CPJ trao giải Tự do Báo chí Quốc tế khiếm diện cho nhà báo Phạm Đoan Trang (RFA)

 RFA

2022.11.18

Nhà báo Phạm Đoan Trang với Báo cáo Đồng Tâm trên tay

 FBNV

00:21/04:11

Nhà báo Phạm Đoan Trang vừa được Uỷ ban Bảo vệ Ký giả (CPJ) vinh danh và trao giải khiếm diện giải thưởng Tự do Báo chí Quốc tế thường niên năm 2022. Buổi lễ được tổ chức tại trụ sở của tổ chức này ở tiểu bang New York vào đêm 17/11 (giờ miền Đông Hoa Kỳ).

Trên trang web chính thức, CPJ- một tổ chức phi chính phủ hoạt động với mục đích thúc đẩy tự do báo chí và bảo vệ nhà báo trên toàn thế giới- nhận định rằng những người nhận được giải thưởng mà tổ chức  trao năm nay đều đã vượt qua những thách thức to lớn để đưa tin một cách độc lập đến với công chúng trong bối cảnh tin giả và chiến tranh lan tràn.

Bà Trần Quỳnh Vi, đồng sáng lập Luật khoa Tạp chí, cũng là người đến nhận giải thay cho nhà báo Phạm Đoan Trang nói với RFA rằng một trong những tiêu chí mà Phạm Đoan Trang nhận được giải này là vì Đoan Trang vẫn thực hiện công việc làm báo của mình một cách chuyên nghiệp, mặc dù luôn có những nguy hiểm chực chờ:

“Tôi nghĩ đây là một giải thưởng rất vinh dự bởi vì nó chứng minh rằng những việc chúng tôi làm chỉ vì tôn chỉ của báo chí. Chúng tôi là những người làm báo chuyên nghiệp và muốn giữ vững nền tảng báo chí Việt Nam. Và Đoan Trang là một nhà báo được công nhận bởi một tổ chức uy tín trên thế giới, đó là một niềm hãnh diện chung của Luật khoa Tạp chí.”

Ngoài bà Phạm Đoan Trang, năm nay còn có ba nhà báo khác cùng nhận giải thưởng này là các nhà báo Niyaz Abdullah đến từ Iraq, Abraham Jiménez Enoa  đến từ Cuba, và Sevgil Musaieva đến từ Ukraine.

Theo điều tra của CPJ vào năm 2021, bà Trang là một trong số ít nhất 23 nhà báo bị giam giữ vì đã cố gắng đưa tin một cách độc lập về Việt Nam. Điều này khiến quốc gia độc đảng trở thành một trong năm quốc gia bỏ tù nhà báo nhiều nhất trên thế giới.

Nhà báo Phạm Đoan Trang là sáng lập viên của Luật khoa Tạp chí  và là biên tập viên cho The Vietnamese, một mạng báo viết bằng tiếng Anh về tình hình chính trị – xã hội – nhân quyền Việt Nam. Bà còn là tác giả của nhiều cuốn sách bị cấm ở Việt Nam như Chính trị Bình dân, Cẩm nang nuôi tù, cùng với nhiều báo cáo khác bằng song ngữ Anh – Việt như Toàn cảnh thảm họa Formosa, Báo cáo Đồng Tâm…

Chính vì các hoạt động báo chí một cách độc lập của mình, vào ngày 6/10/2020, bà Trang bị bắt với cáo buộc “phát tán tài liệu chống nhà nước”, theo Điều 117 của Bộ luật Hình sự. Từ đó, bà bị biệt giam trong hơn một năm trời suốt giai đoạn điều tra vụ án, trước khi bị kết án chín năm tù giam trong phiên toà phúc thẩm hồi tháng 12/2021.

Bà Quỳnh Vi cũng cập nhật thêm rằng hiện nay, sức khoẻ của nhà báo Phạm Đoan Trang ở trong tù cũng đã ổn định hơn giai đoạn bị biệt giam trước đây:

“Hiện nay, Phạm Đoan Trang đã được chuyển đến Bình Dương. Có một số thông tin cũng khá tích cực đó là họ (trại giam – PV) đã chấp nhận cho Đoan Trang mang một cây đàn guitar vào trong trại để một nơi chung. Đoan Trang có thể chơi đàn mỗi ngày, có thể nhận đồ tiếp tế từ gia đình. Và theo gia đình thì tình hình của Đoan Trang hiện nay cũng đang khá là ổn tuy sức khỏe vẫn yếu nhưng tinh thần thì cũng ổn định.”

Bên cạnh giải thưởng về Tự do báo chí Quốc tế của CPJ, bà Trang từng được nhiều tổ chức cũng như Chính phủ nhiều nước trao giải vì các hoạt động cổ vũ cho tự do báo chí và nhân quyền của mình.

Một số giải thưởng nổi bậc như Giải Homo Homini của People in Need năm 2017; Giải thưởng Tự do Báo chí 2019, hạng mục Tầm ảnh hưởng của CPJ; giải Martin Ennals 2022 dành cho những nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền; Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã trao giải thưởng Phụ nữ can đảm quốc tế cho bà Trang vào giữa tháng 3/2022.

Việt Kiều là ai?

Bởi  AdminTD

Yên Khê

8-11-2022

Ngày 5-11-2022, BBC có đăng bài viết của tác giả Joaquin Nguyễn Hòa: Việt kiều và cán bộ VN: Cùng một dân tộc mà hai ngôn ngữ khác nhau. Bài viết kể lại những câu chuyện tiếp xúc giữa Hà Nội và một số người Việt hải ngoại mà tác giả chứng kiến.

Nếu tôi không lầm, thì ý ông Hòa muốn chứng minh một luận điểm là sự khác biệt về môi trường chính trị xã hội, đưa đến sự khác biệt về ngôn ngữ, tức là cách suy nghĩ và nhìn nhận vấn đề. Vì thế, Hà Nội và nhóm “Việt kiều” trong câu chuyện của tác giả không thể có cùng chung tiếng nói với nhau.

Đây là một khái niệm khá thú vị. Tuy nhiên, tựa đề của ông Hòa đặt có vẻ không chính xác, khi ông dùng cụm từ “Việt kiều”.

Ai là “Việt kiều?”

Tôi thấy là nhóm người ông Hòa gặp vào năm 1996 ở Montreal, cũng như những nhân vật và những nhóm người mà ông đề cập suốt bài, đâu thể đại diện cho “Việt kiều” được!

Bỏ qua gốc gác của từ “Việt kiều” hiện vẫn còn gây tranh cãi, cứ mặc định rằng “Việt kiều” là người Việt sống bên ngoài Việt Nam. Trả lời câu hỏi họ là ai, có lẽ không đơn giản. Mà “họ là ai này” cũng thay đổi theo thời gian, năm 1996 khác hẳn năm 2022, và cả vị trí địa lý nữa, Đông Âu khác hẳn ở Úc.

Để dể hiểu, chúng ta hãy xem xét cộng đồng người Việt ở phương Tây, như Mỹ, Úc, Canada, Tây Âu, nơi mà nguồn gốc có vẻ đồng nhất. Có thể chia họ thành những đợt ra đi khác nhau. Đợt đầu họ rời Việt Nam ngay khi Sài Gòn sụp đổ, đợt 2 là các thuyền nhân và những người tù chính trị đi theo chương trình H.O. và đợt ba, kéo dài cho tới bây giờ, là những người thân nhân của hai đợt trước, rời Việt Nam bằng hồ sơ bảo lãnh, rồi sau đó nhiều người tiếp tục rời xa đất nước theo quan hệ gia đình, hôn nhân.

Vậy họ là ai? Chính kiến thế nào?

Độc giả có quan điểm chính trị “không đội trời chung với cộng sản” có thể sẽ cho rằng Việt kiều, hay người Việt hải ngoại, là một cộng đồng chống Cộng rất mạnh mẽ.

Các độc giả trong nước nghe theo báo chí chính thống của Đảng Cộng sản Việt Nam, sẽ bảo rằng “Việt kiều” là… khúc ruột ngàn dặm.

Thủ tướng Phạm Minh Chính gặp mặt “khúc ruột ngàn dặm” ở khu bờ Đông Hoa Kỳ trong chuyến đi Mỹ tháng 5/2022. Nguồn: Báo QĐND

Tôi thấy cả hai đều không đúng. Với cái nhìn chủ quan của tôi, dựa trên những quan sát đó đây trong suốt một thời gian dài ở hải ngoại, tôi thấy Việt kiều có thể chia làm bốn nhóm như sau:

1/ Nhóm mà tác giả đề cập trên BBC, thân Hà Nội, rất ít, nhóm này đang tàn phai theo năm tháng.

2/ Nhóm rời khỏi Việt Nam sau ngày 30/4/1975, là nhóm thuyền nhân, cựu tù chính trị. Nhóm này chống Cộng dữ dội nhưng dường như ngày càng ít đi.

3/ Thế hệ thứ 1 rưỡi (sinh ra ở Việt Nam, ra nước ngoài từ nhỏ) và thế hệ thứ 2, là con cháu của cả hai nhóm kể trên. Một số đông gia nhập vào dòng chính của đời sống và chính trị, văn hóa, sở tại, ít quan tâm đến Việt Nam.

4/ Nhóm di cư theo hồ sơ bảo lãnh, ra ngoại quốc khi Việt Nam không còn mô hình xã hội kinh tế thuần cộng sản nữa. Nhóm này có thể không đông bằng nhóm thứ ba, nhưng theo chủ quan của tôi thì nhóm này là nhóm còn có nhiều quan hệ với Việt Nam hơn hết.

Tôi có thể lấy nhóm thứ tư này để phản biện bài của ông Nguyễn Hòa, rằng có một nhóm Việt kiều có cùng “ngôn ngữ” với trong nước và họ cũng rất đông, ngày càng đông cho đến khi dòng người rời Việt Nam giảm hẳn đi (nhưng có lẽ còn lâu!) Tuy rằng trong số họ cũng có một số ít rời bỏ Việt Nam vì bất đồng quan điểm, mong sống trong một xã hội dân chủ, nhưng số đó ít thôi, đa số họ không có viễn kiến chính trị.

Số tiền hàng tỷ Mỹ kim từ hải ngoại gửi về Việt Nam có phần lớn từ nhóm thứ tư này. Chúng ta thường bị thu hút bởi những vụ nổi đình nổi đám như Trần Trường, Trịnh Vĩnh Bình,… như là những thất bại của quan hệ kinh tế giữa Việt kiều và trong nước, nhưng số tiền Việt kiều gửi về Việt Nam bởi các đại gia như Trịnh Vĩnh Bình, hay những người thuộc nhóm 1 và 2 không thể bằng nhóm tứ tư.

Có hai lý do: Thứ nhất là họ còn nhiều quan hệ họ hàng ở Việt Nam. Thứ hai, rất đông người thuộc nhóm thứ tư sống trong nền kinh tế tiền mặt (cash economy) ở nước sở tại. Họ có thể trốn (né) thuế, giảm chi phí cuộc sống, cho nên họ có nhiều tiền dư để gửi về cho thân nhân đang sống ở quê nhà.

Cash economy của người Việt có thể thấy rõ ở những khu người Việt như Little Saigon (Nam California), phía Đông San Jose (Bắc California), Bellair (Houston, Texas), Fowler (Úc), khu Eden (Virginia), với hoạt động thương mại rất sầm uất, nhưng điều kiện hạ tầng, vệ sinh… lại kém vì không có nhiều thuế để chi trả.

Những người này đóng góp cho xã hội sở tại không nhiều, nhưng đôi khi họ nhận được trợ giúp từ nơi họ sinh sống rất nhiều. Một người bạn của tôi làm công việc cán sự xã hội (social worker) ở Houston, người này từng chỉ cho tôi mấy khách hàng đến xin trợ cấp thực phẩm, y tế … họ ăn mặc rất chải chuốt, đeo nhiều vòng vàng, đi xe rất đẹp. Những người này, nếu thấy chiếc xe Camry đời 2007 gãy càng sứt gọng của tôi, có lẽ họ sẽ nhìn bằng nửa con mắt.

Đây cũng là cộng đồng theo dõi các kênh truyền thông từ trong nước như VTV4, Truyền hình Vĩnh Long, VnExpress…

Đây thực sự là những “Việt kiều” có cùng ngôn ngữ với Hà Nội, không như ông Nguyễn Hòa trình bày trong bài viết nói trên. Chính quyền Hà Nội cũng không cần mất công tiếp xúc với họ, vì họ đã, đang và sẽ tiếp tục là nguồn ngoại tệ khổng lồ gửi về Việt Nam.

Lời kể của cô gái Việt bị bán làm dâu Trung Quốc, bắt đẻ mướn và ngủ với cha chồng

Lời kể của cô gái Việt bị bán làm dâu Trung Quốc, bắt đẻ mướn và ngủ với cha chồng

 

Phong Bụi

22-10-2022

Ảnh: FB tác giả

Trang đã có cuộc sống gần 5 năm là nạn nhân bị lừa bán sang Trung Quốc làm nô lệ cho gia đình nhà chồng.

Thấy gia đình nghèo khó, một người trong xóm gợi ý: “Nên cưới chồng Trung Quốc để gia đình có ít tiền”.

Người ta tìm đến tận nhà, ngồi vẽ ra một bức tranh đầy tươi sáng khi lấy chồng nước ngoài. Lúc đó, em chỉ mới cô gái 16 tuổi, vẫn còn ham chơi và chưa biết Trung Quốc là ở xứ nào.

Sau cuộc thương thảo, gia đình Trang đồng ý vì nghĩ đó là cách đổi đời. Ngày em đi lấy chồng một đám cưới không được diễn ra và gia đình chỉ nhận được vài triệu đồng.

“Phía công ty môi giới đổ lỗi vì em còn nhỏ tuổi chi phí làm giấy rất tốn kém”, Trang nhớ lại.

Khi thắc mắc, người ta lại tiếp tục, thổi vào lỗ tai: “Mấy triệu cũng được. Chủ yếu con lấy chồng Trung Quốc để đổi đời. Ở bên đó làm ăn có tiền gửi về ba mẹ mấy hồi”.

Nghe có vẻ hợp lý, cô bé nhỏ tuổi gật đầu theo chân người môi giới để vượt biên sang Trung Quốc, nhưng đâu biết rằng đã bỏ lại quê hương và sự bình yên.

Chồng Trang là một thanh niên lớn hơn em 15 tuổi, làm công nhân cho một công ty ván ép gỗ. Nơi em ở là một căn nhà nhỏ nằm tại thị trấn nhỏ nằm ở tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Hàng ngày phải giặt, ủi, nấu ăn và chăm sóc cùng lúc anh chồng, ba chồng và chồng.

Một ngày đẹp trời, mẹ chồng gợi ý: “Anh chồng con có vợ mấy năm nhưng vẫn chưa có con. Con ngủ với nó đẻ giúp được không?”.

Đó là câu hỏi và đáp án không có lời từ chối.

Trang nghe đến vậy hoảng sợ, lập tức nhận những sự tra tấn khủng khiếp. Cả nhà chồng tìm mọi cách thúc ép cô bé đẻ mướn cho gia đình.

Chưa dừng lại, cô dâu Việt này liên tục bị bố chồng tìm mọi cách sàm sỡ. Mỗi lần uất ức chỉ biết ôm mặt khóc không thể tâm sự, chia sẻ với ai.

Sau hai năm sống cảnh đày đọa, Trang có thai. Tuy nhiên khi được 5 tháng phía nhà chồng phát hiện bé bị dị tật nên tìm mọi cách để loại bỏ.

Suy sụp, Trang tìm mọi cách tháo chạy về quê hương. Em đã gom góp được ít tiền thuê một người dẫn đường vượt biên về nước. Từ căn nhà địa ngục ấy, em chỉ mang trên người bộ quần áo đón xe đò về biên giới.

Nửa đêm, em băng lội suối với hy vọng dù có gì cũng phải ngã xuống ngay Việt Nam. Em đi suốt nhiều ngày đến khi đặt chân địa phận tỉnh Cao Bằng được Bộ đội Việt Nam đón và đưa về Vĩnh Long gặp gỡ gia đình.

CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT…

Những Câu Chuyện Thú Vị – Ncctv.net

Thanh Bùi  ·   · 

CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT…

Năm 1980, Mike Wells, một phóng viên ảnh tài liệu đã chụp lại bức ảnh gây xúc động mạnh mẽ về hình ảnh bàn tay của một cậu bé.

Bức ảnh “vô tình” đạt giải thưởng trong cuộc thi Ảnh báo chí thế giới năm 1980 đã khiến cho toàn thế giới bị ám ảnh và gây ra một sự ph*ẫn n*ộ rất lớn trong dư luận.

Tác phẩm này đã khiến tên tuổi của Mike Wells vươn ra ngoài thế giới nhưng cũng khiến ông dành cả phần đời còn lại của mình trong sự xấu hổ và dằn vặt. Bức ảnh ghi lại một bàn tay nhỏ bé, gầy gò, thậm chí nếu nhìn qua thì có vẻ như bàn tay đó không phải là bàn tay của một con người.

Nhiều người cho rằng nó giống như bàn tay của một người ngoài hành tinh. Và khi nhìn cho thật kĩ, sẽ thật đau xót khi thấy đó là bàn tay của một đứa trẻ bị suy dinh dưỡng nặng.

Trái ngược với đó là một bàn tay của người da trắng, khỏe mạnh, vạm vỡ. Bức ảnh cho thấy sự tương phản rõ nét và cũng phản ánh chân thực những gì đang diễn ra.

Nguồn: ĐI TÌM LẼ SỐNG

Vĩnh biệt anh Ngô Vĩnh Long

Vĩnh biệt anh Ngô Vĩnh Long

Joaquin Nguyễn Hòa, gửi từ San Jose, California

Tôi biết tin anh Long qua đời qua trang Facebook của anh Nguyễn Hữu Liêm ở San Jose. Giáo sư Trần Hữu Dũng ở Ohio xác nhận với tôi rằng anh Long qua đời vì bệnh ung thư gan lúc 5:30 sáng ngày 12/10/2022, thọ 78 tuổi.

Anh Ngô Vĩnh Long là giáo sư sử học, trường đại học Maine, anh tốt nghiệp đại học lừng danh Harvard, anh là bình luận gia nhiều vấn đề quan hệ quốc tế và Việt Nam, anh là thủ lĩnh phong trào phản chiến trong chiến tranh Việt Nam, anh từng chiếm đóng tòa lãnh sự Việt Nam Cộng hòa tại San Francisco,…

Tất cả những điều ấy, mọi người đều biết, và cũng có nhiều người chỉ trích, mắng chửi,…

Tôi không muốn lặp lại những điều ấy, chỉ xin kể lại đây những kỷ niệm cá nhân với anh Long.

Tôi biết anh Long khi còn làm phóng viên cho trang RFA Việt ngữ, khi cần những bình luận về tình hình Việt Nam, cũng như quan hệ của Việt Nam với Hoa Kỳ và Trung Quốc. Điều tôi ấn tượng nhất khi phỏng vấn anh Long, hoặc khi chuyện vãn bên lề, là anh có hai nét bề ngoài có vẻ rất mâu thuẫn với nhau, một giọng nói khá yếu, đến mức có khi như thều thào, và một giọng cười rất sảng khoái và mạnh mẽ.

Chỉ sau vài lần trò chuyện, có lẽ anh Long cũng có cảm tình với tôi, anh mời tôi đến chơi với anh ở Bangor, Maine.

Anh đón tôi vào một ngày cuối đông. Từ trong sân bay, tôi thấy anh xăm xăm bước qua đống tuyết còn bề bộn, đi vào sảnh, dáng đi hồn nhiên như một đứa trẻ. Anh chở tôi đến ngay một tiệm bán … tôm hùm. Và buổi trưa hôm đó câu chuyện dài dằng dặt của chúng tôi, đúng hơn là câu chuyện của anh, bắt đầu, kéo dài đến gần một tuần, bên ly rượu Sauternes, một loại vang cất từ nho mốc trên cành, mà anh cho tôi biết là rất “bắt” với tôm hùm và… lẫu mắm.

Tên của anh được đặt theo tên cái thị xã mà anh sinh ra, thị xã Vĩnh Long, nơi cha anh theo kháng chiến chống Pháp trong mặt trận Việt Minh. Ông cụ không phải là một đảng viên cộng sản, mà còn xa hơn nữa, sau năm 1954, cụ trở thành một tín hữu Tin Lành. Chính ông cụ là người bày cho anh cách học thuộc lòng các cuốn tiểu thuyết bằng Anh ngữ để học tiếng Anh. Và bằng cách đó anh đã đủ tiếng Anh để đại học Harvard lừng danh của Mỹ chấp nhận.

Ngoài chuyện có bố là người theo đạo Tin Lành, cũng không có nhiều người biết rằng trong gia đình anh Long còn có một nữ sĩ quan công binh, Danielle Ngô, vị chỉ huy một lữ đoàn công binh là nữ giới đầu tiên của quân đội Hoa Kỳ. Bà Danielle Ngô gọi anh Long là cậu ruột. Gia đình bà bỏ chạy khỏi Sài Gòn đúng ngày 30/4/1975, và được anh Long bảo trợ đến Mỹ. Đó là những năm rất vất vả với người tị nạn Danielle Ngô mới được vài tuổi, mà cũng là những năm rất vất vả với người phản chiến Ngô Vĩnh Long, hết bị dính tới vụ án Trương Đình Hùng (con trai bác sĩ Trương Đình Dzu từng là ứng viên tổng thống Việt Nam Cộng hòa), rồi lại bị ám sát hụt trong khuôn viên đại học Harvard.

Sau đó, Hà Nội lại cấm cửa không cho Ngô Vĩnh Long về nước, mà cũng không rõ lý do gì (những chuyện như thế thường không có lý do!). Anh Long kể với tôi rằng anh thoát bàn tay công an Việt Nam trong gang tấc nhờ một người bạn che chở trong một lần về Việt Nam.

Chuyện nước là thế, chuyện nhà cũng không suông sẻ gì với cuộc hôn nhân đầu tiên gãy đổ. Nhưng có lẽ trời cũng bù lại cho tính cách hồn nhiên của anh bằng những đứa con rất giỏi giang, hai người con lớn rất thành đạt, còn cậu út, cũng tài hoa như cha, một tay guitar cự phách, và tốt nghiệp đại học chỉ sau hơn hai năm.

Dĩ nhiên đối với kẻ hậu sinh như tôi, thì những câu chuyện về các nhân vật phản chiến luôn là một sự hấp dẫn. Câu chuyện anh Long kể về nhân vật Nguyễn Thái Bình (bị an ninh Mỹ bắn chết vì cáo buộc cướp máy bay), làm tôi ngạc nhiên với lời bình luận của anh, “Bình tốt lắm, nhưng giao du với các nhóm quá tả”. Dần về sau, giữa những biến động xã hội, chính trị Mỹ, tôi thậm chí thấy rằng Ngô Vĩnh Long chưa chắc đã tả bằng nhiều thanh thiếu niên người Mỹ gốc Việt hiện nay.

Câu chuyện thứ hai làm tôi rõ hơn tính cách Ngô Vĩnh Long đến từ giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng ở Virginia. Lần đó giáo sư Hùng cho tôi xem những thư từ qua lại giữa chính quyền Mỹ với một số nhân sĩ trí thức người Mỹ gốc Việt, để chuẩn bị lộ trình bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Tôi thấy có một bức thư ủng hộ kế hoạch H.O. (Humanitarian Operation) của người Mỹ nhằm đưa những người tù “cải tạo” sang Mỹ, trong số những chữ ký tôi thấy có Ngô Vĩnh Long. Kể chuyện này với anh Long, anh cười rất hồn nhiên như mọi khi, “các ông H.O. cứ réo tên tôi mà mắng chửi suốt ngày”.

Cách đây hơn một tháng, anh Long có sang San Francisco dự một cuộc hội thảo. Tôi có gọi cho anh để càm ràm là bạn bè gì tệ quá, sang mà không gặp. Anh cười hì hì giữa một cơn đau lạ đang hành hạ, anh kể với tôi là cô con gái lớn hoạt động xã hội ở Oakland, vẫn còn giận anh gì đó nên hai cha con không gặp nhau được. Hai anh em lại hẹn nhau lần sau với chai Sauternes, mà phải là lẫu mắm, chứ không phải tôm hùm.

Và sáng nay anh ra đi.

Anh Long không chính thức theo một tôn giáo nào, nhưng có lần chúng tôi đồng ý với nhau về tính hiện sinh của triết học Phật giáo. Anh có nhắc với tôi một số kỷ niệm với các nhà sư Việt Nam, như thiền sư Thích Nhất Hạnh. Anh không nổi tiếng như thiền sư, nhưng cũng có một số phận giữa hai làn nước từa tựa như thiền sư.

Có lần tôi hỏi ông T., một nhân vật nổi tiếng chống cộng tại Mỹ, nghĩ thế nào về Ngô Vĩnh Long? Ông T. nói: “Anh Long là một người yêu nước”.

HÌNH: – Giáo sư Ngô Vĩnh Long

THÀNH KÍNH TRI ÂN Bác Sĩ YERSIN!

THÀNH KÍNH TRI ÂN Bác Sĩ YERSIN!

BS. ALEXANDRE YERSIN NGƯỜI PHÁP GỐC TH ỤY SĨ CÓ CÔNG LAO TO LỚN ĐỐI VỚI VIỆT NAM. XIN ĐƯỢC KÍNH CẨN NGHIÊNG MÌNH NGƯỠNG MỘ VÀ BIẾT ƠN ÔNG!

Bài viết này thay nén nhang tri ân ông.

Hiện nay cà chua, cà rốt, các loài Hoa phương Tây ở Đà Lạt… ; cà phê, Điều, Tiêu…. mà Việt Nam xuất khẩu mang về hàng tỉ USD có từ đâu? Chắc ít ai nghĩ đó là do công lao của bác sĩ Yersin!

Dịch hạch là căn bệnh khủng khiếp nhất trong lịch sử loài người, có thời điểm làm giảm 2/3 dân số châu Âu và 1/3 dân số Trung Quốc. Chính bác sĩ Yersin là người đầu tiên tìm ra vi khuẩn này và các nhà khoa học về sau khống chế nó hoàn toàn. Yersin cũng là một câu chuyện thú vị khi cả cuộc đời trưởng thành của ông, đều gắn bó với 2 chữ Việt Nam.

Tốt nghiệp tiến sĩ y khoa với đề tài bệnh Lao, nhưng Yersin và thầy hướng dẫn của mình là giáo sư Roux nổi danh với phát minh ra vắc xin bạch hầu. Thành tựu của ông khiến thiên tài Louis Pasteur chú ý và được nhận vào làm ở viện Pasteur Paris danh giá. Nhưng máu thám hiểm trong người khiến ông nằng nặc xin nghỉ việc để đi làm thuỷ thủ tàu viễn dương “dù chưa có kinh nghiệm đi biển bao giờ”. Ông nói “đời mà không đi, thì còn gì là đời”.

Các lần đi thám hiểm và quay lại Pháp, ông đều được Louis Pasteur “mời ăn tối và nghe báo cáo”, “thấy thú vị trước các thông tin mới mẻ do Yersin kể”. Pasteur yêu cầu ông hãy làm gì thì làm cho trọn vẹn để “vang danh thiên hạ, giúp nhân loại”. Vâng lời thầy, Yersin xách đồ đạc lên tàu vượt ngàn hải lý, mặc cho gió bão khôn lường. Hình ảnh học trò khăn gói xuống thuyền dọc ngang quả đất sau khi học xong là hình ảnh vô cùng đẹp của những người có LÝ TƯỞNG SỐNG.

Sang Việt Nam, ông làm bác sĩ trên tàu giữa Sài Gòn, Manila, Hải Phòng rồi sau đó định cư ở Nha Trang, sau một lần tàu cập bến và ông phải lòng với cảnh sắc nơi đây. Đầu thế kỷ 20, ông tham gia hội đồng sáng lập và là hiệu trưởng đầu tiên của ĐH Y Khoa Đông Dương (nay là Y Hà Nội), xây dựng toàn bộ giáo trình sơ khởi và nhận thức y đức cho các thế hệ bác sĩ, quy hoạch các bệnh viện ở các tỉnh thành khắp Việt Nam theo khoảng cách địa lý để “ai bị bệnh cũng có chỗ gần nhất mà đến trị kịp thời”. Nhưng Hà Nội cũng chỉ có thể giữ chân ông được 2 năm. Ông quay trở lại Nha Trang, thực hiện chuỗi những ngày làm khoa học và thám hiểm khắp núi rừng Đông Dương. Ông là người đã tìm ra cao nguyên Lang Biang và quy hoạch Tp Đà Lạt, xây dựng viện Pasteur Đà Lạt và phát triển mạnh hơn cho viện Pasteur Sài Gòn, Hà Nội. Trại ngựa nuôi lấy huyết thanh sản xuất vắc xin của ông nằm ở suối Dầu là trại ngựa thuốc lớn nhất châu Á khi đó. Ông còn cho trồng cây ký ninh để trị bệnh sốt rét. Ông từng mong muốn Diên Khánh là nơi sản xuất thuốc men cho cả Đông Dương.

Ông cũng là người mang cây cao su, ca cao, cà phê (thậm chí ông cho thử nghiệm cây điều từ Brazil và tiêu đen từ Ấn Độ ở nông trại của mình), đến bây giờ chúng ta đã có hàng tỷ đô la xuất khẩu. Ông thử nghiệm nhiều giống cây ôn đới như cà rốt súp lơ su su lay-ơn cẩm tú cầu xà lách xoong cà chua….(hầu như tất cả các loại rau củ mang tiếng Pháp đều là do ông và bạn bè đồng sự ông mang qua). Ông còn nuôi cừu trồng nho ở Phan Rang, nuôi đà điểu ở Ninh Hoà, thử nghiệm trồng quy mô lớn cây cà phê ở Lâm Đồng, Đăk Lăk và Pleiku. Ông cũng là 1 triệu phú nhờ trồng cao su xuất bán cho hãng lốp xe Michelin và là cổ đông chính của ngân hàng HSBC. Ông cho rằng “tôi phải kiếm tiền kiểu khác chứ không tài nào cầm được tiền của các bệnh nhân”. Toàn bộ tiền lãi của ông đến nay vẫn còn và vẫn bí mật chuyển đều đặn về 1 quỹ từ thiện và quỹ nghiên cứu khoa học.

Với tầm nhìn vĩ đại, bác sĩ Yersin không chỉ làm khoa học mà còn giỏi nhiều thứ. Ngoài việc mang sang cho chúng ta bao nhiêu giống cây trồng vật nuôi mới lạ, khám phá và xây dựng Sapa Đà Lạt Bà Nà…thành những nơi du lịch nghỉ dưỡng, ông còn tham gia quy hoạch đô thị khu trung tâm Sài Gòn Hà Nội Nha Trang Đà Nẵng Hải Phòng, ranh giới các tỉnh….mà chúng ta ngày nay hay có cụm từ “ngày xưa người Pháp đã quy hoạch chỗ này là, chỗ kia là..”. Ông đã giúp người Việt chúng ta có được nền tảng kinh tế ban đầu từ một nước thuần nông lạc hậu, những công trình về hạ tầng, giáo dục, y tế. Do chính quyền Pháp khi đó rất tín cẩn ông, vì ông đi nhiều khám phá nhiều. Hầu như mọi ngóc ngách ở Lào, Việt Nam và Campuchia đều có dấu chân ông. Núi cao vực sâu, thú dữ, bệnh tật…không hề làm ông nản bước. Ông luôn yêu cầu Pháp phải xây dựng nhiều trường học ở các tỉnh của Việt Nam và ý kiến cho Pháp đầu tư tiền để xây đường sắt Bắc Nam từ ga Hà Nội đến ga Sài Gòn, hiện chúng ta vẫn còn đang khai thác. Con đường quốc lộ 1A thời đó là con đường đất nhỏ xíu (gọi là con đường cái quan) bề rộng chỉ có 2-3 mét từ thời chúa Nguyễn đã được ông “bày vẽ” cho kè đá, rải nhựa, mở rộng nâng cấp để xe ô tô có thể chạy được. Ông nói phải ưu tiên làm con đường to nhất, tốt nhất gọi là quốc lộ, chạy ngang qua hết các tỉnh ven biển để người dân tỉnh nào cũng có thể hưởng lợi từ giao thông. Đường sắt Phan Rang đi Đà Lạt cũng là ông tư vấn cho toàn quyền Doumer làm. Các trạm khí tượng từ Sapa đến Mẫu Sơn đến Bạch Mã, các ngọn hải đăng ngoài biển mà chúng ta thường nói “do Pháp xây” là do ông chọn vị trí. Những gì ông có thể nghĩ ra, ông đã làm tất cả cho người Việt.

Ông sống 1 mình, giản dị ở Nha Trang đến cuối đời, 1 cuộc đầy ắp những chuyến đi thám hiểm và thành tựu. Nha Trang cũng là nơi tiếp cận điện ảnh đầu tiên của nước ta do ông mang về chiếu. Có lần khi trẻ con vào nhà ông xem phim và nghịch phá những chậu hoa quý, gia nhân toan ra mắng nhưng ông bảo “thôi đừng la trẻ nhỏ, nghe lớn tiếng chúng sẽ sợ”. 1 lần ông lái xe hơi trên đường, 1 người dân bất cẩn lao vào xe ông và bị tai nạn. Dù lỗi của người đi bộ rành rành nhưng ông chạy xuống giúp họ băng bó, xin họ tha thứ và kiên quyết trả lại xe cho chính phủ, đi xe đạp, vì theo ông “dân chúng xứ này chưa quen luật lệ nên đi lại vô tư, mình đi xe đạp có va chạm thì cũng không gây thương vong cho họ”. Có lần ông lên Tây Nguyên tìm thuốc, người dân tộc đã bắt ông, định hành quyết. Nhưng họ nhìn vào mắt ông, thấy một sự chân thành và thiện lương kỳ lạ, họ lại thả ông ra. Ông sau đó chữa trị bệnh cho cả buôn làng và gửi thuốc men lên cho họ đều đặn. Ngôi nhà của ông là trại tế bần khổng lồ cho người sa cơ lỡ vận, ốm đau, bệnh tật, đói kém….của khắp vùng, mở cửa suốt ngày suốt đêm. Ông không có vợ con vì dâng hiến phụng sự cả đời cho khoa học, nhưng người ta kính yêu ông như cha mẹ ruột.

Trong khi nhiều trí thức Việt Nam đi Pháp để hưởng thụ sự văn minh có sẵn của xứ người, ông như cá bơi ngược dòng. Dù quê hương ông là đất nước Thuỵ Sĩ giàu có và xinh đẹp, dù tốt nghiệp trường Y Paris và là một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất thế giới khi ấy, ông vẫn xuống tàu đi đến một miền đất nghèo xa lạ. Ông nói “tôi mãi mãi là một công dân Pháp, nhưng tôi yêu Việt Nam và sẽ phụng sự tính mạng và cuộc đời tôi cho họ”.

Đám tang ông là đám tang lớn nhất Việt Nam lúc đó. Giây phút cuối đời, ông nhờ người quản gia dìu ông ra phía cửa sổ, nhìn về phía biển, nơi ghi dấu 1 thời dọc ngang tuổi trẻ, rồi trút hơi thở cuối cùng. Nghe tin ông mất, người dân Nha Trang bỏ hết công ăn việc làm để lo hậu sự. Tàu bè ngoài biển vội vã cập bến xóm Cồn, ngưng mọi hoạt động đánh bắt trong nhiều ngày. Những phụ nữ tiểu thương bán cá đã bỏ hết cá mắm tiền bạc danh lợi mỗi ngày, bỏ cái nón lá quen thuộc để đeo khăn tang trắng xoá trên đầu, xuống đường đưa tiễn, khóc hết nước mắt. Người dân Hà Nội, Sài Gòn, Đà Lạt, các thành phố lớn khác châu Á yêu quý ông, nhất là người Hongkong, nơi ông đã thành công trong việc giúp hàng triệu người dân ở đây thoát khỏi nỗi kinh hoàng do dịch cúm. Úc từng mời ông sang thành lập viện Pasteur cho họ nhưng ông đã từ chối. Hongkong thì tìm mọi cách giữ ông lại, nhưng ông vẫn khăng khăng quay về dải đất hình chữ S mà ông trót yêu thương.

Năm 1943, khi ông mất, trí thức toàn thế giới, đặc biệt giới Y khoa và giới thám hiểm đã bày tỏ sự thương tiếc vô hạn. Di chúc ông ghi giản dị “Tôi muốn được an táng ở Suối Dầu, mộ thật nhỏ và nằm úp xuống, đầu quay về phía biển. Ông Bùi Quang Phương (cộng sự lâu năm) đừng cho ai đem thi hài tôi đi nước khác. Mọi tài sản xin tặng hết cho Viện Pasteur và những người cộng sự lâu năm đã làm việc với tôi”. Ông mất vào ngày 1 tháng 3-1943

Nếu bạn đã từng 1 lần được tiêm chủng, chích ngừa hay thậm chí ăn cà rốt, uống cà phê, đắp mặt cà chua (trước đó thì người Việt chúng ta chỉ có cà pháo….để ăn với mắm tôm) thì hãy biết ơn BS Yersin. Công lao của ông với dân tộc mình, với đất nước mình là không bao giờ kể hết. Các bạn có thể đọc thêm tư liệu về bác sĩ Yersin để thấy những tranh cãi lặt vặt, những suy nghĩ tầm thường đã phí thời gian cuộc đời mình. Sách giáo khoa nên bổ sung nhiều bài học về ông để các thế hệ mãi mãi biết ơn. Lòng biết ơn là thước đo của sự văn minh, ở mỗi cá nhân và cả dân tộc.

Và mỗi người, nếu đọc được những dòng chữ trên thì hãy học tập ông ở tinh thần PHỤNG SỰ, CỐNG HIẾN. Không nhỏ hẹp, vun vén cá nhân, cái xe – cái nhà – miếng đất – bằng cấp – chức vụ – công danh, tiền tài mang về cho vợ cho con tầm thường nữa. Mạnh dạn vẫy vùng biển rộng trời cao, dấn thân, xả thân vì MỘT LÝ TƯỞNG SỐNG của riêng mình. Bỏ quê hương đi đến chỗ phồn vinh thì dễ, quay về làm cho nó giàu sang văn minh thì mới khó. Mà khó cỡ nào, mình quyết tâm là làm được hết.  

Phàm làm người, ai càng sớm tìm được lý tưởng sống, thì càng có một cuộc đời ý nghĩa, trọn vẹn, không hối tiếc.

Nguồn Tony Buổi Sáng
Vài dòng tư liệu quí
Dòng chữ trên huy hiệu là châm ngôn bằng tiếng Latin, do ông Yersin chọn: DAT ALLIS LAETITUM ALLIS TEMPERRIEM có nghĩa ” Cho người này niềm vui, cho người kia sự mát lành “.
Các chữ cái đầu ghép lại thành DALAT.
ÔNG LÀ ÂN NHÂN CỦA VIỆT NAM VÀ NHIỀU NGƯỜI TRÊN THẾ GIỚI BỊ BỆNH DỊCH ĐƯỢC CHỮA KHỎI DO ÔNG TÌM RA VI KHUẨN DỊCH HẠCH…
QD sưu tầm

From: Do Tan Hung & KimBangNguyen

Michelin giới thiệu lốp xe không hơi!

Michelin giới thiệu lốp xe không hơi!

Michelin giới thiệu lốp xe không hơi, nỗi lo thủng lốp, xịt hơi vĩnh viễn không còn nữa.

Từ cả trăm năm nay, khi các loại phương tiện cơ giới trở nên phổ biến, thủng lốp xe, xịt hơi đã trở thành các vấn đề ám ảnh hàng ngày đối với mọi người trên thế giới. Vấn đề nằm ở chỗ, lốp xe cần không khí để có thể co giãn một cách linh hoạt trong các điều kiện đường xá khác nhau cũng như các cách vận hành xe khác nhau.

Giải pháp cho nó rất đơn giản. Lốp xe sẽ không thể thủng nếu nó không có không khí bên trong. Đó chính là điều hãng sản xuất lốp xe danh tiếng Michelin vừa làm được khi ra mắt loại lốp xe Uptis mới. Đây chính là thành quả nghiên cứu phát triển của Michelin từ một thập kỷ nay, khi tìm kiếm một loại lốp xe có tuổi thọ dài hơn cũng như giảm tác động đến môi trường. Mới đây, Michelin đã trình diễn loại lốp xe mới này trong một sự kiện tại Munich, Đức. Thay vì dùng không khí để nâng đỡ chiếc xe và người lái, loại lốp xe này dùng chính các thanh nan hoa đặc biệt để tạo độ cứng. Bên cạnh đó, các thanh nan hoa này còn có khả năng điều chỉnh độ cứng để phù hợp với các mục đích khác nhau như tăng tốc hoặc phanh xe lại.

Lợi ích của loại lốp xe này rất rõ ràng. Không còn không khí bên trong, người dùng sẽ không còn lo về việc thủng lốp hay xịt hơi nữa, cũng có nghĩa là tuổi thọ của lốp xe sẽ dài hơn. Theo Michelin, Uptis sẽ có tuổi thọ gấp 3 lần so với lốp xe thông thường. Theo công ty, mỗi năm có hơn 200 lốp xe bị đưa ra bãi phế liệu do những vấn đề về tuổi thọ và hư hỏng. Tuổi thọ dài hơn và độ bền tốt hơn sẽ giúp giải quyết được các vấn đề này. Hy vọng điều này không có nghĩa là Michelin sẽ đặt mức giá cao cho sản phẩm lốp xe mới của mình. Mức giá càng cao sẽ càng làm ít người lựa chọn nó khi họ không cảm thấy đủ bù đắp lại lợi ích về độ bền. Kéo theo đó, lợi ích về môi trường cũng không được như kỳ vọng.

Việc tạo ra một chiếc lốp như Uptis là không dễ dàng. Nguyên mẫu đầu tiên về lốp xe không hơi đã được Michelin trình làng từ cách đây 16 năm và lúc đó nó không thật sự hoàn thiện. Có nhiều nghi ngại về việc bụi bẩn và các mảnh vụn khác có thể tích tụ trong lốp và gây ra các vấn đề về thăng bằng. Nhưng giờ đây dường như Michelin đã tìm ra cách giải quyết các vấn đề này.

Sau buổi lái thử lốp xe Uptis ở Munich, các thành viên lái thử cho biết trải nghiệm này có thể so sánh với việc lái xe bằng lốp thông thường. Michelin cho biết họ cuối cùng đã đạt được tiêu chuẩn sản xuất cho Uptis và đã hợp tác với hãng GM để thiết kế và sẽ bắt đầu bán loại lốp xe không hơi này cho các hành khách vào năm 2024.

From: TU-PHUNG

Luật sư Võ An Đôn bị Việt Nam cấm xuất cảnh tị nạn chính trị

 VOA Tiếng Việt 

Luật sư Võ An Đôn vừa cho VOA biết ông và gia đình được chính phủ Hoa Kỳ cho đi tị nạn chính trị nhưng phía Việt Nam đã cấm xuất cảnh “vì lý do an ninh”. Vụ việc xảy ra vào tối ngày 27/9 khi ông và gia đình làm thủ tục xuất cảnh từ sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất khởi hành đi New York.

“Theo lịch thì hôm nay tôi bay qua New York, nhưng khi làm thủ tục xuất cảnh tại sân bay Tân Sơn Nhất đến cửa an ninh thì công an xuất nhập cảnh không cho gia đình xuất cảnh vì lý do an ninh”, Luật sư Đôn cho biết.

Biên bản tạm hoãn xuất cảnh của Công an Cửa khẩu Tân Sơn Nhất, thuộc Cục Quản lý Xuất Nhập cảnh, được ông Đôn đăng trên Facebook cá nhân cho biết lý do được nêu ra là “ Vì an ninh quốc gia”.

Võ An Đôn, 45 tuổi, một luật sư nổi tiếng ở Phú Yên với những vụ bào chữa miễn phí và lên tiếng hỗ trợ cho các nhà hoạt động nhân quyền, bị chính quyền cấm hành nghề từ năm 2017.

Ông cho VOA biết chính phủ Hoa Kỳ đã chấp thuận cho ông và gia đình thị thực nhập cảnh để xin tị nạn chính trị, sau những áp lực an ninh và chính trị tại Việt Nam.

Ông nói: “Bên phía Mỹ đã nhận gia đình tôi đi định cư, làm đầy đủ thủ tục hết cả rồi, và từ trước đến nay không vi phạm pháp luật…Nhưng phút cuối thì an ninh cửa khẩu nói là tôi không được phép xuất cảnh theo đề nghị của công an tỉnh Phú Yên.

“Rõ ràng là người ta đã gây khó khăn cho tôi và gia đình, mất bao tiền bạc và công sức”.

VOA đã liên lạc Cục Quản lý XNC, Bộ Công an Việt Nam, và Công an tỉnh Phú Yên, yêu cầu cho ý kiến về việc cấm xuất cảnh đối với ông Võ An Đôn, nhưng chưa được phản hồi.

Ông Đôn cho VOA biết việc ông Đôn và gia đình không được phép xuất cảnh diễn ra trước chứng kiến của đại diện của tổ chức Di trú Quốc tế (IOM), cơ quan chuyên hỗ trợ các trường hợp tị nạn và di dân vì lý do chính trị.

Luật sư Đôn được Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam trao giải Nhân quyền năm 2016 vì các hoạt động bảo vệ cho quyền con người, bất chấp rủi ro và đe dọa.

Luật sư Võ An Đôn bị Việt Nam cấm xuất cảnh tị nạn chính trị

BI KỊCH

Lê Vi

BI KỊCH

Có thể chỉ là bi kịch của một gia đình, một số phận khắc nghiệt của hai vợ chồng. Cũng có thể chỉ là một mẩu tin rất nhỏ trong hàng trăm tin nóng đang ngập tràn trên báo chí hàng ngày có thể người đọc sẽ đọc lướt qua. Nhưng tin đó sẽ có người đặt câu hỏi chúng ta đang sống thời kỳ nào mà có những số phận bi đát đến tận cùng như thế này. Có một thời, văn học đã có nhiều tác phẩm tố cáo chế độ thực dân, phong kiến với những nhân vật bế tắc không lối thoát, với những con người ngặt nghèo trong cuộc sống phải tìm đến cái chết. Và người ta kêu gọi đứng lên để đạp đổ chế độ ấy để xây dựng một chế độ tốt đẹp hơn.

Thế nhưng hoàn cảnh của những nhân vật xa xưa ấy chưa đến nỗi khốn cùng như hai nhân vật trong bản tin này. Hiện nay rất nhiều người tham nhũng hàng trăm hàng ngàn tỷ, tài sản nhiều không kể xiết như lão Hòa Thân bên Tàu ngày xưa. Có kẻ dưới vỏ bọc là doanh nhân thành đạt phát biểu hùng hồn chỉ cần có 230 tỷ, hay 100 tỷ là đủ, tiền nhiều chi cho khổ. Nhưng các ông bà ấy không hướng dẫn, giải thích số tiền tỷ đó lấy từ đâu ra, làm sao có được? Có ông lại bảo, tiền nhiều để làm gì? Những ông cán bộ tham nhũng, những doanh nhân thành đạt đó có bao giờ nghĩ đến những số phận không may vì không có tiền chữa bệnh mà phải dùng điện chấm dứt cuộc đời cả vợ lẫn chồng như thế này không? Toà án đang xử kẻ bị kết án là sát nhân. Thế nhưng đằng sau kẻ sát nhân này, ai mới là kẻ thật sự có tội? Ai mới thật sự là kẻ giết người? Chúng ta vẫn là những kẻ bị số kiếp săn đuổi và cũng là những kẻ có tội? Tội nghèo lại dám có bệnh trong xứ sở không còn nhà thương thí.

Cuộc sống sẽ vẫn trôi đi. Những số phận bất hạnh này rồi cũng bị quên lãng theo thời gian. Những số phận khác sẽ lần lượt tiếp nối. Nghĩ cho cùng xã hội chúng ta đang sống đầy những bi kịch. Nhà nước đang ở xa quá, đang bận rộn với những dự án, kế hoạch vĩ mô. Thân phận con người đã bị lãng quên và chấp nhận đầu hàng số phận. Cái chết là sự lựa chọn bởi không còn cách nào khác.

26.9.2022

DODUYNGOC

Cỗ tràng hạt quý chôn theo Công nương Diana

 Cỗ tràng hạt quý chôn theo Công nương Diana

TGPSG / Aleteia — Tử nạn tại Paris cách đây 25 năm, ngày 31.8.1997, công nương Diana, còn được gọi là Lady Di, từng cất giữ một cách thành tín một tràng hạt Mân Côi mà Thánh Têrêsa Calcutta đã tặng cho Lady, và đã được người thân đặt vào quan tài của công nương.

CỖ TRÀNG HẠT QUÝ


Nhìn qua thì chẳng có gì có thể báo trước một tình bạn khắng khít giữa Công nương xứ Wales và Nữ Thánh thành Calcutta, nhưng thực ra thì hai người phụ nữ đó đã gắn kết với nhau bằng mối dây lo toan chung cho những người cùng khổ. Nghe tin Lady Di tử nạn, Mẹ Têrêsa đã gởi lời chia buồn, và nói về Diana rằng: “Cô ấy đúng là đã từng rất lo cho người nghèo. Cô rất mong được làm cái gì đó cho họ và điều đó thật là đẹp. Vì vậy, cô thật gần gũi với tôi.”

Vị nữ tu đã từ trần sau đó vài ngày, ngày 5.9.997. Hai tháng trước, tháng 6/1997, hai người đã gặp nhau ở New York.

Theo báo The Independent, Diana và Mẹ Têrêsa “đã bước đi, tay trong tay, trên đường phố khu Bronx, TP New York… Họ đã choàng tay nhau, ôm nhau và cùng nhau cầu nguyện khoảng 40 phút. Nhân dịp này, Mẹ Têrêsa đã chúc phúc cho công nương”. 
Mẹ Têrêsa có biết rằng cỗ tràng hạt mà Mẹ tặng cho Lady Di đã đồng hành cùng công nương đến nơi an nghỉ cuối cùng không?

Những giờ phút sau cái chết của vị công nương đã được tường thuật chi tiết trên tờ Daily Mail:

Đêm ngày 30 rạng sáng 31.8.1997, khi vị quản gia Paul Burrell của Diana từ cung điện Kensington, Luân Đôn, nhận được tin về cái chết  bi thảm của công nương, ông được lệnh phải đem mọi vật dụng mà Diana yêu thích nhất sang bệnh viện La Pitié-Salpêtrière ở Paris, nơi công nương được đưa tới. Lòng tan nát, ông đi vào căn hộ của Lady Di, “nhìn cái bàn làm việc của công nương trên đó có cây viết và một lọ mực, bên cạnh là tờ giấy ghi danh sách những từ ngữ vốn dùng để cải thiện vốn từ vựng của Lady. Ông cầm vội lấy một chuỗi hạt Mân Côi – mà Mẹ Têrêsa tặng cho công nương, treo trên một bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh – và bỏ vào túi.”

Vừa đến bệnh viện, chính Colin Tebbutt, tài xế riêng của Diana, đã đưa cỗ tràng hạt cho một nữ điều dưỡng mà dặn rằng phải đặt nó vào tay công nương. Cũng được đặt trong quan tài của bà là một tấm ảnh 2 đứa con trai mà công nương vẫn giữ trong ví của mình.

LINH MỤC TUYÊN ÚY BỆNH VIỆN

Được gọi khẩn cấp đến bệnh viện La Pitié-Salpêtrière, Paris, cha Yves-Marie Clochard Bossuet, với tư cách linh mục tuyên úy trực đêm 31.8.1997, đã canh thức 8 giờ liền cạnh thi thể của Lady Di.

Năm nay 73 tuổi, cha Bossuet chánh xứ Notre-Dame des Foyers ở Paris, Pháp, đã tâm tình cùng Aleteia về những ơn thiêng được ban xuống trong đêm đó.

Nhận cuộc gọi vào lúc 2 giờ sáng 31.8.1997, cha Yves-Marie Clochard Bossuet lúc đầu nghĩ đây là trò đùa. Nhưng viên trực ban của bệnh viện cứ gọi lại, nài nỉ và cuối cùng đã cho ngài biết danh tính của người mà ngài được mời đến bên: Lady Diana, Công nương xứ Wales, được đưa đến bệnh viện La Pitié-Salpêtrière trong tình trạng rất nặng, sau một tai nạn xe hơi trong đường hầm dưới cầu Alma, TP Paris. 

From: tao ngo & Kim Bang Nguyen

ĐỈNH CAO TRÍ TUỆ

Nghệ Lâm Hồng

ĐỈNH CAO TRÍ TUỆ

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, có nhiều xáo trộn trong cuộc sống, nhưng trước mắt cũng như trong tâm tưởng, mình vẫn còn hiển hiện nhiều hình ảnh xinh đẹp về con người xứ Huế hiền hòa và hình ảnh một Sài Gòn hoa lệ.

Bỗng dưng, cuối tháng 9/1975 tôi có mặt ở Hà Nội một thành phố chỉ có 3 màu: đen (áo quần công nhân và hầu hết dân chúng), xanh ô liu (bộ đội), và vàng (công an). Đại đa số dân chúng không biết gì về tiện nghi vật chất và rất ngờ nghệch về một cuộc sống hiện đại của miền Nam.

Tôi đến ở trọ một nhà người quen, buổi tối nấu nước tắm, bà cụ trong nhà mở rương ra lấy cho tôi một lát xà bông cục được gói mấy lớp giấy báo, họ bảo tôi là khách quý mới được mời dùng cái này. Vài lần tôi uống cà phê ở một cửa hàng ăn uống quốc doanh ở Khu nhà tập thể Kim Liên. Một lần tôi yêu cầu ly cà phê sữa, cô bán phiếu xé cho 2 phiếu và tính tiền hai ly. Đó là ly cà phê đen và ly sữa nước sôi. Bà mậu dịch viên pha cà phê vào một ly rồi chế nước sôi vào ly sữa, xong đỗ ly cà phê vào ly sữa thành một ly cối to đùng.

Hôm sau tôi cũng mua cà phê sữa, nhưng tôi bảo đổ cà phê vào sữa, đừng đổ nước sôi vào, thế là bị một câu mắng chua lè: “Để tôi tự chế biến, không mượn ông góp ý”.

Một hôm tôi vào cửa hàng ăn uống trên đường Thanh Niên. Tôi yêu cầu cà phê sữa đá. Cô gái trẻ đứng tại quầy chanh chua: “Ông này buồn cười nhỉ. Sữa thì uống với nước sôi, làm gì uống với đá”. Thế là tôi đành phải uống một ly to đùng phối hợp 1 ly cà phê đen và 1 ly sữa nước sôi và phải trả tiền cho hai ly.

Tôi khá buồn cười với cái ngờ nghệch của họ. Ngay những người có vai vế trong xã hội cũng thế. Năm 1993, một đoàn gồm bốn nhà thơ rất nổi tiếng được tổ chức phản chiến William Joiner mời sang thăm trụ sở của họ tại Đại học Massachusetts, Boston, Hoa Kỳ. Hồi đó tôi đang học tại Đại học Simmons được mời đến nghe buổi trò chuyện. Giờ giải lao chúng tôi gặp riêng, một nhà thơ trong đoàn nói với chúng tôi rằng:

– Bọn Mỹ đối xử với bọn mình thật tốt, nhưng có một cái mình bất mãn là họ bố trí mình ở đâu cũng đặt máy nghe lén.

Tôi nói: Họ đặt máy nghe lén thì làm sao các anh biết được?.

– Họ đặt ngay giữa phòng trên trần nhà, chứ có dấu diếm gì đâu.

Tôi bật cười, thì ra đó là thiết bị báo cháy (smoke detector). Khổ thân cho bốn nhà thơ vĩ đại nước ta, mấy ngày qua không giám ăn nói gì hết, vì sợ bị nghe lén!.

Minh Nguyễn

Thiết bị nghe lén

Trường Học Trường Ðời – Gs. Nguyễn Văn Tương

Bang Uong

Trường Học Trường Ðời

Gs. Nguyễn Văn Tương

Kính Thưa Quý Anh Chị,

Nhân được tin buồn Cố Gs. Nguyễn Văn Tương vừa từ trần, kính gởi đến Quý Anh Chị vài đoạn trích trong cuốn Hồi Ký 2 ” Trường Học Trường Ðời”

để Quý Anh Chị biết thêm chi tiết về sinh hoạt của Cố Giáo Sư sau khi định cư tại Pháp Quốc.

Thân kính,

NT Hà

TIỂU SỬ : NGUYỄN VĂN TƯƠNG (1929 – 2022)

Sinh quán làng Tân hựu Ðông, quận Châu Thành, tỉnh Sa đéc. Con thứ trong một gia đình có 9 Anh Chị em.

  • Cựu học sinh trường Chasseloup-Laubat-Saigon (1951)
  • Tốt nghiệp Khóa 1 Sĩ quan Trừ bị Thủ Ðức (1952)
  • Cử Nhân Luật (1955), Cao Học Công Pháp (1960)
  • Tốt nghiệp Tiến sĩ Luật khoa ban Công Pháp (1965)
  • Cựu Giáo sư Công Pháp tại Học viện Quốc gia Hành Chánh Sài Gòn – các trường Ðại Học Luật tại Sài Gòn , Huế – Phân Khoa Luật của Ðại Học Paris, Poitiers, Brest & Angers
  • Tham gia các chính phủ Phan Huy Quát, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Lộc

Sau 30 tháng 4, 1975 đi cải tạo từ 1975 đến 1981 Ðịnh cư tại Pháp từ 1983 đến nay.

DẠY HỌC TẠI PHÁP (trang 65..)

…Gia đình tôi sang Pháp ngày 08 tháng 07 năm 1983. Lúc bấy giờ nhà tôi 48 tuổi, còn tôi 54 tuổi. Già thì không già lắm, mà trẻ thì không còn trẻ nữa, Hành lý là những vali quần áo cũ, nồi niêu xoong chảo vợ tôi gói ghém đem theo. Lúc tôi đi cải tạo vợ tôi thuê người đem đổ xuống sông Thị Nghè tất cả hàng trăm sách của thư viện cá nhân tôi, kể cả mấy quyển luận án tiến sĩ của tôi. Trước ngày đi Pháp tôi có đến trường luật xin lại một bổn luận án đem theo. Chủ mới cho biết đã bán hết sách của thư viện cho bọn tàu Chợ-lớn . Cũng may là nhà tôi còn giữ một số giấy tờ của tôi, như bằng cấp, Nghị định bổ nhiệm.

Người ta thường nói “Trời sanh voi sanh cỏ”, ngặt vì mình không phải là voi làm sao ăn cỏ được. Các con lớn của tôi có báo tin cho nhiều gia đình quen Pháp lẫn Việt, nhờ họ giúp đỡ lúc ban đầu. Thêm vào đó có sở xã hội và các đoàn thể địa phương cứu trợ trong lúc tìm việc làm. Tôi viết thư cho toàn thể các Khoa trưởng trường luật tại Pháp và hải ngoại để xin một chỗ dạy, kèm theo tiểu sử ngắn gọn và Nghị định bổ nhiệm dịch ra tiếng Pháp. Lúc ấy vào khoảng bãi trường nên chậm có thư trả lời. Qua tháng 9 năm ấy mới có thư hồi đáp, nhưng là thư khước từ vì quá trễ cho năm 1983 . Chủ sở trợ cấp thất nghiệp ở Rambouillet yêu cầu tôi cho biết đã có vận động gì trong mấy tháng qua. Khi tôi trình cho xem một sắp thư trả lời từ chối thì mới thấy tôi quả có thiện chí tìm việc.

Bao giờ cũng vậy trong cái rủi có cái may. Trường đại học Panthéon-Sorbonne yêu cầu tôi trình bày cho Ban Cử nhân Công Pháp trước cuối năm đề tài ” Nền ngoại giao của Nhật bổn và nền ngoại giao của Trung Quốc”. Là người Á châu từng theo dõi thời cuộc trong mấy chục năm qua, tôi chuẩn bị dễ dàng hai đề tài ấy với tài liệu phong phú của một người bạn Pháp. Phải nói rằng tôi đã nhờ giáo sư Vũ Quốc Thúc cố vấn tôi rất nhiều…

… Bỗng dưng có Khoa trưởng trường luật Poitiers, phía Tây Nam Paris, đề nghị tôi nhận trình bày trong 6 tháng cho lớp hậu Cử nhân về đề tài “Vấn đề phát triển dân chủ tại các nước Á châu”. Buồn ngủ gặp chiếu manh, tôi nhận lời ngay mà không ngờ đã phóng lao mình phải theo lao. Ông Khoa trưởng nói rõ môn này sẽ không được đưa ra thi cuối năm, không thể làm khác hơn vì phải tôn trọng nội quy của trường. Làm sao giữ nổi sinh viên hậu Cử nhân (tức sau 3 năm đại học) trong 6 tháng, trừ phi cao tăng giảng kinh xuất chúng!

Than ôi tôi chỉ là một giáo sư thất nghiệp đi tìm việc, chớ nào phải là cao tăng đâu! Nghĩ cho cùng ban giảng huấn các đại học đã có lòng cứu vãn đồng nghiệp sa cơ vậy thôi! Tôi căn cứ vào luận án tiến sĩ của tôi trình bày vấn đề đặt ra. Chỉ tiếc là thiếu một họa đồ để tiện vị trí hóa các nước, dầu là sinh viên trình độ đại học cũng chưa biết nước nào ở đâu ? Chính tại quốc hội pháp một dân biểu tên tuổi còn nói rằng Nhật bổn ở Nam bán cầu! Mọi việc đều có kết thúc. Khởi sự bài giảng hiện diện khoảng 40 sinh viên, chấm dứt còn phân nửa! Ông Khoa trưởng mừng cho tôi còn giữ được đệ tử! Nhóm sinh viên này còn mời tôi một bữa cơm trưa tại quán ăn tàu ở Poitiers…

… Gia đình tôi trọ trong một căn phòng chung cư tại thành phố Rambouillet. Có sở xã hội và các bà phước cho chút ít bàn ghế, tủ giường, quần áo cũ. Tôi làm đơn xin việc, vợ tôi nấu ăn dã chiến. May mà lúc ấy nhằm mùa hè ấm áp, chớ chưa phải mùa đông lạnh buốt. Các con nhỏ đi học mà ban đầu chẳng biết một chữ tiếng Pháp. Vậy mà nhờ ơn trời phật gia đình dần dần cũng gỡ rối được. Như con thuyền không bến của Ðặng Thế Phong rồi cũng tạm có bến đậu.

Ðó là trường luật đại học Brest, vùng Bretagne tận cùng phía Tây nước Pháp. Tôi biết ơn giáo sư Nguyễn Quốc Vinh đã hết lòng giúp đỡ tôi, có thể vì tình đồng bào cũng như vì nghĩa đồng nghiệp. Tôi xin được giới thiệu ân nhân trẻ của tôi. Ðó là con trai của giáo sư Nguyễn Quốc Ðịnh, gốc người Nam Ðịnh, trước giảng dạy tại Viện Ðại học Pathéon-Sorbonne Paris. Giáo sư Ðịnh là tác giả quyển sách nổi danh ”Droit Public International” (Luật Quốc Tế Công Pháp), tám lần tái bản, đâu đâu cũng dùng, một thời kiêm nhiệm Ðại sứ Việt Nam Cộng hòa ở Unesco. Giáo sư Vinh ân cần chỉ dẫn tôi lập hồ sơ xin cộng tác với Ðại học Luật khoa Brest. Ông Vinh lúc ấy là giáo sư Công pháp, phó khoa trưởng rồi lên khoa trưởng rất có uy tín ở đây. Sau này giáo sư Vinh đỗ thạc sĩ về dạy ở viện đại học Maine tại Le Mans, cách Paris hơn 200 cây số về hướng Tây, rồi được bổ nhiệm làm phó Viện trưởng đại học này.

Trong lúc chờ đợi quyết định của Hội đồng Giáo sư địa phương rồi Hội đồng Giáo sư Paris, tôi được sắp xếp dạy môn Ðịa dư kinh tế năm thứ hai Ban Cử nhân, thù lao lấy trên tài khoản liên khóa 1982-83. Môn này liên quan đến các nguồn tài nguyên kinh tế thiết yếu trên thế giới, các hệ thống chuyển vận liên lục địa đường bộ, hàng không, hàng hải, ít có giảng dạy tại các phân khoa đại học khác. Sau đó Hội đồng Giáo sư Paris chấp thuận cho tôi dạy tại trường Luật khoa Brest về các môn Công pháp thù lao theo mức lương giáo sư thực thụ, qua sự chấp thuận ngân khoản thường niên .

Tôi phụ trách nhiều môn Luật hành chánh, Tố tụng hành chánh, Công pháp kinh tế, Hành chánh địa phương đối chiếu, miễn đủ số giờ ấn định cho cấp giáo sư. Tôi cộng tác với trường Luật khoa Brest từ năm 1983-84 đến năm 1992- 93. Trong thời gian ấy tôi còn lãnh dạy thêm ở viện đại học Maine-et-Loire, miền Tây Nam Paris, thủ phủ là thành phố Angers về môn Thuế vụ và Hành chánh địa phương là một môn tôi rất thích bởi có nhiều điểm tâm lý xã hội liên quan đến nền văn minh nước Pháp là nước đang mở rộng vòng tay cứu giúp gia đình tôi…

LÀM NHÀ HÀNG Ở PHÁP

Khi còn ở với cha mẹ cũng như khi đã lập gia đình, không có lúc nào vợ tôi nghĩ đến việc nấu ăn bởi lúc nhỏ lo đi học, lúc lớn lên lo đi làm việc. Nhưng một khi đã qua đất Pháp vợ tôi phải nghĩ đến sinh kế gia đình. Phải làm nghề gì kiếm sống để phụ giúp chồng nuôi con nhỏ dại. Do đó vào năm 1990 chúng tôi vay tiền ngân hàng mở nhà hàng cơm Việt Nam ở Chalon-sur-Saône, tỉnh Saône-et-Lorie, vùng Bourgogne, cách Paris hơn 400 cây số ngàn về phía Nam.

Do một người cậu vợ tôi sang lại, nhà hàng tọa lạc ngay trước ga hỏa xa, đi hướng Bắc là về Paris, còn đi hướng Nam là đi Marseille. Vợ tôi học ôn cấp tốc các bài nấu ăn thịt bò, thịt heo, tôm kho, chả giò, gỏi cuốn, cách làm nước sauce. Tại phòng ăn có thuê người chạy bàn, biết pha rượu, nước ngọt. tính tiền. Nhà hàng đắt khách qua bốn mùa xuân hạ thu đông chẳng những khách tại địa phương còn khách từ Bắc Âu đi Vùng Ðịa Trung Hải, khách từ Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha đi lên miền Bắc Âu.

Những lần đi dạy về tôi chịu khó ghé Paris mua sắm các món cần dùng đem về nhà hàng. Những ngày nhà hàng nghỉ bán tôi chở nhà tôi đi Lyon miền Nam bổ túc các thứ cần dùng như gạo, nước mắm. Ðó là thú vui chạy xe theo xa lộ mặt trời, qua những vùng đồng quê, với những tháp chuông nhà thờ cao nhất từng xanh, ghé qua những nhà dừng chân dọc theo xa lộ, ngắm cảnh để nhớ đồng quê cỏ bay thẳng cánh hồi trước của mình. Chúng tôi đã có dịp bách bộ từ nhà hàng đến bờ sông Saône ngồi trên bờ cẩn đá ngắm dòng nước chảy, xem cánh chim bay trên nền trời xanh biếc mà nhớ Sông Tiền Sông Hậu bên nhà. Biết bao giờ mình trở về hay là gửi lắm xương tàn trên đất Pháp này?

Việc gì cũng đến chỗ kết thúc. Các con tôi sau khi thi đỗ tú tài ước ao được về vùng Paris học có nhiều chọn lựa hơn. Vợ chồng tôi sang gấp nhà hàng cơm về tậu nhà vùng Essonne, phía nam thủ đô Paris để các con có điều kiện theo học Ðại học. Giờ này đây các con đã thành gia thất, có nghề nghiệp sinh sống. Nguyễn Thị Kim Oanh, bào chế dược viên, Nguyễn Thị Kim Phượng, Tiến sĩ dược khoa, Nguyễn Thị Kim Loan, quang học viên, Nguyễn Thị Phương Thảo, Tài Chánh kế toán viên, Nguyễn Trung Chánh, kỹ sư Tin học, Nguyễn Thị Thanh Nga, y khoa Bác sĩ. Còn vợ chồng tôi xin hưởng hưu bổng, ít nhiều gì cũng được miễn sống cần kiệm là đủ. Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm, đó là sự thật muôn đời ở đâu cũng vậy thôi !

KẾT LUẬN

Tại sao tôi để tựa quyển sách mỏng này ” Trường học Trường đời “. Tôi học ở trường rất nhiều, từ lớp 5 Trường làng, lấy bằng tiểu học ở trường tỉnh Sa Ðéc, bằng trung học ở Mỹ Tho, bằng tú tài, bằng cử nhân, bằng tiến sĩ ở Sài Gòn, mong giúp ích xứ sở, giúp đỡ cha mẹ, anh em, các con. Từ trường làng Tân-hựu-Ðông đến Viện đại học Panthéon Sorbornne Paris con đường xa thăm thẳm, phải trải qua Mấy Dặm Sơn Khê. Ðã học nhiều ở trường học, tôi học càng nhiều hơn nữa ở trường đời, cho đến lúc nghiễm nhiên lãnh trách nhiệm góp phần xây dựng nền Ðệ Nhị Cộng hòa miền Nam, rồi bị đưa vào trại tù cải tạo, ăn cơm trộn đá sạn, để nằm gai nếm mật, tưởng chừng như giấc chiêm bao! May mà có nước Pháp ra tay cứu giúp trong cơn phong ba bão táp dập vùi!

Tôi xin độc giả hãy cùng tôi xem lại mấy dòng này của nhà văn Nguyễn Khắc Hiếu trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư của giáo sư Dương Quảng Hàm: “Người ta ở trong đời khi nổi khi chìm, lúc may lúc rủi, không rồi lại có, đầy rồi lại vơi, lên lên xuống xuống như cây thụt máy tàu. Tiền chôn bạc chứa chưa là giàu, nhà tranh vách đất chưa là nghèo, võng lọng ngựa xe chưa là vinh , xiềng xích gông cùm chưa là nhục. Những cái đó chỉ làm cho ta đương mừng hóa lo, đương buồn hóa sướng, say mê chìm đắm khóc hão thương hoài.”

Mùa đông Kỷ Hợi 2019 Les Ulis 91940 FRANCE

NGUYỄN VĂN TƯƠNG