong sáng của Đảng, tự mình xem xét vụ án này. Cháu là đứa cháu được bác và bố mẹ giáo dục tinh thần trung thành với sự nghiệp cách mạng. Nếu sau khi kiểm tra bác thấy cháu phản cách mạng thật thì cứ mang ra bắn, nhưng nếu không phải là như thế thì bác phải đưa bọn lạm dụng chức quyền đàn áp những người cách mạng trung thực ra xử. “

Không còn tin gì nữa, không còn trông đợi gì nữa ở cái đảng cộng sản đã bỏ tôi vào tù, tôi hằng tin vẫn còn đâu đó những người đã từng chịu đựng gian nan, tù ngục cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sẽ không chịu cúi đầu làm tay sai cho những tên cơ hội tiếm quyền.

Tôi lầm. Như cách người ta thường nói: tôi ngu lâu.

Bức thư đã được bí mật chuyển ra ngoài nhân một lần tôi được gặp gia đình. Tôi bế con gái lớn lên, nhân lúc mấy người công an giám sát không để ý, tôi nhét nó vào túi áo của con. My Lan khi ấy mới lên bảy, nhưng sáng dạ, biết tôi vội vã nhét vào đấy một cái gì đó, nhưng không rút ra hỏi bố, mà tảng lờ như không có chuyện gì.

Mẹ tôi đã tới gặp Nguyễn Lương Bằng, đưa bức thư ấy cho ông . Ông lẳng lặng đọc, rồi lảng sang chuyện khác. Nhìn thái độ nhớn nhác của ông, mẹ tôi hiểu: ông sợ những con “rệp” được gài trong phòng khách. Khi tiễn mẹ tôi ra cổng, ông mới dám ghé vào tai mẹ tôi thì thào: “Chị ơi, tập thể đã quyết định, tôi đau lòng lắm, nhưng không làm gì được”.

Nguyễn Lương Bằng không làm gì được là phải.

Được Lê Duẩn và Lê Đức Thọ cho vào Ban Chuyên án vụ trấn áp, ông ký cả hai tay. Không thể viện lẽ tổ chức phân công thì ông phải theo. Nếu ông muốn bảo vệ những đồng chí cùng hoạt động với mình trong thời kỳ bí mật mà mình tin tưởng thì ai cấm được ông nói tiếng nói của mình. Là đảng viên, ông vẫn có quyền có ý kiến với công việc được giao. Chưa kể cái quyền lớn nhất mà người đảng viên nào cũng có là thôi không làm đảng viên nữa. Trong chuyện này ông không vô can. Là thành viên Ban Chuyên án, chính ông cũng là một trong những kẻ tống tôi vào tù. Có chân trong Ban Chuyên án ông trở thành người đi bắt để được bảo đảm không bị bắt.

Khi cuộc trấn áp nổ ra, tuân lệnh Lê Đức Thọ ông còn gửi cho cha tôi trong xà lim cấm cố viết một bức thư sặc mùi cán bộ chấp pháp. May mà nay còn có văn bản, ông có muốn chối cũng không được. Ông viết:

“Trước đây, khi biết anh có quan điểm bất đồng với Đảng, tôi đã lấy tình đồng chí và tình đảng viên để khuyên can, nhưng vì một lẽ nào đó, những lời chí tình của tôi không được anh chấp nhận. Trái lại, những tư tưởng và hành động của anh ngày càng đi sâu vào con đường đầy tội lỗi đối với Đảng”.

Tất nhiên, đọc mấy dòng trong bức thư đánh máy đó ắt cha tôi hiểu không phải chính Nguyễn Lương Bằng viết. Hai người cùng hoạt động với nhau nhiều năm, ông thừa biết trình độ học vấn của bạn mình. Nó hoàn toàn không giống với cách viết của con người ít học Nguyễn Lương Bằng. Người ta viết, bảo ông ký thì ông ký.

Dù sao mặc lòng, ông đã đọc, đã ký, chữ ký của ông dưới bức thư là thực. Nó xác nhận một ông Cả Hà Đông ngày xưa đã thành người thế nào trong những ngày ấy.

Kẻ tạo ra sản phẩm bị chính cái sản phẩm do mình tạo ra ấy nhào nặn thành cái mà nó muốn.

Khi Nguyễn Lương Bằng vượt ngục Sơn La năm 1943, ông được một thanh niên người Thái trắng dẫn đường. Trở về nhà anh bị Pháp bắt đem chặt đầu. Tôi đã tới bản Giảng, cách nhà tù Sơn La vài cây số vào mùa thu năm 1965 với tư cách nhà báo để thăm gia đình anh thanh niên nọ. Trong ngôi nhà sàn xiêu vẹo chỉ còn lại mẹ anh, một bà lão lẩm cẩm, điếc lác, hỏi năm câu mới trả lời được một, câu trả lời lại chẳng ăn nhập gì với câu hỏi.

Sau hai mươi hai năm, tính đến chuyến đi của tôi, người tù vượt ngục dẫn tới cái chết của người thanh niên nọ đã không một lần trở lại bản Giảng để thăm hỏi bà lão tội nghiệp.

Rõ ràng, ông là, hoặc đã trở thành, người không có ân nghĩa. Người đem cả sinh mạng mình giúp ông mà ông còn quên, nói chi đến đồng chí.

Vô ơn là một thói thường của những người cách mạng khi xong việc.

Chẳng cứ Nguyễn Lương Bằng, Trường Chinh được cha tôi dẫn đi giấu ở nhà bạn là ông Trần Văn Vần ở Phúc Yên để trốn cuộc tổng khủng bố 1939, ở đấy gần hai năm, được nuôi nấng, được bảo vệ chu đáo, nhưng khi cách mạng thành công ông ta không đến thăm ân nhân của mình lấy một lần. Khi ông Vần đến thăm Trường Chinh, ông ta ban cho ông Vần một gói kẹo.

Người ta coi sự đóng góp của nhân dân, kể cả những việc nguy hiểm đến tính mạng, là việc đương nhiên.

Bây giờ thì ai cũng biết chính quyền cách mạng đối xử với ông bà Trịnh Văn Bô, người đã hiến nhà cửa, tài sản cho cách mạng như thế nào, đến cả ngôi nhà thờ tự cũng chiếm lấy không muốn trả. Hoặc với ông bà Đỗ Đình Thiện hiến cả đồn điền Cố Nghĩa ở Phủ Lý (đồn điền Borel), nơi chính phủ kháng chiến lấy làm nơi trú chân đầu tiên khi rời khỏi Hà Nội, nơi đặt nhà in giấy bạc đầu tiên cho nền tài chính non trẻ, cũng thế. Sau khi về tiếp quản Hà Nội, ông bà còn có ngôi nhà lớn bên hồ Thiền Quang, người ta chỉ cho gia đình ông bà ở tầng dưới, tầng trên thì cấp cho báo Ảnh Việt Nam. Tôi làm việc trong tờ báo ấy, tôi biết gia đình ông bà Thiện phải ở tầng dưới ẩm thấp ra sao.

Bệnh “diễn” cũng vậy. Nhà cầm quyền luôn miệng nói về cái gọi là lập trường công nông, cứ như thể họ chiến đấu vì quyền lợi công nông. Trong thời kỳ hoạt động bí mật, mẹ tôi sát cánh cùng ông và bà Điền, vợ ông Đỗ Đình Thiện, làm công tác kinh tài cho đảng, Nguyễn Lương Bằng thừa biết chị Tường là người ở trong gia đình tôi, đã được cha mẹ tôi giác ngộ để bảo vệ cán bộ. Thế nhưng trong lần đầu tiên có cuộc diễu binh ở Hà Nội vừa được tiếp quản, Nguyễn Lương Bằng sai người đánh ô tô đến nhà tôi để đón chị Tường đến lễ đài, còn mẹ tôi, người làm công việc lo kinh tài cho đảng cùng với ông, người huấn luyện chị Tường biết giúp đỡ những cán bộ cách mạng thì ra hè đứng ngó đoàn quân cuối cùng của cuộc diễu binh đi qua nhà.

Lẽ ra ngay từ đó tôi đã phải biết Nguyễn Lương Bằng đã trở thành người thế nào. Khi cả hai cha con người bạn thân thiết của mình bị tống ngục, ông thừa biết họ không có tội, nhưng ông đã không hề động ngón tay út để can thiệp, đã thế còn hùa theo mấy tên lãnh tụ độc tài.

Hiểu được con người thật không dễ.

Cha tôi quý Nguyễn Lương Bằng vì cùng tù với nhau, ông biết bạn mình là người cách mạng kiên định, không gì có thể lay chuyển. Ông còn quý bạn ở chỗ là người trong sạch, rất liêm khiết, ngay cả khi nắm quyền lực. Trong hoạt động bí mật, Nguyễn Lương Bằng tiết kiệm từng xu cho quỹ đảng. Có lần cha tôi phát bực, to tiếng với ông, bắt ông phải xé ngay những trang sổ tay ghi tỉ mỉ những khoản chi tiêu, từng xu tiền đò, từng hào tiền trọ:

– Ông mà bị bắt với những ghi chép này thì Tây nó biết hết ông đi đâu, liên lạc với ai. Dở hơi vừa vừa chứ!

Đức liêm chính của ông còn ảnh hưởng đến vợ con. Khi ông qua đời, vợ ông trả ngay biệt thự ông được cấp, chỉ xin có một chỗ ở vừa đủ cho gia đình.

Ông liêm, là điều có thực. Ông không chính cũng là điều có thực.

Sau sáu năm bị giam, khi được thả cha tôi còn phải chịu biệt xứ ở Nam Định hai năm nữa rồi mới được trở về nhà mình ở Hà Nội. Nhân dịp ấy ông Nguyễn Lương Bằng có đến thăm, ấp úng nói lời xin lỗi.

Cha tôi phẩy tay:

– Chuyện đã qua, tôi không để bụng. Anh cũng không phải là kẻ gây ra tội.

Từ nhà tù trở về, tôi viết thư cho ông “Chuyện của cháu hãy để đấy cho lịch sử. Nhưng nỗi oan của dân thì cần giải quyết ngay. Cháu đề nghị bác hãy tới các nhà tù để nghe những người tù oan ức. Cháu tình nguyện làm người dẫn đường cho bác… “

Bức thư không có hồi âm.

Trong lần cuối gặp ông khi ông tới nhà tôi, tôi còn cố vật nài:

– Cháu qua bốn nhà tù trong chín năm, được biết rất nhiều chuyện. Oan ức nhiều lắm, bác ơi! Không phải chỉ ở trong nhà tù có những người bị oan, ở mọi nơi đều có những nỗi oan không được giải. Thôi thì chuyện dân để sau, từ từ làm. Nhưng những người tù oan đã nhiều năm thì khổ sở lắm. Bác nghe cháu, bác hãy đến để giải quyết cho họ. Khi nào có thời giờ đến với dân, bác đừng đi ô tô nhà nước để đến với dân bác cứ đi với cháu như ngày xưa bác hoạt động bí mật ấy, cháu sẽ chở bác đi bằng xe máy, cháu lái vững, bác yên tâm, bác sẽ thấy cháu không nói sai đâu.

Đáp lại, ông im lặng.

Tôi hiểu, ông không nói vì ông không thể làm.

Ông không đủ can đảm đối mặt với những gì mà cuộc cách mạng thế hệ ông làm ra đã mang lại cho nhân dân, cho đất nước. Ông không phải không biết, nhưng ông sợ sự đối mặt ấy. Nghĩ được thế còn là tốt. Tôi cho rằng ông còn sợ cái khác, cái lớn hơn, cái ông chắc chắn sẽ nhận được nếu dám trái ý bề trên. Ông biết những người cầm lái bộ máy cai trị là người thế nào.

Nguyễn Lương Bằng được ngành tuyên truyền tung hô như một Bao Công. Tôi nhìn rõ ông – ông đã trút bỏ sạch sành sanh tinh thần của người chiến sĩ cách mạng.

Ông hài lòng sắm vai một Bao công giả. Bộ cánh quan lớn chẳng những vừa vặn mà còn hoàn toàn dễ chịu với ông. Nó không đòi ông phải dũng cảm chống lại cái xấu, cái ác, để trốn tránh hậu quả của sự dũng cảm ấy.

Ông đã học được cách tồn tại.

Tiếc thay! Một con người tốt như thế mà đã đọa ra như thế.

Năm 1835, trong vở kịch Cái Chết Của Danton, nhà văn người Đức Georg Buchner viết: “Cách mạng giống như thần Saturn trong truyện thần thoại ăn thịt những đứa con của mình”. Câu này, như một lời tiên tri, được trích dẫn nhiều.

Khởi đầu, mọi cuộc cách mạng đều hứa hẹn một ngày mai tươi sáng. Nó biến chất khi một thiểu số cơ hội lợi dụng thắng lợi của cách mạng chiếm lấy đỉnh cao quyền lực. Thiểu số này tự cho mình là “duy nhất đúng đắn và vô cùng sáng suốt”, tiêu diệt không nương tay mọi bạn đồng hành không chịu điều hoà với cách quản trị xã hội độc tài (hay chuyên chính cùng một nghĩa). Số còn lại bị biến thành (hoặc tự nguyện biến thành) tay sai trung thành để được quyền tự do đè nén và cướp bóc nhân dân. Số khác thì biết đấy, biết rõ, nhưng vì biết mà cúi đầu tuân theo chỉ để được tồn tại bên ngoài những nhà tù.

Năm 1979, Nguyễn Lương Bằng qua đời.

Buổi sáng, cha tôi gọi tôi:

– Hôm nay đưa tang bác Cả. Con mặc quần áo rồi chở bố đi tiễn bác.

Cùng với tuổi già và bệnh tật mang về từ những nhà tù, cha tôi yếu đi rất nhiều. Đến xe đạp ông cũng không đi được, ngồi được lên yên là ngã. Khi ông muốn đi đâu tôi phải chở ông bằng xe máy.

Tôi nhìn vào mắt bố:

– Con là đứa con luôn vâng lời bố, bố biết. Nhưng lần này thì con xin không nghe.

Tôi biết tôi hẹp hòi, tôi không có được đức độ lượng của cha tôi. Nhưng tôi phải cho cha tôi biết thái độ của mình.

Phải cố gắng lắm tôi mới nói được điều biết trước sẽ làm ông đau lòng:

– Con sẽ bỏ cả ngày để tiễn chân một người anh hùng. Nhưng con sẽ không bỏ một phút để đưa ma một thằng hèn.

Cha tôi im lặng.

Rồi thở dài.   

Áo cưới chàng may còn mùi vải

Mai-Agnetha Pham  is with Mai-Agnetha Pham

  Nguồn: Fb Tim Hoang

BÌNH THỦY 1969

Áo cưới chàng may còn mùi vải

Rượu hồng thiếp uống còn cay môi

Xa nhau một phút ngàn thu vắng

Nỗi buồn này biết làm sao nguôi

Đấy là 4 câu thơ trên mộ anh Thái Hoàng Cung, do người vợ trẻ Trần Mộng Tú khắc lên khi anh còn dùng địa chỉ tại nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi.

-o0o-

Buổi tối của một ngày đầu tháng 8 năm 1969, khi tôi đang ngồi xem những tấm ảnh màu đám cưới gửi từ Mỹ về, xắp xếp để làm một cuốn album, thì nghe tiếng chuông cửa. Tôi ra mở cửa, hết sức ngạc nhiên khi thấy Carl và anh Huân là hai người ở Sở trước mặt. Anh Huân làm phòng tối, phụ trách về rửa phim, in hình và Carl vừa là phóng viên vừa là nhiếp ảnh viên. Cả hai người này chẳng bao giờ đến nhà tôi vào giờ này, càng chắc chắn là không phải gọi tôi đi làm. Tôi lúc đó làm thư ký cho hãng Thông Tấn The Associated Press, công việc của tôi là lo tất cả những việc linh tinh cho hãng: Từ phát lương cho nhân viên, giữ sổ chi thu, mua bán hình ảnh, thư ký cho ông chánh văn phòng, đi nghe họp báo bỏ túi, v.v. Những việc này không bao giờ phải làm cuối tuần, cũng như không bao giờ làm ca đêm.

Cả hai người bước vào buồng khách, cả hai nhìn tôi, rồi cả hai nhìn nhau, không ai muốn là mình nói trước. Tôi linh tính có điều không tốt, nhưng không hiểu chuyện gì.

Cuối cùng Carl nói:

– “Sở nhận được điện thoại từ Rạch Giá gọi về chiều nay, nói là Cung, chồng của cô đã tử trận.”

Tôi đứng ngẩn người, nhìn lại cả hai, không nói được tiếng nào.

Carl nói tiếp:

– “Suốt từ chiều, chúng tôi liên lạc được với Rạch Giá (Kiên Giang), xác định tin rõ ràng, có gọi điện thoại nói chuyện với bà Giám thị của đại học xá Trần Quý Cáp, mẹ Cung, cụ cũng nhận được tin rồi.”

Tôi ngồi xuống hai gót chân mình, không nghe được gì tiếp, ngoài tiếng xôn xao của cha, mẹ và gia đình.

-o0o-

Chúng tôi mới cưới nhau sau lễ Phục Sinh vào tháng Tư, Cung tử trận 30 tháng 7, năm 1969.

Cung không phải là quân nhân chính gốc, anh tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm, ban Pháp Văn và đã đi dạy được 1 năm, anh bị gọi trong chương trình Tổng Động Viên.

Khi nhận giấy báo phải nhập ngũ, anh đến xin cha mẹ tôi cho làm hôn thú, vì sợ sau này sẽ khó khăn khi ở quân đội. Trên giấy tờ, tôi có chồng từ tháng 6-1968. Lúc làm đám hỏi chú rể tương lai không có mặt (đang đóng ở Chi-khu Trà Bồng) chỉ có mẹ chồng mang trầu cau sang. Nghĩ cũng tủi thân, nhưng thời chiến mà, làm sao được.

Sau đám cưới, Cung về đơn vị, tôi vẫn ở nhà với cha mẹ, đợi Cung được biệt phái về dạy học lại, (Bộ Giáo Dục hứa sẽ cho các giáo chức được về vào tháng 10/1969) rồi sẽ ra ở riêng.

-o0o-

Chiếc máy bay vận tải Mỹ đáp xuống phi trường Bình Thủy, Cần Thơ.

Người phi công phụ quay xuống nói với anh trai của Cung và tôi, đang ngồi cạnh chiếc quan tài.

“Chúng tôi rất tiếc là phải thả hai người và quan tài xuống đây, vì đây là máy bay quân đội Mỹ chở dầu, chúng tôi chỉ đi tới Cần Thơ chứ không về đến Sàigòn.”

Đuôi máy bay mở ra, một chiếc forklift tiến đến trục quan tài ra khỏi máy bay để giữa lòng phi đạo.

Anh chồng tôi dặn:

– “Em đứng đây, anh vào gặp ông xếp của phi trường này may ra được giúp đỡ.”

Buổi trưa tháng Tám, mặt trời tóe những chùm nắng rát bỏng, chói chang trên sân bay, cái sân bay rộng lớn chổng chơ một chiếc áo quan có phủ xộc xệch lá quốc kỳ, mấy giọt nến đóng thành mảng khô cứng trắng đục trên màu vàng của lá cờ, một vài chiếc lá quăn queo sót lại của vòng hoa chiều qua còn dính ở đó.

Tôi tự thấy mình bé nhỏ, mỏng manh trong chiếc áo dài màu xanh nhạt, áo nhầu nát, tóc bơ phờ, mặt ngơ ngác đứng nhìn chung quanh mình. Cái sân bay trông sao mênh mông thế mà cái áo quan thì bé tí, tôi đứng bên cạnh trông lại càng bé hơn. Sân bay không một bóng người, vài ba chiếc máy bay quân sự đậu rải rác bên cạnh những phuy dầu chưa kịp xếp vào kho. Hình như đã có mùi hôi bốc ra từ áo quan, tôi đứng lui ra một tí nữa, xoa tay lên ngực, thấy mình nghẹt thở, ngực nặng và đau buốt, đau thấu xuống tận bụng, tôi muốn ngất đi.

Hai ngày, một đêm ở Kiên Giang đã làm tôi đuối sức. Tôi có làm gì đâu. Tôi chỉ không ăn, không ngủ, không khóc, không cả vệ sinh. Chắc trong người tôi không còn nước. Bà mẹ chồng một bên, ông anh chồng một bên, họ đổ sữa ông Thọ cho tôi. Bà mẹ chồng tôi thật giỏi, bà có kinh nghiệm với chiến tranh, kinh nghiệm với chết chóc, nên đi đón xác con mà bà còn nhớ đem theo hộp sữa ông Thọ cho cô con dâu tiểu thư, cô con dâu còn mới như vuông lụa chưa thêu.

– “Con uống đi. Con mà gục xuống đây nữa thì mẹ biết nói làm sao với cha mẹ con.”

Tôi không uống được, cái mùi tử khí trưa nay của mấy chục cái xác xếp chất lớp trước cửa nhà xác vẫn ràn rụa trong thân thể tôi. Nó phủ chụp từ đỉnh đầu xuống hai bàn chân, khi tôi len lỏi bước qua những xác lính bên ngoài để vào bên trong chỗ người ta để xác sĩ quan. Tôi đã phải bước qua từng cái túi có bọc thây người ở trong, có cái thòi hai bàn chân còn nguyên đôi giầy sau ra một đầu, có cái thì lòi ra ở đầu kia một đỉnh tóc bết đất, có cái thò nguyên một khuôn mặt tái mét vàng khè có mấy con ruồi đậu trên đôi mắt chưa khép kín hẳn. Tôi đi theo bàn tay dắt của người anh chồng, xúc động và kinh hoàng đã làm tôi không còn cảm giác nữa. Không biết tôi có dẫm phải ai không. Tôi cố gắng không dẫm lên những người đàn ông nằm đây. Vào được đến bên trong thì tôi có nhìn thấy gì đâu. Tôi chỉ nghe tiếng bật khóc của mẹ chồng, tiếng anh chồng bảo:

– “Đúng là Cung rồi.”

Tôi thấy hình như tôi được bế lên, được đặt ngồi xuống một cái bậc thềm, gió ở sông thổi vào mặt tôi, giúp tôi tỉnh lại, tôi mở mắt ra, nhìn xuống. Tôi thấy một giòng nước đục chẩy lờ đờ bên dưới. Thì ra nhà xác của bệnh viện Kiên Giang nằm sát cạnh bờ sông. Tôi không dám nhìn vào những người đàn bà đang đi lật từng cái poncho quấn thây người để tìm chồng, tìm con họ trước cửa nhà xác. Tôi thấy tôi còn may mắn hơn họ.

Người ta đem xác Cung về trại gia binh tiểu khu để làm lễ. Tôi được bày đứng cạnh áo quan cho ông Phó Tỉnh Trưởng đọc diễn văn, trong khi ông đọc thì tôi đứng nhìn mấy cây nến chẩy, nhìn vòng hoa đã bắt đầu héo, có cả chén cơm đã khô và quả trứng luộc có mấy con ruồi bay lên bay xuống, tàn nhang rơi phủ đầy trên đó. Ông Phó Tỉnh đọc diễn văn xong, hấp tấp ra về. Chắc ông hơi thất vọng vì không thấy tôi khóc để có dịp nói lời an ủi. Mấy người vợ lính trong trại gia binh, chạy sang thăm hỏi, mấy đứa nhỏ con lính chạy loanh quanh áo quan với mấy con chó gầy trơ xương, trụi cả lông, cái áo chúng mặc ngắn cũn, bụng ỏng ra ngoài, mũi thò lò cũng chẳng chùi. Chúng tròn mắt nhìn mấy người Sài Gòn, mặt mũi có vẻ khang khác với nhưng người trong trại lính nầy. Có người cũng từ xa đến chưa tìm ra xác chồng, xác con đến hỏi han bà mẹ chồng tôi với con mắt nặng trĩu và gương mặt thất thần.

Tôi đứng đó lơ mơ nghe lao xao những tiếng nói chồng lên nhau, mỗi người kể một cách, giống như ở nhà tôi mỗi khi đi xem một cuốn phim về, chị em tôi vẫn thường tranh nhau nói như thế. Hình như họ nói về trận đánh ngay ở xã Vĩnh Thanh Vân. Xã này, tôi không biết ở đâu nhưng chắc là rất gần. Họ nói đánh ba bốn hôm rồi, và vẫn còn đánh nên xác không kéo ra hết được, phải ngồi chờ thôi. Cứ ngồi chờ thế nào cũng gặp, họ bảo nhau:

– “Không thấy người thì thấy xác. Thế nào cũng gặp mà!”

Người anh chồng thì thỉnh thoảng lại biến mất, không biết đi đâu, chắc là đi tìm cách đưa mọi người về nhà. Tôi thấy trong những người đi nhận xác chỉ có 3 người trong gia đình này ít khóc nhất.

Bà mẹ chồng tôi thì vừa mếu máo vừa lo xin nước sôi pha sữa cho con dâu uống. Con bé này vốn đã gầy, hai hôm rồi nó chẳng ăn, chẳng nói gì làm bà phát hoảng, giá nó cứ khóc sướt mướt như mấy người vợ lính đang khóc ngoài kia thì bà lại đỡ lo. Không biết còn kẹt ở đây đến bao giờ? Bằng vốn liếng tiếng Pháp bà nói chuyện với một ông sĩ quan Mỹ cho bà quá giang máy bay quân sự về Sàigòn, rồi bà sẽ thuê máy bay dân sự xuống đây đón mấy đứa con.

Bà giỏi lắm. Mấy chục năm trước, còn trẻ măng mà bà đã một mình thuê đò ở Nam Định đi tìm chồng. Chồng bà đang đêm được Việt Minh đập cửa mời đi, rồi cả tháng không thấy về. Ông được mời vì lúc đó ông có một ngôi trường nhỏ dạy học tiếng Pháp ở Nam Định. Bà đi đò, đi bộ cả bao nhiêu cây số, đến tận chỗ không ai dám bén mảng đến hỏi tin tức chồng. Họ bảo về đi, bắn chết rồi. Bà lại thuê đò về, tính ngày đi của chồng dùng làm ngày giỗ vì bà không biết ông bị xử bắn vào hôm nào. Mấy hôm sau bà bỏ nhà ở Nam Định, dắt ba thằng bé, đứa lớn nhất chưa quá 10 tuổi tìm đường ra Hà Nội.

Đi làm, nuôi con ăn học. Rồi lại dắt con di cư vào Nam. Ai làm được gì thì bà cũng làm được như vậy. Bà cũng khóc chứ. Nhưng nước mắt thì vốn chóng khô vì nó không chảy hết ra một lúc, nó chảy rỉ rả ít một. Chảy suốt một đời. Cô con dâu bà mới cưới được có ba tháng, còn trẻ lắm, lại chưa có con, đi đón xác chồng lại có mẹ chồng, anh chồng bên cạnh. So với bà cô còn may mắn chán.

Mà đúng thật, bà mẹ chồng tháo vát của tôi số khổ hơn con dâu. Bà xin lên được máy bay về trước các con một hôm thì cũng bị thả xuống phi trường Bình Thủy đêm hôm đó, máy bay không về đến Sài Gòn. Một cơn mưa tháng Tám bất chợt ập xuống làm bà ướt sũng, thất thểu tìm một nhà thờ vào xin ngủ qua đêm, bà không cần khóc nữa, trời đất khóc hộ bà rồi. Sáng hôm sau bà đi xe đò về Sàigòn. Trong khi đó thì các con của bà: Con sống, con chết cũng bị thả xuống chỗ mẹ ngày hôm qua, nhưng không phải buổi tối mưa sũng nước mà một buổi trưa đầy nắng.

Cuối cùng thì cũng đưa được quan tài về Sài Gòn. Khi xuống đến phi trường Tân Sơn Nhất thì cả người và cảnh trông thật bắt mắt. Nếu có cần quay một cảnh phim cho chiến tranh thì hay quá. Cái quan tài cũng không cần phải trang trí cho ra vẻ tang thương hơn nữa. Lá cờ phủ trên nó nhầu nát, xộc xệch, cô đơn, đã đủ vẻ tang thương.

Hai nhân vật thất thểu xác xơ đứng cạnh không cần phải hóa trang hay diễn xuất, họ đi đứng như người mất hồn, ngơ ngác, thất lạc, rơi ra từng mảnh như những người lính vừa bại trận trở về. Cứ dựng máy quay phim lên, quay họ như thế vào phim cũng tuyệt lắm rồi.

Sau nầy tôi nghĩ lại vẫn tự hỏi. Tại sao lúc đó mà mình tỉnh khô như vậy, sao mình không phát rồ, phát điên, không đập đầu vào tường?

Cả trăm câu hỏi cứ chạy lung tung trong đầu tôi bao nhiêu năm trời.

Một chiếc xe nhà binh đón chở áo quan từ phi trường đến nhà xác bệnh viện Grall. Đã bảo bà mẹ chồng tôi là người tháo vát mà! Bà còn xin được miếng đất chôn Cung trong Mạc Đĩnh Chi để bà thăm viếng cho tiện, chứ lên tận Nghĩa Trang Quân Đội thì làm sao bà có thể đi thăm thường xuyên được.

Họ cho Cung đi qua nhà, dừng lại cho Cung nhìn chỗ mình đã sống, đã lớn lên một lần chót. Chẳng biết ai là người nghĩ ra cái tục không được chết ở nhà thì phải ghé qua nhà trước khi ra đi hẳn mà hay thế! Tôi thấy những người lân cận và một vài người họ hàng đã đứng chờ sẵn trước cửa nhà. Họ nhìn tôi, nhìn quan tài như xem phim chiếu chậm, họ quen quá rồi cái cảnh nầy những năm gần đây. Tôi còn trẻ quá, họ nghĩ. Thế nào rồi cũng quên đi, cũng lại lấy chồng, chỉ tội cho bà mẹ anh ta.

Họ nghĩ cũng chẳng sai mấy. Khi tôi bị đẩy ra khỏi nước, gia đình chồng cũng bỏ đi, chỉ có Cung là người ở lại. Cung cũng chẳng khác gì những người còn sống, cũng bị đuổi nhà, bị chiếm đoạt tài sản. Người anh họ ở lại tìm cho anh một nơi cư ngụ mới trong nhà thờ Tân Định.

—–

Tôi trôi mãi rồi cũng phải dạt vào một chỗ. Bảy năm sau tôi lấy chồng, sanh con, tôi sống bình thường như tất cả mọi người đàn bà khác trên một đất nước không có chiến tranh. Tôi cũng vui, cũng buồn với những thăng trầm của đời sống.

Ở đời sống hàng ngày, tôi quên dần cái bất hạnh của tôi mấy mươi năm về trước. Nhưng tôi nhớ rất rõ ràng là cái bất hạnh đó nó có hiện diện trong kiếp người của mình. Thỉnh thoảng Cung vẫn về trong giấc mơ, dù suốt ngày hôm trước tôi không hề nghĩ đến. Cung về như còn sống hay về như đã chết thì khi tỉnh dậy, nước mắt tôi vẫn lặng lẽ trào ra trên gối. Tôi cố gắng không làm giao động người nằm bên cạnh đang ngon giấc. Buổi sáng, thức dậy, tôi thay áo gối, rồi lại thản nhiên bước vào đời sống trước mặt: Giặt giũ cho chồng, cơm bánh cho con.

Thời gian cứ thản nhiên trôi, buồn và vui đầy ắp hai tay. Ngày trắng tóc rồi cũng đến.

-o0o-

Lần đầu tiên về thăm lại Việt Nam năm 1998, sau 23 năm, tôi đi tìm Cung ở nhà thờ Tân Định. Tôi đi len lỏi giữa những dẫy kệ, đọc từng cái tên, đi đến vần “T” là họ của Cung. Tôi nhìn thấy một cái hộc nhỏ, không có hình chỉ có ghi Họ, Tên, Ngày sinh, Ngày mất. Tôi đứng lặng người, run rẩy chạm những ngón tay mình lên mặt chữ. Cái cảm giác chạm tay vào đầu áo quan của năm 1969 bỗng hiện ra dưới những ngón tay tôi. Một tiếng nấc đưa lên thanh quản, vỡ òa ra, tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Nước mắt của bao nhiêu năm tụ lại một ngày, nước mắt của những ngày đi đón xác ở Kiên Giang khô lại bây giờ nứt ra như một mạch ngầm của suối bật lên trên mặt đất nứt nẻ. Tôi khuỵu chân ngồi xuống giữa lối đi của hai hàng kệ, khóc như chưa bao giờ được khóc.

Chung quanh tôi vắng lặng. Tôi trầm mình vào nước mắt, vào bất hạnh, vào nỗi cô độc của mình. Cái hộc nhỏ đựng tro than bên trên đầu tôi vẫn thản nhiên, im lìm nhìn như trước khi tôi đến.

(Trần Mộng Tú)

Hình 1: Trần Mộng Tú và Thái Hoàng Cung trong ngày cưới, ba tháng sau anh tử trận.

Hình 2: Phi trường Bình Thủy (Cần Thơ)

Hình 3: Nhà thơ Trần Mộng Tú hiện tại

CHUYỆN TÂM LINH KHÓ LÝ GIẢI

CHUYỆN TÂM LINH KHÓ LÝ GIẢI

Seniors,

Trước khi đọc “Chuyện tâm linh khó lý giải”, tôi kể quý seniors nghe câu chuyện người chết có linh hồn không?

Sau tháng 4 năm 1975, tôi trình diện đi học tập cải tạo. Trại tù đầu tiên là ở khu gia binh Long Giao, Long Khánh. 

Ở đây chừng hai tháng thì có một người bạn tù nằm chết ở ngoài sân, lúc bấy giờ chưa có khoá phòng để nhốt tù. Nửa đêm anh đi tiểu và nằm chết ở tư thế co ro nằm nghiêng, hai chân co lên ngực và hai tay nhét vào giữa hai đầu gối. Đặc biệt đôi dép lại để ở trên đầu. Vào thời điểm này các trại tù do bộ đội VC quản lý, trại trưởng nghi ngờ anh em trong tù sát hại lẫn nhau, phải chờ Bác Sĩ từ Sài Gòn lên khám nghiệm tử thi mới cho chôn. Anh chết từ lúc nửa đêm đến 5 giờ chiều mới đưọc chôn nên cơ thể anh cứng đơ. Trưởng trại cho một cái hòm gỗ, khi bỏ xác anh vào nằm ngửa thì không đậy nắp được vì hai đầu gối nhô lên, bỏ nằm ngang xác anh không lọt vô hòm. Trại tù không nhang, không đèn, không rượu để bóp cho thân thể mềm lại. Loay hoay mãi có một anh bạn tù, cấp bậc Đại úy là con rể của Tướng Lê Minh Đảo, anh là người có đạo Công Giáo đứng ra van vái:

– Anh sống khôn thác thiêng, phò hộ cho chúng tôi đưa thân xác anh đi cho được thanh thản, nhẹ nhàng.

Vái xong anh đến kéo tay chân người bạn tù xấu số, tay chân nó mềm nhũn ra như người còn sống. 

Mấy tên vệ binh mang súng đứng chung quanh ngạc nhiên, thảng thốt:

– Sao nạ thế nhỉ.

Hồn của anh bạn có lẽ lẩn quất đâu đó, anh nghe, anh thấy chúng tôi, nhưng chúng tôi chẳng thấy được anh.

Kính mời Quý Seniors xem tiếp câu “Chuyện tâm linh khó lý giải” của Nguyễn Quang Phúc

Thân mến,

Đồng

   CHUYỆN TÂM LINH KHÓ LÝ GIẢI

 Nguyễn Quang Phúc

 Cách nay 15 năm vì thất bại trong công việc, tôi phải quay lại nghề cũ: Sửa đồng hồ tại 18 Lê Công Kiều quận 1 để mưu sinh.

Vào một buổi chiều tối có người đàn ông lại bán cái bình bằng đồng. Bình vuông vức, cao hơn gang tay chạm trổ rất tinh xảo nhìn bắt mắt. Tôi quyết định mua cái bình giá vài trăm ngàn (khoản 5 phân vàng thời điểm đó) với ý định sáng mai sẽ bán lại kiếm lời.

Qua hôm sau tôi đem bình đi bán. Anh Bảo Tâm (tiệm 20 Nguyễn Thái Bình) trả tôi có lời nhưng tôi chưa bán vì hy vọng sẽ bán được giá cao hơn.

Một lát sau tôi lấy bình ra mời anh Sơn đầu bạc (chủ tiệm đồ cổ 5 Lê Công Kiều). Sau một lúc xem xét anh Sơn bảo:

– Đây là cái hũ cốt mày xem liệu mà bán đi.

Tôi ngạc nhiên trả lời:

– Đừng giỡn đại ca, nếu thật thì anh chứng minh đi 

Anh Sơn chỉ tay vào góc bình rồi lặng lẽ quay đi. Tôi lấy kính nghề đeo vào và bàng hoàng khi thấy ở góc bình có hàng chữ rất mờ do đã có ai đó cố tình bôi:

Dương Văn Út sanh 1963 ngày mất….. hưởng dương……

Tôi chết lặng vội cất cái bình vào tủ miệng lâm râm vái: Anh Út ở tạm đây đi để từ từ tôi tính (dù tôi chưa biết tính thế nào).

– Đem vào chùa thì tôi không có tiền.

– Đem bán thì vật này không phải để bán.

– Lén vứt đi thì lý trí muốn làm nhưng lương tâm không cho phép.

– Đem về nhà ư? Tôi không dám và không muốn việc đó.

Tôi như người mất hồn làm việc không nổi, ăn không ngon ngủ không yên hai ba ngày. Mặt không có nổi nụ cười trong lòng buồn và rối rắm.

Vợ tôi nhận ra sự khác lạ của chồng nên gặng hỏi mãi. Cuối cùng tôi cũng kể cho vợ nghe sự việc, hai vợ chồng ngao ngán nhìn nhau vì không có số tiền nhỏ để giải quyết việc nhỏ.

Thời gian đó vợ tôi bán mướn quần áo ở chợ An Đông sạp 214. Sáng ra đi làm vợ tôi kể cho chị em tiểu thương câu chuyện của tôi và cô Thủy chủ sạp 214 ra tay giúp đỡ.

Thủy điện thoại cho tôi:

– Anh Phúc, em đã nghe sự việc của anh. Giờ thì anh hãy đem hũ cốt đến tịnh xá Ngọc Vân (ngay chân cầu vượt Suối Tiên hướng đi về cầu Sài Gòn) gửi mọi chi phí em lo hết.

Nghe như người chết đuối vớ được phao. Ngay chiều hôm đó tôi cùng vợ sắm một ít hương hoa và đem hũ cốt đi gửi.

Xong việc trên đường về trong lòng rất sảng khoái vì dù mất một số tiền nhưng tự an ủi là mình đã làm được một việc tốt.

Quay lại cuộc sống hàng ngày tôi dần quên việc đó cho đến 6 tháng sau vào một buổi sáng.

Tôi có cuộc điện thoại trên mà hình hiển thị số nước ngoài gọi đến. Đầu bên kia là giọng nữ Việt

– Chào anh, anh có phải là anh Phúc sửa đồng hồ không?

– Ok Phúc đây. Chị gọi tôi có việc gì vậy?

– Dạ tôi nghe anh có mua được hũ cốt. Không biết anh có biết tên người trong   hũ cốt không?

Tim tôi bắt đầu loạn nhịp nhưng vẫn trấn tĩnh:

– Dương Văn Út ngày sanh…. ngày mất…… hưởng dương…. và tôi hỏi lại chị ta:

– Vì sao chị có số ĐT của tôi và làm sao chị biết tôi mua hũ cốt

Người phụ nữ đó bỗng nấc lên vừa khóc vừa nói:

– Dạ tôi là chị ruột của thằng Út đây. Gia đình tôi định cư ở CANADA từ lâu không may em tôi vắn số. Tôi đã hỏa táng và gởi cốt về VN theo ý nguyện của em. Tôi gởi vào chùa ở Gò Vấp (ngay ngôi chùa bị lùm xùm về tro, cốt) không hiểu sao lại thất lạc hũ cốt. Tôi đã cố tìm kiếm, đăng báo rất nhiều lần nhưng không tìm được. Nay tôi tìm được anh đúng là người mua hũ cốt chắc là em tôi linh thiêng mách bảo.

Tôi rất là ngạc nhiên và sợ, tay chân đã ra mồ hôi nhưng vẫn bình tĩnh nói với chị ta:

– Hũ cốt của ông Út tôi đã gởi vào chùa chị hãy nhờ người thân tới liên hệ nhưng làm sao chị biết tôi mua nhầm hũ cốt.

Chị ta chậm rãi kể (thì ra sự việc như vầy).

Khi vợ tôi kể chuyện hũ cốt cho cô Thủy thì câu chuyện lan truyền ra nên nhiều tiểu thương ở chợ An Đông biết

Tình cờ có một chị tiểu thương du lịch CANADA rồi gặp chị ông Út trong siêu thị.

Hai bà Tám VN gặp nhau trên đất khách họ nói với nhau đủ việc trên đời. Vô tình chị ông Út than thở về việc thất lạc hũ cốt ở VN.

Nghe thế chị tiểu thương bảo: Ở An Đông tôi có nghe việc người ta mua nhầm hũ cốt để tôi gọi về VN xin số cho chị rồi chị hỏi thăm thử xem sao? Biết đâu may thầy, phước chủ……

Từ nửa vòng trái đất chỉ một cuộc ĐT chị ta đã tìm được hũ cốt của em mình sau 2 năm thất lạc.

Từ một người thợ sửa đồng hồ ở lề đường (lại đang thiếu nợ) 3 năm sau tôi đã trở thành chủ tiệm đồ cổ khá lớn ở Lê Công Kiều quận 1.

Mỗi lần cô Thủy chủ sạp 214 gặp tôi đều nói:

– Từ khi anh Phúc mua hũ cốt đến nay em thấy anh làm ăn rất khá. Thay đổi từng tháng đó anh, có lẽ ông Út phù hộ anh đó.

Tôi cười và bảo với Thủy:

– Chuyện tâm linh thì khó lý giải nhưng khi anh mua hũ cốt gởi vào chùa thì ở LCK và chợ An Đông nhiều người biết. Họ mến việc làm của mình nên họ giúp đỡ làm ăn. Trong cuộc sống mà nhiều người giúp thì công việc thuận lợi hơn.

Qua câu chuyện này tôi xin nhắn gởi tới những bạn đang khó khăn hoặc chưa thành công:

– Hãy cố gắng hết sức và luôn sống đúng lương tâm, đạo đức. Trời không phụ người tốt.

Sài Gòn 10-2020

From: TU-PHUNG

CUỘC ĐỜI ĐAU THƯƠNG CỦA LOÀI CHIM YẾN

  
Image may contain: text

 Chuyện tuổi Trung Niên

  CUỘC ĐỜI ĐAU THƯƠNG CỦA LOÀI CHIM YẾN

Có 1 lần lâu lắm rồi tôi có gặp người bạn nói ngày xưa ở VN trước năm 75 có lần ông trúng thầu để lấy tổ yến…

Sau lần đó ông giải nghệ luôn vì thấy ác độc quá…Ông nói tội lắm cô ơi…đôi khi phải vứt trứng yến hay chim non xuống biển để lấy tổ…Chim mẹ bay về quanh quẩn nơi tổ yến đã mất kêu thảm thiết lắm…Nghe ông nói mà tôi ứa nước mắt thương cho chim mẹ…

CHUYỆN CỦA CHIM YẾN

Câu chuyện ray rức lòng người.Xé gió biển, đôi cánh nhỏ dang rộng hết cỡ, lượn lên mất hút trên không trung rồi bất thần lao xuống hết tốc lực. Chẳng có gì ngăn cản nổi, Yến mẹ lao đầu vào vách đá dựng đứng. Để lại trên vách núi vệt máu tươi uất nghẹn và tiếng kêu khản đặc xé lòng của chim trống…Cảnh tượng đó lặp đi lặp lại trong những ngày vào mùa, mùa mà một loài hân hoan trên sự chết chóc đau thương của một loài khác. Mùa khai thác Tổ Yến.Yến, sống trung thành – chết thuỷ chung. Một đôi Yến khi đã sống cùng nhau là trọn đời trọn kiếp. Khi đã xây tổ ở đâu là vĩnh viễn không dời đi nữa. Tập tính đó giết hại Yến. Người vẫn thầm ngưỡng mộ và tự hỏi: Trong hàng ngàn chim Yến bay rợp biển kia mà vì sao các cặp đôi không bao giờ nhầm lẫn, không đời nào lang chạ? Hàng vạn tổ Yến ken đặc trên vách đá đó mà Yến luôn về đúng nhà của mình. Không bao giờ chiếm tổ chim khác? Rồi người lợi dụng triệt để đặc tính này để dụ Yến, nuôi Yến, lấy tổ Yến và vô tâm nhìn xác Yến…Nếu không may gặp một thợ hái tổ không chuyên hay thiếu kinh nghiệm. Không chừa lại một phần tổ, hoặc lấy đúng chiếc tổ của Yến sắp sinh. Chim mẹ trở về trong tình trạng mất tổ, không chịu nỗi đau đớn vì cơn chuyển dạ. Yến sẽ quẩn và chọn cách gieo mình vào vách núi, chính nơi đã xây mái ấm để quyên sinh.

Đa số chim Yến trống sau đó bay lượn điên cuồng, kêu gào thảm thiết rồi lao thẳng vào đúng chỗ vợ chết. Nên các vệt máu khô buồn in lại trên vách đá lạnh lẽo thường là vệt đôi bên nhau, thậm chí là chồng lên nhau. Nếu không tự tử, chim Yến trống sẽ sống cô độc suốt quảng đời còn lại.

Xưa, kẻ cùng đinh mạt vận mới phải ra nơi heo hút, leo trèo nguy hiểm tìm hái tổ Yến để mong đổi đời. Thường thì khi có chút vốn họ bỏ nghề và ăn năn sám hối. Họ không đời nào muốn con cái tiếp tục cái việc quá sức mạo hiểm, quá sức thất đức. Và đó là lý do không có “nghề lấy tổ Yến gia truyền” là vậy.

Nay, lòng tham con người vô cùng vô tận.

Tạo hoá không ban phát cho ai tất cả. Loài chim hiền hoà xinh đẹp và thuỷ chung đó lại có đôi chân cực ngắn và mềm yếu. Yến dường như không thể đậu trên mặt đất, Yến treo thân trên vách cheo leo lúc đêm về. Còn lại gần như bay suốt, liên tục từ 12-15 giờ mỗi ngày. Săn mồi và ăn trong khi đang bay, ngủ trong lúc bay, thậm chí là “làm chuyện vợ chồng” trên không luôn.

Bù lại, Mẹ Thiên Nhiên dạy Yến cách sinh tồn, mách bảo Yến sống trên cao, làm tổ nơi vách núi thẳng đứng, hẻo lánh và trơn trượt. Hòng tránh loài ăn thịt hiểm ác như rắn hay cú vọ. Có điều, ngay cả thiên nhiên cũng không biết được có loài ăn…tạp còn tàn độc hơn thú dữ. Loài có thể chinh phục bất cứ núi cao vực sâu hiểm trở nào hầu nhét cho đầy lòng tham tanh tưởi. Loài đã làm những cuộc tàn xác đẫm máu mang tên “Yến Sào”.

Yến chống chọi để tồn tại, tạo hoá không đành lòng diệt vong một biểu tượng của tình yêu, tình mẫu tử. Trong thiên nhiên hoang dã, chắc Yến là loài duy nhất được mệnh danh “rút ruột cho con” nhờ đặc tính làm tổ bằng nước dãi. Cả chim mẹ và chim cha cùng nhau xây tổ. Nước dãi kết dính cây cỏ và chính những chiếc lông rứt ra đau đớn thành chiếc tổ kỳ diệu. Con người ranh mãnh khi lấy tổ yến đã cố tình chừa một ít. Yến hồn nhiên xây lại, dãi không đủ cho mùa sinh nên thổ huyết ra xây. Tước lông đến xơ rơ đôi cánh, trơ da thịt trân mình chịu đựng cơn gió biển rít buốt đến xương tuỷ. Cho đến chết đi rồi Yến vẫn không thể hiểu được một số giống người man rợ hoan hỉ gọi đó là “Hồng Yến”…

Cuộc đời loài chim yến hiện nay thật quá thương tâm, vì lòng tham và sự tàn nhẫn của con người chưa từng giảm bớt…Hãy dừng lại việc nuôi yến, bán tổ yến cho đến tiêu thụ các sản phẩm từ chim yến.

Nhân nào quả đấy, nếu mình phá hoại nhà cửa của người ta, chia rẽ gia đình người ta, cướp đoạt cái mà chẳng phải thuộc về mình, ăn nuốt vật phẩm dựa trên máu, nước mắt và sinh mạng của chúng sanh thì tương lai gia đình mình, con cháu mình, và cá nhân mình chẳng lẽ không bị quả báo tương tự hay sao?

Vì vậy: Trước khi làm điều gì, hãy nghĩ đến hậu quả của nó.

(st.)

Bác Sĩ Trong Tù

Bác Sĩ Trong Tù

BS.Tôn Thất Sang

Crack!Tiếng cơ bẩm đẩy viên đạn lên nòng súng nghe gai nhọn và lạnh lùng như tiếng gằn giọng của tử thần! Một luồng cảm giác ớn lạnh chạy dọc xương sống, làm toàn thân tôi nổi ốc. Tôi chưa kịp định thần thì một giọng nói chát chúa vang lên:

-Ðứng lại, không tôi bắn!

Tôi vội vàng cố khép hai vạt áo mưa đang phần phật bay trong gió, quay mình lại. Một tên “cán bộ” sát khí đằng đằng lạnh lùng chĩa mũi súng vào tôi và nhìn tôi không chớp mắt.

Tôi vội nói:

-Báo cáo cán bộ, tôi, Y tế trại, đi cấp cứu.

-Vậy đèn đóm đâu hết?

-Bị gió lùa mới tắt!

Tên Cán bộ nhìn tôi gằn giọng:

-Lần sau đi không có đèn thì tôi bắn! Thôi anh đi đi!Tôi gật đầu chào nó, vội quay đi mà lòng còn ấm ức.

Tôi đi trong cái lạnh và cô đơn vô cùng của đêm khuya ở trại Z 30D Hàm Tân, khoảng 2, 3 giờ sáng, giữa hai hàng cây so đũa đưa đẩy cùng bóng tối, đang chập chờn uốn éo và cất tiếng hú xào xạc dưới cơn mưa lất phất nghe như tiếng rên xiết thở than của linh hồn những người tù ở trại đã bỏ mình quá nhiều vì bệnh tật, vì lao động khổ sai! Tôi thốt nhiên rùng mình xốc lại túi cứu thương nặng trĩu một bên vai, hai tay khép chặt tà áo mưa cúi mình rảo bước.Xa xa, lẫn trong tiếng gió, văng vẳng tiếng la lớn của một tù nhân:

-Báo cáo Cán bộ, buồng 9 có người bệnh nặng, xin cấp cứu!

Tiếng kêu được lập đi lập lại nhiều lần, thống thiết, khẩn cầu và khổ sở nhưng chứa chan tình đồng đội. Tôi chạy vội lại hướng đó.Ðêm khuya lắm rồi, trời lạnh thấu xương, cả trại Hàm Tân đang đắm chìm trong giấc ngủ đầy giá buốt và ác mộng, một giấc ngủ dật dờ không đầy giấc để tờ mờ sáng hôm sau, nghe kẻng báo thức, tất cả lại phờ phạc thức dậy, lại đi lao động, lại kéo dài cuộc sống khổ sai!

Ðến buồng 9, qua chấn song sắt của khung cửa hẹp, tôi thấy một số anh em còn thức, ngồi quây quần ở bục xi măng cuối phòng. Dưới ánh đèn le lói, khoảng giữa một số mùng đã được cuốn lên nhăn nhúm, có một thân hình bọc kín trong hai ba lớp chăn đang run lên từng chập, cất tiếng rên hừ hừ giữa hai hàm răng đánh lập cập. Mọi người chung quanh đang lo lắng, kẻ thoa dầu, người bắt gió. Trông thấy tôi, ai nấy đều thở phào, nhẹ nhõm:

-Y tế đến rồi, yên tâm đi, có gì thì khai với Bác sĩ.

Tôi vội hỏi người trưởng buồng:

-Ai bệnh vậy, anh Ngọc?

-Anh Loan đó anh.

Mọi người chung quanh vội đẩy anh Loan đến sát bờ cửa sổ vì cửa chính đang bị đóng kín với vòng xích sắt khổng lồ được khóa bằng một khóa Virex to tổ bố. Trong lúcđó, tôi cởi áo mưa, ngồi xổm xuống, mở túi cứu thương, lùa tay qua chấn song, kẹp nhiệt người bệnh, sờ trán thấy nóng như lửa, tốc mền bệnh nhân ấn chẩn, thấy đau vùng gan lách, bắt mạch thấy nhanh, đều, đọc nhiệt kế thấy 40 độ C. Tôi bảo bệnh nhân ngồi dậy để nghe tim, phổi, không có tiếng thổi bệnh lý, tuy nhịp có nhanh hơn vì đang sốt. Bệnh nhân khai sốt về chiều, rét run và đổ mồ hôi, ăn không ngon, miệng đắng, nhức đầu.

Tôi trấn an anh Loan, bảo anh đang lên cơn sốt rét và sau khi ra mồ hôi, thân nhiệt sẽ hạ và khỏe lại, không có gì đáng ngại. Tôi nhờ anh em vén cao tay áo anh Loan, làm garrot và dưới ánh đèn leo lét, tôi vỗ, vuốt, nắn, tìm veine mediane và chích ống Quinoserum vào tĩnh mạch một cách nhẹ nhàng và đầy kinh nghiệm, cái kinh nghiệm đắng cay và đầy linh động tính của một thầy thuốc trong trại tù thường khi phải hành xử những thủ thuật Y khoa trong mọi điều kiện thiếu thốn về vệ sinh, thuốc men, y cụ…

Mỗi lần phải cấp cứu trong đêm khuya, thường phải chẩn bệnh qua song sắt, mà khi chích thuốc, anh em tù nhân thường phải đứng nhón mông lên đúng giữa hai chấn song, và thầy thuốc định vị xong cũng phóng kim nhanh như chớp. Cái khó là chích gân (veine) qua khe cửa vì lấn cấn, tuy nhiên lâu ngày cũng quen dần nên mọi sự vẫn trôi chảy.

Chích thuốc xong, tôi đưa thêm anh Loan vài viên Quinine, Perymethamine và một viên an thần. Dặn anh cách sử dụng xong tôi về Phòng y tế. Trong giấc ngủ chập chờn, tôi mơ hồ nhớ lại hồi ở trại miền Trung.

***

Hồi ở trại Tiên Lãnh, tù nhân có ba bác sĩ là các anh Phùng Văn Hạnh, Vương Ngọc Lâm và tôi. Tuy nhiên, trại bảo chúng tôi là thành phần trí thức Tiểu tư sản nguy hiểm nên cả ba anh em chúng tôi không ai được làm Y tế. Tên trại trưởng chỉ định một anh cán sự Y tế (anh Hiển) lên làm Y tế trại để định bệnh và trị bệnh cho hàng ngàn tù nhân. Anh Hiển làm việc rất tận tâm và cũng được anh em thương mến, tuy nhiên vì bệnh nhân quá nhiều và có những trường hợp vượt quá khả năng của một Y tá nên thỉnh thoảng vẫn có những vấn đề nghiêm trọng xảy ra. Trong khi đó thì những Bác sĩ vẫn phải đi lao động khổ sai!

Anh Phùng Văn Hạnh đi nhổ mạ, tăng gia sản xuất. Anh Vương Ngọc Lâm theo đội 11 lên rừng đốn củi, một công việc rất nặng nhọc và theo chỉ tiêu tăng dần.

Có bữa đi lao động ngoài, gặp Lâm. Nhìn anh trong bộ Treillis tơi tả, lưng đeo túi cải thiện (vỏ đựng mìn Claymore), tay xách lon gô (guigoz), vai vác cây rựa cùn, mặt mày đen nhẻm, tôi cười bảo: Sao, ngày nay lại lên rừng khám bệnh cho khỉ à? Anh nhìn lại tôi,nói: Anh lại ra ruộng nghiên cứu chất Heparine chống đông máu à? (chất của đỉa tiết ra làm loảng máu để dễ hút). Hai thằng chua chát cười xòa rồi tôi vội đi nhanh cho kịp đội ra ruộng đàn piano -mò cỏ lúa -làm bạn với đỉa, với ếch nhái và rắn nước.

Bầu trời xanh lồng lộng gió nhưng tôi không thấy bầu trời theo hướng bình thường mà chỉ thấy một bầu trời đục nhờ nhợ, nhăn nhó lộn ngược phản chiếu trong mặt nước đục ngầu tanh tưởi dưới chân tôi. Tất cả bọn tù đều chổng mông, đầu cúi xuống, hai tay khuấy, mò, rứt những chòm cỏ mọc gần thân lúa. Thỉnh thoảng chớp được con nhái con ếch thì reo mừng cho vào túi cải thiện. Nếu gặp được bầy dế nhủi thì thật là béo bở. Chúng tôi đàn piano suốt ngày, khi nghe kiểng bãi, mừng rỡ bước lên bờ thì mặt nặng, chân phu, sưng vì dồn máu, lưng chồn gối mỏi, đĩa đeo đầy kẻ móng chân, có vài con lại mò lên hút máu gần chỗ bí hiểm, ngứa ngáy cùng mình, cảm thấy cuộc đời tù tội là cả một chuỗi ngày dài thê thảm và quá ảm đạm!

Một thời gian sau vì tù nhân chết quá nhiều, giao mùa Hè -Thu là thời gian sốt rét hoành hành song song với cường độ lao động căng thẳng thi đua sản xuất để thu hoạch vụ mùa. Tù nhân đi lao động mà như đang đi vào cõi chết, lừ đừ, mệt nhọc, tay chân làm mà tai chỉ lóng nghe tiếng kẻng bãi! Tai nạn lao động xảy ra liên miên: người bị tre đâm, kẻ bị sập nhà, người bị rắn cắn, kẻ bị cây đè, có bữa anh em lại đạp phải mìn bị thương nhiều người nên trại phải điều động Bác sĩ Hạnh lên phụ trách Y tế. Anh nguyên là Thiếu tá BS, trưởng Khoa xương ở bệnh viện Ða Khoa và Giám đốc một Bệnh viện tư ở Đà nẵng. Anh làm việc tận tụy bất kể ngày đêm. Việc anh khoái nhất là nhổ răng cho anh em và các tiểu phẩu; (BS Giải Phẩu, nên thấy máu là nhớ nghề lắm).

Trong thời gian đó anh Lâm bị tai nạn lao động vì khiêng cây quá nặng, vấp té ngồi trên một chồi cây đã vót nhọn làm rách toát hậu môn máu tuông xối xả. Anh em vội cõng về Bệnh xá cấp cứu và chính B.S. Hạnh đã khâu nhiều lớp trong ngoài rất đẹp và rất thành công. Một thời gian sau anh Lâm cũng được điều lên Bệnh xá. Tuy nhiên sau đó ít lâu thì nghe nói hai anh Hạnh và Lâm bị chế tài phải ra lao động lại vì phát biểu linh tinh.

Tôi, sau một thời gian lao động chết bỏ, cũng được điều lên Na Sơn, trại lẻ cách đó mười tám cây số đường núi, làm Y tế. Ở trại này là nơi sơn cùng thủy tận, đầy sương lam chướng khí, đêm đêm trong cái lạnh tê người, nằm nghe tiếng suối chảy róc rách lẫn với tiếng thác dội ì ầm, tiếng chim gõ mõ, thỉnh thoảng lại vang lên tiếng bóp bóp, bóp thì bóp của đôi chim đỗ quyên suốt đêm cô đơn đi tìm nhau mà hừng sáng là chấm dứt: một chuyện tình, một lời nhắn gọi đầy bi thảm, quyến luyến, thi vị và đầy kịch tính.

Có một lần, trong đêm, cả trại hầu như thức dậy xôn xao, sợ hãi vì một tiếng gầm rung chuyển cả núi rừng. Tiếng của chúa sơn lâm, đang giận dữ tìm mồi lẩn quẩn đâu đây gần doanh trại. Tôi rùng mình mơ màng, không tin rằng mình đang ở hậu bán thế kỷ 20, gần đầu thế kỷ 21, thời gian mà nền khoa học vũ trụ đang phát triển tột đỉnh với những trạm không gian có người ở, với hệ thống vệ tinh và những tàu con thoi tuyệt hảo mà thân phận những tù nhân Việt Nam phải còn ở nơi rừng xanh núi thẳm làm bạn với rắn rít, với hổ dữ, một kiếp sống nô lệ không tương lai, một cuộc sống cô lập với thế giới bên ngoài, hoàn toàn bị bưng bít sau bức màn sắt.Ở trại tù, tình trạng lao động nặng, lại thêm suy dinh dưỡng của anh em đã đến cực độ, thân mình chỉ còn da bọc xương, hoặc phù thũng vì thiếu ăn, thiếu sinh tố.

Anh em bị bệnh sốt rét rất nhiều (tôi cũng trải qua mấy cơn), kế đến là lao phổi, kiết lỵ, dạ dày, gan, thấp khớp và tim mạch, v.v. và v.v… Thuốc men giới hạn, thiếu ăn, đói khát, nên có lần tôi phải xin Cán bộ chăn nuôi cho một ít cám heo (thường hàm chứa một số Vitamine B1) để phát cho anh em quá suy dinh dưỡng đang bị phù thủng. Nhìn anh em nhận lon cám heo, đôi mắt rực sáng sung sướng tôi không khỏi ngậm ngùi nghĩ đến cái nhân vị con người ở mức độ không thường dưới chế độ Cộng sản.

Trong trại tù, đau răng là một bệnh hầu như mọi người đều mắc phải. Theo thống kê, đau răng khi lên cơn nhức thường có cường độ cao hơn khi đau đẻ. Khi chịu không nổi, anh em thường nhờ tôi nhổ (cũng nhờ tôi thưòng xem BS. Hạnh nhỗ cho các bạn tù, chính tôi cũng được anh nhỗ cho ba cái răng sâu). Tôi soạn dụng cụ nhổ răng gồm có hai thanh sắt nhỏ dẹp đầu, một cái dùng để nạy (tôi thường gọi là thanh xà beng), một cái sắc cạnh hơn dùng để tách và rọc nếu răng. Ngoài ra còn có một cây kềm mỏ cong như mỏ chim ưng, để nhổ.

Thấy tôi bày đồ ra anh em cứ tưởng tượng là dụng cụ sửa xe đạp thì hết hồn. Nhưng sau khi nấu sôi dụng cụ cùng với bông gòn để sát trùng, chích thuốc tê, tiếp đó bảo bệnh nhân ngồi trên chiếc ghế, dựa lưng sát tường, đầu ngẩn cao, lại nhờ một anh bạn mạnh bạo giữ thật chặc đầu bệnh, không cho lắc! Sau đó tôi dùng thủ thuật róc, tách nếu ra và lấy kềm mỏ cong (nhờ thợ rèn trong trại làm) kẹp chính xác, nhổ răng ra nhẹ nhàng thì anh em như cất được gánh nặng cám ơn rối rít. Có nhiều lúc, vì răng cấm quá chắc nên thầy thuốc, bệnh nhân cùng người kềm giữ đánh vật với nhau gần nữa tiếng mới xong, và cả ba đồng cưòi xoà và thở ra nhẹ nhỏm! Vì vậy, hầu như ngày nào cũng có người đăng ký nhổ răng.

Có những khi trại hết thuốc tê mà anh em đau quá, tôi phải dùng nước cất chích vào nếu răng để bệnh nhân yên trí là có thuốc tê (Phương pháp dùng thuốc tâm lý placebo) và tôi cũng nhổ được răng mà người bệnh quả nhiên không thấy đau bao nhiêu.

Có một thời gian thuốc thông thường, trụ sinh đều thiếu trầm trọng, Cán bộ Y tế chỉ cho được vài chai Xuyên tâm liên và quảng cáo đó là thuốc trị bá bệnh của nhà nước ta, vì vậy, đau đầu, nhức răng, khó ngủ, đau bụng, nhiễm trùng… tất cả đều được cấp phát Xuyên tâm liên mà sau này tôi gọi đùa là Xuyên tâm tiễn.

Có đôi lúc khâu vết thương rách toạt vì tai nạn lao động mà không có kim mỗ, tôi phải lấy kim may và chỉ may quần áo nấu sôi sát trùng và khâu vết thương, cho thêm trụ sinh và cắt chỉ năm hay bảy ngày sau.

Tóm lại, làm Y tế trại là phải quyền biến, thường phải dùng xuyên tâm trị liệu kết hợp với vật lý trị liệu, tâm lý trị liệu, cùng với thuốc tây, thuốc nam (cỏ mực để cầm máu, vỏ cây xoài để trị nhức răng, lá ổi nấu nước uống để cầm tiêu chảy…) Phải biết làm thầy mằn để trị bong gân, trật xương, phải biết châm cứu để trị đau lưng, mất ngủ, di tinh… Vì vậy tôi nhắn người nhà gởi lên cuốn châm cứu thực hành của cụ Thượng Trúc để biết thế nào là nhâm mạch, đốc mạch cùng 12 đường huyệt đạo chính trên cơ thể: thủ thái âm, thủ thiếu âm, túc khuyết âm, túc thiếu dương… hiểu thế nào là bá hội huyệt, phong phù, phong trì, thiếu dương, quan xung, đan điền v.v…

Cũng nhờ vậy mà tôi biết những tay viết kiếm hiệp thường dùng từ đả thông huyệt nhâm đốc, sinh tử huyền quan, kinh kỳ bát mạch và những tay xạo có hạng thường chế thêm ra chưởng thế này thế nọ, dùng cách không điểm huyệt cách sơn đả ngưu, câu hồn đại nã di tâm pháp. v.v…là cũng dựa vào tên các huyệt đạo này để lòe độc giả, làm mọi người say mê đến quên ăn bỏ ngủ một thời (trong đó cũng có tôi).

***

Hơn 12 năm trời rồi cũng trôi qua, lần tay đếm lại thấy số đậu trắng rất nhiều mà số đậu đen hầu như rất ít. Mừng, vì mình làm đuợc nhiều việc hữu ích cho anh em, 12 năm trời qua đi như một giấc mộng đớn đau ở chín tầng địa ngục, bây giờ mới thấy ánh bình minh!

Cuối cùng tôi cũng hết hạn tù, ra về với tâm hồn thanh thản vì đã sống được một cuộc sống đẹp và hết lòng với anh em, một cuộc sống không chút bợn nhơ, được anh em thương mến. Tôi ra về, anh em chào giã từ trong thương yêu và ngậm ngùi, có một vài bác già, bệnh nặng kinh niên, khi tôi về các bác mừng cho tôi nhưng lại lo lắng vì không biết ngưòi kế tiếp có nắm vững bệnhlý của các bác mà chữa trị không?! Tôi trấn an và bồi hồi chào giã biệt các bác.

Trên đường ra khỏi cổng trại, ngoảnh mặt lại, bùi ngùi vẫn thấy anh em vẫn lao động miệt mài khổ ải ở hiện trường, tôi bâng khuâng đưa tay vẫy anh em một lần nữa, anh em lưu luyến khẻ vẫy tay chào lại và trong ngấn mắt mờ lệ, tôi thoáng nhớ đến câu nói của một Văn sĩ nào đó: Trại tù không phải là nơi anh ăn ở suốt đời, sẽ có một ngày nào đó anh sẽ được trở về với gia đình, với xã hội. Ðiều quan trọng là anh ăn ở làm sao mà khi ra đời, gặp lại bạn tù, người ta vui vẻ chào anh, mời anh một điếu thuốc, chứ đừng để cho người ta phải tránh né anh, hoặc nhổ vào mặt anh một bãi nước miếng!

Tôi tự nhiên cảm thấy sung sướng thật sự vì mình đã không nằm ở vế thứ hai…

BS.Tôn Thất Sang

From: TU-PHUNG

Nước Mắt Trong Nail

Nước Mắt Trong Nail

Kiếp làm Nail, chủ cũng như thợ, đôi khi được dự phần vào những chuyện mủi lòng không thể quên.

“Nước Mắt Trong Nail,” chuyện thật, chuyện không hề thêu dệt vì bất cứ những dụng ý nào khác, đã xảy ra tại tiệm Solar Nails & Spa, Indianapolis.

Trời hôm ấy nóng, nóng lạ thường, làm người người dân địa phương ngạc nhiên về một ngày thứ Bảy trong cuối tháng Sáu. Một người đàn bà trạc tuổi trung lưu, ăn mặc đơn sơ, bước chầm chậm vào tiệm, hai tay ôm chặt cách tay của hai ông bà già, trạc tuổi 80, 90, yếu ớt, lê thê chân bước.

Sau khi cả ba người cùng ngồi vào ghế bồn làm chân, người đàn bà trung niên ngồi giữa, ông cụ già ngồi bên phải và bà cụ già ngồi bên trái của bà ta. Thỉnh thoảng, ông cụ thều thào: “Mẹ con đâu rồi?” ông lăp đi lặp lại hai ba lần. Người đàn bà đáp: “Ba ơi, Mẹ đây, Mẹ đang ngồi bên cạnh con đây.” Cứ cách vài phút, ông cụ lại lặp lại câu hỏi, “Mẹ con đâu rồi?” Người đàn bà nắm lấy bàn tay bên trái của cụ ông đặt lên bàn tay phải của cụ bà để bàn tay cụ ông được sờ vào bày tay cụ bà; “Ba ơi, Mẹ đây, tay Mẹ đây,” vừa nói, bà vừa quay qua cụ ông và theo dõi phản ứng của cụ.

Tôi thấy cử chỉ ân cần và kiên nhẫn của người đàn bà, cảm kích, liền tiến lại gần, hỏi han, mới biết được cụ ông trước đây là một luật sư, nhưng tuổi già, sức yếu, đã làm trí nhớ của ông hao mòn, nên thường xuyên hỏi, nhắc đến cụ bà.

Trong khi cả ba người đang được thợ lo chănn sóc móng chân, móng tay, một người đàn bà khác ngồi đối diện đến quày trả tiền và hỏi: “Ở đây có bán gift card không?” cô thư ký đáp: “Thưa có,” và lấy trong tủ ra một thẻ gift card bằng nhựa đưa cho bà. Bà hỏi, “Cô có loại gift card nào mà tôi có thể viết lên được không?” Cô thư ký đáp: “Thưa bà không.” Bà hỏi tiếp, “Vậy cô cho tôi mượn cây bút và cho tôi một mảnh giấy.”

Bà lấy bút giấy qua chiếc bàn đối diện, rồi trở lại, bà mua một gift card một trăm đô ($100.00). Bà nhờ cô thư ký mang tờ giấy bà vừa viết và gift card đến trao tận tay người đàn bà đang ngồi giữa hai ba mẹ già.

Cầm trong tay mảnh giấy, từng ngón tay của bà dần dần di động, mặt bà ửng đỏ. Rồi khuôn mặt bà bỗng dưng đổi sắc, từ trong khoé mắt, hai dòng lệ lăn dài xuống đôi má. Bà nghẹn ngào, lấy tay lau nước mắt.

Tôi đứng lặng yên, không ngăn nổi xúc động, mắt tôi ướt. Nhìn qua cô thư ký, nước mắt cô ta cũng đã làm ước cả đôi má. Tôi bước đi, trả lại cho bà khoảng trống riêng tư.

Khi mọi dịch vụ móng xong, tôi ghé lại nói với người đàn bà, “Bà ơi, bà có thể chia sẻ với tôi người phụ nữ kia đã viết cho bà những gì?”

Bà trao cho tôi tấm thư, tôi đọc:

“Chị mến, ngồi nhìn thấy chị ân cần lo cho ba mẹ già, lòng tôi thổn thức. Chị là người con hiếu thảo, người phụ nữ tuyệt vời, nhắc nhớ tôi, người con gái cũng đã chăm lo cho ba mẹ tôi trước đây, các ngài đã yên nghỉ bảy (7) năm về trước. Quả thật, ba mẹ chị thật diễm phúc có một người con hiếu thảo như chị. Chúc chị bình an!”

Đọc đến đây, người tôi nóng ran lên, nước mắt tôi lại giàn giụa khi nào chẳng hay.

Những dòng ngắn ngủi ấy, dường như không chỉ viết cho người đàn bà trước mặt tôi, mà như đã viết cho chính tôi vậy. Vì chính tôi, cũng đã lo chăm sóc cho mẹ già nhiều năm liệt  trên giường bệnh, Mẹ cũng mất trí nhớ; và Mẹ vừa mới mất năm rồi. Nỗi nhớ nhung Mẹ vẫn còn bao la và triền miên trong trái tim tôi.

Tôi ôm cánh tay ông cụ, dìu ông ra khỏi ghế và đưa ông bước chầm chậm ra khỏi tiệm; mở cửa, đỡ ông cụ ngồi an toàn nơi ghế sau của xe, đóng cửa và lui lại phía sau để xe lùi bánh. Tôi đứng nhìn chiếc xe đưa hai ông bà cụ chạy ra khỏi khu shopping, rồi dần dần khuất xa cuối đường.

Tôi đứng lặng yên, nắng nóng, gió nhẹ thoáng xoa vào mặt, nghĩ miên man về người đàn bà hiếu thảo, nghĩ về mình, nghĩ về Mẹ, lòng lâng lâng, lâng lâng.

Rồi từ đó, tôi tìm thấy nơi tiệm Nail, không phải chỉ là nơi mưu sinh, kiếm tiền, mà còn là nơi con người tìm thấy con người. Tôi tìm thấy rất nhiều niềm vui và ngay cả những muộn phiền của khách trang trải trong những phút giây ngồi nơi bàn làm móng tay, hay nơi ghế làm móng chân, hay cả những lúc khách ngồi lặng yên, bất động, nhắm mắt như đang thả hồn về chốn xa xăm nào.

Tôi cảm nghiệm, tiệm Nail không còn là của mình, của riêng ai, mà là nơi đã cho mọi người trong giới Nail cơ hội tiếp cận với con người trong một cung cách hết sức thâm tình. Nhiều khách hàng khi nằm xuống còn yêu cầu con cháu họ đã gọi báo cho những thợ Nail, tiệm Nail như một lời chia tay, vĩnh biệt, đã song hành với người thân của họ, người quá cố, với những sinh hoạt của đời sống đáng nhớ.

Nguồn: Internet.

From: TU-PHUNG

Trạm Cuối Cuộc Đời

Các bạn già:

Tạm quên đi chính trị, chính em bây giờ, dành đôi phút đọc qua, hay đọc lại, bài viết về trạm cuối cuộc đời.

Cá nhân tác giả , thấu hiểu nổi buồn khôn tả khi phải sống ở nursing home, dù là skill nursing home, một ngày sống ở đó, là một ngày đầy đau khổ và chán nản, buồn phiền !!!.

Bây giờ, mình còn phân nửa bên cạnh, là có phước lắm rồi. Một mai, không thể tự lo và phân nửa đã đi trước về phương trời nào đó, có lẻ là những ngày buồn tẻ, và u ám tột cùng khi phải vào nhà nursing home.

Trạm Cuối Cuộc Đời.

Chú Chín Cali Sống ở Mỹ khá lâu nên tôi ít nhiều cũng bị ảnh hưởng tư tưởng của người Mỹ nên không có ý định nhờ vả con cái khi tuổi về chiều.

Một ngày nào đó khi thấy mình không còn khả năng để tự lo cho mình được nữa tôi sẽ vào sống trong các “Boarding care” để có người chăm sóc, nếu tệ hơn sẽ được hưởng những phúc lợi dành cho người cao niên và được bảo vệ bởi hệ thống an ninh xã hội Mỹ.

Ở Mỹ có “Nursing Home” được trang bị đầy đủ phương tiện, kỹ thuật và nhân sự chuyên môn để chăm sóc những người không còn khả năng tự lo cho mình, có “Hospice Service” chăm sóc vật chất lẫn tinh thần cho các bệnh nhân không thể sống hơn sáu tháng, giúp họ ra đi trong yên bình và giúp gia đình họ vượt qua giai đoạn khó khăn nhất.

Nhưng tư tưởng lạc quan này đã hoàn toàn thay đổi từ khi tôi thật sự đối diện với tử thần và nếm mùi bệnh viện sau khi trải qua một cơn bạo bệnh phải vào bệnh viện trong 10 ngày.

Tuy đã được thoát chết, vết thương mổ xẻ đã lành, nhưng những đau đớn về thể xác và vết thương tâm thần mà bệnh viện để lại vẫn còn hằn sâu trong ký ức không bao giờ lành.
Từ đấy tôi bắt đầu thấy sợ bệnh viện, sợ luôn cả nursing home vì đây chẳng qua chỉ là một hình thức khác của bệnh viện, bệnh viện của người già.

Từ tâm trạng sợ hãi này tôi liên tưởng đến 4 năm hãi hùng mà nhạc mẫu tôi phải trải qua trong nursing home trước khi bà mất.

Từ đấy những quảng cáo đẹp về nursing home với hình ảnh những cụ già vui chơi hạnh phúc được thay thế bằng những hình ảnh đau khổ của nhạc mẫu tôi và của những cụ già ngồi xe lăn ủ rủ, nghiêng ngả, cong queo, nhễu nhão, những gương mặt mếu máo, những ánh mắt vô thần.

Chúng tôi may mắn được sống chung với cha mẹ vợ vì bà xã tôi là con gái út.

Lúc còn khỏe ông bà nhạc của tôi quán xuyến hết mọi chuyện trong nhà để vợ chồng tôi được rảnh tay lo chuyện ngoài xã hội.

Hai con tôi gần gũi với ông bà ngoại nhiều hơn với cha mẹ chúng. Đi học về vừa đến cổng nhà là đã réo gọi ông bà ngoại.

Tuy nuôi con nhưng thật ra tôi chưa biết thay tã hay cho con bú! Kể cả tiếng Việt chúng nói đều nhờ ông bà dạy từ ngày chúng bập bẹ tập nói.

Nhưng cuộc sống hạnh phúc chấm dứt từ khi nhạc mẫu tôi ngã bệnh.
Năm 78 tuổi, sau chuyến du lịch Việt Nam về, mẹ nằm suốt trong phòng, than mệt. Ngoài bệnh tiểu đường loại 2 mãn tính, mẹ thường xuyên bị nhiễm trùng đường tiểu, đau cột sống, ho kinh niên và sau đó khám phá ra bị ung thư phổi.

Từ đấy bà ra vào bệnh viện như đi chợ. Thiếu bàn tay của mẹ, gia đình tôi rối loạn lung tung, con cái đi học trễ, cơm nước thất thường, nhà cửa bề bộn.

Vợ chồng tôi phải tập lại từ đầu cách quán xuyến gia đình, nuôi con, thêm nuôi mẹ già trong bệnh viện. Bố cũng yếu chỉ hụ hợ chuyện lấy thơ, đổ rác, đóng cổng là đã than mệt rồi.

Bác sĩ ung thư khuyến cáo không nên mổ xẻ hoặc trị liệu gì cho mẹ vì ung thư đã di căn đến não.

Hơn nữa tuổi mẹ đã quá cao lại bị bệnh tiểu đường nên vết mổ không lành. Hãy để cho thiên nhiên quyết định vận mệnh của mẹ.

Tôi giấu nhẹm lời bác sĩ bảo rằng mẹ chỉ sống tối đa là sáu tháng. Mẹ được cho về nhà với lời khuyên “thích ăn cái gì cho bà ăn cái nấy”.
Nhưng “Còn nước còn tát” chúng tôi không chịu thua, chạy chữa bệnh cho mẹ bằng thuốc nam. Ai bày thuốc gì ở đâu tôi cũng tìm cho được.
Khi lái xe mắt tôi cũng láo liên nhìn bên lề đường, dọc theo các hàng rào tìm cây cỏ “Dendelion” để hái lá cho mẹ ăn. Nghe nhà ai có cây Nha Đam chúng tôi cũng tìm đến xin hay mua cho bằng được. Bã xã tôi cầu nguyện cho mẹ hàng ngày không xao lãng.

Như được một phép nhiệm mầu, bệnh ung thư của mẹ tôi thuyên giảm dần dần và sau mấy tháng khối u trong phổi tự nhiên biến mất.

Bác sĩ gia đình rất vui bảo “Đừng thắc mắc, hãy cứ tin là như vậy đi”.
Nhạc mẫu tôi thì tin là mình đã khỏi bệnh thật, còn vợ chồng tôi thì gần như kiệt lực, mong sau phép lạ sẽ kéo dài.

Bệnh ung thư không thấy trở lại, nhưng bệnh đau cột sống làm mẹ đau đớn không ăn ngủ được nên sinh ra khó tính.

Mẹ lại quên trước quên sau. Mẹ không còn kiểm soát được tiêu tiểu nữa nhưng nhất định không chịu mang tã. Bố cũng già mệt mỏi, suốt ngày ngủ trong phòng. Ông bà lại không biết tiếng Mỹ, không dùng điện thoại, nên khi vợ chồng tôi đi làm lúc nào cũng phập phồng lo sợ.
Bác sĩ gia đình đề nghị nên cho mẹ vào nursing home để dễ bề chăm sóc. Vợ chồng tôi đồng ý ngay nhưng gặp sự phản kháng quyết liệt của nhạc mẫu tôi.
Suốt đời mẹ không bao giờ xa gia đình nửa bước nói chi chuyện cách ly vĩnh viễn!

Đối với mẹ, mất gia đình là mất tất cả. Chúng tôi nể mẹ nên không dám nói chuyện nursing home nửa, chỉ sợ làm mẹ buồn ảnh hưởng đến sức khỏe.

Nhưng sức khỏe của mẹ càng lúc càng tệ. Sau lần cấp cứu cuối cùng vì bị ngất xỉu, bác sĩ đề nghị phải đưa thẳng mẹ vào nursing home, vì theo ông, đó là cách tốt nhất để bác sĩ có thể theo dõi bệnh tình và giữ an toàn cho mẹ.

Ngày đầu tiên vào nursing home không ai nỡ bỏ mẹ một mình nên quấn quýt bên bà cho đến tối rồi cũng phải ra về. Đó là ngày đầu tiên trong cuộc đời mẹ phải sống lẻ loi một mình bên những người xa lạ.

Tôi còn nhớ rõ gương mặt thẫn thờ của mẹ nhìn theo con cháu đang bỏ bà mà đi. Tôi không dám nhìn mẹ lâu hơn vì tôi thấy mẹ khóc, một điều rất lạ đối với nhạc mẫu tôi vốn là người đàn bà cang cường và cứng rắn.
Bố thấy tội nghiệp đòi mỗi ngày chở bố vào nursing home để ông chăm sóc cho mẹ. Được mấy tuần rồi tôi cũng chịu thua vì chuyện đón đưa hàng ngày thật là bất tiện….
Còn nếu để bố đi xe bus nếu có chuyện gì xảy ra thì ai lo cho bố đây!

Từ ngày Mẹ vào nursing home vợ chồng tôi thở phào nhẹ nhõm, không còn phải lo lắng như khi xưa khi bỏ mẹ ở nhà.. Chúng tôi yên tâm là mẹ được theo dõi và chăm sóc 24/7.
Tan sở vợ chồng tôi chở bố vào thăm mẹ, thấy mẹ sạch sẽ thơm tho, giường nệm trắng tinh, kẻ qua người lại tấp nập vui vẻ lắm.
Yên tâm chúng tôi dần dần xao lãng việc thăm viếng…. Cả hai cháu cũng không còn đòi đi thăm ngoại nữa, nhiều khi phải bắt chúng mới chịu đi. Chúng không thích cái mùi trong nursing home.

Từ ngày sống trong nursing home mẹ hoàn toàn thay đổi, trở nên trầm lặng, ít nói, khác hẳn với mẹ trước đó “quậy” tưng bừng trong bệnh viện.

Mẹ chịu mang tã, nằm yên trên giường, không có ý kiến chuyện chung quanh, không đòi hỏi gì, không còn than phiền đau lưng nhức gối, hay càu nhàu vì thiếu ngủ, mất ăn như lúc ở nhà.

Sau này mới biết bà đã được cho dùng thuốc an thần và thuốc đau nhức nồng độ cao nên lúc nào bà cũng ở trạng thái lờ đờ lim dim ngủ.
Có lúc tỉnh táo, mẹ chỉ nhìn qua khung cửa sổ với đôi mắt vô thần. Hỏi mẹ có đau đớn gì không, mẹ lắc đầu. Hỏi có thích ăn uống đồ ăn Việt Nam không mẹ lắc đầu, tuy tôi biết là mẹ rất ghét đồ ăn Mỹ nhất là khẩu phần cho bệnh nhân tiểu đường và cao máu nhạt nhẽo không sao nuốt nổi.
Mẹ chịu đựng, sống âm thầm không một lời than thở.

Cho đến một hôm mẹ nắm tay nhà tôi, nước mắt rưng rưng mẹ van xin:
– Mẹ muốn chết con à. Con xin người ta cho mẹ chết đi!
Bà xã tôi sững sờ, ôm mẹ năn nỉ:
– Mẹ đừng nói kỳ vậy, phải ráng lên chớ, con biết phải làm sao bây giờ? Rồi vợ tôi cũng khóc. Tôi chỉ đứng nhìn. “Chúng tôi biết phải làm sao bây giờ”?
Vợ chồng tôi đều nghĩ rằng đã tìm được giải pháp tốt nhất cho mẹ rồi. Mẹ thì đã “ráng” quá nhiều, ráng đến mỏi mòn, đến kiệt quệ nên muốn bỏ cuộc.
Đã bốn năm dài đằng đẵng mẹ sống nơi đây như cái xác không hồn.

Có lúc chúng tôi vào thăm mẹ vào giờ ăn trưa thấy mẹ ngồi gục đầu trên xe lăn như một em bé ngoan, mắt nhắm nghiền, đợi đến phiên mình há mồm được đút cho ăn. Mẹ không còn thiết tha gì nữa.
Những tháng cuối cùng mẹ nằm trên giường đưa mắt nhìn con cháu, không cử động hoặc nói năng gì. Hình như có điều gì u uẩn trong lòng mà mẹ không nói được hay mẹ có tâm sự gì nhưng muốn giấu kín trong lòng.

Một buổi sáng sớm, tôi nhận được cú điện thoại từ nursing home báo tin là mẹ chúng tôi đã mất đêm qua.
Bà mất lúc nửa đêm nên không ai hay biết cho đến sáng ngày hôm sau.
Bà âm thầm ra đi không một lời từ giả, không một giọt nước mắt tiễn đưa. Chắc mẹ cô đơn lắm lúc trút hơi thở cuối cùng. Suốt đời mẹ lo cho chồng, cho con, cho cháu, ngày mẹ ra đi chỉ có một mình, trong cô đơn. Có ai biết rằng không phải mẹ chỉ cô đơn trong giây phút ra đi mà mẹ đã chết từ lâu rồi, kể từ ngày mẹ bước chân vào ngưỡng cửa nursing home, một nhà tù không cần đóng cửa.

Tôi chợt hiểu được tại sao mẹ đã khóc ngày đầu tiên đến nursing home. Ngày ấy mẹ chấp nhận bản án tử hình không văn tự vì muốn hy sinh cho con cái. Ngày ấy Mẹ đã khóc lời vĩnh biệt các con cháu rồi.
Chúng tôi vội vã vào nursing home vừa kịp lúc nhìn mẹ lần cuối cùng trước khi người ta phủ kín mặt mẹ với tấm trải giường màu trắng rồi mang xác mẹ đi. Mọi người đứng nhìn theo chết đứng, ngỡ ngàng, đớn đau, nhưng không ai khóc thành lời.Chúng tôi đã biết là ngày này sẽ đến với mẹ, và hôm nay nó đã đến.

Cái chết của nhạc mẫu nhắc tôi nhớ lại chuyện cổ tích về chuyện người tiều phu đẩy xe chở mẹ vào rừng cho thú hoang ăn thịt vì bà đã quá già.
Tôi có khác gì người tiều phu đó, đã đưa nhạc mẫu tôi vào nursing home để chết. Đến một ngày nào sẽ đến lượt con tôi chở tôi đi như vậy sao?

Tôi lại nhớ đến chuyện con voi già biết mình sắp chết, nó âm thầm đi vào cái “nghĩa địa voi” là cái hang động cho voi đến để chết.
Nó âm thầm gục chết một mình bên cạnh những đống xương voi già đã chết trước nó. Tôi chợt nghĩ nếu con người làm được như con voi già thì con cháu không phải cực khổ vì cha mẹ già, không phải khổ tâm vì mặc cảm là đã làm một hành động bất nhân, bất hiếu, như tâm trạng hối hận của tôi bây giờ đối với nhạc mẫu của tôi.

Nursing home. Cái trạm cuối của cuộc đời mấy ai tránh khỏi!
Bạn đã chọn cho mình cách đến chưa?

Chú Chín Cali

From: Doan Dang

image.png

  Trong họa có phúc, trong phúc có họa…

  Trong họa có phúc, trong phúc có họa…

 Người gác cửa muốn chia sẻ nỗi vất vả với Chúa Jesus, nhưng quả thực những điều mắt thấy tai nghe lại không phải như những gì mà anh ta nghĩ. Có một câu chuyện kể rằng: Trong một giáo đường, có một bức tượng Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự giá, kích cỡ gần bằng người bình thường. Nơi đây được mọi người cho là “cầu được ước thấy”, rất linh thiêng, người khắp nơi tấp nập đến cầu nguyện, lễ bái, dòng người đông như trẩy hội

Trong giáo đường có một người gác cửa, mỗi ngày nhìn thấy Chúa Jesus trên thập tự giá, đều phải lắng nghe lời cầu nguyện của nhiều người như vậy, cảm thấy không đành lòng, nên hy vọng có thể chia sẻ nỗi vất vả với chúa Jesus. Một hôm, ông ta hướng đến Chúa Jesus bày tỏ tâm nguyện này.

Thật bất ngờ, ông nghe được một giọng nói: “Tốt lắm! Ta sẽ xuống dưới canh cửa cho anh, còn anh thì sẽ lên thập tự giá thay ta. Nhưng mà, có một điều kiện, bất luận anh thấy cái gì, nghe được điều gì, đều không được nói câu nào”. Người đàn ông này cảm thấy có thể làm được, thấy yêu cầu này thật đơn giản.

Vì thế Chúa Jesus xuống dưới, còn người đàn ông gác cửa thì thay thế vị trí của Chúa Jesus. Bởi vì kích cỡ của bức tượng cũng tương đương với người thật, nhìn cũng không thấy sai biệt nhiều lắm, vậy nên những người đến cầu nguyện cũng không nghi ngờ gì. Và người đàn ông này cũng như đã hứa, đóng giả Chúa Jesus, im lặng không nói gì.

Dòng người lui tới nối liền không dứt, bọn họ khẩn cầu, có điều hợp lý, có điều không hợp lý. Nhưng bất kể như thế nào, người gác cửa đóng giả Chúa Jesus đều cố nén không nói gì, bởi vì nhủ lòng mình phải tuân thủ lời hứa.

Đến một ngày, có một vị thương nhân giàu có đi tới, sau khi cầu nguyện xong thì quên mất không mang theo túi của mình. Người gác cửa nhìn thấy, muốn gọi vị thương nhân kia quay lại, nhưng mà cuối cùng phải nhịn lại không thể nói. 

 Tiếp sau đó, có một người nghèo khổ rách rưới đi đến, cầu nguyện Chúa Jesus giúp anh vượt qua cuộc sống khó khăn này. Khi chuẩn bị rời đi thì phát hiện một cái túi to, bèn mở ra thì thấy bên trong có rất nhiều tiền. Anh ta mừng rỡ, nói rằng Chúa Jesus thật linh nghiệm, cầu được ước thấy, phủ phục cảm tạ rồi rời đi.

Trên thập tự giá, người gác cửa chứng kiến tất cả chuyện này, muốn mở miệng nói túi tiền kia không phải của anh. Nhưng mà vì ước định lúc trước, nên đành phải nhịn lại không thể nói. Kế tiếp có một người thanh niên trẻ tuổi bước vào, anh này chuẩn bị lên thuyền ra biển, nên đến cầu khẩn Chúa Jesus cho mình được may mắn bình an.

Đang lúc chuẩn bị rời đi thì vị thương nhân lúc trước đột nhiên xông tới, túm lấy vạt áo người thanh niên trẻ tuổi này, yêu cầu trả lại túi tiền. Người thanh niên không hiểu chuyện gì, vậy là hai người cãi cọ ầm ĩ cả lên. Lúc này, trên thập tự giá, người gác cửa đóng giả Chúa Jesus rốt cuộc nhịn không được, đành phải mở miệng nói. Chuyện được nói ra rõ ràng, vị thương nhân liền đi tìm người nghèo khổ kia để đòi lại tiền, còn người thanh niên trẻ tuổi cũng vội vã rời đi để kịp giờ lên thuyền ra biển.

Lúc này Chúa Jesus thật mới bước ra, chỉ tay lên thập tự giá nói: “Anh xuống đây đi! Vị trí kia anh không thể đảm trách được”. 

 Người gác cửa nói: “Tôi đem sự thật nói ra, bảo vệ lẽ phải, chẳng lẽ không đúng sao?”.

Chúa Jesus nói: “Anh biết được gì chứ? Vị thương nhân kia cũng không thiếu tiền, cái túi tiền kia bất quá chỉ là dùng để ăn chơi trác táng, nhưng đối với người nghèo kia lại có thể là sinh kế cứu sống cả nhà; đáng thương nhất chính là người thanh niên trẻ tuổi, nếu vị thương nhân cứ gây sự với cậu ta, dây dưa làm lỡ thời gian của cậu ấy, thì may ra có thể bảo toàn tính mạng, còn bây giờ cậu ta đã lên thuyền, đã bị đắm chìm trong biển nước rồi”.

Nghe vậy người gác cổng lặng người….

Câu chuyện ngắn này đã cho chúng ta thấy được nhiều điều ý nghĩa. Trong cuộc sống hàng ngày, người ta thường kỳ vọng những điều tốt nhất, và khi hễ không được như ý nguyện, thì vội than thân trách phận, thậm chí than trách ông trời bất công đối với mình.


Tuy nhiên, những điều chúng ta nhìn thấy và cho là đúng nhưng chưa hẳn đã đúng, điều cho là không tốt, lại chưa hẳn đã không tốt. Người xưa cũng thường nói, trong cái rủi có cái may, trong họa lại có phúc. Vậy nên, chúng ta nên tin tưởng rằng, những điều xảy ra trước mắt, cho dù là thuận cảnh hay nghịch cảnh, thì tất thảy đều là những an bài tốt nhất đối với mình. Bởi vậy, mới có câu nói rằng, thuận theo tự nhiên cũng là một loại phúc.

Và còn một điều nữa, con người cũng chỉ là con người, dùng lối suy nghĩ của con người để “tưởng tưởng” các vị Phật, Đạo, Thần, Chúa rằng các Ngài chắc hẳn cũng có lối nghĩ giống mình, nhưng họ không hiểu được một điều rằng… con người quá nhỏ bé, trí tuệ thì nông cạn, lại còn mang theo các quan niệm ích kỷ, vị tư khác nhau, thì làm sao mà có thể giống như các vị ấy được? 

 Những vị thần có trí tuệ vô biên, một trái tim bao la chứ không phải một trái tim nhỏ nhoi, nhìn thấu được bản chất của sự vật, bản chất của vật chất, nhìn thấu hết thảy, những sinh mệnh cao cấp này điều hành vũ trụ theo đúng quy luật tự nhiên vốn có của nó! 

 Vậy nên, chỉ có đặt niềm tin vô điều kiện vào các thế lực siêu nhiên, với một trái tim chân thật và thiện lương, thì loài người mới cảm thấy được sự từ bi và bao dung rộng lớn của các ngài, mới có được một cuộc sống hạnh phúc đúng nghĩa!

 nguồn trên mạng

 From: TU-PHUNG

Có tiền ở Việt Nam sướng hơn

Kimtrong Lam

Có tiền ở Việt Nam sướng hơn

Tác giả : Nguyễn Thị Thanh Dương.

Ngày đăng: 2020-10-10

Lan nhận được cú phone của chị Tư từ Việt Nam gọi sang lúc 5 giờ chiều tức 5 giờ sáng bên Việt Nam. Chẳng biết có chuyện gì làm chị Tư phải gọi sớm thế. Tiếng chị Tư hối hả:

– Lan à, suốt đêm qua buồn quá chị không ngủ được chỉ mong mau sáng để gọi cô.

Lan lo lắng và hồi hộp:

– Nhà xảy ra chuyện gì vậy chị Tư?

– Chị quyết định lại rồi. bây giờ chị…muốn đi Mỹ. Ðược không?

Lan kêu lên:

– Trời, chị đã từ chối, sở di trú Mỹ đóng hồ sơ lâu rồi. Làm sao đi?

– Bởi vậy chị mới cầu cứu em. Em làm đơn giải thích với sở di trú và xin mở lại hồ sơ giùm chị nha.

Chị Tư thở than:

– Bây giờ chị mới biết là mình sai lầm, mình…ngu quá em ơi. Thằng Tú tốt nghiệp đại học không xin được việc làm nó đang buồn chán. Trong khi hai con của anh Hai và chị Ba ở Mỹ học xong đại học ra trường có việc làm, lương cao ngon lành. Con chị cũng học giỏi chăm ngoan, nó mà qua Mỹ thì thua kém gì các anh chị họ của nó chớ.

– Chị kêu nó nộp đơn xin việc nhiều nơi xem sao, đừng vội nản chí. Ở Mỹ xin việc cũng thế thôi.

Chị Tư chán nản:

– Những công ty nhỏ đồng lương không đủ cho con chị… tiêu vặt và thường chết yểu, hôm nay hoạt động rầm rộ mai chết mấy hồi, còn những công ty nước ngoài hay công ty lớn thì ưu tiên tuyển chọn những bằng cấp tốt nghiệp nước ngoài, nhất là nước Mỹ thế mới chua xót cho chị, hoặc là tuyển con ông cháu cha không à… chị cũng đang tìm cách “thủ tục đầu tiên” xin việc cho nó được một chỗ ngon lành mà chưa xong…

– Ở Mỹ cũng có cảnh ra trường không xin được việc làm, đó là tùy vào số cung số cầu. Nhưng rất công bằng, không phải chạy chọt nhờ vả ai hết.

Chị Tư năn nỉ:

– Bởi vậy chị mới thấy thương thấy tiếc cho thằng con chị. Em làm gấp đơn khiếu nại… À quên đơn thỉnh nguyện cho chị đi Lan, nước Mỹ bao dung nhân đạo lắm mà. Chắc họ sẽ… thông cảm.

Hồ sơ bảo lãnh đã đóng mấy năm nay, ai rảnh mà ngồi đó cứu xét thông cảm cho từng hoàn cảnh gia đình. Nhưng Lan thương chị nên vẫn hứa:

– Ðược rồi, để hôm nào em đến sở di trú địa phương hỏi cho cặn kẽ xem có thể xin mở hồ sơ lại không. Em sẽ cố hết sức.

o O o

Lan là người con duy nhất đi xuất cảnh cùng với cha theo diện HO. Anh Hai, chị Ba, chị Tư đều đã quá tuổi và có gia đình con cái nên không được đi cùng.

Sang Mỹ, được hưởng cuộc sống thoải mái về tinh thần và vật chất cha và Lan đều mong muốn những người thân còn lại sang đây đoàn tụ. Cha đã làm việc chăm chỉ và thi quốc tịch ngay khi đến thời hạn cho phép.

Bốn năm sau Lan gởi đơn cha bảo lãnh về cho các anh chị. Diện cha bảo lãnh con đã có gia đình phải mất thời gian dài khoảng 4-5 năm nhưng vẫn còn kịp cho đám con của các anh chị khi chúng sang Mỹ, đứa lớn nhất cũng độ tuổi bắt đầu vào đại học. Thật là thuận lợi.

Anh Hai, chị Ba háo hức gởi giấy tờ sang cho Lan để bổ túc hồ sơ bảo lãnh, còn gia đình chị Tư thì… không.

Chồng chị Tư đang là nhân viên nhà đất của huyện, công việc hái ra tiền ra bạc. Ngoài tiền người ta mang đến nhà “làm quà” để chồng chị ký giấy tờ cho họ, anh còn lạm dụng chức vụ mua được những mảnh đất lợi thế cho tương lai với giá rẻ, chỉ vài năm sau những miếng đất chốn đồng không mông quạnh, khỉ ho cò gáy ấy đã trở thành “đất vàng”. Tiền của đất đai bề bề như thế nên anh chị Tư không màng chuyện đi Mỹ.

Chị Tư nói có tiền ở Việt Nam sướng hơn, muốn gì cũng có cần gì phải đi Mỹ để phải làm lại từ đầu. Ðọc báo thấy mấy Việt kiều và mấy nghệ sĩ hải ngoại tâm tình hồi mới sang Mỹ phải đi chùi cầu tiêu cực khổ mà thương.

Lan đã giải thích những người sang Mỹ đủ loại thành phần, họ bắt đầu cuộc sống bằng nhiều cách, nhiều công việc khác nhau, không phải ai đến Mỹ cũng đi chùi cầu tiêu. Mà dù họ có làm công việc ấy hay bất cứ công việc tầm thường nào khác cũng chỉ là tạm bợ lúc mới chân ướt chân ráo đến Mỹ. Biết bao người Việt đã thành công, thành người và thành danh từ những bước đầu tiên khó khăn ấy.

Chị Tư liền khoe:

– Em à, anh chị nhà cao cửa rộng, có người giúp việc, các con chị được hầu hạ cưng chiều sướng như tiên. Có buổi sáng cô giúp việc quen lệ mua về đĩa bánh ướt giò lụa, con chị đổi ý là cô ta phải chạy ba chân bốn cẳng ra ngoài mua ngay tô hủ tiếu cho nó điểm tâm. Còn chuyện học hành hả? không lo, mai mốt chúng lớn chị sẽ cho cả ba đứa con sang Mỹ du học, tốn kém bao nhiêu đối với chị cũng không thành vấn đề.

Lan vẫn cố công thuyết phục vợ chồng chị Tư cứ gởi giấy tờ qua Mỹ để Lan hoàn thành hồ sơ bảo lãnh đoàn tụ, vài năm sau được phỏng vấn đi Mỹ quyết định lại cũng còn kịp. Họ nể lời cô em và sự mong muốn thúc giục của người cha nên đã gởi đầy đủ các giấy tờ cần thiết cho xong chuyện.

Dù ai muốn hay không thì thời gian vẫn trôi qua. Cả ba gia đình anh Hai, chị Ba và chị Tư đều lần lượt được phái đoàn Mỹ gọi phỏng vấn.

Gia đình anh Hai, chị Ba xuất cảnh sang Mỹ trong khi gia đình chị Tư cứ hẹn đi hẹn lại với phái đoàn Mỹ với những lý do bận giải quyết chuyện gia đình cho đến khi sở di trú Mỹ gởi một lá thư và mời đi phỏng vấn lần cuối, nếu không đi thì họ sẽ đóng hồ sơ.

Sang Mỹ, gia đình anh Hai, chị Ba mau chóng hội nhập cuộc sống mới. Bước đầu các anh chị xin việc làm ở các nhà hàng, giúp việc trong tiệm giặt Việt Nam để có tiền ngay. Sau đó họ xin làm việc trong các hãng xưởng có những quyền lợi bảo hiểm y tế và những lợi ích khác, nhất là công việc ổn định hơn.

Các con họ đều đến trường, đứa nhỏ vào trung học, đứa lớn vào college. Tuổi còn nhỏ và rất trẻ nên chúng tiến bộ nhanh về ngôn ngữ và chuyện học hành.

Cả nhà đều tiếc vợ chồng chị Tư đã từ chối đi Mỹ. Họ vẫn làm ra nhiều tiền của và không thay đổi suy nghĩ: Có tiền ở Việt Nam sướng hơn!

Nhiều người Việt sinh sống tại Mỹ cũng nhìn đời đơn giản hời hợt như thế, hoặc họ bất mãn gì đó, hoặc họ không thành công trong cuộc sống ở Mỹ. Bảo lãnh người thân sang đây làm gì, phải đi làm vất vả cực như…trâu. Ở Việt Nam có tiền vẫn sướng hơn.

Thằng Tú, con lớn nhà chị Tư xong trung học là hào hứng làm giấy tờ xin đi du học Mỹ nhưng không hiểu vì lý do gì khi phỏng vấn bị từ chối. Nó buồn lắm.

Anh chị Tư thương con, khuyên con xin du học ở Úc hay Singapore nhưng nó không nghe, chỉ muốn du học Mỹ vì nghe các anh chị, con của anh Hai chị Ba bên Mỹ kể chuyện học hành, trường lớp, nó đã thích mê. Nó trách cha mẹ sao ngày ấy không chịu đi Mỹ để nó được bằng các anh chị họ của nó. Chị Tư nghe con trách mà xót xa, đôi khi chị cũng tiếc rẻ về quyết định của mình nhưng vẫn lựa lời an ủi:

– Ở đây có tiền của cũng sung sướng con ơi.

Tú thi đậu vào đại học. Chị Tư lên Sài Gòn mua hẳn một căn nhà đẹp cho con ở để ăn học. Chị mua được mọi thứ tiện nghi cho con, nhưng vẫn không mua được cuộc sống bên Mỹ, trường đại học Mỹ cho nó.

Nó không nghe, chỉ muốn du học Mỹ vì nghe các anh chị, con của anh Hai chị Ba bên Mỹ kể chuyện học hành, trường lớp, nó đã thích mê. Nó trách cha mẹ sao ngày ấy không chịu đi Mỹ để nó được bằng các anh chị họ của nó. Chị Tư nghe con trách mà xót xa, đôi khi chị cũng tiếc rẻ về quyết định của mình nhưng vẫn lựa lời an ủi:

– Ở đây có tiền của cũng sung sướng con ơi.

Tú thi đậu vào đại học. Chị Tư lên Sài Gòn mua hẳn một căn nhà đẹp cho con ở để ăn học. Chị mua được mọi thứ tiện nghi cho con, nhưng vẫn không mua được cuộc sống bên Mỹ, trường đại học Mỹ cho nó.

Ðể rồi ngày hôm nay, các con của anh Hai, chị Ba học đại học nọ kia bên Mỹ, ra trường đi làm thì thằng Tú con trai lớn của vợ chồng chị vẫn chỉ cầm cái bằng đại học ở Việt Nam đi xin việc nơi nào cũng gặp khó khăn. Làm sao mà chị không ganh tị.

Anh Hai, chị Ba lúc ở Việt Nam chẳng khá giả gì. Họ bán căn nhà cấp bốn mang tiền sang Mỹ, thế mà chỉ sau 5-6 năm chăm chỉ làm việc ai cũng có nhà trong khu hàng xóm đẹp đẽ sạch sẽ. Họ chỉ làm những công việc lao động bình thường, không chức vụ, không làm ăn khuất tất như vợ chồng chị Tư mà vẫn nên nhà nên cửa.

Mới đây người bạn thân của vợ chồng chị Tư bị bệnh nặng. Gia đình giàu có, cả nhà bạn chỉ ước ao mang được người bệnh qua Mỹ chữa trị.

Chị Tư nghe mà tiếc hùi hụi. Người ta còn phải ước mơ như thế mà chị từng từ bỏ nó.

Vợ chồng chị Tư đã dần dần thấm thía có bao nhiêu thứ trên đất nước Mỹ kia anh chị không thể mua được bằng tiền.

Vợ chồng chị Tư đã học được một bài học đáng giá. Họ đã từng tâm đầu ý hiệp từ chối đi Mỹ. Nay họ biết mình đã sai lầm và hơn lúc nào hết cả hai vợ chồng lại cùng tâm đầu ý hiệp muốn đi Mỹ.

o O o

Lan đến văn phòng di trú để hỏi về trường hợp hồ sơ bảo lãnh của gia đình chị Tư. Lan đã nghĩ ra nhiều lý do…đáng thương mong thuyết phục họ mở lại hồ sơ. Nhưng tất cả tận tình của Lan đều hoài công. Chưa có luật lệ nào mở lại những hồ sơ đã từ chối phỏng vấn đi Mỹ và đã close nhiều năm.

Lan không thất vọng mấy vì đã hiểu trước sự việc. Buổi chiều Lan phone ngay cho chị Tư thông báo rõ ràng cho chị đừng hy vọng chờ mong hão huyền nữa:

– Em đã đến sở di trú trình bày hồ sơ của chị cũng như nêu lý do phải từ chối phỏng vấn xuất cảnh thời gian đó, nay xin mở lại hồ sơ nhưng không được chị ạ.

Chị Tư thất vọng não nề:

– Vậy là chị không có cửa đi Mỹ rồi. Lúc nắm thời cơ trong tay đi Mỹ cái một thì chị không hưởng, bây giờ kiếm không ra.

Nhưng chị vẫn cố bám víu:

– Không còn cách nào sao em? Thí dụ như…chạy chọt đút lót cô nhân viên?

– Trời, chị làm như chuyện nhà đất của chồng chị, người ta cứ chạy chọt đút lót là anh ký giấy cho họ mua nhà bán đất ngay vậy đó. Luật lệ ở Mỹ là luật lệ, cô nhân viên có muốn cũng không làm nổi.

– Chị thua một ván bài to rồi em ơi!

– Chị vẫn có thể đi Mỹ nhưng…

Chị Tư hớn hở vội chụp lấy:

– Nhưng sao em nói lẹ đi. Phải chi tiền chạy chọt tới trung ương chị cũng theo.

Lan nhẹ nhàng:

– Em đã nói rồi, ở Mỹ không ăn hối lộ như ở Việt Nam. Tới tổng thống Mỹ cũng phải theo luật chị Tư ơi. Cô nhân viên sở di trú nói với em là nếu gia đình chị vẫn muốn đi Mỹ thì làm lại hồ sơ bảo lãnh từ đầu và chờ đợi. Thế thôi.

– Nhưng cha qua đời rồi. Ai bảo lãnh chị?

– Thì em chứ ai! Diện cha mẹ bảo lãnh con cái khoảng 5 năm, còn diện anh chị em ruột bảo lãnh nhau bây giờ tới mười hai mười ba năm lận. Anh chị đợi được không?

Chị Tư im lặng chắc là đang tính toán và ai oán:

– Lúc đó anh chị sắp già khú và con cái đã lớn. Coi như chị đành ở lại chấp nhận thương đau

– Em cũng đang tính nói thế.

Có tiếng anh Tư vọng vào trong phone:

– Em chuẩn bị xong chưa? Chúng ta cùng đi.

Chị Tư vội kể:

– Anh chị sắp đi công chuyện, lo chạy chọt tìm việc cho thằng Tú đó. Vợ của một người bạn anh Tư có thằng cháu là con rể của ông sui gia với ông phó tổng giám đốc của một công ty liên doanh với nước ngoài.

– Trời! Nhờ vả lòng thòng thế biết đường nào mà tính hả chị?

– Chuyện bình thường ở Việt Nam mà em. Thí dụ như mấy người đi xuất khẩu lao động, nói toẹt ra là đi nước ngoài làm cu li, lao động mà cũng phải đi đường vòng qua nhiều khâu trung gian nên tốn phí “giấy tờ” mấy trăm triệu là thế đó.

Rồi chị Tư tự an ủi:

– Thôi, dù gì ở Việt Nam có tiền mà chạy chọt cũng sướng hơn kẻ không có tiền phải không em.

Nói xong chị Tư cúp phone. Lan tưởng như trong tiếng phone của chị Tư còn vọng lại tiếng thở dài.

Nguyễn Thị Thanh Dương

CẢM GIÁC CHIẾN THẮNG

CẢM GIÁC CHIẾN THẮNG

Một cô gái hỏi: “Bao nhiêu tiền 1 trái dừa vậy ông?”

Ông già bán dừa trả lời cô gái: “Thưa cô 10 ngàn 1 trái.”

Cô gái nói: “Bán cho tôi 2 trái 15 ngàn được chứ, không được tôi đi chỗ khác.”

Người bán dừa trả lời: “Cô lấy đi, 15 ngàn 2 trái. Tôi nghĩ như vậy cũng tốt rồi bởi vì cả ngày nay tôi chưa bán được cho ai cả”

Cô gái lấy 2 trái dừa và bỏ đi với cảm giác của một người chiến thắng.

Cô ấy bước vào xe hơi và đi đón cô bạn, cả 2 cùng tới một quán ăn sang trọng. 2 cô gái ngồi xuống bàn và gọi những thứ họ thích. Họ chỉ ăn một ít và để lại rất nhiều thứ mà họ gọi ra.

Sau đó cô ta thanh toán hóa đơn. Hóa đơn là 950 ngàn, cô gái đưa 1 triệu và nói với ông chủ quán: “Khỏi thối”

————

Sự việc này có vẻ rất bình thường đối với ông chủ quán giàu có. Nhưng nó rất đau đớn cho người bán dừa tội nghiệp.

Tại sao chúng ta thể hiện sự tính toán chi li khi chúng ta mua hàng của những người nghèo khổ tội nghiệp?

Và tại sao chúng ta lại quá hào phóng với những người không cần sự hào phóng của chúng ta?

Mỗi lần một đứa trẻ nghèo đến với tôi để bán một cái gì đó đơn giản, tôi lại nhớ về ba tôi. Ba tôi thường mua những món đồ lặt vặt từ những người nghèo khó với giá cao, mặc dù ông không thực sự cần đến chúng. Có lần tôi thắc mắc hỏi ba về hành động “kỳ quặc” đó thì ba tôi nói: “Đó chính là chân giá trị của cái gọi là từ thiện”.

Bài st.

Photo: Nandi.

Một chuyến đi thăm nuôi chồng 

Một chuyến đi thăm nuôi chồng 

Hay và cảm động. cứ nghĩ nếu mình ở trong hoaǹ cảnh đó thì sao.

 Thân chuyển và tha thiết mời đọc cho hết bài viết.

   Những ai chưa phải đi tù cải tạo. Những ai đã đi tù cải tao được “Tạm tha” rồi mà quên lửng đi thời kỳ ở trong tù cải tạo. Những thầy tu, những nhà đạo đức nào từng khuyên các người tù cải tạo nên quên quá khứ, hòa hợp hòa giải. Đều nên đọc bài này.

   Họ, chỉ cần nhớ đoạn: Người vợ đi thăm tù mà không nhận ra được chồng minh.

  Phải ở hoàn cảnh của vợ chồng người tù cải tạo như người này mới hiểu tại sao có những người Chống Cộng Cực Đoan. 

Chân thành cám ơn các Chị, những người vợ quả cảm của người Lính VNCH, các Chị đã không bỏ anh em chúng tôi trong những năm dài tủi nhục trong ngục tù việt cộng. Hận thù này đến chết vẫn không quên.

Tưởng niệm 30 tháng Tư: Một chuyến đi thăm nuôi chồng

Hoàng Yến

 


Tiếng chuyển động rì rì của máy chiếc xe đò loại nhỏ đang chạy trên tuyến đường từ Qui nhơn đi Pleiku, Kontum. Hành khách trên xe bắt đầu chập chờn vào giấc ngủ. Dù có mệt mỏi cho một chuyến đi xa, tôi không thể nào ngủ được, mắt nhìn ra khung cảnh ngoài cửa sổ xe, nhà cửa lui dần khỏi cảnh ồn ào bụi bậm trong thành phố. Nhìn xa xa, những ngọn núi nối tiếp ẩn hiện nhấp nhô, được bao phủ lớp sương mù như mây như khói. Xe bắt đầu tăng ga để leo dốc, con đường dốc ngoằn nghèo thật cao, một bên là vách núi đá một bên là vực sâu, chiếc xe như chênh vênh đang bò bên bờ vực, phía dưới vực rừng cây mờ mờ thật sâu. Tôi không dám nhìn xuống phía dưới, đưa tay áp lấy ngực miệng lâm râm cầu nguyện, cứ tưởng tượng không biết lúc nào chiếc xe sẽ lao xuống vực. Xe leo gần tới đỉnh đèo, ngay khúc quẹo hình chữ V độ dốc thẳng và cao. Đột nhiên xe khựng mạnh và dừng hẳn. Những người trên xe bừng tỉnh nhốn nháo vì đầu máy xe đang bốc khói mù mịt, sợ xe cháy ông tài xế nhảy vọt ra khỏi cửa sổ xe. Chiếc xe không người lái lùi lại từ từ, mọi người trong xe hoảng hốt tìm cách nhảy ra ngoài. Tôi ngồi hàng ghế bên trong, kẹt cứng giữa đám người đang chen nhau thoát ra khỏi xe. Chiếc xe lùi lại thật nhanh. Thất thần mắt nhìn thấy bờ vực cận kề tôi hét to “Lậy Chúa tôi”. Trong lúc chú lơ xe cầm cái cục gỗ chận bánh xe lại, với đà đổ dốc bánh xe trườn trên cục gỗ nẩy mạnh lên và càng lùi nhanh hơn, chú lơ xe không kịp chạy theo. Tiếng la khóc, tiếng kêu cầu cứu Chúa và Phật, Tôi nhắm mắt phó linh hồn trong tay Chúa, biết chắc sẽ chết nơi đây. Giây phút cuối cùng, hình ảnh thân yêu của mẹ và chồng con tôi lóe nhanh trong đầu. Một tiếng “rầm” thật lớn cùng sức dội mạnh như muốn vỡ lồng ngực, mọi người đổ ngã chụm vào nhau, mọi sự chìm trong im lặng, nửa tỉnh nửa mê, không biết mình còn sống hay đã chết. Một phép lạ, chiếc xe đang lùi thật nhanh thì đuôi xe quay ngang đâm vào vách núi và khựng lại, bánh xe kẹt vào khe rãnh thoát nước. Nhờ ơn Trên, mọi người sống sót nhưng vẫn còn thất kinh hồn vía biểu lộ trên khuôn mặt.


Chúng tôi được chuyển qua một chiếc xe khác. Qua cơn hiểm nghèo, ai cũng nguyền rủa ông tài xế không có lương tâm, không có trách nhiệm, nắm giữ hơn 50 sinh mạng, chỉ biết cho mình, còn những người khác coi như cỏ rác. Tôi không nguyền rủa ông ta mà tôi đau cho cả xã hội này, đã đào tạo con người ông giống như CS. Nếu họ có trái tim, người dân đâu chịu khổ, chồng tôi đâu bị đày ải tù tội như thế này. Nhớ tới chồng, tới giây phút vừa thoát hiểm nguy, tôi bật khóc, nếu chiếc xe rớt xuống đèo, tôi không bao giờ còn thấy chồng, đau thương hơn nữa, tôi chết ngay địa danh gần nơi giam giữ chồng tôi, mà anh đang ngóng chờ mong mỏi được gặp tôi.


Xe qua khỏi mấy cái đèo nguy hiểm như đèo An Khê, đèo Măng Giang. Bớt lo sợ, tôi đưa mắt quan sát những hành khách còn trong xe. Bốn người tôi mới quen ở bến xe Qui nhơn tối hôm qua, cùng đồng cảnh đi thăm nuôi như tôi, họ ngồi rải rác những hàng ghế phía khác, mắt tôi chăm chú nhìn một ông lão ngồi ngoài đầu hàng ghế bên kia, cách chỗ tôi ngồi là lối đi giữa của hai hàng ghế. Ông trạc tuổi bố chồng tôi, dáng người nhỏ còm cõi trông rất hom hem. Ông không ngủ, trên khuôn mặt khắc khổ, thỉnh thoảng môi ông nhếch lên mỉm cười, ánh mắt lộ vẻ hân hoan như sắp nhận được món quà quí, hoặc sắp gặp lại gia đình sau một chuyến đi, đôi lúc lại thấy ông tư lự đăm chiêu như đang suy nghĩ một vấn đề gì, hai bàn tay ông ôm chặt cái giỏ vào lòng như sợ nó vuột mất. Bất giác tôi cười thầm nhìn xuống tay mình thì cũng như ông lão thôi, tôi có hai cái giỏ lúc nào cũng bên cạnh không dám rời xa nó, hở một tý là bị lấy cắp.


Bất chợt ông lão nghiêng mặt qua phía tôi, bắt gặp ánh mắt tôi đang nhìn ông. Tôi nhoẻn miệng cười chào hỏi làm quen:


– Dạ chào bác! Bác là người ở trên miền này hả bác?


Ông lão quay hẳn qua phía tôi cười. Răng ông đã rụng gần hết, miệng móm mém. Nhìn ông tôi có cảm tình ngay với đôi mắt và nụ cười hiền hòa phúc hậu của ông. Ông trả lời:


– Không! Tôi không phải người trên miền này cô à. Ông thân thiện. – “Tôi ở xa lắm! Cô có biết Saigon không? Nhà tôi còn ở xa hơn nữa, mãi tận Rạch Giá cô à”. Thấy ông lão vui vẻ, tôi tò mò hỏi tiếp:


– Vậy bác đi thăm con cháu ở trên này à?


Trong ánh mắt ông lão thoáng buồn, nhưng môi ông lại mỉm cười tạo trên khuôn mặt ông nét vừa buồn vừa vui, nửa khóc nửa cười. Tôi không thể nào đoán được ông lão đang nghĩ gì. Thấy ông im lặng, tôi than thở dùm ông lão:


– Trời ơi! Bác lớn tuổi rồi, sao không để con cháu về dưới thăm bác, đường đi xa xôi, lại nguy hiểm bác ngồi xe như thế này mệt lắm.


Miệng ông đang cười, câu nói của tôi như chạm vào nỗi niềm riêng tư của ông, mắt ông nhuốm màu sương khói ngấn lệ. Tôi cảm thấy áy náy cho câu hỏi thăm tự nhiên nhưng vô ý của mình, định ngỏ lời xin lỗi và an ủi ông, thì ông cất lên lời tâm sự cùng tiếng thở dài:


– Cô ơi! Tôi già cả rồi, đi lại rất khó khăn, đâu muốn đi xa như thế này đâu, vì thương con tôi phải đi thôi.


Nghe tới đây tự nhiên trong lòng tôi thật bất mãn người con của ông, thầm trách trong bụng: “Bố già rồi không về thăm bố, lại để bố lặn lội đường xa đi thăm mình, loại con gì vô tâm bất hiếu vậy”. Tôi đang tức dùm cho ông lão. Ông đưa mắt ngó tôi, chép miệng thở than:


– Tội nghiệp thằng con tôi lắm cô ơi! Nó bị nhốt mấy năm nay rồi, nó là lính VNCH cô à. Nói tới đây giọng ông nhỏ lại, đưa mắt lấm lét nhìn xung quanh như sợ người khác nghe. Có thể ông cảm được tôi đồng cảnh đồng thuyền nên ông dễ dàng tâm sự, nhìn tôi ông rỉ rả:


– Nó chưa vợ cô à, nên tôi cứ phải lê thân già đi từng trại tù thăm nó.

Tôi thật xúc động. Ông lão cùng cảnh ngộ với tôi, như một luồng giao cảm, tôi nghiêng người chồm hẳn gần ông lão hỏi nhỏ


– Bác! Vậy chuyến đi này có phải bác đi thăm nuôi ở trại tù Gia trung không ạ?


Mặc dù lần đầu tiên tôi đi đến vùng này, không biết con trai ông có cùng chung trại tù với chồng tôi không? Vừa nghe đến tên trại tù Gia-trung từ miệng tôi, ông lão mở to mắt mừng rỡ:


– Đúng! Tôi đi thăm con tôi ở đó.


Ông bỏ lửng câu nói, mắt nhìn tôi ngập ngừng, e dè nói khẽ: “Cô là người ở đây hay sao mà biết trại tù đó”?


Tôi mỉm cười với tay xoa nhẹ vào tay ông: “Thưa bác! Cháu không phải người trên này mà là cháu đi thăm nuôi nhà cháu ở trại tù đó”.


Mắt ông lão sáng lên. Thế là một già một trẻ cùng cảnh ngộ như nhau trở nên thân thiết. Nhích người chụm đầu vào nhau rủ rỉ chuyện thăm nuôi, chuyện gia đình, thời cuộc đất nước, chuyện khổ cực nghèo đói của mọi người sau ngày mất nước.


Ông tâm sự, người con của ông hiện giờ bị giam ở K3. Tôi đoán chắc không xa nơi giam giữ chồng tôi,vì chồng tôi ở K1. Đã mấy năm trời ông lăn lội đi từng trại tù thăm nuôi con trai ông. Trước ngày miền Nam mất vào tay CS, người con ông có vị hôn thê sắp làm đám cưới. Thời điểm đó đất nước trong cơn hỗn loạn, nơi con ông đóng quân đánh nhau dữ dội nên không thể về làm đám cưới. Ngày 29/4/1975 người vợ chưa cưới theo gia đình xuống tàu trốn chạy CS. Vài tuần sau con ông bị đưa đi tù cải tạo. Bà cụ thì quá gìa yếu bệnh tật liên miên, muốn đi thăm để nhìn thấy mặt con trai mà cũng không sao đi được. Ông chỉ lo bà cụ chờ không được tới khi con ông về.


Giọng ông run run thở dài lo sợ: “Hoặc là con ông không bao giờ có ngày về”. Lời ông đều đều bên tai như muốn tôi chia sẻ nỗi buồn niềm đau với ông. Ông cứ kể, tôi vẫn nghe để cho những gì đang chất chứa trong ông hòa vào với khổ đau tủi cực của tôi. Cùng một cảnh đời, lòng tôi nhói lên theo từng lời kể của ông. Ông lại chép miệng nỉ non:


– Còn hai người con gái lớn đã có gia đình. Thời buổi cuộc sống khó khăn, tất bật kiếm miếng ăn chưa đủ nuôi mấy cháu ngoại của ông, làm sao có thể giúp đỡ ông hoặc đi thăm con trai ông. Ông bà chỉ còn tí mảnh vườn sau nhà, trồng mấy liếp rau nuôi bầy gà lấy trứng, sống lây lất rau cháo qua ngày. Nước mắt ông rưng rưng ứa tràn khóe mắt, giọng ông đứt quãng nghẹn lại. Ông nhận được giấy thăm nuôi của con ông mấy tuần rồi nhưng ông không thể đi thăm con ông sớm được, vì không có tiền, ông biết con ông rất mong ông. Vừa kể ông vừa lấy tay áo chấm nước mắt làm tôi cũng mủi lòng. Hoàn cảnh gia đình ông và gia đình tôi đều giống nhau. Sống trong một xã hội mới không tự do, bơi lội trong khổ đau khốn nghèo và người thân bị đày ải trong lao tù chẳng biết ngày về.


Ông chỉ vào cái giỏ đang ôm trong tay, bờ vai vẫn còn rung nhẹ theo cảm xúc:


– Cô biết không! Tôi phải chờ thêm vài tuần lễ để bầy gà lớn thêm lên mới bán được, rồi mua đồ thăm con, còn tiền xe đi đường tôi được người hàng xóm tốt bụng cho mượn. Lồng ngực của ông hít thật sâu, thả mạnh trong tiếng thở dài như xả những ưu phiền khổ đau, giọng ông não nuột: “Không biết về nhà xoay đâu ra tiền mua lại bầy gà”.


Giấu nỗi buồn lo, ông quay mặt qua hướng cửa sổ, nhìn nghiêng khuôn mặt ông, tôi thấy khóe mắt ông ươn ướt. Tôi cảm được những lo lắng, buồn phiền nhớ thương trong đôi mắt ấy.


Chợt ông quay sang cười với tôi, miệng ông móm mém kéo theo những đường nhăn nhúm hai bên má như thể những nhăn nhúm của cuộc đời hằn nặng trên khuôn mặt ông. Ông lại rỉ rả:


– Tội nghiệp con tôi! Chắc là đang mong và mừng lắm khi thấy tôi đi thăm 


Ông ngó xuống cái giỏ nhỏ để trên đùi, tay vẫn nắm chặt hai quai giỏ. Ông gật gù cái đầu: – Vợ chồng tôi chỉ lo liệu ít đồ ăn trong cái giỏ này thôi, dọc đường phải đổi mấy lượt xe, tôi lo lắm chẳng dám ngủ nghê, sợ bị giật giỏ con tôi chẳng có gì ăn. Ông chép miệng: -“Khổ quá nỗi, thời buổi làm ăn khó khăn mà trộm cắp mọc lên như rươi, chỗ nào cũng có”.


Ông nói giọng Bắc như tôi, cách nói chuyện thật thà miền quê. Tôi cảm thấy thật gần gũi với ông và tội nghiệp cho ông, đường sá xa xôi, thân già lặn lội đi thăm con. Tôi lại nghĩ tới tôi có khác gì ông đâu.


Xe chạy xuống khỏi mấy cái đèo. Ông cụ thấm mệt mắt lim dim, có lẽ ông đang nghĩ đến người con trai mà ông sắp được gặp, và niềm vui con ông nhận được những món quà nhỏ nhoi mà ông dành dụm chắt chiu như một gia tài của ông. Nhìn ông lòng tôi thương chồng, như ông đầy vơi nghĩ đến người con của mình. Quang cảnh hai bên đường đồi núi chập chùng, con đường đến trại tù xa vời vợi. Nghĩ tới chồng, tới sự thoát chết vừa qua, cùng nỗi khổ hiên tại của tôi, nước mắt tôi ứa ra…


Nếu không có ngày đen tối quái ác 30 tháng 4 năm 1975, mọi người dân đâu phải khốn khổ đói rách, chồng tôi đâu bị đi tù cải tạo khổ nhục xa xôi như thế này mà không biết ngày về. nếu đừng có xã hội như thế này, nếu tôi có tiền, nếu tụi du kích CS đừng tịch thu hàng mua bán của tôi. Nếu tôi đừng dùng phương tiện bằng xe lửa đi thăm chồng và còn nhiều cái nếu trong đầu làm lòng tôi quặn đau, khổ thương quay quắt.


Hơn 4 năm rồi,chồng tôi đã chịu bao tủi nhục khổ cực qua hai trại tù, bây giờ Cộng sản lại đưa chồng tôi đi trại khác. Gần một năm bặt tin tức của anh, tôi chẳng dò hỏi được gì về anh và chẳng biết tìm kiếm anh ở đâu. Phần sống trong một xã hội khốn khổ chẳng chút tự do, chỗ nào cũng chận bắt tịch thu giam giữ. Trong khó khăn lầm than, tôi bôn ba vật lộn tìm miếng ăn cho gia đình và cho chính mình thật gian nan vất vả, còn tâm trí lúc nào cũng nghĩ và lo sợ cho số phận chồng trong lao tù CS chẳng biết giam giữ nơi đâu. Tâm hồn tôi bất an phập phồng không thôi, đôi khi tưởng rằng mình đang rơi xuống đáy vực thẳm của cuộc đời. Nhờ tình yêu anh tôi cố bám víu ngoi lên, mong nhìn thấy tia hy vọng về anh dù chỉ là mong manh.


Ngày nhận được thư chồng, không chỉ mình tôi mà cả gia đình và hàng xóm, ai cũng vui mừng, cả xóm huyên náo ồn ào vì biết chồng tôi vẫn còn sống, mọi người đến nhà hỏi thăm, họ cũng như tôi nôn nao mong được gặp anh. Tất cả đều khó khăn nghèo khổ, họ không có gì làm quà để gửi cho chồng tôi, nhưng sự ân cần quan tâm lo lắng của họ đối với chồng tôi cả là niềm an ủi xúc động cho gia đình tôi.

Địa chỉ trại tù giam chồng tôi thật xa lạ và quá xa xôi. Đọc thư chồng nước mắt tôi ngắn dài đầy vơi. Tội nghiệp chồng tôi, trong thơ vỏn vẹn vài câu kín đáo hỏi thăm gia đình và cho biết đã được phép thăm nuôi. Thơ anh viết ngắn, tôi đọc và cảm được biết bao tình cảm của anh gói ghém trong đó dành cho tôi. Anh không dám xin những thứ mà anh cần, mặc dù anh rất cần. Tôi biết anh rất thương tôi. Bố mẹ anh đã già, mọi việc mình tôi cáng đáng lo liệu với hoàn cảnh và xã hội hiện tại. Còn tôi dù cuộc sống khó khăn vất vả, tôi cũng cố xoay sở lo cho chồng, chút an ủi giúp anh thêm nghị lực, và cho tôi chút niềm vui hạnh phúc trong tình nghĩa vợ chồng.

Số tiền tôi cực khổ dành dụm chắt chiu để đi thăm nuôi chồng, số tiền đó cũng bao lần đã muốn lấy mạng sống của tôi. Trong một chuyến hàng tuần trước, tôi đã trở thành trắng tay, cũng may mạng sống tôi vẫn còn. Những lần bị bắt bị tịch thu, chị em bạn chúng tôi thường than thở với nhau: “ Ký ca ký cóp cho cọp nó tha”, rồi lại lăn lộn bôn ba bất chấp nguy hiểm làm lại từ đầu, được tý vốn lại bị tịch thu, cứ xoay vòng trong cuộc sống XHCN. Vậy mà chỗ nào cũng thấy cái bảng tô đỏ hàng chữ “không có gì quý hơn độc lập tự do”.


Trại tù giam chồng tôi mãi tận Pleiku – Kontum có tên là trại Gia Trung, một địa danh tôi chưa bao giờ biết đến. Trước ngày đi thăm chồng, tôi dò hỏi được biết mỗi ngày bến xe Saigon – Miền Trung có hai chuyến chạy suốt về Pleiku. Giá chính thức được bán ra từ 15 tới 20 vé, còn lại bán với giá chợ đen rất mắc, mà phảỉ đứng xếp hàng từ đêm tới sáng may ra mới mua được vé. Tôi ở miền quê ngu ngơ làm sao mua được. Thật khó khăn và tốn kém. Tôi đành chọn giải pháp đi bằng tàu lửa, giá rẻ mà dễ đi . Ga xe lửa tôi đi gần chợ Long Khánh cách nhà tôi khoảng gần 30 cây số.


Nhớ tới giây phút giành giật chen nhau để lên toa xe lửa, bất giác tôi cảm thấy sau gáy và bả vai vẫn còn đau, đưa tay lên rờ phía sau đầu cục sưng u vẫn còn, vì tôi bị những bó củi họ quăng ném vào người. Trời ơi! Tôi không thể nào tưởng tượng được cảnh chen lấn hỗn loạn tại ga xe lửa lúc bấy giờ. Không giống như ga xe lửa trong phim ảnh, kẻ đi người về, kẻ tiễn đưa người đi đón sao êm đềm cảm động nên thơ đến thế. Ga xe lửa này cũng người lên kẻ xuống nhưng trong cảnh xô đẩy chen lấn giành giật cùng tiếng chửi thề xen lẫn tiếng la hét inh ỏi hỗn loạn. Bao nhiêu hàng hóa vừa bao vừa túi, bao than, giỏ đựng gà vịt, bất cứ vật gì cũng đều quăng ném vào toa theo lối cửa sổ, có người quăng cả đứa con nít như quăng một món đồ, kẻ tung lên người ném xuống. Tôi chen lấn trong đám người xô đẩy, kéo lê hai giỏ đồ tới gần cửa lên xuống, tay cố bám vào thành cửa, hy vọng đu được người vào bên trong,nhưng thân người tôi như tàu lá chuối vật vờ đong đưa giữa đám người hỗn độn. Tay tôi bị giật thốc ra khỏi thành cửa làm tôi ngã chúi theo đà xô đẩy, tôi ngồi xuống ôm lấy hai giỏ đồ vừa khóc vừa năn nỉ mọi người:


– Bà con ơi! Tôi có mua vé mà, hãy để tôi lên toa đi.


Mặc cho tôi khóc năn nỉ, họ chẳng để ý, cứ vô tình bước đạp trên hai giỏ đồ và cánh tay tôi làm đà bước lên toa xe, còn quay lại mắng tôi:


– Bộ tưởng một mình cô có vé thôi sao, tụi tui cũng có vé vậy.


Người họ khỏe bám trèo lên bằng lối cửa sổ, tôi thân đàn bà chân yếu tay mềm nên không thể bám và leo lên như họ, còn hai giỏ đồ thăm nuôi tôi làm cách nào đưa lên bằng lối đó. Tiếng còi xe lửa hú lên từng chập như báo hiệu sắp khởi hành, tôi càng quýnh quáng, mọi người càng vội vã chen lấn hơn trước. Sợ lỡ chuyến tàu sẽ trễ ngày thăm chồng, tiếng còi xe lửa hú lên càng làm tôi hốt hoảng. Ôm hai giỏ đồ, mắt đỏ hoe ngó lên toa xe, tôi hết hy vọng vì bánh xe lửa bắt đầu chuyển động trên đường sắt cùng những người còn đang chạy theo bám lấy.


Trong những người xô đẩy vô lương tâm đó, cũng còn một người có chút lương tri. Người đó là một thanh niên, ngồi trên nóc xe nhìn cảnh hỗn loạn phía dưới, thấy tôi ngồi khóc, mặc cho xe lửa đang chuyển bánh, nhảy xuống đất cầm vội hai giỏ đồ của tôi quăng vào lối cửa sổ, không cần biết có trúng ai bên trong hay không và nâng người tôi lên đẩy vào cửa sổ. Tôi chưa kịp cám ơn, người thanh niên đã xa tấm mắt của tôi, ngoái cổ nhìn với theo bên hông tàu, người thanh niên đang tìm cách nhảy lên toa xe và rồi những tàng cây bên đường làm khuất mất hình ảnh người thanh niên đó.


Tôi vui mừng không bị lỡ chuyến tàu, thở phào nhẹ nhõm, nhưng nghĩ tới người thanh niên trong lòng tôi lại áy náy, thấp thỏm không biết người thanh niên tốt bụng đó đã lên được tàu chưa hay là đã lỡ chuyến?


Tìm một chỗ dưới sàn tàu ngồi xuống, người tôi mỏi mệt đau nhừ, nhất là trên đầu phía sau ót và bả vai, tôi bị những bó củi ném trúng làm đau buốt. Thấy mặt tôi nhăn nhó, tay xoa xoa phía sau đầu, một bác ngồi gần bên lấy hộp dầu cù là đưa cho tôi xoa bóp.


Yên trí ngày mai gặp chồng làm tôi nôn nao, những mỏi mệt đau nhừ tan biến nhanh, nhường cho tâm tư sắp đặt những gì muốn nói với anh. Đừng như những lần trước, gặp được anh mừng quá chẳng nói được gì, hết giờ thăm lúc đó mới ngẩn người nuối tiếc. Ừ nhỉ! Nếu ngày mai tên cán bộ có đứng xa xa nơi vợ chồng tôi như ở trại tù Hốc môn, những người đi thăm nuôi như tôi cùng tâm trạng, họ cũng biểu lộ tình cảm như tôi. Tôi sẽ ngả đầu vào vai anh, thủ thỉ với anh bao nỗi nhớ niềm thương, bao buồn phiền tủi cực, bao vất vả đắng cay và biết bao điều muốn nói với anh. Nhưng tôi biết anh không cần nghe tôi nói, chỉ cần nhìn thấy tôi là anh hiểu và nghe nặng cả bao nghĩa ân tình yêu thương, giúp anh thêm nghị lực vượt qua tất cả. Tôi vẫn biết rằng ý chí của anh rất mạnh.


Theo lịch trình 6 giờ chiều xe lửa sẽ tới ga Nha trang, và chuyến xe lửa từ Nha trang đi Qui nhơn khởi hành lúc 6 giờ 45 phút. Tôi thở phào yên trí đủ thời gian mua vé đi Qui nhơn và tôi cũng không lo ngại nếu có cảnh chen lấn như ở ga Long khánh.

Quá mỏi mệt, tôi tìm cách tựa lưng vào thùng đồ của ai để bên cạnh nhắm mắt thiu thiu vì chuyến đi còn dài, chân tôi gác lên kẹp lấy một giỏ đồ còn một giỏ tôi lấy khăn tay cột quai giỏ vào cánh tay của mình, lỡ ngủ mệt sợ có người lấy cắp. Nhắm mắt để đó chứ không ngủ được, phấn ồn ào, phần háo hức sắp được gặp chồng làm tôi nôn nao. Không biết khi vợ chồng tôi gặp nhau, sự mừng rỡ sẽ như thế nào? Con người tôi rất tình cảm và xấu tính, buồn cũng khóc vui cũng khóc. Cả hai nhập lại không biết lúc đó tôi như thế nào? Còn hình dáng chồng tôi có khác lạ không? Gần một năm trời rồi, tôi chưa được nhìn thấy anh. Trong đầu tưởng tượng về anh, về nơi giam giữ anh. Họ đưa anh đi xa xôi thế này chắc là thăm nuôi đễ dãi và được ở lại đêm với chồng như là trại tù Phước-long mà chị Thái cùng xóm đi thăm chồng đã kể lại cho tôi nghe. Nếu lần thăm này mà giống như trạị tù Phước-long, không biết tôi có trải được tình cảm yêu thương với chồng tôi không, mặc dù tôi rất yêu anh, rất nhớ anh. Tôi không muốn bị CS xỉ nhục bằng cách đê tiện này, càng nghĩ trái tim tôi càng bị bóp nghẽn. Tôi hy vọng rằng chồng tôi cùng quan điểm với tôi, thông cảm cho tôi nếu đúng như điều tôi đang nghĩ.

Tôi giật mình bởi tiếng nổ lớn do xe lửa bị đứt ống hơi, thỉnh thoảng cứ phải nghe như vậy vì mấy người đi buôn họ dựt đứt để xe lửa ngừng lại, lần đầu tiên tôi đi xe lửa nên không biết cảnh này, cũng vì vậy tôi thật lo sợ muốn khóc tại ga Nha trang.


Xe lửa ngừng tại ga Nha trang là lúc tôi không biết phải làm sao xoay sở vì quá trễ, chuyến xe lửa đi Qui nhơn đã khởi hành trước đó 1 giờ. Trời đã tối, mọi người trong sân ga lần lượt đi mỗi người mỗi ngả, càng lúc càng thưa thớt người. Tôi định ở lại sân ga chờ chuyến xe lửa khác. Khung cảnh sân ga trở nên vắng vẻ im lìm. Tôi bơ vơ lạc lõng nơi xa lạ, lo sợ nhìn tứ phía, nước mắt rưng rưng, thật sự hoảng hốt không biết đi ngã nào, lạ người lạ cảnh. May quá từ xa một người đạp xích lô đang đến. Tôi hỏi thăm được biết ngày mai mới có chuyến xe lửa đi Qui nhơn. Nhìn tôi còn trẻ và giọng nói người khác miền, chú xích lô khuyên tôi không nên ở lại sân ga ban đêm vắng vẻ không người, sợ điều không tốt xảy đến cho tôi. Nghe chú nói người tôi run lên vì sợ, tôi cố trấn tĩnh nhưng sao giọng tôi run như muốn khóc. Chú gợi ý chở tôi tới nhà trọ nghỉ đêm chờ sáng ngày mai đi Qui nhơn. Nghe tới nhà trọ tôi càng sợ thêm vì nghĩ không biết chú ấy có tà ý gì, nơi lạ lẫm với giòng đời đầy lừa lọc gian trá liệu tôi có tin chú ấy không? Ánh đèn vàng vọt, sân ga không đủ sáng cho khung cảnh vắng vẻ như thế này. Tôi nhìn chung quanh rồi lại nhìn chú xích lô lưỡng lự. Không còn cách lựa chọn, đánh bạo tôi đành nhờ chú ấy chở đến bến xe đò Qui nhơn, nơi đó có lẽ an toàn cho tôi hơn. Ngồi trên xe xích lô tôi vẫn lo sợ, miệng lâm râm cầu nguyện cho tôi được bình an.


Tôi ngồi ngay trước quày bán vé đi Qui nhơn, hy vọng sáng sớm hôm sau tôi là người đầu tiên mua vé. Khung cảnh nơi đây sáng sủa hơn, có người qua lại bán quà rong, những gian hàng nhỏ đèn điện còn sáng. Tôi an tâm khoan khoái đặt lưng nằm xuống đất, đầu gối lên hai giỏ đồ để ngủ. Trời đã về khuya sao mặt nền đất vẫn còn nóng bỏng, hâm hâm dưới lưng tôi, mùi khen khét xông cả vào mũi thấm tận trong bụng tôi, quá mệt tôi cố chịu để dỗ cho đôi mắt nhắm lại. Chưa kịp nhắm mắt thì một tiếng thét thất thanh vang trong đêm. Tôi nhổm dậy, một người đàn bà đang chạy theo một người thanh niên còn rất trẻ ngang qua chỗ tôi, tay bà với với phía trước, tiếng thất thần kêu cầu cứu của bà “bắt lấy nó …, ăn cướp, ăn cướp bà con ơi”. Nhưng tiếng kêu cầu cứu ấy rơi trong đêm, giữa bao con mắt nhìn theo hờ hững. Người thanh niên tung cái giỏ cho một người khác hứng lấy chạy vào ngõ tối, rồi nhẩn nha đi như người đi dạo, làm như không có chuyện gì xẩy ra. Người đàn bà ngồi bệt xuống đất òa khóc tức tưởi cách tuyệt vọng. “Trời ơi! Nó lấy hết của tôi rồi, cả giấy tờ nữa, làm sao tôi về nhà được đây hở trời? Sao thất nhơn thất đức quá nè, Trời ơi!”. Tiếng than não lòng của bà như xé lòng Trời mà không làm động lòng người.


Nhìn bà tôi lại nghĩ đến tôi, tay rờ nhanh vào bụng, cái ví nhỏ bọc nhựa vẫn còn nằm trong lưng quần. Tôi chỉ có ít tiền đi đường và tờ giấy đi thăm nuôi trong đó, nếu bị mất, không biết sự đau khổ của tôi như thế nào, vì sẽ không được thăm chồng, lại lo lắng hai giỏ đồ thăm nuôi, thời buổi này bất cứ cái gì cũng sợ. Tôi khệ nệ vừa rê vừa xách tới gần hàng bán cháo ở góc xa, mua một chén cháo để làm quen và như là một nơi an toàn cho mình, mặc dù tôi chẳng thấy đói.


Gần về sáng ngoài đường bắt đầu nhộn nhịp, xe chạy qua chạy lại trong bến, xích lô máy xích lô đạp chạy tới chạy lui, hàng quán mở cửa. Bóng người qua lại tiếng cười tiếng nói ồn ào. Nhìn về phía quầy bán vé đã có vài người đứng xếp hàng ở đó. Tôi chào cảm ơn bà bán cháo cho tôi một đêm an toàn bên cạnh bà, rồi đến quày bán vé đi Qui nhơn, vậy mà tôi cũng chẳng mua được vé chuyến đầu tiên vì ở đó người ta đã đặt từng gói đồ, từng khúc củi, cả cái sô nước theo hàng dài để giữ chỗ. Cuối cùng tôi cũng đi tới Qui nhơn.


Tiếng chú lơ xe la to: Tới Gia Trung rồi bà con ơi, ai xuống Gia Trung chuẩn bị đồ đạc đi bà con ơi. Tôi giật mình trở về hiện tại. Xe từ từ vào sát lề đường. Tiếng của chú lơ xe đơn độc hai chữ Gia Trung mà không thêm tiếng trại cải tạo. Tôi tưởng tên gọi Gia Trung là tên của một thành phố, ngơ ngẩn ngó ra ngoài, chẳng thấy nhà cửa hoặc trại tù, chỉ thấy rừng cây cao vút, chung quanh hoang vắng. Tôi nhìn quanh quẩn tự hỏi trại cải tạo ở đâu. Trên xe mọi người lục đục kẻ kéo người xách, lách người xuống xe. Ông cụ ngồi gần bên ôm giỏ đồ đứng lên, thấy tôi còn ngơ ngác, gục gặc đầu nói:


-Tới nơi rồi cô ơi! Họ xuống xe cả rồi, mình cũng xuống đi thôi kẻo không kịp, từ đây vô tới trại còn xa lắm.


Tôi lật đật xuống xe theo mấy người đó. Số người đi thăm nuôi khoảng 12 người. Tôi thật bỡ ngỡ, khung cảnh chung quanh vắng vẻ quạnh hiu không bóng người, ngoài tốp người mới xuống khỏi xe, đang đi trên con đường đất vào sâu hút bên trong.


Vừa đi tôi vừa ngó hai bên đường, những cây cao cây thấp, chỗ dầy chỗ thưa làm ánh sáng chỗ âm u chỗ sáng rực. Tôi lẹt đẹt đàng sau xa nhóm người đi phía trước. Họ đã đi thăm nuôi nhiều lần, nên họ có người nhà đi theo để phụ giúp xách đồ, còn tôi vướng hai giỏ loay hoay tay xách đầu đội, lúc mỏi cổ đau tay tôi lại hất cái giỏ trên đầu xuống bả vai để vác. Vai tôi vẫn còn đau vì hai ngày trước bị củi ném trúng ở ga xe lửa Long-khánh, vừa đi vừa nghiêng cổ vẹo người, dáng người tôinghiêng nghiêng như bóng nắng dưới đường, mồ hôi đổ theo thấm chung từng giọt nước mắt. Xa xa phía trước, ông già lúp xúp đi như chạy để theo kịp họ, ông vừa đi vừa ngoái cổ ra phía sau, tay vời vời ra hiệu cho tôi đi nhanh lên. Những người phía trước bỏ tôi khoảng cách thật xa và khuất hẳn vào khúc đường cong.


Qua khỏi khúc đường quẹo, một trạm kiểm soát với tên công an mặc áo vàng ngồi bên trong. Tôi giật mình theo phản xạ tự nhiên – “chết rồi lại gặp công an”, giữ bình tĩnh tôi thầm nghĩ – “mình đi thăm nuôi chứ buôn bán gì mà sợ tịch thu”. Tấm bảng nhỏ ghi hàng chữ “Trình giấy tờ tại đây”. Tôi bước đến, tên công an nhìn còn rất trẻ tươi cười chào thân mật:


– Chị đi thăm người nhà phải không?


Sự thật là tôi không có thiện cảm với những người mặc bộ đồ công an, tôi đã khổ nhiều với họ rồi, họ không cùng giới tuyến với tôi và họ là người đang giam giữ chồng tôi. Tôi không cười, đưa trình tờ giấy thăm nuôi để ra khỏi chỗ này thật nhanh, vì tôi dị ứng không muốn nhìn họ. Khi nhìn vào thẻ Chứng minh nhân dân của tôi, tên công an mặt hớn hở reo lên:


– Ồ! Quê chị ở Đông Phú – Tiền Hải – Thái Bình, vậy là cùng quê với em. Còn thân mật như là người nhà của tôi: “Gia đình thầy mẹ em còn đang ở ngoài ấy, mà chị cùng họ Đinh với em, chả nhẽ chị em mình có họ hàng với nhau.”


Tôi lườm thầm trong bụng: “Họ hàng gì với chú mà chú nhận, tôi bên Quốc Gia, chú là CS, không thể họ hàng được”. Không muốn mất đi vẻ lịch sự của người miền Nam, tôi hơi mỉm cười nói mát:


– Tôi người miền Nam còn chú miền Bắc sao mà có họ hàng được.


Tên công an ngẩn người như suy nghĩ câu nói của tôi. Cử chỉ vồn vã, nét mặt vui tươi thân thiện của hắn khi biết tôi cùng quê cùng họ, làm như trong tôi có vết thương đang bị muối xát vào. Cùng mẹ VN một dòng máu, một màu da, nhưng không cùng lý tưởng. Biết đâu người công an này có họ hàng với tôi và cũng có thể những người coi tù là bà con với chồng tôi. Với nghiệt cảnh hiện tại, làm sao tránh khỏi anh em cốt nhục tương tàn.


Tôi được chỉ đường tới K1 là nơi giam giữ chồng tôi, đường vẫn còn dài, tôi đến ngồi dưới bóng mát gốc cây bên vệ đường. Phía xa cùng con đường, một người đàn bà đầu đội tay xách như tôi còn dẫn theo một bé gái, vừa đi bé gái vừa khóc, người đàn bà rất trẻ, đứa bé gái khoảng tuổi con tôi. Hình như bé gái không chịu đi bộ nên người mẹ cúi xuống vừa đỡ con vừa kéo lết giỏ đồ trông khó nhọc lê thê. Có lúc người mẹ bỏ giỏ đồ bên vệ đường, gập lưng xuống để cõng con, một tay đưa ra phía sau đỡ lấy con trên lưng mình còn một tay xách giỏ đồ, dáng xiêu xiêu bước đi nặng nề mỏi mệt giữa trưa nắng như lửa đốt. Đi được vài bước, người mẹ lại xốc đứa con trên lưng để khỏi bị tuột xuống, lưng người mẹ còng hẳn xuống, tay vuốt mồ hôi trên mặt và quay lại vuốt nhè nhẹ vào má đứa bé như thể dỗ đành vỗ về. Người mẹ cõng đứa con tới gốc cây tôi đang ngồi, thả con xuống và nhờ tôi trông chừng rồi trở lại chỗ cũ xách giỏ đồ còn lại. Cứ như vậy suốt con đường, thay phiên cõng con và xách đồ từng chặng, thật vất vả khổ sở. Nếu không cùng hoàn cảnh, không thể nào cảm được cái cảnh đi thăm chồng. Trên thân người đàn bà đó đã chịu bao nỗi khổ trong cuộc sống, giờ đây đang cố gắng gồng giữ niềm yêu thương của mình..


Đứa bé gái trông thật xinh, mặt bé đỏ au dưới ánh nắng mặt trời, tóc ướt mồ hôi dính chặt trên vầng trán, mắt bé tròn như hai hòn bi, thơ ngây nhìn tôi an tâm không khóc. Đến khi nhìn thấy một người công an gánh hai thùng nước đang đến gần, những giọt nước sóng sánh toát ra ngoài theo nhịp bước, mắt tôi và bé gái đều sáng lên, tôi còn chịu đựng được nhưng bé gái gào khóc lên gọi mẹ vì thấy nước. Người mẹ ngước về phía con lo lắng, chân bước thật nhanh đến con mình, thấy mẹ, đứa bé vừa khóc vừa chỉ về hướng người công an:


– Mẹ! Con muốn uống nước, con khát nước quá mẹ ơi.


Người mẹ liếc nhìn tên công an như thể thấy một hung thần, cúi xuống dỗ con.


– Đừng khóc nữa con, gần tới chỗ bố rồi, tha hồ uống nước con ạ.


Nhưng vì quá khát nước, đứa bé càng khóc to hơn.


– Không! Mẹ ơi con muốn uống nước bây giờ, không có nước con sẽ chết.


Người mẹ không còn biết làm sao dỗ con, đành bứt mấy lá cây rừng, cuốn tròn lại thành cái phễu, đánh bạo đến gần người công an để xin nước cho con mình.


– Xin cán bộ cho con tôi tý nước.


Mặt người công an lạnh lùng cau mày gắt lên:


– Chị là vợ của những tên ngụy quân, ngụy quyền, là loại phản động phản quốc, được nhà nước khoan hồng cho đi thăm nuôi, mà còn đòi thế nọ thế kia, ở đây không có nước cho các chị.


Người mẹ nhìn về phía con đang gào khóc đòi nước, cố nén tủi nhục, nhẫn nại năn nỉ:

 

– Không! Tôi không xin nước cho tôi. Người mẹ chỉ tay về đứa con đang khóc, hầu mong khơi dậy một chút tình người. “Cán bộ nhìn thấy đứa bé đang khóc đàng kia kìa, từ sáng đến giờ nó chưa được uống nước. Cán bộ làm ơn cho tí nước đi cán bộ”. Người mẹ giở cái phễu lá rừng năn nỉ:


– Tôi chỉ xin một chút nước đựng trong này thôi, không nhiều đâu cán bộ.


Tên công an đứng bật lên, gánh nước bước đi, trút đổ bao hận thù xuống người mẹ.


– Toàn là thứ phản động, theo đế quốc Mỹ, sống sung sướng quen rồi, nóng một tý mà cũng không chịu được. Chị tưởng tôi là đầy tớ gánh nước cho chị hả, đồ thứ phản quốc.


Người mẹ chạy lại ôm chặt con mình, ép nỗi uất đau òa theo tiếng khóc của con. Tiếng khóc hai mẹ con vang trong rừng vắng không làm vơi thù hận của những kẻ không trái tim không tình người.


Ôi quê hương tôi không còn chiến tranh, không còn nghe tiếng súng mà vẫn còn đè nặng bởi thù hận và khổ đau. Hình ảnh vừa rồi thật trái ngược với hình ảnh năm nào của những người lính Sư đoàn 18 VNCH trong một buổi chiều dừng quân nơi thôn làng tôi ở. Họ chỉ có một vài giờ nghỉ chân mà còn tìm cách giúp đỡ những người dân trong thôn làng, người gánh nước người chẻ củi, cứ thấy công việc nào người dân đang làm là họ xúm lại phụ giúp. Hình ảnh thân thương đầy tình người, gần gũi với đồng bào đã ở mãi trong tim tôi.


Con đường đi vòng trên sườn đồi, nhìn xa xa phía dưới, những dãy nhà lợp tôn lẫn lợp lá hiện ra thấp thoáng. Trong lòng tôi vừa mừng vừa hồi hộp biết là nơi đó có chồng tôi, tự dưng đầu tôi quay mòng mòng, chân tôi muốn quỵ xuống. Mãi tận rừng núi hoang vu, hàng hàng lớp lớp nhà tù, đang giam giữ chồng tôi và những người sống vì chính nghĩa, chịu bao nhục hình của bầy thú dữ, nước mắt tôi lại chảy, chỉ biết gọi thầm tên anh. Mong rằng anh cảm nhận được tiếng gọi của tôi và biết rằng tôi đang đến gần anh.


Căn nhà thăm nuôi của K1 nằm bên phải con đường phía dưới chân đồi, nhìn rất rõ vì cây rừng đã được phá hoang, thỉnh thoảng còn lại ít cây to rải rác. Thấy con đường vòng hơi xa, nóng lòng gặp chồng, tôi tìm cách đi lối khác. Tôi thả hai giỏ đồ đã được cột chặt lăn xuống theo sườn đồi, còn tôi thì cột hai ống quần vào cổ chân rồi ngồi tụt xuống, vì độ dốc rất cao. Cũng may tôi mặc cái quần vải thun dầy nên không bị rách, chỉ bị trầy chút da chân và tay vì vướng vào cành chà.


Tôi tới nhà thăm nuôi đã gần chiều, có mấy người cùng chuyến xe tới trước cũng đang ở đó. Nhà thăm nuôi hẹp và dài, được chia ra nhiều ngăn, mái lợp lá, vách đắp bằng đất trộn rơm. Ngăn đầu có một lối ra vào không cánh cửa, ở giữa kê một cái bàn gỗ dài, hai cái ghế dài hai bên, có lẽ là chỗ gặp thân nhân. Gần lối ra vào, một cái bảng nội qui ghi những điều luật cấm.Những điều luật cấm thì trại tù nào cũng như nhau, nhưng thời gian thăm nuôi thì tôi như hụt hẫng với bao mơ ước dự tính trong đầu khi nhìn con số 15 phút thăm gặp. Lòng tôi sôi quặn, trời ơi ba ngày đường xa xôi, lặn lội rừng sâu mà chỉ được gặp chồng có 15 phút thôi sao. Chưa gặp mặt chồng mà nước mắt tôi đã ứa bờ mi.


Trước sân nhà thăm nuôi là con suối nhỏ, bên kia con suối, những dãy nhà tù thật xa, dù thấy bóng người tù cũng không thể nhận diện được ai vì quá xa. Tôi mon men đến gần sát bờ suối, mắt hướng về phía trại tù mong ngóng hình bóng yêu thương của mình qua thần giao cách cảm.


Trời gần nhá nhem tối, thêm được hai chị đi thăm chồng ở K4 và K5 đến tạm ngủ chung với chúng tôi cho qua đêm, chờ sáng hôm sau trở lại chỗ cũ để gặp chồng. Chúng tôi chẳng ai biết ai, nhưng cùng hoàn cảnh nên dễ thân thiết, ngồi chụm chung lại với nhau nói chuyện. Thật là khủng khiếp kinh sợ khi nghe các chị kể chuyện, ngay tại nhà thăm nuôi K1 này, đêm đêm có một bóng ma, hiện lên lơ lửng phía sau nhà, chỗ cây cao nhiều cành lá. Ngôi nhà này vách sau có những cửa sổ không cánh, chấn song bằng những cành tre nhỏ nên có thể nhìn qua lại rất rõ. Tin đồn có một chị đi thăm chồng, không biết vì vấn đề gì đã treo cổ tự tử ngay cây cao phía sau nhà, nên bây giờ hồn chị luẩn quẩn quanh đây, hiện ra với âm thanh rên rỉ khóc than theo tiếng gió vi vu thật rợn người. Trời chưa tối hẳn, tôi đã thấy sờ sợ, ngồi chen vào giữa các chị. Có chị quả quyết là chị không tin người đàn bà đó tự tử, trong khi cực khổ đi thăm chồng, đã đến tới nơi sắp gặp được chồng, cớ gì lại tự tử. Có thể người đó tới đây, không có ai cùng thăm nuôi, đêm vắng vẻ bị tụi công an hãm hiếp, rồi giết treo cổ chị trên cây để không chứng cớ và gán cho chị là tự tử. Hai chị thăm nuôi K4 và K5 đều nói cũng nghe tin đồn đó, nên hai chị tìm đến với chúng tôi để không bị nguy hại. Phần tôi, nếu không nghe được chuyện này, lần đầu tiên đến đây, một mình đêm vắng, có thể cũng như người đàn bà bị treo cổ trên cây kia.


Ngoài sân màn đêm đã bao phủ một màu đen đặc, ếch nhái ngoài bờ suối ì ộp kêu. Đàng xa, có ánh đèn bin đang rọi đi tới nhà thăm nuôi, một chị khều tay nói khẽ, “kiến vàng đang đến” (ý nói Công An). Chờ trời tối, công an mới đến kiểm tra có bao nhiêu người ở đó để phát mùng mền. Tới lượt tôi, tên công an cầm súng chỉa thẳng vào tôi, sợ trường hợp bất cẩn, tôi nói với tên công an:


– Cán bộ làm ơn đưa họng súng qua hướng khác, đừng chỉa vào tôi lỡ tay rất nguy hiểm.

Tên công an sừng sộ:

– Vợ tụi ngụy không tin được, phải cảnh giác.


Và họng súng vẫn hướng về phía tôi. Tôi là người sau cùng vô tới trại, công việc nấu cơm theo thứ tự, tới phiên tôi là chót. Ở đây có một cái bếp và một cái nồi móp méo, người này nấu xong dỡ cơm ra rồi đến người kế tiếp. Cũng có người không nấu cơm, họ mua các loại bánh đưa vào ăn, còn tôi tiền bạc eo hẹp, mua được hai lon gạo, nấu ăn đêm nay và ngày hôm sau, cũng may tôi còn một quả trứng luộc mua dọc đường chưa kịp ăn..


Nấu cơm xong đã quá nửa đêm, tôi dỡ cơm vào chiếc khăn tay ướt nắm lại cho chắc và chia thành hai nắm, một nắm ăn ngay, còn một nắm dành cho ngày mai. Tôi cạo vét những hạt cơm cháy dưới đáy nồi để còn rửa sạch cho người khác nấu. Nhìn những hạt cơm bất chợt lòng tôi nhói buốt xót xa. Hình ảnh hai người tù cải tạo hồi chiều đã làm tôi rơi nước mắt, ruột co thắt và tim gan như xé ra từng mảnh.


Lúc tôi đứng bên bờ suối nhìn sang trại giam. Một chị đưa nồi ra suối rửa, những hạt cơm theo nước trôi, nằm đọng dưới nước lẫn lộn đất cát và sỏi đá. Một người tù cải tạo lao động gần đó, đưa mắt liếc nhanh, chờ cho chị ấy bước hẳn lên bờ, người tù vội vàng bước thật nhanh xuống lòng suối, giả bộ cúi xuống rửa mặt, nhanh tay mò nhặt những hạt cơm lẫn chung với đất cát bỏ vội vào miệng của mình. Hình ảnh đó thu nhanh vào mắt tôi, vào đáy lòng của tôi. Ôi! Thật đau khổ dường nào, xót xa dường nào. Trời ơi! Chồng tôi cũng như thế sao?


Khi tôi ra bìa rừng nhặt mấy nhánh củi khô để nấu cơm, một người tù cải tạo đang chặt cây rừng, mon men lại gần phía tôi lấm lét nói nhỏ, ánh mắt như cầu khẩn:


– Chị ơi! Khi nào chị nấu cơm xong, chị đừng đưa nồi ra suối rửa, chị làm ơn dấu cái nồi trong bụi rậm này cho chúng tôi chị nhé.


Hai hình ảnh đó làm tôi như chết lặng. Trời ơi! Những người tù cải tạo, những con người khốn khổ sao ra nông nỗi này? Sao biến đổi như thế này? Cộng sản quá ti tiện bẩn thỉu, hành hạ người tù bằng cách này.


Hai nắm cơm trắng nằm trong chiếc khăn tay. Tự nhiên hình ảnh chồng tôi qua hình ảnh hai người tù cải tạo ấy làm tôi chẳng thấy đói. Một nắm tôi gói lại cho chồng, một nắm tôi bỏ lại trong nồi cùng ít cơm cháy, chờ trời sáng tôi dấu vào bụi rậm, không biết người tù nào may mắn được ăn nắm cơm này.


Đặt lưng xuống chiếc giường tre, tôi không ngủ được, trằn trọc thao thức đếm từng tiếng chim cú kêu ngoài rừng, đếm từng tiếng gà rừng gáy. Chỉ còn vài giờ đồng hồ là tôi được gặp người chồng yêu thương của tôi. Thời gian trôi qua chậm lòng tôi bồn chồn nôn nao khó diễn tả, bao nhiêu hình ảnh của chồng, bao nhiêu tâm tình muốn nói với chồng đầy ắp trong đầu, không biết sắp xếp câu nào trước câu nào sau, vì chỉ có 15 phút. Mắt cứ mở lớn nhìn trên nóc mùng, từng bầy rệp, họ hàng nhà rệp, phải nói là cả xã hội rệp lớn nhỏ có đủ, vừa ngửi thấy hơi người, thi nhau bò theo hàng theo lớp thật nhanh xuống chỗ tôi nằm để hút máu, cái mền cũng vậy, rệp bò lổn ngổn lúc nhúc, mùi tanh tanh ngai ngái đến lợm giọng. Bỏ mền ra thì lạnh, cái lạnh của miền núi rừng cao nguyên tê buốt thấu xương, ra ngoài ngồi thì bị muỗi rừng chích, tôi đành chịu để rệp hút máu. Nhìn đoàn rệp bò như hội chợ, con no máu bụng căng phồng chậm chạp bò lên nóc mùng, con nào còn thèm thuồng lại bò xuống, cứ như vậy bò lên bò xuống suốt đêm. Tôi thương tôi bị rệp hút máu, tôi lại đau xót cho đất nước và đồng bào tôi, chịu để bị tàn phá rỉa róc đến tận xương tủy.


Trời hừng hừng sáng, tiếng kẻng lanh lảnh phát ra từ trong trại tù, hàng loạt vang dội vào tai tôi đến nhức óc, tiếng kẻng báo hiệu những người tù đi làm khổ sai. Mọi người lăng xăng háo hức xếp đồ thăm nuôi gọn gàng chờ gặp người thân, có người sắp đồ để bên cạnh cái bàn như thể chồng mình đang ở đó. Tôi cũng nôn nao hồi hộp, mắt hướng về bên kia bờ suối mong ngóng. Từ đàng xa, người công an dẫn những người tù đi đến, tất cả mọi người chúng tôi chạy ùa ra đứng cạnh bờ suối, chỉ mong nhìn thấy chồng mình trước, nhưng những người tù đó rẽ ra hướng khác làm mọi người hụt hẫng ngơ ngác. Tôi không ngạc nhiên, biết chắc tốp tù đó không có chồng tôi, vì họ mắc bộ đồ tù màu xám nhạt, trước ngực và sau lưng đều đeo bảng số, người nào cũng như bộ xương biết đi được khoác lên bộ đồ tù rộng thùng thình, vạt và tay áo phất phơ như hình thằng bù nhìn mà nông dân thường treo ngoài ruộng rẫy để đuổi chim. Thêm hai lớp tù nữa đi qua, họ đi bên kia bờ suối khoảng cách hơi xa, nhưng họ cứ ngoái lại nhìn chúng tôi, trông thật tội nghiệp. Mặt người nào cũng còm cõi hốc hác. Tôi đoán họ là tù hình sự, chắc bị hành hạ tra tấn dữ lắm nên thân xác họ tiều tụy như vậy. Tiếng các bác các chị nhao nhao:


– Đang ra kìa! Đang đến nữa kìa, chắc lần này đúng rồi.


Tôi bước ra chỗ khác để nhìn cho rõ, vẫn thấy hai người công an mặc áo màu vàng cầm súng đi chung với tù cải tạo, nhưng tốp này ít người tù hơn. Họ cũng mặc áo tù màu xám có bảng số. Tôi nhìn dửng dưng, người tôi đang mong đợi là chồng tôi, chứ không phải những người tù hình sự đó. Những người tù đến gần bờ suối, người nào cũng hướng về chúng tôi, mắt tôi nhìn về một người vì người ấy nhìn tôi mỉm cười. Tôi thấy tội nghiệp vì bộ đồ tù quá rộng phủ lên người đó, còn tóc cắt ngắn gần như trọc nhẵn. Mắt tôi vẫn trông theo người đó, tôi hơi ngạc nhiên, người đó xa lạ tôi không quen tại sao cứ nhìn thẳng vào tôi. Quay sang chị bên cạnh, tôi chỉ vào người tù đó:


– Chị ơi! Tôi không quen người tù đó, mà sao nhìn tôi cười.


Chị ta nhìn theo hướng tay tôi chỉ:


– Chắc người nhà chị, cười với chị, chứ tui đây sao không cười với tui. Chị ta cười nói đùa:


– Trời ơi! Nhìn thấy chồng mà mặt làm bộ tỉnh queo.


Tôi cãi lại: “Chồng tôi nhìn đâu như vậy”. Những người tù qua hẳn bên này suối, khoảng cách thật gần, cách tôi chừng 5 bước. Bỗng mắt tôi hoa lên, chân đứng không vững, bầu trời như sập xuống. Tôi mở to mắt nhìn, như không vào mắt mình, tim tôi đập mạnh trong lồng ngực. Ôm lấy ngực, cắn chặt môi để không thét thành tiếng, tim tôi đau nhói.


Ôi! Chồng tôi, chồng tôi đấy ư! Chồng tôi ra nông nỗi này sao? Không lẽ là anh, lúc này tôi nhận rõ anh qua ánh mắt. Ánh mắt ngày xưa nhìn tôi yêu thương nồng nàn, bây giờ cũng ánh mắt ấy nằm trong một hốc sâu trông thật xót xa. Đôi mắt to tròn đầy cương nghị chỉ còn là hai hố sâu hoắm trên cái đầu lâu được bọc da. Đau xót thương cảm tôi nghẹn ngào, nước mắt cuồn cuộn thi nhau chảy. Trời ơi! Hình dạng chồng tôi hao mòn biến đổi ra thế này ư. Tôi đưa tay bụm chặt lấy miệng để tiếng khóc không thoát ra ngoài, mặt tôi dàn dụa nước mắt, tim nhói đau theo nhịp tiếng khóc trong cổ họng. Hình ảnh chồng tôi lung linh qua làn nước mắt. Anh nhìn tôi đau khổ, đầy nước mắt khô,môi anh khẽ mấp máy:


– Nín đi em, nín đi em. Anh đây! Anh không sao, anh còn sống!


Tôi đứng nhìn anh chết sững, Tôi biết những dòng nước mắt của tôi sẽ làm anh khổ, nhưng tôi không thể nào cầm lòng được khi nhìn thấy chồng như thế này. Tôi muốn chạy lại ôm chặt lấy anh, ôm lấy hình hài như da bọc xương của anh, san sẻ cho anh chút sinh lực hơi ấm nơi tôi. Nhưng tôi không làm được, cặp mắt hai tên công an cầm súng trừng trừng nhìn chúng tôi như ngầm bảo “không được lại gần những người tù”, chúng tôi thật gần mà khoảng cách thật xa bởi quyền lực.


Sáu người tù đứng theo hàng trước nhà thăm nuôi. Tôi chờ tiếng nói của 2 tên công an cho phép gặp gỡ người tù, sẽ chạy đến bên anh, đưa anh vào chỗ nơi tôi để sẵn giỏ đồ thăm nuôi. Nhưng tên công an ra lệnh mấy người tù thứ tự theo hàng đứng vào một bên hàng ghế, còn một bên hàng ghế đối diện, tên công an hất mặt lại phía những người đi thăm nuôi.


– Này! Ai là người nhà, chỉ được một người thôi, ngồi phía bên kia người nhà của mình.

Chúng tôi lần lượt như một cái máy bước nhanh vào chỗ ngồi đối diện. Những người tù ngồi bất động, xót đau nhìn người thân của mình, kiên nhẫn chờ đợi. Người công an đứng ở đầu bàn hắng dặng, gằn giọng nói:


– Trước khi người nhà tâm sự với nhau, phải tuân theo điều luật, động viên các anh ấy học tập tốt, nhất là không được khóc làm nản chí học tập các anh ấy. Phải biết là nhà nước cách mạng đánh đuổi Mỹ- Ngụy ra khỏi nước, nhà nước đã khoan hồng cho các anh ấy học tập để không còn theo Mỹ-Ngụy đánh đổ nhà nước, bây giờ đã hòa bình, xã hội chủ nghĩa là xã hội tự do vv…Ôi chao, tên công an cứ như con vẹt đọc bài thuộc lòng, những lời tên công an không lọt vào tai chúng tôi. Mắt và đầu óc tôi chỉ chăm chú vào chồng tôi, nước mắt tôi vẫn không ngừng rơi.


Trong phòng thăm nuôi im lặng, ngoài tiếng nấc, tiếng sụt xịt nghẹn ngào trong cuống họng và tiếng giảng thuyết lên lớp của tên công an, kéo dài như cố tình quên 15 phút thăm gặp. Những giọt nước mắt của tôi như động lực đưa bàn tay anh về phía tôi, như muốn vỗ về an ủi mà trước đây mỗi lần tôi khóc. Bàn tay anh rướn gần tới bàn tay tôi thì ngừng lại, vì tên công an cầm súng tiến gần phía sau lưng tôi, ngón tay anh run rẩy như những lóng xương đang động đậy. Lòng tôi đau như cắt, chẳng nói được gì ngoài hai hàng nước mắt, tôi muốn vươn tới nắm lấy bàn tay xương xẩu của anh, nhưng cặp mắt của tên công an vừa nói vừa liếc nhìn chúng tôi. Dưới gầm bàn, tôi cảm được bàn chân chồng tôi đang động đậy kiếm bàn chân tôi, trút vội cái dép khỏi chân tôi đưa chân mình lần mò đặt lên chân anh, để chồng tôi nhận hơi ấm và tình cảm của tôi lén lút gửi qua bàn chân anh. Bàn chân chồng tôi đang lạnh từ từ ấm lên, tôi khóc mà cảm được hạnh phúc qua đôi bàn chân. Cho tới khi tên công an cho phép trao đổi tâm tình, thời gian chỉ còn 5 phút ngắn ngủi, tôi chẳng nói được gì với chồng tôi, ngoài tiếng nấc nghẹn ngào, gật đầu và lắc đầu theo tiếng hỏi thăm của chồng tôi về bố mẹ và hàng loạt người thân mà chồng tôi nhớ tới. Hết giờ thăm nuôi.


Tới lúc kiểm tra đồ thăm nuôi, có món mẹ tôi cố công làm gửi cho anh và vài món khác không hợp lệ bị gạt ra. Tôi hồi hộp nhìn những món đang kiểm tra, tới món mỡ chưng hấp với đường cát trắng, tôi nặn óc nghĩ mãi cách qua mặt tên công an, mở gói mỡ ra, những miếng mỡ trong veo bọc với đường cát trắng trông giống như miếng mứt bí, tên công an cầm từng miếng lên ngửi, thắc mắc hỏi tôi:


– Cái này là thứ gì?


Tôi trả lời nhanh để hắn khỏi nghi ngờ:


– Thưa cán bộ, thứ này là mứt bí, Tết qua lâu rồi sợ bị hư, tôi gởi cho chồng tôi để ăn tết muộn ạ.


Như thể tên công an chưa bao giờ nhìn và nghe nói mứt bí, vẫn thắc mắc:


– Mứt bí là cái thứ gì?


Có lẽ người ngoài Bắc không hiểu tiếng người trong Nam. Tôi lại giải nghĩa:


– Mứt này cứ vào dịp tết, chúng tôi lấy quả bí đao cắt lát, ướp với đường phơi khô thành mứt, gọi là mứt bí.


Tôi thở phào khi tên công an bỏ miếng mỡ heo vào gói và đẩy về phía chồng tôi, anh nhanh tay bỏ vào giỏ của mình, chỉ sợ bị lấy lại. Tên công an giả lả:


– Mất bí đao thì cứ gọi là mất bí đao. nói là mứt..mứt …,ai mà biết.


Vài tiếng cười khúc khích nho nhỏ của mấy người đi thăm nuôi đứng gần đó. Tên công an quay lại gừ lên: – Các chị cười cái gì vậy. Còn nắm cơm, tôi gói vào tờ giấy đã nguội ngắt, hắn cầm lên sừng xỏ với tôi:


– A! Chị này giỏi thật. Dám xỉ nhục cách mạng. Chị tưởng nhà nước chúng tôi bỏ đói chồng chị hả, tôi bỏ lại hết đồ thăm nuôi của chị bây giờ.


Lúc đó tôi run quá, vì thương chồng mà làm hại tới anh. Sợ chồng tôi không được nhận những món đồ thăm nuôi, tôi định lấy lại nắm cơm và xin lỗi tên công an, nhưng thấy ánh mắt chồng tôi nhìn vào nắm cơm. Tôi thật đau lòng và xấu hổ cho sự hèn nhát yếu đuối của mình khi phải nói những gì không đúng sự thật, giọng tôi run run uất ức:


– Thưa cán bộ! Tôi biết nhà nước cách mạng khoan hồng cho chồng tôi, được đi học tập cải tạo như vậy là tốt, để chồng tôi thông suốt đường lối, sống tốt với nhà nước với nhân dân. Còn tôi đâu dám xỉ nhục nhà nước, nắm cơm này tôi nắm để ăn, còn thừa đã hơn một ngày rồi, nó bắt đầu hơi thiu, bỏ đi thì tiếc. Tôi để lại cho chồng tôi ăn, nếu không còn ăn được, chồng tôi vất đi cũng được mà.


Những lời tôi nói làm dịu lòng tên công an, cầm cuốn sổ tay, tên công an gõ vào cạnh bàn, nói.


– Chị hiểu được nhà nước như vậy là tốt, thôi được, cho phép chồng chị lấy nắm cơm thiu này. Chồng tôi chỉ chờ có vậy, cầm vội nắm cơm bỏ vào giỏ và bước nhanh vào hàng đi theo hai tên công an vào lại trại.


Chúng tôi nước mắt tiễn đưa những người thân tới bờ suối, ranh giới của chia cách. Những người tù ngoái lại nhìn chúng tôi trông rất thương cảm xót xa, không biết có lần sau gặp lại vợ mình, người nhà của mình nữa không?


Mọi người trở vào thu xếp để đi về. Bóng chồng đã khuất hẳn, tôi thẫn thờ nán lại bên bờ suối, nhìn về hướng trại giam như để hy vọng còn nhìn thấy anh. Tiếng các chị gọi ơi ới:


– Không gặp lại nữa đâu, đi về đi.


Bước vào nhà thăm nuôi, nhìn từng chỗ vẫn thấy hình ảnh chồng tôi, từ chỗ anh đứng xếp hàng, chỗ ngồi vào ghế, lúc anh đứng nhích tới để xếp đồ vào giỏ, từng hình ảnh một hiện lại trong mắt tôi. Tôi ngồi vào ngay chỗ anh ngồi, tưởng tượng anh còn đang ngồi với tôi, tay tôi xoa xoa mặt bàn tìm chút hơi ấm còn đọng lại của anh. Nước mắt tôi lại trào ra, chỉ là tưởng tượng, mặt bàn trống trải lạnh tanh, hơi lạnh chuyền vào tay thấm tới tim tôi, ngơ ngác tôi như còn muốn kiếm tìm.


Mặt trời đã lên cao. Tôi ra về mà lòng trĩu nặng xót đau, hình ảnh tù tội khốn khổ của chồng luẩn quẩn quanh tôi là hành trang yêu thương theo tôi suốt cả cuộc đời. Từng bước chân nặng nề bước trên con đường dốc ven đồi, đầu tôi ngoái lại như hồn còn ở giữa núi rừng hoang vu.


Từ xa, nơi ngã ba đường, hình dáng như quen thộc đang tiến vào con đường tôi đang đi. Ồ! Thì ra ông cụ cùng chuyến xe sáng hôm qua. Tôi đứng lại chờ, dáng ông thất thểu lom khom từng bước chậm chạp, không còn vẻ nhanh nhẹn như hôm qua. Thấy tôi ông chỉ hơi nhếch mép, vẫn cái miệng móm mém của ông, tôi nhanh nhẩu chào:


– Chào bác! Hai bác cháu mình có duyên gặp lại nhau, sao bác? Con trai bác có khỏe không?


Tôi chào hỏi để có chuyện nói chứ cùng cảnh thăm tù, thấy người thân nỗi đau như xé ruột gan. Ông cụ òa lên khóc, tiếng khóc nỉ non ai oán.


– Tôi khổ quá cô ơi! Lặn lộn đường xa mong gặp con mà chẳng được gặp.


Tôi cầm lấy tay ông lắc lắc, lo sợ!


– Sao vậy bác! Anh ấy bị làm sao?


Như cào vào nỗi đau thương của ông, mếu máo ông càng khóc to hơn:


– Tội nghiệp cho con tôi, nếu tôi đi thăm một tuần trước đây thì đâu đến nỗi này, con tôi bị giam vào nhà đá mấy bữa nay rồi cô ơi. Ông khóc hu hu, giọng nghẹn ngào đứt quãng: “ Khổ thân con tôi! Sao con khổ vậy, con làm gì nên tội mà họ hành hạ con”!


Nước mắt tôi chảy theo nước mắt ông, cùng hoàn cảnh và tâm trạng. Kẻ khổ không gặp được con, người đau nhìn chồng thân xác hao mòn xác xơ. Một già một trẻ chung niềm đau, chậm chạp lê bước trên đường.…


Sau này, những đêm nằm gối đầu trên cánh tay chồng, tôi thường nghĩ đến những năm tháng sống trong đen tối khổ đau, những tủi nhục khổ cực mà chồng tôi chịu đựng trong nhà tù khổ sai mà Cộng sản gọi là “ tập trung cải tạo”. Tôi thì thầm hỏi anh nghĩ gì mỗi lần nhìn thấy tôi và ngày đó ở trại tù Gia Trung, cảm giác của anh khi bàn chân tôi tìm để trên bàn chân anh dưới gầm bàn, anh bóp nhè nhẹ bờ vai tôi cách âu yếm. Ngày mất nước, anh mất tất cả. Ngày vào tù, coi như anh đã chết. Những lần thấy tôi, nhìn tôi tàn tạ héo úa, anh rất khổ. Anh bất lực trong hoàn cảnh không thể an ủi xoa dịu tôi, anh không khóc được như tôi đã khóc, anh dồn nén niềm đau của mình càng làm anh đau hơn. Nhưng anh vẫn nhìn thấy nơi tôi một vùng trời đầy hy vọng, giúp anh thêm niềm tin và nghị lực. Và lần đó, anh không nhận được hơi ấm từ bàn chân tôi, có thể chân anh và tôi khoảng cách hơi xa, nên chân tôi đặt lên bàn chân người bạn tù ngồi kế bên.. Thôi thì người bạn tù đó cũng cảm được sự an ủi, hạnh phúc nghĩ đó là chân của vợ mình.


Anh quàng tay ôm chặt lấy tôi, như thể bàn tay anh còn quá hẹp, không đủ ôm cả niềm yêu thương hạnh phúc của mình. Còn tôi, rúc vào cổ vào ngực anh, hạnh phúc nghe được nhịp tim và hơi ấm, như đang nghe điệu nhạc dịu êm, ru tôi vào giấc ngủ trong vòng tay ấm áp của anh, mà trước đây tôi thường phập phồng lo sợ tưởng rằng mình không bao giờ còn có những giây phút này.


24/4/2014

Hoàng Yến

From: Bác sĩ: Hanh Van Phung