Nỗi lòng cha cô Phạm Như Quỳnh, người bị chồng cắt cổ chết ở Florida

Nỗi lòng cha cô Phạm Như Quỳnh, người bị chồng cắt cổ chết ở Florida

June 26, 2022

Đỗ Dzũng/Người Việt

NHA TRANG, Việt Nam (NV) – “Tôi mà biết con tôi bị chồng hành hạ như vậy thì tôi đã tìm cách sang Mỹ để bảo vệ nó. Tôi không biết gì cả, đến khi hay tin cháu qua đời,” ông Phạm Văn Thành, hiện sống ở Nha Trang, nói với nhật báo Người Việt qua Facetime hôm Thứ Bảy, 25 Tháng Sáu.

Cô Phạm Như Quỳnh, ngày rời phi trường Tân Sơn Nhất để đi Mỹ hồi năm 2017. (Hình: Phạm Văn Thành cung cấp)

Ông Thành là cha của cô Phạm Như Quỳnh, 22 tuổi, bị chồng là anh Xichen Yang cắt cổ chết một cách dã man hôm 21 Tháng Sáu ở Altamonte Springs, Florida.

“Từ khi tôi và mẹ cháu ly dị, tôi không biết tin gì về con gái mình. Hôm 21 Tháng Sáu, mẹ cháu cho biết, tôi rất bàng hoàng,” ông Thành nói trong nước mắt.

“Hồi năm 2018, cháu có về chơi, tôi có gặp, nhưng kể từ đó, cháu không liên lạc tôi nữa. Có lần cháu text cho tôi, nói rằng con cố gắng đi học, mai mốt về nuôi bố, tôi rất tự hào, để text lên Facebook khoe với mọi người.”

Ông Thành cho biết, ông không hề biết con gái bị chồng hành hạ.

“Tôi chỉ biết con gái mình bị chồng hành hạ sau khi cháu chết, qua mạng xã hội. Tôi thấy hình điện thoại của cháu bị đập bể, thấy đùi bị bầm dập, biết cháu từng bị chồng cho đi bộ về nhà,” ông Thành rầu rĩ nói. “Tôi mà biết chuyện thì thể nào cũng tìm cách qua đó bảo vệ cháu. Hoặc có thể tôi sẽ nói chuyện với chồng cháu, dù gì hai người đàn ông nói chuyện với nhau cũng dễ hơn.”

Ông Thành cho biết cô Quỳnh sinh năm 2000, được gia đình lo cho qua Mỹ du học hồi năm 2017.

“Lúc đó, tôi phải bán một miếng đất bố tôi để lại để lo cho cháu đi du học, không ngờ kết cuộc bi thảm như bây giờ. Thật là buồn. Mấy ngày nay tôi chỉ biết khóc. Tôi có một con chó, tối nào tôi cũng ôm nó mà khóc vì nhớ con gái mình,” người cha cô gái xấu số kể tiếp. “Có một em trai của Quỳnh, sinh năm 2002, đang học đại học, ở với tôi. Cháu nghe tin chị chết, buồn lắm, nói không biết có học tiếp nổi không.”

Ông Thành cũng kể, ông không ngờ con gái có chồng người gốc Hoa, mặc dù có người khác thích con gái ông.

“Có một cậu rất thương nó, nhưng nó lại thích anh người Hoa này. Có lần, cậu đó gọi về nói với tôi, và rất buồn. Biết sao bây giờ. Con mình nó chọn thì mình chịu thôi,” ông Thành than thở.

Ông cho biết thêm, mấy bữa nay, ngày nào ông cũng lên chùa Mẹ Lộ Thiên cầu khẩn cho thi thể con gái sớm được đưa về Việt Nam để ông nhìn mặt lần cuối. Ông cũng đang tìm nghĩa trang để chôn cất con gái.

“Cho tôi gởi lời cảm ơn tất cả cộng đồng mạng, bà con, đồng hương, chia sẻ tin tức, hỏi thăm, và hỗ trợ con gái tôi thời gian qua,” ông Thành nói thêm.

Hôm 22 Tháng Sáu, cảnh sát thành phố Altamonte Springs cho hay nghi can Xichen Yang, cư dân nơi đây, xác nhận dùng dao cắt cổ vợ, cô Phạm Như Quỳnh, ngay tại nhà của hai người, ở khu chung cư trên đường Ballard St. gần Ronald Reagan Blvd. lúc khoảng 9 giờ sáng 21 Tháng Sáu.

Theo bản tin của đài truyền hình địa phương WFTV Orlando cùng các cơ quan truyền thông khác, nghi can sau đó kéo nạn nhân vào bồn tắm, ngồi cạnh nắm tay, cho nghe bản nhạc nạn nhân ưa thích, trong khi nạn nhân chết dần.

Nghi can khai với cảnh sát rằng anh có thể không làm hành động giết người ghê gớm này, nhưng nói thêm rằng mình là kiểu người “luôn làm mọi sự tới nơi tới chốn.”

Theo hồ sơ cảnh sát, anh Yang cho biết lý do giết vợ vì cô đốt sổ thông hành của anh, và hành động trong cơn giận dữ.

Hai vợ chồng chỉ mới cưới nhau chưa được một năm.

Cảnh sát nói từng hai lần được gọi đến căn chung cư. Một lần là vì nghi can Yang “có hành động gây hại cho chính mình” khiến người vợ lo ngại. Lần thứ nhì là vì nghi can bị tố cáo đánh vào mặt vợ.

Nghi can Yang vẫn bị giam giữ để điều tra, không được tại ngoại.

Ông Phạm Văn Thành khấn vái tại chùa Mẹ Lộ Thiên, Nha Trang, mong sớm gặp con gái. (Hình: Phạm Văn Thành cung cấp)

Trong khi đó, một số người cho hay có quen biết với nạn nhân Phạm Như Quỳnh đang tổ chức quyên góp qua trang GoFundMe để có tiền trang trải chi phí đưa thi thể cô về Việt Nam, nơi cả gia đình cô đang sinh sống, theo lời người đứng ra tổ chức là anh Ryan Trần.

Một người trong số này, Trinh Nguyễn, cho biết trên trang GoFundMe rằng cô Phạm Như Quỳnh còn cha mẹ và hai người em cùng nhiều chú bác cô dì ở Việt Nam.

Cho đến Thứ Bảy, 25 Tháng Sáu, số tiền thu được là gần $30,000 so với mức mong muốn là $10,000. [kn]


Liên lạc tác giả: dodzung@nguoi-viet.com

9 tiếp viên hàng không Việt Nam bị bắt ở Úc vì chuyển tiền lậu

9 tiếp viên hàng không Việt Nam bị bắt ở Úc vì chuyển tiền lậu

June 17, 2022

Nguoi-Viet

MELBOURNE, Úc (NV) – Ba ngày sau khi trang 7 News đưa tin về “chín nghi can là tiếp viên hàng không bị bắt quả tang chuyển lậu một lượng lớn tiền mặt,” các báo ở Việt Nam hôm 17 Tháng Sáu dẫn phản hồi của hai hãng hàng không về sự việc.

Bản tin của trang 7 News không đề cập quốc tịch Việt Nam của các nghi can, nhưng tang vật sau vụ bố ráp của cảnh sát Úc tại phi trường Melbourne là 60,000 đô la Úc ($41,939) được chia nhỏ và cất giấu trong hành lý kèm theo chín cuốn sổ thông hành (passport) Việt Nam.

Tang vật vụ chuyển tiền lậu tại phi trường Melbourne, Úc, là chín cuốn sổ thông hành Việt Nam. (Hình: Chụp qua màn hình)

Vụ chuyển tiền lậu được cho là liên quan đến một đường dây vận chuyển ma túy vào Úc. Chín tiếp viên bị cáo buộc “rửa tiền.”

Liên quan vụ này, báo Dân Trí hôm 17 Tháng Sáu cho hay, hiện nay, chỉ có hai hãng hàng không Việt Nam đang khai thác đường bay thẳng thường lệ tới Úc là Vietnam Airlines và Bamboo Airways.

Theo báo này, từ Melbourne về Sài Gòn gần đây có chuyến bay VN780 của Vietnam Airlines ngày 13 Tháng Sáu và QH89 của Bamboo Airways ngày 12 Tháng Sáu.

Ông Đặng Anh Tuấn, trưởng Ban Truyền Thông của Vietnam Airlines, được dẫn lời: “Cho tới nay, các tổ bay, tiếp viên của Vietnam Airlines vẫn bay đi và về bình thường.”

Ông Tuấn cho biết thêm là Vietnam Airlines đang đề nghị nhà chức trách Úc “thông tin rõ hơn.”

Trong khi đó, đại diện hãng hàng không Bamboo Airways phủ nhận cáo buộc tiếp viên của hãng liên quan tới sự việc nêu trên.

“Mọi hoạt động của Bamboo Airways và cán bộ nhân viên hãng đều tuân thủ quy định của nhà chức trách tại Việt Nam cũng như các quốc gia hoặc vùng lãnh thổ quốc tế nơi hãng có hoạt động,” theo báo Dân Trí.

Báo Zing dẫn lời một giới chức ẩn danh của Cục Hàng Không Việt Nam về sự việc: “Sơ bộ cho thấy vụ việc không quá nghiêm trọng nên các tiếp viên được về nước và nhà chức trách Úc chưa có phản hồi gì với nhà chức trách Việt Nam. Có thể chỉ là kiểm tra hành chính và nhắc nhở.”

Một nghi can bị dẫn giải trong vụ chuyển tiền lậu liên quan đến một đường dây vận chuyển ma túy tại phi trường Melbourne, Úc. (Hình: Chụp qua màn hình)

Giới chức này nói thêm, nhà chức trách Úc mời chín tiếp viên của một hãng hàng không Việt Nam vào thẩm vấn và kiểm tra, phát hiện có số lượng tiền mặt. Sau đó, tám người được bay về nước ngay trong ngày, một người về vào ngày hôm sau.

Tuy vậy, người này không nêu cụ thể đó là hãng hàng không nào của Việt Nam.

Cũng theo báo Zing, quan thuế Úc quy định mỗi người ngoại quốc nhập cảnh vào nước này không được đem quá 10,000 đô la Úc ($6,989). Sau vụ này, cơ quan quản lý tiếp viên Vietnam Airlines đã yêu cầu tất cả tiếp viên bay quốc tế không được đem quá $500 tiền mặt. (N.H.K) 

Chuyện của Sam, cậu bé gốc Việt có khuôn mặt lạ

Chuyện của Sam, cậu bé gốc Việt có khuôn mặt lạ

Gia đình tràn ngập tình yêu vĩ đại của ông bà Ettore. Sam (thứ 4 từ trái qua) trong ngày tốt nghiệp. Ảnh: Hope Ettore

Còn gần 10 phút nữa đến giờ hẹn phỏng vấn. Như mọi lần, tôi vào sớm, đăng nhập vào đường dẫn Zoom đã tạo trước để chờ đợi nhấn nút “accept.” Thế nhưng lần này, trên màn ảnh hiện ra thông báo “có người đang chờ.” Bà Hope Ettore, từ thành phố Ramona, Calif, đã chờ sẵn. Khoảng một phút sau, Samuel (Sam) Ian Ettore đến ngồi bên cạnh. Một bà mẹ Mỹ trắng bên cạnh cậu con trai Á châu. Cả hai gửi lời chào với nụ cười rạng rỡ, hạnh phúc.

Hai ngày trước, Sam làm lễ tốt nghiệp trung học và cũng là lần đầu tiên sau 18 năm, cậu nhìn thấy cha mẹ ruột của mình ở Việt Nam qua màn hình điện thoại.

Từ một giấc mơ

Năm 2005, lần đầu tiên thấy gương mặt của cậu bé Nguyễn Lê Hùng với khối thịt to trên má, che một phần mắt bên phải, toàn thân bị nhiễm da xanh, nằm lẻ loi trong trại mồ côi Gò Vấp, ông bà John Ettore và Hope Ettore đã không quay lưng bước đi. Ông bà đã làm thủ tục nhận Hùng làm con, đón em về Mỹ chữa trị, cho em một cuộc đời mới. Hùng hiện giờ là Samuel Ian Ettore – một thanh niên khoẻ mạnh, yêu đời. Khối u ác nghiệt hoàn toàn biến mất, chỉ để lại trên mặt em một dấu vết mờ, nếu không nhìn kỹ sẽ không thấy. Sức mạnh nào đã giúp ông bà tái sinh Sam một lần nữa?

Sam (bên phải) và em gái Lilah Ettore ngày tốt nghiệp trung học. Ảnh: Hope Ettore

Quay về những năm 90, bà Hope (khi đó chưa kết hôn với John Ettore) là nhà dịch tể học làm việc ở Manila, Phillippines. Tại đó, bà nhìn thấy những đứa trẻ sinh ra và lớn lên trong một xã hội nghèo khổ, không có bảo hiểm y tế, không có điều kiện chữa trị. Bà nhận ra sự khác biệt to lớn với Mỹ quốc của bà, nơi mà “cho dù có người rất nghèo nhưng có nhiều chương trình y tế có thể giúp họ có được bảo hiểm”. Từ đó, bà luôn nghĩ đến việc nhận một hoặc hai đứa trẻ làm con nuôi.

“Đó không chỉ là những đứa trẻ cần mái ấm gia đình mà còn cần sự chăm sóc tốt về y tế để khỏi bệnh,” bà Hope kể lại với Saigon Nhỏ qua cuộc gặp trên Zoom.

Sau khi kết hôn, bà vẫn giữ ý định này và chia sẻ với chồng mình, ông John Ettore. Vài năm sau đó, cả hai bắt đầu tìm kiếm, liên hệ với các tổ chức nhận con nuôi.“Bởi vì hầu hết người nhận con nuôi đều muốn nhận những đứa trẻ khoẻ mạnh. Họ không muốn nhận những đứa bé bệnh tật,” bà nói. Danh sách chờ xin những đứa trẻ khoẻ mạnh vì vậy mà tỉ lệ thuận với danh sách những đứa trẻ bệnh tật. Bà và chồng luôn cầu nguyện mỗi ngày.

Một đêm nọ, bà bỗng nằm mơ thấy mình đang đi bộ trên đường phố Sài Gòn.

“Điều này làm cho tôi nghĩ có lẽ đây là một điềm báo chỉ cho chúng tôi biết cần phải làm gì.”

Cuộc tìm kiếm lại tiếp tục với hướng đến là Việt Nam. Nhưng tại đây, ông bà lại gặp một trở ngại khác. Năm đó, nạn buôn bán trẻ em bùng phát. Mỹ và Việt Nam phải tạm hoãn quy chế xin con nuôi. Không nản lòng, ông bà Ettore liên lạc với ba tổ chức lớn. Một trong ba tổ chức này có một dòng chữ nhỏ ghi chú ở vị trí cuối cùng của website, đó là “Nếu bạn thật sự muốn nhận nuôi một đứa trẻ “very sick”, hãy gọi đến số điện thoại này.” Có một thoả thuận đặc biệt giữa hai quốc gia cho phép đứa trẻ đó được người Mỹ nhận nuôi vì cần chế độ chữa trị cấp bách.

Đứa trẻ đó là Nguyễn Lê Hùng, quê ở Phú Riềng. Hùng bị sinh non và có một anh em sinh đôi. Vì Hùng bị bệnh khá nặng nên cha mẹ gửi em trong trại trẻ mồ côi Gò Vấp, giữ lại người anh em song sinh. Nhiều lần cha mẹ Hùng vì nhớ con muốn đón về, nhưng vì Hùng cần phải được chăm sóc y tế, nếu không cậu sẽ khó sống được. Cha mẹ của Hùng đành gạt nước mắt để con ở lại, mong có gia đình nước ngoài nhận em về nuôi để chữa bệnh.

Bà Hope không hình dung được lời cảnh báo “đứa trẻ rất cần được chữa trị” là như thế nào cho đến khi nhìn tấm ảnh của Hùng qua email. Bà nhớ lại lúc đó đang đứng trong phòng làm việc của ông John, bà chỉ thốt lên “Wow.” Ông bà nhìn nhau và họ quyết định rất nhanh: “Chúng ta cần phải làm gì với tình trạng này? Nếu đứa trẻ này có một cơ hội nào đó, thì đó phải là ở Mỹ, nơi có chế độ chăm sóc y tế tốt nhất thế giới. Chúng ta cần phải làm điều đó.”

Sau bảy tháng làm tất cả những thủ tục hành chính cần thiết, ông bà bay sang Việt Nam. Ngày đầu tiên nhìn thấy Hùng – lúc đó 16 tháng tuổi, nằm chơ vơ trong chiếc cũi với bình sữa và cái gối bên cạnh, bà Hope đã tự nói “phải cứu đứa bé.”

Bà kể lại: “Có nhiều lời lẽ dị đoan về hình dáng bên ngoài của Sam lúc đó. Họ nghĩ những đứa trẻ như thằng bé là do hậu quả của gia đình làm gì không tốt. Và thật sự là trong trại mồ côi họ không biết cách nào để chăm sóc đứa trẻ như Sam. Họ chỉ để thằng bé nằm trong nôi, để bên cạnh là cái gối và bình sữa. Thông thường 16 tháng tuổi là đứa trẻ có thể chập chững đi, bập bẹ nói và nhận biết xung quanh. Nhưng Sam lúc đó thậm chí không tự giữ vững được đầu và cổ, vì không ai đỡ thằng bé dậy, tập cho xương cổ đủ cứng để hoạt động.”

Chặng đường tái sinh Sam

Tháng Mười Một, 2005, ông bà Ettore đón Sam về Mỹ, bắt đầu cuộc chiến giành lại cuộc sống phát triển bình thường cho Sam. Cậu bé đã trải qua tổng cộng 11 cuộc phẫu thuật, trong đó là năm lần phẫu thuật để cắt bỏ khối u trên má phải vì khối u quá lớn không thể thực hiện trong một lần.

“Họ lấy một phần sụn ở tai để tạo hình mũi cho Sam. Sam cũng phải làm phẫu thuật mắt phải để có thể nhìn thấy vì nó nằm phía sau khối u. Sau đó là rất nhiều lần chữa trị bằng tia laser để làm mịn phần da mặt. Rồi những năm dài tiếp theo là tập vật lý trị liệu về đi đứng, giọng nói, sức khoẻ…”

Bà Hope nói đến đâu, Sam ngồi bên cạnh chỉ tay vào những phần đó trên gương mặt. Em đưa thật sát mặt vào màn hình, lấy kính cận xuống để cho thấy phần mặt từng phải trải qua 11 lần phẫu thuật. Phải nhìn gần lắm mới thấy vết những vết dư tích mờ sót lại.

Vì phải trải qua những cuộc phẫu thuật và điều trị kéo dài nên Sam từng là một đứa trẻ chậm phát triển. Khoảng bốn tuổi, Sam mới biết nói. Nhiều năm liền cậu học ở một trường đặc biệt dành cho những đứa trẻ có vấn đề về phát triển như mình. Cho đến cách đây hai năm, Sam đã hoàn toàn bình phục.

“Sam tốt nghiệp lớp 12 từ một ngôi trường bình thường như những đứa trẻ khác. Mùa thu năm nay, Sam sẽ vào đại học” – Bà Hope nói, đôi mắt đầy hạnh phúc.

Chàng trai cao to, da ngăm đen rắn rỏi, chiếc kính cận làm cho cậu ra dáng một thư sinh, ngồi sát bên bà Hope. Mỗi khi muốn hỏi gì, cậu lại ghé sát tai của mẹ thì thầm như một cậu bé nhỏ. Sam cảm ơn mẹ và gia đình đã luôn ở bên cạnh mình, giúp Sam vượt qua thời gian khắc nghiệt nhất.

Đó không chỉ là những năm chiến đấu để lấy lại hình hài bình thường, mà đó còn là khoảng thời gian dài khi còn nhỏ, Sam nghĩ mình là đứa trẻ tự kỷ. Khi thấy mình phải học tập trong một ngôi trường đặc biệt, phải gặp bác sĩ thường xuyên, không giao tiếp nhiều với xã hội, Sam gọi đó là “tự kỷ.”

“Em đã từng nghĩ em không bao giờ có thể hoà nhập với xã hội, nhưng em đã vào được trường công, tốt nghiệp như một đứa trẻ bình thường, bây giờ em đã làm được điều đó. Thật là kỳ lạ,” Sam diễn giải niềm vui của mình.

14 tháng còn lại của bà Hope và cuộc điện thoại sau 18 năm

Ông bà Ettore không dấu Sam về nguồn gốc của anh. Ông bà cũng nói rõ nguyên nhân vì sao anh phải nằm lại trại trẻ mồ côi Gò Vấp. Ngoài Sam, ông bà Ettore còn một cậu con trai nuôi tên Josiah. Mẹ của Josiah chết vì bệnh lao. Josiah được ông bà Ettore nhận nuôi từ một trại trẻ mồ côi ở Ethiopia. Dù bị mất một chân, Josiah vẫn giành chức vô địch tiểu bang môn “adaptive track.”

Josiah và cha mẹ nuôi, ông Ettore. Ảnh: Hope Ettore

Bà Ettore đã thực hiện đúng mong mỏi của bà thời còn trẻ – nhận nuôi một, hoặc hai đứa trẻ cần sự giúp đỡ về điều kiện y tế. Ông bà không chỉ tái sinh cuộc đời của Sam, của Josiah mà còn trả về cho cả hai nguồn gốc của họ. Hai năm trước, ông bà đã tìm được cha ruột của Josiah nên cũng có niềm tin sẽ tìm được cha mẹ ruột của Sam.

Ngoài niềm tin đó, bà Hope còn một lý do khác, đó là vào Thứ Hai tuần trước, bác sĩ chuyên khoa ung thư cho bà biết bà chỉ còn khoảng 14 tháng để chống lại những di căn đã vào xương. Bà phát hiện mình bị ung thư ngực năm 2015. Những tưởng đã qua khỏi, nhưng đến 2019 căn bệnh tái phát và nặng hơn. “Đến 2020, 2021 là giai đoạn bốn,” bà nói.

“Trung bình thời gian cho người bị ung thư vú bộ ba âm tính như tôi là hai năm. Những di chứng của loại bệnh này tập trung ở xương. Điều đó chẳng tốt hơn là nó đi vào não, vào gan chúng ta sao? Tôi rất đau đớn nhưng có thể tôi sẽ sống lâu hơn hai năm thì sao? Tôi luôn lạc quan. Tôi có nhiều kế hoạch để thực hiện. Tôi sẽ tiếp tục cuộc sống của mình. Tôi không chỉ ngồi đây và đợi cho đến khi chết,” bà Hope nói với nụ cười và ánh mắt đầy sức mạnh.

Sam ngồi kế bên, choàng tay ôm vai mẹ. Lúc này, nhìn Sam như một dũng sĩ luôn cận kề bảo vệ cho mẹ trong mọi tình huống. Sam nói anh ước mơ trở thành đầu bếp. Sam thích nấu ăn. Thời gian bà Hope chống chọi với ung thư ngực, Sam là bác sĩ dinh dưỡng tuyệt vời của bà.

Một trong những kế hoạch của bà Hope là tìm lại cha mẹ ruột cho Sam. Bà đã làm được điều đó. Như một phép màu nhiệm, câu chuyện của bà Hope kể cho người bạn Mỹ gốc Việt thời đại học đăng tải bằng tiếng Việt trên mạng xã hội. Bà kể: “Một phụ nữ Việt ở Seattle chia sẻ lại. Dì của người này, sống ở Phú Riềng, đọc được và nhận ra vì cha mẹ của Sam đang làm việc cho người này.”

Thế là sau vài cuộc gọi vượt đại dương, xuyên tiểu bang California – Seattle – Vietnam, bà Hope đã tìm lại được cha mẹ ruột của Samuel.

Ngày Sam tốt nghiệp trung học, cũng là ngày anh được nhìn và nói chuyện với cha mẹ ruột của mình ở Việt Nam. Đó là món quà 18 tuổi tuyệt vời ông bà Ettore dành cho đứa con trai nuôi của mình. Tạm biệt bà Hope và Sam, tôi chúc mừng anh có một gia đình tràn ngập tình yêu. Sam nói: “Bây giờ tôi có hai gia đình.”

Nếu tạo hoá có quyền định sẵn hoặc an bài tất cả những gì không nằm trong lòng bàn tay của con người, thì đó gọi là duyên phận. Một trong duyên phận đó, chính là sự sắp đặt để vợ chồng ông bà John Ettore nhìn thấy tấm ảnh của cậu bé tám tháng tuổi Nguyễn Lê Hùng – Samuel Ettore. Lúc đó Hùng trong một hình hài và một sức khoẻ mà trại trẻ mồ côi ở quận Gò Vấp đã báo trước: “Ai gặp một lần cũng không trở lại.

BỘ TRƯỞNG BỘ GIÁO DỤC, giáo sư Hoàng Xuân Hãn…

Nhân việc mỗi năm thay đổi bộ sách GK mới, nhớ đến BỘ TRƯỞNG BỘ GIÁO DỤC TRONG CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM 1945

————

Người trong hình là giáo sư Hoàng Xuân Hãn, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và mỹ thuật của chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945. Thành tựu của cụ trong 4 tháng làm Bộ trưởng ngắn ngủi là làm ra cho nước ta chương trình trung học đầu tiên dạy bằng Việt ngữ. Cụ cũng là người làm ra cuốn sách các danh từ khoa học bằng tiếng Việt đầu tiên giúp người Việt có các từ này để sử dụng tới bây giờ.

Cụ Hoàng Xuân Hãn sinh năm 1908, quê làng Yên Hồ, huyện La Sơn, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Thuở nhỏ cụ học chữ Hán và chữ Quốc ngữ tại nhà. 18 tuổi, cụ đậu bằng Thành chung, ra HN học trung học tại trường Bưởi, sau đó 19 tuổi cụ chuyển qua học Toán ở trường Lycée Albert Sarraut. Một năm sau, cụ đỗ thủ khoa tú tài toàn phần Pháp và nhận học bổng qua Pháp học. Cụ theo học tại trường Bách khoa Paris, sau đó học trường École Nationale des Ponts et Chaussées (Trường Cầu đường Paris). Từ năm 1934 đến năm 1936 Hoàng Xuân Hãn trở lại Pháp sau 4 tháng về nước, học và đậu cử nhân toán 1935 và thạc sĩ toán 1936 tại khoa Toán trường Đại học Sorbonne.

Học cao hiểu rộng, năm 1936 cụ về nước dạy trường Bưởi, hoàn tất cuốn Danh từ khoa học đầu tiên của VN, “một công trình rất đặc sắc để “khai đường mở lối” cho nền học thuật bằng tiếng Việt và chữ Quốc ngữ. Năm 1942, sách ra đời. Năm 1943, Hội Khuyến học Nam kỳ (SAMIPIC) tặng giải thưởng” (theo giáo sư Nguyễn Đình Đầu)

Năm 1945, cụ được mời là Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ thuật đầu tiên của chính phủ Trần Trọng Kim.

Vừa nhậm chức, nhận thấy chương trình trung học ở ta khi đó còn dạy theo lối Pháp, giáo sư Hoàng Xuân Hãn liền họp các giáo sư trung học và yêu cầu lập chung một chương trình có tính cách hoàn toàn quốc gia Việt Nam.

Cụ kể lại “Tôi tự đặt ra một số nguyên tắc mới, mà sau này chính chương trình Trung học Pháp cũng theo (như vượt lên về toán, lý, hóa, bỏ chia trung học ra hai phần. . .). Chính tôi đã đặt ra những từ: Phổ thông và Chuyên khoa. Nhất là như tôi đã nói, tôi thấy về văn học ta thiếu những người học sâu về cổ văn, để hiểu và dạy quốc văn nghiêm túc, và nhận văn bản đúng hay sai. Vì lẽ ấy tôi đã đặt Ban chuyên khoa cổ văn như trong các chương trình Âu châu. Trong những người có công lớn trong việc cải cách, có Tạ Quang Bửu, Đào Duy Anh, Nguyễn Huy Bảo, Đoàn Nồng, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Thúc Hào, Phạm Đình Ái, Nguyễn Dương Đôn… Cuối tháng 6, lần đầu mở kỳ thi trung học bằng tiếng Việt tại Huế. Những bài làm rất tốt, kể cả bài thi triết học”.

Chương trình trung học của Hoàng Xuân Hãn được các Bộ Giáo dục VNDCCH và VNCH áp dụng rất lâu. Mà nơi lâu nhất là VNCH dùng tới 1972. Các chương trình sau đó có cải cách nhưng vẫn nằm cơ bản trong nền tảng của chương trình này.

Sau ngày chính phủ Trần Trọng Kim từ nhiệm, Hoàng Xuân Hãn trở về dạy và viết sách toán bằng tiếng Việt, cùng cứu vãn những sách cũ, sách cổ bị đưa bán làm giấy lộn khắp đường phố Hà Nội. Sau 1945, ông tham gia phong trào diệt giặc dốt và nghĩ ra phương pháp học chữ Quốc ngữ rất mau, viết trong 1 cuốn sách của ông. Cuốn sách này đã giúp người mù chữ chỉ sau 3-6 tháng thì đọc thông viết thạo.

Nhận xét về giáo sư Hoàng Xuân Hãn, giáo sư Nguyễn Đình Đầu viết: “Ông đã có công lớn trong việc dùng tiếng Việt và chữ Việt ở mọi cấp bậc học ở nước ta: Chúng ta không còn phải mượn tiếng người, chữ người nữa, tiếng Việt là vấn đề khỏi bàn, còn chữ Việt đây là chữ Quốc ngữ La tinh hóa. Ông đã mổ xẻ Quốc ngữ ra từng chữ i chữ tờ rồi đề nghị mở rộng cách ghi âm Quốc ngữ làm cho tiếng Việt phong phú hơn, đặc biệt về mặt khoa học.

Ông rút kinh nghiệm của cả Tàu lẫn Nhật. Ông dịch các danh từ khoa học thông thường như Tàu. Ông phiên âm các danh từ khoa học chuyên môn như Nhật. Song với chữ Quốc ngữ La tinh hóa, thì việc Phiên âm các danh từ khoa học chuyên môn – mà đa số là tiếng La tinh rồi – được thuận tiện hơn tiếng Nhật và chữ Nhật nhiều. Từ dạng chữ đến cách đọc Việt Nam sẽ rất gần với cách ghi âm và phát âm quốc tế. Ông lại phục sinh nền quốc học và cho gắn liền với chương trình giáo dục. Việc đào tạo nhân cách Việt Nam phải bắt đầu bằng tiếng ta, chữ ta, văn hóa ta. Ông không chỉ sáng tạo Danh từ khoa học, chỉ đặt Chương trình Trung học, mà còn trước tác rất nhiều công trình khoa học có giá trị lớn để làm mẫu mực cho việc giáo dục và quốc học nước ta. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn có công lớn lắm vậy”.

Cụ Hoàng Xuân Hãn năm 1951 quay lại Paris sinh sống và học tiếp để trở thành kỹ sư nguyên tử. Cụ tiếp tục nghiên cứu về văn hóa VN. Năm 1996, cụ mất tại Paris. Tháng 8 năm 2011, Trường Đại học Ponts et Chaussées (Trường Cầu đường Paris), một trong những đại học có uy tín hàng đầu của Pháp đã chọn giáo sư Hoàng Xuân Hãn đặt tên cho giảng đường đại học thuộc trường. Trước đó, nhân kỷ niệm 100 năm truyền thống Trường Cầu đường Paris, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn được Nhà trường vinh danh là một trong 100 sinh viên tiêu biểu nhất trong lịch sử của Trường.

Thật kính trọng tài năng và đức độ của cụ. Chỉ 4 tháng ngắn ngủi trong cương vị Bộ trưởng Bộ Giáo dục, cụ đã làm được những việc vô cùng ý nghĩa cho nền giáo dục của đất nước.

FB Hùng Đinh

NA UY – NHỮNG DẤU CHÂN LƯU LẠC – Phạm Tín An Ninh

Kimtrong Lam   Lương Văn Can 75.

Nhà văn Phạm Tín An Ninh

Trong hình là hai vợ chồng nhà văn Phạm Tín An Ninh và sáu đứa con tại Trại Hawkins Road, Singgapore sau khi vượt biên thoát khỏi Việt Nam trong thập niên 80. Nhà văn Phạm Tín An Ninh vừa là huynh trưởng vừa là chiến hữu với tôi cùng màu cờ sắc áo trong quân đội VNCH. Bà xã anh Phạm Tín An Ninh tên Trương Thu Thức là bạn học cùng lớp cùng trường thời trung học tại trường Trần Bình Trọng Ninh Hoà với tôi . Nhìn hình thấy bà bạn của mình mới bây lớn mà có tới sáu đứa con cao gần ngang vai thật là đáng nể . Chắc trong thời chiến tranh đơn vị của anh bị việt cộng pháo kích quấy rối ngủ không được nên mới nhiều con như thế. Tại hạ xin bái phục bà bạn của mình

Nhà văn Phạm Tín An Ninh là tác giả của những tác phẩm : Ở Cuối Hai Con Đường – Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân – Sau Cuộc Biển Dâu rất nổi tiếng nơi hải ngoại. Trong những câu chuyện anh viết giống như thể anh đang bơi giữa dòng sông đầy cánh lục bình . Anh quơ tay gom lại nhưng vì hai tay ngắn quá nên vẫn còn nhiều đám lục bình trôi dật dờ quanh đây nên sức anh gom không xuễ . Tôi bắt gặp những niềm đau man mác của chính tôi giống như là tất cả những uẩn khúc trong lòng được anh thấu hiểu mặc dù truyện của anh được kết nối từ những mãng sống trôi trên dòng đời của chính anh

Mời quý bạn đọc bài viết mới nhất của anh viết về Na Uy quê hương thứ hai của mình

NA UY – NHỮNG DẤU CHÂN LƯU LẠC
Phạm Tín An Ninh

Như vậy là tôi sẽ phải rời xa Na-Uy, đất nước đã cưu mang tôi và sẽ còn mãi in đậm những dấu chân tôi trong cả một quãng đời hơn 30 năm lưu lạc? Cũng như tâm trạng của những ngày tìm cách vượt biên, rời khỏi Việt Nam, nơi chôn nhau cắt rốn, câu hỏi này đã làm tôi ưu tư trằn trọc nhiều đêm, như sắp phải cắt đi một phần máu thịt ràng buộc với chính sự sống của mình.

Sau bậc trung học ở Na-Uy, bốn đứa con lần lượt được học bổng sang Mỹ du học từ năm 1990. Có việc làm sau khi tốt nghiệp, nên ba cháu đã chọn ở lại đây lập nghiệp và trở thành công dân Mỹ, mong muốn bảo lãnh cha mẹ, khi về hưu, sang sống với các cháu những năm cuối đời, và với khí hậu ấm áp của vùng biển Cali sẽ làm người già đỡ căn bệnh đau nhức các khớp xương khi mùa đông Bắc Âu mang cái lạnh trở về. Mấy năm nay, sau khi về hưu, chúng tôi cũng chỉ sang Cali ở với các con sáu tháng mùa đông, còn sáu tháng mùa hè về lại với Na-Uy. Vậy mà trong những ngày mùa đông nắng ấm Cali, tôi vẫn da diết nhớ về Na-Uy với cả khung trời ngập đầy tuyết trắng, những hàng cây trước nhà, vào đêm Giáng Sinh, đóng băng, trở thành những cây thủy tinh lung linh dưới ánh đèn đường. Tôi nhớ cả cái không khí yên bình tĩnh mịch và những người bản xứ láng giềng tốt bụng. Nhiều lúc tôi ngồi bất động, thả hồn về Na-Uy, tìm lại từng dấu chân lưu lạc của mình.

Hơn ba mươi năm trước, khi phải đành lòng bỏ lại quê hương, bao nhiêu người thân và mồ mả cha mẹ ông bà, ra đi trên chiếc thuyền đánh cá mong manh, cũng như rất nhiều người, tôi không hề nghĩ là mình sẽ đến một đất nước xa lạ có tên Na-uy. Cái tên Norway, Norvège, tôi chỉ nhớ loáng thoáng qua phim The Vikings mà tôi đã xem qua lúc còn đi học, và cái giải Nobel Hòa Bình năm 1973 trao lầm cho Kissinger – Lê Đức Thọ, đã từng gây cho tôi cái ác cảm với đất nước xa xăm lạ lẫm này. Đặc biệt, năm 1978, khi đang ở tù ngoài Yên Bái, nhân một ngày lễ lớn của Cộng sản, tổ tù chúng tôi được phát một hộp thịt cá voi. Thấy ngoài hộp thiếc có ghi “Made in Norway”, bọn tôi càng ghét thêm cái tên này, vì nghĩ đó là một quốc gia thân Cộng

Chiếc thuyền nhỏ chở theo 52 người, gần một nửa là đàn bà và con nít, ra khơi hai ngày thì gặp bão. Cả bầu trời phủ kín mây đen. Những ngọn sóng bạc đầu từ trên cao phủ xuống, như muốn nuốt chửng con thuyền nhỏ mong manh. Mệnh số 52 con người chỉ còn biết phó thác cho trời nước mênh mông. Bóng tối tử thần bủa vây khắp phía. Con thuyền bây giờ như cánh bướm nhỏ rơi giữa dòng thác lũ, chìm xuống ngoi lên tả tơi, thoi thóp. Chưa khi nào con người lại quá nhỏ bé và bất lực trước thiên nhiên như lúc này đây. Người điều khiển chiếc thuyền là anh bạn tù, một sĩ quan Hải Quân trước 75. Dù từng làm hạm trưởng, giàu kinh nghiệm hải hành, nhưng bây giờ chỉ còn biết cố giữ cho chiếc thuyền không nằm ngang để bị sóng đánh vỡ. Khả năng đó trong lúc này đã là một điều tuyệt vời, nhưng lại quá nhỏ nhoi trước sức mạnh của phong ba. Đám thanh niên thi nhau tát nước tràn vào liên tục có lúc gần ngập cả con thuyền. Chỉ sau một ngày đêm, tất cả đều mệt lã, đuối sức. Mọi người chỉ còn biết nhắm mắt, miệng lâm râm lời cầu nguyện. Bất ngờ có người hét lên và chỉ ra phía trước mặt. Tất cả nhốn nháo nhìn về hướng ấy. Một cái gì to lớn màu đỏ chói chập chờn xuất hiện giữa trùng khơi sóng gió. Mới đầu chỉ thấy mấy cái bồn lớn, tưởng như những cây trụ cao to trong một ngôi chùa vĩ đại, cho mọi người cái cảm giác như đang ở trên một thế giới nào đó, huyễn hoặc, mơ hồ. Khi nhận ra chiêc tàu thật lớn, ai cũng thầm nghĩ là có điều gì màu nhiệm được Thượng Đế gởi đến để cứu vớt chúng tôi trong cơn khốn nguy tuyệt vọng.

(Tàu chở dầu Høegh Grandia cứu vớt chúng tôi trên biển Đông)

Chiếc tàu mang cái tên với vài mẫu tự rất lạ (Høegh). Có người nghĩ là chữ Nga. Nhưng trong hoàn cảnh này dù là tàu nước nào, cũng phải sống trước đã. Nhưng khi chúng tôi cố gắng cho thuyền đến gần tàu, thì họ lại tránh ra xa. Bao lần như vậy làm chúng tôi thất vọng và thầm oán trách. Nhưng cuối cùng chiếc tàu ngừng hẳn lại, hụ còi làm dấu hiệu cho thuyền chúng tôi chạy đến. Khi chiếc thuyền con cặp vào thành tàu cao chót vót, một số thủy thủ trên tàu thòng những chiếc thang giây và đu mình xuống để bồng những đứa con nít hoặc cõng trên vai những người đàn bà yếu mệt lên tàu. Một số khác, có cả vài người đàn bà, đứng trên thành tàu, đưa tay đón lấy từng người. Chúng tôi đã nhận ra đây phải là những con người từ tâm, đến từ một quốc gia giàu lòng nhân đạo.

Tôi và anh bạn Hải Quân là hai người cuối cùng lên tàu. Khi nói chuyện với vị thuyền phó, được biết chiếc tàu này thuộc Vương Quốc Na-Uy (Kingdom Of Norway) và đang trên hải trình công tác chở dầu từ Nhật sang Singapore. Và cơn bão chỉ mới bắt đầu. Trận bão chính khuya nay mới tới. Nếu tàu không vớt, chắc chắn chúng tôi không thể nào sống sót qua đêm nay. Ông cũng cho biết sở dĩ ông không cho chiếc thuyền nhỏ của chúng tôi lại gần khi tàu lớn đang chạy, vì lo ngại thuyền sẽ bị nhận chìm bởi sóng từ chiếc tàu lớn tạo ra, nên ông phải cho tàu dừng hẳn lại trước khi cho chúng tôi cặp vào

Chúng tôi đem tặng cho ông thuyền trưởng chiếc hải bàn, nói lời cám ơn và để làm kỷ niệm. Ông đưa hai chúng tôi ra sàn tàu để chứng kiến và từ biệt chiếc thuyền con, khi ông cho nhận chìm bằng cách cho rú mạnh máy tàu. Đứng nghiêm đưa tay chào vĩnh biệt, lòng chúng tôi thật bùi ngùi, khi nghĩ là chiếc thuyền mong manh ấy đã đưa chúng tôi vượt bao sóng gió, từng chạm mặt với tử thần, nhưng cuối cùng tất cả chúng tôi đã được an bình để tới bến bờ, còn chiếc thuyền thì lại bị nhận chìm vào đáy của đại dương . Và cũng kể từ giờ phút ấy, hai tiếng Na-Uy gắn liên với phần đời còn lại của chúng tôi

Sau khi tắm rửa xong, đám đàn ông con trai thì được phát cho những bộ quần áo kaki màu vàng của thủy thủ, phụ nữ thì những chiếc áo blue trắng của các cô y tá. Còn đám con nít thì được áo thun đủ màu và quần short. Chúng tôi được đưa xuống các phòng ngủ nghỉ ngơi, và chiều hôm đó được ăn một bữa cơm Tây thịnh soạn. Vị thuyền trưởng cho biết là sẽ đưa chúng tôi sang gởi tại trại tị nạn Singapore, và cho mỗi người được gởi ba cái điện tín về ba địa chỉ khác nhau để báo tin cho gia đình. Ông còn cho biết thêm, trước đây chiếc tàu này do ông làm hạm trưởng cũng đã từng cứu vớt bốn chiếc thuyền tỵ nạn từ Việt Nam. Đọc danh sách những thuyền nhân trong bốn chiếc thuyền này, hầu hết phát xuất từ miền Tây, chúng tôi không nhận ra có người quen biết.
Hai ngày đêm trên tàu với chúng tôi là cả một thiên đường. Mặc dù bên ngoài, cơn bão cấp sáu nhiều lúc làm con tàu lắc lư, nhưng trên tàu chúng tôi cảm thấy thật yên ả hạnh phúc. Chúng tôi được bác sĩ khám bệnh, cấp thuốc, ăn uống thịnh soạn Đám con nít có quà, bắt đầu đừa giỡn, vui chơi.

Đêm cuối cùng, ông thuyền trưởng mong muốn có một buổi cơm chung với tất cả thủy thủ trên tàu cùng những người tỵ nạn. Chúng tôi thành lập một tổ nhà bếp. Họ cung cấp mọi thực phẩm theo yêu cầu. Một bữa ăn với thực đơn hoàn toàn Việt Nam. Vừa thích thú vừa cảm động.

Sau hơn hai ngày đêm, tàu cặp vào cảng Singapore. Tất cả thủy thủ đoàn đứng thành hai hàng dài từ đài chỉ huy xuống tận cầu tàu, bắt tay và ôm từng người chúng tôi tiễn biệt. Nhiều người đã bật khóc. Tôi vừa cảm động vừa đau đớn trong lòng. Cảm động vì phải chia tay những ân nhân của mình, nhưng đau đớn vì nghĩ họ là những người xa lạ, không cùng ngôn ngữ, màu da màu tóc, mà đã cứu vớt, hết lòng yêu thương lo lắng cho chúng tôi, trong lúc những người anh em cùng một nhà lại thẳng tay đàn áp hành hạ đuổi xô chúng tôi đến bước đường cùng, đến nỗi phải đánh đổi cả mạng sống để bỏ nước ra đi. Nếu không có chiếc tàu Na-Uy này cứu vớt, chắc chắn 52 người chúng tôi đã bỏ mình trên biển khơi, cũng giống như hàng trăm ngàn người bất hạnh khác, không một ai hay biết.

Chúng tôi được gởi vào trại tị nạn Hawkins Road, một doanh trại cũ của quân đội Anh tại Singapore. Tòa đại sứ Na-Uy tại đây đến thăm nom, chăm sóc và gởi hai cô giáo thiện nguyện đến để sinh hoạt và dạy ngôn ngữ Na-Uy. Sau ba tháng, chúng tôi được chuyển sang trại chuyển tiếp Bataan ở Phi Luật Tân. Trại chia ra 9 Vùng. Riêng Vùng I được dành cho những người được tàu Na-uy vớt, và hầu hết sẽ đi định cư tại Na-Uy. Ông Đại sứ Na-Uy tại Phi Luật Tân thường xuyên đến thăm nom giúp đỡ chúng tôi. Có lẽ không có một vị đại sứ nào hiền lành, phúc hậu, và bình dị như ông đại sứ Na-Uy này. Một toán cô thầy giáo được chọn lọc, từ Na-Uy sang để dạy tiếng Na-Uy cũng như hướng dẫn chúng tôi về lịch sữ, địa lý, văn hóa, tập quán và nhiều hiểu biết khác về xã hội và đất nước này. Một số người tỵ nạn được chọn ra, học riêng thêm một số giờ, để làm phụ giảng và thông dịch.Tôi là một trong vài người may mắn được chọn

(Ông Đại Sứ – bà Bộ Trưởng Xã Hội và bà Giám Đốc Sở Tỵ Nạn NaUy đến thăm viếng chúng tôi tại Bataan -Philippine)

Sau tám tháng, chúng tôi lần lượt được đưa sang định cư chính thức tại Na-Uy. Gia đình tôi lúc ấy có 10 người, gồm vợ chồng tôi, 6 đứa con và 2 đứa cháu, đến phi trường Fornebu Oslo vào buổi chiều cuối hè. Trời nắng đẹp. Chúng tôi được hai người đàn bà thuộc văn phòng Thư ký Tỵ nạn và Phòng Xã Hội kommune Skedsmo, địa hạt nơi tôi đến định cư, đón chúng tôi tại khu nhận hành lý của phi trường. Khi bước ra cổng, tôi được một số phóng viên báo chí và đài truyền hình phỏng vấn. Hai người đàn bà mời gia đình chúng tôi đến ăn tại một nhà hàng Tàu. Khi về đến nhà, bất ngờ chúng tôi thấy các phóng viên lúc nãy đang chờ trước cổng. Căn nhà rộng, loại rekkehus (townhouse) hai tầng, có cả sân trước sân sau được trồng hoa và lát cỏ, trang bị đầy đủ nội thất, có cả một TV mới và trong tủ lạnh đầy đủ thức ăn nước uống. Các phóng viên mời chúng tôi vào phòng khách, vừa uống cà phê vừa để họ quay phim, chụp hình và phỏng vấn. Họ hỏi về nhiều đề tài, đặc biệt là chiến tranh Việt Nam và chuyện tù đày, khổ ải của người miền Nam sau ngày VNCH thất thủ vào tay Cộng Sản, cùng cảm tưởng khi đến Na-Uy. Với mớ vốn liếng tiếng Na-Uy và cả tiếng Anh ít ỏi, tôi cố gắng trình bày và chỉ hy vọng họ hiểu được những điều chính yếu mà mình muốn nói. Trước khi từ giả, mọi người đều cảm động ôm lấy chúng tôi cùng với những lời chúc tốt lành cho một đời sống mới. Tôi rất ngạc nhiên, khi bà Trưởng Phòng Tỵ Nạn đưa chúng tôi một xâu chìa khóa, và trao cho chúng tôi tờ giấy chủ quyền ngôi nhà, mà bà cho biết kommune đã đứng ra mượn tiền mua trước, và họ sẽ trả mọi thứ tiền cho đến khi nào chúng tôi đi làm và có khả năng tự trả được. (Vì họ được mượn từ quỹ gia cư của chính phủ nên tiền lời rất thấp)

Buổi tối, cơm nước xong, cả nhà quây quần trước cái TV. Thằng con trai lớn ra điều mới học được văn minh, bấm tới bấm lui tìm đài. Cả đám bất ngờ nhìn thấy dung nhan của mình trên màn ảnh. Thì ra chương trình phóng sự. Họ đang kể về gia đình chúng tôi: “những công dân mới của Na Uy, mà ông bố đã từng ở tù nhiều năm, giống nhiều người Na Uy bị nhốt trong các trại cải tạo của Đức quốc xã, cái thời Hitler làm mưa làm gió ở Âu Châu, và đã can đảm dắt theo mấy đứa con nhỏ vượt đại dương trên một chiếc thuyền đánh cá mong manh”. Nghe họ ca ngợi mình mà tôi xấu hổ. Dù gì tôi cũng là kẻ bỏ nước tha phương, với họ ít nhiều gì cũng là một cành tầm gởi. Còn chuyện vượt biển, vượt biên, đến bước đường cùng thì ai cũng phải liều mạng thế thôi, chứ có hàng triệu người còn can đảm gấp vạn lần tôi. Nhiều người đi bằng đường bộ, trèo núi, băng rừng, lội suối, bơi sông, qua Cam Bốt, Thái Lan, sống chết với bọn hải tặc, để vài năm sau mới đến được Singapore. Và dĩ nhiên đã có biết bao nhiêu người chẳng bao giờ tới bến.

Khi cả nhà ngủ vùi sau hai ngày di chuyển mệt nhọc (từ trại Bataan đến Manila và từ Manila đến Na-Uy), tôi một mình xuống ngồi ở phòng khách, suy nghĩ thật nhiều về những tháng ngày sắp tới, ưu tư cho chính bản thân mình và nhất là đám con nhỏ dại, sẽ lớn lên và chấp nhận xứ sở xa lạ này như một quê hương mới. Nước mắt tôi bỗng trào ra khi nghĩ đến quê nhà, hồi tưởng một quá khứ có quá nhiều biến đổi thăng trầm và mất mát, dù đã xa khuất sau lưng, nhưng chắc chắn mãi mãi không thể nào mờ nhạt. Tôi cũng nghĩ tới thân phận của những người bạn tù còn ở lại,rồi cuộc đời sẽ không biết ra sao. Thầm cầu mong cho họ sẽ gặp được nhiều may mắn.

(Ngày mới đến thị xã Skjetten – thuộc Kommune Skedsmo -NaUy)

Hôm nay, cả gia đình tôi đang ở trên một đất nước tận vùng Bắc Âu xa lạ để gầy dựng lại cuộc đời. Các đứa con thơ dại sẽ lớn lên ở đây. Tất cả sẽ bắt đầu học ngôn ngữ mới, tập quán mới. Tôi thực sự đã mất quê hương. Tất cả, nếu có còn chỉ nằm sâu một nơi nào trong tâm tưởng. Nhưng chúng tôi may mắn được đất nước này mở rộng vòng tay, để được nhận nơi đây làm quê hương mới. Cái diễm phúc ấy hy vọng sẽ xoa dịu vết thương còn đang đau đớn trong lòng, mà tôi biết sẽ mãi mãi không bao giờ lành được. Sáng hôm sau, bà trưởng phòng tỵ nạn trở lại thăm chúng tôi, dắt theo hai người đàn bà khác, mà bà giới thiệu là đến từ phòng giáo dục và phòng xã hội Thị Xã. Hai người sẽ đến thăm gia đình tôi thường xuyên trong hai tuần, để lo việc học hành cho các con, đưa chúng tôi đi khám bệnh, làm răng và sắm sửa thêm những gia dụng theo nhu cầu. Bà đưa tôi đến một ngân hàng gần nhà, mở cho tôi một trương mục, bỏ vào đó tiền ăn và mọi khoản chi tiêu dành cho gia đình chúng tôi trong hai tháng đầu. Sau đó, bà sẽ gởi tiếp, nhưng bà dặn bất cứ khi nào cần cứ ra rút tiền. Và nếu tiền hết vì bà chưa kịp gởi vào, ngân hàng này sẽ phải ứng trước theo giao ước của bà.

Thêm một điều rất may mắn cho tôi. Thời gian ở trại tị nạn, tôi đã được các thầy cô giáo dạy riêng thêm ngôn ngữ Na-Uy để giúp làm phụ giảng và thông dịch, nên khi sang Na-Uy tôi đã có một ít vốn liếng tiếng Na-Uy, dù chưa thông thạo lắm. Ngày đầu tiên khi chúng tôi cùng một số gia đình tỵ nạn khác được bà Trưởng Phòng Tỵ Nạn đưa đến Phòng Cảnh Sát Ngoại Kiều Thị Xã để được phỏng vấn làm thủ tục di trú. Vào giờ chót người thông dịch không đến được, nên tôi đã tình nguyện đứng ra giúp. Không ngờ đó lại là một cơ hội cho tôi sau này. Tôi được giới thiệu theo học khóa “Ngôn ngữ Mùa Hè” tại Đại Học Oslo. Sau đó được làm thông dịch cho Văn Phòng Xã Hội và Phòng Cảnh Sát, và được gởi theo học một khóa tài chánh kế toán trong 13 tháng, mà đa số học viên là những công chức hoặc nhân viên của các phòng sở, công ty gởi đến. Biết thân phận là người tị nạn, nên tôi cố gắng hết sức để theo kịp, nên khi mãn khóa nhận được chứng chỉ với số điểm ưu hạng.

Khi cả nhà đang hái dâu ở vùng Drammen, vừa tiêu khiển vừa kiếm thêm tiền gởi vể Việt Nam giúp cha mẹ vợ, bà cô, cùng một số bạn tù ngày trước, tôi nhận được thư của kommune thu nhận tôi làm việc tại Kommune Kasseren (Phòng Tài Chánh Thị Xã) trong một năm. Công việc thật nhàn nhã, nên tôi được phép đi làm thông dịch thêm theo yêu cầu của các cơ quan khác và được nhận thêm tiền trả riêng. Đặc biệt việc di chuyển đều được dùng Taxi do cơ quan ấy đài thọ. Có những ngày chẳng có việc gì làm, tôi lại ngồi đọc sách để học thêm ngôn ngữ mới. Sau một năm, tôi nôp đơn xin theo học và làm trong ngành Ngân hàng Bưu Điện (Postbanken) cho đến ngày về hưu

(Ba đồng nghiệp thân thiết nhất tại Postbanken – Anita – Reidun và Guldhaug)

Đến Na-Uy tôi mới biết đây là một Vương quốc có dân số chỉ hơn bốn triệu rưởi, nhưng đời sống khá cao và giàu lòng nhân đạo. Gia đình tôi được chăm lo đủ thứ. Tiền phụ cấp hằng tháng quá đầy đủ. Với chúng tôi có thể nói là thừa thãi. Ngay sau khi học xong, tôi được việc làm. Khi đi học vẫn được nhận đủ lương lại còn thêm phụ cấp. Vơ tôi được đi học thêm ngôn ngữ tại một trường trung học dành cho người lớn và sau đó học nghề tại trung tấm huấn nghệ dành cho người tỵ nạn, và ngay sau khi học xong cũng cnhận dược việc làm chuyên môn về điện tử tại Siemens, một công ty lớn của Đức. Lương bỗng hằng tháng của hai vợ chồng cộng lại chỉ hơn một nửa số tiến trợ cấp trước kia. Phòng Xã Hội có nhã ý giúp chúng tôi thêm vì có đông con, nhưng chúng tôi từ chối vì thấy đã đủ trả mọi chi phí cho đời sống gia đình. Điều thú vị hơn, đất nước này gồm rừng núi, sông hồ thơ mộng và quanh năm tĩnh mịch, thích hợp với những người cần sự yên tĩnh để chữa nhiều vết thương trong lòng còn đang đau đớn như tôi.

Mùa đông đầu tiên, khi tuyết bắt đầu rơi trắng bầu trời, chúng tôi được cấp áo quần, dụng cụ trượt tuyết, và có người đến dạy các con tôi trượt tuyết. Sau một năm, trong một kỳ thi dành cho tuổi thiếu niên, cậu con trai út của tôi được lãnh cúp hạng nhất, trở thành cậu bé trượt tuyết có tiếng trong vùng.Sau đó, chúng tôi còn được biết thêm, Nauy là quốc gia thường chiếm nhiều huy chương vàng nhất tại các Thế Vận Hội Mùa Đông.

(Huy Vinh trượt tuyết giỏi nhất giải thiếu nhi và em gái Ngọc Quỳnh)

Định cư được hơn ba năm. Lúc kinh tế gia đình và việc học hành của mấy đứa con tạm ổn định, hơn nữa các con đã lớn cần một ngôi nhà rộng rãi có đủ phòng ốc hơn, chúng tôi quyết định mua một ngôi nhà lớn nằm dưới thung lũng nhỏ Harabakken, bên bờ sông Nitelva yên tĩnh, bên kia sông là cánh đồng cỏ mênh mông tiếp giáp với núi rừng. Cái khung cảnh có mang một chút hình dáng và màu sắc quê nhà giúp tâm hồn tôi yên ả hơn mỗi khi thấy lòng trăn trở, nhung nhớ một điều gì. Những lúc buồn, tôi ngồi hằng giờ trong bao lơn nhìn ra cánh đồng và rừng núi phía xa xa, để ngỡ là quê hương mình như đang ở phía bên kia triền núi đó. Và cũng chính nơi đây, tôi đã bắt đầu tập tễnh cầm bút viết lại cuộc đời mình, thế hệ mình, cuộc chiến bất hạnh và cuộc tang thương dâu biển mà cả miền Nam Việt Nam đã trải qua.

Ở đất nước bé nhỏ này và với số người Việt tị nạn khi ấy khoảng 10.000 người, nhưng có một số nhà văn, nhà thơ tiếng tăm: Nguyễn Thị Vinh, Dương Kiền, Hoài Mỹ, Nguyễn Hữu Nhật, Tâm Thanh, Khánh Hà, Cung Vĩnh Viễn, Nguyễn Văn Thà… Bán ngôi nhà cũ của kommune mua giúp lúc ban đầu mới đến, chúng tôi may mắn lời được một khoản tiền đủ để trả hơn một nửa số tiền mua ngôi nhà mới. Ngôi nhà này nằm ở một kommune khác. Khi vừa dọn về nhà mới được hai tuần, tôi nhận được một Ngân Phiếu Trả Tiền (Utbetalingskort) gởi từ Phòng Xã Hội của kommune cũ, cấp cho tôi một số tiền gần bằng 10 tháng lương của tôi lúc ấy. Tôi ngạc nhiên, vì số tiền khá lớn nên nghĩ là có điều gì nhầm lẫn. Cầm tấm Ngân Phiếu Trả Tiền, tôi đến gặp ông Trưởng Phòng Xã Hội. Ông cho biết đó là món tiền mà Sở Tỵ Nạn cấp để lo cho gia đình tôi, nhưng kommune không chi tiêu hết cho chúng tôi, vì con đông nên không đủ phòng ốc và đồ dùng ở ngôi nhà cũ, hơn nữa chúng tôi đã đi làm quá sớm sau khi đến Na-Uy, nên ông quyết định gởi cho chúng tôi để sắm sửa cho ngôi nhà mới. Đã vậy ông còn xin lỗi, vì đã không lo lắng đủ cho chúng tôi trong thời gian mới tới. Tôi bắt tay ông từ giã mà trong lòng cảm thấy ngậm ngùi, khi nghĩ là ở trên quê hương mình bây giờ biết tìm đâu ra những công chức chính quyền thanh liêm và giàu tấm lòng như thế?

(Ngôi nhà mới dưới thung lũng Harabakken-NaUy)

Trong thung lũng nhỏ này chỉ có bốn ngôi nhà. Ngoài gia đình tôi, một gia đình người bản xứ, còn có gia đình người Thụy Điển và một gia đình người Đức. Tất cả những người láng giềng này rất tốt bụng, sau này đều trở thành những người bạn thân thiết của gia đình tôi.

Gần 30 năm làm việc, tôi may mắn được sắp xếp làm ở những chi nhánh rất gần nhà. Được hưởng bậc lương tính theo thâm niên từ khi bắt đầu làm việc tại Việt Nam. Hầu hết những đồng nghiệp người bản xứ đều luôn thân tình, giúp đỡ. Điều làm tôi cảm phục hơn là sự thành thật và tin tưởng lẫn nhau của họ. Công việc mỗi ngày liên quan tới tiền bạc. Có thời gian mấy năm tôi được giao cho trách nhiệm thủ quỹ. Vào những ngày trước Giáng Sinh hay thời điểm trả thuế, số tiền trong tủ sắt lên đến nhiều chục triệu kroner. Mới đầu, tôi rất ngạc nhiên, khi giao một số tiền lớn cho mỗi kasse (quày), mà họ chẳng bao giờ kiểm lại. Có khi, một vài cô cậu sinh viên làm thêm vào các ngày thứ bảy, hay ngày lễ, làm mất đến mấy chục ngàn, họ vẫn không bị la rầy hay đuổi việc. Chúng tôi được học và dặn dò, nếu có cướp (cho dù biết vũ khí là đồ giả), hãy luôn làm theo yêu cầu của kẻ cướp, đừng bao giờ có ý chống lại. Nhưng điều này chưa hề xảy ra. Họ rất quý sinh mạng con người. Không phải như dưới chế độ Cộng Sản trên quê tôi, sính mạng con người chẳng khác gì cỏ rác!

(Giáng sinh trước khi ba cháu lớn đi du học Mỹ)

Trong gần 30 năm làm việc, tôi chưa hề thấy những ông “sếp” nặng lời với bất cứ một nhân viên nào cho dù khi họ làm sai, thất thoát ít nhiều tiền bạc. Chỉ cần viết một đôi dòng giải thích là đủ. Ngược lại, đôi lần, trong các buổi họp, tôi thấy một vài nhân viên lại khiển trách “sếp” chỉ vì một đôi điều không được hài lòng. Phải nói, đây là một quốc gia có tinh thần dân chủ cao độ. Tôi nhớ mãi chuyện vợ chồng ông chủ tịch quốc hội bị nhân viên quan thuế phi trường Oslo chặn lại và buộc nộp tiền phạt khi hai ông bà đi công cán ở nước ngoài về, và bà vợ mang trên tay một chiếc nhẫn hột xoàn quên khai báo. Một bà bộ trưởng quốc phòng, mặc bộ quân phục khi đến thăm binh sĩ Na-Uy đang tham gia chiến trường khói lửa A Phú Hãn, bị nhiều quân nhân phê phán, bảo bà không phải là quân nhân, nên không có quyền mặc quân phục. Bà đã phải lên truyền hình chính thức xin lỗi. Tôi nghĩ chẳng có quốc gia nào dân chủ hơn . Điều này làm tôi rất hãnh diện để được trở thành công dân của đất nước này. Và biết đến khi nào mới có được trên quê tôi?

Sau bậc trung học, bốn đứa con của chúng tôi muốn sang Mỹ du học. Khi được một đại học ở Mỹ chấp nhận, tất cả đều được chính phủ Na-Uy cấp học bổng đủ để trả học phí, tiền bảo hiểm và di chuyển, đến bậc Cao Học.Vợ tôi làm công nhân cho một công ty điện tử. Có lẽ vì nhiều năm chỉ làm một động tác, nên vai cánh tay phải bị đau nhức. Bác sĩ xí nghiệp cho nghỉ một năm có lương để điều trị và sau đó được một hội đồng giám định y khoa quyết định cho nghỉ vĩnh viễn với hưu bệnh. Lại được công ty bảo hiểm của xí nghịệp bồi thường một số tiền sai biệt so với lợi tức hằng tháng trước đó .

(Cháu trưởng nam Phạm Hoàng Minh và cháu gái út Phạm Ngọc Quỳnh sau khi tốt nghiệp Đại học)

Bây giờ, tuổi đã già, nhìn lại quá khứ thăng trầm khốn khó, nhớ lại từng bước chân lưu lạc, lòng tôi bùi ngùi xúc động. Quê hương vẫn còn mịt mờ xa, khốn đốn trong bàn tay cai trị của bọn người CS không còn nhân tính. Mai này, tôi cũng sẽ gởi lại trên quê hương thứ hai này nắm xương tàn, hướng đầu về cố quốc mà tạ tội cùng núi sông tiên tổ.

(Các cháu trai – gái đã trưởng thành và có gia đình riêng)

Những đứa cháu nội, ngoại của chúng tôi sinh ra và lớn lên ở Na-Uy, dù không có một kỷ niệm nhỏ nhoi nào với Việt Nam. nhưng vẫn mãi có những ràng buộc máu thịt, bởi cha ông là người Việt. Dù nói được tiếng Việt, nhưng các cháu không thể thấy gần gũi với quê cha đất tổ. Nhiều lúc tôi thấy chạnh lòng khi nghĩ rồi các thế hệ sau này càng lúc càng xa dần nguồn cội. Nhưng tôi cũng tự an ủi mình, vì các cháu lớn lên, nhận đất nước này là quê hương, sẽ cố gắng chăm chỉ học hành để vừa đóng góp phần trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, vừa trả cái ơn cưu mang từ những ngày đầu thời ông bà cha mẹ lưu lạc đến đây. Quan trọng hơn, sẽ học tấm gương những người Do Thái, nối tiếp công việc dang dở của cha ông, góp sức đấu tranh cho no ấm tự do trên quê hương tiên tổ.

(3 cháu nội nhỏ nhất trong ngày Quốc Khánh NaUy 17-5)

Xin cám ơn Na-Uy, đất nước xa xôi, lạnh lẽo, nhưng rất nồng ấm tình người. Nơi in đậm mãi những dấu chân lưu lạc của tôi và cả gia đình. Đã cho chúng tôi, nhất là các con cháu tôi, một tương lai tốt đẹp như hôm nay, mà nếu còn ở lại trong nước sẽ phải khốn cùng dưới chế độ phân biệt đối xử của chinh quyền Cộng Sản. Xin cám ơn Na-Uy, nơi mà tất cả những người Việt tỵ nạn đến đây sung sướng và hãnh diện để được nhận là quê hương thứ hai của mình sau ngày phải đành lòng bỏ nước ra đi.

Một ngày buồn cuối tháng 4, sau đúng 38 năm lưu lạc.

Phạm Tín An Ninh

Đảng quên mất “khúc ruột ngàn dặm” Lê Thị Trang Đài

Đảng quên mất “khúc ruột ngàn dặm” Lê Thị Trang Đài

Jackhammer Nguyễn

29-5-2022

Tân dân biểu Lê Thị Trang Đài. Nguồn: Website nhân vật

Tháng 5 này, tin vui đến với cộng đồng người Việt Nam tại hải ngoại và có thể ở trong nước nữa, là bà Lê Thị Trang Đài, một người Úc gốc Việt đắc cử, trở thành dân biểu liên bang Úc. Bà là người Việt đầu tiên ở Úc đắc cử vào vị trí này.

Chiến thắng của bà Đài (tên trên giấy tờ ở Úc của bà là Dai Le) lại còn có ý nghĩa hơn nữa, khi bà là một ứng cử viên độc lập, không dựa vào bộ máy và thế lực của hai đảng chính trị lớn ở Úc là đảng Lao Động (Labor) và đảng Tự Do (Liberal). Bà Dai Le thắng cử ở khu vực có đông người châu Á, trong đó có nhiều người gốc Việt cư ngụ.

Sau khi đọc tin tức cùng nhiều bình luận trên báo chí Úc về bà Dai Le, tôi tìm đọc tin tức từ báo chí Việt Nam trong nước, do Đảng Cộng sản Việt Nam quản lý, xem họ viết gì. Thường thì các tờ báo lớn đều có một mục đại loại như là Người Việt năm châu, Kiều bào khắp nơi… Thế nhưng, không có một dòng nào nói về bà Dai Le cả!

Còn nhớ, hồi ông Cao Quang Ánh trở thành người Việt đầu tiên trở thành dân biểu liên bang Mỹ, báo Việt Nam trong nước cũng có đôi bài về ông. Thường là khi có người Việt thành công ở đâu đó, trong lãnh vực nào đó, thì báo Việt Nam trong nước có bài. Mà không chỉ những nhân vật khoa học gia, doanh nhân… kể cả các chính trị gia (hoàn toàn khác với giới chính trị của Đảng Cộng sản) cũng được nhắc tới.

Thế sao họ lại không nhắc tới bà Dai Le nhỉ?

Xem kỹ tin tức, tôi đoán là có thể có hai nguyên nhân. Thứ nhất, bà Dai Le là người từng vận động cho lá cờ vàng ba sọc đỏ của nước Việt Nam Cộng hòa, tức là miền Nam Việt Nam trước năm 1975, được công nhận là lá cờ đại diện cho cộng đồng người Việt tại Úc, mà nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay ghét cay ghét đắng lá cờ này.

Lý do thứ hai có thể là bà Dai Le thắng cử, sau vụ tháu cáy của ngài đương kim thủ tướng Việt Nam, Phạm Minh Chính. Ông Chính nói với một số người gọi là “kiều bào” tại bờ đông nước Mỹ rằng “thành công của đồng bào Việt Nam tại Mỹ cũng là thành công của đường lối đối ngoại của Đảng và nhà nước Việt Nam” (sic).

Cú tháu cáy của ông Chính dữ dội quá, gây ra phản ứng cũng dữ dội. Một quan sát của BBC Việt ngữ cho thấy, nhóm người Mỹ gốc Việt trung lưu giận dữ, nói ông Chính thấy sang bắt quàng làm họ, rằng chính do đảng Cộng sản Việt Nam giam cầm đày đọa những người Việt Nam Cộng hòa sau năm 1975, để họ phải bỏ nước ra đi, vất vả mưu sinh nơi xứ người. Nay họ thành công thì lại nhào vô nhận vơ.

Cũng theo BBC, những người Mỹ gốc Việt trung lưu này không phải là những người chống cộng cực đoan, họ hiếm khi tham gia các cuộc biểu tình chống các quan chức Việt Nam, cũng ít tham gia vào các hội đoàn chống cộng hải ngoại.

Cú tháu cáy của ông Chính làm cho họ bực mình, đánh thức tinh thần chống cộng truyền thừa từ cha mẹ thuyền nhân, hay tù cải tạo. Lợi bất cập hại quá!

Có lẽ vì thế, sau cú tháu cáy ấy, cơ quan tuyên giáo, vốn chỉ huy toàn bộ báo chí trong nước, ra lệnh phải im lặng chuyện bà Dai Le trúng cử dân biểu Úc chăng? Chứ chẳng lẽ một người vận động cho lá cờ vàng lại là một thành công của Đảng sao!

Cũng có thể ông Chính không tháu cáy mà là ông Chính tưởng thật, rằng người Việt ở Mỹ chỉ toàn là những người ngày xưa phản chiến cả, và bây giờ thì toàn là du học sinh từ trong nước qua. Một sự hiểu sai như vậy vẫn thường xuyên xảy ra ở những chế độ có các cá nhân có quyền sinh quyền sát trong tay. Họ được thủ hạ nói về những điều họ muốn nghe, và thế là họ tưởng thật. Nếu điều này đúng trong trường hợp ông Phạm Minh Chính thì chắc ông giận lắm.

Nhưng tôi nghiêng về khả năng ông Chính tháu cáy hơn.

Chúng ta thấy rằng du học sinh từ Việt Nam sang Mỹ ngày càng đông, đa số họ không muốn trở về nước. Rồi người Việt trong nước đi định cư theo diện sum họp gia đình, kể cả những người có gốc gác từ thời mồ ma “miền Bắc xã hội chủ nghĩa”. Những người này ảnh hưởng rất mạnh từ “nền giáo dục” hồng hồng chuyên chuyên của đảng cộng sản. Bên cạnh đó, tầng lớp thuyền nhân, cựu tù cải tạo ở Mỹ ngày càng ít đi. Thế cho nên đảng cộng sản Việt Nam, thừa thắng xông lên, tung ra cú tháu cáy của thủ tướng Chính, cho nó oai, tạo nên một dư luận (narrative) mới, rằng thì là hơn hai triệu người Việt là con dân của … Đảng cả.

Thế nhưng, thế hệ con cháu các thuyền nhân và cựu tù cải tạo, hiện là nòng cốt của cộng đồng người Mỹ gốc Việt, chứ không phải nhóm … “Việt kiều yêu nước” ngày xưa, mà cũng không phải là nhóm du học sinh từ Việt Nam. Mà con cháu của những người phản chiến ngày xưa, hay là những du học sinh ở lại Mỹ ngày nay, chắc gì thân tình với Đảng! Những người lớn lên trong lòng xã hội cộng sản có khi chống cộng còn dữ dội hơn những người con cháu thuyền nhân và tù cải tạo, vì họ hiểu rõ chế độ ấy xã hội ấy.

Bởi thế, tôi nghĩ rằng cú tháu cáy của ngài thủ tướng Việt Nam đã thất bại.

Nhưng sao lại phải tháu cáy nhỉ? Nếu ngài thủ tướng thật lòng mong muốn người gốc Việt ở Mỹ hướng về quê cũ, chỉ cần ngài đàng hoàng là được. Đàng hoàng là gì? Là đừng bắt bỏ tù dân chúng trong nước vô cớ, đừng giả dạng bầu cử để cầm quyền… và dĩ nhiên là đừng tháu cáy.

Một việc mà tôi nghĩ cũng là việc đàng hoàng mà ngài thủ tướng nên làm là, viết lại lịch sử Việt Nam như nó đã từng như thế. Tức là sau năm 1975, Đảng bắt nhốt hàng trăm ngàn người và đày họ vào các trại tù khổ sai không án với cái tên mỹ miều là “cải tạo”, và rằng có cả trăm ngàn người Việt bỏ mình trên biển trong cuộc tháo chạy khỏi đất nước.

Ngài thủ tướng cứ viết trung thực đi, “sợ mẹ gì”!

 Bác Sĩ Albert B. Sabin

 Bác Sĩ Albert B. Sabin

Cách đây đúng 64 năm, năm 1957, một vị Bác sĩ đã quyết định không cần cấp bằng sáng chế cho vắc-xin của mình, để tất cả các công ty dược phẩm được quyền sản xuất và cung cấp vắc-xin cho trẻ em toàn thế giới.

 Đó là vị Bác sĩ Mỹ gốc Do Thái/Ba Lan, sinh ra ở Bialystok – ông Albert Bruce Sabin (1906 – 1993); nhà vi-rút học nổi tiếng với phát minh vắc-xin bại liệt (Polio Vaccine). Ông không cần tiền thưởng cho bằng sáng chế, để vắc-xin được tiếp cận tất cả mọi người bất kể giàu nghèo.

Từ năm 1959-1961, hàng triệu trẻ em khắp thế giới đã được chủng ngừa vắc-xin bại liệt của Sabin, dập tắt dịch bệnh này. Trong khi trước đó, gần như cả 1 thế hệ bị xóa sổ vì bệnh bại liệt.

Ông Sabin nói: “Nhiều người khuyên tôi nhất định phải lấy bằng sáng chế cho vắc-xin nhưng tôi không muốn. Đây là món quà tôi dành cho tất cả trẻ em trên thế giới”.
Được biết vì là người Do Thái, 2 cháu gái của ông đã bị phát-xít Đức giết hại. Được hỏi liệu ông có muốn trả thù, ông đáp: “Họ đã giết 2 đứa cháu gái tuyệt vời của tôi, nhưng tôi đã cứu hàng triệu đứa trẻ khắp thế giới. Bạn không nghĩ đây là một sự ‘trả thù’ lớn hơn sao?”
 

Trong thời Chiến tranh lạnh, Sabin đã tặng miễn phí các chủng vi-rút của mình cho nhà khoa học Liên Xô Mikhail Chumakov, cho phép phát triển vắc-xin của ông ở đất nước này.

 Ông Sabin tiếp tục sống với mức lương bình thường, nhưng trái tim ông tràn ngập niềm vui vì đã làm được điều tốt đẹp nhất cho nhân loại.

From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen

Gia đình thiên tài, 10 đứa con đều vào đại học trước năm 13 tuổi

 Gia đình thiên tài, 10 đứa con đều vào đại học trước năm 13 tuổi

Bố mẹ của những đứa trẻ này khẳng định con của mình không phải thiên tài, thay vào đó họ cho rằng chế độ giáo dục tại nhà đã mang lại hiệu quả cao trong việc học của bọn trẻ.

Gia đình Monalisa Harding sống ở San Jose, California, Mỹ khiến cho mọi người vô cùng sửng sốt khi cho những đứa con của mình học tại nhà thay vì cho bọn trẻ đến trường học truyền thống.
Họ biết rằng, mình đã đi đúng hướng khi 3 đứa con đầu tiên đều vào đại học năm 13 tuổi và những đứa con khác cũng có thành tích xuất sắc không kém.

Đứa con lớn nhất của gia đình là Hannah đã lấy bằng cử nhân Toán học ở tuổi 17 tại Đại học Auburn, Montgomery vào năm 2004. Điều này khiến cô bé trở thành thần đồng trong mắt mọi người. Năm ngoái, đứa con út Thunder (11 tuổi) đã đỗ đại học cùng lúc với người anh thứ Lorennah (13 tuổi) đang học năm thứ 2.
Những người trong số anh chị em nhà Harding đã tốt nghiệp đại học đã trở thành bác sĩ, kiến trúc sư, nhà thiết kế tàu vũ trụ và luật sư.

8 trong số các anh chị em nhà Harding đã tốt nghiệp đại học năm 15 hoặc 16 tuổi và tất cả đều học đại học trước khi 13 tuổi.

Mariannah (16 tuổi) tốt nghiệp đại học gần đây nhất, hiện đang nộp đơn xin học thạc sĩ. Seth Harding (20 tuổi) người con thứ 6 trong gia đình vừa trở thành luật sư trẻ nhất Alabama ở tuổi 19, sau khi lấy bằng luật và vượt qua các kỳ thi chuyên môn trong thời kỳ đại dịch.

 Mặc dù những thành tích của 10 đứa con đều rất xuất sắc nhưng người mẹ Monalisa khiêm tốn khẳng định các con của bà không phải thiên tài. Bà cho biết thành công của con cái là nhờ học tại nhà hiệu quả hơn việc đến trường học.

Monalisa nói: “Bản chất của giáo dục tại nhà rất hiệu quả, ai cũng có thể làm được. Bố mẹ ưu tiên việc học của con cái hơn tất cả. Chúng tôi không phải là một gia đình giàu có nên phải có sự hy sinh thời gian để dạy dỗ con cái. Khi bạn nuôi dạy những đứa trẻ trong một môi trường học tại nhà và làm việc chăm chỉ, con cái sẽ noi gương bố mẹ, cố gắng học tập”.
Tất cả những đứa con nhà Harding đều cực kỳ chăm chỉ và tiến bộ mỗi ngày. Năm 2014, cặp vợ chồng này đã phát hành cuốn sách có tựa đề “The Brainy Bunch”, chia sẻ kinh nghiệm và phương pháp giáo dục hiệu quả nhất cho con cái.
   

Cuốn sách này chỉ ra những ưu và nhược điểm của việc học tại nhà, cũng như đưa ra những lời khuyên chân thành dành cho các bậc cha mẹ muốn làm điều tương tự.

2 vợ chồng nhà Harding từng là quân nhân trước khi làm việc trong chính phủ. Có lẽ vì thế phương pháp giáo dục của họ cũng có phần đặc biệt so với số đông.

Với sự thành công của con cái, họ đã có những buổi chia sẻ kinh nghiệm giáo dục trên khắp nước Mỹ, thậm chí còn đến cả Nhật Bản.

Monalisa nói thêm: “Chúng tôi đã có khoảng thời gian tuyệt vời nhất khi đi du lịch khắp nơi và giúp đỡ những gia đình khác muốn cho con cái họ học tại nhà.

Điều đó thực sự tuyệt vời bởi vì chúng tôi đặt cả trái tim và tâm hồn của mình vào con cái. Chúng tôi biết mọi người ngưỡng mộ điều đó và muốn làm điều tương tự.

Điều quan trọng là phải tìm ra sự cân bằng giữa việc không gây quá nhiều áp lực cho con cái và đảm bảo chúng phát huy hếổt khả năng của mình.

Bây giờ chúng tôi chỉ còn Thunder và Lorennah đang học đại học. Cuối cùng, chúng tôi đã có thể nghĩ về việc dành thời gian cho bản thân nhiều hơn”.
Những thành tựu của các con nhà Monalisa Harding đạt được như sau:

1. Hannah (34 tuổi) lấy bằng cử nhân toán năm 17 tuổi tại Đại học Auburn ở Montgomery.
2. Rosannah (32 tuổi) lấy bằng cử nhân kiến trúc tại trường Cao đẳng Nghệ thuật California ở San Francisco năm18 tuổi.
3. Serennah (30 tuổi) lấy bằng cử nhân sinh học tế bào tại trường Cao đẳng Huntington ở Montgomery, Alabama khi mới 17 tuổi.
4. Heath (26 tuổi) có bằng cử nhân tiếng Anh. Anh lấy bằng cử nhân tiếng Anh năm 15 tuổi tại trường Cao đẳng Huntington, sau đó lấy bằng thạc sĩ khoa học máy tính năm 17 tuổi tại trường đại học Troy ở Montgomery.
5. Keith (23 tuổi) lấy bằng cử nhân âm nhạc tại Đại học Faulkner ở Montgomery Alabama vào năm 15 tuổi, sau đó lấy bằng thạc sĩ ở tuổi 17.
6. Seth (21 tuổi) lấy bằng cử nhân khoa học chính trị tại trường Cao đẳng Huntington năm 16 tuổi.
7. Katrinnah (18 tuổi) lấy bằng cử nhân khoa học chính trị năm 15 tuổi từ trường đại học Huntington, hiện đang theo học trường luật.
8. Mariannah (16 tuổi) lấy bằng cử nhân khoa học sức khỏe tại Đại học Bellevue ở Nebraska ở tuổi 16.
9. Lorennah (13 tuổi) là sinh viên đại học năm thứ 2 tại Đại học Bellevue.
10. Thunder James (11 tuổi) là sinh viên năm nhất đại học cũng tại Đại học Bellevue. 

From: KittyThiênKim & KimBang Nguyen                                                                                                                                                                                                                                             

Winston Phan Đào Nguyên ra mắt sách minh oan cho cụ Phan Thanh Giản

Winston Phan Đào Nguyên ra mắt sách minh oan cho cụ Phan Thanh Giản

May 18, 2022

Văn Lan/Người Việt

WESTMINSTER, California (NV) – Buổi ra mắt sách “Phan Thanh Giản và vụ án Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân” (Họ Phan, họ Lâm bán nước, triều đình bỏ rơi dân chúng) của Luật Sư Winston Phan Đào Nguyên, với nhiều chứng cứ và tình tiết mới, được công bố trong buổi hội thảo tại Viện Việt Học, Westminster, hôm Chủ Nhật, 15 Tháng Năm.

Luật Sư Winston Phan Đào Nguyên. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Diễn giả chính của buổi hội thảo, Luật Sư Winston Phan Đào Nguyên cũng chính là tác giả cuốn sách ra mắt, cùng với sự tham gia của nhà văn Phạm Phú Minh, Giáo Sư Nguyễn Trung Quân, và nhà báo Phan Thanh Tâm.

Tại buổi hội thảo, một số sách xưa và nay viết về cụ Phan Thanh Giản, vị tiến sĩ đầu tiên của triều đình nhà Nguyễn, cùng một số chứng cứ, những sử liệu, những công văn của miền Bắc đề cập tới vụ án này, và có cả những văn thư từ hải ngoại để phản bác vụ án.

Cuốn sách có ba phần gồm: Phần thứ nhất, giới thiệu sơ về vai trò của câu “Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân” đã được dùng như một bản án, một bằng chứng, và là cách để bác bỏ đơn xin khoan hồng của những người kêu gọi cứu xét lại cho cụ Phan, khi các sử gia miền Bắc vào năm 1963 lên án cụ Phan trên tờ Nghiên Cứu Lịch Sử do ông Trần Huy Liệu, viện trưởng Viện Sử Học Miền Bắc, cũng là tổng biên tập của tờ báo này. “Mọi chuyện bắt đầu từ đó khi các sử gia miền Bắc đều dùng câu ‘Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân’ để lên án cụ Phan Thanh Giản là người ‘bán nước’ và ‘đầu hàng Pháp,’” Luật Sư Nguyên dẫn chứng.

Tác giả Winston Phan Đào Nguyên ký tặng sách “Phan Thanh Giản và vụ án ‘Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân’” cho độc giả. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Phần thứ ba cuốn sách chứng minh rằng ông Trần Huy Liệu cũng chính là tác giả của chuyện Lê Văn Tám, và cũng chính là người đã sáng chế ra câu này để lên án cụ Phan.

Trong phần thứ hai cũng là phần chính của cuốn sách, tác giả muốn nói đó là sự ngụy tạo lịch sử của ông Trần Huy Liệu về cụ Phan.

Có sự kỳ thị Nam Bắc?

Tại sao miền Bắc chỉ lên án hai nhân vật quan trọng của miền Nam là Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký, có sự kỳ thị Nam Bắc không?

Theo sự nghiên cứu của Luật Sư Nguyên thì miền Bắc không kỳ thị Nam Bắc, vì họ đã từng ngợi khen những người như Trương Định, Nguyễn Đình Chiểu là những người chủ trương đánh Pháp tới cùng.

“Nói cách khác thì miền Bắc chỉ khen những người miền Nam theo chính sách chủ chiến như họ, và ngược lại họ lên án những người theo chính sách ngoại giao chủ hòa như Phan Thanh Giản. Đó là lý do tại sao chúng ta nghe có câu ‘Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân,’ và có sự tuyên án trong phiên tòa lên án Phan Thanh Giản,” Luật Sư Nguyên giải thích.

Từ trái, nhà văn Phạm Phú Minh, nhà báo Phan Thanh Tâm, Luật Sư Winston Phan Đào Nguyên, và Giáo Sư Nguyễn Trung Quân trong buổi hội thảo. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

“Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân” câu thần chú vạn năng

Theo Luật Sư Phan Đào Nguyên, câu “Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân” có rất nhiều công dụng, ông gọi là “câu thần chú vạn năng.” Mỗi khi các sử gia miền Bắc muốn lên án cụ Phan về bất cứ điều gì thì cứ đem câu này ra, nó là bản án, là bằng chứng, là cách để bác bỏ đơn xin khoan hồng cho cụ Phan.

“Câu thần chú này tại sao hay như vậy, nó được dùng trong trường hợp nào, câu chuyện quanh nó như thế nào? Theo ông Trần Huy Liệu kể, thì nó xảy ra năm 1861 sau khi Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ và tiếp theo sau đó 1862 chiếm luôn tỉnh Vĩnh Long,” ông Nguyên nói.

“Triều đình nhà Nguyễn muốn thương thuyết với Pháp mới có Hòa Ước Nhâm Tuất 1862, nên đồng ý cắt hết ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp, nhưng trong đó có Điều 11 là triều đình nhà Nguyễn có thể lấy lại tỉnh Vĩnh Long, nếu kêu gọi được các lãnh tụ kháng chiến như Trương Định phải giải giáp, bãi binh thì Pháp phải trả lại tỉnh Vĩnh Long, đó là lý do có câu ‘thần chú vạn năng’ của ‘sử gia’ Trần Huy Liệu,” Luật Sư Nguyên cho biết.

Nhà báo Phan Thanh Tâm: “Ông Trần Huy Liệu đã dựa vào sự bịa đặt để kết án Phan Thanh Giản.” (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Khái niệm “Địch, Ta” của sử gia Trần Huy Liệu

Luật Sư Nguyên cho biết Trần Huy Liệu vẽ ra bức tranh lịch sử với sự gán ghép khái niệm “địch, ta,” khi trước đây ta là người Việt, còn địch là người Pháp. Nhưng với ông Trần Huy Liệu và các sử gia miền Bắc thì ta là nhân dân mà đại diện là nghĩa quân chống Pháp, còn địch là Pháp và triều đình nhà Nguyễn, đặc biệt là Phan Thanh Giản.

“Năm 1955 ông Trần Huy Liệu đã tung ra khái niệm ‘địch, ta,’ vì sau khi Hiệp Định Geneve 1954 chia ra hai miền Bắc Nam, vì không có tổng tuyển cử nên miền Bắc phải dùng vũ lực quyết đánh chiếm miền Nam, do đó họ đặt ra việc phải lên án triều đình nhà Nguyễn và cụ Phan Thanh Giản là ‘địch’ đã bắt tay với Pháp. Sau này thì chính quyền miền Nam với Mỹ là ‘địch,’ còn ‘ta’ là nhân dân và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam,” Luật Sư Nguyên chỉ rõ.

“Nhưng sau khi nghiên cứu thật kỹ các tài liệu lịch sử thời đó, thì thấy thật ra không phải chỉ có phe ‘địch’ và ‘ta,’ mà còn có một phe thứ ba đó là phe ‘nhân dân’ mà ông Trần Huy Liệu đặt ra. Lịch sử không thể dựa vào những việc đơn giản hoặc những câu nói chưa đúng sự thật. Trong thời điểm đó, chính Phan Thanh Giản mới là người bảo vệ dân, và người dân lúc ấy rất tôn sùng ông,” Luật Sư Nguyên nói.

Hòa Ước Nhâm Tuất 1862 có 12 điều khoản, trong đó có Điều 11 là điều chính yếu quan trọng nhất, mà Phan Thanh Giản đã đàm phán và được Pháp chấp nhận, với kết quả là Pháp phải trả lại tỉnh thành Vĩnh Long cho triều đình nhà Nguyễn mà không thấy ai nhắc tới.

“Trong khi đó, những ‘sử gia’ người Việt như ông Trần Huy Liệu thì lại do không thèm, không chịu hay không muốn đọc Hòa Ước 1862, nên đã mạnh miệng tuyên bố rằng cả 12 điều của nó đều là sự nhục nhã cho nhà Nguyễn, để quy hai trọng tội ‘đầu hàng’ và ‘mãi quốc’ cho Phan Thanh Giản” (trang 131 sách đã dẫn).

Buổi hội thảo “Vụ Án Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân” trong không khí sôi nổi. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Nhà báo Phan Thanh Tâm cho biết: “Tháng Tám, 1963, ông Trần Huy Liệu đã tổ chức một tòa án để lên án cụ Phan Thanh Giản, dựa vào câu ‘Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân’ là một nguồn dư luận để kết án một danh nhân đất nước,… họ đã dựa vào sự bịa đặt để lên án cụ Phan. Và Tháng Giêng, 2022, Ban Tuyên Giáo Đảng Cộng Sản đã ra công văn, không được lấy tên Phan Thanh Giản và Trương Vĩnh Ký để đặt tên đường, phố, và công trình công cộng!”

Dược Sĩ Bùi Hoàng Ân, cựu học sinh trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ, một nhân chứng trong vụ đập phá tượng cụ Phan tại sân trường, kể lại câu chuyện như sau: “Năm 1972 tôi gia nhập Quân Y Hải Quân, Khối Quân Y, Bộ Tư Lệnh Hải Quân Sài Gòn. Sau 1975 tôi trở về quê Cần Thơ, bị tập trung đi tù cải tạo ngay tại ngôi trường xưa của mình. Khi bước vô trường tôi bàng hoàng khi thấy bức tượng cụ Phan, vì lúc tôi còn học ở trường thì chưa có bức tượng này. Khi trình diện xong tôi bước tới để đọc mấy hàng chữ khắc dưới bệ tượng: “Khí thiêng sông núi xương máu tiền nhân/ Trái tim cha mẹ tấm lòng thầy cô/ Ôi những kỳ quan rạng ngời vũ trụ/ Thâm ân vô lượng tâm niệm muôn Thu.”

“Tập trung ở trường Phan Thanh Giản đến khoảng Tháng Sáu, 1975, tôi chứng kiến cảnh bộ đội miền Bắc dùng búa đập phá bức tượng cụ Phan bằng đồng, tiếng búa đập chát chúa vào bức tượng xen lẫn tiếng sấm chớp đầu mùa mưa Tháng Sáu, nghe như tiếng gầm phẫn nộ từ cuối chân trời,” ông Ân kể tiếp.

“Trần Huy Liệu là một sử quan, lại là bộ trưởng Bộ Tuyên Truyền, chính là người sáng tác ra chuyện cậu bé Lê Văn Tám. Ngay trong đêm cụ Phan uống thuốc độc tuẫn tiết, thì tất cả những cây bần tại ngã ba sông vùng đó đã ngã quỵ xuống, vì thế người dân đã đặt tên là Ngã Ba Bần Quỳ, hiện giờ tên đó vẫn còn, tức là trong lòng người dân vẫn còn cụ Phan,” ông Ân xúc động nói.

Buổi hội thảo ra mắt sách đã đưa ra nhiều chứng cứ mới trong vụ án “Phan Lâm Mãi Quốc, Triều Đình Khí Dân” với sự tham dự thật đông của những người muốn tìm hiểu lịch sử, để mang lại công đạo cho cụ Phan Thanh Giản, khi thời gian 160 năm trôi qua với nhiều điểm sai lệch trong vụ án ít ai ngờ. [qd]

Hành trình nhân chứng đức tin của học giả, ông tổ nhà báo Trương Vĩnh Ký, người biết 27 ngoại ngữ.

Nhật Duy 

Hành trình nhân chứng đức tin của học giả, ông tổ nhà báo Trương Vĩnh Ký, người biết 27 ngoại ngữ.

Phó tế Phạm Bá Nha

12/May/2022

Về mặt tôn giáo, nhiều người có cái nhìn chung về Petrus Trương Vĩnh Ký, là người vừa có lòng yêu nước vừa là tín hữu trung kiên tốt lành:

– Ông Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố viết: Cái gì đã hỗ trợ Petrus Ký trong nhiệm vụ; cái gì đã tạo nên hiệu quả cho những nỗ lực của ông cũng như sự thống nhất đời ông, đấy chính là tình YÊU NƯỚC của ông, tình yêu xứ Nam Kỳ mà ông thường gọi đùa là MẸ TH N YÊU.

– Ông Jean Bouchet, sử gia Pháp đã viết kỹ hơn: Ta nhìn lại và rút tỉa ở cuộc đời tiên sinh một bài học qúi giá về lòng tin tưởng ở sức mạnh của chí cương quyết. Sự tin tưởng ấy chiến thắng tất cả mọi trở lực, miễn là nó bền bỉ và quả quyết. Thật là đẹp đẽ cuộc đời cần cù của tiên sinh, cuộc đời đem vinh dự về cho làng mạc quê hương và cho cả nước VN, nơi tiên sinh đã để lại nhiều công trình, nỗ lực lớn lao… Cuộc đời của tiên sinh tóm trong mấy chữ: bác học, tâm thuật và khiêm nhượng’’. (Jean Bouchot, Petrus Ký, savant et patriote cochinchinois. Nguyên Hương dịch: Petrus Trương Vĩnh Ký, một học giả Nam Kỳ, Saigon 1925 tr. 171)

– Tác giả Nguyên Hương cho rằng: Petrus Ký là tín đồ mộ đạo, nhưng không say mê cuồng tín, yêu nước nhưng trước thực trạng bi đát của nước nhà Trương Vĩnh Ký sáng suốt như ước đoán được những ngày tàn tạ suy vong khó tránh được cho xứ sở, nếu không kịp thời báo nguy. (Nguyên Hương. Petrus Trương Vĩnh Ký. Văn Hóa Tập San. tập XIV, tr. 1713)

– Ông Hồ Hữu Tường ghi nhận: Riêng đối với nhà trí thức Trương Vĩnh Ký, chuyến đi Pháp đánh dấu một cái quanh trọng đại trong tâm tình. Ở Pháp ông đã tiếp cận với nhiều nhà trí thức và xuyên qua những nhân vật này ông làm quen với những trào lưu tư tưởng tiến bộ u Châu. Là con chiên ngoan đạo, Trương Vĩnh Ký được vạch mây mù mà thấy được Thiên Chúa giáo nguyên thủy. Qua Mặc dù những tác phẩm về Thiên Chúa giáo nguyên thủy bị Tòa Thánh Vatican cấm đọc. Nhưng ông đã lén đọc và tiêm nhiễm cái tinh thần phục vụ đại chúng bình dân và nghèo khổ, mà Đức Giêsu và 12 Tông Đồ khi lập giáo đã truyền bá. Đây là một cuộc thay đổi âm thầm trong tâm tư. (Hồ hữu Tường, thuyết trình tại Trung Tâm Văn Bút Sàigòn, 28-7-1974).

– Quan thông ngôn Lê Phát Đạt gặp Petrus Ký sống trong cảnh thanh bần đã khoe tài làm giàu của mình, Petrus Ký khuyên: ‘‘Này cháu ơi, chớ vội vui mừng. Đương lúc vui, nên gẫm mà buồn lần lần đi. Đến khi nguy khốn dễ đuổi tan sầu não. Trong khổ cực, là biết nghĩ đến vui mừng, thì hãy vui. Việc gì cũng có trả có vay’’. (Hồ Hữu Tường, Hiện tượng Trương Vĩnh Ký, Bách Khoa Giai Phẩm, số 414, 1974).

Qua những nhận xét trên, trong bài này trình bày về Trương Vĩnh Ký là nhân chứng về sống đức tin trong thời kỳ bách đạo.

ĐẦU XANH ĐÃ VƯƠNG TỘI TÌNH GÌ?

Bà Nguyễn Thị Châu, người Cái Mơn, Vĩnh Long, là thân mẫu của nhà bác học Trương Vĩnh Ký (1837-1898) lập gia đình với ông Trương Chánh Thi, trở lại đạo Công Giáo và là võ quan dưới triều Minh Mạng, trấn đóng biên giới Cao Miên. Từ ngày lấy chồng, một mình ở nhà nuôi con. Con gái lớn mất khi còn nhỏ, trong thời gian chồng đi lính xa. Khi chồng về thì con gái đầu lòng đã chết mà chưa kịp đặt tên. Rút kinh nghiệm, lần này khi trả phép ông dặn vợ đặt tên cho những người con kế là: Sử, Ký, Đại, Việt. Vì thế, bà có hai con trai tiếp là Trương Chánh Sử và Trương Vĩnh Ký.

Ông Thi đã được cố Hòa, linh mục Thừa Sai đã dạy giáo lý, rửa tội và kết duyên nên nghĩa vợ chồng qua phép hôn phối. Chú rể đã 30 tuổi, cô dâu mới 18 xuân xanh. Một sự giằng co quyết liệt trong con người ông Thi là: Đã là quan thì phải bỏ đạo. Đây ông lại theo đạo lấy một tín đồ đạo gốc. Vì thế viên sỹ quan này là cái gai trong triều đình bấy giờ.

Trương Vĩnh Ký sinh ngày 06-12-1837, tại Cái Mơn, Vĩnh Long. Tên rửa tội là Jean Baptiste, tên thêm sức là Petrus. Vừa mới lọt lòng mẹ, bé chưa kịp khóc, thì Cái Mơn đã chìm trong mùa lửa cháy. Lửa bốc cháy khắp nơi, nên mẹ bé chỉ kịp vơ vội chiếc áo của chồng cuốn cho con, chạy xuống chiếc xuồng nhỏ theo ông bà ngoại chạy thoát quân lính triều đình truy bắt. Sau một ngày, ông ngoại dựng tạm chiếc lều tre trên bãi đất trống cho mẹ con thơ nương thân. Trong căn lều này, bé đã khóc 9 ngày 9 đêm. Cả nhà chỉ còn biết cầu nguyện. Ông ngoại của bé đã chuẩn bị cho bé chiếc quan tài bằng gỗ mít. Tới ngày thứ 10, bé im tiếng khóc. Được tin vợ sanh, ông Thi về thăm, thấy con ông ôm con khóc lặng người. Thời kỳ này, Minh Mạng ra 3 chỉ dụ ngày 06-01-1833, và ngày 25-01-1836 nhằm: ’’triệt hạ tận gốc tín đồ Gia Tô’’; và chỉ dụ ’’sát tả’’ ngày 05-06-1938. (Trương Vĩnh Ký, bi kịch muôn đời. Chương 1)

Năm Ký lên 3, bố về thăm và trước khi đi, ông xin ông ngoại đổi tên con là Trương Vĩnh Ký thay vì có chữ lót như Trương Chánh Ký. Không ngờ đó là lần cuối cha con vĩnh biệt nhau.

Năm 1840, mới lên 3 tuổi, Ký mang trên đầu 3 chiếc khăn tang: tháng 2, bà ngoại mất vì kiết lỵ. Tháng 6, ông ngoại bị lính triều đình đập vồ vào đầu, óc phụt ra ngoài, xác bị ném xuống rạch Cái Mơn. Tháng 9, đầu thời Thiệu Trị, bãi bỏ việc bảo hộ Cao Miên, và do sắc chỉ cấm đạo buộc binh lính, quan chức trong triều bỏ đạo. Lãnh binh Trương Chánh Thi về qui ẩn tại Cái Mơn và qua đời tại đây. Ông về vào đúng lúc làng quê đổ nát, tan tành, 20 người bị chém đầu, bị treo cổ, bị cột đá buông sông Cổ Chiên, 3 người bị lăng trì.

LỚN LÊN TRONG ĐỨC TIN

Đang lúc dân chúng tán loạn, Bà Châu ẵm vội hai anh em Sử-Ký chạy thoát khỏi vòng lửa đạn. Bà Châu tay dắt bé Sử, 4 tuổi, bên hông ẵm bé Ký. Ba mẹ con chạy dọc theo bờ rạch, thì có ông lão giả dạng chài lưới, gọi với rồi chở ba mẹ con đến một đống rơm ở đầu thôn. Ông bắt 3 người chui vào đấy. Ba mẹ con ở trong đó 3 ngày 3 đêm. Ngày ngày ông lén lút đem dúi cho giỏ cơm với mắm tép rang mặn. Sau khi tình hình yên ổn, ông đem ba mẹ con về dựng lều trên nền đất tro tàn đổ nát của thôn làng cũ. Mẹ góa con côi sống qua ngày. Ông lão chài kia bà đã nhận ra không ai xa lạ đó là thầy đồ Học, người Phật giáo và trí thức, không chịu ra làm quan. Ông mở lớp dạy trẻ con trong làng, về chữ thánh hiền. Những ngày êm ả này, có thày giảng tên Tám lui tới dạy kinh bổn. Còn anh em Sử đến nhà thày Học để học chữ. Ở nhà bà Châu dạy con về tục ngữ ca dao bằng những bài hát ru con. (sđd. Chương 2 và 3)

Đầu thời vua Thiệu Trị, việc ‘‘sát tả’’ giảm. Dân chúng dễ thở hơn. Gia đình bà Châu thật hạnh phúc. Cậu Sử khôn ngoan lanh lợi. Ký thông minh, sáng suốt trước mọi vấn đề. Đó là điều an ủi cho bà Châu. Thày Học thuyết phục bà Châu đem được Sử lên tỉnh Vĩnh Long học. Ký ở nhà vùi đầu vào thùng sách của bố để lại. Vì xưa bố là quan văn mà phải hành sự như là quan võ. Trong thùng sách có cuốn Thánh Kinh bằng tiếng La tinh, Ký không đọc được. Nhưng may quá thày Tám dạy Ký học Latin, trong 6 tháng Ký đã đọc và hiểu hết. Linh mục Thừa Sai Charles Emil Bouilleveaux Long (1823-1913) từ Paris đến phục vụ tại Cái Mơn, và nhờ Ký dạy tiếng Việt và sau này chính Cha đem Ký vào học ở tu viện Cái Nhum, vì chưa có chủng viện đào tạo.

Sóng gió lại đến, một hôm họ Cái Nhum bị bao vây, giáo dân hoảng sợ đem ảnh tượng chôn dưới đất, trong chum vại, đút vào bụi rậm ngoài vườn tược. Chủng viện Cái Nhum bị lục soát. Cố Long và Ký chạy thoát dọc theo bờ rạch, đi tới gần trưa mới thấy được chiếc xuồng, gọi vào xin chở qua bên kia sông Cổ Chiên. Xuồng vừa tới bờ, thì có một viên quan chạy tới để nhận hai ‘‘tà đạo’’. Ngay lúc ấy, Ký nhận ra viên sỹ quan là bố của hai người bạn học cùng lớp của thày Học. Viên sỹ quan già suy tư, nhìn trời và bày mưu bảo hai người nhảy xuống sông, đồng thời viên sỹ quan hô to.. bắt lấy.. bắt lấy. Nhưng không có ai nhảy theo. Thế là cha Long và Ký bơi thoát qua bên kia sông. Những lúc tán loạn ấy, bà Châu một mình chạy bán sống bán chết mặt chúi xuống bùn. Như nhiều lần trước, khi trở về nhà bà chỉ còn là đống tro tàn (sđd. Chương .

Năm 1848, trải qua một tháng trên đường đầy hiểm trở, nhiều lần tưởng chết, toàn ngủ bờ ngủ bụi, hay trong các chòi vịt, không dám vào nhà ai. Một lần ở trong vườn hoang, cha Long bị sốt rét, không chăn mền, nhờ một người trong xóm cho được cùi rơm, làm mồi lửa sưởi ấm cho cha. Sau cùng cố Long đã đưa Petrus Ký và 9 chủng sinh khác qua tới Pinalu, trung tâm truyền giáo ở Đông Dương, cách Nam Vang 6 dặm. Đây là nơi gặp gỡ nhiều chủng sinh các nước Á châu: Thái, Miên, Tàu, Lào, Triều Tiên. Cha Hòa làm giám đốc. Lớp học có 25 người, Ký học luôn đứng đầu lớp.

Năm 1852, sau 4 năm học, các Thừa Sai đã khám phá ra Ký là một thiên tài và chọn Ký gửi qua học bên Paulo Pénang, ở Mã Lai. Cùng đi có Vương Thừa Vũ người Trung Hoa, và Malachai người Xiêm. Ký là người nhỏ con nhất, lại mang nhiều sách nặng nhất. Giao thông khó khăn, đi băng rừng vượt núi qua ngả Xiêm mới tới được Mã Lai. Tới Pénang, Thừa Sai Dominique Lefebvre (1810-1865) ra tận bến tàu đón ba chủng sinh. Cha Lefebvre đã tới VN năm 1835, bị bắt giam rồi bị trục xuất về Pháp. Rồi từ Pháp cha đi Roma, về Ma Cao để trở lại Pénang. Ở Pénang Ký mải mê đọc sách trong thư viện, nhiều lần tới khuya quên ăn, chính cha Lefebvre dẫn vào bếp xin cơm cho Ký ăn. Những bài anh đọc tới lần thứ hai là kể như đã thuộc. Nhờ vậy, Ký thông thạo thêm 14 thứ tiếng. Ký đã được giải thưởng 100 bảng Anh do toàn quyền người Anh ở Pénang treo giải thưởng viết bằng tiếng Latin. Được tiền thưởng Ký ra chợ mua 8 sấp vải Bombay để dành tặng mẹ. Nhưng Ký nghĩ là không biết đem vải về mẹ có may mặc hay lại đem cho người khác. Vì khi ở bên nhà, lúc anh Sử tặng mẹ sấp vải thô dệt tay, mẹ không may, mẹ đem tặng cho bà cụ trong xóm. Nếu có mua được mớ tép, kho lên, mẹ húp chút nước, còn tép lại để cho hai con ăn. Ký nhớ, khi bà cụ ấy mất, mẹ qua viếng thấy bộ quần áo mới bà cụ mặc khi nằm xuống là vải mẹ tặng. Lúc ấy mẹ nói: cả đời thiếm ấy, khi nằm xuống mới có bộ quần áo mới. Đối với mẹ ‘‘cho là được’’. Ký còn định mua thêm như thuốc bắc, sâm cao ly… Nhưng Ký hoàn toàn thất vọng vì bà đã ra đi trước khi nhận quà của con, năm 1857.

Những năm ở Pénang, ai cũng công nhận Petrus Ký là thần đồng trong những bạn đồng khóa. Vì thế Ký được chọn đi La Mã học. Và mặc dù tinh hình chỉ dụ sát tả mới ban hành ngày 07-06-1857, ngày càng gắt gao tại VN, và nhiều cạm bẫy, Petrus Ký vẫn xin về thụ tang mẹ. Vì tội bất hiếu là tội nặng hơn các tội. Đấy là lý do Ký xin về, để che dấu muốn sống những ‘‘ngày trên thánh giá’’ như mọi người trong làng nước (sđd. Chương 15).

Năm 1858, cùng về VN với Petrus ký có Phan Thanh Long người Gia Định và Lê Huy Tốn người Ninh Bình. Tàu ghé Hạ Châu rồi mới về Bến Nghé (Saigon). Nghe tin Ký về, nhiều tác giả đến tặng sách. Ký mang về 11 thùng sách.

HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN

Lần về cũng gian truân như khi đi, đất nước đang tràn ngập khói lửa vì lệnh cấm đạo. Hải cảng lớn không vào được, tàu đành ghé Cần Giờ. Ba học sinh và 11 thùng sách của Ký được chú Ba Cần Giờ chở đi trốn sâu vào rừng đước. Một lúc sau, chú cho thuyền tạt vào một chòi lá cao hơn mặt nước độ một thước. Nơi đây có cả bàn thờ Chúa. Ba người thở phào nhẹ nhõm, tắm rửa và đọc kinh chung. Chú Ba dọn cá nướng như ‘‘cả nước đón mừng ba cậu về’’. Trong bữa cơm, chú Ba kể mình ở Chợ Quán. Nhà bị đốt sạch như bao gia đình khác, chú đem Chúa ra đây thờ. Giáo dân chết như rạ. Chú Ba dặn ba thanh niên: Các chú về giữa thời loạn. Thánh giá đặt đầy giữa đường coi chừng đi qua dẫm lên, là chết. Chặt đầu, treo ngay ở chợ. Ban ngày đi tỏ vẻ phân vân, e dè, dò đường là.. coi như rồi. Đi đêm dễ hơn, đèn tù mù ít ai thấy rõ mặt.

Phan Thanh Long muốn về nhà trước, chiều lòng chú Ba chở Long cặp thuyền ở một khúc vắng, để Long về Gia Định. Ngay sau đó chú Ba nghe nhiều tiếng huyên náo. Thì ra vừa đi không xa, Phan Thanh Long bị bắt, đầu bị chặt treo ở ngoài chợ (Chương 17). Chú Ba thuê ghe chở Ký về Rạch Giá, từ đây về Long Xuyên. Sách vở để lại chòi vịt của chú Ba Cần Giờ. Trên ghe về Long Xuyên, Ký phải giả vờ làm người đau bụng đắp mền rên la mới qua được 6 điếm canh. Và sau cùng Ký về được đến Cái Mơn, không còn nhà thờ và chủng viện. Tất cả đều đổ nát. Vui mừng Ký gặp lại anh Sử vào buồi chiều, gần tối. Sử kể lại cho em về những ngày cuối của mẹ. Và lặp lại lời mẹ dặn: Đất nước này tổ tiên tạo lập, để lại phải giữ. Nhà mình đạo gốc, gì cũng không được bỏ đạo. Chúa sẽ cứu rỗi linh hồn hai con. Sử lúc ấy đã có vợ và 2 con. Sử khuyên em nên trở lại La Mã học như các Thừa Sai mong đợi. Ký trả lời: Em quyết về. Có thể đây là lần đầu tiên em không vâng lời các Thừa Sai. Dẫu mẹ không còn trên đời này, nhưng còn Quê Hương. Quê Hương mình trù phú lắm. Tổ tiên mình chạy dạt về đây, gặp hòn cù lao sình lầy, vô chủ. Nhưng có nước ngọt. Chịu cực trăm bề chịu khổ nghìn bề để tạo lập vùng đất mới cho con cháu… Anh đừng thất vọng; Em hoàn toàn không muốn làm linh mục, làm nhà truyền giáo. Em thấy mình không hợp với cương vị thiêng liêng mà Chúa ban. Em có đọc kỹ những chỉ dụ sát tả của nhà vua. Chúa cứu thoát em khỏi chết lần này. Em nghĩ, có chết, em sẽ chết trên đất nước mình, quê hương mình (Sđd. Chương 18).

Năm 1859, vui nhất là Ký gặp lại Thầy Học, Thừa Sai Hòa. Hai người đã khai tâm cho anh hồi còn nhỏ. Cha Hòa kể lại nhũng vụ tử đạo ở Cái Mơn, trong những ngày Ký không có nhà: Một hôm lính ập vào bắt thánh trùm họ Emmanuel Lê Văn Phụng, thánh linh mục Phêrô Đoàn Công Quý, điệu hai vị ra trước bàn thờ, lột trần trước nhà tạm, chém mỗi người 5 nhát gươm. Cùng bị bắt có 32 giáo dân (sđd. Chương 20).

Sau khi ở Penang về, Ký bỏ áo nhà tu. Thừa sai Hòa nhờ Petrus Ký dạy học tại chủng (tu) viện Cái Nhum, trong xứ Cái Mơn. Nhà thờ và tu viện đều mới được cất lại bằng tre, cây tạp, và lá dừa nước. Sáng anh tự nấu cơm ăn với mắm kho, chiều về thăm mộ mẹ. Tối anh chong đèn dầu soạn bài. Với phương pháp sư phạm mới, anh dạy tiếng Pháp và tiếng Latinh. Chủng sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Học hành mà thầy trò học sống hồi hộp lo sợ. Khi nào có ám hiệu báo động thì cả lớp quơ vội vàng giấy mực… chạy.

Một hôm trong thân mật, Thừa Sai Hòa lại đặt vấn đề với Petrus Ký là chọn anh gửi đi học bên La Mã. Nhưng Petrus Ký rất mực từ chối, viện lý do: con buồn, nhưng con không thể nào bỏ quê hương xứ sở mà đi đâu được. La Mã không có sức thu hút đối với con. Quê hương con nghèo, lạc hậu quá. Dân quê khốn khổ, khốn nạn quá. Vua quan kiêu căng và bạc nhược, đẩy dân chúng tới khốn cùng bạc nhược. Thừa sai Hòa khó mà làm thay đổi được quyết định của học trò ngoan đạo này. Ngài nói: Bây giờ thì cha hiểu được nền tảng xã hội VN mà con đã giảng cho cha. Đó là sự can thiệp của ông bà, quyền hành của người cha và lòng hiếu thảo của con cái.

Ngày 09-12-1858, tu viện Cái Nhum bốc cháy, nhà thờ Cái Mơn bị đốt. Trương Vĩnh Ký tìm đường chạy ra khỏi Cái Mơn. Chạy suốt đêm, mệt quá, tới sáng anh dừng lại trước căn nhà ven bờ sông Hàm Luông. May quá, chủ nhà đã lớn tuổi cho trú ngụ, tiếp đón và cho ăn uống tử tế. Chủ nhà tên là Quản Phụng bạn cùng đi lính và làm việc với bố Trương Vĩnh Ký bên Nam Vang. Đêm lửa cháy đó, Cái Mơn có 14 hương chức bị bắt. Hai nữ tu là Marthe Lành và Ngọt bị bắt giam. Ở nhà Quản Phụng ít bữa, vì sợ mình là ‘‘người có đạo’’ sẽ bị quan quân lùng bắt mà liên lụy đến chủ nhà, nên Petrus Ký xin đi khỏi nhà chủ (sđd. Chương 20).

Vừa ra khỏi nhà thì gặp đám lính đang rượt đuổi bốn tín đồ ‘‘Gia Tô’’ ở ngã ba Cây Gáo. Bốn người bị lột trần truồng, cột dây ở hai chân cho bò kéo ngược về chợ Tân Trụ. Sợ quá, anh trèo lên cây thị nhìn xuống thấy người ta bằm bốn người anh hùng tử đạo ra nhiều khúc. Người bu xem rất đông, nhưng không ai trong bốn người than khóc kêu ca. Không chịu nổi cảnh đau thương, anh vừa trụt xuống khỏi cây thị, thì bị bắt ngay. Quan quận là Trần Lĩnh ra lệnh trói anh vào gốc cây mận đầy kiến. Tới tối, nghe có tiếng người đến gần, anh nhắm mắt chờ một mũi gươm, một nhát vồ. Trần Lĩnh không giết mà cởi trói cho anh. Anh ngạc nhiên vì ông mới ra lệnh trói anh, bây giờ lại thả. Quan nói: Chạy đi. Ta không lệnh trói cậu thì quan huyện trói ta. Nhưng ta không thuộc bọn họ. Chiều hôm sau anh đi theo bờ rạch ra sông Hàm Luông rồi về sông Tiền. Nhiều ngày sau anh không ngờ mình lại vượt qua cái chết nhờ một người tốt như vậy.

Đang chờ thuê thuyền đi Bến Nghé, tìm lại 11 thùng sách gửi khi mới về nước, nhưng lại sợ ‘‘kẻ gian’’. Đứng mệt người, run sợ, thì có chiếc thuyền lan nhỏ rê vào bờ, cho quá giang. Chủ thuyền mời anh xuống. Rụt rè lo sợ bước vào khoang thuyền, anh thấy trong thuyền có bàn thờ Chúa. Qua tâm sự, biết người lái thuyền là cụ già 87 tuổi. Sau khi vợ con bị lính triều đình giết hết và đốt sạch nhà cửa. Ông đã dùng thuyền làm nhà ở và đón tiếp những tín hữu lánh nạn như Petrus Ký. Ông gọi lính triều đình là ‘‘quân Giuđa’’. Mỗi tháng ông giúp 5, 7 người thoát cảnh bắt bớ. Ông đã giúp anh tìm được nhà chú Ba Cần Giờ, có lều vịt. Nhưng chú Ba cũng bị giết. Chỉ còn người con trai 13 tuổi sống sót. Cậu bé tên Lo đã kể cho Ký hay, có một ông Trùm ở Chợ Quán bị giết vì khi đào vườn thấy Thánh Giá chôn giấu ở vườn sau nhà.

Petrus Ký được người tín cẩn dẫn đường trở về Chợ Quán bằng ghe nhỏ. Chợ Quán bị đốt đi đốt lại tới 6 lần, bị ruồng bắt và truy đuổi. Nhưng rồi nhà vẫn mọc lên, các Thừa Sai và tín hũu lại lục tục kéo nhau về. Từng nhà từng nhà, họ âm thầm giữ đạo. Trong một căn nhà lụp xụp, Petrus Ký gặp Thừa Sai Dominique Lefebvre, Ký tròn xoe mắt nhìn cha. Cha ôm Ký:

– Cha không nghĩ còn gặp lại con.

– Con cũng nghĩ không có ngày này.

Đêm ấy, hai cha con ngồi trên tấm giát tre, bên ấm trà, trước ngọn đèn tù mù. Ký nhìn cha:

– Vì sao cha trở lại nơi cha từng bị bắt, bị tống ngục và cũng là nơi ở chủng viện Pénang cha khuyên con đừng về. Cha Lefebvre từ tốn trả lời:

– Bổn phận của con là học. Bổn phận của cha là truyền giáo. Mỗi người phải hiểu rõ. Chúa cho con trí thông minh. Chúa muốn con phải làm nhiều việc cho đạo Thánh của Người. Còn cha đã hết thời đi học. Bổn phận cha là tới những nơi con chiên khổ cực cơ hàn nhất, bị giày xéo khốn cực nhất. Và Đức Giáo Hoàng Leo XIII khuyên cha trở lại đây, tiếp tục làm bổn phận của một thiên sứ.

– Thưa cha, con thấy tình hình nước con ngày càng căng thẳng. Các cha Thừa Sai và giáo dân đang là nạn nhân oan uổng của triều đình. Nhất là sau khi hạm đội Pháp nổ sùng chiếm Đà Nẵng.

Cha Lefebvre chậm rãi tiếp lời:

– Cha rất lo cho con, hãy còn chưa muộn, nếu con quyết định đi La Mã. Cha sẽ lo liệu cho con. Khi nào đất nước yên hàn con sẽ về.

Trương Vĩnh Ký nhìn cha nói:

– Thưa cha, dẫu thế nào đi nữa, con vẫn muốn ở lại đất nước con.

Một lần nữa, linh mục thừa sai này lại bất lực trước một thanh niên ngoan nết và ngoan đạo. Cha Lefebvre sau làm Giám Mục đầu tiên của Tây Đàng Trong (Sàigòn) từ năm 1844 tới 1863, và qua đời tại Marseille, ngày 30-04-1865 (sđd. Chương 21).

Tình hình trong đất liền thật gắt gao vì quân triều đình truy bắt gắt gao, Petrus Ký ra tạm lánh ra trú ngụ trong một chiếc lều lá ở Cần Giờ. Nhưng cũng không ổn, anh lại trở về sống chui rúc dưới hầm trong căn nhà lá ở Bến Nghé (nay là đường Nguyễn Huệ). Trong giai đoạn này, Thánh Linh mục Lê Văn Lộc và hàng chục giáo dân bị xử trảm, ở Trường Thi (nay là đường Hai Bà Trưng). Các Thừa Sai lại có dịp nhắc lại việc Petrus Ký đi La Mã, và thu xếp cho một sỹ quan hải quân Pháp chở đi. Ký khôn khéo từ chối.

Năm 1859, súng nổ ở Vũng Táu, rồi quân Pháp chiếm Gia Định. Thừa Sai Lefebvre giới thiệu Petrus Ký làm thông ngôn để giải quyết tranh chấp Pháp-Việt bằng thương lượng hơn là bằng súng đạn. Từ đây Petrus Ký làm hai việc song song, vừa quảng bá chữ quốc ngữ vừa bảo vệ quyền lợi dân tộc bằng tài ba ngoại giao (sđd. Chương 22).

THÀNH TÂM ĐẾN GIÂY PHÚT CUỐI ĐỜI

Cuối đời ông bị bệnh khái huyết, chính bà Thọ là vợ đã sắc thuốc và chăm sóc ông những ngày cuối. Những ngày trên giường bệnh, Petrus Ký cho gọi các con lại bên cạnh trăn trối, ông khuyên các con đừng vào dân Pháp, nước VN sẽ mất đi một công dân nếu một người trong các con nhập quốc tịch Pháp’’ (Le Vietnam perdra un citoyen, si l’un de vous adopte la nationalité française. x. Trương Vĩnh Lễ, Vietnam, Où est la vérité, tr; 33). Rồi hôm ấy chờ cho con cháu ngủ say, ông nói với bà Thọ:

– Sinh lão tử qui, không ai qua khỏi. Ở tuổi này tôi nghĩ tới trở về với Chúa cũng không sớm sủa gì nữa.

Bà Thọ nói:

– Chẳng ai sống đời được, có điều sống được ngày nào cho con cháu chúng mừng ngày đó. Chỉ mong ông cố thuốc thang và bớt làm việc. Đời ông, tôi chưa thấy lúc nào ông được nghỉ ngơi.

– Tôi thấy mình chưa làm việc được bao nhiêu… Nhưng coi lại, quả tôi cũng đã hết sức rồi. Sinh ra giữa thời loạn…, không phải không có lúc tôi mất phương, lạc hướng. Đó chính là lúc dễ ngộ nhận, dễ lầm lẫn nhất. Lầm lẫn trong nhà thì còn hy vọng con cháu tha thứ, chứ lầm lẫn việc đại sự của nước, của dân thì ai mà tha thứ cho. Với lại, dù ai rộng lượng khoan dung thì lương tâm mình làm thẩm phán lấy chính mình, sẽ không bao giờ để mình được thanh thản.

– Trước mặt Chúa tôi luôn thấy mình thành tâm, thành tâm ngay cả khi mình lầm lẫn. Tôi hiểu, người đời sinh lão tử qui, đường đi nước bước vắn vỏi lắm, nhưng ai có phận nấy, hễ nhập thế cuộc bất khả vô danh vị, cũng phải làm vai tuồng mình cho xong đã.

– Thôi ông à, ở đời ăn dễ, ở khó. Mọi việc để Chúa phán xét. Nghĩ ngợi nhiều thêm bệnh.

– Mọi việc tôi làm còn lưu lại đó. Việc đúng việc sai hãy để cho đời phán xét. Đời này chưa thì đời sau tiếp tục. Trong sáng như cụ Nguyễn Du mà còn phải kêu lên không biết 300 năm sau có ai hiểu được mình, huống hồ thân tôi. Nếu tôi có ra đi trước, bà nhắc các con cháu là gia tài cả đời tôi cần mẫn, chăm chút để lại cho chúng toàn là sách. Hãy giữ gìn, hãy nâng niu và hãy trao lại cho người biết qúi trọng nó (Năm 1958, sách đã trao tặng Viện Khảo Cổ Sàigòn).

Ông cố rán nói thêm: Con người sống không có sách, thật khó mà thoát khỏi cảnh ngu muội. Con người ngu muội khó mơ ước tới xã hôi văn minh, xã hội dân chủ, tự do.

Tới đây cơn bệnh hoành hành, làm ông ho rũ rợi. Ông ôm ngực, và lại ho từng tràng dài… Xong cơn họ, ông ngồi thở, như hụt hơi. Hôm ấy, như thường lệ, bà Thọ canh xong siêu thuốc, bưng lên hy vọng… Thì thấy ông gục mặt xuống mặt bàn, tay không rời quản bút, trên những trang tự điển của nhà văn Pháp Emile Littré (1801-1881) tặng, sách đang mở ở trang 465. Tay trái ông giữ cuốn ‘‘Bình Sanh’’. Tay phải vẫn cầm chặt cán bút, đầu ngòi bút chúc xuống, óng ánh sắc mực. Nhìn ông như đang làm việc, và như vừa ‘‘mới chợp mắt một tý’’.

Lấy hết can đảm, bà Thọ lay ông. Nhưng ông không dậy nữa. Chén thuốc cuối cùng đã rớt xuống bàn làm nhòe cả những trang sách. Bà Thọ lắc đầu: Ông ấy sống thuộc đời. Ông ấy đã ra đi thuộc Chúa. Hôm ấy là ngày 01-09-1898. Có mặt trong lúc này có các học trò là Trương Minh Ký, Diệp Văn Cương. Bạn là Huỳnh Tînh Của. Và vừa là học trò vừa là con rể Nguyễn Trọng Quản. Trương Minh Ký nói với bà Thọ: Thưa bác, bọn cháu, những môn sinh của thầy, xin cố gắng tiếp nối công trình thầy đang dang dở. Nhưng công trình của thầy đều vượt ra khỏi tầm tay của họ. Nó quá đồ sộ, mà trí thức đám học trò vẫn còn quá thấp so vớ bộ óc khổng lồ của thầy mình.

Trương Minh Ký người học trò trung thành nhất đã tìm được và đọc được trong ‘‘Cuốn sổ bình sanh’’, Trương Vĩnh Ký có ghi:

‘‘Quanh năm quẩn quẩn lối đường dài

Xô đẩy người vô giữa cuộc đời

Học thức gởi tên con mọt sách

Công danh rốt cuộc cái quan tài

Dạo hòn lũ kiến men chân bước

Bồ xối con sùng chăc lưỡi hoài

Cuốn sổ bình sanh công với tội

Tìm nơi thẩm phán để thừa khai’’

Và ông đã xin được khắc trên phần mộ bằng tiếng La tinh:

Xin hãy thương tôi, ít nhất là những bạn hữu tôi !

Kiến thức con người, có nó là nguồn sống.

Những ai sống và tin tôi, sẽ không phải chết đời đời.

(GS. Nguyễn Văn Trung dịch. Ba câu này còn tại nhà mồ Trương Vĩnh Ký)

Di ảnh đáng qúi của Trương Vĩnh Ký là đi đâu ông cũng mặc quốc phục Việt Nam.

——————————————————————————–

Tài liệu tham khảo

– Hoàng Lại Giang, Trương Vĩnh Ký Bi kịch muôn đời. Truyện danh nhân.

Nhà xuất bản Văn Hóa và Thông Tin, Việt Nam, 07/2001.

– CAO THẾ DUNG,

. Trương Vĩnh Ký thân thế và hình trạng.

. Trương Vĩnh Ký trở về con đường văn hóa, văn học.

dân Chúa Âu Châu, số 191, 09-1998, ttr. 23-31.

Phạm Bá Nha