Chuyện tình chàng giáo sinh yêu nàng thơ khiếm thị

Lê Quốc Quân

BÁO CÔNG AN NHÂN DÂN VIẾT VỀ CHUYỆN TÌNH CỦA ANH HÙNG “ GÀN” và CHỊ LÊ NA (tâm hồn đẹp này giờ đang bị kết án 5 năm tù vì tình yêu của anh với đất nước)

Chuyện tình chàng giáo sinh yêu nàng thơ khiếm thị

17:52 10/10/2011

Trong cuộc sống có không ít mối tình cổ tích được xây lên từ những người yêu thơ, rồi say mê tác giả. Nhưng có lẽ mối lương duyên bắt nguồn từ thơ của một anh giáo ở tận miền đất sơn cước địa đầu Tổ quốc với cô nữ sinh khiếm thị lại là một câu chuyện tình hiếm hoi khiến nhiều người ngưỡng mộ, cảm phục.

Chàng trai đó là Lê Trọng Hùng (32 tuổi, Minh Lương, Văn Bàn, Lào Cai) đã bỏ một công việc ổn định với nhiều cơ hội thăng tiến, lặn lội từ Lào Cai xuống Hà Nội để tìm gặp và yêu người con gái khiếm thị đã làm anh say mê từ một bài thơ anh vô tình được nghe trên một chương trình của Đài Tiếng nói Việt Nam cách đây 10 năm.

Xin làm chàng “Thạch Sanh” yêu “công chúa” cổ tích

Trong căn phòng rộng chừng 15m2 nằm trong ngõ 657 phố Minh Khai (Hoàng Mai, Hà Nội), anh Hùng đang loay hoay pha sữa bột cho con, khuôn mặt rạng ngời hạnh phúc. Sợi dây kết nối trong tổ ấm của anh chị là một cậu bé xinh xắn được chào đời. Lê Trọng Bảo Minh vừa tròn 4 tháng tuổi, bụ bẫm và kháu khỉnh. Bằng sự nhạy cảm và trái tim người mẹ, chị ve vuốt bàn tay bé xíu, chị Na hài hước: “Mọi người đều bảo tôi “đẻ thuê”! Thằng bé giống bố từ đầu đến chân, mỗi bàn tay ngòi bút là “dấu tích” của mẹ”!

Chị Đỗ Lê Na để lại cho tôi một ấn tượng khá đặc biệt từ khi gặp chị trong lần chị bước lên nhận giải nhất cuộc thi viết “Vì trẻ em khuyết tật” do Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Hà Nội và Báo Hà Nội mới tổ chức. Chị là sinh viên khiếm thị đầu tiên được tuyển thẳng vào trường đại học tại Đại học Sư phạm Hà Nội. Lê Na lại yêu văn học, thích sáng tác, những bài thơ của chị đăng trên tờ báo Hoa Nắng của Trường Nguyễn Đình Chiểu và được chương trình Tiếng thơ của Đài tiếng nói Việt Nam đọc lại mỗi tối.

Lục lại quá khứ, Lê Na bảo, chị không nhớ tình yêu của mình bắt đầu từ lúc nào và phải trải qua biết bao sóng gió, chỉ nhớ rằng, người con trai đó đã nắm tay chị bước qua rất nhiều giông bão, vượt qua những dị nghị của người đời để làm đôi vai, chỗ dựa vững chắc cho chị. Chị nghĩ, chị là người thiệt thòi nên chưa bao giờ hi vọng sẽ lấy người sáng mắt, cũng không tin niềm hạnh phúc, tình yêu và những điều kỳ diệu sẽ ứng nghiệm vào cuộc sống của mình, chỉ có sự cố gắng, nỗ lực vươn lên bằng sự hăng say của bản thân sẽ gặt hái được kết quả tốt đẹp.

Chính vì thế, chị luôn cố gắng phấn đấu, học hỏi, tạo dựng tri thức để giúp đỡ những người cùng cảnh ngộ. Hướng đôi mắt đục mờ chỉ còn phân biệt được sáng tối nhìn lên để định hướng người đang nói chuyện với mình, chị kể về tuổi thơ đầy sóng gió của mình trong niềm cảm động vô hạn đối với người mẹ. Lê Na vừa sinh ra đã bị bỏ rơi tại Bệnh viện Khe Sanh (Quảng Trị), cô y tá Lê Thị Bích Thủy (người Quảng Bình) lúc đó vừa tròn 20 tuổi, chưa chồng con đã đón nhận về nuôi nấng, dạy dỗ.

Hồi mới sinh, mẹ Na bảo đôi mắt Na rất đẹp, sáng và tinh nhanh hơn những đứa trẻ cùng tuổi khác nhưng càng lớn, thị lực Na càng yếu đi. Đến 6 tuổi, em gái Thùy Linh đi học, Lê Na nằng nặc đòi mẹ được đến trường cùng các bạn, nhưng vì yếu thị lực, trường không dám nhận vì sợ ảnh hưởng đến học sinh khác. Các thầy, cô ngày ngày vẫn thấy một cô bé đứng ngoài cửa sổ, cố gắng nheo nheo đôi mắt đọc những con chữ đang nhảy nhót trên bảng, đã quyết định nhận Na vào lớp nhưng không được nằm trong danh sách là học sinh chính quy của nhà trường.

Vợ chồng Lê Trọng Hùng – Lê Na (giữa) hạnh phúc bên đứa con đầu lòng.

Năm 1993, đội văn nghệ của Trường mù Nguyễn Đình Chiểu vào biểu diễn cho học sinh tại trường học của em Linh. Thấy đoàn có những học sinh khiếm thị đều tiếp cận với kiến thức văn hóa, sách vở, Na xin mẹ theo đoàn để được học chữ như các bạn. Người mẹ thương con, sợ con xa nhà vất vả, cô đơn, lúc đầu do dự, khuyên ngăn, nhưng sau thấy Na quyết chí, mẹ Thủy chấp thuận, lặn lội tìm gặp người quản lý của đội văn nghệ để xin Lê Na theo học.

Một tuần sau, Lê Na giã biệt gia đình, quê hương để lên đường ra Hà Nội học trường Nguyễn Đình Chiểu những năm tiểu học, sau đó nhanh chóng được học hòa nhập tại Trường THCS Minh Khai, THPT Dân lập Nguyễn Đình Chiểu và là một trong 20 học sinh giỏi của Thủ đô Hà Nội năm 2001 – 2002.

Na bảo, chị không đủ tự tin với thiên chức làm vợ, làm mẹ và làm con dâu, phần nữa cũng lo lắng vì sợ người chồng sau này sẽ không cảm thông vì khiếm khuyết của bản thân. Chị cũng không ngờ một anh giáo đang có công việc ổn định, có cơ hội thăng tiến ở tỉnh Lào Cai lại từ bỏ hết những thảm hồng được trải sẵn để làm lại từ đầu với bao nhiêu khó khăn vất vả phía trước chỉ vì yêu đơn phương cô gái khiếm thị có bài thơ khiến anh “say” đến mê mệt.

Chị nhớ như in tin nhắn mà anh gửi: “Anh nguyện làm chàng Thạnh Sanh nắm tay em viết câu chuyện cổ tích về tình yêu. Anh hiểu những điều em đang lo lắng nhưng anh tin, tình yêu sẽ giúp mình vượt qua được tất cả”.

Hạnh phúc bình dị

Nhiều người bảo, văn chương là cầu nối xe duyên cho tình yêu của anh chị, còn anh Hùng chỉ coi đó là “định mệnh”. Là giáo viên Trường THCS Minh Lương (Văn Bàn, Lào Cai) nhưng tâm hồn thầy giáo dạy Hóa rất thích đọc thơ văn, tiểu thuyết.

Vào một đêm trăng năm 2001, chương trình Tiếng thơ của Đài Tiếng nói Việt Nam phát lên giọng đọc ấm áp, ngọt ngào của cô phát thanh viên hai bài thơ “Xa rồi cổ tích” với những câu thơ mềm mượt, nhẹ nhàng đầy tâm sự khiến trái tim anh xao xuyến. Từ đó, anh đam mê và thường xuyên nghe chương trình “Tiếng thơ” với hi vọng mong manh sẽ được nghe lại bài thơ lần nữa. Chờ mãi không thấy, anh gọi điện đến tổng đài yêu cầu được phát lại để anh… chép lại nguyên bản và phổ giai điệu cho học sinh hát lúc giờ sinh hoạt Đoàn, Đội.

Chưa một lần anh được gặp mặt tác giả, anh Hùng tự xây dựng trong tim mình hình ảnh cô gái khiếm thị có tâm hồn mềm mại, đa cảm. Năm 2005, anh quyết định nghỉ dạy ở Trường THCS Minh Lương, đăng ký khóa học tại chức ngành Luật ở Trường Đại học Mở Hà Nội. Anh tìm đến hỏi thăm Trường Nguyễn Đình Chiểu nhưng mọi người bảo cô gái đã đỗ Đại học.

Hà Nội bé nhỏ nhưng mênh mông biển người, biết tìm đâu một cô gái mà anh chỉ biết tên và bài thơ khắc kỹ trong tim? Đôi lúc, anh hoang mang, định bỏ cuộc thì tình cờ, cô bạn học cùng cấp 3 trường hòa nhập với Na biết chuyện đã giúp anh tìm số điện thoại liên lạc. Từ những cuộc điện thoại ngắn của “fan” hâm mộ với tác giả, Hùng lấy hết can đảm đặt vấn đề gặp mặt. “Hôm đó, tôi cố gắng diện thật đẹp, đóng thùng lịch sự, nhưng chợt nhớ ra cô gái không nhìn thấy được gì” – Hùng ngượng ngùng kể.

Người ta nói, những người khiếm khuyết đôi mắt thì bù lại họ cảm nhận rất tinh tế từ những giác quan khác quả không sai. Không cần bắt tướng qua khuôn mặt, cử chỉ, dáng điệu, hình ảnh, Na cảm nhận ở Hùng mộc mạc và chân thành như anh trong những cuộc trò chuyện điện thoại. Những lần đi chơi, anh nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của chị dắt chị đi từng bước, tả cho chị những cảnh vật bên ngoài, về thế giới xung quanh.

Chị cười: “Với tôi, anh là đôi mắt sáng để tôi nhìn và cảm nhận thế giới bên ngoài”. Còn bạn bè chị trầm trồ: “Con trai như anh Hùng bây giờ là “của hiếm” đấy. Có được người yêu như anh ấy là may mắn và hạnh phúc lắm đấy, cậu đừng để đánh mất tình yêu!” Chị chỉ cười thỏ thẻ, giấu đôi má hồng lên vì ngượng và niềm hạnh phúc dâng đầy trong tim.

Anh Hùng đưa cho tôi xem tập thơ Vườn cổ tích của chị Lê Na, kèm theo bài thơ “Cổ tích cho em” mà anh viết tặng chị. Những câu thơ: “Cổ tích cho em không chỉ bây giờ/ Mình lại có mái nhà xinh xắn/ Mình sẽ có những thiên thần xinh xắn/ Không đến từ thiên đàng/ Mà đến từ hai ta…” là nhân chứng cho những chuỗi ngày phải vượt qua lời đàm tiếu, phải chờ đợi, thuyết phục để nhận được sự đồng ý của hai bên gia đình.

Tuy cuộc sống còn nhiều khó khăn, vất vả nhưng anh chị vẫn cảm thấy hạnh phúc và trân trọng hơn những gì mình có. Anh Hùng đang làm giáo viên tại Trường THCS Minh Khai, chị Lê Na là cô giáo của Trường Nguyễn Đình Chiểu, anh còn giúp chị dịch sách giáo khoa chuyển ngữ sang chữ Brain. Chị cười, món quà lớn nhất cho tình yêu của chúng tôi là đứa bé xinh xắn và kháu khỉnh. Cháu ăn nhiều nên sữa mẹ không đủ, phải pha sữa bột uống từ 4 tháng tuổi. “Giờ tôi đã tự tin về những kỹ năng làm vợ, làm mẹ và có thể truyền lại kinh nghiệm, kiến thức nuôi con cho bạn khi bạn sinh đứa con đầu” – chị nheo mắt hài hước

https://cand.com.vn/…/Chuyen-tinh-chang-giao-sinh-yeu…/

Văn Quỳnh Lưu

Hồi ức của một trí thức cũ trong xã hội mới sau 1975 (Phần 5)

Hồi ức của một trí thức cũ trong xã hội mới sau 1975 (Phần 5)

Bởi  AdminTD

 Lê Nguyễn

5-1-2022

Tiếp theo Phần 1 — Phần 2 — Phần 3 và Phần 4

III) MỘT QUÃNG ĐỜI RIÊNG

1) NHỮNG “PHÓ THƯỜNG DÂN” (tiếp theo)

Trong giới xích lô bất đắc dĩ sau 1975, còn có Tô Minh Tâm (1944-2017), một người bạn chí thân của tôi trong suốt 7 năm trung học. Sau khi hết bậc trung học (1962), mỗi đứa một đường đi, Tâm tốt nghiệp ban Triết Đại học sư phạm (1967), dạy Triết học vả Công dân Giáo dục lớp đệ nhất tại trường trung học Cường Để, Qui Nhơn. Hiện nay, có một vài người bạn Facebook của tôi từng học với anh ta.

Tất nhiên, sau tháng 4.1975, triết học duy tâm không có chỗ đứng trong chương trình giáo dục, Tâm còn có chút may mắn, đã không phải đi cải tạo, còn được cho dạy môn sinh vật lớp 6 tại một trường trung học cơ sở ở Gia Định. Lương giáo viên thời bao cấp không đủ sống, hàng ngày anh dành cả buổi sáng để đạp xích lô, trưa về lua vội 1- 2 chén cơm rồi đạp xe đi dạy. Bữa nọ, anh ta nhận đưa một phong thư của ai đó nhờ chuyển đến một địa chỉ lạ, với thù lao trả trước. Tất nhiên là chở một phong thư hời hơn chở một người năm sáu mươi ký, anh ta phấn khởi nhận thư, nhận tiền và lên đường.

Trưa hôm ấy, anh ta không về, và suốt 14-15 ngày, vợ con không biết tìm anh ta ở đâu. Điều này khá vô lý nếu chúng ta gắn với thì hiện tại, song nó là một trong nhiều sự thật của những năm sau 1975. Ngày thứ 16, anh ta đạp xích lô về, kể rằng hôm ấy, trên đường mang phong thư đi, anh ta bị cơ quan an ninh chận bắt. Hóa ra món hàng anh ta nhận chuyển đi là thư liên lạc nội bộ của một băng cướp đang bị an ninh theo sát. Anh ta bị nghi ngờ là thành viên của băng cướp, bị điều tra lên điều tra xuống suốt 2 tuần liền, cuối cùng được thả sau khi cơ quan an ninh xác tín anh ta là người vô can.

Một kỷ niệm khác của Tâm, chỉ nghe kể một lần mà tôi nhớ mãi. Buổi trưa đó, đạp xe mệt quá, anh ta ngồi dựa lên ghế dành cho khách, thiu thỉu ngủ, bỗng dưng có ai đó lại gần khều nhẹ. Anh ta mở mắt ra, thấy một cậu xích lô khác đang đứng nhìn mình trân trân.

Cậu ta lên tiếng trước:

– Có phải thầy Tâm không?

– Tôi là Tâm đây, cậu là ai mà biết tôi?

Cậu xích lô trẻ ôm chầm lấy Tâm, nỗi xúc động làm cho giọng của cậu ta lạc hẳn:

– Em là D. đây, em học với thầy tại Cường Để, Qui Nhơn đây!

Một cuộc tái ngộ thật bùi ngùi, từ đó, trên những nẻo đường xuôi ngược, thỉnh thoảng thầy trò lại gặp nhau, dừng xe lại, kỷ niệm cũ cứ theo đó mà tuôn trào.

Tháng 4.1982, khi vừa trờ về với cộng đồng xã hội, tôi vẫn thường đến thăm Tâm, thỉnh thoảng gặp cậu học trò cũ của Tâm ở đó. Trong cái nghèo, con người còn tìm thấy niềm an ủi ở chút nghĩa thầy trò.

Nhiều đồng môn của tôi không đủ sức chọn lấy một nghề lao lực. Họ tham gia vào chợ trời thuốc tây, đóng đô dài dài từ đường Trần Quang Khải đến chợ Tân Định, mỗi khi cơ quan quản lý thị trường tảo thanh thì ôm thùng thuốc chạy như vịt.

Song không lâu sau, nghề chợ trời thuốc tây cũng lụn bại. Đó là khi tổ chức Vina Paris (Vietnam Diffusion) hoạt động mạnh ở Pháp, người ở nước ngoài chỉ cần mua một thùng thuốc tây đủ loại trị giá khoảng 100 USD gửi về thì người nhận có thể mang ra bất cứ một hiệu thuốc tây nào để bán lại và thu hồi gần đủ khoản tiền này.

Sự xuất hiện của Vina Paris là một bước chuyển hết sức cần thiết, kết thúc cảnh “người bóc lột người” rất phổ biến vào nửa đầu thập niên 1980. Họ bóc lột nhau bằng cách sau đây: Anh A ở Mỹ chuyển 100 USD cho anh B cũng ở Mỹ, người thụ hưởng là C, bạn của A, đang sống ở Việt Nam. Anh B thông báo cho người nhà tại VN trả cho C một khoản tiền Việt, “tương ứng” với 100 USD đã nhận từ anh A. Song điều tệ hại ở chỗ là trong hầu hết trường hợp, số tiền Việt Nam mà những người như C nhận được chỉ bằng hơn 50% trị giá của 100 USD trên thị trường đen lúc đó!

Bản thân tôi không ít lần đi nhận tiền với “tỉ giá” như thế. Lần ấn tượng nhất là vào năm 1986, một người bạn rất thân đang sống ở Mỹ, xa cách nhau mười mấy năm, ngày nọ, anh ta lần ra tung tích tôi qua một người bạn chung, chủ động gửi thư thăm và gửi về cho tôi 100 USD. Người có trách nhiệm giao khoản tiền Việt cho tôi lại là thân nhân cật ruột trong gia đình vợ anh ta, và cuối cùng, khoản tiền tôi nhận được tương đương… 50 USD tính theo giá thị trường đen!

Gọi là thị trường đen – đúng hơn là thị trường bất hợp pháp – là vì vào thời điểm trên, vàng và đô la là hai mặt hàng quốc cấm, mọi mua bán, hoán đổi giữa tư nhân với nhau đều bị cấm chỉ triệt để. Tôi nhớ vào năm 1982, có lần cần bán nửa chỉ vàng để chi xài, tôi phải nhờ người bạn thân dẫn đến ngôi nhà của một người quen từng giao dịch mua bán với anh, nhìn thấy anh, họ mới dám mua lại nửa chỉ vàng của tôi. Họ không bao giờ tiếp kẻ lạ, sợ bị gài và bị bắt giữ.

***

Khi nghĩ về bản thân mình cũng như nhiều người cùng thế hệ với mình, tôi đặc biệt ấn tượng với hai câu thơ của nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên:

Đời vốn không nương người thất thế,
Thì thôi, ô nhục cũng là danh!

Ông viết hai câu thơ ấy trước năm 1975 mà không hiểu sao, nó như một lời tiên tri vận vào số phận của thế hệ mình sau 1975. Tôi nhớ những ngày sống ở trại Xuyên Mộc (1979-1982), trong một buổi xét đồ đạc riêng của từng trại viên, không rõ trao đổi qua lại như thế nào, một anh coi tù khoảng hơn 20 tuổi đã hét vào mặt cụ Cao Xuân Th., lúc ấy đã hơn 60, chỉ 3 từ ngắn gọn: “kệ mẹ anh!”. Cụ Th. từng là một viên chức cao cấp của chế độ cũ, cháu trực hệ của quan đại thần Cao Xuân Dục dưới các triều Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định, và là anh ruột ông Cao Xuân Vỹ, nguyên Tổng Giám Đốc Thanh Niên trong chính quyền Ngô Đình Diệm. Sau khi lãnh đủ 3 tiếng gọn lỏn ấy, cụ Th. im lặng, tiếp tục cúi xuống đống đồ tế nhuyễn của mình, sắp xếp chúng lại. Tôi đứng đó, lặng nhìn cụ. Và tôi khóc trong lòng.

Đúng vậy, đã là người thất thế sa cơ, thôi thì, ô nhục… cũng là danh!

Điều đáng nói ở đây là tôi và nhiều người thuộc thế hệ của mình đã nhẫn nại, chịu đựng, và gượng đứng lên, không để ô nhục làm cho tinh thần mình suy sụp. Vì thế, tôi yêu biết mấy một Tô Thùy Yên, sau 10 năm tù cải tạo trở về, vẫn thản nhiên, hào sảng, nhìn lại cuộc đời mình như một kẻ đạt đạo:

Ta về cúi mái đầu sương điểm,
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời,
Cảm ơn hoa đã vì ta nở,
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi (Ta về)

Tôi hàm ơn anh rất nhiều. Anh đã nói thay cho nhiều người, trong đó có tôi, tâm trạng của một thế hệ đã đi qua chiến tranh, đã chịu đựng rất nhiều sau chiến tranh, song vẫn nuôi dưỡng trong lòng mình tình yêu thương cuộc sống, vẫn tin vào những giá trị tốt đẹp còn tiềm tàng trong cuộc sống.

Ngày 12.4.1982, tôi cầm tấm “Giấy ra trại” trong tay, trở về trong tâm trạng như thế. Lòng không nặng trĩu những oán hờn như nhiều người khác, tôi tự coi đó là vận hạn của mình, mắt cố nhìn về con đường phía trước để dò bước, vì mình còn nặng nợ với bao nhiêu người thân đã gian khổ và hi sinh rất nhiều trong những tháng ngày chia cách.

Giấy ra trại. Ảnh trên mạng

Câu nói “bắt đầu lại cuộc đời từ con số âm” không phải là một cách nói phóng đại hay hài hước, mà là một thực tế, dù có hơi đau lòng. Bởi vì khi người tù cải tạo trở về, ngôi nhà mình từng ở hàng chục năm không còn là nhà của mình nữa. Nói đúng hơn, nhà thì vẫn còn đấy, nhưng mình chỉ được tạm trú ở đó, với sự cho phép và chịu trách nhiệm của những người thân từng sống nhiều năm trong sự bảo trợ của mình.

HẾT RỒI…!

HẾT RỒI…!

Hết nổi rồi, xin vĩnh biệt mẹ ơi

Con chẳng thể chịu đòn roi được nữa

Khi dì ghẻ hành con như cơm bữa

Ba xem con như một đứa ngáng đường.

Ở nơi này dù vật chất đế vương

Nhưng lại thiếu thứ tình thương đồng loại

Họ xoắn xuýt bên nhau như cuồng dại

Còn con như thứ thừa thãi trong nhà.

Kể từ khi ba mẹ bước ra tòa

Con thành thứ để người ta trút giận

Bởi giữa họ và mẹ đang còn hận

Nên thân con là chỗ nhận căm hờn

Con bé người nên chẳng thể khác hơn

Ngoài chịu trận và van lơn ngừng đánh

Nhưng đáp lại là đòn roi càng mạnh

Và đau hơn là sự ghẻ lạnh của ba mình.

Sao không cho con có một gia đình

Để con khỏi khóc một mình tức tưởi

Khi nhớ mẹ và em trong đêm tối

Khi cơn đau gây nhức nhối khắp người?

Con đi thôi, dù mới buổi nhú chồi

Dù chỉ mới 8 tuổi đời non nớt

Bởi ở lại đòn roi không hề ngớt

Thịt da thâm không chia sớt, vỗ về.

Hết nổi rồi, vĩnh biệt mẹ con đi

Để thoát khỏi những thứ gì từng chịu

Để khỏi phải thèm vuốt ve, nũng nịu

Thèm có ai xoa dịu những vết bầm…

(Tác giả: Châu Uyển Nhi)

CHUYỆN DI TẢN 1975 -Tiểu Tử

CHUYỆN DI TẢN 1975

Tiểu Tử

Tôi không có đi di tản hồi những ngày cuối tháng tư 1975 nên không biết cảnh di tản ở Sài gòn ra làm sao. Mãi đến sau nầy, khi đã định cư ở Pháp, nhờ xem truyền hình mới biết!

Sau đây là vài cảnh đã làm tôi xúc động, xin kể lại để cùng chia xẻ…

Chuyện 1: Cuộc di tản kinh hoàng

Ở bến tàu, thiên hạ bồng bế nhau, tay xách nách mang, kêu réo nhau ầm ĩ, hớt hơ hớt hải chạy về phía chiếc cầu thang dẫn lên bong một chiếc tàu cao nghều nghệu. Cầu thang đầy người, xô đẩy chen lấn nhau, kêu gọi nhau, gây gổ nhau… ồn ào. Trên boong tàu cũng đầy người lố nhố, giành nhau chồm lên be tàu để gọi người nhà còn kẹt dưới bến, miệng la, tay quơ ra dấu chỉ trỏ… cũng ồn ào như dòng người trên cầu thang!

Giữa cầu thang, một bà già. Máy quay phim zoom ngay bà nên nhìn thấy rõ: bà mặc quần đen áo túi trắng đầu cột khăn rằn, không mang bao bị gì hết, bà đang bò nặng nhọc lên từng nấc thang. Bà không dáo dác nhìn trước ngó sau hay có cử chi tìm kiếm ai, có nghĩa là bà già đó đi một mình. Phía sau bà thiên hạ dồn lên, bị cản trở nên la ó ! Thấy vậy, một thanh niên tự động lòn lưng dưới người bà già cõng bà lên, xóc vài cái cho thăng bằng rồi trèo tiếp.

Chuyện chỉ có vậy, nhưng sao hình ảnh đó cứ đeo theo tôi từ bao nhiêu năm, để tôi cứ phải thắc mắc: bà già đó sợ gì mà phải đi di tản? con cháu bà đâu mà để bà đi một mình? rồi cuộc đời của bà trong chuỗi ngày còn lại trên xứ định cư ra sao? còn cậu thanh niên đã làm môt cử chỉ đẹp – quá đẹp – bây giờ ở đâu?… Tôi muốn gởi đến người đó lời cám ơn chân thành của tôi, bởi vì anh ta đã cho tôi thấy cái tình người trên quê hương tôi nó vẫn là như vậy đó, cho dù ở trong một hoàn cảnh xô bồ hỗn loạn như những ngày cuối cùng của tháng tư 1975…

Chuyện 2: Những bàn tay nhân ái

Cũng trên chiếc cầu thang dẫn lên tàu, một người đàn ông tay ôm bao đồ to trước ngực, cõng một bà già tóc bạc phếu lất phất bay theo từng cơn gió sông. Bà già ốm nhom, mặc quần đen áo bà ba màu cốt trầu, tay trái ôm cổ người đàn ông, tay mặt cầm cái nón lá. Bà nép má trái lên vai người đàn ông, mặt quay ra ngoài về phía máy quay phim. Nhờ máy zoom vào bà nên nhìn rõ nét mặt rất bình thản của bà, trái ngược hẳn với sự thất thanh sợ hãi ở chung quanh!

Lên gần đến boong tàu, bỗng bà già vuột tay làm rơi cái nón lá. Bà chồm người ra, hốt hoảng nhìn theo cái nón đang lộn qua chao lại trước khi mất hút về phía dưới. Rồi bà bật khóc thảm thiết…

Bà già đó chắc đã quyết định bỏ hết để ra đi, yên chí ra đi, vì bà mang theo một vật mà bà xem là quí giá nhứt, bởi nó quá gần gũi với cuộc đời của bà: cái nón lá! Đến khi mất nó, có lẽ bà mới cảm nhận được rằng bà thật sự mất tất cả. Cái nón lá đã chứa đựng cả bầu trời quê hương của bà, hỏi sao bà không xót xa, đau khổ? Nghĩ như vậy nên tôi thấy thương bà già đó vô cùng. Tôi hy vọng, về sau trên xứ sở tạm dung, bà mua được một cái nón lá để mỗi lần đội lên bà sống lại với vài ba kỷ niệm nào đó, ở một góc trời nào đó của quê hương… 

Chuyện 3: Quê hương xa rồi

Cũng trên bến tàu nầy. Trong luồng người đi như chạy, một người đàn bà còn trẻ mang hai cái xắc trên vai, tay bồng một đứa nhỏ. Chắc đuối sức nên cô ta quị xuống. Thiên hạ quay đầu nhìn nhưng vẫn hối hả đi qua, còn tránh xa cô ta như tránh một chướng ngại vật nguy hiểm! Trong sự ồn ào hỗn tạp đó, bỗng nghe tiếng được tiếng mất của người đàn bà vừa khóc la vừa làm cử chỉ cầu cứu. Đứa nhỏ trong tay cô ta ốm nhom, đầu chờ vờ mắt sâu hõm, đang lả người về một bên, tay chân xụi lơ. Người mẹ – chắc là người mẹ, bởi vì chỉ có người mẹ mới ôm đứa con quặt quẹo xấu xí như vậy để cùng đi di tản, và chỉ có người mẹ mới bất chấp cái nhìn bàng quan của thiên hạ mà khóc than thống thiết như vậy – người mẹ đó quýnh quáng ngước nhìn lên luồng người, tiếp tục van lạy cầu khẩn.

Bỗng, có hai thanh niên mang ba lô đi tới, nhìn thấy. Họ dừng lại, khom xuống hỏi. Rồi họ ngồi thụp xuống, một anh rờ đầu rờ tay vạch mắt đứa nhỏ, họ nói gì với nhau rồi nói gì với người đàn bà. Thấy cô ta trao đứa bé cho một anh thanh niên. Anh nầy bồng đứa nhỏ úp vào ngực mình rồi vén áo đưa lưng đứa nhỏ cho anh kia xem. Thằng nhỏ ốm đến nỗi cái xương sống lồi lên một đường dài…

Anh thứ hai đã lấy trong túi ra chai dầu từ lúc nào, bắt đầu thoa dầu rồi cạo gió bằng miếng thẻ bài của quân đội.

Thiên hạ vẫn rần rần hối hả đi qua. Hai thanh niên nhìn về hướng cái cầu thang, có vẻ hốt hoảng. Họ quay qua người đàn bà, nói gì đó rồi đứng lên, bồng đứa nhỏ, vừa chạy về phía cầu thang vừa cạo gió! Người mẹ cố sức đứng lên, xiêu xiêu muốn quị xuống, vừa khóc vừa đưa tay vẫy về hướng đứa con. Một anh lính Mỹ chợt đi qua, dừng lại nhìn, rồi như hiểu ra, vội vã chạy lại đỡ người mẹ, bồng xóc lên đi nhanh nhanh theo hai chàng thanh niên, cây súng anh mang chéo trên lưng lắc la lắc lư theo từng nhịp bước….

Viết lại chuyện nầy, mặc dù đã hơn ba mươi năm, nhưng tôi vẫn cầu nguyện cho mẹ con thằng nhỏ được tai qua nạn khỏi, cầu nguyện cho hai anh thanh niên có một cuộc sống an vui tương xứng với nghĩa cử cao đẹp mà hai anh đã làm. Và dĩ nhiên, bây giờ, tôi nhìn mấy anh lính Mỹ với cái nhìn có thiện cảm!

 Chuyện 4: Những cuộc chia tay xé lòng

Cũng trên bến tàu. Cầu thang đã được kéo lên. Trên tàu đầy người, ồn ào. Dưới bến vẫn còn đầy người và cũng ồn ào. Ở dưới nói vói lên, ở trên nói vọng xuống, và vì thấy tàu sắp rời bến nên càng quýnh quáng tranh nhau vừa ra dấu vừa la lớn, mạnh ai nấy la nên không nghe được gì rõ rệt hết !

Máy quay phim zoom vào một người đàn ông đứng tuổi đang hướng lên trên ra dấu nói gì đó. Bên cạnh ông là một thằng nhỏ cỡ chín mười tuổi, nép vào chân của ông, mặt mày ngơ ngác. Một lúc sau, người đàn ông chắp tay hướng lên trên xá xá nhiều lần như van lạy người trên tàu, gương mặt sạm nắng của ông ta có vẻ rất thành khẩn. Bỗng trên tàu thòng xuống một sợi thừng cỡ nửa cườm tay, đầu dây đong đưa. Mấy người bên dưới tranh nhau chụp. Người đàn ông nắm được, mỉm cười sung sướng, vội vã cột ngang eo ếch thằng nhỏ. Xong, ông đưa tay ra dấu cho bên trên. Thằng nhỏ được từ từ kéo lên, tòn ten dọc theo hông tàu. Nó không la không khóc, hai tay nắm chặt sợi dây, ráng nghiêng người qua một bên để cúi đầu nhìn xuống. Người đàn ông ngước nhìn theo, đưa tay ra dấu như muốn nói: «Đi, đi! Đi, đi! ». Rồi, mặt ông bỗng nhăn nhúm lại, ông úp mặt vào hai tay khóc ngất! Bấy giờ, tôi đoán ông ta là cha của thằng nhỏ đang tòn ten trên kia… Không có tiếng còi tàu hụ buồn thê thiết khi lìa bến, nhưng sao tôi cũng nghe ứa nước mắt!

Không biết thằng nhỏ đó – bây giờ cũng đã trên bốn mươi tuổi — ở đâu? Cha con nó có gặp lại nhau không? Nếu nó còn mạnh giỏi, tôi xin Ơn Trên xui khiến cho nó đọc được mấy dòng nầy…

Tổng giám đốc WHO lạc quan sẽ dập được COVID-19 năm 2022

Tổng giám đốc WHO lạc quan sẽ dập được COVID-19 năm 2022

December 31, 2021

GENEVA, Thụy Sĩ (NV) – Tổng giám đốc Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) hôm Thứ Sáu, 31 Tháng Mười Hai, cho hay ông lạc quan sẽ dập được COVID-19 trong năm 2022, miễn là quốc gia cùng nhau ngăn đại dịch lây lan, theo BBC.

Trong bài diễn văn mừng Năm Mới, Bác Sĩ Tedros Adhanom Ghebreyesus, tổng giám đốc WHO, cảnh cáo quốc gia khắp thế giới không được “có chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và tích trữ vaccine.”

Người dân Philippines đón Giao Thừa 2021 torng công viên ở thành phố Quezon, Metro Manila, Philippines, hôm Thứ Sáu, 31 Tháng Mười Hai. (Hình minh họa: Ezra Acayan/Getty Images)

Ông Tedros đọc bài diễn văn hai năm sau khi WHO được thông báo lần đầu tiên về loại virus lạ gây viêm phổi ở Trung Quốc, mà sau này gây ra đại dịch COVID-19.

Đến nay, 287 triệu người nhiễm bệnh và gần 5.5 triệu người chết vì COVID-19 trên toàn cầu.

Do đại dịch, khắp nơi trên thế giới đón Năm Mới ít rầm rộ hơn mọi năm vì nhiều quốc gia không muốn người dân tụ tập đông đúc.

COVID-19 hiện vẫn là một phần trong đời sống hằng ngày: Một căn bệnh khiến nhiều nước đóng biên giới, gia đình bị chia cắt, và đeo khẩu trang trở thành hình ảnh quen thuộc.

Bất chấp những điều đó, tổng giám đốc WHO bày tỏ lạc quan trong bài diễn văn mừng Năm Mới, lưu ý rằng hiện đang có nhiều công cụ chống COVID-19 hơn lúc trước.

Tuy nhiên, ông cảnh báo tình trạng phân phối vaccine không đồng đều đang làm tăng rủi ro virus phát triển.

“Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và tình trạng tích trữ vaccine của một số quốc gia khiến vaccine không được phân phối đồng đều và tạo điều kiện lý tưởng cho biến thể Omicron xuất hiện. Mà tình trạng phân phối vaccine không đồng đều càng kéo dài, thì càng tăng rủi ro virus phát triển theo cách chúng ta không thể ngăn ngừa hoặc dự đoán,” ông Tedros nói.

“Chấm dứt được tình trạng không đồng đều này, chúng ta sẽ chấm dứt được đại dịch,” ông cho biết thêm.

Trong khi hầu hết người dân Âu Châu và Mỹ Châu hiện đã chích ít nhất một mũi vaccine COVID-19, WHO không đạt được chỉ tiêu chích ngừa đủ liều cho 40% dân số ở từng quốc gia vào cuối năm 2021 ở phần lớn Phi Châu.

Trước đây, ông Tedros chỉ trích các nước giàu “nuốt hết” vaccine COVID-19 toàn cầu, chích đủ liều cho hầu hết dân số của họ trong khi người dân các nước khác chưa được chích mũi nào.

WHO đặt ra chỉ tiêu mới cho năm 2022: Đến Tháng Bảy, chích ngừa 70% dân số tất cả quốc gia để chấm dứt đại dịch. (Th.Long)

Nghệ sĩ Trần Quang Hải vừa tạ thế ở Paris – BBC News Tiếng Việt

BBC News Tiếng Việt 

Từ Paris, nhà báo Phạm Cao Phong đưa tin nghệ sĩ Trần Quang Hải vừa qua đời ngày 29/12.

“…Ông xuất thân trong một gia đình nhạc sĩ cổ truyền từ nhiều đời và Trần Quang Hải là nhạc sĩ đời thứ năm.

Ông sinh ngày 13/05/1944 tại làng Linh Đông Xã, thuộc Gia Định cũ, là con trai trưởng của Giáo sư Trần Văn Khê và bà Nguyễn Thị Sương, cựu giáo sư Anh văn Trường nữ trung học Gia Long.

Cha ông và ông đều có đóng góp lớn lao cho việc sưu tầm, phát triển và đưa âm nhạc dân gian Việt Nam ra thế giới.

Khi còn ở Việt Nam, nghệ sĩ Trần Quang Hải là cựu học sinh Trường trung học Pétrus Ký, sau đó tốt nghiệp Nhạc viện âm nhạc Sài Gòn ở bộ môn vĩ cầm của cố giáo sư Đỗ Thế Phiệt. Ông sang Pháp năm 1961 học tiếp tại Đại học Sorbonne và trường Cao đẳng Khoa học xã hội (Ecole des Hautes Etudes en Sciences Sociales)…

“Ông đã trình diễn trên 3.500 buổi tại 70 quốc gia, tham gia 130 đại hội liên hoan quốc tế nhạc truyền thống, giảng dạy tại hơn 120 trường đại học, sáng tác hơn 400 bản nhạc cho đàn tranh, đàn môi, muỗng, hát đồng song thanh, nhạc tùy hứng, đương đại.

Giáo sư Trần Quang Hải cũng thực hiện 23 đĩa nhạc truyền thống Việt Nam, viết 3 quyển sách, làm 4 DVD, 4 phim và hội viên của trên 20 hội nghiên cứu âm nhạc thế giới.

Ông tiếp tục con đường mà cha ông, giáo sư Trần Văn Khê đã khai mở khi nghiên cứu nhạc học dân tộc, khởi sắc một hướng đi riêng trong mảng trình diễn âm nhạc cổ truyền Việt Nam, nhạc tùy hứng, nhạc đương đại cũng như phương pháp nghiên cứu thể nghiệm qua hát song thanh…”

Các bạn đọc toàn bài ở link sau đây. BBC xin chia buồn cùng gia đình nghệ sĩ Trần Quang Hải và những người yêu âm nhạc cổ truyền Việt Nam.

https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-59817590

Nghệ sĩ Trần Quang Hải vừa tạ thế ở Paris - BBC News Tiếng Việt

BBC.COM

Tiếp nối sự nghiệp của cha là GS Trần Văn Khê, nghệ sĩ Trần Quang Hải đã đưa nhạc cổ truyền Việt Nam tới 70 quốc gia trên thế giới.

Gates: ‘Thông tin giả’ là nỗi lo lắng lớn nhất trong năm 2022

Gates: ‘Thông tin giả’ là nỗi lo lắng lớn nhất trong năm 2022

December 28, 2021

SEATTLE, Washington (NV) – Trong một bài blog được đăng tải gần đây, ông Bill Gates, nhà tỷ phú kiêm đồng sáng lập hãng Microsoft, chia sẻ một số điều mà ông lo lắng về năm 2022, theo bản tin hôm Thứ Bảy, 25 Tháng Mười Hai, của CNBC.

Trích dẫn bài viết có tựa đề “Các lý do để lạc quan sau một năm khó khăn,” ông Gates khá lạc quan về năm 2022 và cho rằng dịch bệnh COVID-19 có thể sẽ chấm dứt nhờ vào sự phát triển của không gian ba chiều điện tử.

Tỷ phú Bill Gates, nhà sáng lập công ty Microsoft. (Hình: Jeff J Mitchell – Pool/Getty Images)

Tuy nhiên, ông Gates nêu lên một vấn nạn nan giải, có thể làm trì hoãn hoặc ngăn cản các tiến triển tích cực, đó là việc các luồng thông tin giả lan tràn khiến người dân không tin tưởng vào chính phủ.

Nhà tỷ phú giải thích rằng các cơ quan công cộng có vai trò quan trọng trong việc giải quyết biến đổi khí hậu hay phòng chống dịch bệnh, nhưng họ chỉ có thể hoạt động hiệu quả nếu người dân tin tưởng và làm theo chỉ dẫn của họ.

“Nếu mọi người không tin tưởng chính phủ, họ sẽ không ủng hộ các chính sách mới,” ông Gates cho biết. “Và khi khủng hoảng xảy ra, họ cũng không nghe theo các chỉ thị thiết yếu để cải thiện tình hình.”

Một ví dụ điển hình của tình trạng này đó là các thông tin sai lệch được lan truyền rộng rãi gây cản trở các nỗ lực chấm dứt dịch bệnh trong đợt khủng hoảng COVID-19 vừa qua.

Cũng trong bài blog này, ông Gates nhận định rằng các kênh tin tức 24 giờ, các tựa báo đậm tính chính trị và mạng xã hội là các yếu tố khuếch đại sự nghi ngờ của dân chúng, và chính phủ có thể phải kiểm soát các nền tảng trực tuyến này để ngăn chặn thông tin sai lệch.

Nhà đồng sáng lập Microsoft cho rằng nếu không can thiệp kịp thời, người dân Mỹ có thể sẽ ưu tiên bầu cho các chính trị gia khuyến khích việc nghi ngờ chính phủ và khiến tình hình tệ thêm.

Hiện các cơ quan lập pháp đang tập trung vào các nền tảng mạng xã hội.

Đây là một vấn đề khó giải quyết mà ngay cả ông Gates cũng chưa thể đưa ra một giải pháp chắc chắn(MPL) 

Trái Tim Yêu Thương tặng người ‘homeless’ ở Los Angeles 1,500 phần ăn và đồ ấm

Trái Tim Yêu Thương tặng người ‘homeless’ ở Los Angeles 1,500 phần ăn và đồ ấm

December 25, 2021

Thiện Lê/Người Việt

LOS ANGELES, California (NV) – Tổ chức thiện nguyện Trái Tim Yêu Thương tặng hàng ngàn phần ăn và đồ cần thiết cho người vô gia cư ở Los Angeles vào sáng Thứ Năm, 23 Tháng Mười Hai, nhân dịp mùa Giáng Sinh.

Các thiện nguyện viên phát thức ăn chay. (Hình: Thiện Lê/) Người Việt

Khoảng 1,500 phần ăn chay tặng cho người vô gia cư là do các sư tăng ni và Phật tử chùa Phật Tổ ở Long Beach nấu từ sáng sớm.

Từ khoảng 3 đến 4 giờ sáng, khu vực sân sau của chùa dựng nhiều mái che và thắp đèn sáng để nấu ăn. Tuy không quá đông người, nhưng mọi người trong chùa cùng các thành viên của nhóm Trái Tim Yêu Thương rất hăng hái làm việc.

Không khí nhộn nhịp trong nhà bếp ngoài trời của chùa Phật Tổ. (Hình: Thiện Lê/Người Việt)

Ông Phạm Khanh, đại diện nhóm Trái Tim Yêu Thương, nói với phóng viên Người Việt: “Hôm nay chúng tôi nấu tổng cộng 1,500 phần ăn chay và tặng thêm cho người vô gia cư ở Los Angeles tổng cộng 2,000 mền, túi ngủ, và áo lạnh.”

Ông Khanh nói Trái Tim Yêu Thương sẽ tặng thức ăn và các món đồ cần thiết tại sự kiện Giáng Sinh của tổ chức thiện nguyện và nhà tạm trú Los Angeles Mission. Đây là năm thứ ba Trái Tim Yêu Thương giúp đỡ người vô gia cư ở Los Angeles.

Một thành viên khác chia sẻ: “Chúng tôi cảm thấy rất hạnh phúc vì giúp đỡ được người vô gia cư trong mùa Đông giá lạnh. Đâu phải ai cũng được quây quần với gia đình trong mùa lễ như chúng ta. Mình may mắn hơn người ta thì phải chia sẻ cái may mắn đó để ai cũng được vui trong ngày lễ.”

Đại Đức Thích Thường Tịnh, trụ trì chùa Phật Tổ ở Long Beach, xào mì. (Hình: Thiện Lê/Người Việt)

Một Phật tử của chùa Phật Tổ tiếp lời: “Đức Phật dạy con người phải biết từ, bi, hỷ, xả nên tôi cảm thấy việc làm của mình và nhiều đồng hương khác tại đây rất quan trọng. Chúng ta phải giúp những người gặp hoạn nạn, khó khăn, nhất là trong những ngày mưa gió như vậy. Có thể không giúp được những người đó bao nhiêu, nhưng tôi nghĩ họ sẽ hiểu được tấm lòng thành của mình trong những ngày lễ này. Người Việt Nam có đức tính giúp đỡ người khác, nên những hoạt động thiện nguyện như vậy rất đáng coi trọng và rất đáng để các thế hệ con cháu noi gương.”

Trong nhà bếp ngoài trời, người “chỉ huy” các hoạt động bếp núc là Đại Đức Thích Thường Tịnh, trụ trì chùa Phật Tổ. Ông cho biết các món ăn chay tặng cho người vô gia cư gồm có cơm chiên, mì, miến xào, và chả giò.

Vị sư trụ trì còn chia sẻ chùa Phật Tổ đang xây một nhà bếp đàng hoàng vì nấu ngoài trời nhiều năm rồi, cần có sự thay đổi.

Người vô gia cư đứng chờ dưới mưa bên ngoài nhà tạm trú Los Angeles Mission để nhận thực phẩm. (Hình: Thiện Lê/Người Việt)

Đến khoảng 6 giờ sáng, trời mưa rào làm một số người lo ngại, nhưng không làm các hoạt động trong nhà bếp chậm lại. Tiếng dao cắt rau củ vẫn “lạch cạch,” và tiếng xào nấu vẫn “xèo xèo,” không bị tiếng mưa át đi. Ai cũng hối hả làm việc, và thậm chí có vài người làm từ khoảng 1 giờ sáng.

Vì làm việc từ sớm, nên đến gần 8 giờ sáng là các thiện nguyện viên nấu xong 1,500 phần ăn và chất hết lên xe để chở đến nhà tạm trú Los Angeles Mission. Nhà tạm trú này được thành lập từ năm 1936, và là một trong những tổ chức thiện nguyện lâu năm nhất ở California.

Các thiện nguyện viên của Trái Tim Yêu Thương có mặt tại Los Angeles Mission vào khoảng 9 giờ sáng. Vì trời mưa, nhà tạm trú này phải dựng lều để các nhóm thiện nguyện chuẩn bị phát quà Giáng Sinh cho người vô gia cư, mỗi nhóm có một bàn riêng.

Nhóm Trái Tim Yêu Thương mang các phần ăn vào nhà tạm trú Los Angeles Mission. (Hình: Thiện Lê/Người Việt)

Nhà tạm trú Los Angeles Mission nằm gần khu Skid Row, nơi có đông người vô gia cư nhất của thành phố Los Angeles, và có nhiều người đứng chờ bên ngoài để được nhận quà Giáng Sinh.

Một số người cho biết họ rất cảm kích vì năm nào nhà tạm trú này và các nhóm thiện nguyện cũng cho họ một bữa ăn nóng hổi và những món quà có ý nghĩa.

Bên trong phòng chờ của các thiện nguyện viên, ông Troy Vaughn, tổng giám đốc Los Angeles Mission, phát biểu: “Tôi xin chân thành cám ơn các thiện nguyện viên và các tổ chức thiện nguyện có mặt hôm nay cũng như mọi năm. Quý vị giúp tạo ra một môi trường tích cực bằng sự giúp đỡ những con người gặp khó khăn, không có chỗ để ngủ. Chúng ta phải cho cộng đồng thấy họ được thương yêu. Xin Chúa ban phước cho quý vị, và lần nữa chân thành cám ơn sự đóng góp của quý vị.”

Sau gần hai tiếng chuẩn bị, Los Angeles Mission bắt đầu mở cửa cho người vô gia cư vào nhận quà Giáng Sinh và các phần ăn vào lúc 11 giờ sáng.

Tuy bên ngoài trời mưa lạnh lẽo, nhưng không khí bên trong lều vô cùng ấm cúng. Các thiện nguyện viên hướng dẫn người vô gia cư rất tận tình, và còn cho người đẩy xe lăn cho những người khuyết tật.

Các thiện nguyện viên phát mền, áo lạnh, và túi ngủ cho người vô gia cư. (Hình: Thiện Lê/Người Việt)

Các thiện nguyện viên đưa người vô gia cư đến từng bàn của họ. Một số nhóm tặng giày dép, đồ chơi, và nhóm Trái Tim Yêu Thương tặng những thứ cần thiết cho mùa lạnh là áo khoác, mền, và túi ngủ.

Nhiều người vô gia cư rất vui mừng vì nhận được những thứ giúp mình giữ ấm trong mùa Đông.

Một người nói: “Trời lạnh như vậy mà quý vị tặng chúng tôi mền với áo khoác như vậy thật đáng quý. Xin Chúa ban phước cho quý vị và chúc mọi người Giáng Sinh an lành.”

Trời vẫn tiếp tục mưa đến chiều, nhưng không khí trong Los Angeles Missions vẫn ấm cúng, lại có những ca khúc Giáng Sinh vui tươi, làm ai cũng quên đi sự lạnh lẽo bên ngoài. [đ.d.]

—–
Liên lạc tác giả: le.thien@nguoi-viet.com

Những bức ảnh từng khiến nhiều người khóc cạn nước mắt

Những bức ảnh từng khiến nhiều người khóc cạn nước mắt

Một bức ảnh đáng giá ngàn lời. Đôi khi, một bức tranh ẩn chứa cả ngàn giọt nước mắt, một trái tim tan nát, một tâm hồn vụn vỡ, hay là tiếng kêu cứu của những người không thể tự nói ra.

Máy ảnh đã cho phép con người ghi lại một số khoảnh khắc kỳ diệu nhất, ấm lòng… nhất, nhưng cũng có những khoảnh khắc tàn nhẫn nhất.

Bé gái Syria

Thông thường những đứa trẻ chạy trốn, giấu mặt hoặc mỉm cười khi nhìn thấy camera. Không một đứa trẻ nào được tiếp xúc với súng và càng ít trẻ ý thức được hậu quả của việc sử dụng súng.

Đó là lý do tại sao, khi bức ảnh một bé gái người Syria giơ tay sợ hãi khi nhìn thấy ống kính máy ảnh – vì nghĩ là một khẩu súng, được đăng tải, đã gây chấn động toàn xã hội. Nhiếp ảnh gia Osman Sağırlı đã chụp bức ảnh tại trại tị nạn Atmeh ở Syria. Đáng buồn thay, bé Hudea, 4 tuổi, không phải là đứa trẻ Syria duy nhất quen với sự tàn phá của súng đạn và sự khốc liệt của chiến tranh.

Diện mạo của cái đói

Nạn đói ở Hà Nam (Trung Quốc) kéo dài từ mùa hè năm 1942 đến mùa xuân năm 1943, cướp đi sinh mạng của 2-5 triệu người và khiến 4 triệu người đã phải tha phương cầu thực. Đó là hệ lụy tổng hợp của chiến tranh, hạn hán và dịch bệnh hoành hành trong khu vực.

Nhà báo Theodore White (Mỹ) đã tường thuật trực tiếp rằng nhiều người đang tự tử và các bậc cha mẹ phải bán con cái của họ với giá chưa đến 10 USD. Người ta đã chụp được bức ảnh một người đàn ông đói khát tuyệt vọng gặm vỏ cây bên ngoài đại sứ quán Anh.

Lòng dũng cảm và sự duyên dáng

Ngày 13/11/1985, núi lửa Nevado del Ruiz ở Colombia phun trào, xóa sổ thị trấn Armero, giết chết hơn 20.000 trong tổng dân số 29.000 người. Một trong những nạn nhân của bi kịch Armero là Omayra Sanchez, 13 tuổi, hai chân bị kẹt dưới bức tường gạch khi dòng bùn núi lửa tràn vào nhà. Không thể thực hiện một ca cắt cụt chi an toàn và giải thoát cho Omayra, các bác sĩ và lực lượng cứu hộ cho rằng, điều nhân đạo nhất là giữ cho cô bé bình tĩnh và để cô ấy chết dần.

Vài giờ trước khi cô qua đời, sau khi bị mắc kẹt trong 60 giờ, nhiếp ảnh gia Frank Fournier đã đến và chụp bức ảnh Omayra nổi tiếng hiện nay. Bức ảnh được vinh danh là Bức ảnh Báo chí Thế giới của năm và là lời nhắc nhở đầy ám ảnh về vụ phun trào núi lửa chết chóc thứ hai trong thế kỷ 20.

Một người cha bất lực

Thoạt đầu, bức ảnh trông giống như một người đàn ông thường xuyên ngồi trên hiên và nhìn vào thứ gì đó. Nhưng “cái gì đó” là những gì còn lại của con người: một bàn chân và một bàn tay. Trên thực tế, chúng thuộc về đứa con gái Boali 5 tuổi của người đàn ông này.

Cô bé bị đã bị các giám thị của Công ty Cao su Ấn Độ Anh-Bỉ giết chết. Người đàn ông không hoàn thành được chỉ tiêu cao su hàng ngày của mình; vợ của ông cũng bị giết. Dù ở thời đại và xã hội nào, hành động đó thể hiện sự man rợ ở dạng trần trụi nhất của nó.

Lòng biết ơn

Bức hình chụp cậu bé 12 tuổi người Brazil, Diego Frazão Torquato, đang chơi đàn vĩ cầm trong đám tang người thầy giáo của mình. Thầy Evandro Silva là người đã giúp Diego thoát khỏi cảnh nghèo đói và bạo lực. Ông bị giết trong một vụ cướp của mafia vào tháng 10/2009. Đáng buồn thay, Diego, người bị bệnh bạch cầu từ khi mới 4 tuổi, đã qua đời vào năm sau do biến chứng sau khi cắt bỏ ruột thừa.

Sự tàn ác của con người

Khi sự tàn ác, sự ngu dốt và lòng tham của con người không biết đến giới hạn thì đây là kết quả. Ảnh chụp ở đây là một trong những “điểm tham quan kỳ lạ” của vườn thú – một bé gái người Philippine bị trói tay vào một khúc gỗ. Từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, những “cuộc triển lãm” vô nhân đạo như vậy có thể được thấy ở Paris, Hamburg, Barcelona, London, Milan và New York. Bức tranh này đã được chụp hơn một thế kỷ về trước.

Vô gia cư

Chính sự đau khổ của trẻ thơ đã khơi dậy nỗi đau khổ và bản năng bảo vệ sâu sắc nhất trong chúng ta. Bức ảnh “Vô gia cư” của nhiếp ảnh gia Môi trường của CIWEM năm 2011 – Chan Kwok Hung, là một ví dụ hoàn hảo về điều đó. Tại Kathmandu – thủ đô của Nepal, ông đã chụp được bức ảnh hai đứa trẻ vô gia cư đang sống trên đường. Hàng ngày, hai anh em đến bãi phế liệu gần đó và tìm kiếm bất cứ thứ gì có giá trị để bán.

Tình yêu của một người anh

Những gì một cậu bé Nhật Bản thể hiện khi đưa người em trai đã khuất của mình đi hỏa táng không chỉ là tình yêu mà còn là sự dũng cảm và đĩnh đạc của một người đàn ông gấp mấy lần tuổi cậu. Nhiếp ảnh gia Joe O’Donnell có mặt tại hiện trường nơi hỏa táng những người thiệt mạng trong vụ đánh bom ở Nagasaki, ghi lại hình ảnh này và nói về những gì đã xảy ra sau khi họ đặt đứa trẻ đã chết từ vào đống lửa: “Cậu bé đứng đó không nhúc nhích, nhìn ngọn lửa. Cậu cắn môi dưới của mình mạnh đến nỗi nó ứa máu. Ngọn lửa cháy thấp dần như mặt trời lặn. Cậu bé quay lưng, lặng lẽ bước đi”.

Để tự chết

Bức ảnh chụp vào tháng 7/1913 của nhiếp ảnh gia người Pháp Albert Kahn cho thấy một phụ nữ trẻ người Mông Cổ đang cố gắng giải thoát mình khỏi một cái cũi gỗ. Vì bị cho là ngoại tình, cô bị giam cho đến chết vì đói. Những chiếc bát trước mặt cô ban đầu được đổ đầy nước và cô phải xin ăn. Tuy nhiên, kết cục cuối cùng là cái chết, cho dù quá trình này có thể kéo dài. Phương pháp trừng phạt vô nhân đạo này đã được thực hiện ở Mông Cổ cho đến đầu thế kỷ 20.

Thứ bảy đẫm máu

Ngày 28/8/1937, nhiếp ảnh gia H. S. Wong đã chụp được bức ảnh một em bé đang khóc ngay sau khi Không quân Nhật Bản ném bom nhà ga xe lửa Thượng Hải. Đó là một cuộc tấn công vào dân thường, làm 1.500 người bị thiệt mạng. Ngay sau vụ đánh bom, một người đàn ông đang đi qua đống đổ nát và giải cứu các nạn nhân. Đứa trẻ trong bức ảnh là người đầu tiên anh cứu.

Thực tế của thời đại chúng ta

Tháng 3/1993, khi đang thực hiện một nhiệm vụ của Liên Hợp Quốc ở Châu Phi, nhiếp ảnh gia Kevin Carter đã chụp được một bức ảnh mang lại cho ông Giải thưởng Pulitzer. Trong khi chụp ảnh các nạn nhân đói khát, Carter tình cờ gặp một đứa trẻ mới biết đi đang lả đi, gục xuống đất vì đói. Nấp phía sau là một con kền kền đang chực chờ rình mồi đứa trẻ.

Carter đã chụp ảnh hiện trường và đuổi con kền kền đi. Sau khi chụp một số bức ảnh, Kevin ngồi dưới gốc cây và khóc. Bốn tháng sau, nhiếp ảnh gia Kevin tự sát. Một phần trong bức thư tuyệt mệnh của anh ta có viết: “Tôi bị ám ảnh bởi những ký ức sống động về những vụ giết chóc và xác chết và sự tức giận và đau đớn… của những đứa trẻ bị chết đói, hoặc bị thương…”.

“Bức ảnh đau lòng nhất”

Hầu hết mọi người đều quen thuộc với hình ảnh cậu bé Alan Kurdi 3 tuổi người Syria, bị trôi dạt vào một bãi biển ở Bodrum, Thổ Nhĩ Kỳ ngày 2/9/2015. Cậu bé chết đuối khi thoát khỏi cuộc chiến ở Syria cùng gia đình người Kurd. Trên hành trình băng qua biển Aegean để đến Hy Lạp, con thuyền quá đông đúc của họ bị lật. 12 người, trong đó có một số trẻ em, bị chết đuối. Bức ảnh được đăng tải trên các phương tiện truyền thông và được coi là “Bức ảnh Đau lòng nhất”, một lần nữa nhắc nhở thế giới về sự khủng khiếp và tuyệt vọng của chiến tranh.

From: Tu-Phung

Nhiều người Việt vẫn liều chết nhập cư lậu vào Anh Quốc để kiếm tiền

Nhiều người Việt vẫn liều chết nhập cư lậu vào Anh Quốc để kiếm tiền

December 26, 2021

LONDON, Anh Quốc (NV) – Bất chấp nguy hiểm đến tính mạng, nhiều người Việt Nam vẫn tìm mọi cách đi nhập cư lậu vào Âu châu kiếm sống, nhất là vào nước Anh.

Gần đây, cơ quan điều tra đã khám phá một đường đi mới của những di dân lậu từ Việt Nam tìm cách tới Âu châu kiếm sống. Có tới 500 di dân lậu người Việt sống chen chúc như ổ chuột ở ngoại ô thủ đô Belgrade của Serbia, theo bài viết trên báo Guardian hôm 25 Tháng Mười Hai.

Di dân lậu ngồi trên chiếc xuồng cao su mỏng manh vượt biển từ nước Pháp để vào nước Anh. (Hình: Marine Nationale/AP)

Họ là nhân công làm cho công ty LingLong, một nhà máy sản xuất vỏ xe hơi vốn đầu tư Trung Quốc đang được xây dựng. Vụ đầu tư này, bắt đầu khởi công từ năm 2019, được ca ngợi như vàng ngọc trong mối quan hệ đối tác chiến lược đang phát triển nhanh chóng giữa Belgrade và Bắc Kinh.

Hai năm sau, 500 công nhân người Việt làm công việc xây dựng cho LingLong cầu cứu vì họ bị cưỡng bách quá sức lao động trong khi ăn uống thiếu thốn, chỗ ở thì tồi tàn, bẩn thỉu. Hộ chiếu, giấy tờ tùy thân của họ bị chủ nhân tịch thu hết, hiển nhiên là để họ không thể bỏ trốn.

Tin tức làm sửng sốt không những chính phủ Serbia mà cả Quốc Hội Châu Âu (EU).

Quốc hội EU đòi hỏi phải làm rõ tại sau một vụ buôn người lớn như thế ngay giữa Âu Châu lại có thể xảy ra. Tuy nhiên, đi vào chi tiết của cuộc điều tra, người ta được biết công ty LingLong chỉ là trạm đầu tiên của các di dân lậu người Việt đến nước Anh và các nước khác của khu vực Tây Âu.

Cuộc điều tra của báo Observer thấy rằng, hai nước Serbia và Romania được dùng như trạm đầu tiên để họ đặt chân tới Âu Châu qua sự tổ chức của những băng nhóm buôn người. Họ đã lợi dụng chương trình hộ chiếu thuê mướn công nhân nước ngoài (guest worker visa programmes) để đưa một số rất lớn người Việt Nam tới Đông Âu.

Tới đó, họ bị đẩy vào làm tại các nhà máy hoặc công trình xây cất trước khi được vận chuyển bằng đường bộ tới các nước Tây Âu và, hiển nhiên là Anh Quốc. Trong hành trình này, họ bị cưỡng bách lao động để trả món nợ tới 30,000 bảng Anh để có thể tới được nước Anh.

Năm 2019, dư luận vô cùng xúc động khi biết tin 39 di dân lậu người Việt đã chết ngộp trong một thùng hàng xe tải lạnh trên đường tới nước Anh. Nếu họ sống sót và chuyến vượt biên, vượt biển trót lọt, họ thường phải làm công tại các tiệm làm móng tay, làm bếp tại các nhà hàng ăn Việt Nam, làm tại các cơ sở trồng cần sa để trả nợ.

Báo chí Anh Quốc gọi họ là nhóm người nô lệ mới thời nay trên nước Anh, vẫn liên tiếp xảy ra.

Nguồn tin trên thuật lời một số di dân lậu người Việt cho hay đi từ Việt Nam tới Serbia với hộ chiếu lao động tạm thời từ nước ngoài là con đường hợp pháp và ít tốn kém nhất. Từ Tháng Tám đến Tháng Mười, khoảng 500 người được hứa hẹn cung cấp việc làm lương cao tại nước Đức, với phí tổn cả hộ chiếu lẫn vé máy bay khoảng 1,700 bảng Anh.

Một người tên Tuấn nói với nhà báo là anh ta trả tiền, qua tới Serbia do đọc một quảng cáo trên Facebook, không ngờ lại bị đẩy vào làm xây dựng cơ sở cho công ty LingLong, chứ không phải nhà máy vỏ xe của Đức. Tiền lương thì chỉ bằng một nửa những gì đã được hứa hẹn. Ở thì chen chúc tới 50 người trong một phòng nhỏ.

Đồ ăn vừa tồi tệ vừa thiếu nên nhiều phải vào rừng tìm bắt bất cứ con gì họ có thể bắt để ăn có chất thịt. Đau ốm không có thuốc men. Tuấn nói trong số những người cùng làm với anh ta ở LingLong, 30 người đã bỏ trốn qua Anh Quốc, Pháp, Đức, còn nhiều người khác đang chuẩn bị trốn.

Di dân lậu người Việt bị ép làm tại cơ sở trồng cần sa tại Anh Quốc để trả nợ tiền đưa lậu từ Việt Nam qua. (Hình: NCA/PA)

Cuộc điều tra của báo Observer thấy rằng có nhiều đường di chuyển khác nhau mà các nhóm buôn người đưa các di dân lậu từ Đông Âu tới các nước Tây Âu. Thường là họ phải tạm trú trong những cái chòi tạm để chờ dịp xuống các xuồng máy cao su khi muốn sang Anh Quốc.

Họ phải ký các tờ cam kết không bỏ trốn. Nếu trốn, gia đình họ ở Việt Nam phải trả trong vòng một tuần lễ số tiền tương đương một năm lương. Nhiều người còn nán ở lại làm tại LingLong vì họ muốn dành dụm tiền để trả món nợ đi tới các nước Tây Âu.

Không biết đích xác số di dân lậu người Việt đến các nước Tây Âu cũng như Anh Quốc những năm qua là bao nhiêu. Chỉ thấy thống kê trong 5 năm qua, ít nhất có 231 người Việt bị cảnh sát Romania bắt. Cảnh sát Hungaria bắt 101 người trong cùng thời kỳ này. (TN)

HÔM NAY 22 THÁNG 12 LÀ NGÀY MẤT CỦA CỤ NGUYỄN HIẾN LÊ

 Tôi không có học với ông Nguyễn Hiến Lê nhưng đọc rất nhiều sách của ông, cho nên, tôi xem Nguyễn Hiến Lê là thầy về cách sống, làm việc. Thời còn sinh viên, một lần tôi đến thăm ông với người bạn, vì ngưỡng mộ ông. Trong khi nói chuyện ông nói rằng chỉ tiếp chúng tôi trong khoảng 10 phút, vừa nói chuyện với chúng tôi vừa chuốt viết chì. Khi nào viết chì nhọn rồi bỏ vào cái ly riêng. Nghĩa là ông đã sử dụng hết thì giờ cần thiết. Đọc sách ông được biết giờ giấc làm việc của ông đúng thời khoá biểu mà ông đặt ra. Giảm bớt đi dự tiệc tùng để có thì giờ làm việc.

Phùng Văn Phụng

Le Tu Ngoc

HÔM NAY 22 THÁNG 12 LÀ NGÀY MẤT CỦA CỤ NGUYỄN HIẾN LÊ

Nguyễn Hiến Lê (1912 – 1984) là một nhà văn, dịch giả, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục và hoạt động văn hóa độc lập, với 120 tác phẩm sáng tác, biên soạn và dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như Giáo dục, Văn học, Ngữ học, Triết học, Lịch sử, Du ký, Gương danh nhân, Chính trị, Kinh tế …

Năm 1934, 22 tuổi, ông tốt nghiệp Trường Cao đẳng Công chính Hà Nội rồi vào làm việc tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ, bắt đầu quãng đời nửa thế kỷ gắn bó với Nam bộ, gắn bó với Hòn ngọc Viễn Đông.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông thôi làm ở sở, đi dạy học ở Long Xuyên.

Năm 1952 chuyển lên Sài Gòn mở Nhà xuất bản và biên dịch sách, sáng tác, viết báo.

Những năm trước 1975 và cả trong thời gian sau này, Nguyễn Hiến Lê luôn là một cây bút có tiếng, viết miệt mài và là một nhân cách lớn.

Trong đời cầm bút của mình, đến trước khi mất, ông đã xuất bản được hơn một trăm (100) bộ sách, về nhiều lĩnh vực: Văn học, Ngôn ngữ học, Triết học, Tiểu luận phê bình, Giáo dục, Chính trị, Kinh tế, Gương danh nhân, Du kí, Dịch tiểu thuyết, Học làm người…

Một vài “tự bạch” về nhân sinh quan của ông:

  1. Khi nghèo thì phải tận lực chiến đấu với cảnh nghèo vì phải đủ ăn mới giữ được sự độc lập và tư cách của mình. Nhưng khi đã đủ ăn rồi thì đừng nên làm giàu, phải để thì giờ làm những việc hữu ích mà không vì danh và lợi. Giá trị của ta ở chỗ làm được nhiều việc như vậy hay không.
  2. Chỉ nên hưởng cái phần xứng đáng với tài đức của mình thôi. Nếu tài đức tầm thường mà được phú quý hoặc được nhiều người ngưỡng mộ thì sẽ mang họa vào thân.
  3. Hôn nhân bao giờ cũng là một sự may rủi. Dù sáng suốt và chịu tốn công thì cũng không chắc gì kiếm được người hợp ý mình; phải chung sống năm ba năm mới rõ được tính tình của nhau.
  4. Có những hoa hữu sắc vô hương mà ai cũng quý như hoa hải đường, hoa đào; nhưng đàn bà nếu chỉ có sắc đẹp thôi, mà không được một nét gì thì là hạng rất tầm thường. Chơi hoa tôi thích nhất loại cây cao; có bóng mát, dễ trồng và có hương quanh năm như ngọc lan, hoàng lan. Ở đâu tôi cũng trồng hai loại đó.
  5. Xã hội bao giờ cũng có người tốt và kẻ xấu. Như Kinh Dịch nói, lúc thì âm (xấu) thắng, lúc thì dương (tốt) thắng; mà việc đời sau khi giải quyết xong việc này thì lại sinh ra việc khác liền; sau quẻ Ký tế (đã xong) tiếp ngay quẻ Vị tế (chưa xong). Mình cứ làm hết sức mình thôi, còn thì để lại cho các thế hệ sau.
  6. Hồi trẻ, quan niệm của tôi về hạnh phúc là được tự do, độc lập, làm một công việc hữu ích mà mình thích, gia đình êm ấm, con cái học được, phong lưu một chút chứ đừng giàu quá. Nhưng hồi năm mươi tuổi tôi thấy bấy nhiêu chưa đủ, cần thêm điều kiện này nữa: sống trong một xã hội lành mạnh, ổn định và tương đối thịnh vượng.

Nguồn: FB Nguyễn Quang Minh