Chân dung văn nghệ sĩ Việt qua họa sỹ trẻ Trần Thế Vĩnh

Chân dung văn nghệ sĩ Việt qua họa sỹ trẻ Trần Thế Vĩnh

Là một họa sĩ hãy còn trẻ tuổi đời nhưng rất vững tay cầm cọ, Trần Thế Vĩnh đang chuẩn bị ra mắt những người yêu nghệ thuật một tuyển tập gồm 51 chân dung văn nghệ sĩ Việt Nam thành danh từ trước năm 1975.

Chân dung gồm những người đã mất nhưng cũng có những người vẫn còn tiếp tục sự nghiệp văn chương – văn nghệ cho đến ngày hôm nay. Họ đến từ khắp các miền đất nước, lại còn có những người đang sinh sống tại hải ngoại.

Tất cả sẽ góp mặt trong bộ chân dung được phác họa bởi một họa sĩ “tuổi trẻ – tài cao”, tràn đầy nhựa sống. Họa sĩ sáng tác 51 chân dung trong 2 năm 2018-2019 và đến năm nay đã có giấy phép xuất bản. Hy vọng một ngày rất gần chúng ta sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng những khuôn mặt văn nghệ sĩ quen thuộc.

Họa sĩ Trần Thế Vĩnh sinh ra tại Quảng Trị, học vẽ tại Huế và hiện ở Sài Gòn. Ngoài tài vẽ chân dung, anh còn có những tác phẩm về phong cảnh, tĩnh vật và một chút hội họa trừu tượng.

Bộ sưu tập 51 chân dung văn nghệ sĩ là một con số không nhiều nhưng cũng không ít. Phải nói đây là bộ sưu tập vừa phong phú lại vừa quý hiếm đối với những người quan tâm đến nghệ thuật và cả những người làm nghệ thuật.

Người xem tranh có thể cảm nhận cái thần thái “nửa điên nửa tỉnh” của Bùi Giáng; vẻ “tiên phong đạo cốt” của Văn Cao, Hữu Loan, Phùng Quán, Trần Dần; nét đạo mạo của Phạm Công Thiện, Nguyễn Hiến Lê, Cung Trầm Tưởng; vẻ khắc khổ của Phan Khôi, Phạm Đình Chương, Nguyễn Bắc Sơn hay chân quê của Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử…

Chúng tôi xếp 51 chân dung văn nghệ sĩ theo danh sách từng nhóm theo mẫu tự để các bạn tiện theo dõi.

***

Hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí (1908-1993), cùng với Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tường Lân, Trần Văn Cẩn tạo thành “bộ tứ họa sĩ nổi tiếng thời kỳ đầu của nền mỹ thuật Việt Nam”.

Học giả Nguyễn Hiến Lê (1912-1984), ông còn là một dịch giả, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục và hoạt động văn hóa độc lập, với 120 tác phẩm sáng tác, biên soạn và dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như giáo dục, văn học, ngữ học, triết học, lịch sử, du ký, gương danh nhân, chính trị, kinh tế…

Nhà phê bình văn học Đỗ Long Vân (1934‒1997), có lẽ là tác giả tài năng nhưng lặng lẽ bậc nhất của Sài Gòn, và cả Việt Nam trong thế kỷ 20. Ngoài gia đình, ông còn vài ba người bạn khác là Nguyên Sa, Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Trịnh Công Sơn, Đinh Cường, Hoàng Anh Tuấn, Khánh Ly.

Nhà thơ, nhà báo Phan Khôi (1887-1959), thành viên nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm, cháu ngoại của Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu, đỗ Tú tài chữ Hán năm 19 tuổi nhưng lại mở đầu và cổ vũ cho phong trào Thơ mới.

Nhà thơ Bùi Giáng (1926-1998), ông còn là dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học của Việt Nam. Các bút danh khác của ông: Trung niên thi sĩ, Thi sĩ, Bùi Bàn Dúi, Bùi Văn Bốn, Vân Mồng… Ông nổi tiếng từ năm 1962 với tập thơ “Mưa nguồn”.

Nhà thơ Cung Trầm Tưởng (1932) , năm 15 tuổi (1947), ông bắt đầu làm thơ, và có tập thơ đầu tay tên là “Sóng đầu dòng”. Năm 1952, sau một năm học đại học, ông sang Pháp du học tại Trường Kỹ sư không quân ở Salon-de-Provence. Năm 1957, ông tốt nghiệp trở về nước làm trong ngành không quân của Việt Nam Cộng hòa. Trong năm này, hai bài thơ của ông là “Mùa thu Paris” và “Vô đề” (thơ trường thiên) xuất hiện trong tuyển tập “Đất đứng” của nhóm Quan Điểm (gồm Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng), và đã làm người đọc chú ý.

Nhà thơ Đinh Hùng (1920-1967) ông còn dùng bút hiệu Thần Đăng khi làm thơ châm biếm và Hoài Điệp Thứ Lang khi viết tiểu thuyết.

Nhà thơ Du Tử Lê (1942-2019) làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 cho bài “Bến tâm hồn”, đăng trên tạp chí Mai.

Nhà thơ Hàn Mặc Tử (1912-1940), ông khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là “Bàn thành tứ hữu”, nghĩa là bốn người bạn ở thành Đồ Bàn.

Nhà thơ Hoàng Cầm (1922-2010) nổi tiếng với vở kịch thơ “Hận Nam Quan”, “Kiều Loan” và các bài thơ “Lá diêu bông”, “Bên kia sông Đuống”. Bài thơ “Bên kia sông Đuống” được chọn vào giảng dạy trong giáo trình trung học phổ thông. Ngoài bút danh Hoàng Cầm, ông còn có các bút danh: Bằng Việt, Lê Thái, Lê Kỳ Anh, Bằng Phi. 

Nhà thơ Hữu Loan (1916-2010) sau khi phong trào Nhân văn – Giai phẩm bị dập tắt vào năm 1958, nhà thơ Hữu Loan phải đi học tập chính trị, tiếp đó bị quản thúc tại địa phương. Cuối đời ông về sống tại quê nhà ở tỉnh Thanh Hóa. Ông nổi tiếng với bài thơ “Màu tím hoa sim” do ông sáng tác trong thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp và được lưu hành rộng rãi trong vùng kháng chiến. 

Nhà thơ Lưu Quang Vũ (1948-1988) – Các tác phẩm của ông đã để lại một dấu ấn đáng kể trong lòng công chúng Việt Nam. Tác phẩm ông nổi bật lên từ những năm sau chiến tranh, đặc biệt là những năm 80. Ông đã từng sống những năm tháng tuổi trẻ trong chiến tranh, vào bộ đội chiến đấu và trở về sống trong một thời kỳ khó khăn của nước nhà: thời hậu chiến, kinh tế bao cấp với chồng chất khó khăn, cơ cực. Các vở kịch, truyện ngắn, thơ của Lưu Quang Vũ giàu tính hiện thực và nhân văn cũng như in đậm dấu ấn của từng giai đoạn trong cuộc sống của ông. Với tuổi đời còn khá trẻ, 40 tuổi ông đã là tác giả của gần 50 vở kịch và hầu hết các vở kịch của ông đều được các đoàn kịch, chèo gây dựng thành công dưới sự chỉ đạo của nhiều đạo diễn nổi tiếng. Rất nhiều các tác phẩm của ông đã làm sôi động sân khấu Việt nam thời kỳ đó như: “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, “Lời thề thứ 9”, “Bệnh sĩ”, “Khoảnh khắc và vô tận”, “Ông không phải bố tôi”, “Tôi và chúng ta”, “Tin ở hoa hồng”, “Nàng Sita”. Giữa lúc tài năng đang vào độ chín, Lưu Quang Vũ qua đời trong một tai nạn ô tô trên quốc lộ số 5 tại Hải Dương, cùng với người bạn đời là nhà thơ Xuân Quỳnh và con trai Lưu Quỳnh Thơ. 

Nhà thơ Minh Đức Hoài Trinh (1930-2017), trước tác của bà thuộc nhiều thể loại như thơ, truyện ngắn, truyện dài. Có lẽ trong các tác phẩm của bà, được biết đến nhiều nhất là một số bài thơ được các nhạc sĩ phổ nhạc trong đó có Phạm Duy: “Đừng bỏ em một mình” và “Kiếp nào có yêu nhau” và Phan Văn Hưng: “Ai trở về xứ Việt”. Sau năm 1975 khi lưu vong sang Pháp bà sáng lập Hội Văn Bút Việt Nam Hải ngoại. Năm 1982 bà sang Mỹ định cư và mất tại Quận Cam.

Nhà thơ Nguyên Sa (1932-1998) là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng từ thập niên 1950, với những tác phẩm như “Áo lụa Hà Đông”, “Paris có gì lạ không em”, “Tuổi mười ba”, “Tháng sáu trời mưa”, “Hư ảo trăng”… Thơ Nguyên Sa có một số bài được biết đến nhiều hơn qua những bài hát do nhạc sĩ Ngô Thụy Miên phổ nhạc (Áo lụa Hà Đông, Tuổi mười ba, Paris có gì lạ không em…). Những nhạc sĩ khác có phổ nhạc vào thơ Nguyên Sa là Phạm Duy (Vết sâu), Phạm Đình Chương (Màu Kỷ Niệm), Anh Bằng (Mai Tôi Đi), Song Ngọc (Tiễn đưa) Hoàng Thanh Tâm (Tháng sáu trời mưa), Phạm Anh Dũng (Hư Ảo Trăng)… 

                                                             

Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn (1944-2015), trước năm 1975 Nguyễn Bắc Sơn là binh nhì, lính địa phương quân ở Sài Gòn, thời gian này ông có tập thơ phản chiến in năm 1972 “Chiến tranh Việt Nam và tôi”, gây được tiếng vang trong giới văn nghệ miền Nam. Thơ Nguyễn Bắc Sơn từng được nhiều bạn đọc ưa thích, ngâm nga trong các quán văn nghệ ở Đà Lạt, Vũng Tàu, Sài Gòn, Cần Thơ… 

Nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) được coi như là nhà thơ của làng quê Việt Nam với những bài thơ mang sắc thái dân dã, mộc mạc. Bài thơ của ông được đăng báo đầu tiên là bài “Cô hái mơ”. Năm 1937 Nguyễn Bính gửi tập thơ “Tâm hồn tôi” tới dự thi và đã được giải khuyến khích của nhóm Tự lực văn đoàn.

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn (1937) được giới văn nghệ miền Nam trước năm 1975 gọi là một trong ba kỳ nhân của thời đó (hai người còn lại là Bùi Giáng và Phạm Công Thiện). Nguyễn Ðức Sơn bắt đầu công việc viết của mình với bút hiệu Sao Trên Rừng. Ông được coi là một người có cá tính đặc biệt. Trả lời trong bài phỏng vấn của tạp chí Bách Khoa, ông nói: “Tôi viết vì bị thúc đẩy bởi một lực ở đằng sau và được thu hút bởi một lực ở phía trước. Ðó là những ma lực làm tôi cảm khoái huyền diệu xa xăm. Thứ cảm khoái này kéo dài được chứ không ngắn như nhục cảm. Viết được một đoạn hay tôi đi lên đi xuống thưởng thức và khoái chí. Nên tôi nghĩ rằng sáng tác cho mình trước hết.”

                                                                                

Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên (1952-1992), thi sĩ đã gặp một cô gái người miền Bắc tên là Duyên và có với cô này một tình cảm nhẹ nhàng nhưng không thành công vì hoàn cảnh gia đình và cả tính nghệ sĩ của Tất Nhiên. Dù vậy, cô gái tên Duyên này cũng đã là cảm hứng cho Tất Nhiên sáng tác khá nhiều bài thơ “Khúc tình buồn”, hay các bài “Cô Bắc Kỳ nho nhỏ”, “Linh mục”, “Em hiền như ma sơ”. 

Nhà thơ Phạm Công Thiện (1941-2011), ông còn là nhà văn, triết gia, học giả và cư sĩ Phật giáo với pháp danh Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận vai trò triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia “thần đồng”, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 1960 với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. 

Nhà thơ Phùng Cung (1928-1997), tham gia phong trào Nhân văn – Giai phẩm tại miền Bắc vào những năm 1955 – 1957. Sau đó ông bị kết án lợi dụng các bài viết của mình để kích động bạo loạn, và bị bắt giam 12 năm trong nhà tù Hỏa Lò. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông là “Con ngựa già của Chúa Trịnh” và “Dạ Ký”, có ngụ ý đả kích những văn nghệ sĩ bẻ cong ngòi bút, bị lưu đày trong cõi tung hô. 

Nhà thơ Quang Dũng (1921-1988) là tác giả một số bài thơ nổi tiếng như “Tây Tiến”, “Đôi mắt người Sơn Tây”, “Đôi bờ”… Ngoài ra Quang Dũng còn là một họa sĩ, nhạc sĩ. Ông thuộc thế hệ các nhà thơ miền Bắc trưởng thành và nổi danh sau Cách mạng tháng Tám.  

Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền (1936-2006) được biết đến với những cách tân thơ ca táo bạo. Năm 1956, lúc tròn 20 tuổi, ông đã nổi tiếng với tập thơ “Tôi không còn cô độc”, và năm 1957, lúc 21 tuổi, với tiểu thuyết “Bếp lửa” (viết năm 1954) mô tả khung cảnh Hà Nội trước 1954, với những người ra đi cũng như những người ở lại, cả hai đều bị giằng co bởi những chọn lựa miễn cưỡng, sự chia ly hay cái chết. Thanh Tâm Tuyền có ảnh hưởng lớn trên văn học Việt Nam giai đoạn 1956-1975 và cả những năm về sau này.  

Nhà thơ Tô Thuỳ Yên (1938-2019) là tác giả bài thơ “Chiều trên phá Tam Giang” mà một phần của bài thơ đã được Trần Thiện Thanh phổ nhạc. Ông cũng là tác giả bài “Trường Sa hành” sáng tác vào Tháng Ba, 1974, không lâu sau khi Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa để vinh danh những chiến sĩ bảo vệ đất nước ngoài biển khơi. 

Nhà thơ Trần Dần (1926-1997) – Năm 1955, Trần Dần viết đơn đề nghị được giải ngũ, ra khỏi Đảng và kết hôn với bà Bùi Thị Ngọc Khuê (gia đình bà Khuê có người di cư vào Nam, nên chi bộ Đảng không cho phép kết hôn). Theo báo Nhân dân, việc Trần Dần đòi ra khỏi Đảng đã làm cho một số người đi theo. Tham gia Phong trào Nhân văn-Giai phẩm, Trần Dần lên tiếng đòi thay đổi quan điểm lãnh đạo văn nghệ trong quân đội, đòi xuất bản các tác phẩm mang tính cách tân của mình. Chỉ huy đơn vị nhiều lần cảnh cáo nhưng ông vẫn giữ quan điểm, ông liên tiếp cho ra đời các tác phẩm phê phán như “Lão rồng” và chuyện “Anh Cò Lấm” phê phán cải cách ruộng đất. Sau đó ông bị đơn vị giam 3 tháng do không tuân lệnh chỉ huy, cũng theo báo Nhân dân, trong tù ông kéo da cổ, lấy một lưỡi dao cạo râu cứa ngoài da rồi dọa tự tử. Sau đó ông viết thư cho tướng Nguyễn Chí Thanh, và vị tướng này ra lệnh thả ông. 

Nhà thơ Trần Vàng Sao (1942-2018) hầu như không cho xuất bản thơ nhưng vẫn nổi tiếng với “Bài thơ của một người yêu nước mình” ký bút danh Trần Vàng Sao, sáng tác tháng 12 năm 1967 và được chọn trong 100 bài thơ xuất sắc nhất Việt Nam thế kỷ 20. Năm 2008, Nhà xuất bản Giấy Vụn đã cho in tập thơ này.  

Nhà thơ Vũ Hoàng Chương (1916-1976) – Văn phong của ông được cho là sang trọng, có dư vị hoài cổ, giàu chất nhạc, với nhiều sắc thái Đông phương. Ngày 13/4/1976, ông bị Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam bắt giam tại khám Chí Hòa. Bệnh nặng đưa về nhà được 5 ngày thì ông mất tại Sài Gòn. Hoài Thanh – Hoài Chân trong “Thi nhân Việt Nam” đã nhận xét: “… Ý giả Vũ Hoàng Chương định nối cái nghiệp những thi hào-xưa của Đông Á: cái nghiệp say. Người say đủ thứ: say rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa. Người lại còn “hơn” cổ nhân những thứ say mới nhập-cảng: say thuốc phiện, say nhảy đầm. Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say sưa to hơn mọi say sưa khác: say thơ…. cái say sưa của Vũ Hoàng Chương là một thứ say sưa có chừng mực, say sưa mà không hẳn là trụy lạc, mặc dầu từ say sưa đến trụy lạc đường chẳng dài chi. Nhưng trụy lạc hay say sưa đều mang theo một niềm ngao ngán. Niềm ngao ngán ấy ta vốn đã gặp trong thơ xưa”.  

Nhà thơ Xuân Quỳnh (1942-1988) nổi tiếng với nhiều bài thơ được nhiều người biết đến như “Thuyền và biển”, “Sóng”, “Thơ tình cuối mùa thu”, “Tiếng gà trưa”… Xuân Quỳnh mất năm 1988 trong một vụ tai nạn giao thông tại đầu cầu Phú Lương, thị xã Hải Dương, tỉnh Hải Dương, cùng với chồng Lưu Quang Vũ và con trai Lưu Quỳnh Thơ mới 13 tuổi.             

       

Nhà văn hoá Nguyễn Hữu Đang (1913-2007) là người chỉ huy dựng Lễ đài Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, nơi Hồ Chí Minh và Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắt quốc dân. Ông đã bị kết án 15 năm tù vì tội kích động bạo loạn trong vụ án Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm. 

Nhà văn Phùng Quán (1932-1995), tác phẩm đầu tay “Vượt Côn Đảo” của ông được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1955. Trong di cảo hồi ký “Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào” do Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2007, ông kể nhiều chi tiết rất thú vị về sự ngẫu nhiên và tình cờ đưa ông từ một người lính trở thành một nhà văn và những biến cố phải gánh chịu nhưng với giọng kể rất hóm hỉnh, không một chút trách móc hay thù hận. Không lâu sau đó, Phùng Quán tham gia phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm bằng hai bài thơ “Lời mẹ dặn” và “Chống tham ô lãng phí” (1957). Khi phong trào này chấm dứt, Phùng Quán bị kỷ luật, ra khỏi quân đội, sau đó mất đi tư cách hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và phải đi lao động thực tế ở nhiều nơi.

Nhà văn Vũ Trọng Phụng (1912-1939) đã để lại một kho tác phẩm đáng kinh ngạc: hơn 30 truyện ngắn, 9 tập tiểu thuyết, 9 tập phóng sự, 7 vở kịch, cùng một bản dịch vở kịch từ tiếng Pháp, một số bài viết phê bình, tranh luận văn học và hàng trăm bài báo viết về các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa. Một số trích đoạn tác phẩm của ông trong các tác phẩm “Số đỏ” và “Giông tố” đã được đưa vào sách giáo khoa môn Ngữ văn. Tuy nhiên, cũng vì phong cách “tả chân” và yếu tố tình dục trong tác phẩm mà khi sinh thời ông đã bị chính quyền bảo hộ Pháp tại Hà Nội gọi ra tòa vì “tội làm tổn thương phong hóa”. Về sau này, tác phẩm của ông lại bị cấm xuất bản, cấm đọc vì là “tác phẩm suy đồi” tại miền Bắc Việt Nam từ năm 1954 và cả nước từ ngày 30/4/1975 cho đến tận cuối những năm 1980 mới được chính quyền cho lưu hành.

Nhạc sĩ Cung Tiến (1938) được xem như nhạc sĩ trẻ nhất có sáng tác được phổ biến rộng với bài “Hoài cảm” năm 14 tuổi. Mặc dù Cung Tiến chỉ xem âm nhạc như một thú tiêu khiển nhưng ông đã để lại những nhạc phẩm rất giá trị. Ra hải ngoại, Cung Tiến viết nhạc tấu khúc Chinh phụ ngâm năm 1987, soạn cho 21 nhạc khí, được trình diễn lần đầu vào ngày 27/3/1988 tại San Jose, California với dàn nhạc thính phòng San Jose, và đã được giải thưởng Văn Học Nghệ thuật năm 1988. 

Nhạc sĩ Đoàn Chuẩn (1924-2001) là một nghệ sĩ biểu diễn guitar Hawaii, song được biết đến nhiều hơn cả như một nhạc sĩ Việt Nam với số lượng sáng tác ít ỏi nhưng đều trở thành những giai điệu thuộc nằm lòng của nhiều thế hệ. Tất cả ca khúc của ông đều được ghi tên tác giả là “Đoàn Chuẩn-Từ Linh”. Thực ra Từ Linh không trực tiếp tham gia sáng tác, nhưng Đoàn Chuẩn ghi tên chung hai người để tôn vinh người bạn tri âm của mình, tôn vinh tình bạn đã góp phần tạo cảm hứng nghệ thuật. Hiện đã xác định được tổng cộng là hai mươi mốt ca khúc của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn, trong đó các sáng tác của ông thường đề cập nhiều đến mùa thu. Những nhạc phẩm nổi tiếng: Tình nghệ sĩ (1947), Gửi gió cho mây ngàn bay (1952), Lá đổ muôn chiều (1954), Tà áo xanh (1955)… 

Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ (1929-2001) có nhiều sáng tác ca ngợi quê hương, đất nước, con người Việt từ trước 1975. Hoàng Thi Thơ sáng tác trên 500 ca khúc từ tình ca đến nhạc quê hương, dân ca đến nhạc thời trang, đoản khúc đến trường ca, nhạc cảnh đến nhạc kịch. Ngoài ra, tại Sài Gòn, ông có thực hiện ba băng nhạc mang tên ông với những giọng ca thượng thặng thời đó: Hoàng Thi Thơ 1: Rước tình về với quê hương, Hoàng Thi Thơ 2: Việt Nam như đóa hoa xinh, Hoàng Thi Thơ 3: Đưa em qua cánh đồng vàng. 

Nhạc sĩ Lam Phương (1937 – 2020) là một nhạc sĩ tiêu biểu của nền tân nhạc Việt Nam với gần 170 tác phẩm phổ biến từ giữa thập niên 1950 đến nay. Nhạc sĩ Lam Phương trong một lần lên Đà Lạt biểu diễn văn nghệ, ngồi trên khu nội trú nhìn xuống thung lũng ông viết bài “Thành phố buồn” và bán với giá 12 triệu đồng, tiền hồi đó. Ngoài ra còn rất nhiều bản khác như “Tình bơ vơ”, “Duyên kiếp”… khiến ông có một tài sản lớn. Ông nói rằng người ta đi tị nạn chính trị còn tôi tị nạn ái tình. Ở Pái ông đã gặp được một người phụ nữ tên Hường và viết hàng loạt ca khúc vô cùng tươi vui như “Bé yêu”, “Bài tango cho em”. Điển hình là bài “Mùa thu yêu đương” với câu hát “Đường vào Paris có lắm nụ hồng”. Tuy nhiên cuộc tình này không đi đến đâu, nên sau cùng ông viết “Tình vẫn chưa yên”. 

Nhạc sĩ Lê Uyên Phương (1941-1999) – Lê Uyên Phương là nghệ danh chung của vợ chồng nhạc sĩ Lê Minh Lập và ca sĩ Lê Uyên Lâm Phúc Anh. Lê Uyên Phương nổi tiếng bởi việc sáng tác và trình diễn những tình khúc ca ngợi tình yêu nồng nàn, lãng mạn tại Sài Gòn trước năm 1975. Những nhạc phẩm nổi tiếng: Tình khúc cho em, Uống nước bên bờ suối, Vũng lầy của chúng ta, Yêu nhau trong phận người… 

Nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên (1948), một số ca khúc đáng chú ý như: “Giáng ngọc”, “Mùa thu này cho em” (sau đổi là “Mùa thu cho em”), “Gọi nắng” (sau đổi là “Giọt nắng hồng”), “Dấu vết tình yêu” (sau đổi là “Dấu tình sầu”), “Cho những mùa thu” (sau đổi là “Thu trong mắt em”), “Tình khúc tháng 6”, “Mùa thu về trong mắt em” (sau đổi là “Mắt thu”) và “Ngày mai em đi”… Tiếp theo, Ngô Thụy Miên có những nhạc phẩm phổ từ thơ của nhà thơ Nguyên Sa như: “Áo lụa Hà Đông”, “Paris có gì lạ không em”, “Tuổi 13″…

Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 (1940-2016) là nhạc sĩ kiêm nhạc công chơi dương cầm. Nguyễn Ánh 9 bắt đầu sự nghiệp viết nhạc một cách rất tình cờ trong một chuyến đi Nhật biểu diễn cùng ca sĩ Khánh Ly. Sau buổi diễn tại hội chợ Osaka, khi cùng với Khánh Ly đứng chờ thang máy lên phòng khách sạn, thấy người bạn mình mang vẻ mặt buồn buồn, Khánh Ly lên tiếng hỏi: “Còn thương nó không bạn?”, ý muốn hỏi về một người bạn gái quen biết Nguyễn Ánh 9 vào thời đó. Sẵn cây đàn ghi-ta trên tay, Nguyễn Ánh 9 gảy ngay rồi cất tiếng hát: “Không! Không! Tôi không còn, tôi không còn yêu em nữa…”. Đến khi trở về Việt Nam, Khánh Ly đề nghị ông soạn nhạc phẩm này. 

Nhạc sĩ Phạm Duy (1921-2013), thường được coi như nhạc sĩ lớn nhất của nền Tân nhạc Việt Nam với lượng sáng tác đồ sộ cũng như đa dạng về thể loại, trong đó có rất nhiều ca khúc trở nên kinh điển và quen thuộc với người Việt. Câu mở đầu của bài “Tình ca”, ca khúc của Phạm Duy viết trong giai đoạn trước 1954 trở thành quen thuộc với mọi người: “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi!…”. Thi sĩ Chế Lan Viên nhắc tới Phạm Duy trong một bài báo tên “Hồi Ký” đăng tại tạp chí Sông Hương ngày 22 tháng 6 năm 1986: “Tất cả về cội, không mất mát gì ư? Có chứ, mất Phạm Duy! Chúng ta tiếc lắm, vì anh có tài lớn. Nhưng chúng ta làm sao được! Anh ấy bỏ chúng ta, chứ chúng ta đâu có bỏ anh.”

Nhạc sĩ Phạm Đình Chương (1929-1991), ông còn là một ca sĩ với nghệ danh Hoài Bắc trong ban hợp ca Thăng Long. Phần nhiều những tác phẩm của Phạm Đình Chương thường được xếp vào dòng tiền chiến bởi mang phong cách trữ tình lãng mạn. Hai sáng tác đầu tiên “Ra đi khi trời vừa sáng” và “Hò leo núi” đều có không khí hào hùng, tươi trẻ. Phạm Đình Chương cũng phổ nhạc từ thơ. Nhiều bản nhạc phổ thơ của ông đã trở thành những bài bất hủ, có một sức sống riêng như: “Đôi mắt người Sơn Tây” (thơ Quang Dũng), “Mộng dưới hoa” (thơ Đinh Hùng), “Nửa hồn thương đau” (thơ Thanh Tâm Tuyền), “Đêm nhớ trăng Sài Gòn” (thơ Du Tử Lê)… Phạm Đình Chương cũng đóng góp cho tân nhạc Việt Nam bài trường ca bất hủ Hội Trùng Dương nói về ba con sông đại diện cho ba miền: sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long.

Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng (1937-2000) – Năm 1966, Trầm Tử Thiêng gia nhập Cục Tâm lý chiến thuộc Tổng cục Chiến tranh Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Thời gian này ông viết các bản nhạc như: “Quân trường vang tiếng gọi”, “Đêm di hành”, “Mưa trên Poncho”. Sự kiện Tết Mậu Thân 1968, Trầm Tử Thiêng viết bài “Chuyện một chiếc cầu đã gãy” nói về cầu Trường Tiền bị giật sập. Năm 1970, ông viết “Tôn Nữ còn buồn” về trận bão tàn phá miền Nam. Ngoài ra, ông cũng tham gia vào phong trào Du ca Việt Nam. 

Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh (1942-2005) còn là ca sĩ với nghệ danh Nhật Trường và được xem như là một trong bốn giọng nam nổi tiếng nhất của nhạc vàng. Về sáng tác, hai chủ đề lớn trong sáng tác của Trần Thiện Thanh là tình yêu và tình lính. Ông sáng tác nhiều nhạc về lính, nhưng nhạc lính của ông không có thù hận, gay gắt, kích động hoặc u uất, bi thảm mà thường là trong sáng vui tươi, làm thi vị hóa và lãng mạn hóa đời lính gian khổ. 

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (1939-2001), hiện nay chưa có thống kê chính xác về số tác phẩm để lại của ông. Tuy nhiên số ca khúc của ông được biết đến rộng rãi là 236 ca khúc. Ngoài ra, ông còn được xem là một nhà thơ, một họa sĩ, một ca sĩ và một diễn viên không chuyên. 

Nhạc sĩ Trúc Phương (1933-1995) – Nhiều ca khúc viết bằng giai điệu Bolero của ông trở thành bất hủ và vẫn được yêu thích cho đến tận nay. Năm 1976, Trúc Phương vượt biên nhưng không thành công và bị tịch thu nhà. Những năm sau, ông vượt biên thêm 2 lần nhưng vẫn không thành công. Lúc ra tù, vợ con ly tán, ông sống không nhà cửa, không giấy tờ tùy thân rồi lưu lạc về Trà Vinh, Vĩnh Long và vài nơi khác. Tác phẩm tiêu biểu: “24 giờ phép”, “Ai cho tôi tình yêu”, “Chiều cuối tuần”, “Đò chiều”, “Nửa đêm ngoài phố”, “Tàu đêm năm cũ”, “Tình thắm duyên quê”… 

Nhạc sĩ Từ Công Phụng (1942) là một nhạc sĩ thuộc dân tộc Chàm. Ông cũng là tác giả của các ca khúc trữ tình được nhiều người biết đến như “Bây giờ tháng mấy”, “Mắt lệ cho người”, “Giọt lệ cho ngàn sau”, “Trên ngọn tình sầu”, “Mùa xuân trên đỉnh bình yên”… Ông cũng hát một số trong những bài hát của chính mình. Có một thời ông hát chung với Từ Dung trở thành một cặp song ca nổi tiếng tại Sài Gòn.

Nhạc sĩ Văn Cao (1923-1995), ông là tác giả của ca khúc “Tiến quân ca”, quốc ca chính thức của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời ông cũng là một trong những cây bút có sức ảnh hưởng lớn nhất của nền Tân nhạc Việt Nam. Ông được giới chuyên môn và công chúng yêu nhạc đánh giá là một trong ba nhạc sĩ nổi bật nhất của nền âm nhạc hiện đại Việt Nam trong thế kỷ XX, cùng với Phạm Duy và Trịnh Công Sơn. Những ca khúc trữ tình lãng mạn như “Bến xuân”, “Suối mơ”, “Thiên Thai”, “Trương Chi”… nhanh chóng trở thành một trong những gương mặt tiên phong, nổi bật nhất của trào lưu lãng mạn trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, đặc biệt là để lại những dấu ấn mang tính khai phá của ông trong tân nhạc Việt. 

Nhạc sĩ Vũ Thành An (1943) với các “Bài không tên” là những tác phẩm nổi tiếng của ông. Hiện nay, ông là một phó tế của Giáo hội Công giáo Rôma, đã ngừng sáng tác nhạc tình ca mà chỉ sáng tác thánh ca. Ông cũng là người có nhiều tai tiếng trong thời gian đi học tập cải tạo… 

Nhạc sĩ Xuân Tiên (1921) là một nhạc sĩ có nhiều đóng góp cho nền tân nhạc Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Ngoài sáng tác nhiều bản nhạc có giá trị được nhiều người yêu thích như “Khúc hát ân tình”, “Duyên tình”, “Về dưới mái nhà”, … ông còn có khả năng chơi 25 loại nhạc cụ, đồng thời cải tiến và sáng tạo một số nhạc cụ mới. Năm 1976, lúc còn ở Việt Nam, ông chế tác cây đàn 60 dây chơi được tất cả âm giai. Tiếng đàn tương tự tiếng đàn tranh nhưng mạnh và chắc hơn. Năm 1980, ông cải tiến cây đàn bầu cổ truyền với thân đàn làm từ trái bầu dài làm hộp khuếch âm. Đàn này đã nhiều lần được đem đi triển lãm ở Úc, thường được gọi là Đàn bầu Xuân Tiên. Ông vừa mừng sinh nhật tháng 1/ 2021 đại thọ 100 tuổi.

Nhạc sĩ Y Vân (1933-1992) – Y Vân có nghĩa là “Yêu Vân”, tên tiểu thư Tường Vân – người yêu đầu tiên của ông. Ông chọn tên này từ khi chuyện tình giữa ông và cô tan vỡ. Một số ca khúc của ông đã được viết lên để nói lên tâm sự này: “Đò nghèo”, “Ảo ảnh”, “Nhạt nắng”… Bài hát “Lòng mẹ” của ông rất nổi tiếng và được xem như một trong những ca khúc tiêu biểu, sâu sắc và thiêng liêng nhất về tình mẹ, được sáng tác năm 1957. Từ đó đến nay, bài hát đã được nhiều ca sĩ thể hiện, vì thế nó còn là một bài hát rất quen thuộc với người Việt Nam từ ngày ra đời đến bây giờ.

Thầy Tuệ Sỹ (1943): Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, tục danh Phạm Văn Thương, sinh ngày 15/2/1943 tại Paksé, Lào, quê tại Quảng Bình, Việt Nam. Ông là một học giả uyên bác về Phật giáo, nguyên giáo sư thực thụ của Đại học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, nhà văn, nhà thơ, dịch giả và là một người bất đồng chính kiến với chính quyền. Ông được giới học giả Việt Nam đánh giá cao vì đã công bố nhiều tiểu luận, chuyên khảo, thơ và nhiều công trình dịch thuật Phật giáo từ tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa và tiếng Nhật. Lúc bị bắt năm 1984, ông và Thích Trí Siêu, được coi là 2 nhà sư uyên bác nhất của Phật giáo Việt Nam, đang soạn thảo quyển Bách khoa Phật học Ðại Tự điển.

Triết gia Trần Đức Thảo (1917-1993) – Năm 1957-1958, ông bị kết án dính líu đến phong trào Nhân văn-Giai phẩm khi công bố hai bài báo có bàn đến một số vấn đề về tự do, dân chủ. Sau vụ Nhân văn-Giai phẩm, ông bị cách chức Phó Giám đốc trường ĐHSP Hà Nội, chức Trưởng khoa Lịch sử chung cho cả ĐHSP và ĐHTH Hà Nội. Trần Ðức Thảo bị cấm giảng dạy, phải dịch thuật lặt vặt để sống, phải bán dần bán mòn những bộ từ điển. Ông hạn chế liên hệ với người khác, bị cô lập trong cuộc sống.

Hoạ sĩ Vĩnh Phối… thầy tôi 

(Theo chú thích của họa sĩ Trần Thế Vĩnh)

Chân dung tự họa của Trần Thế Vĩnh

Họa sĩ Trần Thế Vĩnh

Họa sĩ Trần Thế Vĩnh
Đào Nguyên Thông sưu tập
From: TU-PHUNG

Carolyn Huỳnh và cuốn sách ‘Fortunes of Jaded Women’ rất Việt Nam

Carolyn Huỳnh và cuốn sách ‘Fortunes of Jaded Women’ rất Việt Nam

September 7, 2022

Đằng-Giao/Người Việt

LOS ANGELES, California (NV) – Cuốn “Fortunes of Jaded Women” của tác giả Carolyn Huỳnh xoay quanh câu chuyện của những người mẹ và những đứa con gái tại Little Saigon, Westminster.

Tác giả Carolyn Huỳnh tại thư phòng ở Los Angeles. (Hình: Carolyn Huỳnh cung cấp)

Lâm li, hóm hỉnh và có hậu

Cuốn sách kể câu chuyện của nhiều nhân vật thuộc nhiều thế hệ lần tìm về với nhau sau khi bị cuộc sống trên quê hương mới làm cho tình cảm rạn nứt, sứt mẻ.

“Và trong quá trình tìm về với nhau, họ tìm được con người của chính họ,” tác giả Carolyn Huỳnh nói.

Nhưng thông điệp lớn nhất của cuốn sách là sự cứu chuộc của cá nhân.

Cô nói: “Cho dù cuộc đời có tàn ác với chúng ta đến đâu thì chúng ta vẫn có thể viết lại câu chuyện của mình.”

Bằng giọng văn thân mật, khi thì dí dỏm, hóm hỉnh, khi thì căng thẳng, nghiêm chỉnh, Carolyn khéo léo lôi cuốn độc giả vào một cuộc hành trình của trái tim đầy thú vị và cảm động.

“Fortunes of Jaded Women” được nhà xuất bản Atria Books thuộc công ty Simon & Schuster, Inc. có trụ sở ở New York, London, Toronto, Sydney, và New Delhi phát hành.

Cuốn sách của Carolyn Huỳnh viết bằng tiếng Anh nhưng tâm tư, tình cảm, nỗi lo âu, niềm hy vọng, những giọt nước mắt và những nụ cười ý nhị lại hết sức Việt Nam.

Hai tầng ý nghĩa

“Tựa đề cuốn sách này có hai ý nghĩa,” cô Carolyn cho biết. “Chữ ‘fortunes’ vừa có nghĩa là vận may mà cũng có nghĩa là giá trị của những phụ nữ này. ‘Jaded’ vừa có nghĩa là mệt mỏi vừa có nghĩa là cẩm thạch.”

Cô muốn để độc giả tự hiểu toàn bộ câu chuyện theo cảm nhận của mình chứ không muốn áp đặt ý nghĩa của cuốn sách, buộc độc giả phải hiểu theo ý cô.

Những nhân vật trong “Fortunes of Jaded Women” hoàn toàn linh hoạt, sống động và có cá tính chứ không tẻ nhạt, mập mờ và rập khuôn như những nhân vật nhan nhản trong những cuốn sách thị trường theo thị hiếu khán giả bình dân.

Chỉ cần đọc qua vài trang đầu là độc giả thấy ngay sự thực tâm chăm sóc mà tác giả dành cho từng nhân vật của mình. Phải quý trọng nhân vật như người nhà thì cô Carolyn mới có giọng văn ân cần, nâng niu như vậy.

“Fortunes of Jaded Women” của Carolyn Huỳnh kể về tình cảm gia đình của người gốc Việt. (Hình: Carolyn Huỳnh cung cấp)

Chuyện riêng tư nhưng lại rất… “chung”

Câu chuyện của “Fortunes of Jaded Women” không vội vàng hời hợt với diễn biến tình tiết nhanh mà chậm rãi, từ tốn đào sâu vào nội tâm để tìm kiếm cái “hồn” sâu lắng của câu chuyện.

Cô Carolyn nói: “Những nhân vật có những nỗi niềm không nói được thành lời.”

“Fortunes of Jaded Women” nói về những câu chuyện gia đình riêng tư nhưng cũng là câu chuyện chung ở mọi nơi trên thế giới: sự xung đột, hiểu lầm của những thế hệ khác nhau.

“Câu chuyện cũng về khả năng phục hồi và hy vọng. Tôi muốn viết về cuộc đấu tranh đồng hóa và những gì xảy ra sau đó, cho nhiều thế hệ tiếp nối,” cô trình bày.

Nếu độc giả cảm thấy vui khi đọc “Fortunes of Jaded Women” là cô Carolyn cho rằng mình đã thành công.

Cô nói: “Chỉ cần một số ít người thôi là tôi đủ vui rồi. Với tôi, đó là thành công. Danh tiếng và tiền bạc không quan trọng bằng niềm vui của độc giả.”

Sinh ra tại Fountain Valley và lớn lên tại Santa Ana, cô Carolyn lấy rất nhiều cảm hứng cho cuốn sách từ những ngày còn bé ở Santa Ana theo mẹ đến Little Saigon.

Sau khi so sánh lối sống của ngưởi gốc Việt tại nhiều nơi, cô nhận xét rằng cuộc sống của người Việt ở Orange County rất khác với kinh nghiệm cuộc sống của người gốc Việt ở Houston (Texas) hay New Orleans (Louisiana).

Cô nói: “Người Việt ở Nam California khác ở cách ăn mặc thời trang cũng như thái độ sống của họ khác với người ở nơi khác và họ tự tin hơn rất nhiều bởi vì có đông người Việt chung quanh để thành lập một cộng đồng. Nơi khác không được như vậy.”

Cô Carolyn Huỳnh cùng cha mẹ tại Santa Ana. (Hình: Carolyn Huỳnh cung cấp)

Cuốn “Fortunes of Jaded Women” là một món quà ý nghĩa và thú vị bậc phụ huynh có thể mua tặng con em mình để gia đình có thể hiểu và thông cảm cho nhau hơn

Sách có bán khắp nơi, Amazon, Barnes & Noble hay Walmart, Target. [qd]

____________________

Liên lạc tác giả: ngo.giao@nguoi-viet.com

CÂU CHUYỆN VỀ CÔ BÉ 7 TUỔI CỨU SỐNG HÀNG TRIỆU TRẺ EM Ở CHÂU PHI

 CÂU CHUYỆN VỀ CÔ BÉ 7 TUỔI CỨU SỐNG HÀNG TRIỆU TRẺ EM Ở CHÂU PHI

Đây là câu chuyện có thật về cô bé ấy có tên là Katherine Commale:

– Vào ngày 6/4/2006, cô bé Katherine Commale ở Mỹ xem đoạn phóng sự ở châu Phi trên TV, trong đó có nói ở châu Phi trung bình mỗi 30 giây sẽ có một đứa trẻ tử vong do bệnh sốt rét.

Cô bé 5 tuổi ngồi trên sô pha đếm số bằng tay 1, 2, 3,… 30. Khi đếm đến 30, cô bé hoảng sợ nói: “Mẹ ơi, có một bạn nhỏ ở châu Phi chết rồi, chúng ta nhất định phải làm gì đó!”.

Vài ngày sau, mẹ của Katherine nhận dược điện thoại của cô giáo mẫu giáo nói rằng cô bé không đóng tiền ăn nhẹ.

Khi mẹ hỏi tiền đâu thì Katherine nói: “Mẹ ơi, nếu con không ăn đồ ăn nhẹ ở trường, bình thường không ăn vặt, cũng không mua búp bê nữa, vậy thì có đủ để mua một chiếc mùng không ạ?”

Mẹ đưa cô bé đến siêu thị, mua một chiếc mùng chống muỗi lớn có thể sử dụng cho 4 trẻ em có giá mười mấy đô la. Sau đó cô gọi điện thoại cho tổ chức làm từ thiện ở châu Phi hỏi cách làm thế nào để gửi được chiếc mùng đến đó.

Rất nhanh sau đó họ đã tìm cho cô tổ chức Nothing But Nets chuyên gửi mùng đến châu Phi cho trẻ em. Katherine tự tay gửi chiếc mùng đi, một tuần sau, cô bé nhận được thư cảm ơn từ tổ chức Nothing But Nets, trong thư họ cho biết cô bé là người quyên góp nhỏ tuổi nhất và nếu cô bé quyên góp 10 chiếc mùng thì sẽ được giấy chứng nhận.
Katherine yêu cầu mẹ cùng mình ra chợ bán đồ cũ để bày bán sách cũ, đồ chơi cũ, quần áo cũ của cô bé để lấy tiền quyên góp mùng. Nhưng bán cả một ngày mà không ai mua. Katherine nghĩ: “Mình quyên tiền mua mùng, tổ chức Nothing But Nets sẽ cho mình giấy chứng nhận. Vậy người khác mua đồ của mình, đưa cho mình tiền, họ cũng nên nhận được giấy chứng nhận mới đúng chứ.”

Thế là cô bé bắt đầu tự làm giấy chứng nhận, mẹ giúp mua vật liệu, bố giúp sắp xếp phòng làm việc, em trai giúp vẽ trái tim. Mỗi tờ giấy chứng nhận đều có dòng chữ “Nhân danh bạn, chúng ta mua một chiếc mùng để gửi đến châu Phi” do chính Katherine viết tay, đương nhiên còn có chữ ký chứng nhận của cô bé.

Chỉ cần quyên góp 10 đô la để mua một chiếc mùng là sẽ nhận được một tờ giấy chứng nhận. Hàng xóm nhìn thấy giấy chứng nhận của cô bé, họ cảm thấy vừa ngây thơ vừa cảm động, cô bé nhanh chóng bán được 10 tờ giấy chứng nhận. Katherine gửi tiền cho tổ chức từ thiện và nhận được “Giấy chứng nhận danh dự” đặc biệt làm riêng cho cô bé từ tổ chức Nothing But Nets, họ phong cho Katherine là “Đại sứ mùng chống muỗi”.
Vào ngày 8/6/2007, Katherine nhận được thư gửi đến từ làng Stiga, các bạn nhỏ trong làng viết: “Cảm ơn mùng mà bạn đã gửi cho chúng mình, chúng mình đã thấy ảnh của bạn, mọi người đều cảm thấy bạn rất xinh!”. Katherine vui lắm khi nhận được sự khích lệ này, khiến cô bé có động lực lớn hơn, cô và các “đồng đội” cùng chung tay làm 100 tờ giấy chứng nhận để gửi cho mỗi tỷ phú trong bảng xếp hạng của tạp chí Forbes mỗi người một tờ.

Trên một lá thư có viết: Kính gửi ông Bill Gates, không có mùng chống muỗi, các bạn nhỏ ở châu Phi sẽ bị mất mạng do bệnh sốt rét. Họ cần tiền, nhưng nghe nói tiền đều ở chỗ của ông…

Ngày 5/4/2011, Quỹ từ thiện Bill Gates tuyên bố quyên góp 3 triệu đô la cho tổ chức Nothing But Nets. Bill Gates cho biết ông nhận được một tờ giấy chứng nhận cùng một lá thư, trong thư nói rằng số tiền mà trẻ em ở châu Phi cần để mua mùng chống muỗi đều ở chỗ ông. Có vẻ như ông “không đưa tiền ra là không được đâu”.

Năm 2008, Quỹ từ thiện Bill Gates đã quay một bộ phim tài liệu công ích có tên là “Trẻ em cứu trẻ em”, nhờ đó mà Katherine đã đến châu Phi. Cô bé nhìn thấy các bạn nhỏ dùng bút viết lên mùng chữ “Katherine”, các bạn đều gọi những chiếc mùng cứu mạng này là “mùng Katherine”. Chiếc mùng đầy tình yêu thương này sẽ bảo vệ cho các bạn mỗi đêm. Làng Stiga bây giờ có tên là “Làng mùng Katherine”!.

Cho đến năm 10 tuổi, Katherine đã gây quỹ trên 180.000 USD, tương đương với 18.000 chiếc màn chống muỗi đã được gửi tới các gia đình châu Phi. Không lâu sau dấu mốc quan trọng này, cô bé nhận được tin tức rằng con số cứ 30 giây lại có một đứa trẻ ra đi vì sốt rét đã được cải thiện thành 45 giây. Hiện nay, con số này đã được nâng lên thành 60 giây.

 Nguồn: Vì Hoà Bình

From: Phong Dương

Bao Thuốc Lá CAPSTAN Ngày Xưa Đã Để Lại Nhiều Bài Thơ Hay!

Danh Họa Vũ Hối Vừa Qua Đời

Van Pham

Cầu chúc ông yên nghỉ (R.I.P) nơi cõi vĩnh hằng. Xin chia buồn cùng anh Vũ Nhân cùng tang quyến.

***

Danh Họa Vũ Hối Vừa Qua Đời

Họa Sĩ Vũ Hối đã vĩnh viễn ra đi vào lúc 5 giờ 15 phút ngày 19/08/2022, tại tiểu bang Maryland hưởng thọ 90 tuổi. Theo trang mạng đại học sự phạm Saigon, ông Vũ Hối sinh ngày 22 tháng 11 năm 1932 tại Tam Kỳ, Quảng Nam.

Là một nghệ sĩ đa tài, ông được biết đến như một họa sĩ, thi sĩ, người viết thư pháp. Ông là một tên tuổi lớn của nền văn học nghệ thuật nước nhà và quốc tế. Ông được mời vẽ chân dung tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy, vẽ chân dung Đại tướng Creighton W. Abrams. Đã nhận Giải Khôi Nguyên Hội Họa Quốc Tế năm 1963 tại Hoa Kỳ. Sáng lập trường phái Luân Vũ Họa (Paintings In Motion) và Thư Họa (Handwriting Painting).

Ông xuất thân trong một gia đình khoa bảng, nhưng chẳng may thân phụ và 11 người trong gia đình ông đã bị cộng sản tàn sát dã man vì là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Ðảng. Ông còn có bào huynh là Giáo Sư Vũ Ký, cũng nổi tiếng với cuốn biên khảo “Cương Lĩnh Văn Hóa.” Là một danh tài, một nghệ sĩ tích cực chống cộng của Miền Nam nên sau ngày 30 tháng 4, 1975 ông bị cộng sản bắt giam chung với nhà văn Doãn Quốc Sỹ, nhà thơ Vũ Hoàng Chương, nhạc sĩ Lê Thương và nhạc sĩ Ðức Quỳnh mà chúng ghép tội là “văn nghệ sĩ chống cộng – văn nghệ sĩ ngụy.”

Trong suốt thời gian bị giam, ông luôn luôn tỏ ra là con người Quốc Gia đầy sĩ khí, nhất định không khai danh tánh của những người đồng chí hướng với ông nên bị chúng tra tấn tàn bạo đến mù con mắt bên phải và chúng cùm ông cho đến liệt chân phải. Đây là một mất mát lớn cho cộng đồng người Việt hải ngoại nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung. Toàn ban giám đóc đài truyền hình SBTN xin chia buồn cùng tang quyến và phóng viên Vũ Nhân.

Bryan Phạm bỏ việc lương cao, lập diễn đàn AHN với 200,000 thành viên

Bryan Phạm bỏ việc lương cao, lập diễn đàn AHN với 200,000 thành viên

August 22, 2022

Trà Nhiên/Người Việt

LAS VEGAS, Nevada (NV) – Từ một kỹ sư nhu liệu với mức lương “đáng mơ ước,” đến nhà đầu tư bất động sản, nhưng Bryan Phạm lại quyết định “gác kiếm” để khởi nghiệp và sáng lập diễn đàn Asian Hustle Network (AHN), chấp nhận không có thu nhập năm đầu, chỉ vì một ước mơ.

Từ trái, anh Bryan Phạm và cô Maggie Chui-đồng sáng lập Asian Hustle Network, và MC Eric Chen trong một buổi hội thảo. (Hình: Bryan Phạm cung cấp)

Ước mơ của chàng trai 33 tuổi là gầy dựng diễn đàn kết nối giới trẻ gốc Á để các thành viên học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm về khởi nghiệp, về cách lãnh đạo, và làm cách nào để làm chủ doanh nghiệp.

AHN là “đứa con tinh thần” mà anh Bryan đồng sáng lập với cô Maggie Chui vào Tháng Mười Một, 2019. Mới đầu, AHN chỉ là một group nhỏ trên Facebook, nhưng chưa đầy một tuần lại thu hút 10,000 người nhấn nút tham gia.

Rồi sau đó thì trung bình group thu hút hơn 10,000 người mỗi tuần, để đến giờ đây diễn đàn AHN, www.asianhustlenetwork.com, có đến hơn 200,000 thành viên khắp thế giới.

Lý tưởng của “kẻ mộng mơ”

“Năm 2018, tôi tìm kiếm một diễn đàn gốc Á trực tuyến để tham gia nhưng lại không tìm được gì. Tôi thấy cộng đồng mình khi ấy thật rời rạc, coi nhau là đối thủ nhiều hơn là đoàn kết,” anh Bryan nói với nhật báo Người Việt.

“Các diễn đàn lúc bấy giờ toàn nói về đồ ăn và trà sữa, chứ chưa thấy một nơi nào cùng hỗ trợ các chủ doanh nghiệp hoặc một nơi nào đó dành cho những ‘kẻ mộng mơ’ như tôi. Thế là tôi hạ quyết tâm tự tạo một diễn đàn và đó là Asian Hustle Network,” anh bộc bạch.

Bryan Phạm đồng sáng lập Asian Hustle Network để kết nối cộng đồng gốc Á. (Hình: Bryan Phạm cung cấp)

Giải nghĩa cho sự thành công bất ngờ của AHN, anh Bryan cho biết: “Có thể AHN ra mắt là lúc cộng đồng cần nhất, họ cần mội diễn đàn để kết nối người có cùng chí hướng, cùng hỗ trợ nhau, và để cùng thành công.”

“Cha đẻ” của AHN cũng cho biết, khoảng 60% thành viên của diễn đàn là người từ 24 đến 36 tuổi, đa số là các bạn trẻ đang trên đường tìm kiếm ước mơ, và ý tưởng kinh doanh.

Cha mẹ của Bryan là thuyền nhân, vượt biển sang Mỹ năm 1987.

Anh sinh trưởng ở thành phố San Gabriel, thuộc Los Angles County. Sau đó, anh tốt nghiệp đại học UC Irvine, với ngành kỹ sư nhu liệu.

Sau khi ra trường, chàng sinh viên trẻ làm việc ở San Franciso trong bảy năm. Vài năm trở lại đây, anh chuyển sang sinh sống tại Las Vegas.

Anh làm kỹ sư nhu liệu được 10 năm, sau đó nhảy vào đầu tư bất động sản, nhưng chính ý tưởng thành lập diễn đàn của giới trẻ gốc Á đã thôi thúc anh đổi nghề.

“Một năm đầu thì AHN chẳng có thu nhập nào nhưng đến giờ nghĩ lại thì quyết định này thật đúng đắn dẫu nó không dễ dàng là bao,” anh tâm sự.

Buổi hội thảo 2022 Uplifted Conference của Asian Hustle Network, ở Las Vegas, thu hút hơn 500 thành viên tham dự. (Hình: Bryan Phạm cung cấp)

Diễn đàn của những nhà lãnh đạo tương lai

Các thành viên chính thức của AHN được tham gia giao thiệp với các chuyên gia ở nhiều lĩnh vực, được học hỏi kinh nghiệm qua các buổi hội thảo, được cung cấp các thông tin bổ ích và nguồn trợ giúp để mọi người cùng tiến phía trước.

Tháng Tư vừa qua, AHN thành công bằng việc tổ chức buổi hội thảo Uplifted Conference ở Las Vegas khi thu hút hơn 500 thành viên tham dự.

Anh Bryan cho biết buổi hội thảo tiếp theo sẽ được tổ chức từ 27 đến 28 Tháng Tư, 2023, và dự trù hơn 1,000 người tham dự.

Thêm vào đó, anh Bryan còn bật mí rằng sẽ có AHN Talk Series, buổi hội thảo mời các diễn giả có kinh nghiệm để chia sẻ nhiều chủ đề cũng như câu chuyện thành công của họ.

Vào 23 Tháng Tám, AHN Talk Series sẽ ra mắt ở Seatle, Washington, sẽ mời hai diễn giả một nữ, một nam, sinh sống ở đó để thuyết trình.

Sau đó, mỗi tháng AHN Talk Series sẽ có buổi hội thảo ở khắp Hoa Kỳ như ở Washington DC, New York, và sẽ mở rộng hơn sang các nước Á Châu như Việt Nam, Nam Hàn, và Singapore.

Anh Bryan cũng chia sẻ thêm rằng dù AHN vẫn còn được xem là công ty khởi nghiệp nhưng vẫn luôn sát cánh hỗ trợ cộng đồng.

Vừa rồi, AHN quyên góp tiền cho trường Good Shepherd Academy ở Los Angles, để hỗ trợ học sinh nơi đây.

“Chúng tôi luôn nghĩ mình có bổn phận giúp đỡ cộng đồng vì thành công mà AHN có được mới chỉ là sự bắt đầu thôi,” anh nói.

Bryan Phạm khuyến khích mọi người tham gia Asian Hustle Network để cùng học hỏi kinh nghiệm và chia sẻ thành công. (Hình: Bryan Phạm cung cấp)

Anh Bryan cũng khuyến khích các bạn trẻ: “Nếu các bạn muốn khởi nghiệp mà còn mông lung, hoặc muốn biết thêm về kinh nghiệm, về các giấy tờ chuyên môn khi kinh doanh thì hãy tham gia AHN để bạn không còn phải lạc lõng nữa, hãy cùng đồng hành trên chặng đường này.”

Vị đồng sáng lập AHN cũng chia sẻ chặng đường khởi nghiệp không hào quang như mọi người vẫn nghĩ.

“Đừng bị lừa là khởi nghiệp chỉ toàn ‘màu hồng.’ Chúng ta phải luôn siêng năng và làm việc hết mình vì đó là chặng đường gian nan, thậm chí là lắm chông gai,” anh Bryan tâm sự. [kn]

Liên lạc tác giả: nguyen.nhien@nguoi-viet.com

 New York: Tiểu thuyết gia rất nổi tiếng,ông Rushdie bị đâm trọng thương ngay khi đang thuyết trình

New York: Tiểu thuyết gia rất nổi tiếng,ông Rushdie bị đâm trọng thương ngay khi đang thuyết trình

Bọn đó đâu rồi ? Sao không đi theo dõi sinh hoạt của bọn khủng bố nầy ,để cho  án mạng  một nhân vật nổi tiếng xảy ra. Như vậy là bọn nầy vẫn âm thầm theo dõi nhà văn Ấn độ nầy trong cả chục năm nay , bây giờ thời cơ đến chúng nó ra tay ngay.

Đây mới thật là an ninh quốc gia ne`

Salman Rushdie: Author stabbed at event in New York state

https://www.youtube.com/watch?v=D7a8_uheJrI&ab_channel=Channel4News

Người đại diện của Salman Rushdie cho biết “tin này không tốt” sau khi tác giả bị đâm tại một sự kiện ở bang New York.

Andrew Wylie cho biết trong một tuyên bố, anh đã bị tấn công trên sân khấu, hiện đang thở máy và không thể nói được, đồng thời cho biết thêm rằng tác giả có thể bị mất một bên mắt.

Ông Rushdie đã phải hứng chịu nhiều năm bị những kẻ Hồi giáo đe dọa giết chết sau khi viết The Satanic Verses, xuất bản năm 1988.

Cảnh sát đã bắt giữ một nghi phạm tên là Hadi Matar, 24 tuổi, đến từ Fairview, New Jersey.

Cảnh sát bang New York cho biết nghi phạm đã chạy lên sân khấu và tấn công ông Rushdie và một người phỏng vấn tại Viện Chautauqua ở phía tây bang New York.

“Salman có thể sẽ bị mất một bên mắt; các dây thần kinh ở cánh tay của anh ấy bị cắt đứt; và gan của anh ấy bị đâm và bị tổn thương”, đại diện của anh ấy, Andrew Wylie cho biết.

Tiểu thuyết gia gốc Ấn Độ, ông Rushdie, đã trở nên nổi tiếng với Midnight’s Children vào năm 1981, cuốn sách đã bán được hơn một triệu bản chỉ riêng ở Anh.

Nhưng cuốn sách thứ tư của ông, xuất bản năm 1988 – Những câu thơ của Satan – đã buộc ông phải lẩn trốn trong gần mười năm.

Cuốn tiểu thuyết theo chủ nghĩa siêu thực, hậu hiện đại đã gây ra sự phẫn nộ trong một số người Hồi giáo, những người coi nội dung của nó là báng bổ và đã bị cấm ở một số quốc gia.

Một số người đã thiệt mạng trong các cuộc bạo động chống Rushdie ở Ấn Độ và ở Iran, đại sứ quán Anh ở thủ đô Tehran đã bị ném đá.

Năm 1991, một dịch giả người Nhật của cuốn sách bị đâm chết, trong khi vài tháng sau, một dịch giả người Ý cũng bị đâm và nhà xuất bản người Na Uy của cuốn sách, William Nygaard, bị bắn – nhưng cả hai đều sống sót.

Phản ứng trước cuộc tấn công hôm thứ Sáu, ông Nygaard nói ông Rushdie là một “tác giả hàng đầu có ý nghĩa rất lớn đối với nền văn học”, người đã phải trả “một cái giá đắt” cho tác phẩm của mình.

Một năm sau khi cuốn sách được phát hành, Lãnh tụ Tối cao Iran Ayatollah Khomeini đã kêu gọi hành quyết ông Rushdie. Anh ta đã đề nghị phần thưởng 3 triệu đô la (2,5 triệu bảng Anh) trong một fatwa – một sắc lệnh pháp lý do một nhà lãnh đạo tôn giáo Hồi giáo ban hành.

Tiền thưởng cho người đứng đầu của ông Rushdie vẫn còn hoạt động và mặc dù chính phủ Iran đã xa rời sắc lệnh của Khomeini, một tổ chức tôn giáo gần chính thức của Iran đã bổ sung thêm 500.000 USD vào phần thưởng vào năm 2012.

Công dân người Mỹ gốc Anh – vốn sinh ra từ những người Hồi giáo không theo đạo và bản thân là một người theo chủ nghĩa vô thần – đã nhiều lần trở thành người ủng hộ quyền tự do ngôn luận, bảo vệ công việc của mình.

From: TU-PHUNG

Làm từ thiện

Làm từ thiện

Ngày này cách đây 25 năm, bệnh viện Nhi Đồng (Memorial Children’ s Hospital) ở Chicago đã công bố nhận được 18 triệu Mỹ kim từ một bà cụ. 

     Đây là khoản  tiền quyên tặng lớn nhất bệnh viện nhận được  trong lịch sử 115 năm hoạt động. Khoản quyên tặng  này đã phá kỷ lục con số 10 triệu Mỹ kim mà ông Ray Kroc, ngưới sáng lập ra McDonald đóng góp cho bệnh viện khoảng cuối thập kỷ 70. 

    Sinh thời, bà được mọi người trong bệnh viện gọi là Teddy Bear Lady, bởi vì bà thường lui tới bệnh viện thăm bệnh nhi và tặng gấu bông cho các em. Không ai biết tên của bà, người phụ nữ luôn đến bệnh viện trong bộ trang phục màu đỏ thắm. Chỉ biết bà đến vì bà muốn mỗi  bệnh nhi đều có một chú gấu bông để ôm và vuốt ve cho đỡ buồn.

     Sau này, người ta mới biết bà tên là Gladys Holm, gia đình gốc Na Uy, di dân đến Mỹ sinh sống. Bà sống độc thân, không bà con thân thích, trong một apartment nhỏ ở thành phố Evanston.

     Bà làm việc cho một công ty chuyên cung cấp vật tư và  thiết bị y tế. Trong suốt 41 năm làm thư ký riêng cho ông chủ công ty này, bà chưa bao giờ  lãnh mức lương  vượt quá con số 15,000 Mỹ kim một năm. Nhưng bà có đầu tư vào chứng khoán, mua cổ phiếu của công ty bằng chút đỉnh tiền trích từ lương tháng. Ngoài luật sư của bà và người môi giới chứng khoán, không ai biết bà là người giàu có.

     Cái xe Cadillac Eldorado đỏ là tài sản sang trọng duy nhất của bà. Bà bị bệnh phong thấp, nên đã chọn chiếc xe này vì nó rộng rãi, thiết kế của xe tránh cho bà không bị thất thế khi ngồi vào xe hay bước ra khỏi xe. 

     Hồi còn trẻ, có lần bà vào bệnh viện nhi đồng thăm con của một người đồng nghiệp. Cô bé bệnh rất nặng, tưởng đâu không qua khỏi. Bệnh viện đã cứu sống cô bé. Chứng kiến và cảm kích sự tận tâm của các bác sĩ, bà muốn làm một việc gì đó để giúp cho bệnh viện có thể cứu thêm nhiều mạng sống nữa, như đã cứu sống cô bé Lynn Adrian, con gái người đồng nghiệp của bà. Cô bé 10 tuổi này gọi bà bằng dì, dù chẳng có ruột rà gì. Nay cô đã là giáo sư, giảng dạy tại trường đại học Alabama ở Tuscaloosa.

     Khi trông thấy người phụ nữ vận đồ đỏ đi đến từng giường bệnh an ủi và tặng gấu bông cho bệnh nhi, không ai biết bà giàu cỡ nào. Đến khi  họ xâu chuỗi lại những câu chuyện về bà, mới sáng ra một chuyện nữa. Đi phát gấu bông chỉ là cái cớ thôi. Thực ra bà muốn tìm hiểu gia cảnh của các cháu để biết gia đình cháu nào lâm vào hoàn cảnh khó khăn, không đủ tiền trang trải chi phí điều trị. Biết để âm thầm giúp họ trả bill.

     Trong suốt 25 năm lui tới bệnh viện, ước tính bà đã giúp khoảng 200,000 Mỹ kim.

     Năm 1969, sau 41 năm làm việc cho công ty American Hospital Supply, bà về hưu. Lúc này, công ty đã trở thành một trong những nhà cung cấp thiết bị y tế lớn nhẩt thế giới. 

     Năm 1997, bà qua đời, thọ 86 tuổi. Bà quyết định  để lại toàn bộ khối tài sản trị giá 18 triệu Mỹ kim cho khoa nghiên cứu của bệnh viện nhi đồng (Memorial Children Hospital) để khoa có kinh phí nghiên cứu và áp dụng những phương pháp điều trị mới cho các bệnh nhi, nhất là các cháu mắc bệnh tim.

     Vì không có họ hàng thân thích, đến dự tang lễ của bà chỉ có khoảng 25 người vốn là bằng hữu lâu năm hoặc là người quen biết. Phần lớn đều đã già yếu hom hem. Không đủ người có sức để khiêng cỗ quan tài, nên một nhân viên nhà quàn đã  kê vai góp sức.

     Phải chăng Gladys Holm đã thực hành một  lời răn dạy:”Khi cho đi thì chớ thổi kèn đánh tiếng.”

Một người nào đó, hẳn  là người đã biết Gladys Holm từng  cho đi những gì, nên đặt vào mỗi chiếc ghế  trong phòng tang lễ một chú gấu bông.

    Trộm nghĩ, đâu nhất thiết phải có tiền muôn bạc triệu mới làm được điều tốt. Mỗi ngày đều đưa cơ hội, cơ duyên đến cho chúng ta. Đó có thể chỉ là một nụ cười, một lời hỏi thăm, một cử chỉ, hoặc chỉ cần sự hiện diện là đủ. Khi làm được những điều tốt như vậy, bản thân cũng thấy vui. Gladys Holm hẳn cũng đã cảm nhận niềm vui này. Chúng ta có thể không đóng góp được số tiền to tát so với số tiền mà bà đã đóng góp,  nhưng nếu đã  giúp được một chút gì đó, ắt chúng ta cũng cảm nhận được niềm vui giống như vậy. Những gì bà đã làm được với số tiền chục triệu của bà, thì chúng ta cũng có thể làm được một việc gì đó với số tiền ngàn, tiền trăm, vài ba chục, với nụ cười, với chút thời gian, với tấm lòng. Sau này nếu có nhìn lại, mới hay, những gì đã cho nào có mất đi đâu, vì chúng đã ở lại trong  ký ức vui vẻ, khiến chúng ta ấm lòng, ấm lòng vì những điều nhỏ nhoi thôi, những điều cho đi mà không cầu hồi báo, không vì cầu phước cho con cháu mình,  không tính toán thiệt hơn; cho đi đơn thuần chỉ vì tha thiết muốn làm như vậy.  Nếu không, thì đó mới thực sự là chúng ta đã bỏ sót, để thiếu mất một điều gì đó trong cuộc đời.

     Tiếc là không tìm thấy tấm hình nào của Gladys Holm, một bà cụ ưa mặc trang phục đỏ, ưa đeo nhẫn to, ưa uống scotch trong bữa tối. Nhưng chí ít, hôm nay đã có thêm vài người biết thêm đôi điều về bà, một người suốt đời sống tặn tiện nhưng tử tế vô biên.

From:Tu-Phung

Đại Hội Thánh Mẫu Ở Missouri 2022! 

Đại Hội Thánh Mẫu Ở Missouri 2022! 

Giới Thiệu Sinh Hoạt Công Giáo Quy Mô, Lớn Nhất Tại Hải Ngoại, Đầu Tháng 8, Ngày 4 Này: Đại Hội Thánh Mẫu Ở Missouri 2022!

 *Luôn Luôn Có Con Số Kỷ Lục! Trên Hàng Trăm Ngàn Người Tham Dự Mỗi Năm!

Điểm tụ mọi người Công Giáo Việt Hải ngoại. Hàng trăm Linh mục, nhiều Giám mục, Nữ tu… nơi quy tụ đông nhất hàng giáo phẩm và giáo dân Công giáo Việt.

*Với đầy đủ mọi tiết mục, đạo, đời, không thiếu một thứ gì!

Ngoài những Thánh Lễ, với các bài giảng hay nhất, trên 20 ban hợp ca quy mô, quy tụ gần hàng ngàn ca viên, nơi đâu cũng có thể xưng tội, tĩnh tâm. Còn đầy đủ các hàng quán, thực phẩm đa dạng, chợ búa, chương trình văn nghệ quy mô do SBTN, Nhạc sĩ Trúc hồ phụ trách. Cảm tưởng như sống trong một khu phố nhỏ toàn người Việt, ngoài Việt Nam.

*Ðại Hội Thánh Mẫu năm 2022! Bắt đầu từ Thứ Tư tuần này!

Tại Tỉnh Dòng Mẹ Chúa Cứu Chuộc, Carthage, Missouri sẽ khai mạc ngày 04 kéo dài đến ngày 07 tháng 08 năm 2022. Được tổ chức lại, sau 2 năm bị gián đoạn vì dịch bệnh.

*Mở đầu…như một phép lạ!

Năm 1978, các cha dòng Đồng Công có trụ sở tại thành phố Carthage MO, trong tinh thần yêu mến Đức Mẹ, bắt đầu tổ chức ngày Thánh Mẫu đầu tiên. Chưa đáng gọi là “Đại hội” vì số giáo dân tham dự chỉ khiêm tốn vào khoảng 1.500 người.

Thế nhưng, như là một phép lạ! không thể tượng tượng nổi, chỉ cần mấy năm sau, con số đã lên đến trên 40.000 người! Từ đây ngày đại hội truyền thống quy mô ra đời. Không dừng lại ở con số đó, vì mỗi năm mỗi tăng, tới nay số giáo dân khắp nơi đổ về, tham dự chắc chắn trên cả trăm ngàn người! Đạt con số kỷ lục, không có Đại Hội nào ở hải ngoại có con số lớn hơn thế! 

*Những điều thú vị…không nơi nào có!

Ban đầu, đại hội này chỉ dành riêng cho người Công giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, nhưng không ngờ sự nhộn nhịp hân hoan và sinh động của mỗi kỳ đại hội Thánh Mẫu, đã lôi cuốn những người Mỹ tại thành phố trên 20.000 người này hòa chung một niềm vui cùng với dòng người khắp thế giới tề tựu về đây tham dự đại hội.

Cả thành phố bừng lên một sức sống vui nhộn, như sau khi qua cơn bạo bệnh được sống lại! Từ hàng quán, siêu thị … chật ních người Việt Nam, họ mua sắm những vật dụng cần thiết cho những ngày đại hội, làm cho thành phố có thêm thu nhập đáng kể, qua các khoản thuế hay dịch vụ khách sạn, du lịch.

Người ta cũng không thể tượng tưởng bởi các khách sạn tại thành phố này và những thành phố xung quanh, đã không còn chỗ trống! vì người ta đã đặt chỗ từ gần năm nay! Những ai chậm chân, đều phải ra các siêu thị mua lều vải, căng lên trong khu vực được chỉ định, để làm nơi nghỉ ngơi qua đêm, qua những ngày tham dự đại hội, tạo thành một khu phố toàn lều!

Tầm ảnh hưởng sinh hoạt lớn lao, đến nỗi chính quyền thành phố, quyết định đổi ngày lễ hội hằng năm, để lấy ngày đại hội Thánh Mẫu của người Việt Nam làm Ngày của thành phố! Đã đóng góp một số lợi tức to lớn, vì thế vấn đề an ninh, y tế, chữa lửa, được thành phố lo liệu hết! Nên ban tổ chức đại hội rất an tâm, những vấn đề an toàn đã có thành phố lo! Không có một đại hội nào, lại thành là công việc chính của tất cả cư dân thành phố!

MỌI ĐIỀU CẦN BIẾT ĐỂ THAM DỰ NGÀY THÁNH MẪU NĂM 2022!

(Theo tin Triều Giang) 

Kính Mời Tham Dự Đại Hội Thánh Mẫu Missouri lần thứ 43

Chủ Đề “Này Là Con Mẹ, Đây Là Mẹ Con!”

Năm nay Đại hội Thánh Mẫu với chủ đề “Này Là Con Mẹ, Đây Là Mẹ Con” (Gioan 19:27) – nói lên sự cậy trông vào sự cầu bầu của Đức Mẹ trong mọi khó khăn của cuộc sống. 

Hàng Giáo Phẩm Đặc Biệt Tham Dự và Giới Thiệu Thành Phần Ban Tổ Chức:

Đại Hội Thánh Mẫu năm nay sẽ có sự tham dự của Các Đức Giám Mục: Đức Cha Carl Keme, thuộc địa phận Wichita, Kansas, Đức Cha James Johnston, địa phận St. Joseph, Missouri, Đức Cha Gerald Vincke, địa phận Salina, Kansas, và Đức Cha Edward M. Rice, địa phận Springfield-Cape Girardeau, Missouri.

Ban Tổ chức gồm các Linh mục: Trưởng Ban là Cha Philipphe Neri M. Đỗ Thanh Cao, Phó Nội vụ: Cha Phanxicô Xaviê M. Đỗ Cao Tùng, Phó Ngoại vụ: Cha Timôthê M. Trần Việt Thắng, thư ký: Cha Phanxicô Assisi M. Trần Hưng Long và thủ quỹ: cha Pôlycarpô M. Nguyễn Đức Thuần cùng với sự hỗ trợ của trên 80 Linh Mục, trên 40 Giáo Xứ, khoảng 20 ca đoàn và hàng trăm các thiện nguyện viên trong các ban ngành từ ban an ninh trật tự, vệ sinh, tiếp tân, ẩm thực…

Một chương trình sinh hoạt ý nghĩa đầy ắp đã được quý cha post trên website của nhà Dòng: www.ngaythanhmau.net.

Trước ngày Đại hội, ngày thứ Tư 3/8 sẽ có buổi chiếu phim phim Fatima về sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, từng được khen là phim cảm động có hình ảnh tuyệt đẹp. Ngày thứ Năm 4/8 sẽ chiếu phim tài liệu về Ngày Thánh Mẫu “Marian Days – A Spiritual and Cultural Homecoming”, tạm địch là “Ngày Thánh Mẫu – Ngày Tìm Về Nghi Thức Và Văn Hóa Quê Hương”. Cả hai đều được chiếu tại Hội trường Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào lúc 2 giờ chiều. Chiều ngày thứ Tư trước Đại Hội sẽ có cuộc cung nghinh và Thánh Lễ kính Thánh Cả Giuse tại Công Trường Nữ Vương Hòa Bình do Cha Pôlycarpô M. Nguyễn Đức Thuần chủ tế và Cha Đaminh M. Nguyễn Phúc Lộc giảng thuyết.

Đại Lễ khai mạc Ngày Thánh Mẫu 2022

Sẽ diễn ra lúc 7 giờ chiều Thứ Năm 4/8 tại Lễ Đài chính do Đức Cha Edward M. Rice thuộc địa phận Springfield-Cape Girardeau chủ tế, và Cha Gioan Trần Khả đến từ Houston giảng thuyết. Tiếp theo là 12 Thánh lễ lần lượt được cử hành tại nhiều địa điểm khác nhau trong khuôn viên nhà Dòng, kiệu Thánh Thể sau Lễ Khai Mạc tối Thứ Năm và cuộc Cung Nghinh Thánh Tượng Mẹ Fatima chiều Thứ Bảy, 12 buổi Hội Thảo với các đề tài về gia đình, niềm tin, và Đức Mẹ do 8 Linh mục giảng thuyết. Đặc biệt là có cuộc Hội Thảo dành cho giới trẻ bằng tiếng Anh do cha Timothy Thắng phụ trách. Cuối cùng là Thánh lễ Bế mạc vào sáng Chủ Nhật lúc 7 do Đức Cha James V. Johnston, giáo phận Kansas City-St. Joseph, Missouri, chủ tế và cha Lawrence M. Châu Hy giảng thuyết. Đại Hội Thánh Mẫu lần thứ 44 sẽ được công bố sau Thánh Lễ.

Giới trẻ được đặc biệt chú trọng

Tản bộ từ trung tâm nhà Dòng để đến đồi Canvê với những hàng cây cao đầy đặc những tàng lá. Có những nơi không một tia nắng nào có thể xuyên qua. Tượng của 14 đàng Thánh giá được đặt tại đây. Dưới các gốc cây cổ thụ còn có những tượng thiên thần cầu nguyện, tượng lão ông ngồi suy tư và nhiều pho tượng khác tạo cho khu vườn một vẻ trầm lắng, bình an. Có 2 xe truck và một số công nhân đang cắt cây cho bớt rậm rạp, một sân khấu vừa được thiết lập. Nơi đây sẽ là nơi sinh hoạt của hàng trăm các học sinh, sinh viên, và những người trẻ đến để sinh hoạt, trình diễn âm nhạc, hội thảo, tham dự Thánh Lễ, và chơi những trò chơi ngoài trời. Có năm đông cũng có tới trên 500 em. Đề tài Hội thảo năm nay là: “Who is at Your Table”. Tạm dịch là “Ai là người ngồi cùng bàn của bạn?” do Sơ Janine Vân Trần, Dòng Trinh Vương, giảng thuyết.

Cha Timothy Thắng phụ trách việc hướng dẫn giới trẻ trong nhiều năm qua, các em đến từ các Giáo Xứ, Cộng Đoàn, hoặc đến từ các nhóm tự do và có nhiều em đã tham dự trong nhiều năm từ khi còn là thiếu nhi cho đến khi trưởng thành. Giới trẻ đặc biệt được nhà Dòng chú tâm đến việc chăm sóc và hướng dẫn tinh thần nên đã đầu tư rất nhiều cho giới trẻ. Không chỉ trong những ngày Đại Hội mà suốt năm, đặc biệt là mùa hè, có những khóa huấn luyện dành cho các hội đoàn thanh thiếu niên từ khắp các giáo xứ.

Chương trình văn nghệ quy mô do SBTN đảm trách:

Tuy là cuộc hành hương mang nặng tính cách tôn giáo, quý cha cũng đã nghĩ đến nhu cầu giải trí của khách hành hương nên năm nào ngoài những tiết mục văn nghệ truyền thống của các giáo xứ và một số hội đoàn, nhà Dòng năm nào cũng mời một trung tâm ca nhạc đến trình diễn vào hai ngày thứ sáu 5/8 và thứ bảy 6/8. Năm nay quý cha đã mời đài SBTN đứng ra kêu gọi các ca nhạc sĩ đến giúp vui cho Đại Hội. Chúng tôi có tiếp xúc với MC Diệu Quyên là phối trí viên, chị cho biết:

“Có anh Trúc Hồ và hai ban nhạc; một của Trúc Sinh và một của Sĩ Đan. Về ca sĩ có rất nhiều người tham dự để giúp vui với các ca sĩ nổi tiếng như Việt Khang, Hoàng Quân, Gia Vy, Dạ Nhật Yến, Thúy An, Hoàng Anh Thư…MC ngoài Diệu Quyên còn có Kim Nhung, Hoàng My và nhà báo Nguyễn Khanh. Cha có yêu cầu tấu hài nên Diệu Quyên có mời Thành Lễ đến để đem những trận cười thoải mái cho bà con tham dự Ngày Thánh Mẫu.”

Ba lý do khiến bạn nên tham dự Ngày Thánh Mẫu Missouri:

Nhiều lý do chung và riêng của mỗi người, có thể nêu ra 3 lý do chính là trong những năm vừa qua biết bao nhiêu điều đã xảy ra cho chúng ta từ dịch bệnh, chiến tranh cho đến vấn đề khó khăn kinh tế khiến đời sống của mọi người bị ảnh hưởng, chúng ta cùng đến đây để cầu nguyện chung giữa người Việt chúng ta, với giáo hội Hoa Kỳ. Lời cầu nguyện chung luôn có kết quả tốt đẹp. Thứ hai là chúng ta đem tâm tình riêng đến đây để chia sẻ và được ủi an trong những buổi hội thảo để chúng ta cảm thấy là mình không phải chịu đựng khó khăn trong cô đơn, bế tắc. Thứ ba là năm nay cũng là năm kỷ niệm 105 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Chúng ta đến đây để cầu nguyện và được ơn của Mẹ Fatima.”

Giới thiệu những sinh hoạt nổi bật!

 “Rước kiệu là sinh hoạt được sự quan tâm và khen ngợi nhất của các Đức Cha Hoa Kỳ và người bản xứ khi họ được chứng kiến kiệu hoa trang hoàng đẹp, rực rỡ, trang nghiêm, những cảnh dâng hoa của các đoàn đầy nét độc đáo mang sắc thái văn hóa đặc thù Việt Nam và sự cung kính của toàn thể khách hành hương đã khiến cho báo chí truyền thông địa phương luôn tấm tắc khen ngợi. Năm nay Đại Hội sẽ có 2 cuộc rước kiệu vào chiều thứ tư để kính thánh Giuse và chiều thứ Bảy để cung nghinh Thánh Tượng Đức Mẹ Fatima.

Riêng các buổi Hội Thảo phụ trách bởi quý cha Giảng Thuyết có nhiều kinh nghiệm và nổi tiếng như quý Cha Vũ Thế Toàn, Cha Nguyễn Khắc Hy, Cha Trần Khả, Cha Nguyễn Thiết Thắng, Cha Nguyễn Bá Quốc Linh, Cha Phạm Quốc Văn, Cha Nguyễn Nam Thảo, Sơ Janine Vân Trần, với những đề tài phong phú và thiết thực với đời sống hàng ngày đem lại những lời khuyên hữu ích, những ủi an xoa dịu phần nào những khổ đau lại là sinh hoạt được nhiều khách hành hương quan tâm, tâm đắc nhất.

Rồi các chương trình sinh hoạt, Thánh Lễ và hội thảo dành riêng cho giới trẻ tại đồi Canvê do cha Timothy M. Thắng phụ trách cũng là một dấu ấn của Đại Hội”.

Lời kết: Đại Hội là cơ hội vừa sống đạo, vừa tìm lại quê hương và tình người

Nhìn chung, Đại Hội Thánh Mẫu Missouri luôn hội tụ đông đảo khách hành hương hàng năm mặc dù địa điểm của nhà Dòng tương đối tách biệt với những thành phố lớn có đông người Việt sinh sống, chính là vì chương trình Đại Hội phong phú, đầy ắp những sinh hoạt cần thiết cho đời sống đức tin của mọi lứa tuổi, và cũng là nơi có cuộc hội tụ đông đảo nhất của người Việt hằng năm cả những người Công giáo và khác tôn giáo. Khách hành hương đến đây ngoài việc để tìm ý nghĩa cho cuộc sống còn tìm được hình ảnh, bóng dáng, không khí của quê hương Việt Nam ngày xưa, và để gặp gỡ những người thân quen hoặc những người chưa quen trong một khung cảnh rất Việt Nam trên đất khách, quê người mà khó có thể tìm được dù ngay trên quê hương Việt Nam hôm nay. 

Muốn tham dự, xin liên lạc:

Quý vị muốn ghi thanh tham dự, có thể liên lạc với nhà Dòng theo địa chỉ và số điện thoại dưới đây:

1900 Grand Avenue

Carthage, MO 64836

Điện thoại: +1 (417) 358-7787

From: ThuNNguyen

Tiễn biệt GS Nguyễn Xuân Vinh, một đời khoa học cống hiến cho nhân loại

Tiễn biệt GS Nguyễn Xuân Vinh, một đời khoa học cống hiến cho nhân loại

July 29, 2022

Văn Lan/Người Việt

GARDEN GROVE, California (NV) – Thánh Lễ An Táng và tiễn đưa cố Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh về nơi an nghỉ cuối cùng vừa diễn ra sáng Thứ Sáu, 29 Tháng Bảy, trong không khí trang nghiêm tại nhà thờ Chính Tòa Chúa Kitô (nhà thờ Kiếng), Garden Grove.

Di ảnh cố Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Thánh Lễ do Giám Mục Nguyễn Thái Thành, giám mục phụ tá Giáo Phận Orange, làm chủ tế và các linh mục Việt Nam thuộc Giáo Phận Orange cùng đồng tế.

Giám Mục Nguyễn Thái Thành nói: “Xin đại diện Đức Cha Kevin Vann [giám mục Giáo Phận Orange], tất cả các linh mục hiện diện nơi đây và ở Giáo Phận Orange, xin phân ưu với tang quyến của Giáo Sư Alphonsô Nguyễn Xuân Vinh. Là người Việt Nam, chúng ta hãnh diện có một nhà bác học tài ba, với nhiều tài năng và thành công có tầm mức ảnh hưởng trên thế giới. Như quý vị đã nghe mấy ngày qua, ông là vị tư lệnh Không Quân, đã đưa miền Nam Việt Nam lên tầm cao quốc tế, ông cũng là một nhà văn mang tên Toàn Phong, với quyển ‘Đời Phi Công’ đã làm mềm lòng bao thế hệ.”

“Nhưng điểm son cao quý nhất của ông chính là Tiến Sĩ Khoa Học Không Gian từ Đại Học Colorado và là giáo sư của Đại Học Michigan gần 30 năm. Với kiến thức khoa học, ông đã vẽ đường bay của phi thuyền Apolo 11 và hướng dẫn cho hai phi hành gia Neil Armstrong và Buzz Aldrin đặt chân lên mặt trăng. Điều này chính tôi đã nghe ở Việt Nam năm 1970,  khi tôi chuẩn bị thi Tú Tài I và Tú Tài II, và có lòng ngưỡng mộ ông từ lúc đó,” Giám Mục Thành tiếp.

“Tôi đồng ý với Bùi Chí Vinh khi đã viết ‘Nòi giống Tiên Rồng làm rạng rỡ năm châu/ Văn võ song toàn mà không cần đến gươm đao/ Nhân nghĩa lễ trí tín vượt hàng rào biên giới.’ Là người Công Giáo, tôi cảm tạ ơn Chúa đã ban cho bác học Nguyễn Xuân Vinh những tài năng đặc biệt đó. Những thành quả tốt đẹp của ông mà chúng ta vừa nhắc đến làm tôi nhớ đến lời Chúa dạy là hãy dùng những nén bạc Chúa ban, những nén bạc trí thức, mà giúp cho đời sống khoa học xã hội,” vị Giám Mục tiếp.

Giám Mục Nguyễn Thái Thành (giữa), giám mục phụ tá Giáo Phận Orange, chủ tế, cùng một số linh mục đồng tế trong Thánh Lễ An Táng cố Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Với bài giảng trong Thánh Lễ An Táng, Linh Mục Thái Quốc Bảo, chánh xứ nhà thờ Chính Tòa Chúa Kitô, nói: “Giáo Sư Vinh suốt cuộc đời cống hiến cho đất nước, cho dân tộc, không những thế, ông dành rất nhiều thì giờ để chiêm nghiệm về cuộc đời và sự sống để đón nhận Thiên Chúa, và cụ thể hơn là Chúa Giêsu Kitô. Khi đón nhận Thiên Chúa như thế, ông cũng noi gương Thánh Lazarô, tuyên xưng niềm tin của ông vào sự sống hằng cửu, sự sống phục sinh. Xin cộng đoàn dân Chúa, cùng ông bà anh chị em con cháu trong gia đình, cảm ơn ông vì sự hy sinh tận tụy phục vụ, những điều ông đã làm cho quê hương đất nước.”

Nói về cố Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh, bà Nguyễn Thị Nghinh Xuân (Phiến Đan), hiền thê của cố giáo sư, cho hay: “Trong giờ phút cuối cùng này, bản thân tôi và gia đình rất hãnh diện vì mọi người vẫn yêu mến ông, một người luôn muốn các thế hệ trẻ tiếp nối theo bước cha ông. Chúng tôi nghĩ rằng cộng đồng Việt Nam nên khuyến khích con cháu chúng ta muốn học giỏi, phải có sự quan tâm đến tổ quốc, dù là đất nước Hoa Kỳ hay Việt Nam, đó là hướng đi của ông đã theo.”

“Giáo Sư Vinh luôn quan tâm đến giới trẻ trong nước và những thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), ông vẫn luôn đóng góp với khả năng của mình. Giờ thì ông đã ra đi, chúng tôi sẽ tiếp tục hỗ trợ Giải Khuyến Học Nguyễn Xuân Vinh và thương phế binh VNCH, cũng như những cựu quân nhân Hoa Kỳ trong giai đoạn tới, đó là những việc chúng tôi sẽ tiếp nối,” bà chia sẻ.

Bà Phiến Đan, hiền thê cố Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh, dâng lời cảm tạ trong Thánh Lễ An Táng. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Trong Thánh Lễ An Táng, đặc biệt có những cựu chiến sĩ Không Quân VNCH, và các học sinh Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Bưởi-Chu Văn An Nam California, cùng các thân hữu cùng đến viếng.

Ông Trần Vệ, thuộc Phi Đoàn 243 và Phi Đoàn 219, cho hay: “Khi lớn lên, tôi vào lính sau ông Nguyễn Xuân Vinh sáu năm, nên không biết ông ấy là ai, chỉ biết nhà văn Toàn Phong với quyển ‘Đời Phi Công’ làm ảnh hưởng rất lớn đến bao lớp trai trẻ VNCH, thế là chúng tôi gia nhập Quân Chủng Không Quân.”

“Qua nhiều năm khủng khiếp của cuộc đời quân ngũ, có cả nét đẹp và cả đau thương khi đất nước đổi chủ. Qua bên đây tình cờ tôi biết ông khoảng hai mươi mấy năm. Những lần ra mắt sách, tôi đều có gặp ông, một người rất bình dị, rất thương anh em lính chúng tôi. Những tình cảm mà Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh đã dành cho chúng tôi rất nhiều,” ông Trần Vệ nói.

Ông Nguyễn Công Huân, hội trưởng Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Bưởi-Chu Văn An Nam California, cùng phái đoàn của trường đến viếng, cho hay điều ít ai biết đến là Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh từng là giáo sư dạy tại trường Chu Văn An Sài Gòn.

“Là thế hệ trẻ tuy chưa bao giờ là học trò của thầy Nguyễn Xuân Vinh, bởi vì lúc đó chúng tôi còn ở bậc tiểu học, chỉ biết rằng rất hãnh diện khi thầy dạy ở đó, và sau này thầy là một khoa học gia không gian nổi tiếng thế giới. Thầy là biểu tượng văn võ song toàn, khi dạy ở trường, thầy đã là một tư lệnh Không Quân VNCH. Là người Việt, chúng tôi rất hãnh diện khi có một nhân tài phục vụ khắp thế giới! Sau này thầy là cố vấn cho hội, chúng tôi lại càng ngưỡng mộ hơn nữa. Thầy là tấm gương người Việt Nam học hỏi không ngừng cho thế hệ trẻ sau này!” ông Huân chia sẻ.

Các giám mục, linh mục, hội đoàn, thế hệ học trò trường Chu Văn An Sài Gòn trước khi di quan cố Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh qua đời lúc 2 giờ 39 phút chiều Thứ Bảy, 23 Tháng Bảy, tại tư gia ở Costa Mesa, California, hưởng đại thọ 92 tuổi.

Ông là người nổi tiếng không chỉ về binh nghiệp mà còn đóng góp nhiều cho khoa học, đặc biệt là lĩnh vực không gian từ Việt Nam, Pháp đến Hoa Kỳ, và còn là nhà văn với bút hiệu Toàn Phong.

Năm 1951, ông nhập ngũ vào Quân Đội Quốc Gia tại trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định, tốt nghiệp với cấp bậc chuẩn úy phục vụ ngành Không Quân và được đi du học tại Học Viện Không Quân ở Salon-de-Provence, Pháp (École de l’Air).

Đầu năm 1954, ông tốt nghiệp bằng phi công. Sau đó, ông phục vụ chuyên ngành tại Pháp và Maroc. Trong thời gian này, ông ghi danh học đại học và thi đậu bằng cử nhân toán ở đại học Aix-Marseille University.

Một năm sau, ông được lệnh trở về Việt Nam và được thăng cấp trung úy, phục vụ trong Bộ Tư Lệnh Không Quân. Cuối năm 1955, ông được thăng cấp đại úy làm trưởng phòng nhân viên trong Bộ Tư Lệnh Không Quân, rồi lên thiếu tá làm tham mưu phó tại Bộ Tư Lệnh Không Quân.

Các chiến hữu Không Quân chào tiễn biệt lần cuối cố Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Năm 1957, ông được thăng cấp trung tá, làm tham mưu trưởng Không Quân. Một năm sau, ông được thăng cấp đại tá, được bổ nhiệm làm tư lệnh Không Quân.

Năm 1962, ông xin giải ngũ và du học Hoa Kỳ, bắt đầu sự nghiệp khoa học của mình khi mới 32 tuổi, và lấy bằng Tiến Sĩ Khoa Học Không Gian tại đại học University of Colorado, Boulder, năm 1965, sau khi thực hiện thành công nghiên cứu công trình tính toán quỹ đạo tối ưu cho phi thuyền do NASA tài trợ.

Sau đó, ông làm giáo sư đại học University of Michigan, rồi lấy thêm bằng Tiến Sĩ Quốc Gia Toán Học tại Đại Học Sorbonne, Paris, Pháp. Năm 1982, ông là giáo sư của ngành Toán tại đại học National Tsing Hua University, Đài Loan.

Kể từ đó, ông được bầu vào một số cơ quan khoa học, làm diễn giả tại các hội nghị và đại học khắp thế giới, và được đại học University of Michigan phong tặng chức Giáo Sư Danh Dự ngành kỹ thuật không gian vì công lao đóng góp cho khoa học và giáo dục.

Trong sinh hoạt hội đoàn cộng đồng vùng Little Saigon, Orange County, California, Giáo Sư Vinh cũng là chủ tịch Hội Đồng Đại Diện Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Hải Ngoại bắt đầu từ năm 2003. [qd]

Kính tiễn Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh – Tác giả: Quyên Di

Kính tiễn Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh – Tác giả: Quyên Di

Thế là qua một đời người
Không còn tiếng khóc giọng cười phù sinh.
(QD)

Tôi đứng bên cạnh giường
Giáo sư Vinh bây giờ khép mắt
Hành trình cuối cùng đã xong, Giáo sư tròn giấc
Bên ngoài vườn một tiếng chim hót lẻ loi.

Nhưng tôi không tin phút cuối cùng Giáo sư thấy đơn côi
Khi bên cạnh có những người thân yêu nhất
Tiếng thánh ca vang lên lẫn trong tiếng nấc
Xin gửi An-phong-sô Nguyễn Xuân Vinh vào vòng tay Đấng Chí Ái Chí Nhân.

Tôi không còn nhớ biết bao lần trong ngôi nhà chan chứa tình thân
Chúng ta đã ngồi bên nhau hàn huyên tâm sự
Giữa chúng ta có điều gì nặng nợ
Khi đã một lần suýt hiểu lầm nhau
Rồi cởi mở lòng ra trong một phút, rất mau
Gạn đục khơi trong, chỉ nhìn thấy trong nhau những gì cao quý nhất
Tôi thích đọc những gì Giáo sư viết trong đêm khuya thức giấc
Giáo sư thích nghe những lời tôi bàn chuyện văn chương.

Căn phòng di vật quả là một chút vấn vương
Những thành tích lẫy lừng Giáo sư thực hiện
Dẫn tôi vào xem, Giáo sư trầm tư mặc tưởng
Buông bàn tay khỏi những hiển hách huy hoàng
Cuộc đời bây giờ là những buổi chiều vàng
Giáo sư nguyện cầu Chúa đoái thương phù giúp.

Sống như Giáo sư, với người ta là tròn mộng ước
Khi đã từng là Tư lệnh Không Quân
Là Giáo sư những đại học lừng danh
Là tác giả phương trình vượt không gian vào vũ trụ
Là nhà văn với những tác phẩm vô cùng quyến rũ
Đời Phi Công làm đắm say bao hồn trẻ phiêu bồng
Nhà toán học đại tài làm rạng rỡ giống Tiên Rồng
Nhưng với Giáo sư, hình như chưa phải là đích điểm.

Có một điều gì Giáo sư khát khao tìm kiếm
Bên ngoài những phương trình, quỹ tích, đạo hàm
Bên ngoài phẩm hàm, bên ngoài chức tước cao sang
Điều tìm kiếm: đâu thật là CHÂN LÝ?
Chân Lý ấy không ở trong những lời hoa mỹ
Không ở trong một khối óc phi thường
Và bỗng một ngày Giáo sư biết: đó là chính TÌNH THƯƠNG
Của Đấng Trên Cao thương kiếp người YẾU ĐUỐI
“An-phong-sô, thôi hãy ngừng theo đuổi
những phù hoa, hãy đến cùng TA!”
Những năm tháng cuối đời, Giáo sư đã nhận ra
CHÂN LÝ ấy là ĐẤNG TOÀN NĂNG (Đại Ngã).

Đời sống chúng ta đều như thế cả
Trong vòng quay của một kiếp trầm luân
Hạnh phúc, buồn đau, đoàn tụ, rẽ phân
Vinh quang, nhục nhằn, thành công, thất bại
Phút cuối đời tất cả đều bỏ lại
Nhưng với khổ đau tiếc nuối hay thanh thản hân hoan?
Giáo sư đã tìm ra một định luật vàng:
Dâng tất cả lên đôi tay Rất Thánh
Lòng sẽ hân hoan vì yếu mềm chính là sức mạnh
Đưa Giáo sư về gặp Đấng Sáng Tạo Toàn Năng.

Kính tiễn Giáo sư như một cánh sao băng
Vượt vũ trụ bay vào lòng ĐẠI NGÃ.

【Quyên Di (23/07/2022, một buổi chiều vàng)

Ngày về

https://www.youtube.com/watch?v=uWsH1mRim5Y&ab_channel=V%C5%A9L%C3%AAHu%C3%A2n

Vĩnh biệt mọi người ” tôi ra đi lần cuối,,,!!!

https://www.youtube.com/watch?v=E4BzBffffhg&ab_channel=Nguy%E1%BB%85nTh%C3%A0nhvlog

Tháng 7 tưởng niệm Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy – NGƯỜI ĐI, NON NƯỚC Ở LẠI

Tưởng niệm một giáo sư đáng kính. “… Vì sanh trong một nước Việt Nam không độc lập, thiếu tự do và chìm đắm trong sự loạn lạc, nên tôi phải dấn thân vào cuộc tranh đấu chính trị, và do đó mà phải học về chính trị, dạy về chính trị, và đứng ra lãnh đạo một đoàn thể chính trị.

Dầu cho có được làm lại cuộc đời từ đầu mà hoàn cảnh Việt Nam không khác hoàn cảnh tôi đã trải qua, thì tôi cũng sẽ làm như tôi đã làm…” (Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy)

  • Tháng 7 tưởng niệm Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy-

NGƯỜI ĐI, NON NƯỚC Ở LẠI

Chu Lynh

Nén hương lòng của kẻ hậu sinh

Kính dâng anh linh nhà ái quốc Nguyễn Ngọc Huy (1926-1990)

“Những dữ kiện trong bài này được thu thập từ những tài liệu, bài viết, tiếp xúc, phỏng vấn các nhân chứng đã từng kề cận nhà ái quốc Nguyễn Ngọc Huy: ông Nguyễn Ngọc Diệp, nhà văn Đỗ Tiến Đức, ông Trần Sĩ Hải, ông Vương Từ Mỹ, ông Hoài Sơn Ung Ngọc Nghĩa, Giáo sư Tạ Văn Tài, cô Nguyễn Ngọc Thúy Tần, Giáo sư Nguyễn Toản, ông Nguyễn Phước Trang, ông Trần Cẩn Trọng, và ông Nguyễn Cao Tuấn”.

Chuyến bay định mệnh

Phi trường Zaventem, Brussels,Vương Quốc Bỉ

Khởi hành từ New York, chiếc Boeing đáp xuống phi trường Zaventem trễ ba mươi phút. Trong lúc chuẩn bị rời máy bay, hành khách bỗng phát giác một người bất tỉnh trên ghế ngồi. Người đàn ông lớn tuổi, ốm yếu, da mặt xanh xao. Một lát sau, ông tỉnh lại. Một tiếp viên thấy ông không thể di chuyển được, liền gọi xe cấp cứu.

Hôm ấy là ngày 20 tháng 7 năm 1990. Người hành khách bất tỉnh đi trên chuyến bay mang số 34 của hãng hàng không Pan Am mang tên: Nguyễn Ngọc Huy. Người Việt hải ngoại thường gọi ông là Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, người ngoại quốc thích gọi ông là Tiến sĩ Nguyễn. Ông ghé Brussels theo lộ trình tham dự Đại Hội Thế Giới tại Hòa Lan của Liên Minh Dân Chủ Việt Nam, một tổ chức chính trị do ông thành lập từ mười năm qua.

Khi nhân viên xe cứu thương hỏi ông cần đi bệnh viện không, ông từ chối và yêu cầu chở vào phòng đợi, viện lẽ đã hẹn người nhà ra đón.

Ba người đến đón ông: Nguyễn Kim Luân, Trần Qúy Phong, Nguyễn Ngọc Vinh. Họ đã không tìm ra ông trong đám hành khách đang đứng quanh quẩn bên thang máy bay chờ nhận hành lý. Họ chia nhau tìm kiếm.

Khi được nhân viên phi trường cho hay tin, họ trở lại phòng đợi, thấy ông Nguyễn Ngọc Huy đang đứng với một người Việt Nam. Nhưng xem ra ông quá mệt mỏi chẳng nghe người bên cạnh nói gì.

Trên đường về nhà ông Nguyễn Ngọc Diệp, một đoàn viên Liên Minh Dân Chủ, với giọng rất yếu, ông hỏi có ai biết cạo gió không. Một người lễ phép thưa sẽ cạo gió cho ông khi về đến nhà.

Khoảng 12 giờ 30, chiếc xe về đến nhà. Ông Diệp thực sự xúc động khi nhìn thấy cơ thể của ông quá tiều tụy. Ông bắt đầu cạo gió. Không có gió ở phía sóng lưng bên trái, nhưng bên phải và cổ, da thịt đỏ ửng lên. Nhờ xoa bóp toàn thân, người ông ấm lên, ông cho biết đã đỡ hơn.

Giọng nói của ông thều thào, phát âm không rõ, hậu quả của chứng ung thư lưỡi từ tám năm nay. Ông cho hay: “Trước khi đi bị cảm lạnh, rồi mất ngủ suốt đêm, trên phi cơ cũng không ngủ được. Qua đây lại bị trúng gió …”

Trong căn phòng gia đình đã chuẩn bị cho ông, để sẵn hai tờ báo Le Monde và Le Soir, có lẽ chủ nhà biết thói quen của ông. Qua cửa kính mờ, hình ảnh một ông già ốm yếu lom khom đọc báo, tay phải cầm cây viết ghi chép, khiến mọi người muốn rơi lệ. Bên ngoài phòng, các đoàn viên của ông đã hội ý nhau và quyết định mời bác sĩ Hoàng Thị Ngọc Quỳnh đến chăm sóc cho vị lãnh đạo của mình.

Tuy mệt, ông vẫn ra phòng khách nói chuyện, vẫn trả lời thông suốt các câu hỏi, nhưng luôn luôn hỏi lại “Tôi nói các anh nghe có rõ không?”

Bác sĩ Ngọc Quỳnh khám rất kỹ. Bà cho biết, áp huyết bệnh nhân rất thấp, mạch tim đập yếu, các bộ phận khác cũng yếu. Muốn hồi sức, phải tiếp nước biển. Nhưng nếu tiếp nước biển ở nhà, luật lệ y tế ở Bỉ đòi hỏi phải thử nghiệm máu, và một số thủ tục khắt khe khác, nên cấp thời chỉ còn cách chích thuốc khoẻ. Bà cũng không có sẵn loại thuốc này.

Cuối tuần, chỉ có nhà thuốc trực, nên nửa giờ sau, mới tìm mua được thuốc. Việc chích thuốc cho ông cũng không mấy dễ dàng. Mười phút sau, bác sĩ khám lại. Bệnh nhân có phần tươi tỉnh.

Gia đình bưng đến một chén súp. Mỗi lần đưa được một muỗng súp vào miệng là ông ho sặc sụa, phải uống thêm nước cho thông cổ.

Trước đây, ông xin mọi người đừng hỏi khi ông đang ăn. Lần này, không ai lên tiếng, nhưng ông vẫn cứ ho liên tiếp, có khi không nuốt được phải nhả ra. Mồ hôi từng giọt hai bên cổ. Ông cúi đầu xuống, nhắm mắt lại chịu đựng cơn đau. Mọi người nhìn ông ứa nước mắt. Khoảng nửa giờ sau, ông đưa vào miệng được gần một chén súp nhỏ. Sau đó, ông dùng một ly crème flanc, nuốt vào ít khó khăn hơn.

Ăn xong, ông tiếp tục hỏi thăm mọi người, kể cả những người vắng mặt. Ông Diệp còn nhớ, những lần đến Brussels, ông Nguyễn Tấn Liêm thường tiếp ông Nguyễn Ngọc Huy tại nhà, tâm đắc nhắc những kỷ niệm xa xưa, vì hai người cùng tuổi, cùng học trường Petrus Ký Sài Gòn. Có lần ông Nguyễn Tấn Liêm tâm sự:

“Bây giờ chỉ còn có anh là thỉnh thoảng tôi gặp, còn mấy người khác chẳng bao giờ tôi thấy..” Ông chậm rãi đáp lại: “Còn chút sức khỏe, tôi còn cố gắng đi. Vài ba năm nữa thôi, cũng sẽ hết đi nổi. Mỗi năm tôi ở nhà bốn tháng, còn tám tháng ở nhà anh em..”

Đêm hôm đó, dù đã khuyên thầy mình đi ngủ sớm, ông Diệp vẫn thấy bóng ông lờ mờ sau cửa kiếng. Ông đang viết, khom người trên nệm. Đồng hồ chỉ 1 giờ 30 sáng.

Mọi người sắp xếp đưa ông về Paris, vì điều kiện chăm sóc y tế ở đó khả quan hơn ở Bỉ. Hơn nữa, ngày Thứ Bảy 21-7-1990, ông có cuộc họp quan trọng ở Paris.

Khoảng 1 giờ trưa ngày 21-7, các ông Trần Cẩn Trọng, Thái Quan, và Lê Chí Thiện đến dùng cơm chung với ông và gia đình. Ông cũng chỉ nuốt được một muỗng cơm.

5 giờ 40, ông chuẩn bị rời Brussels. Hành trang của ông gồm mấy cái xách tay, cặp da đầy sách vở, áo quần, thuốc men, và một máy xay thức ăn nhỏ. Ông để lại một số vật dụng, dự tính sẽ trở lại Brussels để đi Hòa Lan sau đó.

Ông đưa tay chào gia đình. Không ngờ đó là lần cuối cùng gia đình ông Nguyễn Ngọc Diệp tiếp người thầy của mình.

Paris ngậm ngùi

Thứ Bảy 21-7-1990. Ông Trần Cẩn Trọng đưa ông về nhà mình, và gọi điện thoại ngay cho một bác sĩ quen đến vào nước biển cho bệnh nhân. Nhưng khi vào được khoảng 300cc thì bệnh nhân than mệt phải ngưng lại. Buổi chiều, ông ăn được cơm và cho biết đã khỏe lại một chút.

Thứ Ba 24-7-1990, ông họp toàn thể Liên Khu Bộ Âu Châu đến 11 giờ khuya.

Thứ Tư, ngày 25-7-1990. Thức dậy, ông cảm thấy bình thường. Nhưng đến trưa thì ông than mệt. Bác sĩ Nguyễn Minh Tân đến chích nước biển cho ông, nhưng chỉ được 250cc rồi ngưng lại.

Tối đó trưởng nam của ông, Nguyễn Ngọc Quốc Thụy đến thăm. Bác sĩ Tân đề nghị gia đình nên đưa bệnh nhân về Hoa Kỳ chữa trị. Cô Nguyễn Ngọc Thúy Tần, ái nữ của ông, từ New York gọi điện thoại qua, ông nói không ngủ được, vì thời tiết Paris quá nóng.

Thứ Năm, 26-7-1990. Ông cố gắng nuốt được hai muỗng súp, nhưng vẫn chưa mất hết vị giác, vẫn còn muốn dùng thức ăn như bí, cá mòi. Bác sĩ Tân chích một liều thuốc an thần.

Thứ Sáu, 27-7-1990. Ông có cảm giác buồn ngủ. Bác sĩ chích một mũi thuốc Kenacort. Ông ngủ được đêm hôm đó.

Thứ Bảy, 28-7-1990. Sáng thức dậy, ông nói với ông Trọng đã ngủ ngon đêm qua. Ông Trọng làm cho ông một ly sữa hột gà. Ông căn dặn ông Trọng xem lại bài thuyết trình ông đã soạn sẵn để tiến hành Đại Hội Hòa Lan.

Quốc Thụy đi mua vé máy bay cho ông trở về Hoa Kỳ. Chiều trở về dùng cơm với ông. Bác sĩ Tân chích thêm nước biển, nhưng ông từ chối vì mệt.

Đến chiều, bác sĩ tiếp tục chích nước biển. Nhưng khi chích vào gân nào, thì bể mạch máu đến đó, nơi chích bị sưng phù lên. Bác sĩ đành phải chích vào thịt loại Cortine Naturale.

Khoảng 8 giờ tối, ông ra phòng khách nói chuyện với bác sĩ Tân, ông Trọng và một số đoàn viên. Bác sĩ Tân hỏi ông cần dùng gì thêm không, ông nói muốn uống hết lọ Renutryle để thay cho thức ăn. Bác sĩ kiếu từ ra về.

Khi người nhà bưng ly trà sâm lên, ông không thể uống được vì còn quá nóng. Nghe xong, ông Trọng đi xuống bếp.

9 giờ 15, Quốc Thụy gọi ông Trọng cho hay ông mệt và hơi thở có dấu hiệu khác thường. Ông Trọng thấy ông hắt hơi, khó thở. Cả ba người, ông bà Trọng, và Quốc Thụy cùng đở ông lên giường. Ông Trọng gọi điện thoại cho bác sĩ Tân.

Bác sĩ Tân đến ngay. Người thầy thuốc tận tụy những ngày cuối cùng với bệnh nhân, cũng là nhân chứng cho giờ phút lâm chung của người bạn chí thiết Nguyễn Ngọc Huy. Ông thở hắt hơi ra vài lần. Rồi lịm dần, lịm dần…

Ông trút hơi thở cuối cùng trên tay người con trai, kết thúc một định mệnh sáu mươi sáu năm trên cõi nhân gian này, vĩnh biệt các môn sinh và bằng hữu, để bước qua một thế giới khác lúc 9 giờ 30 tối ngày 28-7-1990.

Trên bầu trời hải ngoại, ngọn hải đăng Nguyễn Ngọc Huy đã vụt tắt.

Nỗi đau sâu thẳm

Cuối thập niên 1970, và đầu thập niên 1980, trong lúc người Việt tỵ nạn cộng sản khắp nơi náo nức với phong trào trở về chiến đấu giải phóng quê hương, thì ông Nguyễn Ngọc Huy là người đi tiên phong mở mặt trận nhân quyền làm vũ khí đấu tranh, vì ông nhận thấy giải pháp quân sự rất khó thực hiện.

Ông thành lập Liên Minh Dân Chủ Việt Nam, quy tụ nhiều thành phần trí thức và tâm huyết. Rồi ông vận động các chính khách ngoại quốc, tướng lãnh, dân biểu, nghị sĩ của nhiều quốc gia để thành lập Ủy Ban Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do. Hai thành quả vượt bực của nhà vận động Nguyễn Ngọc Huy.

Có thể ví ông như “Thiên tài là cái đồng hồ đi trước” khi ông đi trước quần chúng một khoảng cách xa. Không phải dễ dàng hướng dẫn dư luận. Nhưng các thành viên của hai tổ chức này lạc quan về triển vọng cuộc tranh đấu sẽ thành công. Trong cuộc nói chuyện tại Calgary, Canada ngày 21-12-1986, ông tin rằng cộng sản sẽ sụp đổ, nếu người Việt biết vận dụng các yếu tố: tổ chức lực lượng trong nước, người Việt hải ngoại yểm trợ, và vận động quốc tế yểm trợ cuộc đấu tranh chính nghĩa của người Việt.

Nhưng mệnh trời đã không cho ông đi nốt cuộc đấu tranh mà ông đã khổ công đeo đuổi hơn bốn mươi năm qua. Căn bệnh ung thư lưỡi kéo dài nhiều năm, nay đã đến giai đoạn cuối. Bác sĩ kinh ngạc khi thấy ông đã coi thường căn bệnh hiễm nghèo, vẫn sống, vẫn bôn ba khắp nơi, vẫn lạc quan về tương lai Việt Nam.

Hình ảnh của ông những ngày cuối cùng trên giường bệnh, không phải trong bệnh viện đủ tiện nghi, mà tại nhà một người bạn, mới biết ông đã chiến đấu với tử thần, dũng cảm như một chiến sĩ ngoài trận địa. Vẫn đọc, vẫn viết, vẫn hội họp. Như thể ông có thể thắng trong cuộc chạy đua với thời gian. Nhưng hơn ai hết, ông linh cảm tử thần đã lảng vảng bên mình khi nhận ra cuộc chiến đấu với căn bệnh đã đến hồi kết thúc.

Đức độ và tài năng của ông Nguyễn Ngọc Huy đã khiến dân biểu Canada, ông David Kilgour đã ví ông như một Gandhi Việt Nam. Nhưng ông lại đảm trách quá nhiều vai trò, từ trên chính trường đến hậu trường. Là con người nhìn xa trông rộng, hẳn ông đoán được đoàn thể của ông sẽ đối diện với nhiều khó khăn nội bộ lẫn với bên ngoài khi ông nằm xuống.

Nhiều người hối thúc ông dự liệu một truyền nhân thay thế ông tiếp tục lèo lái hai tổ chức quan trọng này. Nhưng, theo nhà văn Đỗ Tiến Đức cho biết, nhiều lần được hỏi, ông Nguyễn Ngọc Huy vẫn chưa có câu trả lời. Có lẽ đây là nỗi ưu tư lớn nhất những ngày cuối đời của ông.

Ngày 16-4-1974, bà Dương Thị Thu, người vợ của ông do bạn bè mai mối, đã chết trong một tai nạn tại bãi biển Vũng Tàu. Người đàn bà đảm đang, không bao giờ xen vào công việc của chồng, chăm sóc và dạy dỗ con cái để ông có thì giờ hoạt động. Trong mọi hoàn cảnh, bà đã chu toàn bổn phận người vợ trong âm thầm, như một anh hùng vô danh trong bài thơ “Anh Hùng Vô Danh” của ông.

Ông mang nỗi đau khổ này trong lòng, suốt phần đời mười sáu năm còn lại. Nghĩ đến tình yêu, lòng chung thủy và hy sinh của bà đã dành cho ông trong nghĩa vợ chồng hai mươi hai năm, từ đó ông không còn tha thiết người đàn bà nào nữa.

Thật lạ lùng, cùng ngày tháng ấy, đúng tám năm sau, 1982, tai nạn thứ hai lại đến với ông. Đứa con út 17 tuổi, Nguyễn Ngọc Khánh Thụy, chết ngộp trong xe hơi trong nhà để xe của một người bạn Mỹ, ông William Littauer, tại Iang Larchmont, New York. Lúc đó, ông đang ở Cambridge, Massachusetts, và ái nữ Nguyễn Ngọc Thúy Tần đang học ở Albany, New York.

Đây là đứa con ông yêu thương nhất, vì cậu bé mồ côi mẹ từ nhỏ, thường xuyên vắng cha, và người chị lại đi học ở xa. Cậu đã tự vận bằng hơi thán khí xe tỏa ra. Nỗi đau của người cha biến thành nỗi ân hận suốt đời.

Trong một lần nói chuyện với ông Tạ Văn Tài, người cộng tác với ông những năm khảo cứu tại Đại Học Harvard, khi nói về cái chết của đứa con, ông đã tâm sự: “Tôi luôn luôn lo việc đoàn thể và đất nước, nhưng đời riêng của tôi gặp nhiều bất hạnh”

Phải chăng, những câu thơ của ông trong tập thơ nổi tiếng Hồn Việt ngầm báo trước một định mệnh khắc nghiệt:

Éo le thay muốn phụng sự quê hương

Phải dẫm nát bao lòng mình kính mến

Trong cuộc phỏng vấn tại California, ông Vương Từ Mỹ đã nói về một phiên họp đặc biệt của đảng Tân Đại Việt và Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, được tổ chức tại đường Bà Triệu ở Chợ Lớn, vài ngày trước khi miền Nam mất vào tay cộng sản. Lần đầu tiên, thủ lãnh Nguyễn Ngọc Huy đã khóc trước những người đã từng sát cánh hoạt động với ông trong một giai đoạn lịch sử đầy giông bảo. Ông cương quyết ở lại cùng sống chết với anh em. Ông nghĩ rằng thuyền trưởng phải chết theo con tàu. Nhưng tổ chức đã phân tích lợi hại, và quyết định vị thủ lãnh phải ra đi.

Nhìn bức hình của ông, được chụp lại từ một đoạn phim tài liệu. Đôi mắt nhân chứng, đôi mắt hồi tưởng về một quá khứ đầy những hoài bảo xây dựng đất nước.

Hồi tưởng những năm giảng dạy ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh để đào tạo các cán bộ cho nhu cầu hành chánh của Việt Nam Cộng Hòa. Vào năm 1974, cùng với Giáo sư Nguyễn Văn Ngôn, Bác sĩ Mã Xái, Tiến sĩ Phan Văn Song, Tiến sĩ Đỗ Thành Chi, Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Trinh, và Giáo sư Trần Minh Xuân, ông đã thành lập Trường Cao Đẳng Thương Mại Minh Trí nhằm đào tạo một đội ngũ cán bộ có kiến thức và chuyên môn để lãnh đạo đất nước trong giai đoạn hậu chiến tranh.

Đôi mắt ấy chắc cũng hồi tưởng về một quê hương thân yêu trên đường xây dựng tương lai, với một chính nghĩa sáng rực, bỗng chốc bị cướp sạch, bị đào xới tận gốc rễ bởi bàn tay người cộng sản. Làm sao thấu được nỗi đau đoạn trường bên trong con người ấy? Hẳn đây là nỗi đau lớn nhất của ông và cũng là nỗi đau của bao người Việt tỵ nạn cộng sản nơi xứ người.

Để lại cho đời

Ông Nguyễn Ngọc Huy ra đi, để lại cho đất nước và các thế hệ đi sau một tấm gương phục vụ đất nước, những công trình nghiên cứu về chính trị và văn hóa, chủ trương xây dựng tương lai Việt Nam, và các tổ chức chính trị do ông thành lập vẫn còn tồn tại đến ngày hôm nay.

Nhưng có thể tóm gọn lại hai di sản quan trọng nhất ông để lại cho hậu thế: Sự hy sinh cho đất nước và nỗ lực quảng bá nền văn minh pháp trị các bậc tiền bối để lại.

Di sản thứ nhất rất cần cho những người lãnh đạo chính trị, những nhà tranh đấu cho tương lai Việt Nam. Ông đi xe buýt, ngủ nhà anh em. Nơi ông, không có chỗ cho danh vọng bạc tiền, chỉ có đất nước, chỉ có Quốc Dân. Ông là người “Làm việc nước chỉ thấy nước” như câu nói của ký giả Phạm Thái. Với ông, “Tổ Quốc Trên Hết”, không mơ hồ, mà thể hiện cụ thể bằng chính đời sống hiện tiền của ông.

Ông coi đảng phái chỉ là phương tiện. Ông chưa bao giờ xưng danh chức vụ lãnh đạo của mình khi đi diễn thuyết. Ông thuyết phục người khác không phải bằng tài năng hay kiến thức lỗi lạc của mình, mà bằng lý lẽ và tấm chân tình của ông.

Có những tài năng người ta chỉ đứng xa xa mà thán phục. Còn tài năng Nguyễn Ngọc Huy, người ta lại muốn gần gũi. Giáo sư Jerome Cohewn, Giám đốc đầu tiên của Chương Trình Luật Á Châu đã nói về ông:

“Ông là người uyên bác, phong nhã, và dí dỏm, ai gần gũi ông đều vui thích”

“He was a learned, gentle, humorous person who was always a joy to be near”

Đọc những tác phẩm ông để lại về khảo luận, nghiên cứu cả hai lãnh vực chính trị và văn hóa, mới thấy sự uyên bác của học giả Nguyễn Ngọc Huy. Không thể không nói đến thi ca của ông, với những vần thơ đầy ắp tình yêu nước, sáng tác để ca tụng các anh hùng lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Giữa những tác phẩm đa dạng ấy, chỉ cần dẫn chứng một bộ sách hiện trưng bày tại thư viện trường Luật Đại Học Harvard, thành phố Cambridge của Hoa Kỳ: The Le Code: Law in Traditional Vietnam. Đây là một công trình nghiên cứu rất công phu gồm 3 tập, trên 1000 trang, viết bằng Anh ngữ cùng với ông Tạ Văn Tài, vừa dịch thuật, vừa chú giải bằng các dữ kiện lịch sử và luật pháp đối chiếu.

The Le Code chính là di sản về nền pháp trị cổ truyền, là nền tảng của nhân quyền và dân chủ có giá trị trường cửu. Công trình của ông đã đóng góp vào việc vinh danh nền pháp trị cổ truyền của Việt Nam, không những là di sản cho các học giả người Việt, mà còn cho thế giới Tây phương. Giáo sư Alexander Barton Woodside, một học giả nổi danh tại Đại Học Harvard cho rằng bộ sách này là:

“Một trong vài cuốn sách rất hiếm về Việt Nam có giá trị hoàn hảo. Chắc chắn đó là thành tích học thuật quan trọng nhất xuất phát từ hàng ngũ trí thức Việt Nam lưu vong ở hải ngoại sau năm 1975. Đó cũng là tiêu mốc đánh dấu kỷ nguyên mới trong tương quan văn hóa Việt Nam và Tây Phương, “One of those very rare works about Vietnam that may claim to be definitive. This is undoubtedly the most important single achievement in scholarship to come thus far from the ranks of Vietnamese intellectuals exiled from Vietnam since 1975. It also represents a significant landmark in Vietnamese-Western Cultural relations”

Bổ túc cho giá trị của tác phẩm, Giáo sư Douglas Pike của Đại Học University of California-Berkeley đã phê bình:

“Đây là tác phẩm học thuật gây ấn tượng mạnh mẽ nhất trong thập niên vừa qua”

“The most impressive piece of Vietnamese scholarship in the past decade”

Trong một xã hội cộng sản đầy ảo tưởng muốn nhào nặn mọi lãnh vực theo quan điểm Mác Lê, hôm nay bộ sách The Le Code đang được trưng bày tại Viện Sử Học ở Hà Nội, đã nói lên vừa là giá trị bền vững về công trình nghiên cứu của học giả lỗi lạc Nguyễn Ngọc Huy, vừa là một nghịch lý cho người cộng sản hiểu rằng họ không thể nào tiêu diệt được văn hóa dân tộc. Chỉ có trở về nguồn dân tộc mới mong bảo vệ được non sông Việt Nam.

Nguyện vọng của ông Nguyễn Ngọc Huy là muốn được hỏa táng và đem tro cốt về quê nhà. Dù nguyện vọng chưa thực hiện được, nhưng sự hiện diện tác phẩm The Le Code đã nói lên sự kính trọng công trình trí tuệ của ông ngay tại trung tâm quyền lực của một nước cộng sản, đồng thời như một điềm báo trước, sớm muộn cộng sản Việt Nam sẽ cáo chung và dân tộc sẽ sinh tồn như đã sinh tồn mạnh mẽ bốn ngàn năm nay.

Non nước ở lại

Nhìn chiều dài cuộc tranh đấu, sự nghiệp của nhà lãnh đạo chính trị Nguyễn Ngọc Huy đã nửa đường đứt gánh. Nhưng nếu nhìn toàn phía cuộc đời ông, thì đây là một bức tranh hoàn hảo với một nội dung sống động, những đường nét và màu sắc ý nghĩa, làm nên một tác phẩm giá trị gần như khó tìm được tác phẩm thứ hai.

Nỗi đau về những mất mát trong gia đình, nỗi buồn về công lao bao nhiêu năm tranh đấu tan tành sau ngày cộng sản cướp đoạt miền Nam, nỗi đau thể xác ròng rã tám năm chiến đấu với trọng bệnh, và những chướng ngại trên đường hoạt động, ông đã vượt qua, đã chiến thắng nghịch cảnh.

Ông đã sống, đã tranh đấu, đã cống hiến cho đất nước Việt Nam trong mọi thời điểm của lịch sử, từ tham gia kháng chiến đến lãnh đạo các tổ chức chính trị, từ giảng huấn đến biên khảo, từ hợp tác bước qua vận động quốc tế. Ông đã làm nên tấm gương một nhà lãnh đạo đức độ và tài năng, đầy viễn kiến và thuyết phục, đem lại cho những người theo ông niềm tin về triển vọng thành công cuộc tranh đấu dân chủ hóa Việt Nam. Ông đã tạo được ảnh hưởng sâu rộng, không những trong cộng đồng người Việt, mà cả trên thế giới.

Hình ảnh một nhà lãnh đạo chính trị sức cùng lực kiệt, lại mang trọng bệnh ung thư, lầm lũi trên đường thiên lý bất kể nắng mưa sương tuyết, để tìm phương cứu vớt đồng bào khỏi xiềng xích cộng sản, là hình ảnh của tình nhân ái vô cùng lớn lao trong thời đại ngày nay.

Ông Trần Sĩ Hải cho rằng sự ra đi của ông là tổn thất lớn nhất của Cộng Đồng Người Việt hải ngoại, vì sự nghiệp chính trị của ông quá lớn lao, con người ông quá vĩ đại, con đường ông vạch ra quá rõ ràng.

Ông đã dành trọn cuộc đời phụng sự đất nước, từ tuổi thanh xuân đến hơi thở cuối cùng. Không có gì dang dở nơi ông. Những kẻ ở lại, những người từng theo ông, cần tiếp tục đi nốt phần còn lại của cuộc tranh đấu ông đã vạch ra. Như một lời tự vấn mà Giáo sư Nguyễn Toản muốn trong lòng mỗi người Việt: “Hãy làm gì để khỏi hổ thẹn với người quá cố”

Người đi, đã ra đi vĩnh viễn, để lại cho các thế hệ Việt Nam những thông điệp mạnh mẽ, tiềm tàng trong hai di sản vàng ròng: Sự hy sinh cho Đất Nước và nền Dân Chủ Pháp trị cho tương lai Việt Nam.

Chu Lynh