Cô gái gốc Việt bị lừa tình và chia tay sau khi tặng bạn trai trái thận

Cô gái gốc Việt bị lừa tình và chia tay sau khi tặng bạn trai trái thận

January 26, 2022

SALT LAKE CITY, Utah (NV) – Một cô gái bị lừa dối và bỏ rơi sau khi tặng trái thận của mình cho bạn trai. Câu chuyện này đang tạo nên làn sóng dư luận trên Tik Tok, theo bản tin của tờ Independent hôm Thứ Ba, 25 Tháng Giêng.

Cô Colleen Lê, 30 tuổi, phổ biến một loạt video nói về việc cô phải giải phẫu khi người bạn trai cũ cần được ghép thận.

Cô Colleen Lê. (Hình: TikTok/Colleen Le)

Khi bắt đầu hẹn hò với người đàn ông này cách đây năm năm, cô Colleen Lê biết rằng người yêu bị bệnh thận mãn tính nên phải chạy thận từ năm 17 tuổi. Vì không muốn thấy người yêu qua đời, cô Colleen tình nguyện hiến thận cho bạn trai.

Bảy tháng sau cuộc giải phẫu, người bạn trai nói với cô Colleen rằng anh ta phải đến Las Vegas, Nevada, để tham dự bữa tiệc độc thân cuối cùng (bachelor party) của người bạn trong nhóm nhà thờ vào cuối tuần. Vì bạn trai vốn là một người yêu đạo và hoạt động năng nổ trong nhà thờ, nên cô Colleen Lê không có chút mảy may nghi ngờ về chuyến đi đó.

Vài ngày sau, người bạn trai về nhà thú nhận rằng anh ta đã ngoại tình ở Vegas và xin cô Colleen tha thứ. Hai người xảy ra tranh cãi nhưng cuối cùng cô vẫn quyết định tha thứ cho bạn trai.

Tuy nhiên, ba tháng sau, người đàn ông nói lời chia tay và thẳng thừng rằng: “Nếu chúng ta thật sự là của nhau, cuối cùng Chúa vẫn mang chúng ta trở lại với nhau.”

Cô Colleen cho biết người bạn trai cũ chặn cô trên mạng xã hội, không trả lời các cuộc gọi và tin nhắn của cô trong nhiều tháng, và thậm chí còn đổ lỗi rằng cô cố tình hiến thận để tạo hình ảnh tốt đẹp về mình.

Không những vậy, bạn bè của người đàn ông này còn nói rằng: “Không phải ai cũng cần biết việc cô ta tặng cho bạn trai quả thận chết tiệt đó và hãy nhớ rằng hai người đã chia tay.”

Đoạn clip của cô Colleen Lê nhận được hàng triệu lượt xem, một số người tán dương hành động tốt bụng của cô, trong khi có người thì chỉ trích người bạn trai cũ tệ bạc. (V.Giang) [qd]

Kẻ đóng 9 chiếc đinh vào đầu bé 3 tuổi là người như thế nào?

 Kẻ đóng 9 chiếc đinh vào đầu bé 3 tuổi là người như thế nào?

Phương Trạch (Danlambao) – Mấy ngày qua dư luận VN chưa hết bàng hoàng về vụ bé gái Vân An 8 tuổi bị mẹ ghẻ là Nguyễn Võ Quỳnh Trang và bố ruột là Nguyễn Kim Trung Thái đồng tình giết hại.

Thì một vụ giết người rùng rợn khác lại vừa xảy ra tại thủ đô “Ngàn năm văn hiến” Hà Nội. Đó là vụ cháu bé 3 tuổi bị người tình của mẹ hãm hại bằng cách đóng 9 chiếc đinh vào đầu cháu bé tội nghiệp này.

Kẻ giết người này là Nguyễn Trung Huyên, sinh năm 1992, ngụ tại huyện Thạch Thất, Hà Nội.

Theo đó, căn cứ Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 30 ngày 20/1/2022, căn cứ kết quả điều tra vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an TP Hà Nội xác định: Nguyễn Trung Huyên (SN 1992; HKTT: Thôn 5, xã Thạch Hòa, Thạch Thất, Hà Nội; nghề nghiệp: Thợ mộc), đã có hành vi Giết người(1).

Vậy chân dung kẻ giết người Nguyễn Trung Huyên như thế nào?

Huyên là con trai của một gia đình danh giá, có mẹ làm ở học viện Hậu Cần, có bố là sĩ quan đang công tác ở Trường lục quân.

Sinh trương trong một gia đình có “truyền thống CM” như thế, không ai ngờ sản phẩm của họ lại là kẻ giết người máu lạnh rùng rợn là Nguyễn Trung Huyên.

Nên biết rằng hành động tột cùng của tội ác này là lần thứ tư của Huyên. Trước đó đã 3 lần Huyên hãm hại cháu bé nhưng chưa thành.

Lần thứ nhất: Tháng 10/22021, Huyên mua 2 gói thuốc diệt cỏ về trộn nước ngọt cho cháu uống và bị ngộ độc, mẹ cháu phải đưa cháu tới bệnh viện nhi TƯ cấp cứu.

Lần thứ 2: Tháng 10/2021, Huyên nhét chiếc đinh vít vào miệng cháu bé. Mẹ cháu phải đưa cháu vào bệnh viện Thạch Thất để lấy dị vật ra.

Lần thứ 3: Tháng 10/2021, Huyên say rượu đánh cháu bé gãy tay. Và lần này với 9 chiếc đinh đánh vào đầu cháu bé thì có lẽ ước mơ tiêu diệt cháu bé của Huyên sẽ thành công.

Câu hỏi đặt ra là: Phải chăng những kẻ như Nguyễn Trung Huyên, như Nguyễn Võ Quỳnh Trang và Nguyễn Kim Trung Thái v.v… là kết quả của nền giáo dục nhồi sọ và kích động bạo lực nhiều năm qua dưới mái trường XHCN?

Khi mà những tâm hồn non trẻ đã được gieo rắc nọc độc rằng, bạo lực cách mạng là động lực thúc đẩy xã hội tiến lên.

Khi mà trẻ em vừa cắp sách đến trường, thì đã được học tập những tấm gương bạo lực mà không biết sự thật được bao nhiêu %: Như Hồ Văn Mên, năm 13 tuổi, đã tham gia 7 trận lớn nhỏ, diệt 79 tên địch, cùng nhiều xe cơ giới của địch.

Như Kơ-pa-kơ-lơng, người dân tộc Gia Rai, Tây Nguyên, 13 tuổi tự làm nỏ, xin người già mũi tên có độc và bắn chết 3 tên liền. Sau đó KơPa Kơ lơng đã bắn phát thứ nhất xâu liền 5 tên, phát thứ hai xâu liền ba tên. Đến một trận khác anh bắn 3 viên hạ 7 tên, một lần khác nữa anh bắn 7 viên hạ 19 tên giặc. Đúng là nỏ thần.

Và đến những bài ca ngợi những tên đồ tể giết người hàng loạt và đội lên đầu để tôn thờ, ca ngợi giết người trong CCRĐ của Tố Hữu:

“Giết, giết nữa bàn tay không ngưng nghỉ/Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong/Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng/Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt”, tôn sùng họ như thần thánh, thì sản phẩm của nó đương nhiên là bạo lực.

Nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân cho rằng đây là bài thơ “phi nhân đáng hổ thẹn” vì cái ác, sự khát máu được đây cao tới tột đỉnh. Có lẽ trong thơ ca cách mạng xét trên quy mô toàn thế giới chẳng có nhà thơ cách mạng nào lại “đỏ” đến mức này.

Trong đợt cải cách ruộng đất “long trời lở đất” đẫm máu diễn ra trong các năm 1955-1956 ở miền Bắc, con số nạn nhân “chính xác nhất” là 172.008 người, trong đó có 123.266 người (71,66%) được chính thức xác nhận là oan. Con số này ghi trong một tài liệu được biên soạn rất công phu, in ấn rất thẩm mỹ nhưng có lẽ ít ai đọc: “Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000 do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản”.

Vì vậy mà ngày nay, khi mà bạo lực học đường xảy ra như cơm bữa, trò đánh trò và thậm chí là trò đánh thầy ngay trên bục giảng; Khi mà thuốc trị ung thư giả còn được cấp phép bán, kẻ sử dụng bằng giả của đại học Đông Đô không bị khởi tố, kẻ tố cáo lãnh đạo đạo văn bị bỏ tù v.v… Thì việc hành hạ người khác là điều bình thường?

Có tin nói gia đình Nguyễn Trung Huyên đang tìm cách chạy giấy tâm thần cho con để mong Huyên thoát tội. Chưa bao giờ giấy xác nhận tâm thần lại trở thành liều thuốc thần kỳ, như đấng cứu tinh đã từng cứu vớt nhiều quan tham và nhiều quan chức khác khỏi vòng lao lý. Bởi vì giám đốc bệnh viện tâm thần lại là kẻ bị bệnh tâm thần.

Những chiếc đinh của Nguyễn Trung Huyện không chỉ đóng vào đầu cháu bé 3 tuổi, mà đang đóng vào đầu những người có lương tri, khi bao nhiêu năm bị mê hoặc và tự sướng và tưởng rằng mình đang sống trên đất nước yên bình, “Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay”.

Đúng là “Mây đen phủ lên toàn cầu nhưng mặt trời vẫn đang tỏa sáng ở Việt Nam”.

Chú thích:

(1) https://baovephapluat.vn/cong-to-kiem-sat-tu-phap/theo-dong/khoi-to-bat-giam-ke-dong-dinh-vao-dau-chau-be-3-tuoi-117704.html

Nghĩ vụn nhân nghe tin thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch

Nghĩ vụn nhân nghe tin thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch

Thứ nhất: “Chỉ ở trong một thể chế tự do…”, thì mới có cơ may để phát triển tài năng như Thích Nhất Hạnh

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một nhân vật có tầm cỡ thế giới, nhưng trong nước người ta đã và đang tranh cãi về việc ông có đóng góp được gì cho đất nước hay chăng.

Sự tranh cãi này hoàn toàn hiểu được, vì những tiêu chuẩn để đo lường sự đóng góp này ở hai bên vĩ tuyến 17 (thực tế và trong lòng mỗi người) thì khác nhau.

Nhưng có một điều có lẽ không ai có thể tranh cãi, đó là chỉ ở trong một thể chế tự do, thì người ta mới có thể phát triển tài năng ngang tầm thế giới như Thích Nhất Hạnh.

Những gì ông đã làm được thời còn ở Việt Nam như nhà xuất bản Lá Bối, trường đại học Vạn Hạnh, hoặc phong trào Thanh niên Phụng sự Xã hội… cũng chỉ có thể được thực hiện dưới thời VNCH, một thể chế dân chủ còn rất non trẻ và bị cho là có nhiều khiếm khuyết. Trong cùng thời gian ấy ở miền Bắc, người ta còn đang say sưa với chủ nghĩa Mác, với quan điểm tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân…

Hãy suy nghĩ về điều ấy.

Thứ hai: “Tôi hiểu rất rõ và có phần nào đồng tình với những ai yêu mến thiền sư”, nhưng…

Tôi hiểu rất rõ và có phần nào đồng tình với những ai yêu mến thiền sư Thích Nhất Hạnh. Ông tài hoa, viết hay thuyết pháp giỏi, và đã góp phần phát triển Phật giáo và truyền bá pháp môn Làng Mai cho thế giới Phương Tây – nơi con người sống quá gấp gáp và căng thẳng đến độ đánh mất chính mình. Đáng để tự hào và ngưỡng mộ.

Nhưng tôi cũng rất hiểu và đồng cảm sâu sắc với những ai lên án thiền sư về thái độ đối với quê hương đất nước. Đặc biệt, chính tôi cũng thắc mắc về thái độ chính trị của ông trước và sau năm 75.

Trước đó, ông đau đáu với việc phát triển Phật giáo ở Việt Nam, đồng thời chọn đấu tranh cho hòa bình vì đau đớn trước cảnh chiến tranh huynh đệ tương tàn. Nhưng sau này, khi đã nổi tiếng khắp thế giới với một vị thế quan trọng như một nhà tư tưởng có tầm ảnh hưởng sâu rộng, tôi có cảm tưởng dường như ông chưa từng bao giờ có một quê hương khốn khổ mang tên Việt Nam.

Trừ những lần về Việt Nam rất hoành tráng với ý định đưa pháp môn Làng Mai của ông cho Phật tử trong nước – cùng với một kiểu như ông đã làm ở bất cứ nước nào trên thế giới – ông chưa từng bao giờ lên tiếng công khai về những vấn đề của đất nước, cả việc đạo lẫn việc đời. Trong khi hoàn cảnh của người dân Việt và của chính Phật giáo Việt Nam suốt mấy chục năm từ 1975 đến nay cũng có quá nhiều điều có thể làm cho ông trăn trở, đau đớn, dằn vặt…

Vì sao thế? Ông đã quên Việt Nam, hay vì một lý do nào khác?

Câu trả lời chỉ có mình ông biết. Và ông đã ra đi, đi về phía đường xưa mây trắng…

Nên câu hỏi kia vẫn tiếp tục chia rẽ người Việt Nam, chẳng biết đến bao giờ.

(Mà thật ra thì cũng chẳng sao, vì chia rẽ vốn là đặc tính của dân tộc Việt. Nếu không có Thích Nhất Hạnh thì người Việt ta cũng thừa lý do để tranh cãi và khích bác nhau rồi. Ôi đất nước tôi…)

【Vũ Thị Phương Anh】

– Ảnh chụp năm 1960 của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Hòa thượng Thích Trí Quang và Hòa thượng Thích Quảng Độ. Ảnh: PVCEB, AP và Phật tử Việt Nam.

https://www.maikhoi.net/…/nghi-vun-nhan-nghe-tin-thien…

Lòng nhân ái, từ thiện của bác sĩ Nhật

Lòng nhân ái, từ thiện của bác sĩ Nhật

Từ bỏ công việc lương cao, bác sĩ Nhật đi khắp Việt Nam chữa mắt miễn phí cho người nghèo.

Bất kể nắng nóng hay giá lạnh, dù thiên nhiên có biến động bất thường thế nào cũng không thể ngăn được nỗ lực của vị bác sĩ người Nhật đến phẫu thuật cho các bệnh nhân có vấn đề về mắt tại VN.

Bác sĩ Tadashi Hattori sinh năm 1964 tại Osaka (Nhật Bản). Ông tốt nghiệp Y khoa tại Đại học Kyoto, một trong 8 trường đại học danh tiếng nhất ở Nhật.

Sau đó, ông được mời làm việc tại nhiều bệnh viện nổi tiếng ở Nhật. Được biết đến là một tài năng hiếm có trong lĩnh vực phẫu thuật cắt dịch kính (điều trị bong võng mạc, võng mạc tiểu đường và các bệnh về hoàng điểm), đặc biệt là kỹ thuật thuộc top 10 thế giới về sử dụng kính nội soi trong phẫu thuật cắt dịch kính, bác sĩ Tadashi Hattori là một trong số ít người có khả năng rút ngắn thời gian phẫu thuật xuống còn ⅓ bằng phương pháp nội soi. Các ca phẫu thuật của ông đều có tính chính xác cao và bệnh nhân hầu như rất ít biến chứng sau quá trình điều trị.

Cơ duyên với Việt Nam

Cuộc đời Bác sĩ Tadashi Hattori bắt đầu thay đổi kể từ buổi hội thảo khoa học vào năm 2001. 

Tại đây, ông gặp một bác sĩ người Việt và người này đã kể lại cho ông

những câu chuyện đau lòng của những bệnh nhân nghèo ở đây. 

“Người bác sĩ ấy nói rằng ở Việt Nam có rất nhiều người nghèo không có tiền chữa bệnh.  Họ phải chịu cảnh mù lòa, có khi mới chỉ ở độ tuổi trung niên”, 

Bác sĩ Hattori kể lại.

Nghe câu chuyện đó, ông đã về nhà suy nghĩ đến nửa năm, cuối cùng quyết định sang Việt Nam đi mổ mắt miễn phí cho bệnh nhân nghèo.

“Sau khi tính toán những việc cần làm cho 4-6 tháng, tôi quyết định sẽ đi. 

Nhưng giám đốc bệnh viện của tôi nói, nếu muốn đến Việt Nam, tôi sẽ phải xin nghỉ việc. Và đó chính xác là điều tôi đã làm. Tiền bạc không  phải là thứ quan trọng duy nhất trong cuộc đời. Với nhiều người, địa vị và tiền bạc là tất cả, nhưng với tôi, được làm điều gì đó giá trị còn quan trọng hơn rất nhiều”, bác sĩ Tadashi nói, theo Japan Times.

Sau đó, bác sĩ Tadashi đã có chuyến thăm đầu tiên tới Việt Nam kéo dài một tháng, ông ghi chép lại những gì liên quan đến thực trạng bệnh nhân có hoàn cảnh quá khó khăn không có tiền chữa trị mắt tại nhiều tỉnh thành của Việt Nam. 

Sau đó, ông quay lại Nhật và kêu gọi các công ty y tế tài trợ.

Tuy nhiên, vào thời điểm đó, ông đang không làm tại một bệnh viện nào và chẳng ai tài trợ cho ông. 

Ông tiếp tục nộp đơn xin hỗ trợ lên chính phủ Nhật Bản nhưng cũng bị từ chối. Đại diện văn phòng chính phủ cho biết, họ chỉ tài trợ các tổ chức NGO. 

Cuối cùng, bác sĩ Tadashi quyết định dùng tiền tiết kiệm của hai vợ chồng để mua thiết bị mang sang Việt Nam mổ miễn phí.

 Ở Nhật Bản, nghề bác sỹ được xem là nghề “hái ra tiền”, một bác sĩ không cần quá nổi tiếng cũng đủ để sống sung túc, giàu có. 

Tuy nhiên, vợ bác sĩ Tadashi lại không có cái “may mắn” đó, bởi chồng bà luôn có những mục tiêu thiện nguyện. Vậy nên, khi chồng nói về việc muốn dùng tiền tiết kiệm dưỡng già của họ để mua thiết bị phẫu thuật cho bệnh nhân nghèo ở Việt Nam, bà đã tức giận đến nỗi không nói chuyện với ông 3 ngày. Cuối cùng, bà đã đồng ý và bắt đầu ủng hộ ông trong những chương trình thiện nguyện ở Việt Nam sau này. 

Cha ông dạy: “Hãy luôn sống vì mọi người”

Thầy ông dạy: “Hãy coi bệnh nhân như bố mẹ mình”

Kể từ cuộc gặp gỡ định mệnh vào năm 2001, cuộc sống của bác sỹ Hattori đã chia ra làm 2 phần: phần ở Nhật Bản và phần ở Việt Nam.

Cứ nửa tháng ông lại về Nhật làm việc với tư cách là bác sĩ tự do, tham gia vào những ca bệnh khó tại Nhật Bản để kiếm thêm thu nhập.

Nửa tháng còn lại ông đi khắp Việt Nam để chữa trị miễn phí cho người nghèo. Nhìn chung, số ngày ông ở Việt Nam mỗi năm dao động từ 140 đến 180 ngày.

Nhờ nỗ lực không ngừng nghỉ của bác sĩ Tadashi, dần dà, những hoạt động thiện nguyện của ông tại Việt Nam càng được cộng đồng biết đến. Hiện tại, ông đã kêu gọi được rất nhiều hỗ trợ tài chính từ các bệnh viện công, phòng khám tư mà ông hợp tác chữa bệnh bán thời gian.

Bác sĩ Tadashi cho biết ông rất thương người bệnh ở Việt Nam, bởi vì họ quá nghèo mà phải đến khi tình trạng bệnh quá nặng, không còn cứu chữa được nữa, họ mới tìm đến bác sĩ.

“Chữa bệnh cho bệnh nhân Nhật dễ hơn nhiều vì họ thường tìm đến bác sỹ ngay khi họ thấy có vấn đề, vì vậy bệnh thường chỉ ở giai đoạn khởi đầu. Nhưng ở Việt Nam, bệnh nhân thường để đến khi gần mù rồi mới tìm đến bác sỹ.Thậm chí nhiều người không làm gì cho đến khi mù một con mắt. Chính vì thế, số người bị mù một mắt ở Việt Nam cao đột biến, cao hơn rất nhiều so với những nơi tôi từng chữa trị”, bác sĩ Tadashi chia sẻ.

Mang ánh sáng đến cho người Việt nghèo

Bác sĩ Hattori trải lòng, cha của ông đã ra đi đau đớn vì sự tắc trách của bác sĩ điều trị bệnh, điều này đã khiến ông quyết định theo đuổi ngành y.

 “Cha đã truyền cảm hứng để tôi sống nhiều hơn cho các mục đích thiện nguyện. Trước khi ông chết, ông bảo tôi “hãy luôn sống vì mọi người”. Sau này, một người thầy đã dạy tôi rằng: “Hãy luôn đối xử với bệnh nhân như cha mẹ của mình”.

Bác sỹ Hattori vẫn miệt mài cho những mục đích thiện nguyện tại Việt Nam.

Mặc dù đã ngoài 50 nhưng bác sĩ Hattori vẫn ngày đêm miệt mài với công việc thiện nguyện của mình tại Việt Nam. Ban ngày, người ta thấy ông thoăn thoắt phẫu thuật cho bệnh nhân, vận chuyển đồ đạc, đêm về lại cặm cụi viết báo cáo đăng lên website tổ chức từ thiện Asia Prevention of Blindness Association do chính ông sáng lập vào năm 2005.

Người Việt Nam thường gọi ông Hattori là “bác sĩ” hoặc “giáo sư”, nhưng ông còn có một tên gọi khác nữa là “aka hige sensei” . Trong tiếng Nhật, cụm từ để chỉ người lương y giàu lòng nhân ái, luôn giúp đỡ những bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn, và được ví như ông Bụt trong truyện cổ tích.

Nguồn: Lòng từ thiện của một bác sĩ Nhật ở VN

Gia Nguyễn chép lại từ mail của Bác sĩ Lê Ngọc Dũng 

Thanks Dr Dung.

From: HUNG TRAN

 Đọc hồi ức của bà quả phụ Ngô Quang Trưởng

Van Pham

 Đọc hồi ức của bà quả phụ Ngô Quang Trưởng

Trần Thị Nguyệt Mai

Tôi rất hân hạnh được là một trong những độc giả đầu tiên khi cuốn sách “Tháng Ngày Qua” – Hồi ức của Nhà văn Nguyễn Tường Nhung, chỉ mới là những trang bản thảo rời. Tác giả là trưởng nữ của Nhà văn Thạch Lam và cũng là phu nhân của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, một trong những vị tướng lãnh xuất sắc và trong sạch của Quân Lực VNCH.

Cuốn sách hé mở cho chúng ta rõ hơn không chỉ về thân thế của hai gia đình rất nổi tiếng – Thạch Lam và Ngô Quang Trưởng – mà còn như một cuốn phim quay lại hình ảnh xã hội thời kỳ chiến tranh Việt Pháp và chiến tranh Việt Nam cận đại, hiển hiện nỗi khổ đau tận cùng khi mất mát cả tài sản lẫn những người thân yêu nhất trong đời, nỗi lo âu của người vợ lính khi chồng ra chiến trận và phút giây lãng mạn hạnh phúc khi chinh nhân trở về…

Những ngày Tết Mậu Thân 1968 kinh hoàng thảm thương ở Huế cũng được ghi lại một cách sống động.

Khi viết về văn chương Thạch Lam, nhà văn Mai Thảo đã dùng những lời ngợi khen đẹp nhất: “bút pháp chuốt lọc, trong sáng và chính xác nhất của văn xuôi tiền chiến” (1). “Bút pháp chính xác ông mãi mãi là một vinh dự cho tiếng Việt, theo ý tôi” (2). “Những trang tiểu thuyết đôn hậu và chứa chan tình cảm của Thạch Lam” (3) đã đi vào và ở mãi trong tâm hồn người đọc với Gió Lạnh Đầu Mùa, Nhà Mẹ Lê, Hai đứa trẻ, v.v… Đọc “Tháng Ngày Qua” càng thấy rõ hơn “văn chính là người”, để càng yêu mến Ông hơn.

Trong đậm sâu trí nhớ của tác giả ngày ấy, khi còn là một cô bé 6 tuổi, vẫn còn hiện rõ hình ảnh Bố Thạch Lam:

Bố tôi rất cao, da trắng hồng trông như lai Tây vậy. Ông hay mặc bộ vét màu kem nhạt may bằng hàng vải đũi, đầu luôn đội cái mũ phớt, chân đi giày tây, lúc nào cũng bóng loáng. Quần áo của bố tôi lúc nào cũng phải là thẳng tắp. Bố tôi rất ngăn nắp, thứ tự và rất quý sách. Ông có một tủ sách bìa mạ chữ vàng được xếp rất ngăn nắp. (sđd, tr. 20)

Và Mẹ, bà Thạch Lam, người vợ mà Ông rất yêu thương:

Mẹ tôi hơn bố tôi vài tuổi. Bà tuy hơi thấp so với bố tôi, nhưng bà rất đẹp và rất khéo chiều bố tôi. Bà hiểu rõ rất tỉ mỉ từng chi tiết, những sở thích của bố tôi và tôn trọng tất cả những gì mà bố tôi quyết định. Cà phê mà bố tôi uống mỗi buổi sáng phải chính tay mẹ tôi pha. (sđd, tr. 22)

Cô vẫn nhớ như in sở thích ăn uống rất giản dị của Bố:

Thức ăn bố tôi không đòi hỏi phải nhiều thịt, cá hay thịnh soạn, nhưng món gì cũng phải thật tinh khiết, sạch sẽ, bày cho gọn và đẹp mắt. Bố tôi thích những món ăn thanh như canh giò sống nấu rau ngót, cải xanh nấu cá rô, rau muống luộc, đậu hũ chiên tẩm hành lá hay cá chép rán vàng, và tuyệt đối không bao giờ được dọn món ăn mà đã ăn ngày hôm trước. (sđd, tr. 23)

Cộng thêm thói quen đơn sơ nhưng rất hạnh phúc của Ông sau bữa cơm chiều:

Ăn cơm xong bố tôi có thói quen ra ngồi ngoài hiên trước nhà để ngắm cảnh. Tuy đã về chiều nhưng cũng còn một vài chiếc thuyền, trên chở những cặp tình nhân. Họ chèo thật chậm nhìn ngắm mặt trời lặn và thủ thỉ những lời âu yếm. Bố tôi lúc nào cũng rủ mẹ tôi ra cùng ngồi và trò chuyện tâm tình cùng mẹ. Bố tôi ít nói, nhưng khi nói thì đã diễn tả hết ý mình. (sđd, tr. 22)

Đặc biệt là tính thương người vô cùng tận của Ông, để thấy tại sao văn chương Thạch Lam cũng giống như người:

Bố tôi rất khó tính và ít khi cười nhưng lại rất thương người. Có thời gian nhà có một anh phu xe để kéo xe cho bố tôi đi làm hàng ngày. Nhưng khi trời mưa thì bố tôi bảo mưa ướt tội nghiệp, khi nắng thì bố tôi cũng bảo nóng quá kéo xe mệt, và thấy anh kéo xe đổ mồ hôi thì cũng không đành. Rút cuộc bố tôi lại đi xe ngoài để đi làm. (sđd, tr. 23)

Nhà văn Thạch Lam mất rất sớm lúc mới ngoài 30 tuổi, khi văn tài đang vào độ sung mãn. Ngày ấy tác giả chỉ mới 6 tuổi, có hai em trai, một lên 3 và một mới sinh được 3 ngày. Đang từ một cô bé được bố rất yêu chiều:

Tối nào sau khi ăn cơm xong bố tôi cũng gọi tôi vào phòng sách chỗ bố tôi ngồi hàng đêm để viết văn. Trên bàn viết của bố tôi ngoài những giấy, bút, đặc biệt có một lọ kẹo tây. Những viên kẹo đủ màu sắc hồng lạt, đỏ, xanh, trắng, đựng trong chiếc lọ bằng thủy tinh trông thật đẹp mắt và thật là muốn ăn. Bố tôi mở nắp lọ, mùi kẹo bay thật thơm. Bố tôi lấy ra cho tôi một cái… (sđd, tr. 23 & 24)

Cô trở thành đứa trẻ mồ côi cha. Sau đám tang vài tháng, “bà nội tôi cho người lên Hà Nội đón mẹ và ba chị em chúng tôi về trại Cẩm Giàng. Trại rộng hai mẫu tây, khang trang, nằm cách ga tàu hỏa khoảng hơn cây số. Hai cánh cổng chính của trại khá to, sơn màu xanh, giàn hoa tỉ muội màu hồng nhạt leo chung quanh” (sđd, tr. 27). Từ đây, gia đình cô rời bỏ “căn nhà nhỏ nhưng rất thơ mộng ở tại đầu làng Yên Phụ, ngay cạnh hồ Tây có cây liễu rủ, tàn liễu sà xuống gần mặt nước hồ… Đường từ ngoài vào làng toàn lót bằng gạch đỏ. Trên đường đi chỗ nào cũng nhìn thấy nước hồ… Đi sâu vào trong làng rất đẹp, hai bên là những hàng rào trồng bằng cây duối, được cắt thật bằng phẳng. Khi tới mùa quả duối chín vàng trông xa như những sợi tơ tằm óng ánh… Từ đó tôi chưa có dịp trở về lại làng Yên Phụ nữa” (sđd, tr. 25)

Hình ảnh Bà Nội, người Mẹ hiền sinh ra những người con thuộc nhóm khai sáng Tự Lực Văn Đoàn đã góp công rất lớn trong việc hiện đại hóa xã hội Việt Nam vào đầu thế kỷ XX qua báo chí và tiểu thuyết, với “tôn chỉ” được công bố trên báo Phong Hóa số 101 ngày 8 tháng 6 năm 1934 gồm 10 điểm, đúc kết lại trong nội dung: “Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ. Theo chủ nghĩa bình dân, không có tính cách trưởng giả quý phái. Tôn trọng tự do cá nhân. Làm cho người ta biết đạo Khổng không hợp thời nữa. Đem phương pháp Thái Tây áp dụng vào văn chương An Nam” (4):

Bà Nội dáng người cao to, nước da trắng hồng, gò má hơi cao, đôi mắt sáng, sâu, trông như lai, toát ra một vẻ oai nghiêm cương nghị. Bà rất nghiêm khắc và ít khi cười. Nhưng khi bà cười thì nụ cười thật tươi, lộ hàm răng đen. Bà nói giọng Huế nghe hay hay và lạ. … Bà ăn uống cầu kỳ, kiểu cách. Bát ăn bằng men xanh trắng viền chỉ vàng, đũa ngà, mâm bằng đồng thau sáng loáng. Khi ăn phải từ tốn, thức ăn cũng phải sắp thứ tự, rau muống luộc để ra đĩa, cọng và lá không lẫn lộn, cắt ra làm hai, khi chấm chỉ vừa đụng vào nước chấm, cơm chỉ được xới một nửa bát… (sđd, tr. 30 & 31)

Bà rất kiên cường, thật giỏi, can đảm. Khi ông mất bà còn rất trẻ, chưa tới 40. Một tay bà phải chăm sóc mẹ chồng và bảy người con còn niên thiếu mà vốn liếng chỉ là một tiệm tạp hóa nhỏ, bán những thứ lặt vặt như kim chỉ, muối, đường, diêm, nến, vài lọ kẹo bột, kẹo gừng, v.v… lời lỗ chẳng được bao nhiêu. Nhưng nhờ vào việc cân gạo, cứ mỗi sáng sớm tinh mơ, những dân ở các làng lân cận đem gạo lên bán, từng gánh hoặc thúng có khi chỉ mươi đấu đựng trong cái bị đan bằng cói. Bà gom mua lại để bán lẻ, khách hàng là những gia đình nghèo sống rải rác quanh phố chợ. Nhờ tài quán xuyến bà đã cho các con ăn học… (sđd, tr. 32 & 33) Một tay bà đã gây dựng được một gia đình làm rạng danh cho dòng họ, những văn tài đã để lại cho những thế hệ nối tiếp (sđd, tr. 46). Sau này, khi các con trai đã thành danh, bà xuống tóc xuất gia cửa Phật và ít khi về lại trại. (sđd, tr. 33)

Cuộc sống êm đềm yên ả chẳng bao lâu thì loạn lạc xảy ra, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Năm 1946, một đêm phố chợ Cẩm Giàng bùng lên bốc cháy, khói bay mù mịt cả một góc trời (sđd, tr. 82). Giữa đêm đang ngủ, U (là vú em, người nuôi cậu em kế) lay cô dậy để cùng Mẹ, hai em và U gánh gồng đi lánh nạn, đến tạm cư ở Xóm Đìa, cách Nhã Nam khoảng 5, 7 cây số, “một xóm rất nghèo, chỉ có khoảng mươi căn, phần đông đều lợp bằng lá, và sống bằng ruộng nương nhưng là ruộng thuê lại gọi là cấy rẽ” (sđd, tr. 35). Đến đây, U từ biệt về quê. Và cuộc đời của cô bắt đầu lật sang một trang mới với rất nhiều vất vả, khó khăn.

“Khi đến Xóm Đìa, vài nhà quanh xóm cũng đã có mấy người tản cư tá túc. Chúng tôi được chủ nhà tên Nhâm cho ở nhờ. Ông cho dọn dẹp cho chúng tôi ở nhờ trong cái kho nhỏ, thường để chứa những dụng cụ nhà nông như cuốc, xẻng, cày, bừa, dao liềm, v.v… và chỗ nằm của con vện đen. Cái kho lợp bằng rạ, vách trát bùn trộn rơm đã cũ, vách có nhiều lỗ thủng, cửa là cái phên đan bằng nứa có gắn một thanh tre để chống lên chống xuống. Bên trong, vẻn vẹn chỉ có một cái giường bằng gỗ vừa đủ cho bốn mẹ con nằm, bên cạnh giường kê ba hòn gạch chụm lại gọi là ông đồ bếp (theo ngôn ngữ lúc đó) để thổi nấu. Tắm rửa hàng ngày thì ra ngoài ao. Nước uống và nước thổi cơm thì phải vào tận cuối xóm gánh về; cả xóm đều dùng nước giếng ấy (sđd, tr. 35).

Những ngày đầu thật bỡ ngỡ. Một khung cảnh quá cách biệt. Chúng tôi như rơi vào một cơn ác mộng. Căn nhà kho chứa đồ vật dụng bẩn thỉu, chật hẹp, một chỗ thua cả chuồng chó ở trại Cẩm Giàng của gia đình chúng tôi (sđd, tr. 64). Mùa đông đến đem theo hơi lạnh, gió rét của miền rừng núi. Bốn mẹ con co ro trên một cái phản gỗ, đắp một cái chiếu cũng đã cũ. Mẹ đầu bên này, tôi đầu bên kia, kéo qua kéo lại. Con ấm thì mẹ lạnh và ngược lại. Hai cậu em thì còn nhỏ ngủ vô tư. (sđd, tr. 69).

“Những năm đầu Mẹ còn có chút tiền đem theo, chúng tôi có cơm gạo trắng, có chút ít thịt, cá” (sđd, tr. 64). Đến khi hết tiền và bán đi tất cả những thứ đã mang theo, thì “Mẹ sắp xếp cho tôi theo mấy cô trong xóm đi buôn cà chua và su hào, mỗi tuần hai phiên chợ ngoài thị trấn Nhã Nam. Phải dậy từ sáng tinh mơ vào vườn cà chua hoặc su hào họ đã hái sẵn rồi tùy sức của mỗi người gánh được nhiều hay ít… tiền lãi cũng tạm để mua gạo có cơm trộn khoai hay sắn. Các em thì vào rừng nhặt củi khô và nấm hạt dẻ (sđd, tr. 36).

Thấy con quá vất vả mà chẳng kiếm được bao nhiêu, nên khi được chủ nhà cho mượn toàn bộ đồ nghề và có người cho mua thóc chịu, hai mẹ con chuyển qua nghề làm hàng xáo, tức là “xay thóc, sàng bỏ trấu đi. Sau đó bỏ vào cối giã rồi vần, sảy cho cám và tấm rớt ra” (sđd, tr. 67) cũng cực nhọc nhưng “lãi được tấm để ăn, cám bán lấy tiền mua rau, muối, tương, cà. Nếu được thóc tốt thì thừa ra một ít gạo. Những lần như vậy mấy mẹ con mừng lắm, nhưng cũng phải độn thêm khoai hoặc sắn. Khi mùa gặt đến chúng tôi đi mót lúa… Thỉnh thoảng tôi đi theo mấy đứa bạn đi hôi cá… Từ khi mẹ hết tiền chưa hôm nào được ăn no và được ăn không độn. Thịt lợn, thịt bò thì xa lánh hẳn, gặp mùa gà bị toi là lúc mới thấy mùi gà.

*********

Ngày tháng vẫn trôi qua. Mẹ tôi không dám tự mình hồi cư vì mịt mù tin tức, sợ bị Tây bắt. Thấm thoắt đã gần ba năm, chị em chúng tôi mỗi người chỉ có hai bộ áo quần đã rách tả tơi” (sđd, tr. 37).

Trong lúc ấy, Bà Nội “rất lo lắng vì từ khi chạy tản cư đã gần ba năm mấy mẹ con chúng tôi biệt vô âm tín”, nên “thuê người đi tìm mẹ con chúng tôi” (sđd, tr. 38). Bà Nội đã giữ gìn cho các cháu: “Nếu không có Bà Nội có thể tôi đã là một nữ cán bộ và các em có thể là bộ đội hay bệnh hoạn vùi thây nơi rừng thiêng nước độc này!” (sđd, tr. 39).

Về lại Phố Chợ Cẩm Giàng, gặp lại bạn cũ, cũng là lúc cô “thật ngỡ ngàng không thể tin được. Một trang trại rộng lớn đẹp như thế … bây giờ chỉ là bãi đất hoang.” Bạn cô cho biết, “Khi Việt Minh rút đi họ đã đốt, đập phá hủy tất cả những dinh thự họ gọi là tiêu thổ kháng chiến. Nghe nói vậy tôi ngẩn ngơ vì không hiểu tại sao Việt Minh lại làm như vậy. Phá mất đi một trang trại nổi tiếng là đẹp, nên khi những chuyến tàu chạy ngang đây có nhiều người giơ máy chụp ảnh, và tôi không còn được ở đây nữa.” (sđd, tr. 41).

“Bắt đầu từ khi rời khỏi trại Cẩm Giàng, líu ríu dắt ba đứa con chạy tản cư, hồi cư về thành, cơ nghiệp không còn gì. Mẹ rất nghèo, nhờ Bà Nội giúp một phần, mẹ tần tảo, bươn chải nuôi con ăn học” (sđd, tr. 92). Và năm 1953 Bà Nội đã “đích thân đến nhà ông Thám (Tổng Giám đốc Bưu điện Việt Nam) để xin cho mẹ tôi một việc làm… Lương tuy thấp nhưng cũng đủ sống cả mấy mẹ con và lại có nhà ở hai buồng nhỏ, có bếp, bể chứa nước, trong cư xá Bưu điện đằng sau Nhà Hát Lớn, trước cửa Nhà Bác Cổ Hà Nội.” (sđd, tr. 46 & 47)

Sau này, người thiếu nữ ấy gặp Trung úy Ngô Quang Trưởng và khi kết hôn với nhau thì ông đã lên cấp Đại úy, Tiểu đoàn phó tiểu đoàn 5 Nhảy Dù. Cuốn sách đã chia sẻ cuộc đời binh nghiệp của ông Ngô Quang Trưởng bắt đầu từ lúc này. “Anh tham gia trận chiến nhiều hơn làm việc ở văn phòng. Mỗi lần đi hai tới ba tuần mới trở lại đơn vị. Khi trở về anh đã gầy lại gầy hơn, mặt sạm đen, đôi khi bị nổi ngứa khắp cả người. (sđd, tr. 130). Sau đó, được “đổi về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đóng ở Sài Gòn (sđd, tr. 139). “Khoảng thời gian này anh không phải ra trận liên miên như khi còn ở Tiểu Đoàn. Chỉ đi thị sát, và đôi lần anh phải bay ra miền Trung để cùng chỉ huy tham dự những trận đánh do quân Bắc Việt tấn công.” (sđd, tr. 140)

Hơn một năm sau, “khoảng đầu năm 1966, ngay tại thành phố Huế, tình hình khá gay cấn. Dân chúng biểu tình chống đối chính quyền bằng cách đem bàn thờ Phật để ngoài đường phố… Anh được Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (UBHPTU) bổ nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1/BB, Bộ Tư Lệnh đóng tại Thành Nội Huế. (sđd, tr. 150)

Ở Huế 5 năm, Ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn 4 ở Cần Thơ và “rất bận rộn, thời gian ở trên trực thăng nhiều hơn dưới đất. Chỉnh đốn lại Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, thăm các tỉnh, các quận, đồn bót, v.v…” (sđd, tr. 196)

Sau hơn hai năm trấn nhậm ở miền Nam hiền hòa, “Anh nhận được lệnh thuyên chuyển không dự tính, không báo trước Tổng Thống bổ nhiệm làm Tư Lệnh Vùng 1 đóng ở Đà Nẵng… Đây là lần thứ tư đổi chỗ ở trong khoảng năm năm.” (sđd, tr. 201 & 202)

Tác giả đã ghi lại những diễn biến trong hai tháng cuối cùng của nền Đệ Nhị Cộng Hòa mà bà là một chứng nhân. Qua người tùy viên, chúng ta thấy được hình ảnh của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng trong ngày cuối trước khi mất Đà Nẵng:

Giờ phút cuối ở Đà Nẵng, chỉ có anh và chú đi bộ ra bên bờ biển Sơn Trà lặng vắng, mỗi người trên mình độc nhất chỉ một khẩu súng (sđd, tr. 263). Theo lời người tùy viên kể lại ngày cuối tại Đà Nẵng, anh và chú đã đứng tại chỗ này định kết thúc bằng viên đạn.” (sđd, 252)

Đọc những trang sách nói về cuộc đời binh nghiệp của Tướng Ngô Quang Trưởng, độc giả có thể dễ dàng nhận thấy tuy là tướng lãnh của một vùng, nhưng Ông thể hiện tác phong quân kỷ rất nghiêm chỉnh:

“Anh thức dậy sớm rất đúng giờ. Những cư dân trên con đường anh đến Bộ Tư Lệnh mỗi ngày có tiếng đồn không cần xem đồng hồ, mỗi lần thấy xe Tư Lệnh chạy ngang là biết đúng giờ đó anh di chuyển, không bao giờ có xe còi hụ, không người hộ vệ, chỉ có một tùy viên. (sđd, tr. 263)

“Thời gian ở Huế và Đà Nẵng, những ngày cuối tuần hay ngày lễ anh không bao giờ nghỉ. Tôi và các con không có bữa ăn trưa cùng anh. Những bữa cơm tối anh thường về muộn, các con ăn trước, ôn bài vở để đi ngủ sớm. Tuy sống cùng một nhà nhưng chúng chỉ gặp chào anh trước khi đi ngủ.” (sđd, tr. 264)

Những hành xử của Ông trong việc thi hành lệnh quân đội không vị tình riêng, không kết bè, vây cánh để tạo ảnh hưởng riêng:

“… Từ Sài Gòn đổi ra Huế đảm nhận chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh chỉ có một người tùy viên đi theo, ngoài ra không một người thân, … Chuyện chỗ ở, phương tiện, người giúp việc cho gia đình anh cũng để tùy văn phòng họ sắp xếp, tôi cũng không đòi hỏi, không lựa chọn.” (sđd, tr. 266)

Ông luôn luôn sát cánh, chia sẻ với thuộc cấp trong từng nhiệm vụ:

Mỗi khi ra lệnh cấm trại anh luôn luôn cùng ở trong trại với các anh em. (sđd, tr. 151)

Ông cũng không bao giờ lạm dụng chức vụ hay quyền thế để làm ảnh hưởng đến công quỹ nhà nước:

Mùa hạ khi ở Huế, tôi hay đưa các con ra bãi biển Thuận An. Trên đường xe chạy ngang những khu vườn xanh tươi cây trái hoa quả ẩn hiện thấp thoáng những căn nhà lợp ngói đỏ đã phai màu, không gian có vẻ thanh bình, các con thường mong anh đi cùng. Chúng hay hỏi sao Ba không đi, anh chỉ trả lời một câu, “Ba bận làm việc”. Tuổi thơ vô tư chúng không thắc mắc. Tôi biết nếu anh đi, phải có hộ tống, phải lo sắp đặt an ninh. Chỉ một lần vui chốc lát mà bao người phải lo như vậy, lạm dụng công sức của quân đội, một chuyện không thể có ở anh. (sđd, tr. 268)

Và sống rất khiêm nhường, giản dị:

Anh với chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 ở Huế, Tư Lệnh Quân Đoàn 4 ở Cần Thơ, Tư Lệnh Quân Đoàn 1 ở Đà Nẵng, phương tiện di chuyển của tôi cũng chỉ là chiếc xe Jeep cũ mang bảng số dân sự. Thời gian làm Tư Lệnh vùng Một ở Đà Nẵng, người Mỹ có cho một xe du lịch Huê Kỳ màu đen khá rộng để gia đình sử dụng nhưng anh bảo tôi nhường xe ấy cho gia đình Tư Lệnh phó… (sđd, tr. 267 & 268)

Điều quan trọng nhất là Ông giữ gìn rất nghiêm mật đức tính thanh liêm, trong sạch của mình. Còn nhớ “trong thập niên 1960 tại Miền Nam, trong dân gian đã truyền tụng câu: ‘Nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng’ nói lên lòng ngưỡng mộ của người dân đối với bốn vị tướng lãnh này của QLVNCH” (5).

“… một điều quan trọng là không nhận quà biếu của bất cứ ai.” (sđd, tr. 157)

“… quan niệm sống của anh, anh dứt khoát không giúp một ai dù là người thân thích. Anh nói người nào cũng có gia đình, cũng có bố mẹ, cũng có con cái, trong thời chiến trận mình lo cho người thân về chỗ yên lành như vậy còn gì là kỷ luật và còn ai bảo vệ quê hương. Anh đã bị họ hàng thân thích trách hờn.” (sđd, tr. 297)

“Khi còn ở VN, sau bữa cơm tối ra ngồi ngoài sân, anh phân tách những sự việc, những thâm hiểm, những đòn phép của con người khó thể biết được mà vì vô tình hay vì sự tham lam, mình sẽ bị cạm bẫy. Nếu mình phạm vào một lần sẽ có cớ để họ gây khó dễ, họ ăn mười mình ăn một nhưng tiếng tăm mình lãnh hết và gây khó dễ cho công việc anh làm.” (sđd, tr. 271)

Sau đây là một ví dụ:

“Anh ăn giản dị không đòi hỏi nhưng tôi biết ý anh thích những món mặn theo cách chế biến của miền Nam. Hai đứa nhỏ nhất thì thích nấu theo kiểu Huế, còn tôi vẫn thích những món thanh nhẹ của miền Bắc… Tôi thường phụ với chú đầu bếp luôn tiện dạy cho chú cách nấu những món của miền Nam và miền Bắc. Món thịt gà là món mọi người ưa thích nhất, nhưng giá một con gà khoảng hơn một nghìn cho cả nhà không đủ, mà mua hai con thì nhiều tiền quá. Tiền chợ mỗi ngày đã chỉ định chỉ có một ngàn, vì vậy món thịt gà thường vắng bóng trong những bữa ăn.

Tướng Tư Lệnh một vùng mà thức ăn hàng ngày cũng phải tính toán vì còn phải để dành một ít. Thời gian ở miền Tây thực phẩm rẻ và có nhiều lựa chọn, đặc biệt là hải sản và rau củ trái cây, nhờ vậy thức ăn đầy đủ hơn. Tuy vậy, chú bếp cũng không vui, than phiền. Chú nói người tư lệnh trước đưa tiền chợ nhiều gấp hai mà lại ít người hơn, gạo ngon có người cung cấp, nước tương nước mắm họ biếu cả thùng, v.v… và v.v… Với tiền chợ tôi đưa gồm cả gạo mắm muối, chú phải tính mua những món ít tiền mới đủ mặc dù tôi nói chúng tôi không cần những thức ăn cầu kỳ đắt tiền.” (sđd, tr. 265, 266)

Thêm một ví dụ khác:

“Qua nhiều lần nói chuyện với Hòa, có những việc rất nhỏ làm tôi áy náy tự cảm thấy như thiếu bổn phận làm vợ. Chú nói hai thầy trò thường nhịn đói không có bữa ăn trưa. Bữa ăn sáng của anh là một bát cháo trắng với muối đường và một ly nước trà nóng pha đậm. Tôi có nói để mua một tô bún bò hay phở mì, anh hỏi giá bao nhiêu rồi nói mắc quá và mất công đi mua… Hàng ngày anh đến văn phòng rồi lên trực thăng thăm các tiền đồn, chỗ đóng quân, có khi đáp xuống một vài nơi đúng giờ ăn trưa họ mời nhưng không bao giờ anh ở lại ăn. Chú cho biết hôm nào Trung Tướng ăn một hộp trái cây thì Hòa ăn một hộp thịt. Những món đồ hộp thường có để một ít trên máy bay nhưng ít khi ăn vì vậy tùy viên cũng nhịn theo.” (sđd, tr. 264)

Tướng lãnh của một vùng mà bữa điểm tâm chỉ là “một bát cháo trắng với muối đường và một ly nước trà nóng pha đậm” thì đủ hiểu được con người chân chính, thanh liêm của Ông đến bậc nào.

Bằng một văn phong nhẹ nhàng, trong sáng và chân thật thừa hưởng từ Bố Thạch Lam, tác giả Nguyễn Tường Nhung đã chia sẻ về gia đình mình sau khi Nhà văn Thạch Lam mất cũng như về Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, “một người chồng đầy tình cảm lãng mạn, một người cha nhiều trách nhiệm, đã sống một cuộc đời khiêm nhường, khép kín nhưng có lẽ thật bình yên, hạnh phúc khi trở thành một di dân tị nạn tại Hoa Kỳ…” như lời giới thiệu của Nhà xuất bản Thạch Ngữ ở bìa sau sách. Hy vọng Tháng Ngày Qua sẽ góp thêm tài liệu cho những bạn trẻ hoặc những nhà viết sử tương lai khi muốn tìm hiểu về hai gia đình này hay thời kỳ chiến tranh Việt Pháp và chiến tranh Việt Nam. Cuốn sách cũng có thể dựng thành phim ảnh vì nói đến xã hội và con người Việt Nam ở một thời kỳ vô cùng nhiễu nhương. Có đầy đủ tình tiết của chết chóc, đau khổ lẫn vui tươi, sum họp… Có những phân đoạn thương cảm khiến lệ tràn mi mà cũng có những phân đoạn vui tươi với nụ cười hạnh phúc.

– Hình bìa hồi ức Tháng Ngày Qua.

Nhà Thơ Nguyên Sa và Hành Trình Tâm Linh – Nguyễn Đức Tuyên

Nhà Thơ Nguyên Sa và hành trình tâm linh

Những bài thơ cuối sáng tác đầu năm 1998, trước khi lìa đời, đã thể hiện những biến chuyển sâu thẳm trong tâm thức Nguyên Sa. 

Nguyễn Đức Tuyên

Thao thức về thân phận con người, sự vong thân của bản ngã, đời sau… có thể đã đánh động một nhà thơ nhạy cảm, một giáo sư triết học tài hoa, một nhà hành động thực tế…Ông đã từng nói: “Thời gian xóa bỏ nhiều thứ… Việc chấm dứt cho tất cả mọi sự sẽ phải tới… Tất cả sẽ chán chường. Võ sĩ lên đài mà không nghĩ đến chiến thắng, đến tiền thưởng mà chỉ nghĩ đến cái chết gần tới thì chắc chắn quả đấm của võ sĩ ấy phải khác.”

Mới đây, trong buổi phỏng vấn của Barbara Walters trong chương trình truyền hình 20/20 trên đài “ABC” đã được phát sóng ngày 6 tháng 7, 2012 với chủ-đề: “Thiên-Đàng là gì? Thiên-Đàng ở đâu? Làm sao đi đến đó?” Nhiều nhà lãnh đạo các tôn giáo đã phát biểu quan điểm của mình, tuy khác nhau, nhưng tựu trung là một thao thức lớn về “đời sau.”

Trở lại trường hợp Nguyên Sa, trong phần giới thiệu Thơ Nguyên Sa Toàn Tập có ghi lời ông: “Tôi thích được giới thiệu bằng cách đọc lên một bài thơ Nguyên Sa. Đó là cách giới thiệu được cả Nguyên Sa ý thức và vô thức, cho thấy bản ngã của người làm thơ tương đối đầy đủ nhất, cả bản ngã đã có, bản ngã đang có, và bản ngã muốn có.”

Thể theo ý nguyện đó, ta hãy tìm hiểu bài thơ Mật Khẩu của Nguyên Sa:

Mật Khẩu

Ngày nào Thượng Đế cũng tới,

Giờ khắc bất định,

Nhưng ngày nào ông cũng tới ít nhất một lần,

Ngày nào ông cũng mở banh lồng ngực tôi ra,

Thản nhiên bước vào trong,

Tôi không biết ông đi vào tim,

Hay ông đi vào phổi,

Hay cả hai ?

Tôi không biết khi ông đi vào tim, ông dừng lại ở đại động mạch,

Hay ông đi tới khu cổ ngữ của tâm thất trái,

Hay ông đi tới khu sấm ký của tâm thất phải ?

Tôi không biết khi ông đi vào phổi, ông dừng lại ở cuống phổi, 

Hay ông đi tới từng phế nang,

Phế nang có từng chùm, mỗi chùm có cửa đưa vào một nội tâm, mỗi chùm hội tụ theo mật khẩu,

Có những chùm phế nang mật khẩu tên người,

Có những chùm phế nang mật khẩu mang tên sông,

Có những chùm phế nang mật khẩu là tên phố, tên làng, tên hoa, tên cỏ…

Mỗi lần Thượng đế mở toang lồng ngực và bước vào
Tôi sợ đến nín thở,
Tôi sợ ông gọi cửa không được,
Tôi sợ ông quên mật khẩu,
Tôi sợ ông quay ra hỏi,
Tôi sẽ không biết trả lời sao,
Vì tôi cũng không nhớ.

Nguyên Sa

Trước hết, Nguyên Sa nhận ra Thượng Đế. Đó là một khởi sự tuyệt vời. Nhận thức của ông về Thượng Đế nơi bản thân ông không phải là nhận thức về một cái gì chợt có, chợt mất, thấp thoáng, mơ hồ. “Ngày nào Thượng Đế cũng tới… ít nhất một lần.” Ông chưa phải là người đắm chìm trong chiêm niệm thần thiêng như các chính nhân tôn thờ Thượng Đế nhưng đã đủ linh giác để nhận ra Thượng Đế đến với mình mỗi ngày dù vào ”giờ khắc bất định.” Sự liên hệ giữa Thượng Đế và ông đã khá đậm sâu.

Điều đáng chú ý là ông sợ Thượng Đế đến. “Mỗi lần Thượng Đế mở toang lồng ngực và bước vào, Tôi sợ đến nín thở.” Vì sao ông sợ? “Tôi sợ ông gọi cửa không được.” Một Thượng Đế có quyền năng mở toang lồng ngực người thơ, tiến vào các phế nang, tâm thất bằng các chìa khóa bí mật và phức tạp của “cổ ngữ, sấm ký, tên người, tên phố, tên sông, tên cỏ…” – mà lại có chỗ Ngài “gọi cửa không được” sao? Một Thượng Đế đến với nội tâm người thơ, “Thản nhiên bước vào trong,” ung dung, tự tại, vào ra thế nào chính người thơ còn phải băn khoăn theo dõi: “Tôi không biết khi ông đi vào tim ông dừng lại ở đại động mạch, Hay ông đi tới khu cổ ngữ của tâm thất trái, hay ông đi tới khu sấm ký của tâm thất phải, ông đi tới từng phế nang,”- mà bây giờ Ngài “gọi cửa không được” sao ?

Tuy nhiên, đọc bài thơ «Mật Khẩu» của Nguyên Sa, người ta không khỏi sững sờ trước một thực tại vừa cao xa huyền bí, lại vừa riêng tư, gần gũi lạ lùng. Thực tại đó có thể nằm bên trong một cuộc mật đàm lâu dài và kín đáo, hoàn toàn riêng tư giữa hai thực thể thoạt nhiên rất cách biệt nhau: đó là giữa Trời với người?! Bài thơ thật là khó hiểu, tuy lời lẽ mộc mạc, minh họa bằng những hình tượng thô thiển.

Hãy xem Thượng Đế đến với ông thế nào. “Ngày nào ông cũng mở banh lồng ngực tôi ra, thản nhiên bước vào trong.” Thượng Đế không xin hẹn, không bấm chuông, không xưng tên, không khách sáo. Mỗi ngày, vào giờ khắc bất định, Ngài tới mở banh lồng ngực của người thơ ra, thản nhiên bước vào. Đây là một quang lâm Thượng Đế hoàn toàn chủ động, vừa đầy uy quyền, vừa đầy thân thiết. Người thơ tự hỏi “… không biết ông đi vào tim, hay ông đi vào phổi, hay cả hai?” Tôi nghĩ “cả hai” vì những câu thơ sau đó cho thấy người thơ theo dõi bước đi của Thượng Đế trong tim phổi mình. Ngài không bước vào đầu óc, vào lý trí người thơ mà bước vào lồng ngực, căn nhà của phổi và tim. Phổi là nhà của hơi thở làm nên sự sống. Đó là hơi thở Thượng Đế đã thổi vào loài người khi Ngài tạo dựng nên họ từ cát bụi. Tim là ngai tòa ấm áp của tình yêu, cũng là ngai tòa của Thượng Đế vì Thượng-Đế-Là-Tình-Yêu. Ngài đi vào lồng ngực mở banh của người thơ để làm cho sự sống của ông thăng hoa, sung mãn, và để chinh phục tình cảm ông. Cho nên Ngài đến mỗi ngày. Dù ông chưa ý thức rõ ràng về Thượng Đế, Ngài thực đã tìm đến với ông bằng tình yêu của Ngài.

Quả vậy, trong bài thơ, chỉ có hai ngôi vị: «Thượng Đế» và «Tôi». Đôi bên chắc phải có một giao ước mặc nhiên về cuộc gặp gỡ riêng tư với nhau, theo thời khóa ít ra mỗi ngày một lần trong một thời gian dài, và có cả một thỏa hiệp về một «mật khẩu» để Thượng Đế dùng khi bất ngờ, bất định, bất thần gõ cửa muốn gặp Tôi nơi sâu thẳm của nội tâm.

Bài thơ mở đầu với xác nhận:

Ngày nào Thượng Đế cũng tới,

Giờ khắc bất định,

Nhưng ngày nào ông cũng tới ít nhất một lần,

Ngày nào ông cũng mở banh lồng ngực tôi ra,

Thản nhiên bước vào trong,

Và bài thơ kết thúc với khẳng định đã có «mật khẩu» được thỏa thuận để Thượng Đế xướng lên cho cửa lòng Tôi mở ra. Nhưng điều oái oăm là đôi bên có thể quên «mật khẩu» đó, nên Tôi sợ, «sợ đến nín thở», «Tôi sợ ông gọi cửa không được.» Thực vậy, đây là phần kết:

Mỗi lần Thượng đế mở toang lồng ngực và bước vào,
Tôi sợ đến nín thở
Tôi sợ ông gọi cửa không được
Tôi sợ ông quên mật khẩu
Tôi sợ ông quay ra hỏi
Tôi sẽ không biết trả lời sao
Vì tôi cũng không nhớ.

Với đoạn kết này, tác giả đưa nhân vật Tôi vào một ngỏ bí thật rùng rợn: vì “quên” cái chìa khóa mở cửa vào nội tâm, nên Tôi có nguy cơ lâm cảnh đánh mất chính bản thân mình mà chính Thượng Đế cũng không cứu được Tôi. Quả vậy, Thượng Đế tôn trọng giao ước về “mật khẩu” nên cũng đành bó tay trước cái “quên” dại dột của con người chăng?! Và như một sự an bài của định mệnh, con người cũng đành bó tay trước thân phận đọa đầy của mình như nàng Kiều: “đến phong trần cũng phong trần như ai” (Kiều, c. 1192) chăng?

Thật là trớ trêu, khốn đốn cho thân phận con người! Câu kết bài thơ «Vì tôi cũng không nhớ» dường như muốn thú nhận thân phận bi đát của Tôi đối mặt với Thượng Đế: đó là thân phận của cái Tôi quên, «không nhớ!» Tôi bé bỏng, yếu đuối trước mặt Thượng Đế, nhưng lại mang nhiều ngõ ngách ngoắt ngoéo, hiểm hóc, bí ẩn trong người. Tuy chứa đầy chữ nghĩa trong tim óc -cổ ngữ, sấm ký- nhưng Tôi hốt hoảng nói không ra lời, vì Tôi sợ đến nín thở mỗi lần Thượng Đế mở toang lồng ngực và bước vào… gặp cái Tôi «không nhớ» lời giao ước cũng như «không nhớ» chính bản thân mình…

Đúng vậy, Nguyên Sa nhìn nhận là Tôi sợ và Tôi quên, nếu Thượng Đế quay ra hỏi… «mật khẩu» mang tên người, tên sông, tên phố, tên làng, tên hoa, tên cỏ, Tôi quên béng nó đâu rồi! Đúng, Tôi phải thú nhận là Tôi quên các «mật khẩu» đưa vào sự sống mà Tôi đã trải qua và muốn quên đi chăng?!

Tóm lại, cuộc diện xảy ra như sau: Ngày nào Thượng Đế cũng tới,… mở banh lồng ngực tôi ra, thản nhiên bước vào trong. Nhưng, Tôi không biết ông đi đâu, vào tim hay vào phổihay cả hai… Tôi không biết khi ông đi vào tim, rồi dừng lại ở đâu, ở khu cổ ngữ hay khu sấm kýHay ông đi tới từng phế nang, phế nang có từng chùm, mỗi chùm có cửa đưa vào một nội tâm, mỗi chùm hội tụ theo mật khẩu. Mỗi lần Thượng Đế đếnTôi sợ ông quên mật khẩu, và Tôi sợ… ông hỏi, tôi cũng không nhớ.

Thật quái lạ, oái oăm, khốn đốn cho thân phận con người Tôi: cái Tôi không biết, cái Tôi hay sợ, cái Tôi hay quên… Đó là cội nguồn của mọi hư đốn, bệ rạc! Nguyên Sa đi từ đâu… để đến nông nổi này?

Chắc khởi đầu, Nguyên Sa cũng như bao người Việt Nam thường ngước mặt lên kêu “Trời!” mỗi khi cần đến! Họ gọi nôm na Thượng Đế là ông Trời. “Ông” chỉ một ngôi vị; “Trời” chứa một bầu khí bao la. Mà không khí dùng để nuôi sống vạn vật. Và con người nhờ hít thở không khí mà sống; tắt thở tức là chết! – Dĩ nhiên, “Thác là thể phách, còn là tinh anh” (Kiều 116)-. Dân gian vẫn hình dung “không khí” là “tinh”, là “thần” (vì khí không có hình hài), từ Trời mang sức sống thấm nhuần vũ trụ và loài người. Thần khí chan hòa nối liền trời với đất, ông Trời với con người. Ở đâu người ta cũng cảm nhận có thần khí thâm nhập, mặc muôn hình vạn trạng, nhưng chỉ có một ông Trời. Đó là niềm tin dân giả truyền thống lâu đời của người dân Việt.

Bước thứ hai của nhà thơ Nguyên Sa là đã nhận chân ra được, không phải một ông Trời rộng lớn bao trùm khắp tất cả, mà một vị Thượng Đế có lòng đến thăm hỏi Tôi ít ra là mỗi ngày một lần. Đối với Nguyên Sa, Thượng Đế không đến tượng trưng như một chính khách muốn làm thân với người dân thuộc khu vực cử tri nào, mà đến để viếng thăm và tìm hiểu cặn kẽ từng vấn đề của nội tâm Tôi.

Hơn nữa, đối với Nguyên Sa, Thượng Đế không đến như là khách, mà đến như là chủ nhà, “giờ giấc bất định,” mở toang cửa “thản nhiên bước vào trong”, vào “tim”, vào “phổi,” và có thể vào từng “phế nang.”Tuy nhiên, ở tim chắc Thượng Đế đọc được “cổ ngữ” hay “sấm ký” sẵn có; còn ở phổi, nơi thông thương với khí Trời làm mạch sống, thì, lạ lùng thay, Thượng Đế lại cần “mật khẩu” để vào từng các phế nang! Thượng Đế tôn trọng sự sống của Tôi đến thế sao?

Theo niềm tin của Nguyên Sa, thật rõ ràng là chính Thượng Đế đi bước trước, trực tiếp can thiệp vào đời sống con người, vào chính bản thân Tôi. Quả vậy, Thượng Đế đường đường hành động như đã có một giao ước bất thành văn cho phép Thượng Đế mở toang lồng ngực và bước vào, gọi cửa. Nhưng phần tôi, Tôi sợ đến nín thở, Tôi sợ ông gọi cửa không được vì Tôi sợ ông quên mật khẩu đã ghi trong giao ước mà Tôi đã chấp nhận. Chắc Thượng Đế muốn thử lòng Tôi xem Tôi có sẵn sàng để Người dùng “mật khẩu” mà vào được nội tâm Tôi chăng?!

 Bài thơ «Mật Khẩu» của Nguyên Sa đến đây là chấm dứt. Bài toán chưa có đáp số! Bởi Nguyên Sa còn đang đi tìm hiểu tại sao Thượng Đế lại dấn thân đi bước trước đến với cái Tôi nhỏ bé của Nguyên Sa, và tại sao Ngài cần «mật khẩu» của Tôi để mở được cửa vào tận đáy lòng Tôi, tiếp xúc với sự sống thâm kín nơi Tôi? Vậy «mật khẩu» đó có tên gọi là gì để đại diện cho con người bé bỏng và vạn vật vô thường hầu có thể đối mặt với Thượng Đế cao cả?

Khi Nguyên Sa tìm ra được đáp số là lúc mà nhà thơ sẽ ngộ được chân lý vĩnh hằng: Thượng Đế là Thiên Chúa hằng sống, từ muôn thuở đã cùng với Thần Khí của Ngài mà sinh ra Con của Người (Ngôi Lời), mẫu thức cho việc tạo thành con người và vũ trụ. Lúc ấy hẳn Nguyên Sa sẽ hiểu được tại sao Thiên Chúa cần «mật khẩu» có tên là Con Người (Đức Giêsu Kitô) để đến tới tận cùng ngõ ngách của lòng người. Bởi không có Con Người thì vạn vật trong đó có Tôi sẽ không là gì trước mặt Thiên Chúa. Hơn nữa, Thánh Phaolô nói trong sách Tông Đồ Công Vụ: “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv. 4,12).

Có thể nhận định một cách khác ngắn gọn hơn: Chúa biết mọi sự, kiểm soát tim phổi, hai cơ quan sinh động của con người, nhưng Chúa để cho con người tự do.

Nguyên Sa là một người công chính, kính sợ Chúa. Ông chôn chặt vào nhiều chùm phế nang những điều ông đã làm.

Ông đặt ra mật khẩu (password) để mở từng chùm phế nang. Đàng khác Chúa cho ông khả năng quên, có quên thì mới sống yên ổn.

Cho nên ông sợ ngày Chúa hỏi ông làm gì với cái tự do, đó là lúc ông phải dùng mật khẩu tìm lại những điều đã làm mà nay quên mất, quên cả mật khẩu để mở phế nang để tìm kiếm …

***

Nhớ lại, trong lễ an táng nhà thơ Nguyên Sa tại thánh đường Polycarp, Orange, California, linh mục Phạm Ngọc Hùng có kể lại đêm ban phép Thánh Tẩy cho Giáo sư Trần Bích Lan, đại để như sau: Vào một buổi tối đã khuya, một thanh niên đến gõ cửa xin linh mục đi làm phép Thánh Tẩy cho một bệnh nhân muốn tin nhận đạo Công giáo. Linh mục lật đật lên xe đi theo người thanh niên, là con trai của Nguyên Sa, cũng là một bác sĩ. Trên đường đi, qua câu truyện trao đổi, linh mục mới được biết bệnh nhân đó là nhà thơ Nguyên Sa. Thật xúc động vì không ngờ được làm phép Thánh Tẩy cho một nhà thơ, một giáo sư triết học nổi tiếng lẫy lừng mà linh mục hằng ngưỡng mộ, nhưng chưa một lần gặp mặt.

Gặp nhà thơ Nguyên Sa trong một căn phòng của bệnh viện, với sự hiện diện của một số thân hữu của nhà thơ cùng với một số anh chị em thiện chí Công Giáo – những người luôn sẵn sàng giúp đỡ những người muốn tìm hiểu Đạo Công giáo – linh mục Phạm Ngọc Hùng nói, “Thưa bác, bác còn đang đau yếu, xin bác cứ ngồi trên ghế để con cử hành nghi thức Thánh Tẩy cho bác.” Nhà thơ trả lời, “để tỏ sự kính trọng đối với một bí tích, xin cha cứ để con quỳ xuống, không sao”. Một cử chỉ thật đẹp, thật khiêm nhường của nhà thơ Nguyên Sa.

Tin theo Đạo Chúa, ông nhận thánh bổn mạng – tên thánh, theo ngôn ngữ Công giáo – là Giuse. Giuse Trần Bích Lan.

Người ta cũng đọc thấy phần ghi chú đơn sơ nhưng súc tích dưới tấm ảnh Nguyên Sa đội mũ casket quen thuộc trong cuốn Thơ Nguyên Sa như sau:

“Thi sĩ Nguyên Sa

Giuse Trần Bích Lan

Sinh ngày 1 tháng 3 năm 1932 tại Hà Nội

Chúa gọi về ngày Thứ Bảy, 18 tháng 4, 1998

Tại California, Hoa Kỳ”

Trong ngày tang lễ tiễn đưa ông, từ nhà thờ St. Polycarp ra nghĩa trang Peek Family trong một ngày nắng chói chang, đàng sau tang quyến là rất nhiều thân bằng, quyến thuộc. Họ là những giáo chức, nhà thơ, nhà văn, nhà báo và đông đảo cựu học sinh của ông; chắc hẳn nhiều người đã nhân dịp này suy nghĩ về cuộc đời và sự chọn lựa cuối đời của ông.

Theo tôi biết thì phu nhân của thi sĩ Nguyên Sa, G.S. Trịnh Thúy Nga, cũng đã tìm về Đạo Chúa cách đây mấy năm trong âm thầm, lặng lẽ, khiêm cung nhưng đầy xác tín.

Nguyễn Đức Tuyên

 Ghi Chú: Trong buổi ra mắt sách Hành Trình Đức Tin ngày 28.9.2014 tại Trung Tâm Công Giáo, Giáo Phận Orange, Hoa Kỳ, bà Trịnh Thúy Nga, phu nhân GS Nguyên Sa đã phát biểu 2 điều: thứ nhất, thi sĩ Nguyên Sa đã nhận lãnh phép Rửa Tội khi còn minh mẫn và sáng suốt, thứ hai, chính bà Trịnh Thúy Nga cũng đã tìm về Đạo Chúa sau thi sĩ Nguyên Sa 10 năm và nay bà cảm thấy an bình, hạnh phúc.

NỮ BÁC SĨ ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM

Lương Văn Can

NỮ BÁC SĨ ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM: NGƯỜI ĐẸP THÔNG THẠO 7 THỨ TIẾNG, TÀI GIỎI GÂY CHẤN ĐỘNG MỘT THỜI

Bà Henɾiette Bùi biết ᵭến 7 ngoại ngữ, bao gồm: Tiếng Pháρ, tiếng Tɾung, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ý, tiếng La Tinh và tiếng Hy Lạρ.

Bà Henɾiette Bùi Quαng Chiêu sinh ngày 8/9/1906 tại Hà Nội và lớn lên ở Sài Gòn. Bà xuất thân tɾong một gia ᵭình tɾi thức và giàu có nức tiếng thời bấy giờ. Điều khiến bà ᵭược người ᵭời nhớ tới là bởi, bà chính là nữ bác sĩ ᵭầu tiên ở Việt Nαm. Tài năng, năng lực học tậρ của nữ bác sĩ này từng gây chấn ᵭộng một thời…

Thông thạo ᵭến 7 thứ tiếng, tốt nghiệρ tɾường Y với luận án xuất sắc

Ngay từ nhỏ, bà Henɾiette Bùi Quαng Chiêu ᵭã ᵭược ăn học ᵭầy ᵭủ. Bà cũng ɾất sáng dạ và luôn có thành tích học tậρ xuất sắc. Thưở nhỏ, bà Henɾiette Bùi Quαng Chiêu theo học tại Tɾường Sαint Pαul de Chαɾtɾes (tɾường Nhà Tɾắng) tại Sài Gòn. Năm 1915, bà thi vượt cấρ và nhận bằng Ceɾtificαt d’Études sớm 2 năm, ɾồi vào học tɾường Collège des Jeunes Filles, tức Tɾường Tɾung học Gia Long, tɾường Áo Tím sau này, mà nay là Tɾường THPT Nguyễn Thị Minh Khai thuộc quận 3, TP.HCM.

Năm 15 tuổi, Henɾiette Bùi Quαng Chiêu ᵭược ᵭưa sang Pháρ du học tại Tɾường Lycée Fenelon ở Paɾis vào năm 1926. Năm 1927, bà vào học Y tại ĐH Y khoa Paɾis. Thời ᵭiểm ấy, việc ρhụ nữ học lên ᵭại học ᵭã ít, huống chi còn là ĐH Y, và còn là một nữ sinh người Việt. Chính vì vậy mà sự kiện này gây chấn ᵭộng thời ᵭó. Sự có mặt một ρhụ nữ Việt tại một tɾường ᵭại học danh tiếng của Pháρ cũng là bước ᵭột ρhá tɾong hệ thống giáo dục của nước này.

Sαu 7 năm miệt mài học tậρ, bà Henɾiette Bùi Quang Chiêu tốt nghiệρ tɾường Y với luận án ᵭạt loại xuất sắc vào năm 1934. Bản luận án thậm chí còn ᵭược Hội ᵭồng giám khảo khen ngợi và tặng thưởng huy chương. Từ ᵭây, Henɾiette chính thức bắt ᵭầu con ᵭường hành nghề y, tɾở thành nữ bác sĩ khoa sản ᵭầu tiên của Việt Nam.

Một ᵭiều ấn tượng nữa, ᵭó là bà Henɾiette Bùi Quang Chiêu biết ᵭến 7 ngoại ngữ, bαo gồm: Tiếng Pháρ, tiếng Tɾung, tiếng Anh, tiếng Tây Bαn Nha, tiếng Ý, tiếng La Tinh và tiếng Hy Lạρ.

Chọn cứu người, thay vì hạnh ρhúc ɾiêng tư

Năm 1935, Ьà Henɾiette về nước lấy chồng theo lệnh của chα mẹ. Chồng bà là ông Vương Quang Nhường, Tiến sĩ Luật khoa ᵭầu tiên củα Việt Nam. Thời ᵭiểm về nước, bà Henɾiette nhậm chức Tɾưởng khoa Hộ sinh cho một bệnh viện sản ở Chợ Lớn, và là người ρhụ nữ Việt Nαm ᵭầu tiên có tɾách nhiệm chăm lo hệ thống bệnh viện thuộc ᵭịa thời ấy.

Cuộc hôn nhân của Ьà và ông Nhường chỉ kéo dài ᵭược 2 năm vì bà Henɾiette ɾất bận ɾộn công việc, thường xuyên ρhải ɾa khỏi nhà vào ᵭêm hôm ᵭể ᵭi cứu người. Sαu ᵭổ vỡ, bà tái giá với kỹ sư, ᵭồng thời là bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích. Ông Bích từng tốt nghiệρ kỹ sư cầu cống từ tɾường nổi tiếng bậc nhất xứ Pháρ “École Polytechnique,” vốn chỉ dành ɾiêng cho sinh viên ưu tú nhất củα nước Pháρ và thế giới thời ấy.

Được biết thời ᵭiểm làm việc tại bệnh viện sản ở Chợ Lớn, bà Henɾiette thường xuyên ᵭấu tɾanh tɾực diện với cấρ tɾên ᵭể yêu cầu những quyền lợi chính ᵭáng cho y bác sĩ Việt, cho bệnh nhân người Việt, tɾước sự bất công, thiên vị dành cho bác sĩ, bệnh nhân người Pháρ.

Tɾong suốt 44 năm theo nghề y, bà Henɾiette từng làm việc cả ở Việt Nam và Pháρ. Năm 1957, bà từng sang Nhật học thêm châm cứu ᵭể áρ dụng tɾong ngành sản khoa. Năm 1961, bà sang Pháρ sinh sống và mở ρhòng mạch ɾiêng.

Năm 1970, bà Henɾiette về nước, tình nguyện ρhục vụ không lương tɾong ngành hộ sản và nhi khoa tại Bệnh viện Phú Thọ. Năm 1971, bà lại sang lại Pháρ tiếρ tục làm nghề y ᵭến năm 1976 và mất vào ngày 27/4/2012 tại Pαɾis, thọ 106 tuổi.

Được biết, bà Henɾiette còn hiến tặng biệt thự tư gia củα bà ở số 28 ᵭường Testαɾd làm cơ sở cho Tɾường ĐH Y khoa Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn. Hiện nay, nơi này là ᵭịa ᵭiểm thuộc Bảo tàng Chứng tích chiến tɾanh ở ᵭường Võ Văn Tần, TP.HCM.

Theo: Vietnamnet

CÂY NÊU NGÀY TẾT

Rung Nga Nguyen

CÂY NÊU NGÀY TẾT

Hàng năm, cứ vào dịp Tết Nguyên đán ông Táo về trời là Quỷ vào quấy nhiễu đất liền, người ta trồng cây nêu để Quỷ không bén mảng đến chỗ Người cư ngụ còn mang tính chất trừ tà.

Trên cây nêu có treo khánh đất, có tiếng động phát ra khi gió rung để nhắc nhở bọn Quỷ nghe mà tránh. Trên ngọn cây nêu còn buộc một bó lá dứa hoặc cành đa mỏ hái để cho Quỷ sợ. Ngoài ra, người ta còn vẽ hình cung tên hướng mũi nhọn về phía đông và rắc vôi bột xuống đất trước cửa ra vào trong những ngày Tết để cấm cửa Quỷ.

Có người cho đó là hủ tục mê tín dị đoan, tuy nhiên nhìn sâu vào từng chi tiết bên trong câu chuyện để thấy được tính nhân văn của nó mà cảm nhận được ý nghĩa của việc trồng cây nêu ngày Tết như thế nào. Cây tre là biểu trưng cho tính chất dẻo dai bền bỉ và vững chắc là bản sắc của con người Việt Nam, Gió bão cực mạnh cũng không làm tre đổ hay bật rễ, biểu tượng của người quân tử, khí thế hiên ngang tâm hồn cao thượng, kiên cường trước gió cao ngạo với cái “sỹ” của người quân tử tính tình thẳng thắn như cây tre.

Trồng cây nêu đầu năm mới để đánh dấu những ngày vui, hạnh phúc nhất trong năm, những may mắn mới với ước mong nhiều đổi mới hơn, nhiều thành đạt hơn. Trên cây nêu còn treo đèn lồng vào buổi tối với ý nghĩa để soi đường cho hương linh ông bà tổ tiên thấy đường về nhà đón tết cùng con cháu. Đây cũng nói lên ý nghĩa cao quý qua tinh thần hiếu đạo, tưởng nhớ ông bà tổ tiên.

ST

Cãi nhau, ông gốc Việt ở Texas bắn bạn nhậu đồng hương chết tại chỗ

Cãi nhau, ông gốc Việt ở Texas bắn bạn nhậu đồng hương chết tại chỗ

January 13, 2022

SAN LEON, Texas (NV) – Một ông gốc Việt ở Texas bị bắt vì nghi bắn chết ông gốc Việt khác sau khi hai người cùng nhậu rồi cãi nhau cuối tuần qua, theo báo Galveston County Daily News hôm Thứ Hai, 10 Tháng Giêng.

Vụ nổ súng xảy ra sáng Chủ Nhật. Cảnh sát xác nhận nạn nhân là ông Sang Nguyễn, 66 tuổi.

Cảnh sát vẫn đang điều tra nguyên nhân dẫn đến vụ nổ súng. (Hình minh họa: Galveston County Sheriff’s Office)

Cùng ngày, cảnh sát cũng bắt giữ và truy tố ông Tuấn Anh Trần, 52 tuổi, tội giết người, ông Henry Trochesset, cảnh sát trưởng Galveston County, cho hay.

Cảnh sát đến khu 600 đường Ninth sau khi nhận được tin báo có người bị bắn, ông Trochesset cho biết.

Khi nhân viên cấp cứu tìm thấy nạn nhân, họ làm hô hấp nhân tạo cho ông ta, theo ông Trochesset. Nạn nhân được công bố chết tại hiện trường lúc 9 giờ 48 phút sáng, ông Trochesset loan báo.

Hai ông này cãi nhau trong lúc đang nhậu tối hôm trước, ông Trochesset cho biết thêm.

Một ông bỏ chạy khỏi hiện trường nhưng bị cảnh sát bắt gần đó, ông Trochesset cho hay. Cảnh sát còn tịch thu khẩu súng của ông này, theo ông Trochesset.

Cảnh sát vẫn đang điều tra nguyên nhân dẫn đến vụ nổ súng, ông Trochesset nói.

Đến chiều Thứ Hai, ông Tuấn vẫn đang bị giam tại nhà tù Galveston County, tiền thế chân tại ngoại được ấn định $125,000, theo hồ sơ nhà tù. (Th.Long) [qd]

Diễn văn của TT Biden nhân dịp một năm Quốc Hội Mỹ bị tấn công

Diễn văn của TT Biden nhân dịp một năm Quốc Hội Mỹ bị tấn công

January 6, 2022

WASHINGTON, DC (NV) – Nhân dịp đánh dấu một năm vụ bạo loạn tại Quốc Hội, mà trong đó, ủng hộ viên của cựu Tổng Thống Donald Trump tấn công vào tòa nhà Quốc Hội nhằm ngăn chặn tiến trình xác nhận kết quả bầu cử năm 2020, mà trong đó, ông Trump thua ông Joe Biden, làm năm người chết, hơn 140 người bị thương, và hàng trăm người bị bắt và truy tố, hôm Thứ Năm, 6 Tháng Giêng, Tổng Thống Joe Biden đã đọc bài diễn văn tại Statuary Hall, dưới mái vòm Rotunda của Quốc Hội, gởi đến người dân Mỹ.

Tổng Thống Joe Biden đọc bài diễn văn tại Quốc Hội nhân đúng một năm xảy ra vụ người ủng hộ cựu Tổng Thống Donald Trump gây bạo loạn. (Hình: Greg Nash-Pool/Getty Images)

Sau đây là bản dịch toàn bộ bài diễn văn:

Thưa bà phó tổng thống và thưa quốc dân đồng bào,

Đúng vào ngày này một năm trước đây, tại nơi thiêng liêng này, nền dân chủ nước Mỹ bị tấn công. Ý chí của người dân bị tấn công. Hiến Pháp của đất nước chúng ta phải đối mặt với mối đe dọa nghiêm trọng nhất. 

Dù phải đối mặt trước các cuộc tấn công tàn bạo với số lượng người đông hơn gấp bội, các thành viên Cảnh Sát Quốc Hội, Sở Cảnh Sát Washington DC, Vệ Binh Quốc Gia cùng những nhân viên công lực can đảm khác đã cứu nguy cho công lý. 

Nền dân chủ đã được giải cứu. Người dân đã chiến thắng.

Lần đầu tiên trong lịch sử của đất nước, một tổng thống vừa thất cử cố gắng ngăn cản việc chuyển giao quyền lực một cách ôn hòa với một đám đông hỗn loạn, đầy bạo lực, tấn công vào Quốc Hội. Nhưng họ đã thất bại! Thật sự, hoàn toàn thất bại!

Và vào ngày đáng ghi nhớ này, chúng ta phải bảo đảm rằng một cuộc nổi loạn như vậy sẽ không bao giờ, không bao giờ, xảy ra một lần nữa.

Hôm nay, tôi nói chuyện với đồng bào từ Statuary Hall, trụ sở Quốc Hội. Đây là nơi Hạ Viện đã họp trong 50 năm ở những thập niên trước Nội Chiến.

Tại đây, này, nơi một thượng nghị sĩ trẻ của tiểu bang Illinois, ông Abraham Lincoln, ngồi ở bàn 191. Phía trên ông, phía trên chúng tôi đi qua cánh cửa đó, dẫn vào mái vòm, là bức tượng của Clio, nữ thần lịch sử. Trên tay bà, một cuốn sách đang mở, trong đó bà ghi lại những sự kiện đang diễn ra nơi đây. Nữ thần lịch sử Clio hiện diện tại hội trường này, đúng một năm trước đây, cũng như hơn 200 năm qua. Bà ghi lại những gì đã diễn ra: Lịch sử thật, dữ kiện thật, sự thật mà Phó Tổng Thống Kamala Harris vừa mới kể. “Sự thật” mà quý vị cùng tôi và cả thế giới tận mắt chứng kiến.

Kinh Thánh nói rằng hãy nhận biết sự thật và sự thật sẽ giải thoát chúng ta. Chúng ta sẽ biết sự thật. Đây là sự thật về ngày 6 Tháng Giêng, 2021. 

Hãy nhắm mắt lại và quay trở lại ngày hôm đó. 

Đồng bào thấy gì?

Những kẻ nổi loạn tràn ngập vào bên trong toà nhà Quốc Hội này, đưa lá cờ Liên Minh Miền Nam tượng trưng cho nguyên nhân chia cắt và tiêu diệt nước Mỹ. 

Ngay cả trong thời Nội Chiến, bạo loạn như thế chưa bao giờ xảy ra. Nhưng chuyện này đã xảy ra ở đây vào năm 2021 vừa qua.

Đồng bào còn thấy gì nữa không? 

Một đám đông ô hợp, đập vỡ kiếng cửa sổ, phá các cửa ra vào, xâm nhập vào Quốc Hội, dùng cán cờ Mỹ làm vũ khí như giáo mác, dùng bình cứu hỏa phang vào đầu các cảnh sát viên. 

Một đám đông ô hợp luôn miệng tuyên bố yêu quý nhân viên công lực nhưng lại hành hung các nhân viên cảnh sát: Kéo lê, xịt hơi cay, và dẫm đạp lên họ. Đã có tới hơn 140 cảnh sát bị thương. 

Tất cả chúng ta đều nghe các viên chức cảnh sát, túc trực tại nơi này trong ngày hôm đó, ra điều trần, kể lại những gì đã xảy ra. Một giới chức công lực mô tả đó là “một trận hỗn chiến thời Trung Cổ,” và sự việc xảy ra trong ngày hôm đó làm cho ông sợ hãi hơn cả khi chiến đấu tại Iraq.

Thử hỏi: Đố có người nào, bất kỳ ai, dám giảm nhẹ, coi thường, hoặc phủ nhận “lửa địa ngục” mà những cảnh sát viên phải trải qua trong ngày hôm đó?

Chúng ta tận mắt chứng kiến ​​những kẻ bạo loạn hoành hành khắp mọi chỗ tại toà nhà Quốc Hội này. Rồi họ còn đe dọa tính mạng vị chủ tịch Hạ viện, hay dựng giá đòi treo cổ vị phó tổng thống của Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ.

Còn những điều gì mà chúng ta không nhìn thấy? 

Đó là chúng ta không thấy một cựu tổng thống, sau khi kích động đám đông tấn công vào Quốc Hội, rồi rút êm vào trong phòng ăn riêng, kế Phòng Bầu Dục trong Toà Bạch Ốc, ngồi xem tất cả diễn tiến của cuộc nổi loạn, trên màn ảnh truyền hình. 

Nhưng, ông ấy đã không hành động gì hết, dù chứng kiến cảnh sát bị hành hung, dù bao nhiêu sinh mạng bị đe doạ, và thủ đô nước Mỹ chìm trong hỗn loạn.

Những người nổi loạn đó không phải là khách du lịch. Đây là một cuộc nổi dậy có vũ trang. 

Những người nổi loạn này không tìm cách bảo vệ mà tìm cách phủ nhận ý chí người dân. Họ đến để áp đặt duy ý chí chứ không tìm kiếm một cuộc bầu cử tự do và công bằng. Họ đến để tìm cách lật ngược kết quả bầu cử. 

Họ đến nhưng không phải để cứu chính nghĩa, mà tìm cách chà đạp Hiến Pháp nước Mỹ. 

Nhắc lại chuyện này hôm nay, không phải để bị sa lầy trong quá khứ, nhưng để bảo đảm những sai trái của quá khứ không bị chôn vùi.

Đó là phương cách duy nhất để tiến lên phía trước. 

Đó là những gì các quốc gia vĩ đại từng thực hiện: Không vùi lấp sự thật mà đối mặt để giải quyết. Điều này nghe có vẻ cường điệu hoá, nhưng đó là sự thật. 

Các quốc gia vĩ đại đó luôn sẵn sàng đối diện sự thật. 

Và đất nước chúng ta cũng là một quốc gia vĩ đại như thế.

Thưa đồng bào, sự thật luôn hiện hữu trên cuộc đời, tuy nhiên, cũng cay đắng rằng vẫn tồn tại những lời nói dối. 

Những lời dối gạt được hình thành và lan truyền vì lợi ích và quyền lực. 

Chúng ta cần phải tuyệt đối biết rõ ràng đâu là sự thật và đâu là dối trá! 

Và đây là sự thật: Cựu tổng thống Mỹ đã bịa đặt và lan truyền một hệ thống dối trá về cuộc bầu cử năm 2020. 

Ông ấy làm như thế vì coi trọng quyền lực cá nhân hơn nền tảng quốc gia, bởi vì, ông ấy nhìn lợi ích của bản thân quan trọng hơn lợi ích của nước Mỹ. 

Và ông ấy cho rằng tự ái của mình bị tổn thương còn quan trọng hơn nền dân chủ hay Hiến Pháp của đất nước.

Ông ấy không muốn chấp nhận thua cuộc, mặc dù, đó là điều mà 93 vị thượng nghị sĩ, bộ trưởng tư pháp, và cả vị phó tổng thống của ông ấy, cùng các thống đốc và giới chức ở các tiểu bang chiến trường đều đồng thuận: Ông ấy đã thua cuộc bầu cử.

Và đó cũng là điều mà 81 triệu người Mỹ đã làm khi quyết định bỏ phiếu cho một con đường mới ở phía trước. 

Ông ấy đã làm một điều mà chưa từng có một vị tổng thống nào trong lịch sử nước Mỹ thực hiện: Đó là từ chối chấp nhận kết quả của một cuộc bầu cử và ý chí của người dân Mỹ.

Trong khi một số người, nam và nữ giới, can đảm trong đảng Cộng Hòa, đang chống lại sự dối trá đó, họ cố gắng bảo tồn nền móng nguyên tắc của đảng, thì lại có quá nhiều người khác đang biến đảng đó thành một thứ gì đó khác, không còn là đảng của các tổng thống như Lincoln, Eisenhower, Reagan, hay hai cha con Bush.

Bất chấp những khác biệt giữa tôi với những người Cộng Hòa trung thành với một nhà nước pháp quyền chứ không phải với một cá nhân, tôi sẽ luôn tìm cách làm việc cùng với họ, để tìm ra các giải pháp chung.

Bởi vì nếu chúng ta có chung niềm tin vào nền dân chủ, thì bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra. 

Vì vậy, ngay lúc này, chúng ta cần phải quyết định xem chúng ta sẽ trở thành quốc gia nào? 

Nước Mỹ sẽ trở thành một quốc gia chấp nhận bạo lực như một chuẩn mực chính trị chăng? 

Hay liệu đất nước này trở thành một quốc gia cho phép giới chức bầu cử có quyền lật ngược ý chí của người dân được thể hiện một cách hợp pháp qua lá phiếu hay không?

Liệu có phải chúng ta trở thành một quốc gia sống không dưới ánh sáng sự thật mà dưới cái bóng của sự dối trá? 

Chúng ta không thể cho phép mình trở thành loại dân tộc như vậy. Con đường tương lai phía trước là nhìn nhận và sống theo sự thật.

Lời dối trá “Big Lie” được cựu tổng thống và nhiều đảng viên Cộng Hòa, những người sợ cơn thịnh nộ của ông ấy, kể lại là vụ nổi loạn ở đất nước này thực sự diễn ra vào Ngày Tổng Tuyển Cử, 3 Tháng Mười Một, 2020.

Hãy suy nghĩ về việc này. 

Những gì họ nói đó, có phải là những gì đồng bào nghĩ hay không? Hay đó có phải là những gì mà đồng bào nghĩ đến khi bỏ phiếu trong ngày hôm đó? 

Đồng bào có nghĩ rằng khi bỏ phiếu, thực hiện nghĩa vụ cao nhất của một công dân, có nghĩa là đồng bào “đang nổi loạn” hay không?

Những người ủng hộ cựu tổng thống đang cố gắng sửa lại lịch sử. Họ muốn đồng bào xem Ngày Bầu Cử là Ngày Nổi Loạn và cuộc bạo động diễn ra tại Quốc Hội vào ngày 6 Tháng Giêng, 2021 là một biểu hiện thực sự của ý chí người dân Mỹ.

Đồng bào có thể nào tưởng tượng một cách khó hiểu hơn thế hay không, để phác hoạ về đất nước này, về nước Mỹ? 

Tôi không thể nào hình dung được như thế.

Và sự thật là đây: Cuộc bầu cử năm 2020 là cuộc biểu dương dân chủ vĩ đại nhất trong lịch sử của nước Mỹ. 

Số cử tri bỏ phiếu trong cuộc bầu cử năm 2020 đó nhiều hơn bao giờ hết trong lịch sử nước Mỹ. Có tới hơn 150 triệu người Mỹ bỏ phiếu dù trong lúc có đại dịch COVID-19.

Nguy cơ ảnh hưởng đến tính mạng của nhiều cử tri là rất lớn, do đó, nên hoan nghênh những người thực hiện quyền công dân, chứ không công kích hay chỉ trích họ.

Tuy nhiên, ngay lúc này, nhiều tiểu bang đang soan thảo luật bầu cử mới. Không phải để bảo vệ, mà là để phủ nhận quyền đầu phiếu của cử tri. 

Các luật mới không những chỉ áp chế việc bỏ phiếu, mà còn để huỷ bỏ. Không phải để củng cố hoặc bảo vệ nền dân chủ của đất nước, nhưng làm theo ý của vị cựu tổng thống thất cử. 

Thay vì xem xét kết quả bầu cử từ năm 2020 và đưa ra các ý tưởng mới hoặc ý tưởng tốt hơn để được nhiều phiếu bầu hơn, cựu tổng thống và những người ủng hộ ông quyết định áp chế quyền đầu phiếu của đồng bào và hủy hoại cuộc bầu cử để tìm chiến thắng.

Thật vô cùng sai trái!

Phải nói thẳng ra: Đó là hành động phản dân chủ. Không phải là tinh thần của Mỹ.

Lời nói dối “Big Lie” thứ nhì mà những người ủng hộ cựu tổng thống phao tin rằng kết quả cuộc bầu cử 2020 không đáng tin tưởng. 

Sự thật là không có bất kỳ cuộc bầu cử nào trong lịch sử nước Mỹ được kiểm soát kỹ lưỡng hơn hay được tính toán kỹ lưỡng hơn cuộc bầu cử năm 2020.

Mọi vụ kiện đưa nghi vấn về kết quả bầu cử nộp ở mọi cấp tòa án đều bị các thẩm phán bác bỏ, mà đa số họ là do giới chức Cộng Hòa bổ nhiệm, bao gồm cả người do chính cựu tổng thống bổ nhiệm, từ các tòa án tiểu bang đến Tối Cao Pháp Viện Mỹ. 

Chuyện tái kiểm phiếu được thực hiện nhiều nơi. Tiểu bang Georgia thực hiện việc tái kiểm phiếu đến ba lần, và một lần đếm lại bằng tay. Ngoài ra, còn các cuộc kiểm phiếu mang tính đảng phái được tiến hành ở vài tiểu bang vào lúc rất lâu sau ngày bầu cử. 

Rốt cuộc là kết quả không hề thay đổi. 

Điều mỉa mai cho bên đòi đếm phiếu lại là, ở một số nơi, tỉ lệ phiếu bầu cho người chiến thắng lại gia tăng.

Vì vậy, cần phải nói rõ ràng những gì xảy ra vào năm 2020. 

Ngay cả trước khi lá phiếu đầu tiên được đưa vào thùng phiếu, cựu tổng thống đã gieo rắc nghi ngờ về kết quả bầu cử. Ông ấy tung ra những lời nói dối trong nhiều tháng trước đó và hoàn toàn không dựa trên bất kỳ bằng chứng nào. 

Thực sự, ông ấy chỉ tìm một cái cớ, một cái cớ để che đậy sự thật: Đó là ông ấy không chỉ là một cựu tổng thống. 

Ông ấy là một cựu tổng thống bị thất cử, vì thua tới hơn 7 triệu phiếu bầu của đồng bào. Ông ấy thua trong một cuộc bầu cử toàn vẹn, tự do, và công bằng.

Rõ ràng, sự thật đơn giản là không có bằng chứng nào cho thấy kết quả bầu cử không chính xác. Trên thực tế, tại tất cả các phiên toà, khi cần phải đưa ra bằng chứng và tuyên thệ nói sự thật, cựu tổng thống không chứng minh được những cáo buộc mà ông đưa ra.

Chỉ cần suy nghĩ về chi tiết này: Cựu tổng thống và những người ủng hộ ông chưa bao giờ có thể giải thích tại sao họ lại chấp nhận kết quả bầu cử khác cũng diễn ra vào ngày 3 Tháng Mười Một, 2020. 

Ví dụ, các cuộc bầu cử cho các chức vụ thống đốc tiểu bang, hay tại Thượng Viện và Hạ Viện, đặc biệt, kết quả bầu cử giúp thu hẹp khoảng cách tại Hạ Viện. 

Tại sao họ không thắc mắc?

Trên mỗi lá phiếu bầu, tên của tổng thống đứng đầu tiên, rồi kế tiếp, những hàng dưới là thống đốc, thượng nghị sĩ, và dân biểu Hạ Viện.

Tại sao các cuộc bầu cử những chức vụ khác đều chính xác, nhưng cuộc bầu cử tổng thống lại sai sót, dù được tính trên cùng một lá phiếu? Tại sao chỉ có sự khác biệt trên cuộc bầu cử tổng thống dù lá phiếu được bỏ cùng một ngày, của một cử tri?

Điểm khác biệt là, cựu tổng thống không thua ở những chức vụ khác, chỉ thua trong phần tranh cử mà ông tham gia thôi.

Cuối cùng, lời nói dối “Big Lie” thứ ba được cựu tổng thống và những người ủng hộ truyền đi là đám đông tìm cách áp đặt ý chí của họ thông qua bạo lực là những người ái quốc thực sự.

Đó có phải là điều đồng bào nghĩ khi nhìn đám đông ô hợp lục soát các văn phòng trong trụ sở Quốc Hội, phá hoại tài sản, phóng uế theo đúng nghĩa đen ở hành lang? 

Lục lọi bàn làm việc của các thượng nghị sĩ và dân biểu? Hay săn lùng các thành viên của quốc hội? Phải chăng đó là yêu nước? 

Đó không phải là quan điểm của tôi.

Đối với tôi, những người yêu nước thực sự là hơn 150 triệu người Mỹ bày tỏ một cách ôn hòa bằng lá phiếu của họ trong cuộc bầu cử, là những nhân viên bầu cử cương trực bảo vệ tính toàn vẹn của lá phiếu, và những anh hùng đã bảo vệ toà nhà Quốc Hội linh thiêng này. 

Không thể nói là yêu nước chỉ khi nào được thắng cử. Không thể nói là tôn trọng luật pháp khi chỉ tuân theo luật vì có lợi cho mình. 

Không thể nào là một người yêu nước khi dung dưỡng và cho phép dối trá.

Những kẻ nổi loạn tại Quốc Hội và những kẻ xúi giục, kích động như thế chẳng khác nào cứa dao vào cổ họng nước Mỹ và nền dân chủ Mỹ.

Những kẻ bạo loạn vào tòa nhà này không phải vì lòng yêu nước hay thượng tôn luật pháp. 

Họ đến đây trong cơn cuồng nộ, không phải phục vụ đất nước Mỹ, mà chỉ là phục vụ cho một con người, kẻ đã kích động đám đông, kẻ âm mưu thực sự, kẻ đang tuyệt vọng không dám nhìn nhận sự chứng nhận kết quả của cuộc bầu cử này, và bất chấp ý chí của cử tri Mỹ. 

Nhưng âm mưu của họ bị phá vỡ. Các vị dân cử Quốc Hội, Dân Chủ lẫn Cộng Hòa, đều ngồi lại. Các thượng nghị sĩ, dân biểu, nhân viên Quốc Hội, cùng hoàn thành nhiệm vụ theo yêu cầu của Hiến Pháp. Đó là những người đã vinh dự tuyên thệ bảo vệ Hiến Pháp chống lại mọi kẻ thù, trong cũng như ngoài nước.

Thưa đồng bào, giờ đây, mọi chuyện tùy thuộc quyết định của tất cả chúng ta: Tôn trọng nền tảng pháp quyền, gìn giữ ngọn lửa dân chủ, giữ lời hứa bảo vệ sự trường tồn của nước Mỹ. 

Nhưng lời hứa này đang bị đe doạ và trở thành mục tiêu hủy diệt của các thế lực coi trọng bạo lực. Sự tôn nghiêm của nền dân chủ bị khuất phục. Sợ hãi hơn hy vọng. Trục lợi cá nhân hơn lợi ích của đất nước.

Đừng nhầm lẫn về điều đó. 

Chúng ta đang sống ở một thời điểm lịch sử, cả trong nước Mỹ lẫn thế giới bên ngoài. 

Chúng ta đang một lần nữa bước vào cuộc đấu tranh giữa dân chủ và chuyên quyền, giữa khát vọng của quảng đại quần chúng và lòng tham của thiểu số. Giữa quyền được tự quyết của người dân và sự chuyên quyền vụ lợi. 

Nên nhớ Trung Quốc, Nga, và nhiều hơn nữa, các thế lực ngoại bang này đang đánh cược tính sổ ngày cuối cùng của các nền dân chủ. Những thế lực này thực sự cho rằng dân chủ quá chậm, quá sa lầy vì chia rẽ để thành công trong thế giới phức tạp và thay đổi nhanh chóng như ngày nay.

Và họ đang đánh cược, họ đang đặt cược rằng nước Mỹ sẽ trở nên giống như họ hơn và không còn là chúng ta nữa. Họ đang đặt cược nước Mỹ sẽ là nơi dành cho thể chế chuyên quyền, kẻ độc tài, kẻ mạnh. 

Tôi không tin điều đó. 

Đó không phải bản chất của con người chúng ta. Đó không phải là con người chúng ta trước đây. Và đó không hề là con người của chúng ta.

Các nhà lập quốc, dù không phải là hoàn hảo, đã lập ra nền tảng dân chủ, một thí nghiệm làm thay đổi thế giới. Sự thay đổi thế giới theo đúng nghĩa đen. Đó là tại nước Mỹ, chính người dân sẽ cai trị. Quyền lực sẽ được chuyển giao một cách hòa bình. Không bao giờ quyền lực được giành giựt bằng đầu của ngọn giáo hoặc nòng súng. 

Quả thực, tại nước Mỹ này, tất cả mọi người đều bình đẳng. Hãy bỏ quan điểm cho rằng nếu ai đó thành công thì tôi phải thất bại. Hay nếu người vượt lên phía trước, chúng ta sẽ tụt lại phía sau. Hay phải kềm hãm người khác để nâng mình lên.

Cựu tổng thống nói dối về cuộc bầu cử này và đám đông ô hợp tấn công Quốc Hội, những người này không thể chối bỏ các giá trị cốt lõi của nước Mỹ. 

Đất nước của chúng ta chiến đấu tại Gettysburg và Omaha Beach, Seneca Falls, Selma, Alabama đề đạt được: Quyền bầu cử. Sự Độc Lập. Quyền tự định đoạt.

Quyền lợi phải đi kèm với trách nhiệm. Trách nhiệm coi nhau như hàng xóm của nhau. Có thể chúng ta không đồng ý với người láng giềng, nhưng họ không phải là kẻ thù. 

Phải có trách nhiệm để chấp nhận thất bại, sau đó trở lại đấu trường và tiếp tục tranh đấu để hoàn thành ý nguyện của mình. Trách nhiệm phải thấy rằng nước Mỹ là một lý tưởng. Một lý tưởng đòi hỏi sự quản trị đầy trọng trách.

Hôm nay, một năm kể từ ngày 6 Tháng Giêng, 2021, những lời nói dối châm ngòi cho sự tức giận và điên cuồng bùng nổ ở nơi này. Tác hại của lời nói dối đó vẫn chưa nguôi ngoai. 

Vì vậy chúng ta phải kiên quyết và không để bị khuất phục trong việc bảo vệ quyền bầu cử.

Một số anh hùng đã hy sinh trong nỗ lực thiêng liêng này. 

Jill và tôi đã để tang các cảnh sát viên trong tòa nhà Quốc Hội này không phải một lần mà là hai lần vì sự kiện ngày 6 Tháng Giêng. Một lần để vinh danh cảnh sát viên Brian Sicknick, người bị mất mạng một ngày sau vụ tấn công. Lần thứ hai để vinh danh cảnh sát viên Billy Evans, người cũng đã mất mạng để bảo vệ toà nhà này.

Chúng tôi nghĩ về những người khác nữa đã mất mạng hoặc bị thương và tất cả những ai đang sống với vết thương lòng vì những gì xảy ra trong ngày hôm đó. Từ những nhân viên công lực bảo vệ cho đến các thành viên của Quốc Hội ở cả hai đảng cùng các nhân viên của họ, hoặc các phóng viên, nhân viên phục vụ, và gia đình họ.

Xin đừng xem đây là chuyện đùa! Vì nỗi đau và vết sẹo ngày đó càng lúc càng trầm trọng. 

Tôi từng nói điều này nhiều lần là đừng nên tranh cãi là đúng hay có thực hay không về các sự kiện của ngày 6 Tháng Giêng. 

Trọng tâm lúc này là chúng ta đang ở trong một trận chiến vì linh hồn của nước Mỹ. Một trận chiến mà nhờ hồng ân của Thượng Đế và lòng thiện tâm cùng sự vĩ đại của dân tộc này, chúng ta sẽ chiến thắng.

Hãy tin nơi tôi: Tôi biết dân chủ khó khăn như thế nào. Và tôi biết rất rõ ràng về những mối đe dọa mà nước Mỹ phải đối mặt. Nhưng tôi cũng biết rằng dù trong những ngày đen tối nhất vẫn có lúc dẫn đến ánh sáng và hy vọng. Như Phó Tổng Thống Kamala Harris nhắc đến trận Trân Châu Cảng, từ cái chết và sự hủy diệt nhưng vẫn chiến thắng các lực lượng của chủ nghĩa phát xít. Hay từ sự tàn khốc của Ngày Chủ Nhật Đẫm Máu Trên Cầu Edmund Pettus đã ra đời một đạo luật lịch sử về quyền bỏ phiếu.

Vì vậy, bây giờ chúng ta hãy bước lên. Hãy viết chương tiếp theo trong lịch sử Hoa Kỳ, nơi mà ngày 6 Tháng Giêng không phải đánh dấu sự kết thúc của nền dân chủ mà là khởi đầu của kỷ nguyên phục hưng của sự tự do và công bằng.

Tôi không tìm một trận chiến tại nơi này đúng vào thời điểm tròn năm trước xảy ra bạo loạn, nhưng tôi cũng sẽ không thu mình lại. Nhưng tôi sẽ đương đầu với biến cố phạm pháp này. Tôi sẽ bảo vệ đất nước chúng ta, và tôi sẽ không cho phép ai kề dao găm vào cổ họng của nền dân chủ. 

Tôi sẽ làm mọi cách để bảo đảm ý nguyện của người dân phải được lắng nghe. Rằng lá phiếu sẽ thắng thế, không phải bạo lực. Quyền lực của quốc gia này sẽ luôn được chuyển giao một cách hòa bình. 

Tôi tin rằng sức mạnh và mục đích của chức vụ tổng thống là để đoàn kết quốc gia, chứ không phải để chia rẽ. Để nâng chúng ta lên. Không phân tách chúng ta. 

Chức vụ tổng thống để phục vụ cho tất cả chúng ta, chứ không phải chỉ riêng cho tôi. Ngay từ sâu thẳm trong lòng nước Mỹ là ngọn lửa tự do, độc lập và bình đẳng đã đốt lên gần 250 năm trước. Đây không phải là lãnh địa của vua chúa hay những kẻ độc tài.

Đây là một quốc gia của trật tự, không hỗn loạn, hòa bình, không bạo lực. 

Ở nước Mỹ, quyền của người dân cai trị thông qua lá phiếu. Và ý nguyện của họ sẽ thắng thế. 

Vì vậy, chúng ta hãy cùng nhau nhớ rằng, chúng ta là một quốc gia dưới sự che chở của Thượng Đế, không thể chia cắt. 

Và rằng hôm nay, ngày mai, và mãi mãi, điều tốt nhất của chúng ta chính là Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ.

Xin Thượng Đế ban phước cho tất cả đồng bào và bảo vệ quân đội chúng ta. 

Xin Thượng Đế phù hộ cho những người bảo vệ nền dân chủ của chúng ta. (MPL) [đ.d.]

TƯNG BỪNG KHAI TRƯƠNG – ÂM THẦM ĐÓNG CỬA!

 TƯNG BỪNG KHAI TRƯƠNG – ÂM THẦM ĐÓNG CỬA!

Chưa đầy 6 tháng sau ngày thành lập Nhà máy sản xuất điện thoại Vsmart (Cát Hải, Hải Phòng) ngày 14/12/2018, tại Toà tháp Landmark81, Tập đoàn Vingroup tưng bừng khai trương lễ ra mắt 4 dòng điện thoại thông minh thương hiệu Vsmart.

Công nghệ của VinSmart được phát triển trên nền tảng tiêu chuẩn cao của châu Âu do Công ty công nghệ hàng đầu Tây Ban Nha là BQ phát triển. Với triết lý Sản phẩm tốt – Khuyến mãi tốt – Hậu mãi cực tốt và sự hậu thuẫn mạnh mẽ từ Vingroup, các sản phẩm Vsmart sẽ có lợi thế cạnh tranh đáng kể trên thị trường.

Cuối năm 2020, tôi làm mất iPhone 7 của con trai mua ở Úc cho, tôi bèn mua điện thoại VN sản xuất theo tiêu chuẩn cao của Châu Âu ở tận bên Tầu là Vsmart Live 4 6GB, khi xài rồi mới biết nó đếch thông minh lại còn ngớ ngẫn!

Cho nên, ngày 9/5/2021, không kèn, không trống Vingroup công bố VinSmart sẽ dừng sản xuất TV và “điện thoại thông minh” để tập trung nguồn lực phát triển ô tô thông minh Vinfast, ngôi nhà thông minh, thành phố thông minh.

Hệ quả cho tôi là, hồi tháng 10 năm ngoái, đi Hà Nội về tôi bỏ quên dây sạc ở KS, đến TGDĐ – đã bán Vsmart Live cho tôi, mua dây sạc nhưng không có, cậu nhân viên điện cho 4 TGDĐ trong Q.7 đều không có vì hàng không SX nữa! Tôi khóc không phải vì tiếc tiền mà tiếc cho thương hiệu Vsmart, công nghệ hàng đầu Tây Bán Nhà nhưng chỉ hưởng dương 3 năm 5 tháng! Tò le con ma đánh đu!

Với triết lý “Đi xe VinFast – Đi cùng hệ sinh thái đẳng cấp”, ngày 20/11/2018, tại triển lãm Paris Motor Show 2018 Vinfast tưng bừng khai trương mở bán dòng Lux A, Lux SA và Fadil chạy xăng.

Ngày 27/9/2019, Vinfast tưng bừng khuyến mãi: “Đi xe VinFast, Đi cùng hệ sinh thái đẳng cấp” và “Lái thử VinFast Lux – Trải nghiệm đẳng cấp” tặng gói nghỉ dưỡng thượng hạng trị giá 50 triệu đồng dành cho 5 người tại Vinpearl Phú Quốc và tặng một cặp vé F1 trị giá 18.180.000 đồng (khán đài cao cấp) để xem đua xe Công thức 1 tại chặng đua Vietnam Grand Prix 2020.

Nhưng, ngày 7/1/2022, Vinfast tuyên bố dòng xe chạy xăng Lux A, Lux SA và Fadil sẽ không còn được sản xuất sau năm 2022, nhằm tập trung cho nghiên cứu, phát triển và sản xuất xe thuần điện.

Như vậy, thương hiệu của dòng xe “hoàn toàn nói VN có phụ đề quất té” Lux A, Lux SA và Fadil cũng hưởng dương 5 tuổi!

Bạo phát bạo tàn! Thành kính phân lô, chốt lời phúng điếu!

Fb Mai Bá KiếmMay be an image of phone

Câu chuyện ‘Thiền Am’: Lịch sử lặp lại

Câu chuyện ‘Thiền Am’: Lịch sử lặp lại

Tôi nghĩ nhà cầm quyền sẽ xoá sổ Thiền Am. Đó không phải là ‘nếu’ mà chỉ là ‘khi nào’. Sự xoá sổ Thiền Am, trong cái nhìn của thế giới, chỉ làm cho diện mạo của nhà cầm quyền Việt Nam (không phải riêng gì Long An) xấu thêm mà thôi.

Sự xoá sổ Thiền Am chẳng liên quan gì với những cáo buộc mà nhà cầm quyền tuyên truyền (lợi dụng tự do dân chủ, lợi dụng tôn giáo, và ‘loạn luân’). Bởi lí do đơn giản là những cáo buộc đó hoặc là mơ hồ, hoặc là vô chứng cớ. Thật vậy, không có chứng cớ gì cụ thể để nói rằng mấy người trong Thiền Am lợi dụng tôn giáo để trục lợi cả. Họ tu hành tại gia, họ tự lực cánh sinh, họ chẳng lên tiếng xin xỏ ai (như Giáo hội của nhà nước hay làm), và họ chẳng gây hại cho ai. Ngược lại, họ giáo dục các trẻ em mồ côi thành những người có ích cho xã hội. Chẳng có một chứng cớ đáng tin cậy và độc lập nào để nói người đứng đầu là một ông cụ 91 tuổi phạm tội ‘loạn luân’. Chỉ toàn là vu cáo. Những vu cáo đó được tung ra chỉ để nhắm tới mục đích xoá sổ Thiền Am.

Để hiểu chuyện ngày nay, chúng ta cần phải biết chuyện quá khứ. Tương tự, để hiểu những gì xảy ra đối với Thiền Am, chúng ta cần phải biết những gì xảy ra đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và tu viện Bát Nhã.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN)

Thiền Am dĩ nhiên không phải là nạn nhân đầu tiên, và rất có thể không phải là nạn nhân sau cùng. Để hiểu vấn đề, có lẽ cần phải điểm qua những gì xảy ra trong quá khứ đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất. Chú ý là có chữ ‘Thống Nhất’ (để phân biệt với “Giáo hội Phật giáo Việt Nam” do đảng Cộng sản Việt Nam thành lập). Thông tin chi tiết về GHPGVNTN có thể tham khảo trong trang wiki và sách xuất bản ở nước ngoài. Dưới đây là vài mốc thời gian quan trọng:

Từ năm 1964, miền Nam có Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là một tổ chức chánh thống đại diện cho đa số tăng sĩ Phật Giáo Việt Nam. Sự ra đời của GHPGVNTN là một sự tiến bộ và hiện đại của Phật giáo Việt Nam vì trước đó không có tổ chức chặt chẽ như bên Công giáo. GHPGVNTN qui tụ rất nhiều các tăng sĩ và học giả sáng chói nhất của Việt Nam. Đó là các thầy như Thích Tâm Châu, Thích Nhất Hạnh, Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu (tức Lê Mạnh Thát), Thích Tâm Giác, Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang, Thích Thiện Minh, v.v.

Những thầy này đã có công sáng lập ra Viện Đại học Vạn Hạnh, lúc đó là một đại học tư thục đầu tiên ở miền Nam. Thầy Thích Minh Châu là viện trưởng, và học giả Hồ Hữu Tường là Phó viện trưởng. Ngoài ra còn có thầy Thích Nhất Hạnh trong ban giảng huấn. Nhà thơ Minh Đức Hoài Trinh cũng là một trong những giảng viên của Viện Đại học Vạn Hạnh. Ngoài Đại học Vạn Hạnh, GHPGVNTN còn thành lập hàng loạt trường cao đẳng Phật học, trung học và tiểu học, tạp chí Chánh Đạo, Nhà xuất bản Lá Bối, cô nhi viện, bệnh xá, Thanh niên Phật tử, v.v. Tất cả đều hoạt động theo triết lí Phật Giáo. Có thể nói đó là thời vàng son của Phật giáo Việt Nam.

Sau 1975, chế độ mới thiết lập một thiết chế Phật giáo khác và mở đầu cho một quá trình suy thoái. Nhà cầm quyền mới tịch thu tất cả các cơ sở của GHPGVNTN. Họ xoá sổ Cô nhi viện Quách Thị Trang, xoá sổ nhà xuất bản Lá Bối, đến xoá sổ Viện Đại học Vạn Hạnh, đóng cửa tất cả các trường trung tiểu học thuộc quyền quản lí của GHPGVNTN. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phản đối, nhưng không có hiệu quả. Nói chung, chỉ 2 năm sau 1975, tất cả những cơ đồ và thành tựu của GHPGVNTN bị tan thành mây khói.

Năm 1981, nhà cầm quyền chiêu dụ một số sư Phật giáo là cán bộ hay có cảm tình với chánh phủ mới đứng ra thành lập một tổ chức mới có là “Giáo hội Phật giáo Việt Nam”. Tuy nhiên, dân gian gọi đó là Giáo hội Phật giáo quốc doanh. Kể từ 1982, GHPGVNTN coi như không tồn tại ở Việt Nam, mà chỉ có GHPGVN. Dĩ nhiên, GHPGVN chịu dưới sự chỉ đạo của Đảng và không thể độc lập như GHPGVNTN.

Mặt khác, nhà cầm quyền bắt giam các thầy Thích Huyền Quang, Thích Thiện Minh, Thích Quảng Độ và Thích Thiện Minh mà không có tội danh nào. Thượng tọa Thích Thiện Minh sau đó đã chết trong trại giam. Không ai biết thầy Thiện Minh chết vì nguyên nhân gì, nhưng Thượng tọa Thích Quảng Độ cho rằng thầy Thiện Minh đã bị quản giáo đánh chết trong tù.

Sự kiện Thiền viện Bát Nhã

Sự kiện Bát Nhã thu hút chú ý của công chúng trong và ngoài nước một thời gian dài, và đã được đề cập đến trong nhiều bài viết trên các trang Phật giáo và wiki. Ở đây, tôi chỉ trích lược những thông tin chánh. Tu viện Bát Nhã được Thượng tọa Thích Đức Nghi thành lập vào năm 1995 ở Bảo Lộc. TT Thích Đức Nghi là một người rất ngưỡng mộ thầy Thích Nhất Hạnh. Cần biết rằng vào năm 1957, thầy Nhất Hạnh đã thành lập một tu viện có tên là Phương Bối, được thầy mô tả trong cuốn sách ‘Nẽo về của ý’, nhưng tu viện này đã bị hoang phế vì thời cuộc. TT Đức Nghi rất muốn thành lập một Phương Bối thứ hai theo đường hướng của thầy Nhất Hạnh. Hoài bão này đã thành sự thật khi TT Đức Nghi được nhận đèn giáo thọ từ thầy Nhất Hạnh ở Làng Mai bên Pháp.

Từ tháng 5/2005 đến tháng 6/2008, TT Đức Nghi đã mời và bảo lãnh gần 300 các thầy và sư cô giáo đã từng tu tập tại Làng Mai (trong đó có các vị gốc Việt mang quốc tịch nước ngoài) về Bát Nhã để chia sẻ pháp môn và đào tạo các vị xuất gia trẻ tu học theo mô thức Làng Mai. Tuy chỉ mới thành lập được vài năm, các vị này đã tổ chức các khóa tu cho hàng ngàn người tại Tu viện Bát Nhã và đã tham gia vào nhiều chương trình văn hóa và xã hội tại địa phương.

Nhưng tháng 6/2008, TT Đức Nghi đổi ý, không bảo lãnh các thầy sư cô giáo thọ có quốc tịch nước ngoài và không muốn Tu viện Bát Nhã tu tập theo pháp môn Làng Mai nữa. Tuy nhiên, đằng sau sự đổi ý của TT Đức Nghi là GHPGVN. Nhà cầm quyền và GHPGVN cáo buộc rằng các khóa tu không có phép của GHPGVN, số người tới tu tập quá đông mà không đăng kí tạm trú gây mất an ninh trật tự tại địa phương.

TT Đức Nghi yêu cầu tăng thân tu học theo pháp môn Làng Mai phải rời Bát Nhã. Nhà cầm quyền địa phương theo yêu cầu của TT Đức Nghi cắt nguồn điện để các môn sinh bị khó khăn trong sinh hoạt. Nhưng các tăng ni Làng Mai vẫn tiếp tục ở lại, và từ đó dẫn đến mâu thuẫn giữa phật tử Bát Nhã với những người tu theo pháp môn Làng Mai tại đây. Họ tổ chức những nhóm người gây áp lực buộc những người tu theo pháp môn Làng Mai ra khỏi tu viện. Họ có những hành động và hành vi rất bỉ ổi, rất bạo động, nhưng công an không can thiệp giải tán các nhóm này. Chẳng hạn như họ quăng đá, ném phân súc vật vào tu viện. Họ còn tổ chức thành đám đông đến tấn công khu tu viện, dùng búa đập phá và hăm dọa những người trong đó. Điều ngạc nhiên là công an và dân quân địa phương có mặt tại hiện trường nhưng không can thiệp!

Trước sự đàn áp dã man đó, thầy Nhất Hạnh viết thư cho Chủ tịch Nước lúc đó là Nguyễn Minh Triết yêu cầu can thiệp, nhưng tất cả đều vô không có hồi âm. Ông Lê Hiếu Đằng, một cựu quan chức của Mặt trận tổ quốc Việt Nam TPHCM nhận xét rằng “vụ Bát Nhã cho thấy sự vô trách nhiệm của chính quyền địa phương, tạo ra một tiền lệ hết sức nguy hiểm là bất cứ công dân nào cũng có thể bị côn đồ đe dọa, và cấp trung ương phải nhanh chóng giải quyết chuyện này.” Nhưng chẳng có ai giải quyết. Các tổ chức nhân quyền, các cơ quan truyền thông quốc tế, nhiều chánh phủ, quốc hội Âu – Mĩ đều đề cập đến những vụ đàn áp bằng võ lực xảy ra tại tu viện Bát Nhã, và họ yêu cầu nhà cầm quyền ngưng những hành động bức hại tôn giáo, xâm phạm đến tín ngưỡng. Nhà cầm quyền làm ngơ. Cuối cùng thì do không chịu không nổi áp lực, đến tháng 9/2009 tất cả những người tu theo pháp môn Làng Mai phải rời khỏi tu viện Bát Nhã.

Thiền Am

Người đứng đầu Thiền Am là cụ Lê Tùng Vân. Năm nay ông đã 91 tuổi, không vợ, không con. Ông xuất thân từ một gia đình nề nếp ở miền Tây, theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương. Ông là người hiếu học, tốt nghiệp cử nhân năm … 60 tuổi!

Ông là người có lòng nhân từ bác ái. Ông nhận nuôi hàng trăm đứa trẻ mồ côi hay cơ nhỡ. Những đứa trẻ đã bị bỏ rơi trong bệnh viện (vì hoàn cảnh nào đó), những đứa trẻ mắc bệnh tâm thần bị bỏ rơi bên đường, dưới gốc cây, ông đều nhận về và nuôi dạy. Chẳng hiểu ông có cách giáo dục nào mà tất cả những đứa trẻ đó đều nên người có ích cho xã hội, một số trở nên xuất sắc. Ngay cả một số đứa từng bị bệnh tâm thần sau một thời gian nuôi dạy, họ trở nên vui tươi và có vẻ có cuộc sống bình thường.

Một mình ông và vài người phụ tá làm đủ mọi việc để duy trì trung tâm nuôi dạy. Họ trồng rau, nuôi trồng thuỷ sản, làm nhang, thậm ca hát để có tiền nuôi dạy hơn 50 đứa trẻ trong cùng một lúc! Phải nói đó là một nghị lực phi thường, một sự dấn thân tuyệt vời mà không mấy ai trong xã hội làm được.

Ông không được sự hỗ trợ của Nhà nước dù chỉ 1 xu. Ngược lại, mấy người trong bộ máy nhà nước còn làm khó ông đủ điều. Trung tâm cô nhi “Thánh Đức” (được thành lập từ thập niên 1990s) nuôi 56 trẻ em mồ côi và cơ nhỡ. Họ còn được trung tâm SOS (của nhà nước?) nhờ nuôi trẻ em mồ côi. Thế nhưng nhà cầm quyền viện lí do “không đăng kí người lưu trú và không làm thủ tục nhận con nuôi” đóng cửa trung tâm. Trước khi bị đóng cửa, trung tâm bị đốt cháy toàn bộ, mà nguyên nhân và thủ phạm đốt cháy vẫn còn là một dấu hỏi lớn.

Sau khi Thánh Đức bị giải toả, ông Lê Tùng Vân sáng lập Tịnh thất Bồng Lai (nay là “Thiền Am”) ở ấp Lập Thành, xã Hòa Khánh Tây, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Ở đây, ông vẫn tiếp tục nuôi trẻ mồ côi hay cơ nhỡ. Ở đây, ông LTV và Thiền Am cũng bị nhà cầm quyền làm khó đủ điều. Thậm chí, có người được nhà mạnh thường quân ở Úc tài trợ cho đi du học, nhưng nhà cầm quyền địa phương không chịu làm hộ chiếu nếu không chi một số tiền lớn.

Chẳng những bị nhà cầm quyền gây khó khăn, Thiền Am còn bị mấy người trong giáo hội Phật giáo của Nhà nước (còn gọi là “Giáo hội quốc doanh”) ganh tị và dèm pha đủ điều rất buồn cười. Tôi không thể nào hiểu nổi tại sao mấy người trong giáo hội nhà nước lại ghét Thiền Am đến thế, vì thái độ của họ không nhứt quán với triết lí Nhà Phật.

Bên cạnh giáo hội là một đội quân báo chí của Nhà nước cũng góp phần vào sự gây nhiễu thông tin. Tất cả báo chí đều nói một tiếng nói. Tiếng nói đó là cáo buộc rằng Thiền Am không phải là chùa hay tịnh thất, rằng cụ Lê Tùng Vân là ‘giả sư’, rằng những người tu trong Thiền Am là ‘giả tu’, rằng cụ ấy ‘loạn luân’. Nhưng điều ngạc nhiên là họ không hề đến Thiền Am, họ không phỏng vấn một người nào trong Thiền Am! Họ chỉ hóng hớt thông tin từ công an và đội quân youtuber kền kền. Xu huớng chung là họ bắt bẽ những chi tiết vụn vặt, những danh xưng (mà họ không hiểu), và nguỵ biện theo kiểu ‘ad hominen’ vốn rất phổ biến trong báo giới VN. Tất cả đều mang tính vu cáo và kết tội hơn là làm sáng tỏ câu chuyện. Nếu là người nước ngoài và quen với báo chí văn minh, người đó sẽ không thể nào tin rằng Việt Nam có một nền báo chí thảm hại như thế.

Gần đây, Thiền Am còn là đối tượng vu khống, thoá mạ, và tấn công của nhiều kẻ lắm tiền nhiều của và đội quân ‘youtuber kền kền’. Họ là những kẻ vô giáo dục, thô lỗ, tục tằn, và lưu manh trong xã hội. Họ dùng những chữ vô cùng tục tĩu, họ chửi thề như ở chợ cá tôm, họ không biết đến thuần phong mĩ tục là gì. Họ là những kẻ hết sức mất dạy. Xin lặp lại để nhấn mạnh: mất dạy. Có thể nói họ là những phó sản của một xã hội đang suy thoái về đạo đức. Nhưng ngạc nhiên thay, họ lại được giới báo chí của Nhà nước và có thể ngay cả công an (?) sử dụng triệt để. Riết rồi công chúng không phân biệt đâu là báo chí Nhà nước và đâu là những con kền kền.

Rồi nay, nhà cầm quyền bắt giam ông Lê Tùng Vân (nhưng tin không chánh thức cho biết ông đã được về Thiền Am). Khi bắt, nhà cầm quyền chưa xác định tội danh để truy tố. Phải một hai ngày sau, họ cho báo chí nói rằng ông bị khởi tố 3 tội danh: (i) lợi dụng những quyền tự do dân chủ; (ii) lừa đảo; và (iii) loạn luân. Nhưng như chúng ta thấy, cho đến nay, chưa thấy bằng chứng nào cho thấy ông ấy phạm 3 tội trên.

Thật ra, năm 2017, ông Thích Nhật Từ, một quan chức trong GHPGVN, từng nhận định về Thiền Am như sau:

“Thực tế thì Hoàng Nguyên và Nhất Nguyên không phải là người giả mạo tăng sĩ để lừa đảo bất kỳ ai như một số báo chí đã cáo buộc.”

“[…] Hơn nữa, khu Bồng Lai Viên chỉ là một tịnh thất, không có bản hiệu chùa, nên không có đăng kí từ viện với Giáo hội Phật giáo tỉnh Long An. Từ năm 2015 trở về trước [phút 19:12] Cụ Thích Tâm Đức nay đã 86 tuổi, từng là Tỉnh hội trưởng Bửu Sơn Kỳ Hương, xây dựng khu Bồng Lai Viên, là vị cha tinh thần nuôi nấng hai vị này [Hoàng Nguyên và Nhất Nguyên] cùng như là 24 thành viên khác, nhỏ nhất là 3 tuổi cho đến U30 đều cạo đầu, mặc áo nâu sòng. Những cụ già thì được miễn và để tóc như là các Phật tử thông thường. Thật ra, cụ Thích Tâm Đức chưa bao giờ từng xưng mình là Hoà Thuợng và chưa nói mình là trụ trì Chùa Bồng Lai. Tại khu Bồng Lai Viên cụ đã cho phép tất cả các cháu mồ côi tại đây cạo đầu mặc áo nâu sòng […]“

Ông còn nói rằng những cáo buộc về Thiền Am của GHPGVN tỉnh Long An là ‘vội vã’:

“Họ là những người cư sĩ tại gia sống trong tịnh thất, được thầy của họ là người xuất gia cạo đầu, cho mặc áo nâu sòng từ nhỏ. Cho đến ngày hôm nay (tức 27/9/2017), tôi có phần ngạc nhiên đó là Giáo hội PGVN huyện Đức Hoà nói riêng và tỉnh Long An nói chung, chưa cử đại diện của Giáo hội đến Bồng Lai Viên nhằm trao đổi chánh thức để nắm rõ thực hư của vấn đề. Do vậy ở chừng mực tương đối tôi cho rằng phát biểu của Giáo hội PGVN tỉnh Long An là hơi vội vã vì vấn đề chưa được xác minh.”

***

Tuy nhiên, những gì xảy ra với Thiền Am và ông Lê Tùng Vân, như các bạn thấy, rất giống với những gì đã xảy ra đối với các tăng thân Làng Mai ở Bát Nhã. Vẫn là tấn công bằng bạo động, thậm chí gây thương tích 13% cho một thành viên trong Thiền Am. Vẫn quăng đá, đập phá, đánh đập, và công an không can thiệp. Y chang như sự kiện Bát Nhã.

Chính vì thế mà tôi sợ rằng số phận của Thiền Am cũng sẽ như số phận của các tăng thân Làng Mai ở Bát Nhã. Kết cục buồn đó sẽ xảy ra, thì sự việc chỉ thêm một gam màu đen tối cho xã hội dân sự ở Việt Nam. Việt Nam, trong cái nhìn của bạn bè quốc tế, vẫn là một quốc gia lạc hậu và bất dung hợp.

PS: Viết xong cái note này và đọc báo TT thì biết rằng tội danh loạn luân không còn nữa. Người ta cáo buộc tội “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của tổ chức, cá nhân”. Riết rồi không biết họ (nhà cầm quyền) có làm theo luật pháp hay không?

https://tuoitre.vn/ong-le-tung-van-bi-khoi-to-toi-gi…

https://nguyenvantuan.info/…/cau-chuyen-thien-am-lich…/