Những gì chưa kể về tù nhân lương tâm Đỗ Nam Trung

Những gì chưa kể về tù nhân lương tâm Đỗ Nam Trung

Phạm Thanh Nghiên

Tôi chỉ gặp Đỗ Nam Trung đúng hai lần. Lần đầu tiên vào ngày 28 Tháng Mười Một 2015 tại lễ đính hôn của tôi ở Hải Phòng. Lần thứ hai sau đó ít hôm, khi tôi từ Hải Phòng lên Hà Nội để chào tạm biệt một số anh chị em trước khi vào Sài Gòn sinh sống. Ít gặp mặt, song tôi thật sự ấn tượng bởi phong cách có phần hơi “bụi bặm” nhưng cởi mở, thân thiện của Đỗ Nam Trung.

Lễ đính hôn của chúng tôi ở Hải Phòng có nhiều người đến dự, nhưng cũng nhiều người bị công an ngăn chặn. Vì khách mời hầu hết là những người chung chí hướng nên biết nhau cả, thành ra chẳng còn phân biệt đâu là bạn cô dâu, đâu là bạn chú rể, cũng không còn ranh giới giữa “nhà trai”, nhà gái”. Hôm ấy, Đỗ Nam Trung đi chung chuyến xe với chú rể và các anh chị em khác từ Hà Nội xuống.

Vừa gặp, Trung đã tiến đến, ôm chầm lấy tôi:

– May quá! May mà em ra tù kịp để được đi đám cưới chị. Chứ chị mà cưới sớm tí nữa là không có mặt thằng em này đâu đấy nhé.

Ngày ấy, Đỗ Nam Trung vừa ra tù được hơn hai tháng. Sự kiện Tàu Cộng đưa giàn khoan HD981 vào vùng đặc quyền kinh tế thuộc chủ quyền Việt Nam Tháng Năm 2014 đã dấy lên làn sóng phẫn nộ trên cả nước. Các cuộc biểu tình chống Tàu nổ ra ở khắp nơi từ Bắc chí Nam, từ Hà Nội, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Sài Gòn, Bình Dương, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, đến Đồng Nai…

Lẽ ra, nhà cầm quyền phải coi các cuộc biểu tình là một dấu hiệu đáng mừng vì nó thể hiện trách nhiệm với đất nước và quyết tâm bảo vệ chủ quyền tổ quốc của người dân trước sự xâm lược của ngoại bang. Thay vì chọn lựa đứng về phía nhân dân, đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết, giới chóp bu cầm quyền tuy ngoài miệng vẫn phản đối Tàu Cộng, nhưng lại ra tay đàn áp các cuộc biểu tình và bắt bớ những công dân yêu nước hòng lấy lòng “bạn vàng”. Trong số những người bị bắt có Lê Thị Phương Anh, Phạm Minh Vũ và Đỗ Nam Trung. Cả ba bị bắt khi đang đưa tin về phong trào biểu tình chống Tàu của công nhân Đồng Nai ngày 15 Tháng Năm 2014. Ngày 12 Tháng Hai 2015, tòa án sơ thẩm Đồng Nai kết án Phạm Minh Vũ, Đỗ Nam Trung và Lê Thị Phương Anh, lần lượt 18 tháng, 14 tháng và 12 tháng tù với cáo buộc “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước…”, theo điều 258- BLHS năm 1999.

Ra tù, Đỗ Nam Trung và Phạm Minh Vũ vẫn tiếp tục theo đuổi hoài bão, góp công sức dù nhỏ bé vào công cuộc đổi thay đất nước. Có lẽ cần quay ngược thời gian để có câu trả lời xem vì sao Đỗ Nam Trung từ một thanh niên sinh ra và lớn lên tại miền Bắc sau 1975, giống như các bạn cùng lứa khác, trong đó có người từng thần tượng ông Hồ, tin vào Đảng Cộng sản hoặc thờ ơ chuyện xã hội, lại dấn thân đi theo con đường đầy chông gai để rồi chịu cảnh tù đày?

Đỗ Nam Trung sinh ngày 25 Tháng Mười Một 1981 tại Nam Định trong gia đình có hai anh em, Trung là anh cả. Nhà nghèo nên sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, Đỗ Nam Trung không thi đại học mà xin đi học lái xe. Cuộc sống ở Nam Định khó khăn nên năm 2003, Trung ra Hà Nội tìm việc. Trước khi trở thành tài xế lái xe khách chạy tuyến Bắc-Nam cho công ty Hoàng Long vào năm 2006, Trung đã trải qua nhiều công việc vất vả như chạy xe ôm, nhân viên phục vụ nhà hàng…

Công việc đang thuận lợi thì biến cố ập đến. Cô Nguyễn Thị Ánh Tuyết, vợ chưa cưới của Đỗ Nam Trung kể lại, đầu năm 2010, khi đang trên đường chở khách từ Hà Nội vào Bình Thuận thì có một người đàn ông lao vào đầu xe của Trung khiến tử vong. Tìm hiểu thì biết rằng người đàn ông đó ngoại tình, bị gia đình phát hiện. Cuộc sống bế tắc, chán đời nên anh ta tự tử. Sau khi sự việc xảy ra, Đỗ Nam Trung bị tạm giữ tại công an tỉnh Bình Thuận. Thân nhân người đàn ông nọ yêu cầu Trung bồi thường 70 triệu đồng và họ bảo đảm không kiện cáo gì; hai bên tự thỏa thuận và giải quyết nội bộ với nhau. Tuy nhiên, công an Bình Thuận vẫn ra quyết định khởi tố mặc dù phía gia đình người đàn ông kia đã xin cho Trung. Ngày 13 Tháng Một 2011, Đỗ Nam Trung bị kết án chín tháng tù với tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Chính những ngày tháng trong tù đã khiến Đỗ Nam Trung nhận thức được sự thực đang diễn ra trên đất nước này. Nó không phải “thời đại rực rỡ” như những gì người ta rêu rao, mà tối tăm như những phận đời anh gặp trong chốn lao tù. Nó bẩn thỉu và nhơ nhớp như những tờ giấy bạc mà bọn quan tòa, công an, cai ngục bóc lột của bao nhiêu con người khốn khổ bất kể có tội hay vô tội sau khi đã tống họ vào tù.

Mãn án, Trung bắt đầu tham gia hoạt động xã hội. Từ biểu tình chống Trung Cộng, bảo vệ môi trường đến tham gia các buổi tưởng niệm những người lính đã ngã xuống để bảo vệ chủ quyền đất nước. Trung chưa bao giờ nhận mình là một blogger hay người bảo vệ nhân quyền. Anh tham gia hoạt động xã hội một cách tự nhiên, cũng bằng phong cách bụi bặm, dân dã, nhiệt thành như con người anh vốn vậy. Không có những bài phân tích chính trị hoặc lý luận đao to búa lớn, nhưng bằng sự quả cảm, xông xáo, nhanh nhẹn, Đỗ Nam Trung thực sự mang vóc dáng của “phóng viên đường phố” nổi bật, một trong những nhân tố quan trọng và cần thiết hàng đầu của mỗi phong trào đấu tranh đòi dân chủ ở các quốc gia độc tài.

Có thể nói, trong khoảng thời gian từ năm 2012 đến 2018 (gián đoạn từ Tháng Năm 2014 đến Tháng Bảy 2015 vì đi tù), Đỗ Nam Trung là một trong những người để lại nhiều dấu ấn nhất trong các cuộc xuống đường tại Hà Nội. Dù công an đàn áp khốc liệt đến mấy, anh cũng bằng mọi cách đưa được thông tin, hình ảnh từ hiện trường ra công luận. Không ít lần Trung bị bắt, bị đánh đập khi đang biểu tình, đi “đòi người” hay tham gia các buổi tưởng niệm.

Đỗ Nam Trung và bạn bè quốc tế tại Hội nghị Nhân quyền ở Ireland do Frontline Defenders tổ chức Tháng Mười 2019

Ngoài những cuộc biểu tình chống Tàu Cộng, Trung cũng có mặt ở hầu hết hoạt động đường phố, từ tuần hành bảo vệ cây xanh, phản đối Formosa xả thải, bảo vệ môi trường đến chống các trạm thu phí bất hợp lý mà công luận gọi là BOT “bẩn”. Tháng Mười 2019, Đỗ Nam Trung được tổ chức Frontline Defenders (có trụ sở tại Ireland) mời sang tham dự Hội nghị về Nhân quyền. Hội nghị có sự tham dự của đại diện hơn 100 quốc gia. Tại diễn đàn này, Đỗ Nam Trung đã trình bày về tình trạng vi phạm nhân quyền của nhà nước Việt Nam và vận động cho hai tù nhân lương tâm Hà Văn Nam và Trần Thị Nga.

Khoảng một năm trước khi bị bắt, Đỗ Nam Trung tâm sự với một số bạn bè rằng tạm thời anh sẽ hạn chế các hoạt động tranh đấu và dành nhiều thời gian hơn cho gia đình. Tuy vậy, khi bạn bè cần, Trung vẫn hỗ trợ. Anh vẫn tiếp tục thực hiện nhiều chuyến đi thiện nguyện, giúp đỡ trẻ em nghèo vùng cao hay đồng bào bị lũ lụt ở miền Trung. Ngày 6 Tháng Bảy 2021, Đỗ Nam Trung lại bị công an tỉnh Nam Định đến tận Hà Nội bắt khi đang trên đường đi làm. Thế có nghĩa là, cho dù có chọn lựa một cuộc bình thường, không chống đối chống cộng gì sất, Đỗ Nam Trung vẫn là phần tử nguy hiểm cho chế độ, theo quan điểm của nhà cầm quyền. Trung phải bị bắt, và phải bị ghép đúng tội danh “tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam” thì mới được!

Ngày 16 Tháng Mười Hai 2021, sau hơn năm tháng tạm giam, Đỗ Nam Trung bị đưa ra tòa và bị kết án 10 năm tù, bốn năm quản chế, trước sự ngỡ ngàng và phẫn nộ của bạn bè cũng như những người yêu mến anh. Chỉ trong vòng 48 giờ đồng hồ, nhà cầm quyền đã xử tù bốn công dân với tổng cộng 35 năm tù giam, 12 năm quản chế – lần lượt gồm Phạm Đoan Trang, Trịnh Bá Phương, Nguyễn Thị Tâm và Đỗ Nam Trung. Đó là chưa kể bản án 10 năm tù giam, ba năm quản chế mà tòa án Thành Hồ đã tuyên với ông Vũ Tiến Chi trong một phiên xử chóng vánh diễn ra ngày 17 Tháng Mười Hai 2021.

Chỉ vài hôm nữa, vào dịp lễ Giáng sinh, nhà cầm quyền tiếp tục đưa hai mẹ con bà Cấn Thị Thêu và Trịnh Bá Tư ra phiên tòa phúc thẩm. Có lẽ, bản án tám năm tù giam đã tuyên trong phiên tòa sơ thẩm sẽ được giữ nguyên, vì mẹ con bà Thêu vốn nổi tiếng can trường, không bao giờ khuất phục trước bạo quyền. Tội gì còn tha được, tội “cứng đầu” là phải xử thật nặng. Ngày 31 Tháng Mười Hai, người đối kháng cuối cùng sẽ bị đưa ra tòa là nhà báo tự do Lê Trọng Hùng. Chỉ cần nhìn các diễn biến trong Tháng Mười Hai 2021, có thể thấy rõ tương lai ảm đạm của Việt Nam trong năm tới mà thành phần lãnh nhận nhiều rủi ro, nhiều tai họa nhất vẫn là những người dám mở miệng.

Sau khi nghe tin Trung bị tuyên án 10 năm tù, tôi nhắn tin cho Tuyết, vợ chưa cưới của Trung. Cũng lại là những an ủi suôn thôi, chẳng giúp gì được. Tuyết bảo: “Em sẽ chờ đợi Trung. Khi nào đám cưới, tụi em sẽ mời chị. Anh Trung đáng được yêu thương và chờ đợi, chị ạ”.

Tôi không định khóc, thế mà nước mắt vẫn ứa ra. Chiến tranh đã lùi xa gần nửa thế kỷ, nhưng vẫn còn đó những cuộc đợi chờ. Mẹ chờ con, vợ chờ chồng, con ngóng cha, đôi lứa đợi chờ nhau… Những cuộc đợi chờ mòn mỏi, đằng đẵng, thậm chí vô vọng. Tuy không dám nghĩ quẩn nhưng những cái tên Trương Văn Sương, Nguyễn Văn Trại, Đào Quang Thực và mới đây nhất là Huỳnh Hữu Đạt, vẫn ám ảnh tôi. Họ là những người ra đi không có ngày về, mãi mãi lỗi hẹn với người thân. Nhưng với Đỗ Nam Trung, tôi có dự cảm thật tốt lành rằng anh sẽ trở về, bình an và mạnh khỏe. Rồi Trung và Tuyết sẽ làm đám cưới, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi đến khi đầu bạc răng long.

Những ngày cuối năm này, xin thành tâm cầu nguyện cho tất cả những tù nhân lương tâm, cho những người đang chịu sự bách hại vì lẽ công bằng, được bình an và mạnh khỏe cho đến tận ngày về.

Sài Gòn, 21 Tháng Mười Hai 2021

Phạm Thanh Nghiên

(Bài viết có sử dụng một số chi tiết do gia đình anh Đỗ Nam Trung cung cấp)

HÌNH:

– Đỗ Nam Trung trong một cuộc biểu tình chống Trung Cộng

– Cùng một số ace xuống đường kỷ niệm cuộc chiến với quân xâm lược Tàu cộng năm 1979

– Đỗ Nam Trung (cùng nhà hoạt động Nguyễn Lân Thắng) trong lần đi cứu trợ đồng bào lũ lụt ở Quảng Bình năm 2017

– Đỗ Nam Trung với trẻ em nghèo vùng cao

– Đỗ Nam Trung tại BOT Bắc Thăng Long-Nội Bài

– Đỗ Nam Trung và bạn bè quốc tế tại Hội nghị Nhân quyền ở Ireland do Frontline Defenders tổ chức Tháng Mười 2019

– Đỗ Nam Trung tại phiên tòa sơ thẩm Nam Định ngày 16 Tháng Mười Hai 2021 (ảnh: TTXVN)

+3

Cô gái mồ côi gốc Việt sinh ra tại Cần Thơ thành sao Hollywood: “Tôi không biết mẹ ruột mình là ai, còn sống hay đã chết”

Cô gái mồ côi gốc Việt sinh ra tại Cần Thơ thành sao Hollywood: “Tôi không biết mẹ ruột mình là ai, còn sống hay đã chết”

Cái tên Lana Condor bắt đầu được biết đến tại Hollywood lần đầu tiên vào năm 2016 qua vai diễn dị nhân Jubilee trong phim X-men:

Apocalypse. Vai diễn đầu tay đã được tham gia vào một series bom tấn, đây là điều bất cứ diễn viên nào tại Hollywood cũng đều khao khát.

Sau thành công trong X-men, Lana tiếp tục nhận một vai nhỏ trong phim Patriots day có tài tử Mark Walhberg đóng chính. Và chỉ vỏn vẹn 2 năm sau, cô gái sinh năm 1997 đã thuận lợi có được vai nữ chính trong một bộ phim điện ảnh của Hollywood. To all the boys I’ve loved before – bộ phim tình cảm do Lana đóng chính vừa ra mắt trên kênh Netflix đã gây được tiếng vang lớn, tiếp nối làn sóng trỗi dậy của các diễn viên gốc Á tại kinh đô điện ảnh thế giới.

Lana mang trong mình dòng máu 100% thuần Việt, là một đứa trẻ bị bỏ rơi được cặp vợ chồng người Mỹ nhận nuôi tại một trại cô nhi ở Cần Thơ khi mới 2 tháng tuổi. Tâm sự với tờ Elle, Lana cho hay mọi người thường thấy ngại ngùng khi đề cập đến việc cô là con nuôi nhưng bản thân cô gái gốc Việt lại rất cởi mở về nguồn gốc của mình.

“Bố mẹ tôi thường mặc đồ truyền thống Việt Nam trong ngày di sản ở trường. Bố mẹ còn muốn tôi thử ăn đồ Việt Nam để biết về nguồn cội của mình”, nữ diễn viên trẻ kể.

Sinh ra là người châu Á nhưng lại có bố mẹ da trắng, Lana cảm thấy dễ dàng liên hệ được với nhân vật mà mình thủ vai trong To all the boys I’ve loved before bởi cô gái trong câu chuyện có gốc Hàn Quốc, sống với bố người Mỹ.

Kể về người mẹ ruột Việt Nam của mình, Lana chia sẻ: “Tôi không biết gì về mẹ ruột. Tôi có suy nghĩ về người mẹ sinh ra mình nhưng tôi không biết bà là ai, bà đang ở đâu, còn sống hay đã chết. Từ khi còn nhỏ tôi luôn coi mẹ nuôi là mẹ mình và yêu bà bằng cả trái tim”.

Năm 1997, bố mẹ nuôi của Lana – ông Bob Condor và bà Mary Haubold đã lặn lội nửa vòng Trái đất đến Việt Nam xa xôi với mong muốn nhận nuôi một bé gái. Cặp vợ chồng người Mỹ kết hôn khá muộn, khi cả hai đã 35 tuổi nên họ gặp nhiều khó khăn trong việc có con. Bà Mary Haubold sảy thai nhiều lần và phải từ bỏ việc sinh con dù khao khát có được một gia đình trọn vẹn.

Đầu tiên, hai vợ chồng muốn nhận nuôi con tại Trung Quốc vì nơi đây có quá nhiều bé gái bị bỏ rơi, đó là hậu quả của chế độ chỉ cho phép sinh một con. Nhưng rồi định mệnh đưa ông bà đến với Việt Nam vì có lời đồn rằng việc nhận con nuôi tại đây nhanh chóng và dễ dàng hơn.

Suốt nhiều tháng rong ruổi khắp các cô nhi viện từ Bình Dương đến TP HCM, ông bà Condor tiêu tốn hàng chục nghìn đô la tiền đặt cọc làm hồ sơ cũng như chi phí sinh hoạt tại nơi đất khách quê người nhưng vẫn không có được một cơ may nhận con. Những hy vọng tưởng như sắp tắt, thần may mắn đã mỉm cười với họ. Một cô nhi viện tại Cần Thơ đã gọi điện cho họ với lời quảng cáo rằng ở đó có rất nhiều “bé trai vô địch”.

Lặn lội đến tỉnh miền Tây trong một ngày mưa gió, lội qua nhiều con đường bùn đất, hai ông bà mới tìm được tới cô nhi viện.

Khi vừa tiếp xúc với những đứa trẻ tại đây, ông Bob Condor đã bị thu hút ngay bởi một bé gái xinh xắn, và ông có cảm nhận rằng cô bé chính là con gái mình. Bé gái có tên khai sinh là Trần Đồng Lan, lập tức được ông bà Condor nhận nuôi và đặt tên là Lana với ý nghĩa gần với tên gốc của cô.

Quá xúc động trước hoàn cảnh của các em bé mồ côi Việt, ông bà quyết định nhận nuôi thêm một bé trai hơn Lana 3 tháng tuổi và đưa cả 2 anh em về Mỹ.

Tuy thiệt thòi vì là cô nhi nhưng Lana Condor lại may mắn khi được một gia đình Mỹ giàu có và học thức nhận nuôi. Bố nuôi Lana là một nhà báo hai lần nhận đề cử giải thưởng Pulitzer danh giá.

Cô lớn lên trong sự bao bọc của gia đình, có riêng bảo mẫu người Việt Nam, được theo học các trường nghệ thuật danh tiếng hàng đầu nước Mỹ.

Và bằng tài năng của mình, cô gái mồ côi gốc Việt đã có được chỗ đứng tại Hollywood, nơi vốn không có nhiều sự ưu ái cho các gương mặt châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng.

Và năm nay, “cơn sốt mới nổi” Lana Condor là một minh chứng cho những nổ lực của tài năng mang trong mình dòng máu thuần Việt.

THU NGUYEN

Về sự ra đi của con trai tôi Phùng Ái Quốc

Ngày 02 tháng 10 năm 2021, cách nay đúng hai năm, con tôi đã ra đi vì tai nạn. Bài này viết cách nay hai năm. Hôm nay xin chia sẻ cùng với bà con, anh chị em, bài viết cũ, nhưng cũng là tâm tư của tác giả. Thân ái. Phụng

Về sự ra đi của con trai tôi Phùng Ái Quốc

Năm giờ rưởi sáng ngày thứ bảy 02 tháng 10 năm 2021, đứa con trai thứ tư là Phùng Ái Quốc (ở nhà thường gọi là Tý), đã cùng với bạn là Nguiên, dùng xe nhà để đi câu cá ở Gaveston cách Houston khoảng 2 giờ lái xe. Phải qua phà mới tới chỗ câu cá. Nơi câu cá gọi là (the Galveston- Port Bolivar ferry) có con đường lởm chởm đá de ra biển, dài khoảng 30 mét.

Thông thường chừng 4, 5 giờ chiều là con tôi về tới nhà. Hôm đó tới sáu, bảy giờ tối vẫn chưa thấy về, cứ đinh ninh rằng Quốc đi đâu đó, tối sẽ về. Suốt đêm thứ bảy không thấy về. Cả nhà lo âu, hồi hộp. Suy nghĩ, nếu có accident nằm ở nhà thương thì nhà thương cũng cho hay. Hay là bị cướp. Không có lẽ, vì đi câu cá đâu có tiền bạc gì nhiều để bị cướp?

Sáng sớm chúa nhật, dự định đến nhà Nguiên, bạn cùng đi câu chung, để hỏi thăm tin tức, nhưng đâu biết nhà của Nguiên ở đâu. Sau cùng đi tìm đến nhà của Phạm Tuân, cũng là bạn rất thân của Quốc và Nguiên, thường hay đi câu cá chung với nhau: gồm Quốc, Nguiên và Tuân. Không biết chính xác nhà Tuân ở chỗ nào, cứ đi đại đến khu đường Cook và Ridgeside, hỏi thăm mấy người Việt nam đang đi bộ, tập thể dục, hỏi thăm nhà Tuân. Họ thấy tìm nguời Việt Nam nên họ chỉ. May thay đúng nhà Tuân. Tuân đã chở tôi và bà xã tôi đi ngay xuống Gaveston, chỗ thường câu cá, để xem sự thể ra sao. Trong lúc đó vợ chồng con gái của tôi từ Pasadena cũng xuống Gaveston.

Lúc đó, gia đình chúng tôi cũng đã báo cho cảnh sát biết để đi tìm giùm.

Tôi đến nơi câu cá khoảng 11 giờ trưa. Thấy chiếc xe của con tôi đậu trên bờ biển, chỗ câu cá, tôi đã lo âu, hồi hộp, suy nghĩ chắc là không xong rồi. Xe đậu ở đây. Mà hai đứa Quốc và Nguiên đi đâu rồi? Đi đâu suốt đêm hôm qua. Ở đây đâu có nhà ai quen?

Lúc 11 giờ 30 cảnh sát đến cho hay đã tìm thấy một cái xác. Cảnh sát đưa hình ảnh họ chụp được, con gái nhìn mặt biết là Tý rồi nhưng sợ ba má chịu không nổi, sợ xỉu, bất tỉnh, nên không dám nói và bảo đi về Houston trước đi. Tới khoảng 2 giờ hơn thì xác thứ hai của Nguiên cũng tìm được. Nghe nói có 6 chiếc canô và cả trực thăng đi tìm. Xác trôi hơn một dặm (khoảng hai cây số) trôi qua bên kia đảo.

Ngày thứ hai, 04 tháng 10 năm 2021, cảnh sát có cho biết tin trên báo Gaveston (1)

Và cảnh sát cũng đã xét nghiệm xem có bị đánh đập gì hay không?

Thứ ba ngày 05 tháng 10 năm 2021 vợ Quốc đến nhà quàn Vĩnh Cửu để ký tên cho nhà quàn đi Gaveston để nhận xác.   

Mấy ngày nay như người mất hồn, không tin Quốc đã ra đi. Đau lòng lắm. Gậm nhấm nỗi đau. Không thể biết được cái gì đã xảy ra. Suy nghĩ bình thường, đơn giản, có ai tin rằng đi câu cá mà chết đuối?

Quốc sinh năm 1973 mới có 48 tuổi để lại hai đứa con 16 và 11 tuổi. Nhìn mấy đứa trẻ còn nhỏ quá mà đau lòng.

Quốc là đứa con giúp đỡ gia đình rất nhiều, ở chung nhà để phụ trả tiền điện, tiền nước…và trả thuế, bảo hiểm nhà v.v

Đau đớn vì mất con không thể nào diễn tả được. Bây giờ mới hiểu được cái đau này dằn xé tâm can như thế nào, để cảm nghiệm được phần nào cái đau của bạn bè đã mất con.

Đau đớn lắm.

***

Sáng thứ hai 04 tháng 10, khoảng 10 giờ có con bướm màu đen bay đến sau nhà, đậu trên lá cây đậu ròng, đến gần con bướm cũng không bay. Vợ Tý chụp đưọc, Uyên Phương cũng chụp, con bướm vẫn không bay? Đến khi để phone sát vào mặt con bướm nó mới chịu bay đi. Đây có thể là dấu chỉ con trai tôi là Tý đã về thăm nhà vào ngày thứ ba sau khi chết.

***

Gia đình tôi qua Mỹ cuối năm1993 gồm vợ chồng và bốn con, hai trai, hai gái. Nay chỉ còn ba. Cháu nội trai 11 tuổi, đang học lớp sáu, hỏi mẹ nó: “Sao daddy đi câu cá mà lâu về quá. Mai mốt mamy đừng cho daddy đi câu cá nữa”. Nó vẫn chưa biết ba nó đã ra đi. Tôi liên tưởng đến chuyện Trang Tử đã vỗ bồn mà hát khi bà vợ của ông mất tôi không thể hiểu nỗi (2)

Là người công giáo, tin tưởng vào Thiên Chúa toàn năng, trong cáo phó tôi đã viết như sau:

“Trong niềm tin tưởng sâu xa vào mầu nhiệm phục sinh, trong niềm cậy trông vào lòng nhân từ của Chúa:

Gia đình chúng con kính xin thông báo cùng quý linh mục, quý phó tế, các hội đoàn công giáo tiến hành, cộng đồng dân Chúa, thân bằng quyến thuộc, bạn hữu xa gần, quý sui gia và các anh chị em; Chồng, Anh, Cha, con trai của chúng con là:

“Ông PhaoLô Phùng Ái Quốc đã rời bỏ thế gian, đi về nhà Cha trên Trời”.

Lễ phát tang vào ngày thứ tư, 13 tháng 10 (nhằm ngày kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima năm 1917). Những lời chia buồn, sự thăm viếng của các đoàn thể trong nhà thờ và của bà con cô bác đã an ủi rất nhiều cho gia đình chúng tôi, thân nhân người đã khuất. Rất ấm cúng khi có bạn bè đến chia sẻ, ủi an. Quả nhiên là cái chết không biết trước được. Có ai ngờ đâu đi câu cá mà bị nước cuốn trôi và chết đuối?

Tất cả những bài cáo phó, lời cám ơn đọc ở nhà thờ là những bài tôi đã viết sẵn để phòng hờ cho các con tôi đem ra dùng khi tôi chết, sợ rằng lúc bận rộn, gấp rút các con tôi không biết phải làm gì. Đâu có ngờ rằng thay vì đọc cho tôi, thì lại đọc cho con tôi.

Trong nhà quàn tôi làm banner viết câu: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Thánh Phanxicô Assisi).

Con tôi rất hiền từ, thường không tranh cãi với ai, hết lòng với cha mẹ, vợ con. Và nay đã ra đi, bình an về với Chúa tình yêu, đầy lòng xót thương. Rồi chúng ta, cả tôi nữa cũng sẽ lần lượt đón nhận cái chết, vì đã sinh ra tất yếu là phải chết, nhưng không biết sẽ xảy ra lúc nào, ngày nào và chết như thế nào?

Rồi mọi người trong gia đình cũng sẽ đoàn tụ với con trai tôi trong một ngày nào đó, trong nước Trời, trong sự chờ đợi sống lại trong ngày sau hết. Bổn phận chúng ta, những người còn sống trong gia đình, là cầu nguyện và chỉ biết cầu nguyện mà thôi.

Phùng Văn Phụng

Ngày 20 tháng 10 năm 2021

httpv://www.youtube.com/watch?v=JOYHI-5KoBY

Thánh Ca Hay Nhất Cầu Cho Những Người Đã Qua Đời

(1)Two drown in water near Bolivar Peninsula

By JOHN WAYNE FERGUSON The Daily News 

 Oct 4, 2021 Updated 23 hrs agoTop of Form

Bottom of Form

PORT BOLIVAR

Two men drowned in the waters off Bolivar Peninsula over the weekend, according to the Galveston County Sheriff’s Office.

The bodies of Quoc Phung and Nguien Nguyen were recovered from the Gulf Intracoastal Waterway and the Galveston Bay on Sunday morning, Sheriff Henry Trochesset said.

Both men were from Bellaire.

The men knew each other and were believed to have gone wade-fishing Saturday on Bolivar Peninsula, Trochesset said. They were reported missing on Sunday morning, shortly before their bodies were found, Trochesset said.

The circumstances that led to the men’s drowning were unclear, Trochesset said. Both men were wearing waders, which could have made it difficult for them to surface if they slipped under water.

It’s unclear whether they were fishing when a rain storm passed over parts of the county on Saturday afternoon.

— John Wayne Ferguson

https://www.galvnews.com/news/police/free/article_e250cc38-ed59-5952-abd8-652e9f37b23a.html

(2)Bài “Trang tử cổ bồn” (…)

“Vợ Trang tử chết, Huệ tử lại điếu, thấy Trang tử ngồi xoạc chân ra, gõ nhịp vào một cái vò mà hát, bèn bảo:

– Ăn ở với người ta, người ta nuôi con cho, nay người ta chết, chẳng khóc là bậy rồi, lại còn hát gõ nhịp vào cái vò, chẳng là quá tệ ư?

Trang tử đáp:

– Không phải vậy. Khi nhà tôi mới mất, làm sao tôi không thương xót? Nhưng rồi nghĩ lại thấy lúc đầu nhà tôi vốn không có sinh mệnh; chẳng những không có sinh mệnh mà còn không có cả hình thể nữa; chẳng những không có hình thể mà đến cái khí cũng không có nữa. Hỗn tạp ở trong cái khoảng thấp thoáng, mập mờ mà biến ra thành khí, khí biến ra thành hình, hình biến ra thành sinh mệnh, bây giờ sinh lại biến ra thành tử, có khác gì bốn mùa tuần hoàn đâu. Nay nhà tôi nghỉ yên trong cái Nhà Lớn (tức trời đất) mà tôi còn ồn ào khóc lóc ở bên cạnh thì tôi không hiểu lẽ sống chết rồi. Vì vậy mà tôi không khóc” (…)

Trích Nguyễn Hiến Lê: Thân thế Trang Tử

http://www.gocnhin.net/cgi-bin/viewitem.pl?4080

Bàn thờ trong nhà quàn

Một banner để ở nhà quàn

Con bướm xuất hiện sáng ngày thứ ba trên cây đậu ròng sau nhà

HRW yêu cầu CSVN trả tự do ngay lập tức cho Phạm Đoan Trang

HRW yêu cầu CSVN trả tự do ngay lập tức cho Phạm Đoan Trang

December 13, 2021

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Tổ Chức Theo Dõi Nhân Quyền (HRW) kêu gọi CSVN trả tự do ngay lập tức cho blogger Phạm Đoan Trang vì bà hoàn toàn vô tội.

“Bà Phạm Đoan Trang là một người cầm bút viết nhiều tác phẩm (vận động dân chủ, nhân quyền) nên phải đối diện với sự trả thù của nhà cầm quyền cho một thập niên vận động quyền tự do biểu đạt, tự do báo chí và nhân quyền,” ông Phil Robertson, phó giám đốc Á Châu Vụ của Tổ Chức Theo Dõi Nhân Quyền (Human Rights Watch) phát biểu.

Nhà báo độc lập Phạm Đoan Trang. (Hình: FB Phạm Đoan Trang)

Ông Robertson tố cáo rằng “khi kết án bà Phạm Đoan Trang, chế độ Hà Nội chứng tỏ họ sợ hãi đến thế nào đối với những tiếng nói chỉ trích được nhiều người biết đến.”

Vào Thứ Ba, 14 Tháng Mười Hai, bà Phạm Đoan Trang, 42 tuổi, bị đưa ra tòa án ở Hà Nội để chính thức bị tuyên án tù mà mọi người quen gọi là “án bỏ túi” do bản án đã được những người cầm đầu đảng CSVN ấn định từ trước. Thẩm phán xử án chỉ ngồi xử án chiếu lệ, bất chấp lời bào chữa, biện luận của luật sư.

Phạm Đoan Trang bị Công An bắt ở Sài Gòn vào tối 6 Tháng Mười, 2020, rồi đưa về Hà Nội biệt giam, ép cung và không cho bà được săn sóc y tế, không cho thân nhân thăm gặp.

Mãi đến ngày 19 Tháng Mười, 2021, bà mới được gặp luật sư lần đầu. Bà kể cho họ nghe sự tàn ác của nhà tù CSVN đối với tù nhân chính trị, nhất là đối với các phụ nữ có vấn đề về kinh nguyệt.

Tù nhân phải nằm trên nền xi măng cứng, mùa Hè nóng cháy da, mùa Đông lạnh cắt da trong khi thương tích từ những lần bị Công An CSVN đánh trước đây hành hạ làm bà đau đớn. Dù vậy, bà vẫn rất kiên cường, không khuất phục khi bị cán bộ điều tra ép cung.

Luật Sư Ngô Anh Tuấn kể lại lần gặp bà Phạm Đoan Trang ngày 19 Tháng Mười mới đây: “Trong 10 lần lấy cung, bà đều bị ép nhưng bà từ chối trả lời và yêu cầu phải có luật sư mới khai báo nhưng không được chấp nhận.”

Bà không nhận là có tội, đồng thời cho hay bà nói với Công An là không chịu ra nước ngoài khi bị án tù nhiều năm. Bà nói “không chấp nhận là vật để đổi chác với nước ngoài.”

CSVN không ép được bà nhận tội gì nên chỉ làm cáo trạng căn cứ vào một số tài liệu mà bà viết hoặc viết chung với người khác về thảm họa môi trường miền Trung Việt Nam do công ty Formosa gây ra, tôn giáo bị đàn áp, các cuộc trả lời phỏng vấn báo đài ngoại quốc. Bà bị vu cho tội “tuyên truyền chống nhà nước…” với bản án có thể đến 12 năm tù.

Ba quyển sách nổi tiếng của bà Phạm Đoan Trang có thể tải xuống từ Internet. (Hình: FB Phạm Đoan Trang)

Trong bản tin ngày 13 Tháng Mười Hai, HRW liệt kê các hành động của bà Phạm Đoan Trang tranh đấu cho nhân quyền, quyền tự do thông tin, tự do biểu đạt của người dân tại Việt Nam từ khi bà còn làm cho báo VietNamNet một thập niên trước.

Nhiều người tin rằng tập tài liệu phơi bày sự thật về vụ nhà cầm quyền CSVN đưa hàng ngàn công an đàn áp đẫm máu người dân xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức Hà Nội đầu năm 2020, là một trong những giọt nước làm tràn ly, dẫn đến việc bỏ tù bà để trả thù.

HRW cáo buộc CSVN bắt giam bà Phạm Đoan Trang là vi phạm Công Ước Quốc Tế Về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị mà họ đã ký cam kết tuân hành từ năm 1982.

Hồi Tháng Mười 2021, Ủy Ban Chống Tra Tấn và Giam Giữ Tùy Tiện của Liên Hiệp Quốc đã lên án điều 117 của Luật Hình Sự CSVN là mơ hồ dùng để giam giữ và kết án Phạm Đoan Trang là đi ngược với điều 11 của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.

Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc từng đòi hỏi CSVN sửa đổi điều 117 và các điều luật khác chỉ nhằm bỏ tù các tiếng nói bất đồng chính kiến.

Các áp lực quốc tế dù là của Liên Hiệp Quốc cũng không hề có tác dụng đối với chế độ độc tài đảng trị tại Hà Nội trừ phi có mối lợi nào họ thu lại từ Hoa Kỳ hay Liên Âu. CSVN luôn nói rằng “Việt Nam không có tù chính trị hay tù lương tâm” dù sự thực hiển nhiên thế nào. (TN) [kn]

CPJ liệt kê 23 nhà báo bị chế độ Hà Nội bỏ tù năm 2021

CPJ liệt kê 23 nhà báo bị chế độ Hà Nội bỏ tù năm 2021

December 9, 2021

NEW YORK, Mỹ (NV).

 Ủy ban Bảo vệ Ký giả quốc tế CPJ nói ít nhất 293 nhà báo bị nhà cầm quyền các nước, gồm cả CSVN, bỏ tù trong năm 2021.

Trong bản tường trình công bố hôm Thứ Năm mùng 9 Tháng Mười Hai, Ủy ban Bảo vệ Ký giả CPJ (Committee to Protect Journalists) nói rằng Trung Quốc đứng đầu bảng với 50 người. Kế đến là Myanmar với 26 người, Ai Cập với 25 người. CSVN bỏ tù 23 người, đứng hàng thứ tư tồi tệ nhất trên thế giới.

Nhà báo độc lập Phạm Đoan Trang bị Công an CSVN bắt buổi tối ngày 6 Tháng Mười 2020 tại Sài Gòn. (Hình: Facebook)

Theo CPJ, năm nay là năm kỷ lục về số ký giả bị nhà cầm quyền các nước bỏ tù so với các năm gần đây. Người ta chỉ sử dụng ngòi bút, phơi bày sự thật hoặc phản bác lại các chính sách hà khắc, ngược lòng dân của các nhà nước độc tài Cộng sản, quân phiệt, cuồng tín tôn giáo.

Ngoài ra, theo CPJ, còn có 24 nhà báo bị sát hại khi hành nghề, trong khi 18 người khác thiệt mạng trong những trường hợp không thể đích xác nói họ là nạn nhân được nhắm đến.

Nhìn chung nhà cầm quyền các nước ngày càng “không dung thứ cho những thông tin báo chí độc lập”. Các nhà nước độc tài ngày càng phớt lờ thủ tục tố tụng hình sự công khai hợp pháp, bất chấp các thông lệ quốc tế để duy trì quyền lực. Trong khi cả thế giới đều quá bận tâm đối phó với đại dịch COVID-19 và những ưu tiên khác như biến đổi khí hậu, các nhà cầm quyền độc tài biết rất rõ rằng những phẫn nộ của quần chúng về đàn áp nhân quyền cũng chẳng làm gì được họ trong khi các nước dân chủ cũng chẳng mặn mòi gì để trừng phạt về kinh tế hay chính trị.” Theo CPJ.

CPJ nêu ra một số những vụ bắt giữ các nhà báo độc lập ở Trung Quốc, Myanmar, Saudi Arabia, Belarus, Ai Cập v.v..

Mới ngày mùng 1 Tháng Mười Hai, Công an CSVN thị xã Buôn Hồ tỉnh Đăk Lăk đã xông vào nhà bà Huỳnh Thực Vy, 36 tuổi, bắt bà đi thi hành bản án 2 năm 9 tháng tù có từ hai năm rưỡi trước vì bị cáo buộc xịt sơn lên lá cờ CSVN. Theo luật hình sự CSVN, bà Vy phải được tạm hoãn thi hành án cho tới khi con nhỏ của bà đủ 3 tuổi.

Vào ngày 14 Tháng Mười Hai tới đây, nhà báo, blogger nổi tiếng Phạm Đoan Trang, 43 tuổi, sẽ bị lôi ra tòa để chính thức nhận án tù với cáo buộc “Tuyên truyền chống nhà nước…” Bà bị Công an bắt dẫn đi vào đêm mùng 6 Tháng Mười 2020 ở Sài Gòn sau mấy năm liên tục chạy trốn sự lùng sục của Công an. Bà là tác giả của một số quyển sách biên khảo chính trị như “Chính trị bình dân”, “Cẩm nang nuôi tù”, “Phản kháng phi bạo lực” và sau cùng là bản báo cáo vụ nhà cầm quyền CSVN đưa lực lượng võ trang đàn áp đẫm máu dân xã Đồng Tâm huyện Mỹ Đức Hà Nội sáng sớm mùng 9 Tháng Giêng 2020.

Ngay cả những người từng làm trong các cơ quan truyền thông CSVN sau tỉnh ngộ, dứng ra ngoài viết báo độc lập, cũng không thoát khỏi tù tội. Nhóm gọi là “Báo sạch” do Trương Châu Hữu Danh cầm đầu, công bố những cuộc điều tra sâu rộng về vụ án oan Hồ Duy Hải, các trạm thu phí “bẩn” dọc theo các trục lộ giao thông tại Việt Nam, hậu quả của tham nhũng quyền lực. Một số nhà báo của chế độ ở Quảng Trị bị vu cho tội “nói xấu lãnh đạo” trên mạng xã hội.

Bảng liệt kê các nước có số nhà báo bị nhà cầm quyền bỏ tù nhiều nhất trong năm 2021. (Hình: CPJ)

Những ngày đầu năm nay, ba nhà báo độc lập của tờ báo mạng “Việt Nam thời báo” (Diễn đàn của Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam) gồm các ông Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn đã bị áp đặt các bản án nặng nề từ 11 đến 15 năm tù vì bị vu cho tội “Tuyên truyền chống nhà nước”.

Các tổ chức bảo vệ nhân quyền đền lên tiếng phản đối chế độ Hà Nội đi ngược lại các cam kết quốc tế về quyền dân sự và chính trị mà họ đã ký kết nhưng không hề có tác dụng. Trước khi bà Phó tổng thống Mỹ Kamala Harris đến thăm Việt Nam, Tháng Tám vừa qua, Viện báo chí quốc tế (IPI) tại đại học Columbia (Hoa Kỳ) đã gửi thư thúc giục bà nêu vấn đề tự do báo chí tại Việt Nam. Không hề thấy tác dụng.(TN)

5 cuốn sách cấm nên đọc một lần trong đời

5 cuốn sách cấm nên đọc một lần trong đời

Đọc sách cấm trong đêm tuyết rơi là một niềm vui của đời người.

 07/12/2021

By  TUYẾT TRÒN

Ảnh nền: The Joplin Globe. Bìa sách: NXB Giấy Vụn, Apple Books, Tiki, NXB Tri Thức, isach.info.

Sống ở một quốc gia mà chính quyền luôn lo ngại xã hội “đi chệch hướng” như Việt Nam, bạn có lẽ không lạ gì chuyện cấm sách. Dưới chế độ hiện tại, có những cuốn sách sẽ không bao giờ có cơ hội được phát hành công khai, có những cuốn được phép in ra rồi bị thu hồi, nhiều cuốn sách khác thậm chí có thể khiến bạn bị tra tấn chỉ vì bạn dám đi giao chúng. [1] Lý do sách bị cấm có thể được diễn giải bằng nhiều cách, nhưng tóm gọn lại là chúng trái ý của một nhóm người có quyền quyết định toàn thể nhân dân nên và không nên đọc gì.

Cấm sách là một dạng kiểm duyệt, và kiểm duyệt thì cũng có vài ba mặt. [2] Dù kiểm duyệt là kẻ thù của tự do học thuật và sự sáng tạo, nhiều người sẽ cho rằng nó giúp loại bỏ những tài liệu độc hại từ trong trứng nước, từ đó mang lại sự an toàn và ổn định. Bạn có thể có quan điểm của mình. Còn tôi, thân là một người mãi đến lúc cao niên mới nhận ra đời mình bị định hướng bao năm qua, tôi thấy cái hại của kiểm duyệt vượt xa, rất xa cái lợi.

Kiểm duyệt thậm chí còn chẳng có lợi với chính người kiểm duyệt, vì một hiệu ứng tâm lý hiểu nôm na là “càng cấm càng cố” (reactance theory). [3] Một cuốn sách nếu được tiếng là sách cấm, người ta sẽ lại càng săn lùng nó hơn. Năm 1928, nhà báo Phan Khôi đã luận rất hay về chuyện này trong một bài viết trên Đông Pháp Thời báo. [4]

“Một cuốn sách, bất kỳ nội dung nó ra làm sao, cứ để yên không cấm thì người ta coi như thường. Dầu có lắm người khích thích vì nó chăng nữa, song cũng còn có lắm người coi như thường. Đến cấm đi một cái, thì hết thảy ai nấy đều chú ý vào nó. Cấm đi, là muốn cho người ta đừng đọc, mà không ngờ lại làm cho người ta càng đọc!

[…]

Thiên hạ họ mua sách cấm mắc tiền lắm, thường giá mắc gấp đôi lúc chưa cấm, lâu ngày, rồi đến gấp mười gấp trăm. Tức như dân An Nam là dân không ham đọc sách, hay tiếc tiền, mà đến sách cấm thì cũng trằn trọc trằn xa mua cho được. Mua rồi đọc chùng đọc vụng, ai biết đâu mà bắt.”

Giờ là gần trăm năm sau, ta vẫn thấy chuyện không khác mấy. Chính quyền có thể tinh vi hơn trong việc cấm cản, nhưng bàn dân thiên hạ thể nào cũng sẽ có cách. Phan Khôi cũng nhắc đến một câu nói phổ biến ở Trung Quốc: “Các cái vui ở thế gian không cái nào bằng trong đêm có tuyết, đóng cửa lại mà đọc sách cấm”.

Việt Nam có lẽ sẽ còn có chuyện cấm sách dài dài; dân Việt Nam, cùng với đó, cũng nên phát triển cái thú vui này, hẳn sẽ góp phần nâng cao dân trí lắm.

Tuy vậy, sách cấm không nhất thiết là sách hay. Ở đây xin liệt kê vài tựa sách tôi thấy xứng đáng để đóng cửa lại mà đọc trong một đêm gió lạnh, gặm nhấm cái thú mà cổ nhân đã nói.

1. Trại súc vật (Animal Farm) – George Orwell

Vào năm 2013, cuốn sách kinh điển này từng được xuất bản bằng tiếng Việt dưới tên gọi “Chuyện ở nông trại”. Giai thoại kể rằng cơ quan kiểm duyệt nghe tựa tưởng nó là truyện cổ tích nên cho in. Công chúng nức lòng được ít lâu thì cuốn sách bị thu hồi, đơn vị xuất bản bị xử phạt. [5] Kết luận phán rằng tác phẩm “chứa rất nhiều luận điểm sai trái về chủ nghĩa xã hội.” [6]

Hai lần xuất bản của “Animal Farm” bằng tiếng Việt. Ảnh: NXB Giấy Vụn, Nhã Nam.

“Animal Farm” ra mắt năm 1945, và đến nay đã được dịch ra khoảng 70 thứ tiếng. [7] Vào thời Chiến tranh Lạnh, CIA (Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ) được cho là đã gửi hàng triệu quả bóng bay trong đó có cuốn sách này để rải sang lãnh thổ Ba Lan, Hungary và Tiệp Khắc, những thành trì của phe xã hội chủ nghĩa. [8] Đến nay, cuốn sách vẫn được vinh danh là tác phẩm châm biếm vừa bất hủ lại vừa có tính thời đại (timely and timeless) chống lại chế độ độc tài toàn trị.

Bản dịch tiếng Việt của Phạm Minh Ngọc | Bản gốc tiếng Anh

2. Bên thắng cuộc – Huy Đức

“Bên thắng cuộc”, ra mắt cuối năm 2012, là một cuốn sách vô tiền khoáng hậu. Từ những tư liệu thu thập được trong hơn hai mươi năm, nhà báo Huy Đức khắc họa một bức tranh sau ngày 30/4/1975 khác hẳn với những tài liệu chính thống. Những cuộc nói chuyện gần như độc quyền của ông với các lãnh đạo chính quyền thời ấy lần đầu tiên hé lộ hậu trường của các quyết sách gây thảm kịch như cải tạo, đánh tư sản, đổi tiền, hay nạn kiều v.v.

Cuốn sách này không hẳn là bị cấm, vì sau khi một vài nhà xuất bản trong nước từ chối bản thảo, tác giả quyết định tự in và phát hành trên Amazon. Đó được xem là lần đầu tiên một tác giả Việt Nam chọn cách làm này để tránh kiểm duyệt trong nước.

“Bên thắng cuộc” được giáo sư Trần Hữu Dũng (chủ trang viet-studies.net) đánh giá là “quyển sách hay nhất viết về lịch sử Việt Nam sau 1975” mà ông được biết. [9] Cuốn này đặc biệt phù hợp cho người đọc ở độ tuổi cuối cấp ba – đầu đại học, khi quá trình định hình bản thân bắt đầu và quá trình nhồi sọ lịch sử trong hệ thống giáo dục tăng tốc. Những tư liệu dày dặn, chi tiết trong sách sẽ giúp người đọc có thêm thông tin để đối chiếu với những gì được dạy, từ đó cơi nới không gian tư duy của chính mình.

Vì nói như tác giả trong lời nói đầu: “Không ai có thể đi đến tương lai một cách vững chắc nếu không hiểu trung thực về quá khứ.”

Link mua sách trên Amazon

3. Một cơn gió bụi – Trần Trọng Kim

Đầu năm 2017, cuốn hồi ký của học giả Trần Trọng Kim (1882 – 1953) được xuất bản tại Việt Nam. Nửa năm sau, nó bị thu hồi vì nội dung “không phù hợp, không khách quan, hoặc chưa được kiểm chứng”. [10] Đây là một tình huống kinh điển thường xảy ra với các cuốn hồi ký của những nhân vật lịch sử không “chính thống”. Nó phải đợi đến vài thập niên sau mới được ra mắt khi chịu cắt bỏ những phần “nhạy cảm”, nhưng sau cùng vẫn bị thu hồi khi có ai đó không hài lòng.

Bản in cuốn “Một cơn gió bụi” (Kiến Văn Lục) trước năm 1975. Nguồn ảnh: BBC.

Trần Trọng Kim là một học giả, sử gia, nhà giáo dục lừng lẫy đầu thế kỷ XX. Ông cũng là một chính trị gia, từng giữ chức tổng trưởng (thủ tướng) của Đế quốc Việt Nam, một nhà nước chỉ tồn tại trong 5 tháng trước Cách mạng Tháng Tám 1945. “Một cơn gió bụi” được viết năm 1949, kể lại quãng thời gian ông hoạt động chính trị. Nội dung một số chương sách kể về hoạt động của Hồ Chí Minh và Việt Minh, trong đó có nhắc đến một nữ đảng viên được cho là có con gái với ông Hồ.

Chi tiết này có trong bản in năm 1969 ở Sài Gòn, nhưng hiển nhiên không được phép xuất hiện trong phiên bản bị thu hồi năm 2017.

Đọc online

4. Đường về nô lệ (The Road to Serfdom) – F. A. Hayek

Bản tiếng Việt của cuốn sách này gắn liền với tên tuổi của Tủ sách Tinh hoa thuộc Nhà xuất bản Tri Thức. Sách được in năm 2009 và bị cấm tái bản luôn từ đó . Năm 2018, khi giáo sư Chu Hảo, giám đốc Nhà xuất bản Tri Thức bị kỷ luật Đảng, “Đường về nô lệ” là một trong những bằng chứng được dùng để chứng minh những “sai phạm nghiêm trọng” của ông. [11]

Chung quy là vì trong cuốn sách này, kinh tế gia đại diện cho chủ nghĩa tân tự do Hayek đã cho rằng chủ nghĩa xã hội, cụ thể là hình thái kinh tế kế hoạch hóa tập trung, tất yếu sẽ dẫn đến chế độ nô lệ. [12] Quả nhiên là các cán bộ kiểm duyệt chỉ quan tâm đến đó, chứ không thể nhìn cuốn sách như đại diện của một trường phái kinh tế học trong lịch sử. Kể cả khi Việt Nam đã từ bỏ kinh tế kế hoạch hóa, những quan điểm này vẫn bị cho là xuyên tạc chủ nghĩa xã hội. Mà Hayek nào phải là một kẻ vô danh tiểu tốt. Ông được trao giải Nobel Kinh tế năm 1974.

Phải đọc sách thì mới thấy, tư duy ủng hộ thị trường tuyệt đối của Hayek thật ra là rất gần với cách mà xã hội Việt Nam vận hành bây giờ.

Đọc bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Quang A | Đọc bản dịch tóm tắt của Phạm Nguyên Trường

5. Chuyện kể năm 2000 – Bùi Ngọc Tấn

Đây có lẽ là cuốn tiểu thuyết có số phận lận đận nhất trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Chỉ một tháng sau khi ấn hành, cuốn sách không những bị thu hồi, mà còn bị tiêu hủy. [13] Nghiền nát. Đưa vào bể axit.

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn. Ảnh: Nguyễn Đình Toán.

“Chuyện kể năm 2000” mô tả cuộc sống trong nhà tù qua con mắt của Tuấn, một trí thức phải chịu án tù oan. Nhiều người cho rằng đó là câu chuyện của chính tác giả. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn phải ngồi tù gần 5 năm, từ tháng 11/1968 đến tháng 3/1973, với tội danh “Tuyên truyền phản cách mạng” trong vụ án Xét lại chống đảng năm 1967. [14]

Theo các nhà phê bình, điều khiến cho cuốn sách này mang tầm vóc lớn là nhân vật trong truyện kể lại những nghịch cảnh bằng một giọng văn không mang thù hận. Anh cứ kể chuyện như vậy, kể lại những gì đã diễn ra như một người miệt mài ghi chép cuộc đời của chính mình, tin rằng đó là lịch sử.

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua đời năm 2014. [15] Cuốn sách của ông không có chỗ trên chính quê hương mình, nhưng đã đến được với độc giả ở nước ngoài qua các bản in phụ, và được dịch sang tiếng Anh và tiếng Pháp.

“Chuyện kể năm 2000”, giống như những bản thảo “không thể cháy” khác, dù đã bị nghiền nát, vẫn tìm được đường đến với công chúng của nó. [16]

Độc giả thời nay còn có thể đọc online tác phẩm tại đây. [17]

Còn Lại Chút Gì Để Thương Nhớ

 Kha Ngo Van

Còn Lại Chút Gì Để Thương Nhớ

Cái chết thời Covid nó thế, vẫn diễn ra hàng ngày, rất lạnh lùng, tàn nhẫn, chẳng kiêng dè điều gì, chẳng từ một ai. Nó vồ lấy từng người, nhai ngấu nghiến cho thỏa cơn đói, cái đói của Tử thần từ thuở hồng hoang, khi con người phản nghịch lại Thiên Chúa. Nó thèm khát từ thân xác tới linh hồn con người, từng ngày cứ gặm nhấm hoặc bất chợt nuốt trọn…

Một kiếp người trong cõi nhân sinh, với những vui buồn, nụ cười và nước mắt, những ước mơ, tính toán, những vun đắp và cống hiến, những thành công và thất bại, những hiểu lầm… Tất cả là quá khứ, là chấm hết với cõi đời này, với những người đang còn sống trên cõi hồng trần này. Có còn lại gì cho trần gian này, thì họa may còn lưu lại chút ký ức bồng bềnh bám víu vào những kỷ niệm rời rạc, bất định, chợt có, chợt tan, trong dĩ vãng của những người thân thiết nào đó.

Giờ này, khi kiếp người đã khép, và cùng với nó, ngưng lại vĩnh viễn những gì thuộc về thế giới này, chẳng còn quá khứ, chẳng có tương lai, nhưng thật ra, lại là “chạm bước chân” vào trong cái Hiện Tại vô biên, để lần theo hương thơm của Tình yêu dào dạt của Chúa, và cứ thế tiến vào, ngày càng sâu hơn, vào trong hạnh phúc vĩnh hằng của Thiên Chúa.

Phải rồi, cuối cùng, ai cũng thế, chẳng còn phân biệt nào, cho dù nhỏ, tất cả bình đẳng trước cái chết và sự khác biệt, chính là khi ra trước Nhan Thánh Chúa, chịu sự phán xét của Chúa, một sự phán xét trong tình yêu về những gì người đó đã sống, đã làm trong lòng mến, để sáng danh Chúa, trong ý thức là người môn đệ Chúa.

Còn lại chút gì lưu vết trên dương gian này, cũng chỉ thế thôi.

Nhưng đó là tất cả những chọn lựa, vất vả đấu tranh với chính mình với những yếu hèn của bản thân, trong một cuộc chiến không cân sức, trước sức mạnh của kẻ thù, những cơn cám dỗ và trước những thử thách phải đương đầu hằng ngày trong lo âu, phiền muộn, trong nước mắt, những sự hối hận. Và cả những trải nghiệm thiêng liêng của đức tin về sự trợ giúp mạnh mẽ từ tình thương và ân sủng Chúa, vào sự chữa lành diệu kỳ và sự bổ sức của Chúa. Nên giờ đây, mới có thể dám nói, Tất Cả Là Hồng Ân.

Phải rồi, nếu còn gì để lại cho đời, cho những người thân yêu còn sống trên trần gian đầy hỉ nộ ái ố này, vẫn còn đang loay hoay, xoay sở với mọi vấn đề bủa vây, là lời tạm biệt “trong xương cốt”, là cám ơn đời, là lời cám ơn người, khi kết thúc hành trình một đời người, với mọi sự buông bỏ, cho đến “sự hủy mình ra không”, để thanh thoát đi về với Đấng “muôn ngàn đời vẫn trọn tình thương” đang ngóng chờ.

Và quả thật, mọi sự sẽ Ra Không Tất Cả, nếu không có đức tin vào Chúa và vững tin vào Lời Chúa, nếu không có tình yêu Chúa, và sự ứng đáp tình yêu lớn ấy, trong tiếng nhặt khoan của từng giai đoạn của đời sống, trong tiếng nấc nghẹn của một người với kinh nghiệm – hiện sinh, thế nào là Ơn Cứu Chuộc, thế nào Lòng Thương Xót cao cả vô bờ bến của Chúa!

Một xác thân đã trở về tro bụi ở dưới thế này, với một linh hồn đang trên hành trình về bên Chúa, trong sự lực hấp dẫn ấm áp của Tình Yêu Ba Ngôi, trong sự dìu dắt của Thánh Cả Giuse, trong tình yêu ấp ủ của Đức Nữ Trinh Maria Vô Nhiễm mà cả Giáo Hội đang hân hoan mừng lễ hôm nay.

Nhưng vẫn còn một cái hẹn, như một lời trăn trối chân thành để lại, hẹn gặp nhau trong nước Chúa. Một cái hẹn dựa trên sự chắc thực của Lời Chúa hứa; một cái hẹn dựa vào ơn Chúa, dựa vào lòng lân tuất hay thương xót của Chúa.

Cậy vào lòng từ mẫu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hằng Cứu Giúp, cha Thánh Anphongsô, các thánh, các Chân phuc và các vị Tử Đạo trong Dòng, xin cho linh hồn cha Giuse Lương Văn Long mau được hưởng Nhan thánh Chúa.

Amen

(Ảnh fb cha Paul Lộc)

Anna Nguyễn từ CH Czech và hành trình tìm bản thân trong môi trường đa văn hóa

Anna Nguyễn từ CH Czech và hành trình tìm bản thân trong môi trường đa văn hóa (BBC)

4 tháng 12 2021

Cuốn ‘Outsider’ (Người ngoài cuộc) của Anna Nguyễn kể về trải nghiệm lớn lên trong gia đình gốc Việt ở Czech, và quyết định sang Mỹ để theo đuổi thành công của cô

Anna Nguyễn, cô gái trẻ người Czech gốc Việt, là một công dân toàn cầu đúng nghĩa.

Sinh ra ở Praha, Czech trong một gia đình Việt Nam, học trường trung học Anh ở Việt Nam một năm, học đại học ở Nam California và có từng sống và làm việc ở TP HCM, Thụy Sỹ, London và Los Angeles.

Khi 10 tuổi, Anna là nữ diễn viên nhí gốc Á đầu tiên xuất hiện trên truyền hình Czech, với một vai diễn trong bộ phim truyền hình nhiều tập Josef a Ly.

Từng giữ vị trí Giám đốc Điều hành cho một số hãng startup công nghệ ở Los Angeles và London, Anna Nguyễn vừa cho ra đời một cuốn tự truyện mang tên “Outsider” (Người ngoài cuộc). Cuốn sách viết về trải nghiệm sinh ra và lớn lên như một người Czech gốc Việt của cô.

Trong loạt bài về phụ nữ gốc Việt sinh sống ngoài Việt Nam, BBC News Tiếng Việt có cuộc trao đổi với cô bằng tiếng Anh vào cuối năm 2021.

Để thành đạt ở Phương Tây cần điều gì?

Phụ nữ VN: Tự lực vượt qua ma tuý

BBC: Lớn lên trong môi trường đa văn hóa, bạn coi trọng điều gì nhất về văn hóa gốc Việt của mình?

Anna Nguyễn: Đạo đức làm việc và thói quen không coi mọi chuyện nghiễm nhiên mà có là điều mà tôi học tập được ở gia đình tôi, những người di dân, và tôi rất biết ơn họ về điều này. Tôi cũng học được rằng mình phải ân cần với mọi người và quan tâm đến người thân. Tôi tin rằng văn hóa châu Á coi trọng điều này hơn văn hóa phương Tây và tôi rất may mắn là đã lớn lên trong văn hóa đó.

Anna Nguyễn là người sáng lập Saigon Comic Con ở Việt Nam hồi 2014

BBC: Sinh ra và lớn lên ở Cộng hòa Czech, bạn có gặp khó khăn, thách thức gì không?

Anna Nguyễn: Tôi rất tự hào về nơi mình sinh ra và tôi coi mình là người Czech. Tất nhiên nếu bạn lớn lên ở một nơi mà 99% người dân là gốc Âu, bạn sẽ khác biệt và sẽ bị hỏi những câu hỏi về các chuẩn mực văn hóa và gia đình bạn sống ra sao. Chằng hạn, chúng tôi có ăn bằng đũa không và có ăn nhiều cơm không. Tôi viết nhiều về chuyện đó trong cuốn tự truyện của mình. Tôi không thể nói là mình có trải nghiệm nào tồi tệ ở trường hay ngoài xã hội.

Tôi nghĩ vấn đề tôi gặp là xung đột giữa những gì mọi người trông đợi ở tôi ngoài xã hội và những gì bố mẹ trông đợi vào tôi ở nhà, vì cha mẹ tôi có những giá trị khác với bạn bè và thầy cô giáo tôi.

Vì thế tôi thường hỏi tại sao tôi lại phải theo những quy tắc khác với bạn bè? Tại sao tôi không được đi chơi khuya như các bạn?

Anna Nguyễn khi bốn tuổi. Bé Anna thường ở nhà tự chơi một mình khi bố mẹ đi làm.

BBC: Vì sao bạn quyết định viết cuốn “Outsider”?

Anna Nguyễn:Tôi được truyền cảm hứng từ những câu chuyện của người nhập cư ở Mỹ. Ở Mỹ, chuyện bạn là người nhập cư hay con cháu của người nhậu cư là rất phổ biến, và các nền văn hóa nhập cư cũng vậy. Nhưng ở Cộng hòa Czech, không có lịch sử với nhiều thế hệ di dân nên tôi không thể nói ra những gì tôi cảm thấy hay tìm được nhiều người đồng cảm với việc ‘khác biệt’ cho tới khi tôi chuyển tới Mỹ học đại học.

Khi đó tôi nhận ra câu chuyện của tôi là rất giống với nhiều người ở Mỹ. Vậy là tôi có cảm hứng viết cuốn sách mang tên “Outsider” (Người ngoài cuộc), một cuốn tự truyện nói về trải nghiệm cá nhân và nghề nghiệp của tôi, và về danh tính của tôi đã thay đổi ra sao trong các môi trường khác nhau cũng như hành trình tìm bản thân của tôi. Tên của cuốn sách tóm tắt trải nghiệm của tôi – cảm thấy như người ngoài bất kể tôi sống ở đâu.

BBC: Bạn về thăm Việt Nam lần cuối là bao giờ? Bạn nghĩ gì về đất nước và con người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ?

Anna Nguyễn: Tôi về thăm Việt Nam lần cuối là 2016 trước khi có dịch Covid. Tôi thấy điều hứng thú nhất ở Việt Nam là số người trẻ ngày càng lớn – điều mà các nước phương Tây không có. Tầng lớp trung lưu ngày một lớn và dân số rất trẻ thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn, có nhiều cải tiến trong công nghệ và nói chung đẩy nền văn hóa về phía trước. Tôi rất tin vào việc bỏ đi những truyền thống không còn có ý nghĩa và không có mục đích đúng đắn (đặc biệt là những truyền thống làm hạn chế quyền của phụ nữ).

Anna Nguyễn với vai diễn đầu tay trong bộ phim truyền hình nhiều tập Josef a Ly

Tôi tin rằng thế hệ trẻ có đầy đủ công cụ và sức mạnh để đưa xã hội tiến lên. Về phương diện công nghệ, tôi rất thích thú là có nhiều hoạt động gaming và blockchain đến từ Việt Nam. Là một người làm trong lĩnh vực tech, tôi rất có ấn tượng bởi các dự án như Axie Infinity. Trong cuốn ‘Outsider’, tôi dành hẳn một chương để viết về trải nghiệm là một Việt Kiều điều hành một công ty ở Việt Nam, và thời gian tôi sống ở Việt Nam lần đầu tiên khi tôi 15 tuổi – tôi học một trường của Anh ở đó trong một năm.

BBC: Bạn có thông điệp gì cho thế hệ người Việt thứ hai – những người gốc Việt sinh ở nước ngoài, mang hai dòng máu hay chuyển sang sống ở nước ngoài từ khi còn rất nhỏ?

Anna Nguyễn:Tôi nghĩ điều quan trọng nhất chúng ta nên làm là tự tìm hiểu về bản thân. Hãy phát hiện ra bạn là ai, bạn thích điều gì, hãy sẵn sàng bỏ đi những chuẩn mực văn hóa hay thói quen văn hóa không phù hợp với bạn vì bạn lớn lên ở một xã hội không giống như cha mẹ bạn. Hãy tôn trọng tất cả các nền văn hóa nhưng hãy linh hoạt. Tôi không tin vào chuyện yêu nước thái quá và theo các tiêu chuẩn cứng nhắc, nhất là trong một thế giới toàn cầu.

Chúng ta có thể làm theo một số chuẩn mực văn hóa và thói quen được truyền từ các thế hệ trước nhưng chúng ta cũng có khả năng sáng tạo và làm thay đổi nền văn hóa hiện tại. Vậy nên chúng ta nên tạo ra văn hóa mà kể cả những người như tôi – người lớn lên trong môi trường đa văn hóa và không cảm thấy mình thuộc về nhóm nào – cũng cảm thấy mình thuộc về nó.

Anna Nguyễn tại trường quay phim truyền hình Czech ‘Sever’. Cô đóng vai một thám tử Việt Nam điều tra cái chết của một người đàn ông Việt. Trong hình, Anna khám phá camera trong giờ nghỉ trưa

BBC: Bạn muốn làm gì để giúp thế giới này tốt đẹp hơn? Làm một nhà văn chẳng hạn?

Anna Nguyễn: Tôi muốn là chính mình – đạt được tiềm năng của mình như một doanh nhân, theo đuổi những gì làm cho tôi hạnh phúc và không theo các quy tắc chỉ vì mọi người bảo tôi phải làm thế (nhưng tất nhiên tôi vẫn là người tốt và tôn trọng người khác). Tôi cho rằng quá nhiều người sợ không dám sống theo ý mình vì họ sợ xã hội sẽ nghĩ gì về họ. Tôi tin rằng cách tốt nhất tôi có thể tác động đến thế giới là sống cuộc đời của mình mà không phải lo về chuyện làm theo ý người khác, và cho mọi người thấy rằng hoàn toàn có thể, và OK khi bạn khác biệt và ưu tiên bản thân và hạnh phúc của bản thân.

Cuốn ‘Outsider‘ của Anna Nguyễn được xuất bản bằng tiếng Czech cách đây hai tháng, cả sách giấy và e-book. Cô hy vọng cuốn sách sẽ được độc giả Czech đón nhận và một ngày có thể được chuyển ngữ sang các tiếng khác.

Là một doanh nhân ‘từ trong máu’, Anna cũng đang theo đuổi một ý tưởng startup mới mà cô nói cô chưa thể chia sẻ ngay lúc này.

TẠI SAO ĐẾN GIỜ VẪN CÒN NGƯỜI VIỆT VƯỢT BIỂN TỴ NẠN?

Van Pham

TẠI SAO ĐẾN GIỜ VẪN CÒN NGƯỜI VIỆT VƯỢT BIỂN TỴ NẠN?

Có người hỏi tại sao đến hôm nay vẫn còn người Việt vượt Biển để xin tỵ nạn?

Điều này dễ hiểu, bởi nhà nước XHCNVN luôn nhìn người dân Việt, đặc biệt dân miền Nam VN với con mắt thù ghét nếu không nói là “hận thù”.

Họ luôn xem dân Việt như là “Giặc” là “Phản Động”. Như vừa qua chống dịch Covid-19 họ phát động khẩu hiệu “Chống Dịch Như Chống Giặc” và đưa hàng ngàn, chục ngàn Bộ Đội từ miền Bắc với xe tăng, thiết giáp vào Nam, vào Saigon để lùa “Giặc F0, F1, F2” tập trung vào một nơi để dễ truyền nhiễm và mau chết…. Vì họ có chữa trị gì đâu với mấy viên thuốc, có lẽ là Xuyên tâm Liên?

Trong số gần 30K sinh mạng bị chết trong đợt dịch vừa qua hết 4/5 số người là bị chết oan bởi chế độ xem họ là giặc…

Trong khi đó, 3 gia đình được chính quyền Indonesia và Cao Ủy Tỵ Nạn tại Indonesia cho cư ngụ với chổ ăn ở, suốt gần 4 năm. Các cháu nhỏ được đi học, người lớn học Anh văn và mọi người cũng được chích ngừa Covid-19 vaccine. Họ cũng thông cảm cho hoàn cảnh phải bỏ đất nước ra đi mà dễ dãi cho anh Trần Văn Yên bị bắt vì đánh cá bất hợp pháp trong hải phận Indonesia… nhưng không bị tù tội mà còn được cho đoàn tụ với vợ là gia đình chi Trần Thị Phúc. Là gia đình đã đến định cư tại Canada hôm 02-12-2021 vừa qua (xin xem bài tường thuật và hình ảnh…)

Như thế chúng ta so sánh hai nhà nước Việt Nam & Indonesia, xem ai đối xử với người Việt với tình thương đồng loại, ai đối xử với dân như giặc, như phản động?

Thêm một điều, tại sao hầu hết là phụ nữ và trẻ em đến tại Indonesia lại dễ dàng được Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ chấp thuận cấp cho “quy chế tỵ nạn”? Vì thường họ là thành phần ít bị chế độ đàn áp.

– Thưa là, chính cái chế độ XHCNVN đã lươn lẹp, thất hứa với chính phủ Úc là sẽ không trừng phạt những người bị nước Úc trả về. Nhưng sau khi nhận tiền xong là chế độ đưa họ ra Tòa quy chụp tội và bắt bỏ tù họ. Chính vì thế rõ ràng là họ bị chế độ đàn áp không thể chối cãi, nên Cao ủy LHQ đã nhanh chóng cấp quy chế tỵ nạn cho họ….

Chính vì thế “cây cột điện biết đi thì nó cũng tìm cách để ra đi….

HÌNH:

– Gia đình chị Trần Thị Phúc được tiếp đón khi đến Toronto, Canada. Anh Trần Văn Yên (được Phóng viên Vũ Nhuận phỏng vấn) là thuyền viên đánh cá bị Indonesia bắt khi đánh cá bất hợp pháp trong hải phận. Nhưng được chính quyền Indonesia không những tha bổng mà còn cho phép đoàn tụ với vợ con đang sống trong trại tỵ nạn tại thủ đô Jakarta…

– Lực lượng quân đội và công an duy trì giãn cách xã hội ở quận Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh.

https://www.qdnd.vn/…/bai-2-gian-cach-xa-hoi-chong-dich…

XIN CHÚC MỪNG GIA ĐÌNH CHỊ TRẦN THỊ PHÚC GỒM 5 NGƯỜI ĐÃ ĐẾN ĐỊNH CƯ TẠI CANADA

Tại sao gần nửa thế kỷ rồi mà người Việt vẫn còn phải trốn chạy khỏi thiên đường XHCN ưu việt? Tại sao và tại sao?

Van Pham is with Nancy Bui 

 XIN CHÚC MỪNG GIA ĐÌNH CHỊ TRẦN THỊ PHÚC GỒM 5 NGƯỜI ĐÃ ĐẾN ĐỊNH CƯ TẠI CANADA

Đây là chuyến Tàu xuất phát từ Bình Thuận, Việt Nam gồm có 3 gia đình hầu hết là phụ nữ và trẻ con. Vì họ đi lần thứ nhất đến Úc, nhưng bị nước Úc trục xuất về lại VN. Nhưng sau đó họ đã bị nhà nước VN bắt giữ và đưa họ ra Tòa kết án tù mấy năm… (Đặc biệt, chế độ đã thất hứa với nước Úc là không truy tố và bắt tù tội một ai. Chính vì thế khi 3 gia đình này đến Indonesia họ dễ dàng được Cao ủy LHQ chấp nhận quy chế Tỵ Nạn….)

May là họ đang nuôi con nhỏ nên được hoãn, chỉ có người chồng và những người thành niên không vướng bận bị đi tù trước. Vì thế họ lại tìm đường ra đi lần thứ 2.

Khi ngang qua địa phận Indonesia thì thuyền họ bị mắc cạn và được chính quyền Indonesia cứu đưa vào bờ và sau đó được bà Shira Sebban và cô Grace Bùi giúp cho họ được gặp Cao ủy LHQ phỏng vần và được cấp quy chế Tỵ Nạn.

Sau đó tôi cùng với Bs Bùi Trọng Cường (Chủ tịch BCH/Cộng đồng NVTD Queensland và một số ace thiện nguyện đứng ra tổ chức Ủy Ban Bảo Trợ Người Việt Tỵ Nạn Queensland (UB BTNVTN QLD). Sau đó đã tổ chức quyên góp được một số tiền vài chục ngàn đô, những mong bảo lãnh cả 3 gia đình sang Úc định cư.

Tuy nhiên thời điểm 4 năm về trước cho đến hiện nay, chính phủ Úc tuyệt đối không nhận bất cứ ai đi tỵ nạn bằng thuyền được định cư tại Úc. Vì thế sau khi bàn thảo và hội ý với bà Shira, chúng tôi quyết định nhờ Voice Canada đứng ra bảo lãnh cho 3 gia đình này.

Cũng theo đề nghị của bà Shira là với những chi phí mà Bộ Di Trú Canada đưa ra thì số tiền quyên góp được chỉ đủ để bảo lãnh cho 1 gia đình ít người nhất. Do đó gia đình chị Phúc đã được chọn…. và hôm nay đã đến định cư tại thành phố Toronto và đã được anh chị em Voice Canada và Cộng đồng Người Việt tại Canada tiếp đón từ phi trường và đưa về nơi ở đã được sắp xếp trước (xin xem hình).

Còn 2 gia đình kia theo tôi cũng đã được Voice Canada bảo lãnh và công việc tiến hành thế nào, chúng tôi sẽ hội ngộ qua Telephone Conference để cùng bàn tính… hy vọng hai gia đình còn lại cũng sẽ mau chóng lên đường. Vì họ cũng đã được phái đoàn Canada phỏng vấn và khám sức khỏe.

Chúc mừng gia đình chị Phúc và cám ơn Voice Canada.

Điều này cũng minh chứng cho những lập luận đánh phá Voice Canada đều là những luận điệu xuyên tạc và phá hoại.

Chính quyền Canada vẫn tin tưởng Voice Canada trong những việc làm nhân đạo này.

Cũng nhân việc này, chúng ta cùng nhận định những người chủ trương đánh phá Voice là ai, mà lại muốn phá hoại tổ chức the Voice để họ không còn có thể bảo trợ cho đồng hương đang còn kẹt lại tại Indonesia ( 2 gia đình) và tại Thái lan có vài chục gia đình đã nằm chờ ít ra từ 2 năm trở lên cho đến cả chục năm? Họ nếu không là tay sai VC thì họ là ai, xin bà con cho ý kiến?

Cuối cùng thay mặt Ủ Ban Bảo Trợ Người Việt Tỵ Nạn Queensland, xin trân trong cảm ơn Voice Canada, bà Shirra Sebban, chị Grace Bùi, anh Đoàn Viết Trung, Bs Bùi Trọng Cường và toàn thể các thành viên Ủy Ban Bảo Trợ Người Việt Tỵ Nạn Queensland cùng toàn thể mạnh thường quân tại tiểu bang Queensland, Úc châu đã đóng góp tài chánh trong việc bảo trợ này….

Trân trọng

Van H Pham,

Trưởng Ủy Ban

HÌNH:

– Gia đình chị Trần Thị Phúc được Voice Canada và Cộng đồng Người Việt tại Canada tiếp đón khi mới xuống phi trướng Toronto

– Gia đình chị Phúc được nhân viên của cơ quan IOM Indonesia đón rước từ nơi ở, đưa ra phi trường, lấy boarding pass và hướng dẫn những thủ tục trước khi lên phi cơ để đến Canada…

-Vé máy bay cho gia đình chị Trần Thị Phúc lên đường lúc 9:40 tối 01-12-2021 từ phi trường Quốc tế Indonesia đến phi trường Quốc tế Toronto, Canada. Sở dĩ chúng tôi không thông báo tin mừng ngay, bởi muốn gia đình chi Phúc & anh Yên đến nơi bình an để tránh mọi đánh phá không có lợi cho gia đình chị.

(Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi và tường trình những hình ảnh cuộc sống của gia đình chi Trần Thị Phúc này sau ngày đến sống tại Canada để tường trình cùng bà con…)

Viết tưởng niệm một nhân tài Việt Nam: Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy

Viết tưởng niệm một nhân tài Việt Nam: Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy

22/07/2018

Biên khảo

Trần Nguyên / Người Xứ Bưởi

22 Tháng 07, 2018

Viết tưởng niệm một nhân tài Việt Nam:

Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy

Tiết lộ về tiểu sử & sự kiện liên quan

Cách nay đúng 28 năm, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy qua đời vào ngày 28-7-1990 tại Paris trên bước đường hoạt động. Nhìn lại toàn bộ cuộc đời của ông, thấy quả thực xứng đáng được gọi là một nhân tài Việt Nam. Hai bằng chứng cụ thể cho thấy rõ điều đó:

1) Ngay khi ông còn sống, đã có sinh viên Victor Lu làm luận án Tiến sĩ “Tư Tưởng Việt Nam ở thế kỷ thứ 20” ( 1987 – Đại Học Paris II ) đề cập đến:

” .. tư tưởng của Nguyễn ngọc Huy, liên quan đến chủ nghĩa Quốc Gia, và địa bàn chiến lược của nước Việt Nam trong thế giới hiện đại, là một nguồn cảm hứng , nhất là về tư duy cho các thế hệ mai sau. “

(Nguyên văn pháp ngữ: ” .. la pensée de Nguyễn Ngọc Huy, relative au nationalisme et à la géostratégie du Viêt-Nam dans le monde contemporain, reste une source d’inspiration et surtout de réflexion pour les générations à venir ” / xem Nguồn 1 phía dưới)

2) Đến khi ông qua đời vào ngày 28-7-1990 tại Paris hưởng thọ 66 tuổi, mang lại tiếc thương vô vàng cho mọi người mến mộ. Không những cho riêng người Việt, mà ngay cho cả người ngoại quốc. Có lẻ lần đầu tiên một người Việt Nam qua đời , được chính Tổng Thống Hoa Kỳ đương nhiệm – ông George Bush – chia buồn và lên tiếng ca ngợi là một nhân vật tận tụy phụng sự cho dân tộc Việt với tấm gương sáng ngời cho thế hệ mai sau (xem : Nhà Chí Sĩ Thời Đại : Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy / Câu Lạc Bộ Đằng Phương xuất bản năm 2003 / trang 11).

I/  Hàng năm đều có Lễ Tưởng Niệm Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy

Chính vì vậy, hàng năm cứ đến độ giửa hè vào dịp cuối tháng bảy, ở quốc nội và tại hải ngoại, âm thầm hoặc công khai đều có Lễ Tưởng Niệm Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy. Như vậy tính đến nay đã 28 năm rồi. Một thời gian quá dài để thử thách mức độ thực lòng thương nhớ của quần chúng đến một nhà lãnh đạo đã nằm xuống.

Sự ra đi vĩnh viễn của Giáo Sư Huy vào ngày 28 tháng 7 năm 1990 xảy ra đúng vào lúc thế lực cộng sản đang trên đà gục ngã tại Đông Âu. Bây giờ gần 3 thập niên sau nhìn lại toàn bộ thấy tiếc nuốt đã mất một cơ hội hiếm có trong đời để xoay chuyển dân chủ hóa được cho VN. Rỏ ràng lúc đó không có yếu tố cấp lãnh đạo uy tín và sáng suốt với tầm vóc cở Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy nên không ai đưa ra được kế hoạch hữu hiệu nào cả và để rồi tình thế thuận lợi vuột mất đi.
II/  Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy tiết lộ về tiểu sử & sự kiện liên quan

Trong một cuộc phỏng vấn hiếm hoi vào thời điểm Bức Tường Berlin Sụp Đỗ 1989, lần đầu tiên Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy đã tiết lộ rất nhiều chi tiết vô cùng lý thú có liên quan đến cuộc đời mình và biến chuyển lịch sử VN trong bài phỏng vấn do 2 ký giả Lê Đình Điểu và Hoàng Khởi Phong thực hiện. Sau đây xin tóm gọn những phần chính yếu:

1) Thuở thiếu thời với tác phẩm Hồn Việt

Tôi sanh năm 1924 (2-11-1924) tại Chợ Lớn (Bệnh Viện Chợ Rẩy), nhưng quê quán là tỉnh Biên Hòa.  Thuở nhỏ, tôi học cấp tiểu học ở trường làng tôi là xã Mỹ Lộc và học cấp hai tiểu học ở trường tại quận Tân Uyên, rồi học cấp cao đẳng tiểu học ở trường Pétrus Ký.  Năm 1943, tôi làm thư ký tại Tòa Hành Chánh tỉnh Cần Thơ. Khi trẻ, tôi rất thích thơ và sử. Tôi nhận thấy trong văn học ViệtNam, thơ hùng tráng thật hiếm có nên nuôi mộng làm nhà thơ hùng tráng viết bài ca tụng các danh nhân và các công trình lớn của dân tộc Việt Nam.  Từ 1943 đến 1945, tôi đã viết một số bài thơ loại nầy với bút hiệu Đằng Phương, nhưng chưa đăng báo nào. Tôi đã đánh mất bản thảo các tác phẩm đã viết cuối năm 1945 và chỉ còn nhớ để chép lại các bài ngắn như Dòng Nước Sông Hồng, Chiến Sĩ Triều Trần, Bản Hành Quân Của Trương Phụ, Gởi Nguyễn Du…, còn bài thơ dài ca ngợi triều Tây Sơn và vua Quang Trung thì không sao nhớ hết nổi nên đành chịu thất lạc luôn.

2) Bắt đầu cuộc đời tranh đấu cho Tổ Quốc Việt Nam

Từ đầu năm 1945, tôi đã gia nhập Đại Việt Quốc Dân Đảng (ĐVQDĐ) để tranh đấu cho nền độc lập của dân tộc ViệtNam.  Nhờ đó, khi Việt Minh nắm chính quyền, tôi đã biết đó là một chính quyền cộng sản, đồng thời cũng được cho biết về đường lối của cộng sản.  Vì vậy tôi chỉ ở trong phong trào kháng chiến của Việt Minh trong một thời gian ngắn rồi về thành. Từ năm 1946, tôi về Sài Gòn làm việc trong Thư Viện Quốc Gia và ban đêm ngủ lại trong sở luôn.  Trong thời kỳ nầy, anh em trong Xứ Bộ Nam Việt của ĐVQDĐ giao cho tôi nhiệm vụ viết tài liệu chính trị cho đoàn thể và viết bài cho tờ báo của đoàn thể là tờ Thanh Niên (cơ quan chánh thức của Thanh Niên Bảo Quốc Đoàn. một tổ chức ngoại vi của Xứ Bộ Nam Việt ĐVQDĐ) và tờ Đuốc Việt.  Đây là thời kỳ tôi sáng tác nhiều nhất. Các bài khảo cứu và bình luận chính trị được tôi ký dưới bút hiệu Hùng Nguyên, các bài trào phúng được ký dưới bút hiệu Cuồng Nhân (báo Thanh Niên) và Ba Xạo hay Tư Xạo (báo Đuốc Việt). Vì có lời giao hẹn với anh em trong báo Đuốc Việt là tất cả đều phải dùng một bút hiệu có chữ Việt bên trong nên các bài thơ đăng Đuốc Việt đã được ký dưới bút hiệu Việt Tâm.  Chỉ đến năm 1953, khi họp tập một số bài thơ đã đăng báo trong tập thơ Hồn Việt, tôi mới dùng lại bút hiệu Đằng Phương.

3) Tự học lấy bằng Tú tài và lưu vong sang Pháp lấy bằng Tiến sĩ

Năm 1949, tôi bỏ sở làm để hoạt động toàn thời gian cho đoàn thể.  Trong thời gian nầy, tôi đã làm huấn luyện viên chánh trị cho trường Cán Bộ Thanh Niên Nha Trang lúc anh Nguyễn Tôn Hoàn làm Bộ Trưởng Bộ Thanh Niên và năm 1951, tôi được anh em đưa ra hoạt động với chi nhánh của Thanh Niên Bảo Quốc Đoàn ở Bắc Việt.  Năm 1951, Thanh Niên Bảo Quốc Đoàn bị chánh phủ Nguyễn Văn Tâm giải tán, tôi trở về Sài Gòn và dạy quốc văn ở trường tư thục Lê Bá Cang. Lúc này, vì công tác của đoàn thể có ít nên nhân lúc có thì giờ dư, tôi tự học để lấy bằng Tú Tài Việt Nam.

Năm 1955, tôi được anh em chỉ định đi Pháp để phụ giúp anh Nguyễn Tôn Hoàn, đồng thời để học hỏi thêm.  Tôi đã ghi tên học trường Khoa Học Chính trị Paris, lúc đó được đổi tên là Viện Nghiên Cứu Chính trị Paris, và trường Đại Học Luật Khoa và Khoa Học Kinh Tế Paris.  Tôi đỗ bằng tốt nghiệp Viện Nghiên Cứu Chính Trị Paris năm 1958, Cử Nhân Luật Khoa năm 1959, Cao Học Chính Trị năm 1960, và Tiến Sĩ Chính Trị Học năm 1963. Tôi đỗ bằng nầy và  trở về Sài Gòn tháng 11-1963.

4) Thành lập Đảng Tân Đại Việt và Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến

Trong năm 1964, các anh em trong ba xứ bộ Bắc, Trung và Nam Việt của ĐVQDĐ đã có những bất đồng quan điểm lớn:  anh em trong xứ bộ Nam Việt chủ trương phải theo đường lối dân chủ và thành thật hợp tác với các đoàn thể quốc gia khác thì mới giữ được miền Nam Việt Nam khỏi mất vào tay cộng sản.  Anh em hai xứ bộ Bắc và Trung Việt thì muốn duy trì đường lối cũ của ĐVQDĐ. Nhận thấy rằng đã có sự bất đồng sâu rộng như vậy mà vẫn cứ giữ danh hiệu cũ của đảng thì không thể tránh khỏi sự xung đột với các đồng chí cũ, vì mỗi bên đều cho rằng mình mới phải là đại diện chính thống của đoàn thể.  Tôi đã thuyết phục các anh em trong xứ bộ Nam Việt của ĐVQDĐ thành lập một chánh đảng mới tên là Tân Đại Việt. Đảng nầy đã tham dự các hoạt động chính trị của miền Nam ViệtNam nhưng vẫn giữ tính cách bí mật.

Năm 1969, nhận thấy rằng miền Nam đã có một hiến pháp tương đối dân chủ, mà trong đó chế độ dân chủ, chánh đảng phải hoạt động công khai, anh em Tân Đại Việt đã cùng một số dân sự độc lập và anh em một số đoàn thể khác, đặc biệt là anh em Việt Nam Quốc Dân Đảng, hợp tác nhau thành lập Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến (PTQGCT) mà tôi là Tổng Thư Ký.  Lập trường của QGCT từ khi thành lập đến năm 1975 là ủng hộ chính phủ quốc gia trong việc đối phó với cộng sản, nhưng không tham dự chính phủ và đòi hỏi chính phủ phải áp dụng đúng quy tắc dân chủ và chấm dứt nạn tham nhũng, cũng như nạn đưa bè phái bất tài nắm các chức vụ quan trọng.

Từ năm 1965, tôi vào làm giáo sư Học Viện Quốc Gia Hành Chánh dạy về chính trị và luật hiến pháp, đồng thời làm giảng viên ở nhiều trường đại học khác: Viện Đại Học Đà Lạt, Viện Đại Học Huế, Viện Đại Học Cần Thơ, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Viện Đại Học Minh Đức, trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn.  Tôi cũng được mời làm giảng viên ở các trường quân sự như trường Cao Đẳng Quốc Phòng, trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp, trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị. Năm 1967, tôi được mời làm khoa trưởng trường Đại Học Luật Khoa và Khoa Học Xã Hội Cần Thơ.

Năm 1968, tôi được mời tham dự phái đoàn VNCH trong cuộc đàm thoại ởParis, tôi nhận thấy cộng sản ViệtNamchỉ dùng cuộc đàm thoại làm một diễn đàn để tuyên truyền.  Sau khi giúp phái đoàn VNCH xây dựng một hệ thống lý luận để đấu khẩu với chúng, và đi một vòng các nước Âu châu để trình bày cho kiều bào biết về tình thế chung và lập trường của VNCH, tôi trở về lại Sài Gòn hoạt động với anh em.  Năm 1973, tôi lại được mời tham dự phái đoàn VNCH tham dự hội nghị La Celle Saint Cloud và cũng chỉ ở Pháp mấy tháng rồi trở về Việt Nam.

5) Làm việc khảo cứu cho trường Đại Học Luật Khoa Harvard

Từ năm 1975, tôi sang Hoa Kỳ và vào làm việc khảo cứu cho trường Đại Học Luật Khoa Harvard.  Trong mấy năm đầu, công tác chánh của tôi tại trường là tham dự việc dịch ra tiếng Anh và chú thích bộ luật nhà Lê, thường được viết dưới tên là Luật Hồng Đức, nhưng thực sự, như tôi đã phát giác sau khi nghiên cứu kỹ, đã được ông Nguyễn Trãi soạn thảo vào đầu đời Lê.  Bản dịch và chú thích nầy đã được Ohio University Press ấn hành năm 1987 dưới tên là The Lê Code. …(xem Nguồn 2 về hoạt động tranh đấu của Gs Huy sau 1975)

6) Ý nguyện thực sự của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy ?

Nếu sanh ra trong một nước Việt Nam độc lập, tự do, và thái bình, thì tôi đã theo hoài bảo lúc nhỏ của tôi là làm thi sĩ Đằng Phương chuyên viết thơ hùng tráng; có cần phải thêm một việc làøm để mưu sinh thì tôi lấy bằng của Đại Học Văn Khoa và làm giáo sư văn khoa.  Vì sanh trong một nước Việt Nam không độc lập, thiếu tự do và chìm đắm trong sự loạn lạc, nên tôi phải dấn thân vào cuộc tranh đấu chính trị và do đó mà phải học về chính trị, dạy về chính trị, và đứng ra lãnh đạo một đoàn thể chính trị. Dầu cho có được làm lại cuộc đời từ đầu mà hoàn cảnh Việt Nam không khác hoàn cảnh tôi đã trải qua, thì tôi cũng sẽ làm như tôi đã làm.
III/  Sự nghiệp sáng tác của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy

  • Tiếng Việt:
  1. HỒN VIỆT, thơ, Sài Gòn, 1950, tái bản ở Paris năm 1984.
  2. QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT (Quyển A), Việt Publisher, Canada, 1990.
  3. DÂN TỘC SINH TỒN, chủ thuyết của Đại Việt Quốc Dân Đảng, được bổ túc, phong phú hóa và thâu nhận các nguyên tắc tự do dân chủ, (2 quyển), Sài Gòn, 1964.
  4. DÂN TỘC HAY GIAI CẤP ?
  5. BIỆN CHỨNG DUY XẠO LUẬN (Trào phúng).
  6. CÁC ẨN SỐ CHÁNH TRỊ TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM DUNG, Thanh Phương Thư Quán, San Jose, Hoa Kỳ, 1986.
  7. HÀN PHI TỬ: bản dịch ra Việt ngữ tác phẩm của Hàn Phi, nhà lý thuyết trứ danh của học phái Pháp Gia Trung Quốc, (2 quyển), Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1974.
  8. LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT CHÁNH TRỊ, Cấp Tiến, Sài Gòn, 1970-1971.
  9. ĐỀ TÀI NGƯỜI ƯU TÚ TRONG TƯ TƯỞNG CHÁNH TRỊ TRUNG QUỐC CỔ THỜI, bản dịch Luận án Tiến sĩ viết bằng tiếng Pháp, Cấp Tiến, Sài Gòn, 1969.
  10. Tên Họ Người Việt Nam . Mekong-Tỵnạn, California, USA

– Cùng viết với Gs Trần Minh Xuân (2 cuốn 11 và 12 trong danh sách này):

  1. Hiệu đính và chú thích LỤC SÚC TRANH CÔNG. Đi tìm tác giả và dụng ý chánh trị trong tác phẩm. Mekong-Tỵnạn, California, USA, 1991.
  2. HỒ CHÍ MINH: TỘI PHẠM NHƠN QUYỀN VIỆT NAM. Mekong-Tỵnạn, USA, 1992.
  • Tiếng Pháp:
  1. POUR UNE NOUVELLE STRATÉGIE DE DÉFENSE DU MONDE LIBRE CONTRE L’EXPANSION COMMUNISTE, Alliance Pour La Démocratie Au Vietnam, Paris, 1985.
  • Tiếng Anh:
  1. THE LÊ CODE: LAW IN TRADITIONAL VIETNAM, bản dịch ra tiếng Anh và chú thích bộ QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT, tục danh LUẬT HỒNG ĐỨC của nhà Lê (1428-1788), Ohio University Press, Hoa Kỳ, 1987 – cùng viết với Gs Tạ Văn Tài và Gs Trần Văn Liêm –
  2. A NEW STRATEGY TO DEFEND THE FREE WORLD AGAINST COMMUNIST EXPANSION, Alliance For Democracy In Vietnam, 1985.
  3. PERESTROIKA OR THE REVENGE OF MARXISM OVER LENINISM, Việt Publisher, Canada, 1990.

Cùng viết với Gs Stephen B. Young (2 cuốn 16 và 17 trong danh sách này)

  1. UNDERSTANDING VIETNAM, do T.D.T. Thomason xuất bản, The Displaced Persons Center Information Service, Bussum, The Netherlands.
  2. THE TRADITION OF HUMAN RIGHTS IN CHINA AND VIETNAM, Yale Southeast Asia Studies, The LẠC VIỆT Series, New Haven, CT, USA, 1990.

Bài Đăng Báo:

  • Tiếng Việt:

– 1947-1990: Bài nhận định Tình Hình Thế Giới Trong Tháng Vừa Qua cùng nhiều bài báo về văn hóa & chánh trị Việt Nam trên nhiều tờ báo tiếng Việt ở trong và ngoài nước, như TỰ DO DÂN BẢN, ĐƯỜNG MỚI, MEKONG-TỴNẠN, SAIGON, THẰNG MÕ, HỒN VIÊT, HƯỚNG VIỆT, DIỄN ĐÀN VIỆT NAM, CẤP TIẾN, DÂN QUYỀN, LỬA THIÊNG, QUỐC PHÒNG, ĐUỐC VIỆT, THANH NIÊN …

  • Tiếng Pháp:

– LA FRANCE ET LE VIETNAMIEN PARTISAN DE LA DÉMOCRATIE LIBÉRALE, trong ĐƯỜNG MỚI, Pháp Quốc, số 4, 1985.

– LE CODE DES LÊ, nhận xét về bản dịch bộ luật nhà Lê ra tiếng Pháp của Ông Deloustal và về niên biểu ấn hành của bộ luật này, trong BULLETIN DE L’ÉCOLE FRANCAISE D’EXTRÊME ORIENT, Quyển LXVII, Pháp Quốc, 1980.

  • Tiếng Anh:

– Cùng viết với Gs Tạ Văn Tài: THE VIETNAMESE LEGAL TEXTS, trong THE LAW OF SOUTH-EAST ASIA, Quyển 1, THE PRE-MODERN TEXTS, do M.B. Hooker xuất bản, Butterworth & Co, 1986.

– LIMITS ON STATE POWER IN TRADITIONAL CHINA AND VIETNAM, trong THE VIETNAM FORUM, Ban Nghiên Cứu Đông Nam Á Châu của Đại Học Yale, Hoa Kỳ, số 6, Hè-Thu 1985.

– THE MING CODE IN VIETNAMESE LEGAL HISTORY: ITS INFLUENCE ON THE VIETNAMESE CODES AND OTHER LEGAL DOCUMENTS, trong MING STUDIES, số 19, Thu 1984.

– ON THE PROCESS OF CODIFICATION OF THE NATIONAL DYNASTÝS PENAL LAWS, trong THE VIETNAM FORUM, Ban Nghiên Cứu Đông Nam Á Châu của Đại Học Yale, Hoa Kỳ, số 1, Đông-Xuân 1983.

– THE PENAL CODE OF VIETNAM’S LÊ DYNASTY, trong STATE AND LAW IN EAST ASIA, để kỹ niệm ngày Ông Karl Bunger trí sĩ, do Dieter Eikemeier và Herber Franke xuất bản, Otto Harrassowitz, Weisbaden, 1981.

Thuyết Trình:

  • VAI TRÒ HỒ CHÍ MINH TRONG DIỄN TIẾN CỦA TÌNH TRẠNG NHƠN QUYỀN TẠI VIỆT NAM, HỘI THẢO VỀ ĐỀ TÀI “CON NGƯỜI VÀ DI SẢN CỦA HỒ CHÍ MINH” tại Điện Luxembourg (Trụ sở Thượng Nghị Viện Pháp), trong 2 ngày 25 và 26-5-1990.
  • CHÁNH SÁCH QUỐC PHÒNG CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM tại Đại Học Không Quân Hoa Kỳ, Colorado Springs, ngày 11-4-1988.
  • KINH NGHIỆM CỦA HOA KỲ TẠI VIỆT NAM , Đại Học Không Quân Hoa Kỳ, Colorado Springs, ngày 12-4-1988.
  • CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ NỀN AN NINH Á CHÂU tại Đại Học Monash, Melbourne, Úc Đại Lợi, ngày 17-9-1987.
  • LIÊN MINH LIÊN SÔ – CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ NỀN AN NINH CỦA ĐÔNG NAM Á CHÂU, Hội Thảo Bàn Tròn do Hội Đồng An Ninh Quốc Tế tổ chức ở Bangkok từ ngày 6 đến 8-7-1986.
  • TRẬN CHIẾN ĐẤU CUỐI CÙNG VÀ SỰ SỤP ĐỔ CỦA MIỀN NAM VIỆT NAM: 1973-1975, Hội Thảo do Đại Học Glassboro tổ chức trong ngày 7 và 8-4-1986.
  • VIỆT NAM DƯỚI ÁCH CỘNG SẢN, Hội Thảo tại Đại Học Harvard, ngày 23-11-1981, sau được Đại Học George Mason đăng trong bài nghiên cứu về VN.
  • THỰC TRẠNG Ở VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC ĐÔNG DƯƠNG VÀ GIẢI PHÁP CHO CÁC VẤN ĐỀ DO CÁC NƯỚC ẤY GÂY RA, Đại Học Minnesota, 3-10-1981.
  • NGUYÊN NHƠN VÀ HẬU QUẢ CỦA VIỆC MIỀN NAM VIỆT NAM SỤP ĐỔ NĂM 1975, tại Đại Học Washington ở Seattle, 1980.

IV/  Nhìn lại các tác phẩm chính của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy

Phải công tâm mà nói: Giáo Sư Huy để lại một công trình sáng tác đồ sộ hiếm có gồm hàng chục tác phẩm lẩy lừng trải dài trên nhiều lãnh vực khác nhau. Điểm rất lạ là suốt đời Giáo Sư Huy hoạt động tranh đấu, lãnh đạo đoàn thể, đấu trí chống chỏi các thế lực độc tài, rồi lại bị bịnh ung thư kéo dài gần 10 năm, vậy mà vẫn có thể viết ra được quá nhiều những tác phẩm độc đáo.

Vào ngày 4.8.1990 tại Austerlitz (Hoà Lan), Bác Sĩ Trần Ngọc Quang (Pháp) đã ca ngợi kiến thức uyên bác hầu như lãnh vực nào giáo sư Huy cũng thông suốt. Mà quả thực vậy, nhìn lại toàn bộ các tác phẩm của ông đã cho thấy rỏ điều đó. Chỉ nội trong quyển ‘‘Quốc Triều Hình Luật’’ dầy 263 trang được dẩn chứng 478 lần rút từ trên 100 quyển sách. Còn quyển Perstroika (Anh, Pháp) dầy 497 trang với 639 dẫn chứng của trên 200 tác phẩm ngoại quốc.

Có lẽ nhờ kiến thức uyên bác, trí nhớ hiếm có , lối làm việc đam mê khác thường bất kể không gian và thời gian và nghị lực phi thường , Giáo Sư Huy viết được nhiều tác phẩm bất hủ như vậy . Ông còn rất nhiều dự định sáng tác, và khi ra đi ông còn để lại nhiều di cảo. Trong những năm cuối cùng ông thường tâm sự, nếu có thì giờ rảnh rổi thì cứ mỗi tháng có thể viết xong một tác phẩm . Mặc dù trách nhiệm đè nặng trên đôi vai gầy, ông đã cố gắng viết được các tác phẩm giá trị như liệt kê trong phần phía trên. Trong đó có 6 tác phẩm được coi là đắc ý nhứt :
1) Thơ Hồn Việt

Đây là tác phẩm đầu tay được Giáo sư Huy qua thi hiệu Đằng Phương trân quý và hảnh diện nhứt . Bao gồm những bài thơ đầy lòng ái quốc, thể hiện rỏ lý tưởng của giáo sư Huy từ lúc thiếu thời dấn thân vào con đường tranh đấu đến khi lìa đời . Những bài thơ “Anh Hùng Vô Danh”, “Ngày tang Yên Bái” …. đã được chọn giảng dạy tại học đường và đã trở thành những vần thơ lịch sử nổi tiếng của Dân Tộc Việt .
2) Dân Tộc Sinh Tồn, Chủ Nghĩa Quốc Gia Khoa Học

Qua kinh nghiệm đau thương, tổ chức bị phân tán khi lãnh tụ Trương Tử Anh bị thất tung, Giáo Sư Huy đã dụng tâm, suy nghĩ, điều chỉnh chủ thuyết lại để thâu nhận các nguyên tắc tự do và dân chủ hợp hiến, phù hợp với tiến trình nhân loại . Ông đã dứt khoát bác bỏ đường lối lãnh tụ chế, vì nhận thấy sẽ đưa đến thảm họa độc tài .
3) Đề Tài Người Ưu Tú Trong Tư Tưởng Chánh Trị Trung Quốc Cổ Thời

Lúc còn thời sinh viên chúng tôi có “duyên” gặp được Giáo Sư Huy “ngắn ngủi” trên bước đường đi thuyết trình vào dịp Mùa Hè Lửa Đỏ 1972. Có lẽ “hạp tuổi” nhau nên sau đó chúng tôi được Giáo Sư Huy gửi tặng một số tác phẩm do nhà xuất bản Cấp Tiến in.

Trong đó đặc biệt có quyển Đề Tài Người Ưu Tú Trong Tư Tưởng Chánh Trị Trung Quốc Cổ Thời. Quyển này chính là Luận Án Tiến Sĩ của Giáo Sư Huy và được chấm xuất sắc nhứt trong niên khóa 1962-1963 tại Viện Đại Học Paris. Có lẽ đây là bản in duy nhứt còn tồn tại được sau bao nhiêu biến chuyển và chúng tôi mong được cho in lại để phổ biến cho hậu thế tham khảo.

4) Các Ẩn Số Chánh Trị Trong Tiểu Thuyết Võ Hiệp Kim Dung

Thoạt nhìn thì đây là quyển sách chỉ nhằm giải trí. Nhưng thực sự Giáo Sư đã dụng tâm lớn lao khi viết tác phẩm này. Ai cũng biết, nhờ hành văn kể chuyện đầy hấp dẫn và bố cục kết cấu tinh vi, truyện kiếm hiệp của Kim Dung đã lôi cuốn cả hàng tỷ đôc giả trên thế giới . Ngay tại Việt Nam hầu như đa số đã có thời say mê kiếm hiệp Kim Dung. Vì vậy lợi dụng qua đề tài hấp dẫn này Giáo Sư Huy muốn trình bày, giải thích lợi hại của đường lối chính trị (nhứt là tai hại của chủ trương độc tài) và từ đó đưa ra thông điệp chính trị với đề nghị cụ thể nhằm đạt được mục tiêu mang lại yên vui hạnh phúc cho người dân. Tác phẩm này được ghi nhận bán chạy nhứt với xuất bản lần thứ tư tại Hoa Kỳ, Pháp và Úc .
5) Quốc Triều Hình Luật

Đây là bộ sách bách khoa bao gồm nhiều lãnh vực văn hóa lịch sử Việt Nam. Qua thời gian dài nghiên cứu, Giáo Sư Huy khám phá ra ai là tác giả thực sự của Bộ Luật Hồng Đức và từ triều đại nào phát sinh tinh thần giáo điều, mà đã làm một dân tộc Việt Nam thông minh, can đảm, quật cường nay phải chịu thảm cảnh đất nước tan nát nghèo đói. Trong di bút cuối cùng được đọc tại Hòa Lan vào ngày 4 tháng 8 năm 1990, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy ước mong khi đất nước được thanh bình thì lập tức lui về quê nhà viết sách phân tích rỏ ràng tại sao một dân tộc có lịch sử oai hùng mà lần lần lụn bại đến nổi nay trở nên một trong vài quốc gia nghèo nhất thế giới.
6) Perestroika

Sự kiện lãnh tụ Liên Xô Gorbachev thay đổi chính sách làm đão lộn tình hình thế giới. Điều này đã dẫn tới cuộc cách mạng tại các xứ cộng sản Đông Âu và chắc chắn sẽ làm chủ nghiã cộng sản độc tài tan biến trong tương lai để Việt Nam sẽ thoát khỏi gông cùm cộng sản. Giáo Sư Huy đã phân tích tiên đoán rỏ ràng trước trong tác phẩm này. Theo lời Gs Cao Thế Dung, đây là một tác phẩm rất quan trọng của Giáo Sư Huy qua 2 thứ tiếng (Anh, Pháp) để góp vào diễn đàn tư tưởng chánh trị quốc tế.

Một giai thoại hi hữu là bản thảo “Tên Họ Người Việt Nam” bị thất lạc lúc Giáo Sư Huy qua đời và ai cũng tưởng rằng bị mất luôn tài liệu quý giá này. Chúng tôi tiếc lắm, vì biết rỏ Giáo Sư Huy đã bỏ rất nhiều thì giờ nghiên cứu biên khảo ta’c phẩm này. Có lần Giáo Sư nhờ chúng tôi tìm kiếm một số danh tánh của các nhân vật nổi tiếng có ý nghĩa giải thích được nguồn gốc tên họ xuâ’t phát ở Âu Châu. Chúng tôi đã sưu tầm và dịch ra gửi đến cho Giáo Sư xử dụng. Bất ngờ gần 10 năm sau, có lẻ nhờ sự hiển linh của hương hồn Gs Huy, nên Tiến Sĩ Nguyễn Văn Trần (Paris) tình cờ có được bản thảo và giao lại nhà xuất bản Mekong-Tỵ Nạn in phổ biến. Chúng tôi nhận được sách tặng và rất cảm động đọc thấy lại kỷ niệm năm xưa qua những dẩn chứng với tên họ của các nhân vật nổi tiếng như Tổng Thống Freiherr von Weizsaecker , Nữ vô địch quần vợt Steffi Graf , Bộ Trưởng Nội Vụ Zimmerman , Nam vô địch bơi lội Michael Gross …(xem Nguồn 3)

V/  Con Người Đằng Phương Nguyễn Ngọc Huy

1) Tổ quốc VN trên hết

Đối với ông: Tổ quốc VN trên hết . Thực vậy, lớn lên với tâm tình nồng nhiệt cho quê hương, năm 21 tuổi ông đã dứt khoát gia nhập đảng cách mạng để tranh đấu tự do cho đất nước . Từ đó cho đến hơi thở cuối cùng, con người Nguyễn Ngọc Huy hiến dâng trọn vẹn cho Dân Tộc Việt Nam . Những vần thơ Hồn Việt đầy rung động đã được ông gởi gắm vào tâm tình nồng nàn ấy . Vì tình yêu tổ quốc, con người tài hoa lổi lạc đó chọn một cuộc sống đạm bạc, đơn giản và đầy gian nan thử thách . Ông đã đi rất nhiều nơi, xuất hiện biết bao nhiêu lần trên diễn đàn và hội nghị quốc tế để bênh vực chính nghĩa người Việt Tự Do.

2) Tình Yêu Gia Đình

Trong buổi lễ ra mắt tập thơ Hồn Việt tại California (Hoa Kỳ) có thính giả hỏi về bài thơ tặng bạn Ngọc Điệp phải chăng dành cho bạn gái. Giáo Sư Huy đã cho biết đó chỉ là người bạn cùng tranh đấu. Với giọng thổn thức đẩm lệ ông còn cho biết trong đời ông chỉ có một tình yêu cho người đàn bà duy như’t. Đó là người vợ (nhủ danh Dương Thị Thu) đã qua đời vào năm 1974 (tai nạn tại bải biển Vũng Tàu) và một tình yêu nữa là cho Tổ Quốc Việt Nam mà thôi. Khi bà Huy qua đời, mặc dù lúc đó còn ở tuổi trung niên đầy danh vọng và tài hoa, Giáo Sư Huy ở vậy nuôi con tôn thờ hình ảnh người vợ hiền cho đến chết. Thật là trường hợp hạn hữu. Đặc biệt hơn nữa, ông để lại ước nguyện được hoả táng để sau này tro tàn mang về Việt Nam thổ táng trộn cùng xương cốt của ngươì vợ hiền năm xưa.

3) Tình Nghĩa Thâm Sâu

Một điểm nổi bật nhứt của Giáo Sư Huy là được mọi cộng sự viên kính nể và thương yêu thật sự . Thực là hiện tượng hiếm có trong thời đại đầy nhiểu nhương và đổ vỡ này. Tiền bạc, danh vọng, ông chả còn gì trong tay để lôi cuốn dẫn dụ người khác cả. Nhưng rất nhiều người đã hết lòng hết dạ hy sinh thời giờ, tiền bạc và hạnh phúc gia đình để đi theo ông. Có nhiều chủ quan khác nhau, nhưng chắc chắn một điều là họ đặt niềm tin thực sự vào con người Nguyễn Ngọc Huy. Một con người chân thành không hề chủ trương bá đạo, đạt tình yêu Tổ Quốc lên trên hết và luôn luôn có tình nghĩa thâm sâu với các cộng sự viên đồng hành.

4) Tấm Lòng Quảng Đại và Tận Tụy

Hoạt động tích cực trong lảnh vực chính trị vơ’i nhiều tranh châ’p va chạm, nhưng dù trong hoàn cảnh nào, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy cũng luôn luôn giử được nét mặt hòa nhả với nụ cười vui vẻ từ tấm lòng chân thành mà ra. Từ năm 1982 bị mắc bịnh ung thư, tuy vậy ông cố gắng kiềm chế không để tâm tình nóng nảy bộc lộ. Cuối cùng, biết sức mình sắp tàn, Giáo Sư Huy đã ráo riết làm việc không ngừng , chạy đua với tử thần để cố ráng làm tròn trách niệm trước tổ quốc. Di sản tư tưởng của ông để lại bàng bạc trong các tác phẩm. Giáo Sư Huy là người chủ trương tự do dân chủ thực sự, quyết liệt chống đường lối lãnh tụ chế, độc tài (dù là loại độc tài yêu nước mà các xứ chậm tiến thường ca ngợi). Ông đã đưa ra bài học Bắc Mỹ và Nam Mỹ cũng được độc lập . Bắc Mỹ chọn con đường tự do dân chủ thực sự nên đã thành cường quốc, dân chúng sống hạnh phúc ấm no. Trong khi đó Nam Mỹ chủ trương độc tài yêu nước, rốt cuộc đến nay vẫn còn xảy ra đảo chánh hổn loạn chính trị, dân chúng sống trong áp bức bất công.

Ngoài ra ông âu lo nhiều về tinh thần giáo điều đã thấm sâu vào huyết quản dân tộc Việt Nam, đưa đến nạn chia rẻ, kỳ thị (tôn giáo, địa phương, chủng tộc…) làm đất nước càng ngày càng suy vong.

Tuy vậy Giáo Sư Huy đặt rất nhiều hy vọng vào tương lai, vì nọc độc đó đã phát hiện được thì sẽ tuyệt trừ được. Ông đã từng tâm sự tin chắc đất nước Việt Nam mai này sẽ được tự do dân chủ và thế hệ tương lai sẽ tài giỏi hơn, xây dựng được một đất nước ấm no hơn thế hệ của ông.

Có lẽ đó chính là biểu tượng rỏ ràng cho tinh thần Nguyễn Ngọc Huy, lúc nào cũng đầy quyết tâm và lạc quan hướng về tương lai dân tộc. Dù khen hay chê, phải khách quan nhìn nhận trong cùng hoàn cảnh thời đại này chưa ai dám chắc làm được nhiều việc tốt đẹp hơn ông. Một nhân tài VN đã dám sống tận tụy một tay chăm sóc mọi việc lớn nhỏ cho đến nổi kiệt sức trút hơi thở cuối cùng. Thật khó tìm lại được một tấm gương tài đức vẹn toàn và cung cúc tận tụy hy sinh cho đại cuộc như vậy trong cỏi đời đầy nhiểu nhương này.

Trần Nguyên / Người Xứ Bưởi

22 Tháng 07, 2018

——–  —- ——-

Nguồn 1: Tư tưởng của Nguyễn ngọc Huy, liên quan đến chủ nghĩa Quốc Gia, và địa bàn chiến lược của nước Việt Nam trong thế giới hiện đại, là một nguồn cảm hứng , nhất là về tư duy cho các thế hệ mai sau.

https://halshs.archives-ouvertes.fr/halshs-00466413/document

Nguồn 2: Nhớ Thầy Nguyễn Ngọc Huy & hoạt động tranh đấu sau 1975

http://www.saigonocean.com/gocchung/html/vh5.htm

Nguồn 3: Kỷ niệm với Gs Nguyễn Ngọc Huy: Tại sao có tác phẩm “Tên Họ Người VN”?

https://vietbao.com/a255700/ky-niem-voi-gs-nguyen-ngoc-huy-tai-sao-co-tac-pham-chot-ten-ho-nguoi-vn-