MÙA XUÂN BÊN KHUNG CỬA -Truyện ngắn

Nguyễn Thị Thêm

Người lính già ngồi nhìn ra khung cửa. Nắng rực rỡ ngoài kia. Những hạt nắng nhảy nhót lung linh.

Ông đưa tay lên gãi đầu. Ông lại cười một mình. Ông biết cái đầu ông bây giờ tức cười lắm. Hôm qua bà vợ già đã đặt cái ghế giữa nhà, kéo ông ngồi xuống và hớt tóc cho ông. Bà đâu phải là thợ, bà cũng chưa hề hành nghề này bao giờ thế mà hôm nay bà ra tay “Đè đầu cưỡi cổ” ông. Ông ngồi yên. Mà ông không ngồi yên cũng không được bởi bà đã choàng cái khăn bà may giống ở tiệm, quấn kín cổ cho ông. Bà cười lỏn lẻn:

– Ông chịu khó ngồi yên nghen. Ông mà cựa quậy lung tung, tôi lỡ tay sẽ biến ông thành sư cọ.

Ông tức cười quá nhưng không dám trả lời. Ông mà mở miệng, nước miếng lại trào ra thành dòng. Thôi thì mặc kệ, bả muốn chơi kiểu nào cũng được. Đời ông từ lâu đã giao phó cho con gà mái dầu dễ thương này rồi.

Bà vừa hớt vừa xoay trở, bờ ngực đè lên vai ông cọ qua cọ lại nhiều lần. Ông cũng thấy xuân tình nổi lên, nếu mà ngày xưa bà sẽ chết dưới tay ông. Nhưng cũng nhưng mắc dịch, cái tông đơ đã lâu không sử dụng nó nghiến cái tóc ông đau từng hồi. Ông tự nhủ: “Thây kệ! ráng chịu đau, la lên lại chảy nước miếng”. Cái máy rè rè, bà nghiêng bên này, nghiêng bên kia, lúc dùng lược lúc dùng dao cạo, sửa tới sửa lui. Ông rọ rạy khó chịu. Bà nhét tay ông vào trong khăn dỗ dành:

– Ráng chút nữa, tui sẽ biểu bầy nhỏ mua cái máy khác. Máy mới nó đi ngọt hơn. Đừng! đừng… ông lại rọ rạy, tui dớt bên này sâu hơn rồi nè. Phải sửa lại bên kia cho nó đều. Ông thiệt là…

Một hồi sản phẩm của bà cũng xong, bà đứng ra phía trước nghiêng người ngắm nó ra vẻ hài lòng. Lột khăn choàng ra. Kéo ông đứng dậy bà cười:

– Bi giờ ông giống lính mới tò te nhập quân trường. Thôi đi vào ghế nằm nghỉ ngơi một lát, dọn dẹp xong, tui tắm cho ông.

Vào phòng tắm bà lại lôi máy cạo râu chơi một vòng lả lướt trên mặt ông trước khi lột sạch đồ và đưa ông vào bathtub. Bà lấy cái ghế nhỏ kéo ông ngồi xuống. Bà bước hẳn vào trong, thử nước vừa ấm và cẩn thận gội đầu cho ông. Bà cười giọng reo vui:

– Đại Úy, tóc cắt kiểu này không sai luật quân trường phải không? Tui cắt tóc cũng chiến lắm chứ bộ.

Ông làm thinh nhớ đến quân trường ngày đầu nhập ngũ, nhớ những lần tập huấn:”Quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu” Nhớ cái nhìn sửng sốt lẫn thương cảm của mẹ nhìn thấy con trai cái đầu húi cua và gương mặt sạm nắng.

– Ông nè, hớt tóc ở nhà đỡ cho ông khỏi phải chờ đợi ở tiệm đau cả lưng. Dẫu tui hớt có xấu đi một chút, nhưng già rồi mình đâu có đi đâu mà ngại. Mà ông đừng lo, lần đầu chưa quen tay, tui hớt chưa đều, mai mốt tui lành nghề mấy ông già hàng xóm thấy mê, qua đòi tui hớt và tắm rửa ông đừng có ghen nha.

Ông cố nín cười về câu pha trò của bà, bà cũng kéo ông về thực tại về những lần phải đi hớt tóc ngoài tiệm. Phải rồi, ông nhớ lại mỗi lần đi tiệm hớt tóc, bà vợ ông đã gọi trước lấy hẹn để ông khỏi phải chờ. Nhưng lần nào chú thợ cũng bận hớt một hoặc hai người trước ông. Ông ngồi xuống ghế, bà ngồi ghế kế bên luôn chậm nước miếng và đỡ cho đầu ông không gục xuống. Cái lưng ngồi lâu lại đau thắt cả người. Bà lại dìu ông đứng dậy rồi đỡ ông đi loanh quanh bên ngoài.

Tới phiên ông vào cắt, ông không thể nào ngồi vào cái ghế dễ dàng dù ghế đã hạ thấp xuống hết cỡ. Chú thợ và bà phải nâng ông lên trên ghế và xoay cho ông ngồi ngay ngắn. Cũng tội nghiệp chú thợ, đầu ông cứ ngọ ngoạy và gục xuống vì mỏi cổ. Có khi ông ngủ gục, giật mình một cái khiến chú thợ hết hồn. Cho nên lần nào ông đi hớt tóc bà vợ cũng kè một bên nâng đầu ông lên cho thẳng. Tóc ông hớt bay vào  người bà,  mỗi lần đi tiệm về, tắm ông xong bà cũng phải tắm luôn cho mình.

-Xong rồi. Sạch sẽ, đẹp trai. Mời đại úy bước ra.

Bà lại dìu ông bước ra khỏi bathtub trần truồng như nhộng. Nhìn vào gương ông không khỏi chạnh lòng. Ông già này là ông đó sao? Ông muốn khóc cho mình, cho số phận chua chát của  kiếp người, một người lính già bệnh tật. Hai tay vịn vào bàn ông giang chân hơi rộng ra để bà mang tã. Ông lại đứng yên nhìn mình trong gương. Cảm xúc lúc nãy biến mất dường như ông không quen người này, cái gã lạ mặt cứ nhìn chăm chăm vào ông.

– Giơ chân lên đi ông, chân này trước nè

Bà vỗ vỗ ở chân làm ông giật mình. Ông giơ chân lên để bà mặc quần, hết vỗ chân này bà lại vỗ chân kia, nếu không chân ông cứ dính chặt trên nền không nghe ông sai bảo. Mặc áo cho ông xong xuôi, bà cầm tay ông lên ngắm:

– Móng tay ông đã dài nữa rồi. Thôi sẵn nó mềm tui cắt luôn cho đủ bộ.

Bà dắt tay ông dìu ngồi trên cái bồn toilet đã được đậy nắp lại:

– Đưa tay trái đây ông.

Bàn tay bà nắm lấy tay ông  kéo về phía mình và ngồi xuống tẩn mẩn cắt từng móng tay, móng chân cho ông. Cái đầu bà cúi xuống chăm chỉ.

Chăm chỉ như khi bà mới về làm dâu nhà ông, lau thật kỹ bộ lư đồng bàn thờ. Cô dâu mới miền Nam đôi mắt ngây thơ sợ sệt bước vào gia đình ông. Một gia đình miền Trung cổ hũ, thân phận dâu cả phải lo kỵ giỗ, gia nương mồ mả nhà chồng.

Những móng tay bị cắt kêu tách tách. Ông nhớ những ngày quê nhà, bà hí hoáy bên nồi bánh Tết, lửa trong bếp sáng rực, kêu lách tách như vậy. Giòn giã hơn, vui tươi hơn. Còn bây giờ tiếng kêu như những nhịp đau thương từ trái tim ông reo lên thương cảm. Người vợ 43 năm chung thủy của ông có được gì đâu chớ. Chỉ nhận được từ ông bao nỗi cay đắng truân chuyên. Nước mắt ông ngân ngấn nhưng tay đã bị bà giữ chặt. Bà giữ cuộc đời ông bằng tất cả trái tim của một người vợ lính.

Xoa hai bàn tay lại với nhau, bà cười cười:

-Tất cả sạch sẽ, tươm tất. Đại úy ơi! xin cho tiền típ.

Ông cười, nước miếng lại chảy ra thành dòng. Bà với tay, lấy cái khăn chùi sạch, nhẹ nhàng chọc quê,:

– Thấy gà mái dầu xấu xí thèm gà móng đỏ phải không?.

Rồi bà dìu ông vào phòng, để ông ngồi lên giường, ôm ông xoay người cho ông nằm xuống. Bà kéo chăn đắp lên người ông, nâng giường cho đầu ông vừa tầm. Bà nói:

– Thôi ngủ một giấc cho khỏe đi ông! Tui đi tắm rồi tui xuống nấu cơm.

Và vậy bà đã xuống phòng ăn. Ông nằm im nhìn lên trần nhà buồn vui lẫn lộn. Có ai ngờ cuộc đời ông lại như thế này. Ông thường thấy bạn bè về bên ông tâm tình. Ông thấy thằng bạn trèo lên lợp nhà trong trại Thanh hà bị sét đánh chết. Ông nhìn thấy con rắn đang bò đến bên ông khi hai tay ông đang ôm bó tre thật lớn. Ông thấy bạn, thấy thù. Thấy những cái nón cối, thấy đầu súng kè kè bên hông ông. Ông thấy mình đói, cái đói cồn cào kinh hoàng như tiêu diệt từng tế bào của con người. Cái đói người tù giết mòn ý chí và nghị lực. Cái đói đến từng đêm dù bây giờ ông vẫn ăn no đủ. Những giấc mơ không đầu không đuôi vùi dập ông mỗi đêm. Những hình ảnh bạn bè thân quen đến với ông hàng ngày. Ông chìm vào thế giới đó và mênh mang trong cuộc sống. Đôi khi ông vô tình quên hẳn sự hiện hữu của bà.

Hôm nay, sao ông lại thấy bầu trời đẹp, thấy bà thật dễ thương. thấy thèm một dĩa cà và vã ăn với mắm ruốc hay một tô bún bò huế thật cay nghi ngút khói. Ông nhớ ngày bà ra Huế thăm ông, Ông chở bà bằng xe đạp đi loanh quanh thành nội thăm bà con. Thời kỳ chiến tranh căng thẳng, VC hay pháo kích bất ngờ. Nhưng thây kệ, mấy khi vợ lính ra thăm chồng, mấy khi ông được nghỉ phép đặc biệt. Cuộc sống lính tráng biết sao được ngày mai, hạnh phúc trong tay cứ hưởng. Thế là hai vợ chồng trẻ trên chiếc xe đạp đi khắp nơi. Tình yêu ngọt ngào tưởng như vô tận. Ông lại chép miệng thật thèm, thèm đủ thứ và tưởng chừng như có bà một bên để ông ôm siết bà thật chặt. ” Ôi! cô giáo của riêng ông!”

Ông lại sờ lên đầu. Cái đầu mới hớt của anh lính mới tò te, râu ria nhẵn nhụi. Cả một thời trai trẻ lại về. Ông nhắm mắt lại, nhớ mùa xuân quân trường. Nhớ nụ hôn ngọt mềm: “Em đến thăm anh vào một ngày đẹp nắng…”

Nguyễn Thị Thêm

From: Tu-Phung


 

Chuyện về người phụ nữ Việt lấy chồng thuộc bộ tộc kỳ lạ nhất nước Mỹ

Kimtrong LamLương Văn Can 75.

Chuyện về người phụ nữ Việt lấy chồng thuộc bộ tộc kỳ lạ nhất nước Mỹ

Người phụ nữ Việt kể chuyện lấy chồng thuộc bộ tộc kỳ lạ nhất nước Mỹ. Nguyễn Yến Nhi- Một người phụ nữ Việt chia sẻ, chồng chị xuất thân từ tộc người Amish. Cộng đồng này từ chối các tiện nghi của thế giới hiện đại, không dùng điện, đi xe ngựa và chú trọng phát triển nông nghiệp.

Trước khi kết hôn với người đàn ông Mỹ John Lapp (39 tuổi), chị Nguyễn Yến Nhi (35 tuổi, quê Kiên Giang) chưa từng biết đến chuyện giữa lòng nước Mỹ giàu có và phát triển bậc nhất thế giới có một cộng đồng trung thành với lối sống tối giản, từ chối gần như mọi tiện nghi của nhân loại.

Họ không sử dụng điện, không dùng tivi, không dùng radio, không chụp hình, không dùng pin sạc, không dùng máy tính kết nối mạng. Trong cuộc sống của họ cũng không có sự hiện diện của điện thoại di động.

Cả cộng đồng đi lại chủ yếu bằng xe ngựa, coi nông nghiệp và nghề mộc là nền tảng cơ bản… Họ cho rằng, công nghệ sẽ ảnh hưởng đến văn hóa, khiến các thành viên trong cộng đồng xa cách nhau và bị đồng hóa với bên ngoài.

Những người đặc biệt này thuộc tộc người Amish. Tộc Amish có khoảng 300.000 người sống rải rác ở các bang Pennsylvania, Ohio, Indiana, New York của Mỹ.

Chị Nguyễn Yến Nhi đang sinh sống ở Mỹ.

Bộ tộc Amish xuất hiện ở Mỹ từ thế kỷ 18. Họ có những quy tắc truyền thống nghiêm ngặt được duy trì suốt hàng trăm năm. Người nào làm ngược lại với các quy tắc đó sẽ bị xem là “tội lỗi”.

Chia sẻ về người chồng của mình, chị Yến Nhi cho biết, trước đây, anh John Lapp sống ở bang Pennsylvania, nơi tập trung đông đảo người Amish.

Theo truyền thống của cộng đồng, anh chỉ học hết lớp 9 và đi làm nghề mộc, dựng các ngôi nhà bằng gỗ. Người đàn ông này không được phép lái xe, không sở hữu ô tô. Thi thoảng đi đâu xa, anh được phép sử dụng các phương tiện công cộng.

Vì không dùng điện nên nhà của John Lapp chỉ có các thiết bị chạy bằng gas như bếp gas, tủ lạnh gas. Gia đình anh cũng không có tivi. Anh có máy tính nhưng chiếc máy tính này đã bị lược bỏ hết các thiết bị có thể kết nối mạng.

“Trước đây, gia đình anh không sử dụng điện thoại. Nhưng sau này, để phục vụ cho việc truyền tin, ba bốn gia đình đã lắp một chiếc điện thoại bàn để ở một căn chòi độc lập”, chị Nhi kể.

Xe ngựa là phương tiện di chuyển của người Amish.

Cộng đồng người Amish sinh sống rất đoàn kết và tôn trọng các yếu tố thuộc về tình yêu, gia đình. Tuy nhiên, giữa sự phát triển không ngừng của thế giới hiện đại, nhiều người trẻ Amish đã lựa chọn rời bỏ cộng đồng để trải nghiệm thế giới bên ngoài. “Sau nhiều lần suy nghĩ, tôi cũng đã đưa ra quyết định khó khăn ấy”, John nói.

Năm 2018, người đàn ông này rời bỏ cộng đồng của mình. Điều này đồng nghĩa rằng, mối quan hệ của anh với gia đình và nhà thờ không còn như trước nữa. Anh không được ăn cùng bàn nếu dùng bữa chung, không được tham gia vào những buổi tiệc của gia đình.

Trước đây, theo quy tắc của cộng đồng, anh John chỉ học hết lớp 9. Vì vậy, khi bước chân ra ngoài, người đàn ông này không có bằng cấp, không có nhiều lựa chọn công việc.

“Sau đó, anh xin vào làm ở một công ty về in ấn 3D và máy móc. Anh dần làm quen với các tiện nghi, đi máy bay, du lịch, sử dụng điện thoại di động, máy tính kết nối mạng”, người phụ nữ Việt nói.

Chuyện tình xuyên biên giới của cặp đôi vợ Việt – chồng Amish

Khoảng thời gian này, người đàn ông Mỹ cũng mở rộng các mối quan hệ, giao lưu kết bạn nhiều hơn. Anh được một người bạn Việt Nam giới thiệu làm quen với chị Yến Nhi.

“Khi ấy, tôi đang sống ở Kiên Giang, còn anh sống ở Mỹ. Chúng tôi trò chuyện qua mạng”, chị Yến Nhi nhớ lại.

Thời gian này, chị Yến Nhi đang tham gia một chuyến đi hỗ trợ trẻ em tại Campuchia nên có nhiều chuyện hơn để chia sẻ với John Lapp. Hai người tìm thấy ở nhau sự đồng điệu, niềm tin và cùng có chung mong muốn hỗ trợ những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.

John với những câu chuyện về cộng đồng kỳ lạ Amish càng khiến người phụ nữ Việt cảm thấy tò mò. “Khi quen John, tôi mới biết đến người Amish. Tôi rất bất ngờ khi nghe anh kể về bộ tộc kỳ lạ”, chị Nhi nhớ lại.

Qua cách John chia sẻ, chị Yến Nhi cảm thấy anh luôn day dứt và đã phải suy nghĩ rất nhiều khi đưa ra quyết định rời khỏi cộng đồng. Những tâm sự, nỗi niềm cứ thế khiến họ xích lại gần nhau.

Cả hai trò chuyện, cập nhật hình ảnh thường xuyên cho nhau. Đến một ngày, khi nhận ra, Yến Nhi như một phần tất yếu không thể thiếu với mình, người đàn ông Mỹ quyết định nói lời tỏ tình.

Tháng 2/2019, John đến Việt Nam để gặp gỡ Yến Nhi. Người phụ nữ Việt chưa từng nghĩ mình sẽ yêu và lấy một người ngoại quốc. Trong gia đình, Yến Nhi còn được xem là trụ cột. Tuy nhiên, sự kiên trì và tình cảm chân thành của anh đã khiến chị rung động.

Trong năm 2019, John còn quay lại Việt Nam thêm 4 lần nữa để thăm người yêu. Họ quyết định kết hôn vào đầu năm 2020, sinh sống ở bang Pennsylvania.

Tự xây nhà, làm vườn, sống tự cung tự cấp

Sau một thời gian đi làm ở công ty in ấn, anh John nhận thấy nếu tiếp tục làm công việc này, anh sẽ không có nhiều thời gian dành cho gia đình. Hơn nữa, mức thuế đóng cao khiến anh nghĩ tới việc muốn được làm chủ chính mình.

Nỗi nhớ lối sống xưa khiến người đàn ông Mỹ lên kế hoạch nghỉ việc. Anh tìm một nơi ở mới để xây nhà và thực hiện cuộc sống tự cung tự cấp như cộng đồng mình trước đây.

Tháng 7/2021, vợ chồng chị Yến Nhi mua mảnh đất rộng ở 8ha ở bang Tennessee, thuộc khu vực rừng nguyên sinh cũ, vắng dân cư và rất ít xe cộ qua lại. Nơi đây có thời tiết ít lạnh hơn và mức thuế phải đóng thấp hơn ở bang cũ.

Cả hai tự xây nhà, sử dụng các vật liệu thân thiện môi trường thay vì sử dụng công nghệ xây nhà hiện đại phổ biến tại Mỹ.

Anh John tự xây dựng ngôi nhà bằng gỗ theo kỹ thuật của người Amish.

Thời gian đầu, để có lối vào đất, John phải thuê người đổ một con đường nhỏ từ ngoài đường lớn vào nơi dựng nhà. Đây là một trong những lần ít ỏi họ thuê người khi xây nhà. Tất cả mọi hoạt động xây dựng sau đó đều do người đàn ông Mỹ đảm nhiệm. Anh tự thiết kế, đo đạc, dựng vách, làm mái…

Chị Yến Nhi nhớ lại những tháng đầu vất vả nhất: “John tự đào đất, đào hầm, lái máy phát cây, chặt rễ. Anh ấy cũng tự mua gỗ về cắt và dựng vách. Dù chỉ mới học hết lớp 9 nhưng với kinh nghiệm dựng nhà của người Amish, anh thiết kế được một ngôi nhà 2 tầng rất chắc chắn”.

Anh John tự tay thiết kế ngôi nhà chắc chắn.

Thời điểm cặp vợ chồng Việt – Mỹ xây nhà, John vẫn phải dành khoảng 2/3 thời gian trong tháng đi làm ở bang cũ (cách bang Tennessee 10 giờ di chuyển ô tô – PV) để có tiền trang trải cuộc sống.

Mỗi tháng, họ dành khoảng 7-10 ngày cho việc dựng nhà. Có lần, vì muốn tiết kiệm chi phí, họ dựng lều ngủ tại công trình. Nhưng vì đêm quá lạnh, con trai 10 tháng tuổi lại ốm sốt, nên cả hai sau đó đành phải thuê nhà nghỉ cách đó nửa tiếng đi xe. “Tiền nhà nghỉ, tiền ăn khá tiêu tốn. Đó là một áp lực lớn với vợ chồng”, chị Yến Nhi nói.

Vì anh John không có bằng kỹ sư xây dựng nên trong suốt quá trình thi công, đại diện của giới chức địa phương đã nhiều lần tới kiểm tra về độ an toàn của ngôi nhà. Tất cả các hạng mục từ dựng hầm, làm vách, lợp mái, hệ thống đường điện… đều được nghiệm thu chuyên môn.

Đầu năm 2022, cặp vợ chồng chính thức chuyển vào ngôi nhà mới ở. Ngôi nhà không kết nối được hệ thống nước sạch, cả hai tự đào giếng để lấy nước sinh hoạt. Song, nguồn nước bị phèn không thể sử dụng. Họ nghĩ ra cách mua bồn chứa nước mưa và tận dụng thêm nguồn nước tự nhiên từ suối.

Hoàn thiện ngôi nhà 2 tầng, chị Yến Nhi cùng chồng bắt tay vào khai hoang, làm vườn, trồng các loại cây ăn quả, cây rau. Họ ăn uống đơn giản với những thứ mình tự trồng được.

Chị Nhi tham gia các phiên chợ nông sản đều đặn mỗi tuần.

“Nhiều người hỏi tôi, lấy chồng Mỹ sao phải cực thế?”

Từ sau khi chuyển về nơi ở mới sinh sống, John quyết định nghỉ hẳn việc ở nhà làm nông nghiệp cùng vợ. Vì vẫn lưu giữ tư tưởng của người Amish nên anh muốn dành thời gian cho gia đình và giữ nhiều thói quen của cộng đồng.

Kinh tế gia đình họ chủ yếu dựa vào nông nghiệp theo truyền thống của người Amish. Tính trung bình, họ thu được khoảng 400-800USD/tuần, tùy vào lượng nông sản bán ra.

Ngoài việc lựa chọn lối sống nông nghiệp, cặp vợ chồng Việt – Mỹ còn học các bí quyết bảo quản thực phẩm, rau củ quả theo cách của người Amish để trữ các loại thực phẩm từ 2 đến 3 năm. Họ cũng không sử dụng tivi trong nhà vì cho rằng xem tivi sẽ rất mất thời gian. Cả hai hạn chế đến bệnh viện, chữa bệnh bằng thảo dược.

Thấy con gái lấy chồng Mỹ nhưng lại tự xây nhà, hàng tuần đi chợ bán rau quả kiếm thêm thu nhập, gia đình của chị Nhi ở Việt Nam rất sốc. “Mọi người nói, tưởng lấy chồng Mỹ phải sướng chứ sao lại sống cực như vậy? Nhiều bạn bè cũng hỏi tôi sao phải chọn con đường đó?”, chị Yến Nhi kể.

Chị Yến Nhi thừa nhận, việc chồng xuất thân từ tộc người Amish đã ảnh hưởng không nhỏ đến lối sống của họ. Chính những điều khác thường khiến nhiều người bàn tán. Có người thì lo lắng, thương cô thật lòng, nhưng cũng có người coi rằng, lựa chọn của vợ chồng Nhi là kỳ dị.

Yến Nhi chia sẻ câu chuyện của gia đình qua kênh “Vợ Việt chồng Amis”, nhiều người không khỏi bất ngờ về cuộc sống của cặp đôi.

Trước những lời bàn tán, chị Yến Nhi dường như không bận lòng. Người phụ nữ Việt tâm sự, ban đầu nghe chồng kể, chị cũng có những suy nghĩ không tích cực về tộc người Amish. Nhưng lâu dần, chị lại thấy yêu thích và tôn trọng lối sống của họ. Người Amish luôn đặt tình yêu và sự tha thứ lên hàng đầu. Họ có nhiều thói quen tốt, sống thân thiện với môi trường.

Đặc biệt, những người Amish truyền thống thường không muốn lấy bất cứ thứ gì của người khác nên rất hạn chế nhận trợ cấp. Họ cũng không muốn người khác nghĩ mình là người nghèo. Họ tự lao động và dù khó khăn vẫn nhường phần trợ cấp cho những người không có khả năng lao động.

“Tôi thấy điều này thể hiện rất rõ ở con người John. Nhiều thời điểm khó khăn nhưng chưa khi nào anh nghĩ đến việc sẽ ngồi không nhận sự trợ giúp từ ai đó. Bản thân tôi hoàn toàn hài lòng với cuộc sống hiện tại và cảm thấy rất hạnh phúc”, chị Yến Nhi cho hay.

VietBF@ sưu tập


 

ANH TÔI – (Nguyễn Thị Thái Hòa)

ANH TÔI – (Nguyễn Thị Thái Hòa)

TamAn

Sau ngày mất nước người anh còn lại bị bắt đi “cải tạo”.

Anh tôi cũng như ba tôi trước sau đều phục vụ thuộc tại tiểu đoàn 12 Pháo Binh. Tuy là sĩ quan cấp úy, nhưng không hiểu sao anh tôi lại bị đưa ra Bắc.

Đầu năm 1977 gia đình tôi mới nhận được tin và xin giấy đi thăm nuôi. Gia đình đơn chiếc, nên tôi phải thay Mẹ làm “thân cò” lặn lội ra Bắc tìm anh Hai.

Nói là đi tìm vì thực sự tôi chưa biết đích xác là anh tôi đang ở đâu? Sau tháng tư Đen, trong miền Nam cũng như ngoài Bắc nhà tù CS mọc lên như nấm dại. Có những nhà tù chúng nó dựng lên chưa kịp đặt tên thì những người Lính miền Nam “bị gảy súng” đã đầy ắp và người Tù cũng bị di chuyển liên miên.

Tuy rằng khi nhận tin thân nhân mình ở chổ này, nhưng khi ra tới nơi thì họ đã bị chuyển đi nơi khác nên mỗi khi đi

thăm nuôi mà gặp ngay được người nhà của mình đúng như lời nhắn thì thật là họa hiếm.

Tôi nghe ngóng, lần mò hỏi thăm mười mấy người lối xóm và theo họ đi ra Bắc tìm thăm thân nhân. Ai cũng tay xách nách mang, trên mặt người nào cũng đầy vẻ lo âu mệt mỏi. Phương tiện di chuyển là xe lửa, xe đò nhưng rất khó khăn nên phải mất hơn mười ngày mới ra tới Hà Nội. Chưa ra tới nơi, chưa kịp gặp thân nhân thì những giỏ quà của chúng tôi bị bọn công an dọc đường tịch thu hơn phân nữa. Có người mất sạch!

Trong đoàn người đi tìm thăm thân nhân này có tôi là trẻ nhất, ốm yếu nhất . Hỏi thăm đủ nơi, đủ chổ, có khi mất thêm đôi ba ngày nữa mới tìm tới được nơi nhốt thân nhân của mình. Cũng là may mắn, một số người đi chung tìm được thân nhân của họ tôi thì tìm được nơi anh tôi bị giam giữ là một vùng đất xa tít tuốt trên Cao Bằng, Lạng Sơn.

Tới nơi thì trời đã sẩm tối, đoàn người ngồi chờ trong một cái chòi tranh phía ngoài trại tù . Đâu chừng một giờ sau, một gã công an xuất hiện. Với cái giọng Nghệ An trọ trẹ nặng như đeo đá, gã gọi từng người, trình đủ thứ giấy tờ, hạch hỏi đủ thứ chuyện, rồi đến cái màn lục xét những giỏ đồ thăm nuôi, và sau cùng mới gọi người tù ra.

Tôi sốt ruột vì ai cũng được gọi gặp thân nhân mà tên của anh tôi thì chẳng nghe . Lo âu, mệt & đói, làm hai mắt hoa lên, đầu óc nặng trỉu, hết đứng lên ngồi xuống, trong lòng như lửa đốt.Thấy những người cùng đoàn đang khóc mừng , tíu tít hỏi thăm thân nhân họ, trong lòng tôi cứ như bị kim châm.

Ngơ ngác chưa biết tìm ai để hỏi. Bỗng có một gã công an đến gần tôi ra lệnh :

– Người nhà của cô bị nhốt chỗ khác, xách đồ đi theo tôi…

Như có sức mạnh vô hình, tôi quên mệt. Rất nhanh, đứng dậy xách hai giỏ đồ đi theo .

Trời tối như mực. Gã công an mang súng đi trước với cái đèn pin nhỏ

Quanh co một đổi quảng chừng năm mười phút cách nhà tù. Tôi hỏi: Thưa ông, gần tới chưa?

Gã không trả lời lầm lũi đi tiếp.

Thêm một đoạn nữa cũng đâu chừng năm phút gã dừng lại, tôi nghe như có tiếng nước chảy của một con suối nhỏ, một tên đứng phía dưới khoát nước lên nói : ê, đừng lại đây đi!

Có tiếng xì xào của vài tên công an nữa đang chờ sẳn ở đó. Chúng nó hỏi gã dẫn đường

Tới rồi à?

Gã công an dẫn đường ra dấu cho tôi đứng lại.

Tôi sốt ruột hỏi :

Dạ thưa ông chừng nào thì tới chổ anh tôi ở?

Chúng nó phá lên cười rồi nói:

Gấp gì, đằng nào cô cũng gặp người nhà mà, ở đây “ủng hộ” chúng tôi một tí đi… đã!

Chúng nó kéo dài chữ “đã” ra và cười hô hố…

Tôi chưa kịp phản ứng gì thì chúng đã xúm lại , giựt hai giỏ xách đồ của tôi liệng ra xa, lột áo quần, đè tôi xuống, hai

thằng trong bọn chúng đứng phía trên đầu tôi, mỗi thằng một bên, dùng hai chân đạp mạnh lên hai cánh tay giang thẳng của tôi cho một thằng khác hảm hiếp.

Sau mỗi một thằng, chúng nó bắt tôi xuống con suối nhỏ đó rửa ráy, rồi leo lên cho thằng khác làm tiếp….

Giữa núi đồi hoang vu, giữa đồng mông hiu quạnh, kêu trời, trời chẳng thấu, kêu đất , đất chẳng nghe.

Với bản năng sinh tồn tôi cắn răng mềm người chịu đựng, nước mắt ứa ra nhưng không dám kêu la, không dám kháng cự mặc cho một lũ “đười ươi” sáu, bảy thằng “phóng uế” lên thân xác mình… Lòng thầm mong sao cho chóng qua tấn tuồng bỉ ổi này!

Trước khi kéo nhau đi, chúng vổ vai nhau cười ngả nghiêng, cười thỏa mãn, cười man rợ, giọng cười của lũ ác quỷ hiện hình, một tên trong bọn chúng quay lại hăm dọa:

-Liệu mà câm mồm lại nhá…

Khi chúng bỏ đi, tôi lăn mình xuống suối để rửa cho hết những vết dơ trên người. Mặc lại áo quần, mò mẩm trong bóng tối tìm lại hai giỏ đồ…

Lạnh lẻo, run rẫy, toàn thân tôi đau đớn vô cùng , hai cánh tay tôi như muốn gẩy nát, tôi không đi nổi, tôi lết từng đoạn, nhắm hướng mà lết và không biết bao lâu, khi lết tới được trại tù thì trời cũng gần sáng.

Tôi mong mặt trời lên, mong nhìn thấy được anh Hiệp của tôi mong trao được giỏ quà và để theo kịp đoàn người thăm tù trở về Nam.

Vậy mà chờ cũng gần tới trưa chúng nó mới cho gọi anh Hiệp ra.

Bằng cái giọng rất đểu cáng, một tên công an vờ vịt nạt nộ tôi:

– Đi đâu cả đêm qua bây giờ mới mò tới? Hết giờ thăm nuôi rồi biết chửa?!

Rồi chúng nó bảo là đã qua giờ thăm nuôi, nên tôi chỉ được đứng bên ngoài hàng rào kẽm gai 15 phút và được gởi giỏ đồ ăn lại.

Có gã công an dẫn đường đêm qua đứng gần đó , hai con mắt cú vọ của nó gờm gờm nhìn tôi..

Dù tôi không được nói ra được nhưng nhìn thần sắc thiểu não, nhìn bộ đồ nhầu nát lấm sình đất chưa kịp khô trên người tôi, anh Hiệp cũng đoán được chuyện gì đã xẩy ra cho em gái mình.

Tôi biết đêm qua, khi tấm thân của tôi bị vùi dập bởi loài quỉ đỏ thì lòng dạ anh Hiệp cũng nôn nóng từng giây chờ gặp tôi. Anh Hiệp nhìn tôi, hai mắt đỏ rực, những tia máu trong mắt anh như muốn nổ tung. Anh cắn chặt vành môi . Tay đấm mạnh vào ngực, rồi nghiến răng, hai con mắt như tóe lửa quay qua nhìn tên công an.

Hai chữ  “trời ơi” của anh không thoát ra khỏi cổ họng, mà sao tôi nghe rõ mồn một, như xoáy vào tim óc tôi, nghe như tiếng rên siết của trái tim anh.

Tôi biết anh Hiệp đau khổ đến cùng độ. Anh nhìn tôi với anh mắt đau đớn, thương xót đứa em gái bất hạnh khốn khổ của mình.

Hai anh em chỉ cách nhau có một hàng rào kẻm gai, mà sao như cách xa ngàn dậm không sao vói tới. Một tay anh bấu vào hàng rào kẻm gai đến chảy máu, tay khác cố thò ra ngoài tỏ dấu muốn nắm lấy tay tôi. Đầu anh gục xuống sát hàng dây kẻm gai miệng thì cứ rên siết có một câu : Ti ơi, Ti ơi …

Tôi không nói được gì hết, chỉ nhìn anh mà khóc.Tiếng khóc uất nghẹn của tôi như một lời xác nhận khiến anh Hiệp càng đau, càng điên thêm. Rồi thì anh té nhào xuống, ngất đi. Bạn Tù khiêng anh vào trong . Tôi đứng chết trân nhìn theo, khóc nghẹn, tôi thấy máu trong lòng bàn tay anh tươm ra. Trời hởi, trời ơi

Bọn công an đuổi tôi về. Tôi không muốn về. Tôi kêu gào, tôi van xin chúng cho tôi được ở lại với anh tôi.

Những người đi chung trong đoàn, thấy hoàn cảnh thê lương của tôi, họ thương hại, họ dỗ dành, an ủi, họ bảo nhau cố nán lại chờ tôi về cùng. Họ xúm lại dìu tôi đi.

Tôi đành phải theo họ ra về mang theo tủi hờn và nét mặt đau đớn của anh Hiệp…

Đó là lần gặp gở sau cùng của anh em tôi.

Trở về nhà, tôi sống trong những ngày tháng đau đớn trên thân xác. Kinh hoàng trong tâm tưởng. Âm thầm đau khổ. Không dám than thở với ai, kể cả người mẹ thân yêu của mình.

Trời hởi, trong đoàn người cùng đi thăm chồng, thăm cha, thăm anh em của họ, tại sao chỉ có mình tôi trở thành nạn nhân của loài quỉ đỏ? Tại sao lại là tôi? Tại sao lại là tôi chứ? Tại sao tôi phải nhận chịu tai họa ghê tởm đó?

Có ai hiểu thấu tâm trạng của một người đàn bà trẻ yếu đuối sa cơ thất thế, khi rơi vào tay những tên công an độc ác!

Nhưng trong muôn ngàn cay đắng, tôi thầm tạ ơn Trời Đất, vì đã không có một giọt máu nào của loài quỉ dữ thành hình trong tôi. Tôi chỉ biết lấy đó làm điều an ủi…

Và rồi mỗi lần đến kỳ thăm nuôi, trong lòng tôi cứ đắn đo, lo lắng, suy nghĩ. Những đôi mắt cú vọ của những tên công an khốn kiếp, cái cảm giác kinh hoàng cứ lẩn khuất trong tâm tưởng không thôi… Nhưng mà trời hởi, tôi không thể không đi, bởi hình ảnh ghẻ lở ốm đói của những người tù mà tôi được nhìn thấy làm tôi chạnh lòng , tôi đau xót, nghĩ rằng biết đâu anh của mình cũng sẽ như thế nên tôi không nở, nên lại tất tả ngược xuôi mua sắm và chuẩn bị cho lần ra đi tới… Tôi không thể ích kỹ, tôi nhớ tới anh Lộc, anh Kính, hai người anh tôi đã chết cho tôi được sống trong tết Mậu Thân 68.

Hai tháng sau cái đêm khốn nạn đó, tôi ra thăm lần nữa thì mới hay anh Hiệp đã bị bắn chết ngay tại hàng rào sau trại chỉ vài hôm sau khi tôi ra về. Về sau bạn tù của anh kể lại : Khi tôi ra về rồi, một lúc sau thì anh Hiệp tỉnh lại. Lầm lì mấy ngày không nói. Trong một buổi “học tập chính trị” anh tôi đã không giữ được bình tỉnh, chửi bới công an khốn kiếp, lợi dụng, hiếp dâm thân nhân của tù cải tạo, thì ngay tối hôm đó anh tôi bị lôi ra khỏi chổ nằm. Không ai biết anh Hiệp bị đưa đi đâu. Đang đêm họ nghe hàng loạt tiếng súng. Họ đoán trước được số phận của anh tôi.

Sáng sớm hôm sau, trước giờ “lao động” Bạn Tù thấy xác anh Hiệp nát bấy bên cạnh hàng rào sau lưng trại tù. Chúng phao tin là anh âm mưu trốn trại nên bị bắn hạ.

Họ được lệnh bó chiếu chôn cất anh…

Vô tình và oái oăm, Bạn Tù chôn anh ngay trên phần đất mà tôi bị hảm hiếp hai tháng trước.

“Anh Hiệp ơi, Anh Hiệp ơi…”

Bạn Tù của anh để mặc tôi kêu gào, rũ rượi bên nấm mồ mới đắp sơ sài của anh. Trước mặt mấy tên công an, họ không dám nói lời an ủi tôi, họ không dám khóc anh.

Hơn một tuần lễ ở lại trong buôn làng của người Nùng , sau mọi thủ tục tiền và vàng lo lót, chúng chịu để yên cho tôi mướn người đào mộ lên, mướn họ đem xác anh tôi đi thiêu .

Có lẽ vì có tính toán trước dùm tôi , nên Bạn Tù chôn anh rất cạn.

Khi thấy xác anh Hiệp được cất lên, tôi có cảm tưởng như anh tôi bị chôn sống như những người trong gia tộc hồi tết Mậu Thân.

Thêm một lần phải chứng kiến cái cảnh nát lòng này.

Trời hởi, những cái chết đau thương vẫn không buông tha những người ruột thịt thân yêu của tôi!

Đêm hôm đó, giữa núi rừng lạnh lẽo, cô đơn ngồi nhìn đống lửa thiêu rụi thi thể anh tôi. Đống lửa cao ngất trời. Lửa hỏa ngục ở trần gian. Lửa thiêu đốt thân xác người anh thân yêu của tôi. Lửa đang đốt cháy trái tim tôi.

Tôi thấy nét mặt anh tôi ẩn hiện trong ngọn lửa.. Nét mặt rạng rỡ của tuổi thanh niên. Nét mặt sạm nắng của thời lao vào bom đạn. Dáng dấp anh trong bộ đồ lính trận, giọng nói ồ ề mỗi lần về phép. Từ đầu thềm nhà đã lên tiếng gọi : Ti ơi, anh về nè

Anh Hiệp ơi, sao không là Mẹ, là Ba, là ông bà Nội , không là ai khác, mà gọi con Ti đầu tiên?

Trước khi bị bắn gục anh cũng gọi “Ti ơi” có phải không?

Trời ơi, cho tới bây giờ, tôi vẫn không thể nào quên được đôi mắt đỏ ngầu của anh tôi, vẫn không quên được cái âm thanh thê thiết của bốn chữ “Trời ơi, Ti ơi”. Cho tới bây giờ tôi vẫn nghe rõ, rõ lắm.

Nhưng mà tiếng tôi gọi “Trời ơi, anh Hiệp ơi” thì không ai nghe thấy hết…

Cho đến bây giờ tôi vẫn không thể nào quên được nét mặt đau đớn tột cùng của anh tôi khi biết đứa em gái nhỏ bé của mình bị hảm hiếp…

*** Khi viết lại những dòng chữ này, tôi thương, tôi nhớ vô cùng những người anh thân yêu của tôi. Những người anh cùng chung huyết thống. Những người anh bất hạnh, vắn số của tôi đã chết cho tôi được sống.

Anh tôi bị bắn chết đau đớn, chết không kịp trối trăn chỉ vì lên tiếng phản đối những tên công an quỉ dữ đội lốt người , đã hảm hiếp em gái mình.

Từ Cao Bằng, Lạng Sơn, mang tro cốt của anh Hiệp trở lại Huế. Tôi định gởi anh lại trong phần đất hương hỏa của Gia Tộc ở Phủ Cam, để cho anh nằm chung với những người anh khác. Sẽ về Long Khánh nói dối mẹ rằng Anh Hiệp vẫn còn sống. Nhưng không ngờ trên sân ga Huế, lũ công an mọi rợ xét giỏ xách của tôi, chúng đổ tung hai trái bầu khô mà người Nùng cho tôi để đựng tro cốt của Anh Hiệp xuống đất chỉ vì nghi tôi dấu vàng trong đó. Tìm không thấy vàng, chúng nó đá hai trái bầu khô văng xuống đường rầy xe lửa rồi bỏ đi…

Tôi quì, tôi bò xuống thềm ga mong hốt lại được phần nào tro cốt của anh tôi. Nhưng mà xác anh bay trong gió. Xác anh bị lôi theo bước chân của những người qua lại, vô tình.

“Anh Hiệp ơi, đừng đi. Đứng lại đi anh Hiệp…”

Tôi khóc, tôi kêu xin anh tôi.

Nước mắt tôi rơi theo mớ xương tro cốt tung tóe khắp nơi. Xác anh lẫn trong tóc, bám trên khuôn mặt đầy nước mắt của tôi. Trong lòng hai bàn tay của tôi chỉ còn được một ít thôi…

Trời hởi, cũng trên sân ga này, tôi đã từng ôm xác của Linh, đứa em khờ dại của tôi. Chỉ chưa đầy một năm sau, tôi lại ôm mớ hài cốt không trọn vẹn của anh Hiệp với một trái tim tan nát…

Bao nhiêu năm tháng qua rồi, nước mắt không bao giờ rửa sạch những nỗi đau trong lòng vì cái chết đau thương của anh Hiệp. Người anh đau khổ, người anh yêu dấu, người anh rất tội nghiệp của tôi.

***Năm năm trời ngược xuôi trên nhiều nẻo đường từ Nam ra Bắc vì thương cha già và những người anh sa cơ thất thế lọt vào tay quỉ dữ, tôi cố gắng làm tròn bổn phận của một đứa con, của một đứa em, mặc dù thân xác tôi chịu nhiều đắng cay tủi nhục. Đau đớn lắm, nhưng tôi không cho phép mình ngã quỵ khi những người thân yêu của tôi đang cần tôi.

Mỗi lần nhìn người mẹ có quá nhiều đau khổ, tôi không dám mở lời, tôi đành câm nín. Tôi tự nhủ phải đứng vững vì mẹ. Tôi không nỡ để mẹ bị đọa đày thêm trong nỗi đau khi biết dứa con gái độc nhất mà bà thương yêu trân quí phải hứng chịu những oan khiên khốn khổ…

Giờ đây, tôi tin là các anh của tôi luôn phù hộ cho tôi, đứa em gái bất hạnh, lắm nổi truân chuyên của họ nên tôi mới vượt qua mọi thăng trầm, mọi nỗi gian nan mà sống cho đến ngày hôm nay…

Thực tình, tôi không muốn khơi lại những vết đau cũ. Một đoạn đời hơn 35 năm sau ngày mất Nước, không đủ làm tôi nguôi ngoai, những vết đau vẫn còn mưng mủ, vẫn còn làm tâm trí tôi nhức nhối không thôi.

Với tôi, hình ảnh những người thân yêu có thể để ngủ yên trong tâm trí. Nhưng những hành động bỉ ổi man rợ của bè lũ CS & tay sai thì không thể tha thứ và không được quên !

Gia đình tôi, bản thân tôi chỉ là một trong muôn vạn những gia đình nạn nhân khác, nhưng khi viết lại những câu chuyện đau thương của chính mình, & gia đình tôi như một lời tâm sự, nhắc nhở, tôi mong nó được xem như một lời cảnh báo cho những thế hệ sau tôi về chế độ phi nhân phi nghĩa của CS mà hơn 40 năm trước đã có những lớp người trẻ cùng trang lứa tôi, các anh tôi, vì mù quáng, vì non dại vô tình bị gạt gẩm đã chạy theo chúng …

Tôi muốn tát vào mặt những người ăn cơm Quốc Gia thờ ma CS. Những người bán rẻ lương tâm mình cho Ác Quỷ . Bởi vì tôi thấy những đau khổ, oan khiên trong quá khứ của tôi vẩn còn dính chặt trên khuôn mặt hắc ám của bè lủ tác tạo ra nó.

Còn một điều khốn nạn nữa là ra tới hải ngoại này mà phải hít thở cùng một bầu không khí với những kẻ cơ hội chủ nghĩa, đón gió trở cờ, phải nhìn thấy những khuôn mặt bẩn thĩu của những người tự xưng là trí thức háo danh , tham lợi, biết CS là độc ác, vô luân mà vẫn chạy theo chúng, làm ngơ trước đau khổ của đồng loại…

Tôi đã trải qua mọi đọa đày, khổ ải, hiểm nguy, thiệt thòi, mất mát từ thể chất tới tinh thần.

Lớn lên trong chiến tranh nên sợ hải bao phủ trọn không gian ,thời gian của tuổi thơ. Mới chín, mười tuổi đầu, tai đã sớm nghe những lời rên siết, than van của ông bà, cha mẹ, đã dược dạy phải tránh né người này, phải xa lánh người kia, mà chẳng hiểu tại sao? Mắt đã sớm nhìn thấy những xác người cháy đen sau mổi lần xóm làng bị đạn pháo kích mà không hiểu từ đâu? Trái tim non nớt của tôi biết đau rất sớm mà không biết vì nguyên nhân nào? Tâm trí đặc quánh những sợ hải. Đầu óc đã biết phân vân tự hỏi, tại sao người ta lại giết nhau

Không ai giải thích cho trẻ con những việc làm của người lớn!

Tuổi thơ của tôi có rất nhiều đêm thảng thốt, giật mình khi nghe tiếng đại bác vọng về.Tuổi thơ của tôi là giữa đêm khuya ngơ ngác khi bị lôi tuột xuống giường đẩy vào hầm trú ẩn.Tuổi thơ của tôi đã nhìn thấy những chiếc quan tài phủ cờ chở về trong xóm…

Tuổi thanh xuân của tôi gắn liền với hình ảnh những thi thể không trọn vẹn được lôi lên từ những mồ chôn tập thể của tết Mậu Thân. Phải nhìn thấy những xác người bê bết máu, xác trẻ thơ vô tội, xác người sình thúi, lúc nhúc những ruồi bọ trên những con đường mà thường ngày mình đến trường.

Những giấc mơ trong tưổi thanh xuân của tôi là những đôi mắt mở trừng, những con mắt oán hờn, trách móc, của những người anh bị bắn chết trong nhà của ông bà nội…

Tuổi thanh xuân của tôi đặc kín những lo âu, buồn phiền, sợ hải, nghi ngờ…

Tôi đã sống như con ốc thu mình trong vỏ. Dè dặt với mọi người. Không dám đối diện những người bạn của các anh mình. Những người cùng lớp cùng trường, ăn cùng mâm, ngủ cùng chiếu. Mới hôm qua là bạn , nay là thù, đứng về phía bên kia hàng ngủ của lủ Quỉ Đỏ, quay lại cầm súng sát hại những người anh thân yêu ruột thịt của mình…

Cái chết là lẽ đương nhiên của con người, vì đâu có ai sống hoài.Thân xác nào rồi cũng phải nằm ngay ngắn trong qua tài, dưới ba tấc đất, nhưng nào ai muốn trở thành những thân xác co quắp, không toàn hình hài, bị vùi chung nhau một hầm!

Chỉ có bọn CS ác độc vô luân mới hành xử như thế với đồng loại của mình…

Tâm trí tôi đau đớn theo từng cái chết đau thương của từng người thân trong gia đình. Thân xác tôi là cái giá phải trả để đổi lấy giỏ quà thăm nuôi, từng viên thuốc, cho những người thân yêu trong gia đình đang mang thân tù tội.

Người dù đã chết trong đau đớn tủi nhục, bây giờ thân xác họ cũng đã thoát ra khỏi cảnh đời ô trọc này rồi. Nhưng người còn sống, không sao tự giải thoát mình khỏi những vết thương đã quá ăn sâu trong da thịt, trong tâm hồn… Nhắc lại chuyện đã qua chỉ thêm đau lòng. Nhưng mà khổ nổi, tôi không thể nguôi ngoai!

Brisbane 15-8-2005

Thái Hòa


 

CUỘC ĐỜI THĂNG TRẦM CỦA NỮ BÁC SĨ ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM: HENRIETTE BÙI QUANG CHIÊU

nguồn: chuyenxua.net

  Khi thực dân Pháp chiếm Việt Nam làm thuộc địa, cùng với đó là sự du nhập của văn hoá Tây Âu là phương pháp chữa bệnh theo Tây Y.

Ban đầu, Tây Y và bác sĩ chỉ phục vụ cho quân Pháp và gia quyến đi cùng.

Dân Việt vẫn chỉ chữa bệnh, sinh đẻ theo các bài thuốc, phương pháp Đông Y cổ truyền từ thầy lang và bà đỡ.

Tuy nhiên cùng với quá trình thâm nhập sâu rộng của văn hoá Pháp vào đời sống dân Việt, hệ thống bác sĩ, bệnh xá lần lượt được xây dựng và phát triển.

Những vị bác sĩ Tây Y người Việt tiên phong cũng lần lượt xuất hiện, nhưng đặc biệt nhất có lẽ phải kể đến nữ bác sĩ đầu tiên của Việt Nam Henriette Bùi Quang Chiêu.

Tài năng và tên tuổi của bà một thời từng là niềm tự hào của người Việt trước sự lấn lướt, khinh miệt của người Pháp.

Giống như hầu hết những tri thức thời kỳ này, bà Henriette xuất thân trong một gia đình quyền quý.

Cha bà Henriette là chính khách nổi tiếng ở Nam Kỳ, nghị viên Bùi Quang Chiêu.

Trước năm 1945, Ông Chiêu là một nhân vật tích cực trong giới chính trị, ông tham gia thành lập Đảng Lập Hiến, đấu tranh cho quyền bình đẳng cho người Việt, quyền tự do báo chí, hỗ trợ nhiều du học sinh người Việt sang Pháp du học,… Thời trẻ, ông Chiêu cũng từng là du học sinh Pháp, là người Việt đầu tiên có bằng kỹ sư canh nông của Pháp. Ông cũng là người Việt duy nhất được đưa vào thăm vua Hàm Nghi khi vua bị Pháp đày sang Algérie.

Em gái của ông Bùi Quang Chiêu chính là bà nội của Trần Lệ Xuân (phu nhân của Ngô Đình Nhu).

Mẹ bà Henriette là bà Vương Thị Y, vốn là con gái trong một gia đình gốc Hoa giàu có ở Nam Kỳ. Ông Bùi Quang Chiêu và bà Vương Thị Y có 6 người con chung, bà Henriette là con thứ.

Gia đình Bùi Quang Chiêu. Ảnh gia đình chụp năm 1921 tại Phú Nhuận. Từ trái sang: Madeline, Henriette, ông Bùi Quang Chiêu, Louis, Camille và Helène.

HỌC VẤN XUẤT SẮC – SỰ NGHIỆP RỰC RỠ

Dù có gốc gác Nam Kỳ, lớn lên ở Sài Gòn nhưng bà Henriette lại được sinh ra ở Hà Nội vào ngày 8 tháng 9 năm 1906.

Ngay từ nhỏ, cô bé Henriette đã được giáo dục kỹ lưỡng theo truyền thống học hành của gia đình.

Thời tiểu học, Henriette được gửi vào học tại trường St Paul de Chartres (tức trường Nhà trắng) tại Sài Gòn (ngày nay ở đường Tôn Đức Thắng).

Vốn thông minh và hiếu học, năm 1915, khi vừa tròn 9 tuổi, Henriette được thi vượt cấp vào trung học, nhận bằng Certificat d’Études sớm 2 năm so với các bạn cùng trang lứa.

Ngôi trường tiếp theo Henriette theo học là trường Collège des Jeunes Filles (tức trường Trung Học Gia Long Sài Gòn và là trường Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay), sau đó là trường Lycée Marie Curie.

Bà đậu bằng Certificat d’Études với thứ hạng cao, rồi sau đó nằng nặc đòi thân phụ cho đi học ngành Y khoa ở Paris như người anh Louis Bùi Quang Chiêu của bà.

Người cha Bùi Quang Chiêu đành phải nhượng bộ cho Henriette sang du học ở Agen, một thành phố ở miền nam nước Pháp, và đã phải thuê một vị giáo sư để đi cùng với cô con gái bé bỏng Henriette ra bến tàu Sài Gòn, để chăm lo việc sinh hoạt và học tập của bà.

Bà xuất ngoại mùa Hè 1921, khi chưa tròn tuổi 15. Bà học rất giỏi, ngoài tiếng Việt, tiếng Pháp và Trung Hoa, bà còn thông thạo nhiều ngôn ngữ khác như tiếng Anh, Tây Ba Nha, Ý và cả những cổ ngữ như La Tinh và Hy Lạp. Việc học của bà bị gián đoạn một năm vì bệnh đau mắt (trachoma), tuy nhiên bà cũng tốt nghiệp bậc trung học tại Lycée d’Agen và Bordeau năm 1925, thuộc miền Tây Nam nước Pháp, và lấy bằng tú tài năm 1926 dưới sự giám hộ của giáo sư triết Madame Meyerson.

Từ niềm kính phục, trân trọng người anh của mình là Louis Bùi Quang Chiêu – một bác sĩ chuyên về bệnh Ho lao nổi tiếng tại Sài Gòn, và cũng vì người mẹ đã mất vì bệnh tật, năm 1927, bà vào học trường Đại Học Y khoa Paris. và trong thời gian này, bà được giới thiệu rồi trở thành thân thiết với nhà bác học Marie Curie và nhà sử học Charles Seignobos.

Ngoài một số người ngoại quốc, bà còn quen biết với nhiều nhân vật nam nữ người Việt Nam du học tại Pháp mà sau này sẽ đóng những vai trò rất quan trọng trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, văn hóa và giáo dục trong nước.

Về phía nam giới, bà quen biết với vua Bảo Đại đang theo học tại Pháp; ông Nguyễn Văn Xuân, sinh viên trường École Polytechnique, sau này là Trung tướng Nguyễn Văn Xuân (Thủ tướng Chính phủ Quốc Gia Việt Nam đầu tiên vào năm 1948); Hoàng Xuân Hãn, sinh viên Polytechnique, sau này là Bộ Trưởng Giáo Dục trong Chính phủ Trần Trọng Kim; ông Ngô Đình Nhu, sinh viên École de Chartres, sau này là cố vấn chính trị của Tổng thống Ngô Đình Diệm,…

Về phía nữ giới , bà là bạn của bà Hoàng Thị Nga, em gái của Giáo sư Hoàng Cơ Nghị, vị nữ tiến sĩ khoa học đầu tiên của Việt Nam; bà Nguyễn Thị Bính, vợ của Thạc sĩ Hoàng Xuân Hãn, vị nữ dược sĩ đầu tiên của Việt Nam,…

Trong những năm cuối cùng tại trường Y, bà đã chọn những ngành chuyên môn như: pathological anatomy, obstetrics, gynecology, podiatry và infant care.

Cũng giống như các vị nữ bác sĩ thời đó, bà chuyên về việc chữa trị các bệnh đàn bà và trẻ em trong thời gian nội trú tại các bệnh viện la Charité, Beaujon, Cochin và Bichat tại Paris.

Năm 1932, bà tốt nghiệp đại học. Sau hai năm thực tập, bà là người phụ nữ Việt Nam lấy bằng bác sĩ y khoa đầu tiên ở Pháp.

Khi tốt nghiệp, bà dự định viết một luận án về đề tài “thụ tinh nhân tạo cho những người bị hiếm muộn”, tuy nhiên vào thời đó thì đề tài này quá mới mẻ và gây nhiều tranh cãi cho một người phụ nữ trẻ tuổi, do đó bà đã nghe lời khuyên của các vị giáo sư mà đổi sang một đề tài “truyền thống” hơn: “The Phebitis of Gestation”. Bài luận án của bà đã được Hội đồng giám khảo khen ngợi và tưởng thưởng huy chương vào năm 1934.

Năm 1935, ngay sau khi tốt nghiệp và nhận tấm bằng bác sĩ, bà Henriette trở về Việt Nam. Cũng trong năm này, bà được giao giữ chức Trưởng khoa hộ sinh ở bệnh viện Chợ Lớn (nay là bệnh viện Từ Dũ). Bà trở thành người phụ nữ Việt Nam đầu tiên được giao trọng trách quan trọng trong hệ thống bệnh viện Tây y của Việt Nam.

Không chỉ dốc lòng cho công việc cứu người, bà Henriette còn không ngừng trau dồi và phát triển chuyên môn của mình.

Năm 1957, bà từng có thời gian đến Nhật để học thêm về các phương pháp châm cứu, áp dụng trong sản khoa.

Bà cũng là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên thành lập Bảo Sanh Viện trên đường Richeaud (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu)

Trong suốt hơn 40 năm hành nghề, đặc biệt là trong những năm tháng làm việc tại Việt Nam, bà Henriette đã nhiều lần công khai chống đối cấp trên người Pháp, đấu tranh cho quyền lợi của các bác sĩ và bệnh nhân người Việt trước những bất công và sự đối xử thiếu công bằng từ ban lãnh đạo bệnh viện người Pháp.

Ví dụ như cùng là bác sĩ tốt nghiệp từ trường Đại học Y khoa Paris, cùng chức phận và công việc như nhau nhưng trong khi bác sĩ người Pháp được trả 1.000 đồng một tháng thì bác sĩ người Việt chỉ được trả lương 100 đồng một tháng;

Hay việc bệnh nhân người Pháp luôn được ưu tiên và đối xử tử tế hơn bệnh nhân người Việt;

Sự đối xử thiếu tôn trọng, thậm chí là thái độ khinh miệt kẻ cả của những y bác sĩ người Pháp đối với đồng nghiệp người bản địa; Hoặc như có lần ông giám đốc bệnh viện người Pháp yêu cầu bà phải mặc đầm khi đến bệnh viện làm việc để nhận được sự tôn trọng từ những đồng nghiệp người Pháp, bà đã thẳng thừng từ chối, kiên quyết mặc áo dài truyền thống đi làm.

Năm 1970, sau khi từ Pháp trở lại Việt Nam và trước khi quay trở lại Pháp vào năm 1971, bà đã quyết định đến làm việc không lương ở Khoa hộ sản và nhi khoa tại bệnh viện Phú Thọ.

Sau 5 năm quay lại Pháp hành nghề y, bà nghỉ hưu vào năm 1976, khi vừa tròn 70 tuổi. Cả cuộc đời cống hiến cho nghề không mệt mỏi, về già Henriette bà không ngần ngại hiến tặng luôn biệt thự riêng của mình ở số 28 đường Testard (nay là đường Võ Văn Tần) làm cơ sở cho trường Đại Học Y Khoa thuộc viện Đại Học Sài Gòn.

Địa điểm này ngày nay nằm trong khuôn viên của Bảo Tàng Chứng Tích Chiến Tranh, căn nhà cũ của Henriette (cũng là trụ sở đại học Y Khoa cũ) đã bị đập bỏ.

Villa địa chỉ số 28 đường Testard (sau 1954 là đường Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần 

BI KỊCH GIA ĐÌNH

Như đã nhắc ở trên, bà Henriette mồi côi mẹ từ năm 16 tuổi khi đang du học tại Pháp, tuy nhiên nỗi đau đó chưa phải là lớn nhất khi cuối năm 1945, một tấm bi kịch khủng khiếp khác một lần nữa đổ xuống gia đình bà.

Ông Bùi Quang Chiêu do từng giữ chức Viện Trưởng Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ (trước năm 1939) và đại biểu Nam Kỳ tại Thượng Hội Đồng Pháp quốc hải ngoại, ông bị lực lượng Việt Minh kết tội làm tay sai cho thực dân Pháp. Và kết cục là ngày 29 tháng 9 năm 1945, tại Chợ Đệm (Bình Chánh, Sài Gòn), ông Bùi Quang Chiêu cùng năm người khác trong đó có ba người con trai và con gái của ông đã bị kết án tử.

Ông Bùi Quang Chiêu

Lúc sinh thời, ông Bùi Quang Chiêu là người nhiệt thành ủng hộ phong trào Duy Tân của Phan Châu Trinh cũng như phong trào Đông Du của Phan Bội Châu. Ông đã đọc trước mồ cụ Phan Châu Trinh: “Tây Hồ anh ơi, tôi xin thề hy sanh cho chủ nghĩa Pháp Việt đề huề”. Năm 1919 ông đứng ra thành lập Đảng Lập hiến Đông Dương, là một chính đảng hoạt động ở Nam Kỳ trong thập niên 1910 đến 1930, vận động đòi tự trị cho Việt Nam để lần hồi giành lại độc lập hoàn toàn cho người Việt. Đảng Lập Hiến dùng 3 tờ báo: La Tribune Indochinoise (Báo Đông Dương), L’Echo Annamite và Đuốc Nhà Nam làm diễn đàn. Tuy gọi là Đảng nhưng những Đảng Lập hiến lại tổ chức giống như một câu lạc bộ chính trị của giới điền chủ, nghiệp chủ, công chức người Việt ở Nam kì. Bùi Quang Chiêu cũng là đảng viên đảng Cấp tiến và Xã hội Chủ nghĩa Cấp tiến của Pháp, nên nhân lúc Alexandre Varenne của đảng Xã hội Cấp tiến Pháp được bổ nhiệm làm toàn quyền vào năm 1926 với hứa hẹn cải tổ cai trị ở Đông Dương, Bùi Quang Chiêu lại sang Pháp vận động chính giới Pháp với loạt bài “Pour le Dominion Indochinois”. Ông đưa ra “Bản yêu sách 9 điều khoản” gồm: Tự do ngôn luận, Tự do báo chí, Tự do hội họp và lập hội, Tự do đi lại, Cải cách giáo dục, Điều chỉnh chế độ lương bổng cho công bằng giữa người Pháp và người Việt, Nới rộng quyền đại diện chính trị, Nâng cao đời sống lao động, Bãi bỏ độc quyền kinh tế. Với thanh thế đó, ông về lại Sài Gòn tranh cử cuộc bầu cử tháng 10 năm 1926. Kết quả là ông cùng 9 đảng viên đảng Lập Hiến đắc cử Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ, chiếm trọn 10 ghế của người bản xứ. Ông được bầu làm Phó chủ tịch Hội đồng. Năm 1927 nhờ sự vận động của ông cùng các nhân sĩ khác như Phan Văn Trường, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh, Vũ Đình Dy và Nguyễn Phan Long, người Pháp mới bãi bỏ điều kiện Pháp tịch cho những học sinh muốn sang Pháp du học. Cũng vì quan tâm đến việc giáo dục, ông mở tư thục “An Nam Học đường” ở Sài Gòn. Hoạt động chính trị của ông bị nhà chức trách cho là bài Pháp nên ông và báo La Tribune Indochinoise bị liệt danh vào “sổ đen” của mật thám Pháp. Ở phía ngược lại, ông cũng bị Việt Minh kết tội là tay sai cho Pháp.

THOÁT KHỎI NHỮNG SẮP XẾP VÀ ĐỊNH KIẾN 

Bà Henriette kết hôn lần đầu tiên theo sự sắp xếp của cha vào năm 1935 ngay sau khi du học trở về nước. Bà kể về lần kết hôn này như sau: 

“Hồi đó, ngay cả ở Pháp, phụ nữ học ngành y cũng rất ít. Ra trường, cũng không ít nữ bác sĩ bỏ nghề vì phải lấy chồng, sinh con. Tôi cũng không thoát khỏi định kiến xem thường phụ nữ thời ấy. Vừa tốt nghiệp bác sĩ, tôi đã bị cha triệu về Việt Nam để gả chồng…”

Như bao gia đình quyền quý khác, ông Bùi Quang Chiêu chọn cho cô con gái cưng một người chồng vô cùng “môn đăng hộ đối”, xuất thân trong một gia đình quyền quý không kém gia đình ông. Đó là luật sư Vương Quang Nhường, cháu ruột của thái hậu Từ Dũ, tiến sĩ Luật Khoa người Việt đầu tiên, đồng thời là thành viên Đảng Lập Hiến Đông Dương do ông Bùi Quang Chiêu sáng lập.

Tuy nhiên, với bà Henriette, cuộc hôn nhân khiên cưỡng này lại hoàn toàn không mang lại cho bà hạnh phúc. Đặc biệt là tư tưởng của hai người cực kỳ khác biệt, trong khi ông chồng chỉ muốn bà ở nhà nội trợ, sanh con đẻ cái với tuyên bố:

“Tôi là trạng sư, lương đủ cho bà ở nhà, đi chơi”, thì bà lại kiên quyết theo đuổi công việc bác sĩ của mình: “Tôi thích làm, không thích chơi”.

Sau hai năm gắng gượng duy trì cuộc hôn nhân đầy những bất đồng, bà Henriette quyết định đưa đơn ly dị chồng, giải phóng cho bản thân, bất chấp những lời dị nghị. Không chỉ thẳng thắn và quật khởi trong hôn nhân, vượt qua những định kiến về giới, bà Henriette trở thành người phụ nữ đầu tiên mua và lái xe hơi trên đường phố Sài Gòn trước bao ánh nhìn và lời bàn tán của mọi người.

Sau cuộc hôn nhân đầu tiên thất bại, đạp lên mọi luồng dư luận và bất chấp những ý kiến trái chiều từ gia đình, bà quyết định tái hợp và chung sống với mối tình sâu đậm nhất của mình mà không cần bất cứ hôn lễ hay tờ hôn thú nào.

MỐI TÌNH SÂU NẶNG VÀ CUỐI CÙNG

Người chồng thứ hai của bà Henriette là ông Nguyễn Ngọc Bích, cũng là mối tình sâu đậm, dài lâu và cuối cùng trong cuộc đời bà.

  Nguyễn Ngọc Bích, con trai Đốc phủ sứ Nguyễn Ngọc Tương 

Đó là những năm tháng du học tại Pháp, mùa đông Paris lạnh giá và khắc nghiệt, cậu em họ xa Nguyễn Ngọc Bích thường xuyên đau bệnh, nên người chị họ Henriette vốn là một sinh viên y khoa giàu kiến thức đã tận tình qua lại chăm sóc cho sức khoẻ của cậu em.

Bất chấp những định kiến, lễ giáo về quan hệ họ hàng, hai người dần nảy sinh tình cảm lúc nào không hay. Khi tình cảm vừa chín tới, cũng là lúc bà Henriette tốt nghiệp phải về nước lấy chồng theo lệnh cha.

Nói về ông Nguyễn Ngọc Bích, đây cũng thực sự là một người đàn ông tài giỏi, thông minh hiếm có khiến bà Henriette không chỉ yêu mà còn nể phục.

Ông Nguyễn Ngọc Bích là con trai thứ của đốc phủ sứ Nguyễn Ngọc Tương (về sau là Giáo Tông của Ban Chỉnh Đạo Hội Thánh Cao Đài). Tuy nhỏ tuổi hơn bà Henriette đến 5 tuổi (sinh năm 1911) nhưng ông cũng được gia đình gửi đến Pháp du học từ sớm cùng hai người anh trai và đậu vào ngành kỹ sư cầu đường tại đại học École Polytechnique, ngôi trường danh tiếng hàng đầu tại Paris, nơi chỉ tuyển những sinh viên xuất sắc nhất.

Năm 1936, ông Nguyễn Ngọc Bích tốt nghiệp đại học và về nước làm việc tại sở Thuỷ Lợi tỉnh Sóc Trăng.

Sau khi bà Henriette ly hôn chồng, gặp lại ông Nguyễn Ngọc Bích và rồi tình cũ không rủ cũng tới, hai người quyết định dọn về chung sống cùng nhau mà không cần bất cứ lễ cưới nào, bất chấp sự phản đối của cả hai gia đình.

Trong khi bà Henriette tiếp tục công việc bác sĩ tại Sài Gòn thì ông Bích đi đi về về với công việc tại Sóc Trăng.

Năm 1940, ông Bích nghỉ việc tại Sóc Trăng, trở về quê nhà Bến Tre, gia nhập lực lượng Việt Minh và nhanh chóng trở thành thành viên chủ chốt.

Một mình ở lại Sài Gòn, bà Henriette vẫn dành trọn tình yêu và chờ đợi những chuyến về thăm của chồng.

Năm 1944, bà Henriette đón nhận cú sốc từ người chồng mà bà nhất mực yêu thương. Ông Nguyễn Ngọc Bích có con riêng với một cô sinh viên trường nữ công gia chánh ở Sóc Trăng.

Tuy nhiên, đó chỉ là một mối tình say nắng, trót dại của ông Bích, dù hai người không có hôn thú, ông Bích vẫn nhất quyết không bỏ vợ. Cô gái kia biết chẳng thể chia cắt ông bà cũng đành đi lấy chồng khác.

Bà Henriette dù rất đau khổ, vẫn bao dung và điềm tĩnh giúp ông thu vén mọi chuyện gọn gàng.

Năm 1947, bà Henriette tiếp tục phải đối mặt với một biến cố khác từ chồng.

Trong một trận càn quét vào vùng kháng chiến ở Sóc Trăng, ông Nguyễn Ngọc Bích bị quân đội Pháp bắt làm tù binh. Lúc này, ông đang giữ những vị trí khá quan trọng trong chính quyền Việt Minh, là Khu bộ phó Khu 9 (vùng Tây Nam Bộ), đại biểu quốc hội khoá 1 VNDCCH, Uỷ viên dự khuyết Ban thường trực Quốc hội.

Ban đầu, ông Bích bị kết án tử hình. Tuy nhiên, nhờ ông Bích có quốc tịch Pháp và những mối quan hệ giao tế với nhiều nhân vật có tiếng nói tại Pháp đã gây sức ép lên chính quyền quân sự Đông Dương, khiến họ không thể ghép ông vào tội tử hình chỉ với những cáo buộc “phản loạn”. Đổi lại, ông Bích bị buộc phải rời khỏi Việt Nam, đến cư trú tại Paris và chịu sự giám sát của chính quyền Pháp. Bà Henriette lại một lần nữa, nén nỗi đau, gom góp tiền bạc, tiễn chồng sang Pháp.

Tại Paris dưới sự động viên và hỗ trợ của vợ từ quê nhà, ông Bích cùng bạn mở một nhà xuất bản sách tiếng Việt mang tên Minh Tâm.

Đầu thập niên 1950, ông Bích tiếp tục theo học y khoa và trở thành bác sĩ ung thư tại Pháp.

Đầu thập niên 1960, nhiều thông tin trong chính giới vận động ông như một ứng viên sáng giá có thể thay thế tổng thống đương nhiệm Ngô Đình Diệm trên chức vụ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa qua cuộc bầu cử năm 1961.

Tuy nhiên, hồ sơ ứng cử tổng thống của ông đã bị chính quyền Sài Gòn tuyên bố không hợp lệ vào giờ chót vì “lý do kỹ thuật”.

Năm 1961, vợ chồng bà Henriette quyết định chuyển đến Pháp làm việc, mở phòng mạch riêng và chung sống cùng chồng. Những năm cuối đời, ông Bích mắc bệnh ung thư vòm họng, bà đưa ông trở về Việt Nam dưỡng bệnh và chăm sóc ông cho đến tận ngày ông qua đời vào ngày 4 tháng 12 năm 1966 tại Thủ Đức.

Đối với người con trai riêng của chồng là Nguyễn Ngọc Châu, chính bà là người gợi ý và tận tình hỗ trợ ông bảo lãnh con trai sang Pháp du học và sinh sống cùng khi anh tới tuổi thành niên.

Chính vì vậy mà dù sau khi cha mất, Nguyễn Ngọc Châu vẫn luôn coi bà Henriette giống như mẹ của mình. Khi được hỏi về người chồng quá cố, ở tuổi 101, bà Henriette vẫn minh mẫn trả lời một cách rõ ràng và rành mạch:

“Tôi biết cô hỏi tôi yêu ông Bích vì cái gì phải không? Tình yêu thật kỳ lạ. Người ta yêu nhau không phải vì cái gì cả, chỉ biết là chúng tôi đã yêu thương nhau, cùng nương tựa nhau đi qua những thăng trầm của lịch sử, đời người. Nhưng tôi thương ông Bích vì ông ấy thông minh. Tôi muốn giúp người thông minh, học giỏi đi đến cùng ước mơ của họ. Và vì thế mà tôi sẵn sàng tha thứ, chia sẻ với nỗi khổ tâm rất riêng tư của chồng tôi. Tôi vẫn yêu ông ấy, ngay cả khi ông không còn trên cõi đời này nữa. Vì lẽ đó mà mỗi lần gặp Nguyễn Ngọc Châu, tôi rất vui, vì Châu là phiên bản của chồng tôi. May mà còn có Ngọc Châu. Cuộc sống vẫn kỳ diệu hơn điều người ta nghĩ, phải không?!”.

Những năm cuối đời, bà Henriette sống trong một nhà dưỡng lão cao cấp tại Pháp, đồng thời bày tỏ ý nguyện sẽ dành tặng toàn bộ số tiền tiết kiệm cho một tổ chức từ thiện sau khi bà qua đời.

Ngày 27 tháng 4 năm 2012, bà Henriette mất tại Paris ở tuổi 106.

chuyenxua.net biên soạn

From: TU-PHUNG

EM LÀ AI!!!

Tình Ca Tây Bắc

Em là ai giữa cuộc đời giông gió

Tấm thân gầy đã biết tỏ cùng ai

Bước chân đi trên khắp nẻo đường dài

Cơm áo thiếu vẫn miệt mài em sống….

Có biết không giữa biển người rất rộng

Em một mình gồng gánh những lo toan

Rằng đêm nay giấc ngủ có an toàn ?

Ai ôm ấp giữa màn đêm lạnh giá ?

Rồi ngày mai thiếu cơm em đói lả

Ai thương tình chia cả những miếng ăn ?

Tuổi thơ ngây chịu bao nỗi nhọc nhằn

Ai thấu hiểu giọt lệ lăn trên má ?

Cùng tuổi em người ta đang hối hả

Mải ăn chơi biết vất vả gì đâu

Là em đây nào dám ước sang giàu

Và hạnh phúc là niềm đau thầm lặng…..

Tuổi thơ ngây em dãi dầu mưa nắng

Và tâm hồn trong trắng sớm nặng mang

Là ai kia khiến em phải lỡ làng ?

Một kiếp sống với muôn vàn khốn khó..

Thơ: Thu Hà

KV-QPAN. St

Hột Xoàn – Trần Thị Diệu Tâm

Trần Thị Diệu Tâm

 Trong đời sống đơn sơ tầm thường giản dị ở chốn bếp núc, người đàn và như chị biết rất nhiều loại ngũ cốc, nôm na là biết nhiều loại hột, kể sao cho xiết. Nhưng thật tình mà nói, chị chỉ thích có một thứ, loại này không có khả năng nẩy mầm cho hoa cho trái, nhưng có khả năng làm sảng khoải tâm hồn chị.

Đó là hột xoàn.

Hột xoàn là thứ hột cho ánh sáng lấp lánh, nhìn nó phát mỏi mắt, nhìn nó mà mê tơi. Không có ánh sáng nào đẹp bằng thứ ánh sáng của hột xoàn. Đàn bà ai chả thích, đâu phải một mình chị. Trong lúc ngồi ăn cơm, chị thật thà đem chuyện thích hột xoàn nói với chồng cho vui. Chồng chị gắt “ Chồng không yêu, lại đi yêu hột xoàn, đừng có dại !”

Chị cụt hứng, nhưng chị không dại mà cũng không điên. Vì khi biết mình còn ham mê, nghĩa là biết mình còn ham sống, còn yêu cuộc đời này lắm. Niềm ham mê ấy chị giữ riêng, một mình chị biết một mình chị hay. Chị dành dụm tiền mặt mỗi tháng một ít, vì chẳng bao giờ biết dùng chi phiếu hay thẻ ngân hàng, chồng đưa tiền mặt cho chị đi chợ mỗi đầu tháng. Như con kiến tích trữ lương thực, suốt hai năm liền. Các tủ nhà đều không có chìa khóa, chị phải dấu số tiền ấy mỗi nơi một ít, không nên để chung một chỗ. Nhưng sau thời gian hai năm, trí nhớ của chị có đôi chút lãng đãng, vì có nhiều góc khuất kín đáo. Thấy mẹ lục lọi như tìm kiếm, cô con gái hỏi mẹ “Mẹ tìm gì vậy? nói con tìm cho “. Chị trả lời ” Dọn dẹp đồ đạc cho gọn gàng thôi”. Chồng chị thắc mắc “Em sao cứ dọn hoài vậy”. Chị không trả lời, cho biết làm gì chứ, con, chị không tin, huống chi tin chồng. Chờ dịp cả hai không có ở nhà, chồng đi làm, con bận đi học, chị sắp xếp lại tất cả các tủ áo quần, các ngăn kéo. Cái gì không dùng nữa còn tốt chị cho vào một xắc riêng đem cho hội từ thiện. Chị thấy cũng có lý do tốt cho việc tim kiếm. Thật là một công đôi việc. Và rồi chị cũng tìm ra hết những gói tiền cất dấu lâu nay. Chị thở ra ” thật mừng như tiền ai cho”. Sau khi kiểm kê tài sản, chị xếp lại mớ tiền theo thứ tự mặt trước mặt sau. Bản tính vốn cẩn thận với những tờ tiền chi tiêu, chị rất thích tiền giấy ơ-rô, vì nó có nhiều kích cở và màu sắc khác nhau, nếu sau này mắt mù, mình cũng có thể đếm được tiền. Đếm đi đếm lại cũng được vài ngàn. Chị cuộn tròn xấp tiền lấy sợi giây thun buộc lại cho gọn, cử chỉ này làm chị nhớ ngày xưa quê nhà mẹ chị cũng cất giữ tiền như thế.

Chị sẽ thực hiện điều ao ước bấy lâu nay, chị sẽ mua chiếc nhẫn hột xoàn lấp lánh ấy. Chiếc nhẫn nằm trong tủ kính cửa hiệu có tên Eternelle. Chị vốn không mấy giỏi tiếng bản xứ, nhưng cũng lờ mờ hiểu rằng có nghĩa là mãi mãi. Ai mà không quý trọng những gì có tính mãi mãi, bất diệt. Biết bao nhiêu cặp tình nhân, bao nhiêu cặp vợ chồng đám cưới đều tặng người mình yêu dấu chiếc nhẫn kim cương hột xoàn lấp lánh, hy vọng chiếc nhẫn  sáng ngời soi sáng cho tình yêu họ đến suốt cuộc đời. Nếu họ có bỏ nhau, không phải tại chiếc nhẫn xinh đẹp vô tội kia, mà vì chính họ là người thay lòng đổi dạ. Chứ chiếc nhẫn hột xoàn là một thứ thủy chung muôn đời bất diệt.

Trước đây, mỗi lần vào trung tâm mua sắm, chị luôn đến trước cửa hiệu Eternelle, ngắm nghía mãi mê mấy chiếc nhẫn lóng lánh kia, ước chi một ngày nào đó, chị sẽ đeo một chiếc vào ngón tay mình. Chị không hề biết loại nào tốt nhất, nước sáng xanh hay sáng tím, nhưng chiếc nhẫn sẽ kèm theo một một hóa đơn ghi giá trị số tiền. Từ ao ước đến khi được chiếm hữu là một tiến trình tâm lý rất tự nhiên của con người, không có chi lạ. Do đó nó phải ở trong tay chị, chị là sở hữu chủ, chị không cần phải đi qua mấy chuyến tàu mê-trô mới gặp nó nằm yêu kiều trong tủ kính.

Chị đi vào cửa hiệu một cách tự tin, không e dè như trước đây. Cô gái bán hàng trông như thờ ơ, có lẻ biết người đàn bà Á Đông này đã nhiều lần đến xem, cô nhiều lần đón tiếp, nhưng bà ta chỉ  lắc đầu đi ra. Nhưng lần này thì khác. Chị chỉ vào chiếc nhẫn đã từng chọn sẵn, thích hợp với số tiền trong túi, hình như nó đang chờ đợi chị, không ngoài ai khác. Cô bán hàng liền nở nụ cười tươi, nhẹ nhàng mở tủ kính, duyên dáng hỏi chị rất lịch sự:

– Thưa bà, muốn chiếc này?

Chị cười gật đầu, cô ân cần đưa chị đến ghế ngồi có đèn chiếu sáng rất rực rỡ. Cô lại ân cần cầm bàn tay chị, xỏ chiếc nhẫn vào ngón tay chị, thật là vừa khít, tuồng như chiếc nhẫn được tạo ra đúng khuôn.

Cô bán hàng reo lên: Ồ, chiếc nhẫn thật là thích hợp với tay bà!

Đúng, đó là sự thật không chối cãi, chị rất mãn nguyện, lại cảm thấy như mình là một thượng đế trong giây phút ấy, được đối xử trang trọng và lịch sự. Chị hân hoan đưa xấp tiền và đếm một cách cũng trang trọng không kém. Thực hiện điều mơ ước bấy lâu nay, chị vui thú biết bao. Khoảng đường từ Eternelle về đến nhà là thời gian chị được sống hạnh phúc nhất, mãn nguyện nhất. Về đến nhà chị vẫn còn đắm đuối với chiếc nhẫn tuyệt với đó.

Nhưng thời gian sau, mỗi lần đeo vào ngón tay, chị nhận thấy chiếc nhẫn lóng lánh kia làm nổi bật bàn tay xương xẩu nhiều gân xanh, một bàn tay nhiều công việc vất vả. Bàn tay của những tháng năm mòn mỏi bổn phận. Bỗng dưng bàn tay co lại như muốn che dấu, chị xúc động toàn thân, nhận thấy rõ bàn tay mình không có ngón tay thuôn đẹp để mang chiếc nhẫn kim cương tuyệt vời ấy. Viên kim cương này có thực sự làm tăng thêm  giá trị cho người đeo không? Chị mơ hồ, mình không thích hợp. Tuy nhiên chị nghĩ rằng đó chỉ là cảm giác nhất thời trong lúc mệt mỏi.

Để đánh tan mặc cảm, chị luôn đeo nó khi đi chợ ra phố xá, tuy nhiên chẳng một ai trên đường phố biết rằng chị đang đeo trên ngón tay một chiếc nhẫn có giá trị cao. Niềm mơ ước ấy nay có giá trị thực không. Chị nghi hoặc về nó và hoài nghi luôn cả về chính mình, đúng hay sai. Có thể chị nhầm lẫn, nhầm lẫn điều gì, chị không biết trả lời cho mình. Chỉ thấy hơi buồn. Bao nhiêu kỳ vọng về một ước mơ, nay mơ ước đạt được, nó đang ở trước mắt, nó đang thuộc về mình, bỗng dưng soi rõ một điều bất ngờ vô cùng, chị không thuộc về nó. Một mâu thuẩn khó giải thích. Có lẻ chị không phải là một mẫu người sang trọng, quý phái thích hợp loại trang sức đắt tiền kia.

Và, chị thấy nó không còn hấp dẫn như trước đây. Có một buổi tối, chị đem chiếc nhẫn ra ngắm nghía, trong bóng đêm, viên hột xoàn không còn chiếu sáng, chị tức thời hiểu ra, chiếc nhẫn chỉ có thể lấp lánh chói lòa khi nhận được ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào. Tự thân nó không có hào quang, nó phải nhờ, phải phụ thuộc vào ánh sáng đèn hay ánh sáng mặt trời để có thể khoe khoang vẻ đẹp. Nó thật sự chỉ là một viên sỏi đá, chị nghĩ như thế. Lúc chiếc nhẫn nằm ở trong tủ kính, sao đáng mê thế, bây giờ nằm trong lòng bàn tay chị, không còn quyến rũ nữa. Chị thấy mình bỗng dưng thở dài khi nhớ đã mua với số tiền dành dụm không nhỏ.

Không gian nhà bếp là nơi chốn thân thương nhất với chị, chị sống trong đó nhiều giờ nhất trong mỗi ngày, nên chị muốn cất chiếc nhẫn nơi này cho dễ nhớ, khi cần thì lấy ra dễ dàng. Chị bọc nó vào túi ny-lông nhỏ nhét vào lon bột nếp dùng làm bánh, chắc chắn bọn trộm cắp không bao giờ nghĩ ra. Nghe nói dạo này bọn nó cứ tìm đến các nhà có đàn bà Á Đông tấn công.

Thời gian sau, nhân dịp cùng chồng đi dự đám cưới con nhà bạn, chị lo chuẩn bị áo quần, chợt nhớ tới chiếc nhẫn quý báu, nhủ thầm ít ra mình cũng có chút gì đeo vào cho nhấp nháy với đời. Dạ tiệc cưới đầy ánh sáng, chắc hẳn chiếc nhẫn của chị sẽ rực rỡ hơn ngày thường gấp bội, chị thấy phấn khởi. Nhưng tìm mãi không thấy lọ đựng bột nếp nằm nơi đâu, tìm suốt buổi sáng, nhưng nó biệt tăm.  Chị nghi ngờ về trí nhớ của mình, lo sợ một chứng bệnh quên lãng đến sớm.

Buổi chiều khi cô con gái về nhà, Chị nói: Mẹ định làm bánh bột nếp, nhưng tìm mãi không thấy lon bột, con vô bếp tìm giúp mẹ”. Tức thời con gái trả lời:

–  Mấy hôm trước con thấy lon bột có con gián bò vào, nên đem vất ra thùng rác rồi ! Mẹ cẩn thận phải xịt thuốc trừ gián gấp.”

Câu trả lời của con làm chị hoảng hốt, bần thần, nhưng chị không dám nói ra sự thật. Đã dấu thì dấu luôn, nếu không sẽ bị chồng con chỉ trích là khờ dại. Chị  nghẹn ngào muốn khóc, thấy mình đã làm vợ, đã làm mẹ rồi mà sao ngu quá.

Lỗi tại mình. Đáng lý ra chị không nên mơ tưởng nó, nó không phải là thứ thích hợp cho phận mình. Nó có ý nghĩa thực sự gì cho chị ? Mơ ước làm vui cho tâm hồn, nhưng giờ đây chị không dám mơ ước. Chị vừa trải qua một thứ thử thách đắt giá làm chị đau xót, cả về vật chất lẫn tinh thần đúng nghĩa. Một nhầm lẫn tai hại cho chính chị. Trước mặt chị, đối mặt chị là căn phòng bếp thân thương hằng ngày, là nơi đem lại ấm áp cho chị và gia đình, là chủ nhân thực sự. Nơi đây các thứ gia vị nấu nướng được bày biện trong những chai lọ thủy tinh trong suốt cũng bắt mắt cho người đàn bà nội trợ. Hiện tại là điều gì đáng quý nhất, đáng trân trọng nhất. Hiện tại mới là cuộc sống thực sự của chị. Tại sao chị đi tìm đâu xa xôi cái bóng bẫy lấp lánh huyễn hoặc không thuộc đời chị. Chị tự hỏi và cũng không biết câu trả lời.

Paris, tiết Lập Xuân

Trần Thị Diệu Tâm

Vượt Biển Một Mình – Nguyễn Trần Diệu Hương

Kimtrong Lam – Lương Văn Can 75

Nguyễn Trần Diệu Hương

Ngày 30 tháng Tư 1975, Saigon sụp đổ. Những gia đình đang ở trong các cư xá sĩ quan, cư xá công chức bị đuổi ra khỏi nhà. Cùng chung số phận, gia đình chúng tôi bị đuổi khỏi mái nhà thân yêu trong cư xá, nơi chúng tôi có một thời nhỏ dại êm ả. Mẹ đưa chúng tôi về căn nhà riêng Ba Mẹ đã xây nên bằng công sức của Ba Mẹ, nhưng nhà này cũng bị tịch thu. Sau hai lần mất nhà, chúng tôi lớn lên như câu ca dao “Còn cha gót đỏ như son, mất cha lăn lóc như lon sữa bò.” Ba chúng tôi còn sống, nhưng đang bị đầy ải trong trại cải tạo ở núi rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc. Những ngày u ám đó in hằn vào đầu óc của chúng tôi, khiến chúng tôi trưởng thành sớm hơn tuổi của mình, vì chỉ được xã hội cho nếm mùi cay đắng.

Đầu thập niên tám mươi, trước những bế tắc không lối thoát, Mẹ thu xếp gởi anh chị em chúng tôi, từng đứa, vượt đại dương để đến một vùng đất tự do, ở đó không có khủng bố tinh thần, ở đó không có trại cải tạo giam giữ những người hoàn toàn lương thiện, và ở đó chúng tôi sẽ được học hành thành người. Cũng như rất nhiều người vợ lính khác, Mẹ đảm đang, xuôi ngược nuôi chúng tôi, nuôi Ba trong các trại tù cải tạo từ Bắc vào Nam. Tất cả những điều đó đẩy chúng tôi đến đường cùng, không còn lựa chọn nào khác hơn là phải đưa chính mạng sống của mình đánh cuộc với định mệnh, với đại dương. Còn nhớ thời đó, người dân miền Nam Việt Nam vẫn truyền miệng một câu ngạn ngữ của thời đại “Một là con nuôi mẹ, hai là mẹ nuôi con, ba là con nuôi cá.” Cứ thế một hai ba Mẹ lo cho con một mình vượt biển. Khả năng vượt thoát chỉ là một phần ba. Ròng rã gần mười lăm năm dài, từ cuối năm 1975 đến đầu năm 1990, hàng trăm ngàn thuyền nhân (hay theo như cách gọi của UNHCR United Nations High Commissions for Refugees, Cao Uỷ Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc là “Boat People”) đã đến được bờ bến tự do. Cùng lúc, hàng trăm ngàn thuyền nhân khác gởi thân vào lòng đại dương.

Chưa qua khỏi tuổi thơ, nước mất, nhà tan, chúng tôi, không có thời mới lớn, tự động bước vào tuổi trưởng thành trước những khó khăn của Mẹ, vượt quá nỗi khổ của bà Tú Xương ở thế kỷ mười chín, vừa nuôi chồng trong tù cải tạo, vừa nuôi một bầy con dại còn ở Tiểu học hoặc ở những năm đầu Trung học. Từng đứa một, khi có điều kiện, Mẹ gởi chúng tôi ra đi.

Đến phiên tôi, Mẹ chỉ đưa được tôi ra bến xe liên tỉnh để đi Vũng Tàu. Cả hai mẹ con đều đội nón lá rộng vành để che những giọt nước mắt lã chã rơi không ngừng. Mẹ khóc nhiều hơn những lần đưa các anh em trai của tôi ra đi, vì tôi là con gái duy nhất trong nhà, thân gái dậm trường. Ngồi trên xe đò từ Saigon về Vũng Tàu, trong một góc xe đò, tôi úp nón lên mặt, để che đôi mắt sưng đỏ vì khóc của mình.

Gần một tuần lênh đênh trên đại dương, chỉ có trời và nước, xanh thẫm ban ngày, đen kịt ban đêm, không có cả một cánh chim, tôi nhớ Ba, nhớ Mẹ quay quắt, nhưng vẫn hài lòng với chọn lựa của mình. Hai ngày đầu, như mọi người trong lòng thuyền, tôi bị say sóng, nôn ra cả mật xanh, mật vàng. Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi hiểu thế nào là “mửa mật”. Vậy mà chỉ hai ngày sau, quen dần với cảm giác bập bềnh của con thuyền nhỏ trước lực đẩy của nước ở đại dương, tôi tỉnh táo lại hoàn toàn với đầy đủ sinh lực của “tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu” mặc dù đã hai ngày không ăn uống. Khi thuyền ra hải phận quốc tế, chúng tôi được lên khoang thuyền hít thở không khí trong lành đầy vị mặn của đại dương, hình như có thoang thoảng mùi vị của tự do.

May mắn hơn những người tỵ nạn khác, chúng tôi đi bình yên, không gặp một thuyền nào khác. Trời êm biển lặng vào tháng sáu đầu mùa hè đưa chúng tôi đến thẳng đất liền của Mã Lai sau năm ngày sáu đêm lênh đênh trên biến.

Lên tới đất liền, cùng với chú lái tàu, tôi phải vận dụng vốn liếng tiếng Anh hạn chế đã tích lũy trong những tháng năm chuẩn bị vượt biên để giải thích cho nhân viên Cảnh sát Mã Lai biết chúng tôi là ai, tại sao chúng tôi đặt chân đến đây. Đó chỉ là lần đầu, một khởi đầu kéo dài mãi cho đến bây giờ, phải giải thích tương tự cho rất nhiều người khác nhau thuộc nhiều chủng tộc hiểu tại sao chúng tôi phải bỏ quê hương ra đi để sống đời lưu vong.

Những giờ phút đầu tiên trên đất liền, chúng tôi lại bị “say đất”. Quen với trạng thái bồng bềnh, trôi nổi trên mặt nước; khi trở lại mặt đất bằng phẳng, mỗi lần đặt bước chân xuống, tôi có cảm giác mặt đất chao đảo như còn trên mặt sóng nhấp nhô. Sau hai ngày bận rộn với đủ thứ giấy tờ khai báo với cảnh sát địa phương Mã Lai, chúng tôi được đưa ra trại Pulau Bidong, trại tỵ nạn chính thức của Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc đặt trên lãnh thổ Malaysia để thành một người tỵ nạn chính thức có số căn cước thuyền nhân, chờ được phỏng vấn định cư ở một nước thứ ba. Lần này, hành trình từ đất liền ra đảo Pulau Bidong vững chắc hơn trên một thuyền khá lớn của UNHCR, có tên là “Blue Dart”, khoảng cách lại ngắn, nên chúng tôi không bị say sóng.

Trại tỵ nạn Pulau Bidong đã dược xây dựng tương đối đầy đủ khi chúng tôi đến đảo vào giữa thập niên 80, có đủ trường Tiểu học, Trung học cho trẻ em, trường huấn nghệ (Vocational School) cho người lớn, có thư viện, có cả Chùa, Nhà thờ trên “đồi tôn giáo”, có Bệnh viện với cái tên khá ngộ nghĩnh và dễ nhớ là “Sick Bay”. Chúng tôi được đón tiếp với những thùng mì ăn liền vĩ đại hãy còn bốc khói, giống hệt như những thùng mì Liên Hiệp Quốc phân phàt cho nạn nhân của thiên tai Tsunami ở South Asia cuối năm 2004.

Lần đầu tiên ăn đồ cứu trợ, sống bằng lòng nhân đạo của người khác, một thân một mình ở trại tỵ nạn của một đất nước khác, nước mắt tôi lăn dài, nghĩ đến Ba vẫn đang mỏi mòn trong ngục tù cải tạo ở núi rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc vẫn thiếu ăn, thiếu mặc; nghĩ đến Mẹ đang vò võ một mình ở nhà, chắc là vẫn đang cầu nguyện cho bầy con đã tứ tán mỗi đứa một quốc gia, một phương trời khác nhau, ở tuổi chưa đến hai mươi.

Tưởng là mình đã rất can đảm khi dám chấp nhận cảnh “thân gái dặm trường”, không ngờ, ở trại tỵ nạn Pulau Bidong, đến khu vực Cô nhi (Minor Refugees Residential Section), dành cho các em dưới mười sáu tuổi đến trại tỵ nạn một mình, tôi thấy em nhỏ nhất chỉ mới sáu tuổi.

Ở đó, có Hanh, chỉ mới mười một tuổi, thông minh, đầy cương nghị, có Bố đang bị “học tập cải tạo” -như Ba tôi- được Mẹ gởi đi vượt biển một mình trên một thuyền bị hải tặc, mọi người đói lả gần ba ngày trước khi đến được trại tỵ nạn. Ở trại tỵ nạn, cậu bé tuy mới mười một tuổi nhưng có sự khôn ngoan và nét chửng chạc cúa một người ngoài hai mươi học hành chăm chỉ, hết học Anh Văn lại quay qua học Toán, quanh quẩn cả ngày ở trường Trung học trên đảo Pulau Bidong.

Ở đó, có Huyên, một em gái mới mười ba tuổi, cả gia đình mất tích trên biển khi thuyền bị lật. Như một phép màu, Huyên bám được một thùng plastic rỗng, trôi nổi bồng bềnh giữa đại dương gần nửa ngày, trước khi được một tàu tỵ nạn khác đi ngang vớt lên. Người ta đã thấy cô bé Việt Nam nhỏ bé mắt nhắm nghiền, gần như hôn mê bất tĩnh. thân xác mỏng manh như chiếc lá khô, hai tay vẫn còn bám chặt cái thùng nhựa rỗng bồng bềnh trên đại dương.

Ở đó, có Việt, rất thâm trầm, dù mới mười lăm tuổi, nhà cửa bị tịch thu, Ba bị giam ở khám Chí Hòa vì “tội nhà giàu”, Mẹ gởi em ra đi với nhà hàng xóm để thoát khỏi tương lai đen tối của giai cấp “tư sản mại bản”.

Còn biết bao các em khác nữa. Mười một tháng sau đó ở Pulau Bidong, với vốn liếng Anh ngữ từ những năm ở trường Trung học, và những sách vở của thư viện trên đảo, tôi đã có cơ hội giúp cho UNHCR và cả các phái đoàn Mỹ, Canada, Úc trong việc thông dịch mỗi khi họ đến phỏng vấn thuyền nhân.

Mãi đến bây giờ, tôi vẫn còn cảm giác xót xa khi nhớ lại những lần thông dịch cho những người đàn bà, con gái Việt Nam bị làm nhục bởi hải tặc trên đường vượt biển, em nhỏ nhất chỉ mới mười hai tuổi. Hồi đó, Cao ủy trưởng Alan ở Pulau Bidong chỉ định tôi chuyên làm công việc thông dịch đàn bà con gái trong các cuộc phỏng vấn các thuyền vượt biển bị hải tặc. Đó là một công việc rất tế nhị và đầy xót xa. Đến một độ nào đó, nỗi đau vượt quá sức chịu đựngi, người ta mất cảm giác. Nhiều người nữ thuyền nhân, mặt còn đầy nỗi kinh hoàng nhưng kể lại từng chi tiết ô nhục mà chính mình phải gánh chịu với giọng đều đều, thản nhiên, lạnh lùng như nói chuyện trời mưa, trời nắng, trong khi chính tôi và cô May, Cao ủy của UNHCR đã giọt ngắn giọt dài. Mỗi lần dịch hay viết xong một hồ sơ tàu tỵ nạn bị cướp, tay áo tôi ướt đẫm vì nước mắt. Tôi vẫn tự hỏi thủ phạm trực tiếp cho nỗi đau này là hải tặc Thái Lan, thủ phạm gián tiếp thực sự là ai?

Đó là khoảng thời gian rất bận rộn với công việc thông dịch ban ngày giúp cho nhân viên Cao ủy Tỵ nạn. Ban đêm, tôi còn dạy thiện nguyện cho các em, chỉ nhỏ hơn tôi vài tuổi, ở trường Trung học trên trại Tỵ nạn. Trường chỉ dạy hai môn Anh văn và Toán. Sách học là những quyển sách đơn giản tương dương trình độ của bộ “English for Today” quyển I đến quyển III. Trước ngày ra đi, tôi chỉ mới học xong quyển IV ở Việt Nam, nhưng nhờ làm việc, tiếp xúc nhiều với các nhân viên UNHCR, và bằng lòng thương yêu các em chân thành như em ruột của chính mình, tôi mang hết kiến thức và hiểu biết của mình truyền lại cho các em, mặc dù tôi chưa hề được qua một trường lớp nào về Sư phạm. Chúng tôi, những người dạy thiện nguyện ở trường Trung hoc. vẫn đùa với nhau là mình đã theo một “trường phái sư phạm mới”, lối dạy “mèo nhỏ tha chuột lớn”

Có lần, giải nghiã cho các em một từ mới, “dignity” -có nghĩa là phẩm giá- tôi không biết làm thế nào để giảng cho các em hiểu, đành viết lên bằng câu thí dụ “We lost everything, but never lose our dignity”. Viết đến đó, tự dưng nước mắt tôi lăn dài, các em ở tuổi mười bốn, mười lăm lúc đó cũng khóc theo. Những giọt nước mắt đó vẫn còn đọng trong tâm khảm tôi cho đến bây giờ, cùng có niềm tin ở một thế hệ trẻ lưu vong có đầy đủ đầu óc và trái tim Chắc chắn, các em học sinh lúc đó, trên bước đường tha hương sau này, sẽ nhớ và hiểu nghiã chữ “dignity” hơn ai hết, và các em sẽ sống xứng đáng với lòng kỳ vọng của thân sinh các em, khi Ba Mẹ các em đã phải đứt ruột gởi con ra biển một mình.

Mỗi tuần hai lần, tàu “Blue Dart” của UNHCR cho nước ngọt, mì gói, gạo và thực phẩm tươi gồm gà và rau cải, đôi khi còn có dưa hấu hay thơm vào cho thuyền nhân.

Hầu hết chúng tôi đến trại tỵ nạn chỉ với một bộ quần áo dính trên người. Chúng tôi được phát áo quần từ một kho áo quần “second hand”, tương tự như áo quần cũ bán trong Goods Will ở Mỹ. Áo quần thường rộng thùng thình, quá khổ, nhưng chúng tôi tự sửa lại đúng với kích thước của mình. Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc đã rất là chu toàn trong việc bảo vệ và chăm lo cho những người tỵ nạn chính trị,

Đến lúc được chuyển qua trại chuyển tiếp Bataan ở Philippines để được hướng dẫn về đời sống văn minh của Mỹ trước khi chính thức đến Mỹ như một người tỵ nạn, chúng tôi được huấn luyện chương trình buổi sáng, buổi chiều làm “Teacher Aid” cho các giảng viên người Phi. Ở đó, đời sống đầy đủ hơn, và lạc quan hơn vì chúng tôi biết chắc chắn ngày mình được định cư ở Mỹ. Và cũng ở đó, tôi có thì giờ tự học nhiều hơn cho chính mình, chuẩn bị một thời kỳ gian nan khác, một khởi đầu từ con số không ở quê hương thứ hai. Một vài lần được về chơi ở Manila (thủ đô của Philippines), những chuyến du lịch đặc biệt bằng xe bus dành riêng cho các “Teacher Aid”, chúng tôi vẫn ngậm ngùi thương cho sự lạc hậu của đất nước mình ngay cả khi so sánh với các nước Á châu khác như Philippines.

“Nỗi buồn nhược tiểu” đó càng tăng cao khi trên đường bay qua Mỹ, tôi được dừng chân hai ngày ở Tokyo- Nhật, thủ đô của nước Á châu giàu mạnh nhất sau khi nếm bài học xương máu với hai cột khói trắng hình nấm khổng lồ ở Hiroshima và Nagasaki cuối thế chiến thứ hai. Tokyo văn minh sáng rực ánh đèn ban đêm tương phản với Saigon lạc hậu tranh tối, tranh sáng, nước mắt tôi lại chảy xuống cho sự thụt lùi của quê hương đã bị bỏ lại sau lưng.

Tôi đến Mỹ một tuần trước lễ Giáng sinh, cùng một thuyền nhân Việt Nam khác, hoàn thành nhiệm vụ cuối cùng được giao từ UNHCR, giúp đoàn người tỵ nạn gồm 85 người kể cả một vài người Lào và Cambodia cũng trốn chạy khỏi quê hương như chúng tôi. Giữa những hành khách Mỹ tự tin, cao to, với nhiều hành lý cồng kềnh về nước đoàn tụ với gia đình nhân dịp Giáng sinh và Tết dương lịch, rất dễ nhận ra những người tỵ nạn nhỏ bé, mảnh mai mắt mở to vui mừng lẫn ngơ ngác, chỉ có hai bàn tay trắng với những túi xách của UNHCR và IOM (International Organization for Migration) chỉ có giấy tờ nhập cư vào Mỹ và giấy tờ tùy thân .

Được chuẩn bị đầy đủ với gần 6 tháng học về “American Culture Orientation” ở trại chuyển tiếp Bataan, Philippines, với trình độ Anh văn tương đối sau một năm tiếp xúc và làm thông dịch viên cho nhân viên Cao ủy Tỵ nạn LHQ, tôi không đến nỗi bị lâm vào cảnh”mán về thành”, nhưng thật sự đời sống ở Mỹ khác xa với đời sống ở quê nhà như mặt trời với mặt trăng, như ngày với đêm.

Hình ảnh của Ba với mái tóc bạc trắng ở tuổi năm mươi trong lao tù cải tạo, hình ảnh Mẹ với đôi mắt buồn trong những ngày chuẩn bị gởi chúng tôi ra đi là nguồn nghị lực không bao giờ cạn, tiếp sức cho chúng tôi trong thời gian chân ướt chân ráo ở quê hương thứ hai.

Từ nhiều trại tỵ nạn ở nhiều nước khác nhau: Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines, anh chị em chúng tôi đến Mỹ trong nhiều thời gian khác nhau, được trùng phùng, như trăm sông đổ về biển, và mang sức sống của tuổi hai mươi lao vào đất nước của tự do và cơ hội.

Một người bạn cũ của Ba, qua Mỹ từ năm 1975, đang làm ở tổ chức thiện nguyện USCC, giúp tôi có được trợ cấp một lần là 650 dollars dành cho người tỵ nạn mới đến, bác viết cho tôi một reference letter và từ đó “I am on my own way”. Bác cũng giới thiệu cho tôi đến tìm việc làm ở một vài nơi. Trời thương, “thánh nhân đãi kẻ khù khờ”, tôi được nhận vào làm full time ở một công ty lớn chỉ hai tuần sau ngày đến Mỹ. Lúc đó là đầu tháng giêng, giữa mùa Đông ở Mỹ, trời lạnh buốt, buổi sáng tôi thức dậy từ sáu giờ ba mươi, trời còn tối, ra đứng chỗ xe bus ở đầu đường, trời lạnh cóng, dưới 40 độ Fahrenheit, tôi phải mặc ba bốn lớp áo, nhưng áo quần cũ chị em chúng tôi đã mua từ Goods Will để vừa với túi tiền của mấy chị em lưu lạc quê người, chỉ có hai bàn tay trắng, với lòng tin của Ba Mẹ đặt ở mỗi chúng tôi. Một tuần sau, chịu không nổi cái lạnh gần đông đá , từ 32 đến 39 độ Fahrenheit của mùa đông thứ nhất ở Mỹ, tôi dùng cái paycheck đầu tiên của mình thuê người dạy lái xe và dốc hết tiền trợ cấp một lần cho người mới đến mua một cái Toyota Celica đã mười bốn tuổi, để đi học và đi làm.

Đời sống lúc đó, còn nhỏ, là một hình tam giác với ba đỉnh là nhà, trường học và sở làm không hề có giải trí, không có cả thời gian để buồn và nhớ nhà.

Đến Mỹ muộn màng, sau gần mười năm miền Nam sụp đổ, biết thân phận mình là “trâu chậm”, chúng tôi lao đầu vào học, không dám để phí thêm một giờ phút nào. Mùa hè, học phí cao hơn, tôi chỉ ghi danh theo học một lớp, và làm part time cho một trạm bán xăng ở gần nhà Nghĩa là lúc đó, tôi đi làm full time, đi học full time quanh năm. Nhiều lúc quá mệt mỏi, tôi lại tự nâng đỡ tinh thần mình bằng câu nói cửa miệng của người Mỹ “No pain, no gain”, và nhớ đến kỳ vọng của Ba Mẹ đã đặt ra cho chúng tôi. Buồn nhất là những lần bất chợt nghe được những câu hát rất đúng với tâm trạng của mình “Ai trở về xứ Việt nhắn giùm tôi người ấy ở trong tù …..”, nghĩ đến Ba, nước mắt tôi vẫn lăn dài, và tự bảo lòng mình phải cố gắng học giỏi hơn để Ba Mẹ vui hơn, đủ nghị lực sống trong đời sống bị khủng bố tinh thần thường xuyên ở quê nhà.

Có lần được phát biểu cảm tưởng với thời gian ba phút trong một lần nhận học bổng, tưởng là sẽ cảm ơn đủ tất cả mọi người và hứa với “scholarship foundation” sẽ cố gắng nhiều hơn, nhưng tôi chỉ nói được gần hai phút:

– Xin cảm ơn tất cả thầy cô đã có công dạy dỗ tôi, xin cảm ơn Hội đồng trao tặng học bổng cho tôi. Xin tri ân đất nước Hoa Kỳ đã cưu mang và cung cấp một đời sống tự do, no đủ cho tất cả những người tỵ nan, lưu vong. Vinh dự hôm nay xin được dành riêng cho tất cả những người đã nằm xuống cho chúng tôi có được ngày hôm nay, và xin đặc biệt dành riêng cho Ba tôi, người vẫn con đang bị đày ải trong lao tù Cộng sản vì đã ở trong một quân đội bảo vệ tự do, xin được dành riêng cho Mẹ tôi, người đã rất chu toàn trong việc nuôi dậy con cái một mình.

Một phút còn lại, tôi không nói được vì cử tọa trước mặt đã mờ đi sau màn nước mắt, mùi vị đắng cay sau năm 75 ở quê nhà vẫn kéo về với đầy nỗi xót xa, ngay cả trong giờ phút ngọt ngào nhất. Một thầy giáo người Mỹ gốc Ba Lan đã tỵ nạn Cộng sản từ cuối thập niên 60, dạy tôi từ năm đầu Đại học, hiểu rất rõ tâm trạng của một người tỵ nạn, đã lên diễn đàn giúp tôi hoàn tất lời phát biểu. Lần đó, tôi được đặc cách đề cử trực tiếp cho học bổng niên khoá kế tiếp, mà không phải qua những thủ tục bình thường. Món tiền tuy không lớn, cũng đủ để trang trải chi phí sách vở, học phí, ăn ở cho một năm học, là một yểm trợ vật chất lớn lao cho tôi trong ba năm đầu chân ướt chân ráo ở quê người.

Có những điều hằn sâu trong ký ức, lúc nào cũng tưởng như mới vừa xẩy ra, như chuyện say sóng đến độ “mửa mật” của những ngày lênh đênh trên đại dương vẫn ám ảnh tôi không nguôi. Cho nên, có lần được chọn là “Employee of the year” được tặng vé cho một chuyến đi cruise trên biển một tuần cho hai người, nhớ lại cảm giác đắng nghét ở miệng, cảm giác mất thăng bằng của những ngày mới đặt chân lên đất liền, tôi đã nhường lại phần thưởng đó cho “the runner up” trước con mắt ngạc nhiên của mọi người làm cùng chỗ.

Đó không phải là điều duy nhất người bản xứ không hiểu những người tỵ nạn, những người Mỹ gốc Việt lưu vong. Họ cũng không hiểu tại sao rất nhiều người Việt Nam nhỏ bé ốm yếu vẫn đội mưa đội gió hàng giờ giương cao những tấm biểu ngữ “Human Right for VietNam”, “Freedom for VietNam” ở một góc đường nào đó trong đời sống lạnh lùng, đầy tất bật của đất nước Hoa kỳ.

Sau khi đã ổn định, -đã có một “career” đàng hoàng thay cho cái “job” để kiếm sống – có thời tôi đi dạy thiện nguyện cho một trường Việt ngữ ở điạ phương, học sinh là các em teenagers. Dù cùng tuổi nhưng học trò của tôi bây giờ vô tư, ngây thơ, khác xa các em trong trại tỵ nạn chững chạc, trưởng thành trước tuổi.

Ở trường Việt ngữ, ngoài bài giảng từ sách của trường, thì giờ còn dư, chúng tôi giảng trích đoạn từ tác phẩm “Mùa hè đỏ lửa” của nhà văn Phan Nhật Nam, từ bài thơ bất khuất “Nếu ai hỏi” của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện để các em hiểu rõ hơn giá trị của tự do, và biết yêu thương cha mẹ hơn, biết ơn cha mẹ các em đã hy sinh rất nhiều để các em có được ngày hôm nay.

Đời sống ở Mỹ vốn tất bật, nhưng một phút bình lặng nào đó của tâm hồn, dù đang bị kẹt xe trên một xa lộ xe cộ tất tả ngược xuôi hay đang ở trong một cuộc họp ở sở, đầu óc tôi vẫn lang thang về với quê nhà, và buồn thay, bao giờ cũng vậy, mùi vị đắng nghét như đang bị “mửa mật”, mùi vị chua cay của một thời vẫn hiện về, rõ ràng, mồn một như chuyện hôm qua.

Và có một lần “chuyện hôm qua” càng rõ nét hơn. Đến thăm Massachusetts Institute of Technology (MIT) nổi tiếng về chuyên ngành Toán và Kỹ thuật, đang ngồi chờ người bạn ở cafeteria của trường, bỗng một sinh viên người Á châu đi qua, đi lại trước mặt tôi nhiều lần. Sau cùng, anh ta dừng lại, lịch sự hỏi bằng tiếng Mỹ:

– Xin lỗi, chị có phải là cô Thuyên ở trường Trung học Pulau Bidong năm 1988 không?

Tôi trả lời bằng tiếng Việt:

– Đúng rồi, em có thể nhắc cho tôi nhớ em là ai không?

Người thanh niên vui mừng, rồi bằng một thứ tiếng Việt rõ ràng và lễ độ, anh ta trả lời:

– Em là Hanh đây chị, em học cùng lớp với Huyên và Việt ở Pulau Bidong. Chị nhớ em không?

Hanh vẫn nhận ra tôi sau mười lăm năm không gặp, nhưng tôi thì không thể nhìn ra được anh thanh niên cao lớn chững chạc trước mặt mình là cậu bé đen nhẻm, chững chạc, chăm học ở trại tỵ nạn năm xưa.

Hanh lúc đó đang ở năm cuối của chương trình Tiến sĩ Toán, như ước mong ngày nào em đã trình bày trong một giờ thực tập nói tiếng Anh ở lớp học nhỏ xíu, mái lợp tôn thô sơ giữa đảo Pulau Bidong. Hanh kể cho tôi nghe về chuyện em đến Mỹ một mình ở tuổi mười hai, cùng với một nhóm người Việt Nam tỵ nạn đặt chân đến Mỹ ở phi trường San Francisco, Hanh đổi máy bay về Massachusetts. Đi một mình, dưới mười lăm tuổi, nên Hanh được một cô Stewardess đích thân dắt lên máy bay trước.

Ra đón cậu bé tỵ nạn Việt Nam ở phi trường Logan Boston- là đại diện của một tổ chức thiện nguyện và cha mẹ nuôi của Hanh. Đó là một gia đình ngươi Mỹ gốc Tiệp Khắc, qua Mỹ tỵ nạn từ thập niên 60s. Dù chưa bao giờ có ý định xin con nuôi, nhưng thấy Hanh là một cậu bé mới mười một tuổi vượt biển một mình, không có thân nhân, nên họ muốn đưa Hanh vê nuôi. Cả hai ông bà đều dạy Trung học. Ông dạy Toán, bà dạy Home Economics (tương tự như môn Nữ công gia chánh ở Việt Nam). Người con duy nhất đi học xa, ông bà vẫn làm việc thiện nguyện ở một Nhà thờ Tin lành vào cuối tuần. Khi thấy tên Hanh, một em nhỏ tỵ nạn Việt Nam mới mười một tuổi, không có thân nhân ở Mỹ, được nhà thờ tìm người bảo trợ, họ xin nhận Hanh làm con nuôi. Vẻ chín chắn cùng sự khôn ngoan trước tuổi của Hanh đã chinh phục được lòng thương yêu của bố mẹ nuôi người Mỹ từ lúc đầu. Vì cả hai ông bà đều là nhà giáo, Hanh lại có căn bản về cả tiếng Anh lẫn học lực, lại chăm chỉ học hành nên em được vào thẳng lớp bảy như các học sinh bản xứ mà không gặp trở ngại nào.

Lên Trung học, Hanh tốt nghiệp thủ khoa Trung học. Với sự hướng dẫn quý báu của cha mẹ nuôi, với thành tích học tập xuất sắc trong bốn nâm Trung học, cậu bé Hanh tỵ nạn năm xưa nhận được học bổng toàn phần của MIT, trong niềm hãnh diện của cha mẹ nuôi ở Mỹ lẫn cha mẹ ruột ở Việt Nam.

Giữa thập niên 90s của thế kỷ hai mươi, ba mẹ sinh thành cùng hai em của Hanh được qua Mỹ theo chương trình nhân đạo HO. Vậy là Hanh có đến hai ông bố, hai bà mẹ, và hai gia đình cùng ở tiểu bang Massachusetts, trong hai thành phố kế cận nhau

Không muốn làm mất lòng gia đình nào, và để được tập trung học tập, Hanh vào nội trú trong MIT. Mỗi thứ bảy về với cha mẹ ruột, ăn món ăn Việt Nam do mẹ nấu, nghe ba kể về những đọa đày ông phải gánh chịu trong các trại “cải tạo”. Và mỗi chủ nhật, về lại căn phòng thân thuộc mà cha mẹ nuôi đã dành cho Hanh từ ngày cậu bé Việt Nam, da còn đậm màu nắng gió của trại tỵ nạn, chân ướt, chân ráo đến Mỹ. Căn phòng dù không còn được dùng hường xuyên, nhưng trong closet vẫn còn treo hai bộ áo quần kỷ niệm của Hanh, một bộ Hanh mặc khi mới đến Mỹ được người bảo trợ ra đón, và bộ kia là bộ áo quần đầu tiên Hanh được bố mẹ nuôi mua cho. Ở một góc bàn học, vẫn còn cái lọ thủy tinh có cắm hai lá cờ nhỏ, một sọc trắng đỏ với năm mươi ngôi sao của Mỹ, một màu vàng với ba sọc đỏ của Việt Nam. Trên tường vẫn còn hình Hanh năm mười tám tuổi, chững chạc trong áo mũ và dây choàng thủ khoa (valedictorian) ngày tốt nghiệp Trung học.

Một chi tiết rất cảm động trong câu chuyện của cậu bé tỵ nạn ở Pulau Bidong năm xưa là hồi mới đến Mỹ mỗi lần được cho kẹo chocolate, Hanh chỉ ăn một phần nhỏ và để dành hầu hết kẹo để gởi về Việt Nam cho hai em và cho các bạn Điều “bí mật” đó bị phát hiện khi hai ông bà Mỹ thấy cậu con nuôi ăn uống rất chừng mực từ tốn nhưng luôn luôn xin được mua thêm chocolate. Kẹo “để dành” thường được Hanh gói cẩn thận trong những túi nylon dán kín để trong một góc tủ áo quần. Halloween đầu tiên ở Mỹ, đi học về, làm xong bài vở, trời vừa sụp tối, Hanh xin phép ba mẹ nuôi cho đi xin kẹo. Cậu bé miệt mài đi bộ một mình trong thời tiết se lạnh đầu mùa thu ở miền Đông Bắc trên bốn năm con đường, gõ cửa từng nhà xin kẹo. Kết quả rất khả quan, sáng hôm sau Hanh gởi được một thủng kẹo mười hai lbs (khoảng 5kg) về Việt Nam mà cước phí còn cao hơn cả tiền mua kẹo. Có nguồn gốc là người Tiệp Khắc, một thời đã phải sống dưới chế độ Cộng sản, bố mẹ nuôi của Hanh hiểu ngay mọi chuyện. Và ông bà càng quý Hanh, cậu bé Việt Nam tuổi còn nhỏ nhưng tấm lòng đã rất lớn.

Đến phiên tôi, tôi cũng kể cho Hanh nghe giòng đời đã đẩy đưa tôi từ trại tỵ nạn năm xưa đến California như thế nảo. Có nằm mơ, tôi cũng không tưởng tượng nổi mình gặp lại được cậu học trò đen nhẻm vì vị mặn của gió biển ở Mã Lai, có đôi mắt sáng nhưng lúc nào cũng buồn ở trường Trung học trên đảo Bidong ngày nào.

Ước gì tôi cũng gặp được Huyên và Việt, cũng như đã hội ngộ rất bất ngờ với Hanh ở một góc trường MIT ở miền Đông Bắc nước Mỹ. Nhưng dù chưa hay không có dịp tái ngộ với Huyên và Việt, tôi vẫn tin hai em đã rất thành công như Hanh, chứng minh mình có thể làm được nhiều điều, chẳng hạn như chuyện học hành, mà có một thời ở trong nước, sau tháng 4/75, chình quyền không cho phép mình làm.

Tất cả chúng tôi dều giống nhau ở chỗ phải xa nhà, bỏ đất nước ra đi một mình, dù lúc nào trong tâm tưởng của chúng tôi cũng có một vị trí trang trọng cho quê hương chôn nhau cắt rốn đã phải bỏ lại sau lưng. Chúng tôi đã phải mang cả sinh mạng của mình ra đánh cuộc với định mệnh, với đại dương; một cái giá không một khoán tiền nào, dù lớn đến đâu có thể mua được. Những được mất với cuộc đời hãy còn ở trước mặt, nhưng chắc chắn chúng tôi sẽ cố gắng không ngừng để xứng đáng với cái giá mình phải đánh đổi.

Chia tay Hanh hôm đó, tôi mang theo câu nói của Hanh với khuôn mặt rất nghiêm trang, già trước tuổi, và vẫn với đôi mắt buồn xa vắng như lần đầu tiên tôi gặp em ở trường Trung học trên đảo tỵ nạn:

– Điều em vui nhất là đã đền đáp được phần nào ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ ruột và ân tình cưu mang của bố mẹ nuôi. Em vẫn cố gắng hết mình, cố gắng đến hết cuộc đời để luôn làm cho cả Ba Mẹ lẫn Mommy, Daddy của em vui Điều duy nhất không chắc em có làm được hay không, là “gánh sơn hà” mà đôi lúc Ba em và các bác, các chú cùng thời vẫn nửa đùa nửa thật là đã trao lại cho thế hệ của mình.

Hanh dừng một chút rồi hỏi một câu mà đến bây giờ tôi vẫn chưa biết cách trả lời:

– Gánh sơn hà nặng lắm một mình em hay cả hai chị em mình không thể nào gánh nổi! Chị ơi, làm thế nào để cả thế hệ của mình đủ sức gánh nổi sơn hà hả chị?

Câu hỏi đó cứ quanh quẩn trong tôi và chắc là phải còn lâu, lâu lắm, tôi mới biết được câu trả lời chính xác Nhưng tôi tin là chỉ cần một phần mười của một thế hệ Việt Nam (cả ở hải ngọai lẫn trong nước) biết đoàn kết, có nhiệt tâm gánh vác non sông với chí khí của Trần Quốc Toản, với lòng yêu nước của Nguyễn Thái Hoc. và với đầu óc của Lê Quý Đôn thì gánh sơn hà sẽ nhẹ nhàng như cái cặp đi học rất thân thuộc của một thời đèn sách.

Nguyễn Trần Diệu Hương

(Viết cho Lan Hương, Tiến, Tuấn và những thuyền nhân “đi biển” một mình)

Người đàn bà trên cầu Nitelva – Phạm Tín An Ninh

Phạm Tín An Ninh

Thực ra cây cầu không có tên, nhưng có lẽ vì nó bắc ngang qua đoạn quanh co và đẹp nhất của dòng sông Nitelva, nên người dân ở địa phương này thường gọi như thế. Đây là đoạn cuối cùng của một con sông lớn trước khi đổ ra biển.

Sau khi các con đã trưởng thành và có cuộc sống riêng, vợ chồng tôi bán ngôi nhà rộng cũng nằm bên bờ sông này, nhưng ở tận vùng Fjerdingby xa xôi, về đây mua căn nhà nhỏ trong một khu apartment, nằm khá xa thành phố. Chỉ làm việc thêm một năm là đến tuổi về hưu. Sống trong vùng ngoại ô tĩnh mịch này,  cả ngày không biết làm gì, ngoài cái thú đọc sách và đi bộ. Ở đây khá lâu rồi, nhưng lúc ấy còn phải đi làm, mùa hè thì bận bịu chuyện sửa sang nhà cửa, mùa đông thì chỉ nằm nhà hoặc bay sang Mỹ thăm con nhân dịp nghỉ lễ Phục Sinh, nên chúng tôi không biết gần bên nhà có một con đường đi bộ đẹp và thơ mộng đến như thế. Sau này, khi đã về hưu, nhờ ông bà láng giềng người bản xứ giới thiệu và rủ đi bộ, chúng tôi mới biết.
Con đường tráng nhựa đen bóng, lớn như những tỉnh lộ trong vùng, nhưng đặc biệt chỉ dành riêng cho người đi bách bộ.  Chạy quanh co xuyên qua cánh rừng đầy những loại hoa dọc theo bờ sông Nitelva, đến khúc sông đẹp nhất, là một chiếc cầu đúc bắc qua để tiếp tục đến một khu rừng khác, nhưng bây giờ là cánh rừng thông với những hàng cây cao, thẳng tắp, che kín cả mặt trời.

Chúng tôi khởi sự đi bộ vào đầu mùa hè, bởi mùa đông con đường và cả khu rừng ngập đầy tuyết, dòng sông đóng cứng băng, chẳng ai có hứng thú. Chúng tôi thường đi vào buổi chiều tàn, vắng người.  Mùa hè Bắc Âu trời tối muộn. Có những hôm, đến 12 giờ đêm mà vẫn còn chói chang ánh nắng mặt trời. Hôm đầu tiên và suốt cả tuần sau đó, khi đến giữa cây cầu, chúng tôi thấy một người đàn bà Á châu. Không biết bà đã đến đây từ lúc nào, nhưng khi vừa bước lên cầu chúng tôi đã thấy bà đứng bất động bên thành cầu nhìn đăm đăm xuống dòng sông, như không hề để ý đến mọi điều chung quanh. Muốn chào, hỏi thăm bà đôi câu, nhưng không dám, ngại làm mất đi cái không khí yên tĩnh riêng tư của bà.

Mãi một hôm, trên đường trở về, khi đến gần đầu cầu, trời đang nắng bỗng đổ xuống một cơn mưa rào, chúng tôi chạy vào trú mưa dưới một tàn cây khá lớn, bất ngờ gặp bà đứng sẵn ở đó. Bà gật đầu chào và kéo bà xã tôi đứng sát bên bà để tránh mưa tạt. Rất vui khi biết bà là người đồng hương, đến định cư ở nước Bắc Âu xa xôi này từ khá lâu, năm 1979. Nhìn mái tóc bạc, tôi đoán bà cao tuổi hơn mình. Trông bà hiền lành, nói năng từ tốn, thỉnh thoảng nở nụ cười, nhưng khó tìm được nét vui nào, bởi đôi mắt thật buồn. Và không ngờ cơn mưa rào hôm ấy đã đưa chúng tôi trở thành những người bạn già đồng hương sống đời lưu lạc.

Bà cho biết, bởi hoàn cảnh đặc biệt, nên hơn hai mươi năm nay, từ khi dọn về sống ở vùng  này, bà không quen biết ai. Bà muốn sống yên lặng một mình trong căn nhà nhỏ, riêng tư với những nỗi niềm quá lớn của mình.
-Tôi vẫn muốn giữ lấy quá khứ buồn bã cho riêng mình, cứ sợ chia sẻ với người khác thì mình sẽ chẳng còn lại cái gì hết.

Lần đầu tiên, khi đến thăm chúng tôi bà tâm tình như thế.

Tôi nói như để an ủi bà:

-Người ta thường nói lời phân ưu, chia buồn. Nhưng thực ra cũng chỉ là một cách an ủi thôi. Chứ làm sao có thể chia sớt được nỗi buồn của người khác. Tuy nhiên, khi nói ra cũng là cách để làm nhẹ bớt những gì cứ đè nặng trong lòng mình đi chị ạ.

Sau đó bà thường đến chơi và càng lúc càng thân tình với vợ chồng tôi. Bả bảo thấy rất hợp với chúng tôi, vì có cùng những hoàn cảnh, hoạn nạn, và giờ thì đang cùng “sống ở cuối trời quên lãng” tận xứ Bắc Âu này. Sau lần vợ chồng tôi gật đầu trước đề nghị khi bà muốn được kết nghĩa chị em, bà ôm chầm lấy chúng tôi nước mắt sụt sùi, bảo là bà chỉ có một cô con gái, nhưng phải sống ở trong Trung Tâm dành cho người bị bệnh tâm thần, mất trí nhớ.

Trung Tâm này khá lớn nằm trong khu vực chúng tôi đang ở. Chúng tôi đã từng đi qua lại rất nhiều lần, nhưng không biết đó là một trung tâm như thế.

Chiều hôm sau, chúng tôi cùng đi bộ theo bà đến thăm cô con gái. Không ngờ đây là một cơ sở rất qui mô, có nhiều bác sĩ đảm trách. Cứ một bác sĩ phụ trách mười bệnh nhân, và mỗi bệnh nhân có riêng một y tá trực tiếp săn sóc, dẫn dắt đi chơi, mỗi năm có hai lần đi du lịch nước ngoài tùy theo hoàn cảnh, xuất xứ của mỗi người.

Cô bé trông khá xinh, nhưng đôi mắt thất thường. Có khi đang thật buồn, bất ngờ trở nên giận dữ. Dường như đôi lúc vẫn còn nhận ra mẹ, nên sau vài phút xa lạ, lại ôm vai và vuốt tóc mẹ. Khi mới đến, cả bà và vợ chồng tôi đã được dặn dò, bất cứ tình huống nào cũng luôn nở nụ cười. Có khi cô bé cũng cười với chúng tôi, nhưng bất chợt sa sầm nét mặt. Tôi nhìn thấy bà cười, nhưng có dòng lệ ứa ra từ khóe mắt. Trên đường về, thấy bà trầm ngâm, chúng tôi tìm cách đi sau bà, tôn trọng sự yên lặng và những suy nghĩ trong đầu bà. Đã có hẹn trước, chúng tôi mời bà về nhà dùng cơm tối với chúng tôi. Biết sở thích của bà, bà xã tôi đã cuốn sẵn chả giò, về nhà chỉ chiên lên là xong.

Tối hôm ấy, bà ở lại với chúng tôi, và ngồi kể lại cuộc đời mình. Bà cho biết đây là lần đầu và cũng là lần duy nhất bà kể những điều này, bởi bà xem chúng tôi như người thân trong nhà, và có thể sau này có đôi điều cần thiết phải nhờ đến chúng tôi.

Trước ngày mất nước, chồng bà là thiếu tá Pháo Binh thuộc Quân Đoàn I. Ông là bạn học cùng lớp với ông anh cả của bà. Hai người làm đám cưới ở Nam Định, lúc bà vừa đúng 18 tuổi. Sau đó theo về sống cùng nhà chồng, ở thành phố Hải Phòng. Nhưng chỉ mấy tháng sau thì  xảy ra chuyện Hiệp Định Genève, chia đôi đất nước, bà theo gia đình chồng xuống tàu há mồm di cư vào Nam, trong lúc cả gia đình của bà vẫn còn kẹt lại. Ngoài cha mẹ, bà chỉ có một người anh duy nhất, là bạn cùng học ở Hà nội với ông chồng.
Vào miền Nam, chỉ có một lần duy nhất bà nhận được tấm bưu thiếp của gia đình với đôi dòng vắn tắt, rồi bặt tin luôn. Nuốt bao đau đớn vào lòng, bà cố quên đi nỗi buồn chia ly, để cùng gia đình chồng tìm kế sinh nhai trên vùng đất mới, giúp chồng tiếp tục con đường học vấn dở dang.

Sau ba năm đại học, ông đi dạy toán ở một vài trường trung học tư thục để lo cho gia đình. Khi ấy ông bà cũng vừa có đứa con trai đầu lòng. Mấy năm sau, do tình hình chiến tranh ngày một leo thang, ông theo lệnh gọi nhập ngủ vào Trường Sĩ Quan Thủ Đức. Sau đó được chọn theo học Ngành Pháo Binh.

Ra trường, ông lần lượt chuyển về phục vụ tại các đơn vị Pháo Binh của các Sư Đoàn Thuộc Vùng 3, rồi Vùng 2.  Khi thăng cấp Thiếu Tá, đang làm Tiểu Đoàn Phó, ông được chọn sang Mỹ học một khóa chuyên môn. Về nước, được bổ nhiệm về Trường Pháo Binh Dục Mỹ để đảm trách huấn luyện. Năm 1971, tình hình chiến sự Vùng 1 trở nên quyết liệt, sau những thiệt hại nặng nề trong cuộc hành quân Hạ Lào Lam Sơn 719, ông được chọn bổ sung cho Pháo Binh Quân Đoàn I. Bà và ba đứa con di chuyển theo ông, thuê căn nhà nhỏ ở thành phố Đà Nẵng. Bà lo việc học hành cho mấy đứa nhỏ, ông ở đơn vị, mỗi tuần một đôi lần về thăm. Có khi bận hành quân cả tháng mới về được một lần rồi vội vã ra đi.

Đầu tháng ba 75, thấy tình hình có nhiều dấu hiệu bất lợi, ông  thu xếp cho vợ và ba đứa con về lại Sài gòn, tá túc tạm thời với gia đình người em, một sĩ quan Hải quân, đang làm việc ở Hải Quân Công Xưởng. Hôm đưa ra phi cơ, ông ôm bà và hai đứa con thật chặt, không muốn rời nhau.  Không ai ngờ đó lại là dấu hiệu của chia ly.

Ngày 11.3  Ban Mê Thuột thất thủ. Cuộc di tản từ Pleiku theo tỉnh lộ 7 B đã kết thúc số phận của các đơn vị thuộc Quân Đoàn II, từng tạo nên những chiến công hiển hách , đặc biệt đã đánh tan mấy Sư đoàn Cộng quân của Mặt Trận B3, để giữ vững Kontum và Tây Nguyên trong suốt mùa hè khói lửa 1972. Rồi tiếp theo là lệnh bỏ Quân Đoàn I của vị tướng lừng danh Ngô Quang Trưởng. Không mấy ai tin là ông sẽ bỏ vùng đất địa đầu từng thắm đẫm máu đào của hàng vạn sinh linh, đồng đội, một thời trấn giữ, giành lại từng tấc đất, để dựng cờ trên Cổ Thành Quảng Trị. Vậy mà cuối cùng đã bỏ, bỏ thật. Mọi người, từ quân tới dân đều bàng hoàng, hụt hẫng.

Kế hoạch di tản và sự phối hợp, chỉ huy tồi tệ của một số tướng lãnh, đã tạo nên một cuộc bại trận đớn đau bi phẫn nhất trong lịch sử chiến tranh. Một cuộc lui quân đẫm máu trên bờ biển Thuận An, mà có những người lính gọi đó là pháp trường cát. Một vùng biển máu ngập những xác người, cả dân và đủ mọi sắc lính. Một quân đoàn với ba sư đoàn bộ binh thiện chiến, nhiều Liên Đoàn Biệt Động Quân dạn dày lửa đạn, những Thiết Đoàn Kỵ Binh với hỏa lực hùng mạnh, hai  Lữ Đoàn TQLC của một đơn vị Tổng Trừ Bị vang danh, từng tạo những chiến tích lẫy lừng ở các trận chiến Mậu Thân, Quảng Trị, giờ phải lâm vào bước đường cùng, không còn lối thoát, không còn đạn để có thể chiến đấu. Nhiều người tự sát trong tiếng cười ngạo nghễ, nhiều người bị giết khi vừa bắn đi viên đạn cuối cùng, và tất cả số còn lại bị bắt bởi những tên du kích!

Chồng bà là một trong hàng vạn người lính bất hạnh ấy. Vị thiếu tá Pháo Binh đã phải phá hủy hết các khẩu pháo, từng bao nhiêu năm sống chết với mình, để chỉ tự vệ bằng cây súng cá nhân M16, rồi cuối cùng cũng phải vất đi để chiến đấu với sóng biển, với số phận, khi tìm cách bơi ra những chiến hạm Hải Quân lắc lư xa tít ngoài khơi, dưới xích sắt của những chiến xa M113 cũng lội sóng đi tìm sinh lộ.

Ở Sài gòn, mỗi ngày bà ra bến Bạch Đằng hỏi tin tức chồng mình, nhờ người em Hải quân liên lạc các chiến hạm công tác tại Vùng I, nhưng tất cả đều không thể cho bà một tin tức nào cụ thể. Trong cái mất mát quá lớn và khủng khiếp ấy, cá nhân một ông thiếu tá, chồng bà, trở nên vô cùng nhỏ nhoi hơn bất cứ lúc nào.

Cuối cùng thì Cộng quân cũng vào đến Sài gòn. Người Mỹ có lệnh phải ra đi. Những người làm việc cho Mỹ hoặc có liên quan đến họ bắt đầu được ưu tiên di tản khỏi Việt nam bằng phi cơ. Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy Sư Đoàn 18 BB của ông cùng các lực lượng Thiết Giáp, Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Địa Phương Quân tăng phái, đã chiến đấu thật dũng mãnh, kiêu hùng, ngăn chặn hằng mấy quân đoàn địch tràn vào Long Khánh, làm cả thế giới ngạc nhiên, thán phục. Nhưng cũng chỉ cầm chân được hơn một tuần. Địch quân tránh đụng độ, mở đường sang hướng Biên Hòa để bao vây, uy hiếp Sài gòn.

Tối ngày 29.4, người em chồng từ Hải Quân Công Xưởng mang xe về nhà đón vợ con xuống tàu. Anh thúc hối bà và ba đứa con theo ông di tản. Nhưng bà nhất quyết cùng con ở lại chờ chồng.

Miền Nam mất vào tay Cộng Sản đã hơn một tháng, chồng bà vẫn biệt tăm. Bà nghĩ chắc ông đã bị bắt, lặn lội ra Đà Nẳng tìm. Vào các trại tù nhốt những sĩ quan miền Nam hỏi thăm, nhưng không ai biết chồng bà. Bà tìm đến nhà anh tài xế cũ, nhờ đưa bà đi thăm một số đồng đội  của chồng. Cuối cùng, một anh trung sĩ, người lính thân cận của ông, cho biết là ông đã chết trên biển. Chính anh cùng bơi ra với ông và nhìn thấy ông bị thương do pháo kích của địch, rồi chìm xuống biển, nhưng anh không thể nào cứu được, bởi lúc ấy, anh cũng không nghĩ là mình có thể sống sót. Bà nhờ anh trung sĩ đưa bà ra bờ biển và chỉ nơi nào ngoài khơi mà ông đã ra đi. Nhìn những cánh hải âu lượn lờ trên mặt nước, tưởng như hóa thân của chồng mình, bà quỳ xuống khóc nức nở.

Cuộc đổi đời đã dìm bà và cả ba đứa con xuống vực thẳm. Nhà ngươi em bị tịch thu, kẻ chiến thắng đuổi mẹ con bà không chỉ ra khỏi nhà mà ra khỏi cả Sài gòn. Bà dắt con chạy lên Long Khánh tá túc nhà một người bạn thân có vườn cây ăn trái, rồi mua lại một căn nhà tranh bên cạnh để sống qua ngày. Nhờ người bạn giúp, bà theo buôn bán trái cây. Cả ba đứa con phải nghỉ học, ở nhà khai khẩn thêm đất hoang, làm vườn, trồng khoai, trồng sắn.

Lo âu khốn khổ chất chồng, bà không còn biết đến thời gian. Mấy năm sau, nhờ những thùng quà của người em chồng từ Mỹ gởi về, mẹ con bà có được chút vốn làm ăn, cậu con trai lớn tập tành buôn bán thuốc tây. Bớt khổ một chút.

Nhưng đùng một cái, khi cậu con trai đầu lòng này vừa tròn 22 tuổi, thì trận chiến biên giới với Campuchia bùng nổ, Trung Cộng đòi dạy cho Việt nam một bài học. Thằng bé bị bắt “thi hành nghĩa vụ quân sự”. Bà phản đối, nêu lý do nó là con của “ngụy” sao các ông tin mà cho vào “Quân Đội Nhân Dân”. Nhưng họ vẫn nhất quyết cưỡng bách, bảo là đáng lẽ phải đi cả hai anh em, như vậy là nhân đạo lắm rồi. Cũng có thể thằng bé phải thế chỗ cho một thằng nào có tiền bạc chạy chọt hoặc quen biết bà con với đám chính quyền. Năn nỉ xin xỏ không được, bà khóc hết nước mắt tiễn con đi, làm lính cho kẻ thù. Bà đau lòng lắm, chỉ cầu mong Trời Phật và vong linh chồng bà phù hộ cho nó. Nhưng chỉ ba tháng sau, bà nhận giấy báo, đứa con trai đầu lòng của bà đã trở thành liệt sĩ! Không biết xác thân nằm ở nơi nào.Người ta chỉ mang đến cho bà tấm bằng Tổ Quốc Ghi Công. Họ vừa ra khỏi nhà, bà xé nát rồi cho vào bếp lửa. Trong ngôi nhà tranh bé nhỏ giờ có hai cái bàn thờ, leo lét ánh đèn dầu.

Giữa năm 1979, muốn cướp tài sản của những người gốc Hoa, Cộng Sản bày ra chương trình “Ra đi bán chính thức”. Nhờ người em chồng ở Mỹ, liên lạc được một người lính thuộc cấp thân cận cũ gốc người Hoa Chợ Lớn, nhờ ứng vàng và lo lót cho công an, làm giấy tờ giả cho ba mẹ con bà ra đi. Ông sẽ hoàn tiền lại khi họ đến Mỹ.

Chiếc thuyền mới đóng, lớn và chắc chắn, nhưng mới ra khơi hai ngày thì hỏng máy. Hai người thợ máy đi theo lại chẳng biết gì về máy tàu, nên cuối cùng chiếc thuyền như thả trôi giữa biển mênh mông, mang theo số mạng của hơn hai trăm người. Tất cả chỉ còn cầu nguyện để mong có một chiếc tàu nào cứu thoát. Nhưng bao nhiêu lời cầu xin vẫn chưa làm động lòng Trời. Chiếc thuyền trôi dạt trên hai mươi ngày, lương thực đã cạn, và vì do không điều khiển được nên bị sóng đánh, nhiều lúc như muốn chìm. Nước tràn vào trong khoang. Mặc dù không còn sức, nhưng tất cả đàn ông đều được gọi lên trên mạn thuyền để thay nhau tát nước.

Một số tháo những thanh gỗ trên đài chỉ huy, thu góp tối đa áo quần, chăn mền mang theo, đốt lên tạo thành cột khói để làm dấu hiệu cấp cứu. Con thuyền nghiêng ngả, những đợt sóng lớn đánh vào mạn thuyền, kéo theo một số người xuống biển khơi. Sinh mạng con người lúc này thật nhỏ nhoi. Ai cũng nghĩ rồi sẽ đến lượt mình. Khi tàu sắp chìm, thì Thượng Đế xuất hiện. Một chiếc tàu chở dầu của Vương quốc Nauy đã cứu họ.

Thủy thủ đoàn trên tàu rất nhân đạo, tận tình cứu vớt. Họ thi nhau dùng dây đu xuống chiếc thuyền bị nạn, ưu tiên cõng theo con nít và đàn bà, và giúp những người đàn ông cố bám theo chiếc thang lưới, leo lên tàu. Ngay trên sàn tàu, họ sắp xếp đàn ông vào một khu, đàn bà một khu khác, rồi dùng vòi nước ngọt “tưới” lên những người bị nạn để giúp họ tỉnh táo lại, và phát quần áo mới để thay.

Sau khi hoàn hồn, không tìm thấy cậu con trai, bà và cô con gái chia nhau đi tìm nhưng không ai biết. Cả anh lính Hải quân đã giúp mẹ con bà cũng mất tích. Bà và cô con gái ôm nhau khóc nức nở, đòi nhảy xuống biển. Vị thuyền trưởng người Nauy biết chuyện nên lệnh cho cô bác sĩ  đưa mẹ con bà vào phòng y tế săn sóc và bảo đảm sự an toàn. Bà bảo, nếu không nghĩ đến cô con gái út, bà đã nhảy xuống biển.

Đến định cư ở Nauy, một đất nước giàu có và đầy lòng nhân đạo, bà và cô con gái được ưu tiên sắp xếp cho định cư ngay tại thủ đô Oslo. Mẹ con được cấp một căn nhà mới khang trang, hai phòng ngủ có đầy đủ tiện nghi. Cô con gái được theo học một trường Gymnas (trung học đệ nhị cấp) sau một khóa học ngôn ngữ Nauy dành cho người ngoại quốc.

Bà cũng được theo học tại một trường Voksengymnas (trung học dành cho người lớn). Hằng tháng, với số tiền trợ cấp đặc biệt, hai mẹ con không những sống đầy đủ mà còn dành dụm trả dần cho vợ người lính Hải quân tiền tương ứng với số vàng mà người em chồng của bà đã hứa với người thuộc cấp cũ. Người lính ân nhân này cũng đã chết trên biển cùng với đứa con trai của bà.

Cuộc sống tưởng chừng yên ả, sau khi những đau thương mất mát tạm lắng xuống, thì cô con gái trở nên kỳ lạ, thất thường sau những cơn ác mộng. Ở nhà, ban ngày chỉ đóng cửa nằm suốt trong phòng, ban đêm thức giấc la hét thất thanh. Bà phải đưa con tới trường, nhưng nhiều hôm cô bé la hét và vất tung sách vở chạy ra ngoài. Được đưa vào bệnh viện tâm thần chữa trị, nhưng không thuyên giảm. Bệnh tình ngày càng trầm trọng, mất dần trí nhớ. Thấy cô bé không còn làm chủ được mình, có thể nguy hại đến bản thân và cho người khác, Hội đồng Y khoa quyết định đưa vào một trung tâm đặc biệt dành chữa trị lâu dài. Bà không chịu, khóc lóc xin cho cô con gái được sống ở nhà, bà sẽ tự chăm sóc cho con, nhưng mọi người đều khuyên bà nên để cho cháu vào sống ở Trung tâm, để có thể chữa trị và giúp bà tự lo được cho mỉnh. Hơn nữa, mỗi tuần Trung Tâm sẽ sắp xếp cho bà hai lần vào thăm và ở lại với con khoảng ba tiếng đồng hồ.

Đúng vào lúc này bà lại nhận thêm một tin buồn. Người em chồng vừa qua đời ở Mỹ do một tai nạn giao thông. Bà không thể sang dự tang lễ được.
Trung Tâm đặc biệt này nằm trong khu vực chúng tôi đang ở. Bà thì đã dọn về đây từ lâu rồi, sau ngày cô con gái được đưa vào sống ở đây.

Từ ngày thân tình bà luôn đi bộ với chúng tôi mỗi ngày trên con đường dọc theo bờ sông Nitelva. Nhưng khi đến giữa cầu bà dừng lại, đứng ở đó, chờ chúng tôi trở lại sẽ cùng về với nhau. Điều đặc biệt, thành chiếc cầu này là một tấm lưới bằng sắt sơn màu xám, trên đó có treo rất nhiều ổ khóa, cả mấy trăm chiếc. Có những cái nằm riêng một mình, có những cái khóa chung vào với hai, ba cái khác. Trên nhiều ổ khóa có khắc tên hai người,  một số có tên nhiều người. Đã mấy lần, vợ chồng tôi tò mò, đứng lại xem và đọc vài cái tên trên ấy. Chỉ toàn tên người bản xứ, Nauy. Tôi nghĩ có lẽ đây là nơi hẹn hò, thề non hẹn biển của những cặp tình nhân.

Buổi chiều, sau ngày đến thăm cô con gái và ở lại nhà chúng tôi, khi cùng thả bộ tới giữa cầu, bà dắt tay chúng tôi đến một chiếc ổ khóa lớn, nằm riêng rẻ trên tấm lưới thành cầu. Cái khóa đồng, có khắc đậm năm cái tên. Mặt trước là tên của vợ chồng bà, mặt sau là tên của ba đứa con.

Cũng lần đầu tiên, bà giải thích vì sao bà thường đứng một mình giữa thành cầu. Vì cứ mỗi lần nhìn xuống dòng sông phía dưới, bà đều nhìn thấy hiện lên khuôn mặt của chồng bà và hai đứa con trai. Trong gợn sóng, bà vẫn thấy họ mỉm cười với bà. Chính điều này đã giúp bà có nghị lực để sống tới hôm nay.

Mỗi năm, bà làm giỗ chung cho ba cha con vào giữa tháng ba, vì họ đều mất trong cùng tháng ba. Tháng ba, Bắc Âu đang mùa Đông, trời rất lạnh. Khoảng thời gian này, vợ chồng tôi lại thường sang Mỹ thăm ba cô con gái, và cũng để trốn lạnh. Nhưng năm nay, chúng tôi ở lại Nauy, theo mong muốn của bà. Ước nguyện của bà là sau kỳ giỗ này bà theo chúng tôi sang Tây Ban Nha, sống trên đảo nào đó vài hôm, để bà có thể mỗi ngày ngồi trước biển, nhìn ra đại dương xa xăm, hy vọng sẽ thấy được quê hương và hình ảnh chồng và hai đứa con trai. Bà nghĩ như thế.

Trong ngày giỗ, bà khẩn khoản nhờ chúng tôi, trước khi trao một tờ giấy ủy quyền, để khi bà qua đời, thân xác được thiêu, và chúng tôi sẽ mang tro cốt rải xuống dòng sông Nitelva, nơi mà bà thường đứng trên cầu, mỗi buổi chiều hè, nhìn xuống đó. Bà cũng dặn dò, nhờ chúng tôi bỏ hết mấy tấm ảnh của gia đình, chồng và các con vào quan tài để cùng thiêu với bà.
Bà đi với vợ chồng tôi sang Mallorca, một hòn đảo du lịch nổi tiếng của Tây Ban Nha và ở đây hai tuần. Bà bắt buộc chúng tôi phải để cho bà bao trọn chuyến du lịch này.

Theo ước muốn của bà, mỗi ngày sau khi ăn điểm tâm xong, vợ chồng tôi đưa bà ra biển, nơi có mô đất cao, được làm thành một vườn hoa rất đẹp. Bà ngồi trên ghế đá có dù che, nhìn ra một vùng biển trời mênh mông trước mặt. Không biết bà có nhìn thấy được chồng con và quê hương ở phía cuối chân trời? Chúng tôi ngại, không dám hỏi bà.

Sau chuyến đi khoảng ba tháng, bà bị bệnh. Chúng tôi đến thăm. Bà than mệt, thỉnh thoảng lên cơn ho. Tôi nghĩ bà chỉ cảm nhẹ, hoặc mùa này nhiều người bị dị ứng phấn hoa, nên đi mua thuốc cho bà. Khi mang cốc nước đến cho bà uống thuốc, tôi vỗ vai, an ủi:

– Bà chị đã trên 80 rồi, tất nhiên sức khỏe có yếu đi, hay mệt, hoặc có thể bị dị ứng phấn hoa, chứ chẳng có chuyện gì đâu”

Bà xã tôi dọn dẹp nhà cửa, nấu cơm, làm ít món ăn bà thích và dặn dò bà phải nghỉ ngơi, không được làm việc gì, nhà cửa, cơm nước để chúng tôi lo.
Không ngờ bệnh tình ngày một nặng hơn. Chúng tôi đưa bà vào bệnh viện. Sau khi khám và làm xét nghiệm, bác sĩ cho biết trong phổi bà có nước và có cả vi khuẩn. Tình trạng khá nguy hiểm.

Hơn một tuần sau bà mất. Là người thân duy nhất được bà ghi vào hồ sơ, chúng tôi được bệnh viện báo tin. Với tờ ủy quyền, chúng tôi nhận đứng ra lo việc an táng cho bà. Tôi đến Trung Tâm Tâm Thần, nơi cô con gái của bà ở, báo tin cho Bác sĩ Giám Đốc, và yêu cầu vào ngày tang lễ, xin Trung Tâm đưa cô con gái đến dự và chịu tang cho mẹ, theo truyền thống Việt nam
Đám tang tổ chức ngay tại nhà quàn bệnh viện.

Ngoài vợ chồng tôi, chỉ có cô con gái của bà và hai người của Trung Tâm Tâm Thần. Tôi cũng mời một vị sư đến niệm kinh cho bà. Cô con gái ăn mặc đúng phong cách, một bộ vest đen mới toanh, theo sự hướng dẫn của cô ý tá, cùng chúng tôi quỳ xuống trước linh cữu của bà. Không biết cô gái có biết điều gì đang xảy ra hay không? Chỉ im lặng cúi đầu. Khi vị sư choàng chiếc khăn tang vào đầu, cô đưa tay giật xuống. Không biết cô ý tá nói nhỏ với cô điều gì, rồi lấy chiếc khăn tang quấn lại trên đầu. Lần này cô bé yên lặng, chống hai tay cúi xuống.

Đúng một trăm ngày, theo ước nguyện của bà, cũng là đầu tháng bảy, mùa hè, chúng tôi mang tro của bà ra rải giữa dòng sông, dưới chiếc cầu Nitelva, cùng lúc với những cánh hoa hồng trắng được bỏ xuống. Loại hoa bà thường cắm trên bàn thờ chồng và hai đứa con trai của bà. Hôm ấy trời đang thật đẹp, bỗng bất chợt một cơn mưa rào. Mùa hè ở đây thường như thế. Vợ chồng tôi vội vàng chạy vào dưới tàn cây ở phía đầu cầu trú mưa, nơi mà lần đầu tiên chúng tôi đã thực sự gặp bà, để rồi sau đó trở thành thân thiết.

Chiều hôm sau, khi đi bách bộ, tôi mang theo chai Zip,  chùi sạch và đánh bóng lại ổ khóa của bà treo trên thành cầu, lấp lánh năm cái tên được khắc sâu trên ấy. Nước mắt tôi bỗng trào ra, khi nhớ tới bà và câu chuyện đau thương của gia đình bà. Cả một gia đình đều là nạn nhân của Cộng sản. Một chế độ man rợ đã gây nên biết bao chia lìa tang tóc cho đồng bào và hủy hoại cả quê hương đất nước. Và đó cũng chỉ là một trong muôn vàn thảm cảnh sau ngày CS cưỡng chiếm miền Nam, xích xiềng cả nước.
Từ hôm ấy, cứ mỗi lần đi bộ, chúng tôi đều dừng lại giữa cây cầu Nitelva này khoảng vài phút, đứng yên lặng bên thành cầu, tưởng niệm vợ chồng và hai đứa con trai bất hạnh của bà.

Bệnh viện cũng đã trao lại cho chúng tôi những di vật của bà. Trong đó ngoài hai thẻ ngân hàng và mấy tấm ảnh còn có lá thư ngắn viết cho vợ chồng tôi và tờ di chúc viết bằng tiếng Việt. Bà nhờ tôi dịch ra tiếng Nauy hai bản. nhờ bệnh viện chứng nhận. Một bản trao lại cho kommune (văn phòng thị xã), một bản cho Trung Tâm Tâm Thần. Trong đó bà quyết định, tất cả tài sản, căn nhà và tiền bạc trong ngân hàng, bà xin hiến tặng cho Trung Tâm, nơi nuôi nấng chăm sóc con gái của bà. Bà chỉ có một yêu cầu, khi nào con gái bà qua đời, xin cho thiêu xác và rải tro xuống dòng sông, giữa cầu Nitelva, để cháu được đoàn tụ với bố mẹ và hai anh, khi theo dòng sông chảy ra biển và cùng nhau trôi dạt về lại quê nhà.

Phạm Tín An Ninh

Cậu bé và chiếc giày

Ở Mỹ có một cậu bé sinh ra trong một gia đình nghèo, từ nhỏ đến khi đi học cậu chỉ mang mỗi một đôi giày rách. Cậu bé nghe nói vào lễ Giáng Sinh, khi đến bất cứ cửa hàng nào, chỉ cần nói với Thượng Đế thứ mình muốn thì chủ cửa hàng sẽ thỏa mãn yêu cầu của mình.

Vào hôm Giáng Sinh, cậu bé nhìn thấy trong một cửa hàng giày có bày bán những đôi giày rất đẹp nên đã bước vào cửa hàng và nói với ông chủ rằng: “Hôm nay là Giáng Sinh, cháu rất thích đôi giày này, chú có thể giúp cháu nói với Thượng Đế để Ngài cho cháu đôi giày này có được không ạ?”

Ông chủ nhìn xuống chân của cậu bé và hiểu ngay vấn đề, ông ấy cầm lấy đôi giày rồi nói: “Được thôi cháu bé, bây giờ ta sẽ nói với Thượng Đế”. Sau đó ông ấy cầm đôi giày và đi vào bên trong.

Một lúc sau, ông chủ đi ra, nhưng trên tay chỉ cầm có mỗi một chiếc giày rồi đưa cho cậu bé và nói: “Cháu bé, Thượng Đế nói rằng Ngài chỉ cho cháu một chiếc giày thôi, cháu phải tự nghĩ cách kiếm tiền để mua chiếc còn lại.”

Cậu bé hỏi: “Vậy cháu phải kiếm bao nhiêu tiền thì mới mua được chiếc giày còn lại?”

Ông chủ nói: “2 đô la.”

Cậu bé lại nói: “Được rồi ạ, cháu sẽ nghĩ cách kiếm tiền, nhưng chú nhất định phải giữ cho cháu chiếc giày còn lại nhé.”

Ông chủ cười nói: “Cháu cứ yên tâm.”

Sau khi về nhà và tiết kiệm được 2 đô la bằng cách nhặt ve chai, cậu bé vui vẻ chạy đến cửa hàng để trả tiền. Ông chủ đã khen ngợi cậu bé và đưa cho cậu chiếc giày còn lại. Kể từ đó, cậu bé đã có một đôi giày mới rất đẹp.

Khi lớn lên, cậu bé đã từng làm nhiều nghề như nhân viên cứu hộ, bình luận viên, phát thanh viên rồi bước vào giới nghệ thuật và trở thành một ngôi sao nổi tiếng. Vào năm 1980, cậu bé ấy đã trở thành Tổng thống thứ 40 của Hoa Kỳ, cũng chính là Tổng thống Ronald Reagan.

Trong nhiệm kỳ tổng thống của mình, có một lần ông Ronald Reagan được phóng viên hỏi về việc có ảnh hưởng lớn nhất đối với sự trưởng thành của ông là gì, ông đã kể về câu chuyện “Thượng Đế chỉ cho 1 chiếc giày” khi ông còn nhỏ.

Ông Reagan cho biết: “Sau này tôi mới biết được giá gốc của đôi giày đó là 38 đô la, một nửa giá cũng đến 19 đô la nhưng ông chủ cửa hàng chỉ lấy của tôi 2 đô la để dạy cho tôi một điều rằng:

“Thượng Đế sẽ không cho bạn tất cả những gì bạn muốn, Ngài chỉ cho bạn một phần mà thôi, bạn phải tự mình nỗ lực để lấy phần còn lại.”

Sưu tầm

My Lan Phạm

From: Tu-Phung