New York: Tiểu thuyết gia rất nổi tiếng,ông Rushdie bị đâm trọng thương ngay khi đang thuyết trình

New York: Tiểu thuyết gia rất nổi tiếng,ông Rushdie bị đâm trọng thương ngay khi đang thuyết trình

Bọn đó đâu rồi ? Sao không đi theo dõi sinh hoạt của bọn khủng bố nầy ,để cho  án mạng  một nhân vật nổi tiếng xảy ra. Như vậy là bọn nầy vẫn âm thầm theo dõi nhà văn Ấn độ nầy trong cả chục năm nay , bây giờ thời cơ đến chúng nó ra tay ngay.

Đây mới thật là an ninh quốc gia ne`

Salman Rushdie: Author stabbed at event in New York state

https://www.youtube.com/watch?v=D7a8_uheJrI&ab_channel=Channel4News

Người đại diện của Salman Rushdie cho biết “tin này không tốt” sau khi tác giả bị đâm tại một sự kiện ở bang New York.

Andrew Wylie cho biết trong một tuyên bố, anh đã bị tấn công trên sân khấu, hiện đang thở máy và không thể nói được, đồng thời cho biết thêm rằng tác giả có thể bị mất một bên mắt.

Ông Rushdie đã phải hứng chịu nhiều năm bị những kẻ Hồi giáo đe dọa giết chết sau khi viết The Satanic Verses, xuất bản năm 1988.

Cảnh sát đã bắt giữ một nghi phạm tên là Hadi Matar, 24 tuổi, đến từ Fairview, New Jersey.

Cảnh sát bang New York cho biết nghi phạm đã chạy lên sân khấu và tấn công ông Rushdie và một người phỏng vấn tại Viện Chautauqua ở phía tây bang New York.

“Salman có thể sẽ bị mất một bên mắt; các dây thần kinh ở cánh tay của anh ấy bị cắt đứt; và gan của anh ấy bị đâm và bị tổn thương”, đại diện của anh ấy, Andrew Wylie cho biết.

Tiểu thuyết gia gốc Ấn Độ, ông Rushdie, đã trở nên nổi tiếng với Midnight’s Children vào năm 1981, cuốn sách đã bán được hơn một triệu bản chỉ riêng ở Anh.

Nhưng cuốn sách thứ tư của ông, xuất bản năm 1988 – Những câu thơ của Satan – đã buộc ông phải lẩn trốn trong gần mười năm.

Cuốn tiểu thuyết theo chủ nghĩa siêu thực, hậu hiện đại đã gây ra sự phẫn nộ trong một số người Hồi giáo, những người coi nội dung của nó là báng bổ và đã bị cấm ở một số quốc gia.

Một số người đã thiệt mạng trong các cuộc bạo động chống Rushdie ở Ấn Độ và ở Iran, đại sứ quán Anh ở thủ đô Tehran đã bị ném đá.

Năm 1991, một dịch giả người Nhật của cuốn sách bị đâm chết, trong khi vài tháng sau, một dịch giả người Ý cũng bị đâm và nhà xuất bản người Na Uy của cuốn sách, William Nygaard, bị bắn – nhưng cả hai đều sống sót.

Phản ứng trước cuộc tấn công hôm thứ Sáu, ông Nygaard nói ông Rushdie là một “tác giả hàng đầu có ý nghĩa rất lớn đối với nền văn học”, người đã phải trả “một cái giá đắt” cho tác phẩm của mình.

Một năm sau khi cuốn sách được phát hành, Lãnh tụ Tối cao Iran Ayatollah Khomeini đã kêu gọi hành quyết ông Rushdie. Anh ta đã đề nghị phần thưởng 3 triệu đô la (2,5 triệu bảng Anh) trong một fatwa – một sắc lệnh pháp lý do một nhà lãnh đạo tôn giáo Hồi giáo ban hành.

Tiền thưởng cho người đứng đầu của ông Rushdie vẫn còn hoạt động và mặc dù chính phủ Iran đã xa rời sắc lệnh của Khomeini, một tổ chức tôn giáo gần chính thức của Iran đã bổ sung thêm 500.000 USD vào phần thưởng vào năm 2012.

Công dân người Mỹ gốc Anh – vốn sinh ra từ những người Hồi giáo không theo đạo và bản thân là một người theo chủ nghĩa vô thần – đã nhiều lần trở thành người ủng hộ quyền tự do ngôn luận, bảo vệ công việc của mình.

From: TU-PHUNG

Làm từ thiện

Làm từ thiện

Ngày này cách đây 25 năm, bệnh viện Nhi Đồng (Memorial Children’ s Hospital) ở Chicago đã công bố nhận được 18 triệu Mỹ kim từ một bà cụ. 

     Đây là khoản  tiền quyên tặng lớn nhất bệnh viện nhận được  trong lịch sử 115 năm hoạt động. Khoản quyên tặng  này đã phá kỷ lục con số 10 triệu Mỹ kim mà ông Ray Kroc, ngưới sáng lập ra McDonald đóng góp cho bệnh viện khoảng cuối thập kỷ 70. 

    Sinh thời, bà được mọi người trong bệnh viện gọi là Teddy Bear Lady, bởi vì bà thường lui tới bệnh viện thăm bệnh nhi và tặng gấu bông cho các em. Không ai biết tên của bà, người phụ nữ luôn đến bệnh viện trong bộ trang phục màu đỏ thắm. Chỉ biết bà đến vì bà muốn mỗi  bệnh nhi đều có một chú gấu bông để ôm và vuốt ve cho đỡ buồn.

     Sau này, người ta mới biết bà tên là Gladys Holm, gia đình gốc Na Uy, di dân đến Mỹ sinh sống. Bà sống độc thân, không bà con thân thích, trong một apartment nhỏ ở thành phố Evanston.

     Bà làm việc cho một công ty chuyên cung cấp vật tư và  thiết bị y tế. Trong suốt 41 năm làm thư ký riêng cho ông chủ công ty này, bà chưa bao giờ  lãnh mức lương  vượt quá con số 15,000 Mỹ kim một năm. Nhưng bà có đầu tư vào chứng khoán, mua cổ phiếu của công ty bằng chút đỉnh tiền trích từ lương tháng. Ngoài luật sư của bà và người môi giới chứng khoán, không ai biết bà là người giàu có.

     Cái xe Cadillac Eldorado đỏ là tài sản sang trọng duy nhất của bà. Bà bị bệnh phong thấp, nên đã chọn chiếc xe này vì nó rộng rãi, thiết kế của xe tránh cho bà không bị thất thế khi ngồi vào xe hay bước ra khỏi xe. 

     Hồi còn trẻ, có lần bà vào bệnh viện nhi đồng thăm con của một người đồng nghiệp. Cô bé bệnh rất nặng, tưởng đâu không qua khỏi. Bệnh viện đã cứu sống cô bé. Chứng kiến và cảm kích sự tận tâm của các bác sĩ, bà muốn làm một việc gì đó để giúp cho bệnh viện có thể cứu thêm nhiều mạng sống nữa, như đã cứu sống cô bé Lynn Adrian, con gái người đồng nghiệp của bà. Cô bé 10 tuổi này gọi bà bằng dì, dù chẳng có ruột rà gì. Nay cô đã là giáo sư, giảng dạy tại trường đại học Alabama ở Tuscaloosa.

     Khi trông thấy người phụ nữ vận đồ đỏ đi đến từng giường bệnh an ủi và tặng gấu bông cho bệnh nhi, không ai biết bà giàu cỡ nào. Đến khi  họ xâu chuỗi lại những câu chuyện về bà, mới sáng ra một chuyện nữa. Đi phát gấu bông chỉ là cái cớ thôi. Thực ra bà muốn tìm hiểu gia cảnh của các cháu để biết gia đình cháu nào lâm vào hoàn cảnh khó khăn, không đủ tiền trang trải chi phí điều trị. Biết để âm thầm giúp họ trả bill.

     Trong suốt 25 năm lui tới bệnh viện, ước tính bà đã giúp khoảng 200,000 Mỹ kim.

     Năm 1969, sau 41 năm làm việc cho công ty American Hospital Supply, bà về hưu. Lúc này, công ty đã trở thành một trong những nhà cung cấp thiết bị y tế lớn nhẩt thế giới. 

     Năm 1997, bà qua đời, thọ 86 tuổi. Bà quyết định  để lại toàn bộ khối tài sản trị giá 18 triệu Mỹ kim cho khoa nghiên cứu của bệnh viện nhi đồng (Memorial Children Hospital) để khoa có kinh phí nghiên cứu và áp dụng những phương pháp điều trị mới cho các bệnh nhi, nhất là các cháu mắc bệnh tim.

     Vì không có họ hàng thân thích, đến dự tang lễ của bà chỉ có khoảng 25 người vốn là bằng hữu lâu năm hoặc là người quen biết. Phần lớn đều đã già yếu hom hem. Không đủ người có sức để khiêng cỗ quan tài, nên một nhân viên nhà quàn đã  kê vai góp sức.

     Phải chăng Gladys Holm đã thực hành một  lời răn dạy:”Khi cho đi thì chớ thổi kèn đánh tiếng.”

Một người nào đó, hẳn  là người đã biết Gladys Holm từng  cho đi những gì, nên đặt vào mỗi chiếc ghế  trong phòng tang lễ một chú gấu bông.

    Trộm nghĩ, đâu nhất thiết phải có tiền muôn bạc triệu mới làm được điều tốt. Mỗi ngày đều đưa cơ hội, cơ duyên đến cho chúng ta. Đó có thể chỉ là một nụ cười, một lời hỏi thăm, một cử chỉ, hoặc chỉ cần sự hiện diện là đủ. Khi làm được những điều tốt như vậy, bản thân cũng thấy vui. Gladys Holm hẳn cũng đã cảm nhận niềm vui này. Chúng ta có thể không đóng góp được số tiền to tát so với số tiền mà bà đã đóng góp,  nhưng nếu đã  giúp được một chút gì đó, ắt chúng ta cũng cảm nhận được niềm vui giống như vậy. Những gì bà đã làm được với số tiền chục triệu của bà, thì chúng ta cũng có thể làm được một việc gì đó với số tiền ngàn, tiền trăm, vài ba chục, với nụ cười, với chút thời gian, với tấm lòng. Sau này nếu có nhìn lại, mới hay, những gì đã cho nào có mất đi đâu, vì chúng đã ở lại trong  ký ức vui vẻ, khiến chúng ta ấm lòng, ấm lòng vì những điều nhỏ nhoi thôi, những điều cho đi mà không cầu hồi báo, không vì cầu phước cho con cháu mình,  không tính toán thiệt hơn; cho đi đơn thuần chỉ vì tha thiết muốn làm như vậy.  Nếu không, thì đó mới thực sự là chúng ta đã bỏ sót, để thiếu mất một điều gì đó trong cuộc đời.

     Tiếc là không tìm thấy tấm hình nào của Gladys Holm, một bà cụ ưa mặc trang phục đỏ, ưa đeo nhẫn to, ưa uống scotch trong bữa tối. Nhưng chí ít, hôm nay đã có thêm vài người biết thêm đôi điều về bà, một người suốt đời sống tặn tiện nhưng tử tế vô biên.

From:Tu-Phung

Đại Hội Thánh Mẫu Ở Missouri 2022! 

Đại Hội Thánh Mẫu Ở Missouri 2022! 

Giới Thiệu Sinh Hoạt Công Giáo Quy Mô, Lớn Nhất Tại Hải Ngoại, Đầu Tháng 8, Ngày 4 Này: Đại Hội Thánh Mẫu Ở Missouri 2022!

 *Luôn Luôn Có Con Số Kỷ Lục! Trên Hàng Trăm Ngàn Người Tham Dự Mỗi Năm!

Điểm tụ mọi người Công Giáo Việt Hải ngoại. Hàng trăm Linh mục, nhiều Giám mục, Nữ tu… nơi quy tụ đông nhất hàng giáo phẩm và giáo dân Công giáo Việt.

*Với đầy đủ mọi tiết mục, đạo, đời, không thiếu một thứ gì!

Ngoài những Thánh Lễ, với các bài giảng hay nhất, trên 20 ban hợp ca quy mô, quy tụ gần hàng ngàn ca viên, nơi đâu cũng có thể xưng tội, tĩnh tâm. Còn đầy đủ các hàng quán, thực phẩm đa dạng, chợ búa, chương trình văn nghệ quy mô do SBTN, Nhạc sĩ Trúc hồ phụ trách. Cảm tưởng như sống trong một khu phố nhỏ toàn người Việt, ngoài Việt Nam.

*Ðại Hội Thánh Mẫu năm 2022! Bắt đầu từ Thứ Tư tuần này!

Tại Tỉnh Dòng Mẹ Chúa Cứu Chuộc, Carthage, Missouri sẽ khai mạc ngày 04 kéo dài đến ngày 07 tháng 08 năm 2022. Được tổ chức lại, sau 2 năm bị gián đoạn vì dịch bệnh.

*Mở đầu…như một phép lạ!

Năm 1978, các cha dòng Đồng Công có trụ sở tại thành phố Carthage MO, trong tinh thần yêu mến Đức Mẹ, bắt đầu tổ chức ngày Thánh Mẫu đầu tiên. Chưa đáng gọi là “Đại hội” vì số giáo dân tham dự chỉ khiêm tốn vào khoảng 1.500 người.

Thế nhưng, như là một phép lạ! không thể tượng tượng nổi, chỉ cần mấy năm sau, con số đã lên đến trên 40.000 người! Từ đây ngày đại hội truyền thống quy mô ra đời. Không dừng lại ở con số đó, vì mỗi năm mỗi tăng, tới nay số giáo dân khắp nơi đổ về, tham dự chắc chắn trên cả trăm ngàn người! Đạt con số kỷ lục, không có Đại Hội nào ở hải ngoại có con số lớn hơn thế! 

*Những điều thú vị…không nơi nào có!

Ban đầu, đại hội này chỉ dành riêng cho người Công giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, nhưng không ngờ sự nhộn nhịp hân hoan và sinh động của mỗi kỳ đại hội Thánh Mẫu, đã lôi cuốn những người Mỹ tại thành phố trên 20.000 người này hòa chung một niềm vui cùng với dòng người khắp thế giới tề tựu về đây tham dự đại hội.

Cả thành phố bừng lên một sức sống vui nhộn, như sau khi qua cơn bạo bệnh được sống lại! Từ hàng quán, siêu thị … chật ních người Việt Nam, họ mua sắm những vật dụng cần thiết cho những ngày đại hội, làm cho thành phố có thêm thu nhập đáng kể, qua các khoản thuế hay dịch vụ khách sạn, du lịch.

Người ta cũng không thể tượng tưởng bởi các khách sạn tại thành phố này và những thành phố xung quanh, đã không còn chỗ trống! vì người ta đã đặt chỗ từ gần năm nay! Những ai chậm chân, đều phải ra các siêu thị mua lều vải, căng lên trong khu vực được chỉ định, để làm nơi nghỉ ngơi qua đêm, qua những ngày tham dự đại hội, tạo thành một khu phố toàn lều!

Tầm ảnh hưởng sinh hoạt lớn lao, đến nỗi chính quyền thành phố, quyết định đổi ngày lễ hội hằng năm, để lấy ngày đại hội Thánh Mẫu của người Việt Nam làm Ngày của thành phố! Đã đóng góp một số lợi tức to lớn, vì thế vấn đề an ninh, y tế, chữa lửa, được thành phố lo liệu hết! Nên ban tổ chức đại hội rất an tâm, những vấn đề an toàn đã có thành phố lo! Không có một đại hội nào, lại thành là công việc chính của tất cả cư dân thành phố!

MỌI ĐIỀU CẦN BIẾT ĐỂ THAM DỰ NGÀY THÁNH MẪU NĂM 2022!

(Theo tin Triều Giang) 

Kính Mời Tham Dự Đại Hội Thánh Mẫu Missouri lần thứ 43

Chủ Đề “Này Là Con Mẹ, Đây Là Mẹ Con!”

Năm nay Đại hội Thánh Mẫu với chủ đề “Này Là Con Mẹ, Đây Là Mẹ Con” (Gioan 19:27) – nói lên sự cậy trông vào sự cầu bầu của Đức Mẹ trong mọi khó khăn của cuộc sống. 

Hàng Giáo Phẩm Đặc Biệt Tham Dự và Giới Thiệu Thành Phần Ban Tổ Chức:

Đại Hội Thánh Mẫu năm nay sẽ có sự tham dự của Các Đức Giám Mục: Đức Cha Carl Keme, thuộc địa phận Wichita, Kansas, Đức Cha James Johnston, địa phận St. Joseph, Missouri, Đức Cha Gerald Vincke, địa phận Salina, Kansas, và Đức Cha Edward M. Rice, địa phận Springfield-Cape Girardeau, Missouri.

Ban Tổ chức gồm các Linh mục: Trưởng Ban là Cha Philipphe Neri M. Đỗ Thanh Cao, Phó Nội vụ: Cha Phanxicô Xaviê M. Đỗ Cao Tùng, Phó Ngoại vụ: Cha Timôthê M. Trần Việt Thắng, thư ký: Cha Phanxicô Assisi M. Trần Hưng Long và thủ quỹ: cha Pôlycarpô M. Nguyễn Đức Thuần cùng với sự hỗ trợ của trên 80 Linh Mục, trên 40 Giáo Xứ, khoảng 20 ca đoàn và hàng trăm các thiện nguyện viên trong các ban ngành từ ban an ninh trật tự, vệ sinh, tiếp tân, ẩm thực…

Một chương trình sinh hoạt ý nghĩa đầy ắp đã được quý cha post trên website của nhà Dòng: www.ngaythanhmau.net.

Trước ngày Đại hội, ngày thứ Tư 3/8 sẽ có buổi chiếu phim phim Fatima về sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, từng được khen là phim cảm động có hình ảnh tuyệt đẹp. Ngày thứ Năm 4/8 sẽ chiếu phim tài liệu về Ngày Thánh Mẫu “Marian Days – A Spiritual and Cultural Homecoming”, tạm địch là “Ngày Thánh Mẫu – Ngày Tìm Về Nghi Thức Và Văn Hóa Quê Hương”. Cả hai đều được chiếu tại Hội trường Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào lúc 2 giờ chiều. Chiều ngày thứ Tư trước Đại Hội sẽ có cuộc cung nghinh và Thánh Lễ kính Thánh Cả Giuse tại Công Trường Nữ Vương Hòa Bình do Cha Pôlycarpô M. Nguyễn Đức Thuần chủ tế và Cha Đaminh M. Nguyễn Phúc Lộc giảng thuyết.

Đại Lễ khai mạc Ngày Thánh Mẫu 2022

Sẽ diễn ra lúc 7 giờ chiều Thứ Năm 4/8 tại Lễ Đài chính do Đức Cha Edward M. Rice thuộc địa phận Springfield-Cape Girardeau chủ tế, và Cha Gioan Trần Khả đến từ Houston giảng thuyết. Tiếp theo là 12 Thánh lễ lần lượt được cử hành tại nhiều địa điểm khác nhau trong khuôn viên nhà Dòng, kiệu Thánh Thể sau Lễ Khai Mạc tối Thứ Năm và cuộc Cung Nghinh Thánh Tượng Mẹ Fatima chiều Thứ Bảy, 12 buổi Hội Thảo với các đề tài về gia đình, niềm tin, và Đức Mẹ do 8 Linh mục giảng thuyết. Đặc biệt là có cuộc Hội Thảo dành cho giới trẻ bằng tiếng Anh do cha Timothy Thắng phụ trách. Cuối cùng là Thánh lễ Bế mạc vào sáng Chủ Nhật lúc 7 do Đức Cha James V. Johnston, giáo phận Kansas City-St. Joseph, Missouri, chủ tế và cha Lawrence M. Châu Hy giảng thuyết. Đại Hội Thánh Mẫu lần thứ 44 sẽ được công bố sau Thánh Lễ.

Giới trẻ được đặc biệt chú trọng

Tản bộ từ trung tâm nhà Dòng để đến đồi Canvê với những hàng cây cao đầy đặc những tàng lá. Có những nơi không một tia nắng nào có thể xuyên qua. Tượng của 14 đàng Thánh giá được đặt tại đây. Dưới các gốc cây cổ thụ còn có những tượng thiên thần cầu nguyện, tượng lão ông ngồi suy tư và nhiều pho tượng khác tạo cho khu vườn một vẻ trầm lắng, bình an. Có 2 xe truck và một số công nhân đang cắt cây cho bớt rậm rạp, một sân khấu vừa được thiết lập. Nơi đây sẽ là nơi sinh hoạt của hàng trăm các học sinh, sinh viên, và những người trẻ đến để sinh hoạt, trình diễn âm nhạc, hội thảo, tham dự Thánh Lễ, và chơi những trò chơi ngoài trời. Có năm đông cũng có tới trên 500 em. Đề tài Hội thảo năm nay là: “Who is at Your Table”. Tạm dịch là “Ai là người ngồi cùng bàn của bạn?” do Sơ Janine Vân Trần, Dòng Trinh Vương, giảng thuyết.

Cha Timothy Thắng phụ trách việc hướng dẫn giới trẻ trong nhiều năm qua, các em đến từ các Giáo Xứ, Cộng Đoàn, hoặc đến từ các nhóm tự do và có nhiều em đã tham dự trong nhiều năm từ khi còn là thiếu nhi cho đến khi trưởng thành. Giới trẻ đặc biệt được nhà Dòng chú tâm đến việc chăm sóc và hướng dẫn tinh thần nên đã đầu tư rất nhiều cho giới trẻ. Không chỉ trong những ngày Đại Hội mà suốt năm, đặc biệt là mùa hè, có những khóa huấn luyện dành cho các hội đoàn thanh thiếu niên từ khắp các giáo xứ.

Chương trình văn nghệ quy mô do SBTN đảm trách:

Tuy là cuộc hành hương mang nặng tính cách tôn giáo, quý cha cũng đã nghĩ đến nhu cầu giải trí của khách hành hương nên năm nào ngoài những tiết mục văn nghệ truyền thống của các giáo xứ và một số hội đoàn, nhà Dòng năm nào cũng mời một trung tâm ca nhạc đến trình diễn vào hai ngày thứ sáu 5/8 và thứ bảy 6/8. Năm nay quý cha đã mời đài SBTN đứng ra kêu gọi các ca nhạc sĩ đến giúp vui cho Đại Hội. Chúng tôi có tiếp xúc với MC Diệu Quyên là phối trí viên, chị cho biết:

“Có anh Trúc Hồ và hai ban nhạc; một của Trúc Sinh và một của Sĩ Đan. Về ca sĩ có rất nhiều người tham dự để giúp vui với các ca sĩ nổi tiếng như Việt Khang, Hoàng Quân, Gia Vy, Dạ Nhật Yến, Thúy An, Hoàng Anh Thư…MC ngoài Diệu Quyên còn có Kim Nhung, Hoàng My và nhà báo Nguyễn Khanh. Cha có yêu cầu tấu hài nên Diệu Quyên có mời Thành Lễ đến để đem những trận cười thoải mái cho bà con tham dự Ngày Thánh Mẫu.”

Ba lý do khiến bạn nên tham dự Ngày Thánh Mẫu Missouri:

Nhiều lý do chung và riêng của mỗi người, có thể nêu ra 3 lý do chính là trong những năm vừa qua biết bao nhiêu điều đã xảy ra cho chúng ta từ dịch bệnh, chiến tranh cho đến vấn đề khó khăn kinh tế khiến đời sống của mọi người bị ảnh hưởng, chúng ta cùng đến đây để cầu nguyện chung giữa người Việt chúng ta, với giáo hội Hoa Kỳ. Lời cầu nguyện chung luôn có kết quả tốt đẹp. Thứ hai là chúng ta đem tâm tình riêng đến đây để chia sẻ và được ủi an trong những buổi hội thảo để chúng ta cảm thấy là mình không phải chịu đựng khó khăn trong cô đơn, bế tắc. Thứ ba là năm nay cũng là năm kỷ niệm 105 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Chúng ta đến đây để cầu nguyện và được ơn của Mẹ Fatima.”

Giới thiệu những sinh hoạt nổi bật!

 “Rước kiệu là sinh hoạt được sự quan tâm và khen ngợi nhất của các Đức Cha Hoa Kỳ và người bản xứ khi họ được chứng kiến kiệu hoa trang hoàng đẹp, rực rỡ, trang nghiêm, những cảnh dâng hoa của các đoàn đầy nét độc đáo mang sắc thái văn hóa đặc thù Việt Nam và sự cung kính của toàn thể khách hành hương đã khiến cho báo chí truyền thông địa phương luôn tấm tắc khen ngợi. Năm nay Đại Hội sẽ có 2 cuộc rước kiệu vào chiều thứ tư để kính thánh Giuse và chiều thứ Bảy để cung nghinh Thánh Tượng Đức Mẹ Fatima.

Riêng các buổi Hội Thảo phụ trách bởi quý cha Giảng Thuyết có nhiều kinh nghiệm và nổi tiếng như quý Cha Vũ Thế Toàn, Cha Nguyễn Khắc Hy, Cha Trần Khả, Cha Nguyễn Thiết Thắng, Cha Nguyễn Bá Quốc Linh, Cha Phạm Quốc Văn, Cha Nguyễn Nam Thảo, Sơ Janine Vân Trần, với những đề tài phong phú và thiết thực với đời sống hàng ngày đem lại những lời khuyên hữu ích, những ủi an xoa dịu phần nào những khổ đau lại là sinh hoạt được nhiều khách hành hương quan tâm, tâm đắc nhất.

Rồi các chương trình sinh hoạt, Thánh Lễ và hội thảo dành riêng cho giới trẻ tại đồi Canvê do cha Timothy M. Thắng phụ trách cũng là một dấu ấn của Đại Hội”.

Lời kết: Đại Hội là cơ hội vừa sống đạo, vừa tìm lại quê hương và tình người

Nhìn chung, Đại Hội Thánh Mẫu Missouri luôn hội tụ đông đảo khách hành hương hàng năm mặc dù địa điểm của nhà Dòng tương đối tách biệt với những thành phố lớn có đông người Việt sinh sống, chính là vì chương trình Đại Hội phong phú, đầy ắp những sinh hoạt cần thiết cho đời sống đức tin của mọi lứa tuổi, và cũng là nơi có cuộc hội tụ đông đảo nhất của người Việt hằng năm cả những người Công giáo và khác tôn giáo. Khách hành hương đến đây ngoài việc để tìm ý nghĩa cho cuộc sống còn tìm được hình ảnh, bóng dáng, không khí của quê hương Việt Nam ngày xưa, và để gặp gỡ những người thân quen hoặc những người chưa quen trong một khung cảnh rất Việt Nam trên đất khách, quê người mà khó có thể tìm được dù ngay trên quê hương Việt Nam hôm nay. 

Muốn tham dự, xin liên lạc:

Quý vị muốn ghi thanh tham dự, có thể liên lạc với nhà Dòng theo địa chỉ và số điện thoại dưới đây:

1900 Grand Avenue

Carthage, MO 64836

Điện thoại: +1 (417) 358-7787

From: ThuNNguyen

Tiễn biệt GS Nguyễn Xuân Vinh, một đời khoa học cống hiến cho nhân loại

Tiễn biệt GS Nguyễn Xuân Vinh, một đời khoa học cống hiến cho nhân loại

July 29, 2022

Văn Lan/Người Việt

GARDEN GROVE, California (NV) – Thánh Lễ An Táng và tiễn đưa cố Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh về nơi an nghỉ cuối cùng vừa diễn ra sáng Thứ Sáu, 29 Tháng Bảy, trong không khí trang nghiêm tại nhà thờ Chính Tòa Chúa Kitô (nhà thờ Kiếng), Garden Grove.

Di ảnh cố Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Thánh Lễ do Giám Mục Nguyễn Thái Thành, giám mục phụ tá Giáo Phận Orange, làm chủ tế và các linh mục Việt Nam thuộc Giáo Phận Orange cùng đồng tế.

Giám Mục Nguyễn Thái Thành nói: “Xin đại diện Đức Cha Kevin Vann [giám mục Giáo Phận Orange], tất cả các linh mục hiện diện nơi đây và ở Giáo Phận Orange, xin phân ưu với tang quyến của Giáo Sư Alphonsô Nguyễn Xuân Vinh. Là người Việt Nam, chúng ta hãnh diện có một nhà bác học tài ba, với nhiều tài năng và thành công có tầm mức ảnh hưởng trên thế giới. Như quý vị đã nghe mấy ngày qua, ông là vị tư lệnh Không Quân, đã đưa miền Nam Việt Nam lên tầm cao quốc tế, ông cũng là một nhà văn mang tên Toàn Phong, với quyển ‘Đời Phi Công’ đã làm mềm lòng bao thế hệ.”

“Nhưng điểm son cao quý nhất của ông chính là Tiến Sĩ Khoa Học Không Gian từ Đại Học Colorado và là giáo sư của Đại Học Michigan gần 30 năm. Với kiến thức khoa học, ông đã vẽ đường bay của phi thuyền Apolo 11 và hướng dẫn cho hai phi hành gia Neil Armstrong và Buzz Aldrin đặt chân lên mặt trăng. Điều này chính tôi đã nghe ở Việt Nam năm 1970,  khi tôi chuẩn bị thi Tú Tài I và Tú Tài II, và có lòng ngưỡng mộ ông từ lúc đó,” Giám Mục Thành tiếp.

“Tôi đồng ý với Bùi Chí Vinh khi đã viết ‘Nòi giống Tiên Rồng làm rạng rỡ năm châu/ Văn võ song toàn mà không cần đến gươm đao/ Nhân nghĩa lễ trí tín vượt hàng rào biên giới.’ Là người Công Giáo, tôi cảm tạ ơn Chúa đã ban cho bác học Nguyễn Xuân Vinh những tài năng đặc biệt đó. Những thành quả tốt đẹp của ông mà chúng ta vừa nhắc đến làm tôi nhớ đến lời Chúa dạy là hãy dùng những nén bạc Chúa ban, những nén bạc trí thức, mà giúp cho đời sống khoa học xã hội,” vị Giám Mục tiếp.

Giám Mục Nguyễn Thái Thành (giữa), giám mục phụ tá Giáo Phận Orange, chủ tế, cùng một số linh mục đồng tế trong Thánh Lễ An Táng cố Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Với bài giảng trong Thánh Lễ An Táng, Linh Mục Thái Quốc Bảo, chánh xứ nhà thờ Chính Tòa Chúa Kitô, nói: “Giáo Sư Vinh suốt cuộc đời cống hiến cho đất nước, cho dân tộc, không những thế, ông dành rất nhiều thì giờ để chiêm nghiệm về cuộc đời và sự sống để đón nhận Thiên Chúa, và cụ thể hơn là Chúa Giêsu Kitô. Khi đón nhận Thiên Chúa như thế, ông cũng noi gương Thánh Lazarô, tuyên xưng niềm tin của ông vào sự sống hằng cửu, sự sống phục sinh. Xin cộng đoàn dân Chúa, cùng ông bà anh chị em con cháu trong gia đình, cảm ơn ông vì sự hy sinh tận tụy phục vụ, những điều ông đã làm cho quê hương đất nước.”

Nói về cố Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh, bà Nguyễn Thị Nghinh Xuân (Phiến Đan), hiền thê của cố giáo sư, cho hay: “Trong giờ phút cuối cùng này, bản thân tôi và gia đình rất hãnh diện vì mọi người vẫn yêu mến ông, một người luôn muốn các thế hệ trẻ tiếp nối theo bước cha ông. Chúng tôi nghĩ rằng cộng đồng Việt Nam nên khuyến khích con cháu chúng ta muốn học giỏi, phải có sự quan tâm đến tổ quốc, dù là đất nước Hoa Kỳ hay Việt Nam, đó là hướng đi của ông đã theo.”

“Giáo Sư Vinh luôn quan tâm đến giới trẻ trong nước và những thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), ông vẫn luôn đóng góp với khả năng của mình. Giờ thì ông đã ra đi, chúng tôi sẽ tiếp tục hỗ trợ Giải Khuyến Học Nguyễn Xuân Vinh và thương phế binh VNCH, cũng như những cựu quân nhân Hoa Kỳ trong giai đoạn tới, đó là những việc chúng tôi sẽ tiếp nối,” bà chia sẻ.

Bà Phiến Đan, hiền thê cố Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh, dâng lời cảm tạ trong Thánh Lễ An Táng. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Trong Thánh Lễ An Táng, đặc biệt có những cựu chiến sĩ Không Quân VNCH, và các học sinh Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Bưởi-Chu Văn An Nam California, cùng các thân hữu cùng đến viếng.

Ông Trần Vệ, thuộc Phi Đoàn 243 và Phi Đoàn 219, cho hay: “Khi lớn lên, tôi vào lính sau ông Nguyễn Xuân Vinh sáu năm, nên không biết ông ấy là ai, chỉ biết nhà văn Toàn Phong với quyển ‘Đời Phi Công’ làm ảnh hưởng rất lớn đến bao lớp trai trẻ VNCH, thế là chúng tôi gia nhập Quân Chủng Không Quân.”

“Qua nhiều năm khủng khiếp của cuộc đời quân ngũ, có cả nét đẹp và cả đau thương khi đất nước đổi chủ. Qua bên đây tình cờ tôi biết ông khoảng hai mươi mấy năm. Những lần ra mắt sách, tôi đều có gặp ông, một người rất bình dị, rất thương anh em lính chúng tôi. Những tình cảm mà Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh đã dành cho chúng tôi rất nhiều,” ông Trần Vệ nói.

Ông Nguyễn Công Huân, hội trưởng Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Bưởi-Chu Văn An Nam California, cùng phái đoàn của trường đến viếng, cho hay điều ít ai biết đến là Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh từng là giáo sư dạy tại trường Chu Văn An Sài Gòn.

“Là thế hệ trẻ tuy chưa bao giờ là học trò của thầy Nguyễn Xuân Vinh, bởi vì lúc đó chúng tôi còn ở bậc tiểu học, chỉ biết rằng rất hãnh diện khi thầy dạy ở đó, và sau này thầy là một khoa học gia không gian nổi tiếng thế giới. Thầy là biểu tượng văn võ song toàn, khi dạy ở trường, thầy đã là một tư lệnh Không Quân VNCH. Là người Việt, chúng tôi rất hãnh diện khi có một nhân tài phục vụ khắp thế giới! Sau này thầy là cố vấn cho hội, chúng tôi lại càng ngưỡng mộ hơn nữa. Thầy là tấm gương người Việt Nam học hỏi không ngừng cho thế hệ trẻ sau này!” ông Huân chia sẻ.

Các giám mục, linh mục, hội đoàn, thế hệ học trò trường Chu Văn An Sài Gòn trước khi di quan cố Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh qua đời lúc 2 giờ 39 phút chiều Thứ Bảy, 23 Tháng Bảy, tại tư gia ở Costa Mesa, California, hưởng đại thọ 92 tuổi.

Ông là người nổi tiếng không chỉ về binh nghiệp mà còn đóng góp nhiều cho khoa học, đặc biệt là lĩnh vực không gian từ Việt Nam, Pháp đến Hoa Kỳ, và còn là nhà văn với bút hiệu Toàn Phong.

Năm 1951, ông nhập ngũ vào Quân Đội Quốc Gia tại trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định, tốt nghiệp với cấp bậc chuẩn úy phục vụ ngành Không Quân và được đi du học tại Học Viện Không Quân ở Salon-de-Provence, Pháp (École de l’Air).

Đầu năm 1954, ông tốt nghiệp bằng phi công. Sau đó, ông phục vụ chuyên ngành tại Pháp và Maroc. Trong thời gian này, ông ghi danh học đại học và thi đậu bằng cử nhân toán ở đại học Aix-Marseille University.

Một năm sau, ông được lệnh trở về Việt Nam và được thăng cấp trung úy, phục vụ trong Bộ Tư Lệnh Không Quân. Cuối năm 1955, ông được thăng cấp đại úy làm trưởng phòng nhân viên trong Bộ Tư Lệnh Không Quân, rồi lên thiếu tá làm tham mưu phó tại Bộ Tư Lệnh Không Quân.

Các chiến hữu Không Quân chào tiễn biệt lần cuối cố Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Năm 1957, ông được thăng cấp trung tá, làm tham mưu trưởng Không Quân. Một năm sau, ông được thăng cấp đại tá, được bổ nhiệm làm tư lệnh Không Quân.

Năm 1962, ông xin giải ngũ và du học Hoa Kỳ, bắt đầu sự nghiệp khoa học của mình khi mới 32 tuổi, và lấy bằng Tiến Sĩ Khoa Học Không Gian tại đại học University of Colorado, Boulder, năm 1965, sau khi thực hiện thành công nghiên cứu công trình tính toán quỹ đạo tối ưu cho phi thuyền do NASA tài trợ.

Sau đó, ông làm giáo sư đại học University of Michigan, rồi lấy thêm bằng Tiến Sĩ Quốc Gia Toán Học tại Đại Học Sorbonne, Paris, Pháp. Năm 1982, ông là giáo sư của ngành Toán tại đại học National Tsing Hua University, Đài Loan.

Kể từ đó, ông được bầu vào một số cơ quan khoa học, làm diễn giả tại các hội nghị và đại học khắp thế giới, và được đại học University of Michigan phong tặng chức Giáo Sư Danh Dự ngành kỹ thuật không gian vì công lao đóng góp cho khoa học và giáo dục.

Trong sinh hoạt hội đoàn cộng đồng vùng Little Saigon, Orange County, California, Giáo Sư Vinh cũng là chủ tịch Hội Đồng Đại Diện Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Hải Ngoại bắt đầu từ năm 2003. [qd]

Kính tiễn Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh – Tác giả: Quyên Di

Kính tiễn Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh – Tác giả: Quyên Di

Thế là qua một đời người
Không còn tiếng khóc giọng cười phù sinh.
(QD)

Tôi đứng bên cạnh giường
Giáo sư Vinh bây giờ khép mắt
Hành trình cuối cùng đã xong, Giáo sư tròn giấc
Bên ngoài vườn một tiếng chim hót lẻ loi.

Nhưng tôi không tin phút cuối cùng Giáo sư thấy đơn côi
Khi bên cạnh có những người thân yêu nhất
Tiếng thánh ca vang lên lẫn trong tiếng nấc
Xin gửi An-phong-sô Nguyễn Xuân Vinh vào vòng tay Đấng Chí Ái Chí Nhân.

Tôi không còn nhớ biết bao lần trong ngôi nhà chan chứa tình thân
Chúng ta đã ngồi bên nhau hàn huyên tâm sự
Giữa chúng ta có điều gì nặng nợ
Khi đã một lần suýt hiểu lầm nhau
Rồi cởi mở lòng ra trong một phút, rất mau
Gạn đục khơi trong, chỉ nhìn thấy trong nhau những gì cao quý nhất
Tôi thích đọc những gì Giáo sư viết trong đêm khuya thức giấc
Giáo sư thích nghe những lời tôi bàn chuyện văn chương.

Căn phòng di vật quả là một chút vấn vương
Những thành tích lẫy lừng Giáo sư thực hiện
Dẫn tôi vào xem, Giáo sư trầm tư mặc tưởng
Buông bàn tay khỏi những hiển hách huy hoàng
Cuộc đời bây giờ là những buổi chiều vàng
Giáo sư nguyện cầu Chúa đoái thương phù giúp.

Sống như Giáo sư, với người ta là tròn mộng ước
Khi đã từng là Tư lệnh Không Quân
Là Giáo sư những đại học lừng danh
Là tác giả phương trình vượt không gian vào vũ trụ
Là nhà văn với những tác phẩm vô cùng quyến rũ
Đời Phi Công làm đắm say bao hồn trẻ phiêu bồng
Nhà toán học đại tài làm rạng rỡ giống Tiên Rồng
Nhưng với Giáo sư, hình như chưa phải là đích điểm.

Có một điều gì Giáo sư khát khao tìm kiếm
Bên ngoài những phương trình, quỹ tích, đạo hàm
Bên ngoài phẩm hàm, bên ngoài chức tước cao sang
Điều tìm kiếm: đâu thật là CHÂN LÝ?
Chân Lý ấy không ở trong những lời hoa mỹ
Không ở trong một khối óc phi thường
Và bỗng một ngày Giáo sư biết: đó là chính TÌNH THƯƠNG
Của Đấng Trên Cao thương kiếp người YẾU ĐUỐI
“An-phong-sô, thôi hãy ngừng theo đuổi
những phù hoa, hãy đến cùng TA!”
Những năm tháng cuối đời, Giáo sư đã nhận ra
CHÂN LÝ ấy là ĐẤNG TOÀN NĂNG (Đại Ngã).

Đời sống chúng ta đều như thế cả
Trong vòng quay của một kiếp trầm luân
Hạnh phúc, buồn đau, đoàn tụ, rẽ phân
Vinh quang, nhục nhằn, thành công, thất bại
Phút cuối đời tất cả đều bỏ lại
Nhưng với khổ đau tiếc nuối hay thanh thản hân hoan?
Giáo sư đã tìm ra một định luật vàng:
Dâng tất cả lên đôi tay Rất Thánh
Lòng sẽ hân hoan vì yếu mềm chính là sức mạnh
Đưa Giáo sư về gặp Đấng Sáng Tạo Toàn Năng.

Kính tiễn Giáo sư như một cánh sao băng
Vượt vũ trụ bay vào lòng ĐẠI NGÃ.

【Quyên Di (23/07/2022, một buổi chiều vàng)

Ngày về

https://www.youtube.com/watch?v=uWsH1mRim5Y&ab_channel=V%C5%A9L%C3%AAHu%C3%A2n

Vĩnh biệt mọi người ” tôi ra đi lần cuối,,,!!!

https://www.youtube.com/watch?v=E4BzBffffhg&ab_channel=Nguy%E1%BB%85nTh%C3%A0nhvlog

Tháng 7 tưởng niệm Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy – NGƯỜI ĐI, NON NƯỚC Ở LẠI

Tưởng niệm một giáo sư đáng kính. “… Vì sanh trong một nước Việt Nam không độc lập, thiếu tự do và chìm đắm trong sự loạn lạc, nên tôi phải dấn thân vào cuộc tranh đấu chính trị, và do đó mà phải học về chính trị, dạy về chính trị, và đứng ra lãnh đạo một đoàn thể chính trị.

Dầu cho có được làm lại cuộc đời từ đầu mà hoàn cảnh Việt Nam không khác hoàn cảnh tôi đã trải qua, thì tôi cũng sẽ làm như tôi đã làm…” (Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy)

  • Tháng 7 tưởng niệm Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy-

NGƯỜI ĐI, NON NƯỚC Ở LẠI

Chu Lynh

Nén hương lòng của kẻ hậu sinh

Kính dâng anh linh nhà ái quốc Nguyễn Ngọc Huy (1926-1990)

“Những dữ kiện trong bài này được thu thập từ những tài liệu, bài viết, tiếp xúc, phỏng vấn các nhân chứng đã từng kề cận nhà ái quốc Nguyễn Ngọc Huy: ông Nguyễn Ngọc Diệp, nhà văn Đỗ Tiến Đức, ông Trần Sĩ Hải, ông Vương Từ Mỹ, ông Hoài Sơn Ung Ngọc Nghĩa, Giáo sư Tạ Văn Tài, cô Nguyễn Ngọc Thúy Tần, Giáo sư Nguyễn Toản, ông Nguyễn Phước Trang, ông Trần Cẩn Trọng, và ông Nguyễn Cao Tuấn”.

Chuyến bay định mệnh

Phi trường Zaventem, Brussels,Vương Quốc Bỉ

Khởi hành từ New York, chiếc Boeing đáp xuống phi trường Zaventem trễ ba mươi phút. Trong lúc chuẩn bị rời máy bay, hành khách bỗng phát giác một người bất tỉnh trên ghế ngồi. Người đàn ông lớn tuổi, ốm yếu, da mặt xanh xao. Một lát sau, ông tỉnh lại. Một tiếp viên thấy ông không thể di chuyển được, liền gọi xe cấp cứu.

Hôm ấy là ngày 20 tháng 7 năm 1990. Người hành khách bất tỉnh đi trên chuyến bay mang số 34 của hãng hàng không Pan Am mang tên: Nguyễn Ngọc Huy. Người Việt hải ngoại thường gọi ông là Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, người ngoại quốc thích gọi ông là Tiến sĩ Nguyễn. Ông ghé Brussels theo lộ trình tham dự Đại Hội Thế Giới tại Hòa Lan của Liên Minh Dân Chủ Việt Nam, một tổ chức chính trị do ông thành lập từ mười năm qua.

Khi nhân viên xe cứu thương hỏi ông cần đi bệnh viện không, ông từ chối và yêu cầu chở vào phòng đợi, viện lẽ đã hẹn người nhà ra đón.

Ba người đến đón ông: Nguyễn Kim Luân, Trần Qúy Phong, Nguyễn Ngọc Vinh. Họ đã không tìm ra ông trong đám hành khách đang đứng quanh quẩn bên thang máy bay chờ nhận hành lý. Họ chia nhau tìm kiếm.

Khi được nhân viên phi trường cho hay tin, họ trở lại phòng đợi, thấy ông Nguyễn Ngọc Huy đang đứng với một người Việt Nam. Nhưng xem ra ông quá mệt mỏi chẳng nghe người bên cạnh nói gì.

Trên đường về nhà ông Nguyễn Ngọc Diệp, một đoàn viên Liên Minh Dân Chủ, với giọng rất yếu, ông hỏi có ai biết cạo gió không. Một người lễ phép thưa sẽ cạo gió cho ông khi về đến nhà.

Khoảng 12 giờ 30, chiếc xe về đến nhà. Ông Diệp thực sự xúc động khi nhìn thấy cơ thể của ông quá tiều tụy. Ông bắt đầu cạo gió. Không có gió ở phía sóng lưng bên trái, nhưng bên phải và cổ, da thịt đỏ ửng lên. Nhờ xoa bóp toàn thân, người ông ấm lên, ông cho biết đã đỡ hơn.

Giọng nói của ông thều thào, phát âm không rõ, hậu quả của chứng ung thư lưỡi từ tám năm nay. Ông cho hay: “Trước khi đi bị cảm lạnh, rồi mất ngủ suốt đêm, trên phi cơ cũng không ngủ được. Qua đây lại bị trúng gió …”

Trong căn phòng gia đình đã chuẩn bị cho ông, để sẵn hai tờ báo Le Monde và Le Soir, có lẽ chủ nhà biết thói quen của ông. Qua cửa kính mờ, hình ảnh một ông già ốm yếu lom khom đọc báo, tay phải cầm cây viết ghi chép, khiến mọi người muốn rơi lệ. Bên ngoài phòng, các đoàn viên của ông đã hội ý nhau và quyết định mời bác sĩ Hoàng Thị Ngọc Quỳnh đến chăm sóc cho vị lãnh đạo của mình.

Tuy mệt, ông vẫn ra phòng khách nói chuyện, vẫn trả lời thông suốt các câu hỏi, nhưng luôn luôn hỏi lại “Tôi nói các anh nghe có rõ không?”

Bác sĩ Ngọc Quỳnh khám rất kỹ. Bà cho biết, áp huyết bệnh nhân rất thấp, mạch tim đập yếu, các bộ phận khác cũng yếu. Muốn hồi sức, phải tiếp nước biển. Nhưng nếu tiếp nước biển ở nhà, luật lệ y tế ở Bỉ đòi hỏi phải thử nghiệm máu, và một số thủ tục khắt khe khác, nên cấp thời chỉ còn cách chích thuốc khoẻ. Bà cũng không có sẵn loại thuốc này.

Cuối tuần, chỉ có nhà thuốc trực, nên nửa giờ sau, mới tìm mua được thuốc. Việc chích thuốc cho ông cũng không mấy dễ dàng. Mười phút sau, bác sĩ khám lại. Bệnh nhân có phần tươi tỉnh.

Gia đình bưng đến một chén súp. Mỗi lần đưa được một muỗng súp vào miệng là ông ho sặc sụa, phải uống thêm nước cho thông cổ.

Trước đây, ông xin mọi người đừng hỏi khi ông đang ăn. Lần này, không ai lên tiếng, nhưng ông vẫn cứ ho liên tiếp, có khi không nuốt được phải nhả ra. Mồ hôi từng giọt hai bên cổ. Ông cúi đầu xuống, nhắm mắt lại chịu đựng cơn đau. Mọi người nhìn ông ứa nước mắt. Khoảng nửa giờ sau, ông đưa vào miệng được gần một chén súp nhỏ. Sau đó, ông dùng một ly crème flanc, nuốt vào ít khó khăn hơn.

Ăn xong, ông tiếp tục hỏi thăm mọi người, kể cả những người vắng mặt. Ông Diệp còn nhớ, những lần đến Brussels, ông Nguyễn Tấn Liêm thường tiếp ông Nguyễn Ngọc Huy tại nhà, tâm đắc nhắc những kỷ niệm xa xưa, vì hai người cùng tuổi, cùng học trường Petrus Ký Sài Gòn. Có lần ông Nguyễn Tấn Liêm tâm sự:

“Bây giờ chỉ còn có anh là thỉnh thoảng tôi gặp, còn mấy người khác chẳng bao giờ tôi thấy..” Ông chậm rãi đáp lại: “Còn chút sức khỏe, tôi còn cố gắng đi. Vài ba năm nữa thôi, cũng sẽ hết đi nổi. Mỗi năm tôi ở nhà bốn tháng, còn tám tháng ở nhà anh em..”

Đêm hôm đó, dù đã khuyên thầy mình đi ngủ sớm, ông Diệp vẫn thấy bóng ông lờ mờ sau cửa kiếng. Ông đang viết, khom người trên nệm. Đồng hồ chỉ 1 giờ 30 sáng.

Mọi người sắp xếp đưa ông về Paris, vì điều kiện chăm sóc y tế ở đó khả quan hơn ở Bỉ. Hơn nữa, ngày Thứ Bảy 21-7-1990, ông có cuộc họp quan trọng ở Paris.

Khoảng 1 giờ trưa ngày 21-7, các ông Trần Cẩn Trọng, Thái Quan, và Lê Chí Thiện đến dùng cơm chung với ông và gia đình. Ông cũng chỉ nuốt được một muỗng cơm.

5 giờ 40, ông chuẩn bị rời Brussels. Hành trang của ông gồm mấy cái xách tay, cặp da đầy sách vở, áo quần, thuốc men, và một máy xay thức ăn nhỏ. Ông để lại một số vật dụng, dự tính sẽ trở lại Brussels để đi Hòa Lan sau đó.

Ông đưa tay chào gia đình. Không ngờ đó là lần cuối cùng gia đình ông Nguyễn Ngọc Diệp tiếp người thầy của mình.

Paris ngậm ngùi

Thứ Bảy 21-7-1990. Ông Trần Cẩn Trọng đưa ông về nhà mình, và gọi điện thoại ngay cho một bác sĩ quen đến vào nước biển cho bệnh nhân. Nhưng khi vào được khoảng 300cc thì bệnh nhân than mệt phải ngưng lại. Buổi chiều, ông ăn được cơm và cho biết đã khỏe lại một chút.

Thứ Ba 24-7-1990, ông họp toàn thể Liên Khu Bộ Âu Châu đến 11 giờ khuya.

Thứ Tư, ngày 25-7-1990. Thức dậy, ông cảm thấy bình thường. Nhưng đến trưa thì ông than mệt. Bác sĩ Nguyễn Minh Tân đến chích nước biển cho ông, nhưng chỉ được 250cc rồi ngưng lại.

Tối đó trưởng nam của ông, Nguyễn Ngọc Quốc Thụy đến thăm. Bác sĩ Tân đề nghị gia đình nên đưa bệnh nhân về Hoa Kỳ chữa trị. Cô Nguyễn Ngọc Thúy Tần, ái nữ của ông, từ New York gọi điện thoại qua, ông nói không ngủ được, vì thời tiết Paris quá nóng.

Thứ Năm, 26-7-1990. Ông cố gắng nuốt được hai muỗng súp, nhưng vẫn chưa mất hết vị giác, vẫn còn muốn dùng thức ăn như bí, cá mòi. Bác sĩ Tân chích một liều thuốc an thần.

Thứ Sáu, 27-7-1990. Ông có cảm giác buồn ngủ. Bác sĩ chích một mũi thuốc Kenacort. Ông ngủ được đêm hôm đó.

Thứ Bảy, 28-7-1990. Sáng thức dậy, ông nói với ông Trọng đã ngủ ngon đêm qua. Ông Trọng làm cho ông một ly sữa hột gà. Ông căn dặn ông Trọng xem lại bài thuyết trình ông đã soạn sẵn để tiến hành Đại Hội Hòa Lan.

Quốc Thụy đi mua vé máy bay cho ông trở về Hoa Kỳ. Chiều trở về dùng cơm với ông. Bác sĩ Tân chích thêm nước biển, nhưng ông từ chối vì mệt.

Đến chiều, bác sĩ tiếp tục chích nước biển. Nhưng khi chích vào gân nào, thì bể mạch máu đến đó, nơi chích bị sưng phù lên. Bác sĩ đành phải chích vào thịt loại Cortine Naturale.

Khoảng 8 giờ tối, ông ra phòng khách nói chuyện với bác sĩ Tân, ông Trọng và một số đoàn viên. Bác sĩ Tân hỏi ông cần dùng gì thêm không, ông nói muốn uống hết lọ Renutryle để thay cho thức ăn. Bác sĩ kiếu từ ra về.

Khi người nhà bưng ly trà sâm lên, ông không thể uống được vì còn quá nóng. Nghe xong, ông Trọng đi xuống bếp.

9 giờ 15, Quốc Thụy gọi ông Trọng cho hay ông mệt và hơi thở có dấu hiệu khác thường. Ông Trọng thấy ông hắt hơi, khó thở. Cả ba người, ông bà Trọng, và Quốc Thụy cùng đở ông lên giường. Ông Trọng gọi điện thoại cho bác sĩ Tân.

Bác sĩ Tân đến ngay. Người thầy thuốc tận tụy những ngày cuối cùng với bệnh nhân, cũng là nhân chứng cho giờ phút lâm chung của người bạn chí thiết Nguyễn Ngọc Huy. Ông thở hắt hơi ra vài lần. Rồi lịm dần, lịm dần…

Ông trút hơi thở cuối cùng trên tay người con trai, kết thúc một định mệnh sáu mươi sáu năm trên cõi nhân gian này, vĩnh biệt các môn sinh và bằng hữu, để bước qua một thế giới khác lúc 9 giờ 30 tối ngày 28-7-1990.

Trên bầu trời hải ngoại, ngọn hải đăng Nguyễn Ngọc Huy đã vụt tắt.

Nỗi đau sâu thẳm

Cuối thập niên 1970, và đầu thập niên 1980, trong lúc người Việt tỵ nạn cộng sản khắp nơi náo nức với phong trào trở về chiến đấu giải phóng quê hương, thì ông Nguyễn Ngọc Huy là người đi tiên phong mở mặt trận nhân quyền làm vũ khí đấu tranh, vì ông nhận thấy giải pháp quân sự rất khó thực hiện.

Ông thành lập Liên Minh Dân Chủ Việt Nam, quy tụ nhiều thành phần trí thức và tâm huyết. Rồi ông vận động các chính khách ngoại quốc, tướng lãnh, dân biểu, nghị sĩ của nhiều quốc gia để thành lập Ủy Ban Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do. Hai thành quả vượt bực của nhà vận động Nguyễn Ngọc Huy.

Có thể ví ông như “Thiên tài là cái đồng hồ đi trước” khi ông đi trước quần chúng một khoảng cách xa. Không phải dễ dàng hướng dẫn dư luận. Nhưng các thành viên của hai tổ chức này lạc quan về triển vọng cuộc tranh đấu sẽ thành công. Trong cuộc nói chuyện tại Calgary, Canada ngày 21-12-1986, ông tin rằng cộng sản sẽ sụp đổ, nếu người Việt biết vận dụng các yếu tố: tổ chức lực lượng trong nước, người Việt hải ngoại yểm trợ, và vận động quốc tế yểm trợ cuộc đấu tranh chính nghĩa của người Việt.

Nhưng mệnh trời đã không cho ông đi nốt cuộc đấu tranh mà ông đã khổ công đeo đuổi hơn bốn mươi năm qua. Căn bệnh ung thư lưỡi kéo dài nhiều năm, nay đã đến giai đoạn cuối. Bác sĩ kinh ngạc khi thấy ông đã coi thường căn bệnh hiễm nghèo, vẫn sống, vẫn bôn ba khắp nơi, vẫn lạc quan về tương lai Việt Nam.

Hình ảnh của ông những ngày cuối cùng trên giường bệnh, không phải trong bệnh viện đủ tiện nghi, mà tại nhà một người bạn, mới biết ông đã chiến đấu với tử thần, dũng cảm như một chiến sĩ ngoài trận địa. Vẫn đọc, vẫn viết, vẫn hội họp. Như thể ông có thể thắng trong cuộc chạy đua với thời gian. Nhưng hơn ai hết, ông linh cảm tử thần đã lảng vảng bên mình khi nhận ra cuộc chiến đấu với căn bệnh đã đến hồi kết thúc.

Đức độ và tài năng của ông Nguyễn Ngọc Huy đã khiến dân biểu Canada, ông David Kilgour đã ví ông như một Gandhi Việt Nam. Nhưng ông lại đảm trách quá nhiều vai trò, từ trên chính trường đến hậu trường. Là con người nhìn xa trông rộng, hẳn ông đoán được đoàn thể của ông sẽ đối diện với nhiều khó khăn nội bộ lẫn với bên ngoài khi ông nằm xuống.

Nhiều người hối thúc ông dự liệu một truyền nhân thay thế ông tiếp tục lèo lái hai tổ chức quan trọng này. Nhưng, theo nhà văn Đỗ Tiến Đức cho biết, nhiều lần được hỏi, ông Nguyễn Ngọc Huy vẫn chưa có câu trả lời. Có lẽ đây là nỗi ưu tư lớn nhất những ngày cuối đời của ông.

Ngày 16-4-1974, bà Dương Thị Thu, người vợ của ông do bạn bè mai mối, đã chết trong một tai nạn tại bãi biển Vũng Tàu. Người đàn bà đảm đang, không bao giờ xen vào công việc của chồng, chăm sóc và dạy dỗ con cái để ông có thì giờ hoạt động. Trong mọi hoàn cảnh, bà đã chu toàn bổn phận người vợ trong âm thầm, như một anh hùng vô danh trong bài thơ “Anh Hùng Vô Danh” của ông.

Ông mang nỗi đau khổ này trong lòng, suốt phần đời mười sáu năm còn lại. Nghĩ đến tình yêu, lòng chung thủy và hy sinh của bà đã dành cho ông trong nghĩa vợ chồng hai mươi hai năm, từ đó ông không còn tha thiết người đàn bà nào nữa.

Thật lạ lùng, cùng ngày tháng ấy, đúng tám năm sau, 1982, tai nạn thứ hai lại đến với ông. Đứa con út 17 tuổi, Nguyễn Ngọc Khánh Thụy, chết ngộp trong xe hơi trong nhà để xe của một người bạn Mỹ, ông William Littauer, tại Iang Larchmont, New York. Lúc đó, ông đang ở Cambridge, Massachusetts, và ái nữ Nguyễn Ngọc Thúy Tần đang học ở Albany, New York.

Đây là đứa con ông yêu thương nhất, vì cậu bé mồ côi mẹ từ nhỏ, thường xuyên vắng cha, và người chị lại đi học ở xa. Cậu đã tự vận bằng hơi thán khí xe tỏa ra. Nỗi đau của người cha biến thành nỗi ân hận suốt đời.

Trong một lần nói chuyện với ông Tạ Văn Tài, người cộng tác với ông những năm khảo cứu tại Đại Học Harvard, khi nói về cái chết của đứa con, ông đã tâm sự: “Tôi luôn luôn lo việc đoàn thể và đất nước, nhưng đời riêng của tôi gặp nhiều bất hạnh”

Phải chăng, những câu thơ của ông trong tập thơ nổi tiếng Hồn Việt ngầm báo trước một định mệnh khắc nghiệt:

Éo le thay muốn phụng sự quê hương

Phải dẫm nát bao lòng mình kính mến

Trong cuộc phỏng vấn tại California, ông Vương Từ Mỹ đã nói về một phiên họp đặc biệt của đảng Tân Đại Việt và Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, được tổ chức tại đường Bà Triệu ở Chợ Lớn, vài ngày trước khi miền Nam mất vào tay cộng sản. Lần đầu tiên, thủ lãnh Nguyễn Ngọc Huy đã khóc trước những người đã từng sát cánh hoạt động với ông trong một giai đoạn lịch sử đầy giông bảo. Ông cương quyết ở lại cùng sống chết với anh em. Ông nghĩ rằng thuyền trưởng phải chết theo con tàu. Nhưng tổ chức đã phân tích lợi hại, và quyết định vị thủ lãnh phải ra đi.

Nhìn bức hình của ông, được chụp lại từ một đoạn phim tài liệu. Đôi mắt nhân chứng, đôi mắt hồi tưởng về một quá khứ đầy những hoài bảo xây dựng đất nước.

Hồi tưởng những năm giảng dạy ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh để đào tạo các cán bộ cho nhu cầu hành chánh của Việt Nam Cộng Hòa. Vào năm 1974, cùng với Giáo sư Nguyễn Văn Ngôn, Bác sĩ Mã Xái, Tiến sĩ Phan Văn Song, Tiến sĩ Đỗ Thành Chi, Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Trinh, và Giáo sư Trần Minh Xuân, ông đã thành lập Trường Cao Đẳng Thương Mại Minh Trí nhằm đào tạo một đội ngũ cán bộ có kiến thức và chuyên môn để lãnh đạo đất nước trong giai đoạn hậu chiến tranh.

Đôi mắt ấy chắc cũng hồi tưởng về một quê hương thân yêu trên đường xây dựng tương lai, với một chính nghĩa sáng rực, bỗng chốc bị cướp sạch, bị đào xới tận gốc rễ bởi bàn tay người cộng sản. Làm sao thấu được nỗi đau đoạn trường bên trong con người ấy? Hẳn đây là nỗi đau lớn nhất của ông và cũng là nỗi đau của bao người Việt tỵ nạn cộng sản nơi xứ người.

Để lại cho đời

Ông Nguyễn Ngọc Huy ra đi, để lại cho đất nước và các thế hệ đi sau một tấm gương phục vụ đất nước, những công trình nghiên cứu về chính trị và văn hóa, chủ trương xây dựng tương lai Việt Nam, và các tổ chức chính trị do ông thành lập vẫn còn tồn tại đến ngày hôm nay.

Nhưng có thể tóm gọn lại hai di sản quan trọng nhất ông để lại cho hậu thế: Sự hy sinh cho đất nước và nỗ lực quảng bá nền văn minh pháp trị các bậc tiền bối để lại.

Di sản thứ nhất rất cần cho những người lãnh đạo chính trị, những nhà tranh đấu cho tương lai Việt Nam. Ông đi xe buýt, ngủ nhà anh em. Nơi ông, không có chỗ cho danh vọng bạc tiền, chỉ có đất nước, chỉ có Quốc Dân. Ông là người “Làm việc nước chỉ thấy nước” như câu nói của ký giả Phạm Thái. Với ông, “Tổ Quốc Trên Hết”, không mơ hồ, mà thể hiện cụ thể bằng chính đời sống hiện tiền của ông.

Ông coi đảng phái chỉ là phương tiện. Ông chưa bao giờ xưng danh chức vụ lãnh đạo của mình khi đi diễn thuyết. Ông thuyết phục người khác không phải bằng tài năng hay kiến thức lỗi lạc của mình, mà bằng lý lẽ và tấm chân tình của ông.

Có những tài năng người ta chỉ đứng xa xa mà thán phục. Còn tài năng Nguyễn Ngọc Huy, người ta lại muốn gần gũi. Giáo sư Jerome Cohewn, Giám đốc đầu tiên của Chương Trình Luật Á Châu đã nói về ông:

“Ông là người uyên bác, phong nhã, và dí dỏm, ai gần gũi ông đều vui thích”

“He was a learned, gentle, humorous person who was always a joy to be near”

Đọc những tác phẩm ông để lại về khảo luận, nghiên cứu cả hai lãnh vực chính trị và văn hóa, mới thấy sự uyên bác của học giả Nguyễn Ngọc Huy. Không thể không nói đến thi ca của ông, với những vần thơ đầy ắp tình yêu nước, sáng tác để ca tụng các anh hùng lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Giữa những tác phẩm đa dạng ấy, chỉ cần dẫn chứng một bộ sách hiện trưng bày tại thư viện trường Luật Đại Học Harvard, thành phố Cambridge của Hoa Kỳ: The Le Code: Law in Traditional Vietnam. Đây là một công trình nghiên cứu rất công phu gồm 3 tập, trên 1000 trang, viết bằng Anh ngữ cùng với ông Tạ Văn Tài, vừa dịch thuật, vừa chú giải bằng các dữ kiện lịch sử và luật pháp đối chiếu.

The Le Code chính là di sản về nền pháp trị cổ truyền, là nền tảng của nhân quyền và dân chủ có giá trị trường cửu. Công trình của ông đã đóng góp vào việc vinh danh nền pháp trị cổ truyền của Việt Nam, không những là di sản cho các học giả người Việt, mà còn cho thế giới Tây phương. Giáo sư Alexander Barton Woodside, một học giả nổi danh tại Đại Học Harvard cho rằng bộ sách này là:

“Một trong vài cuốn sách rất hiếm về Việt Nam có giá trị hoàn hảo. Chắc chắn đó là thành tích học thuật quan trọng nhất xuất phát từ hàng ngũ trí thức Việt Nam lưu vong ở hải ngoại sau năm 1975. Đó cũng là tiêu mốc đánh dấu kỷ nguyên mới trong tương quan văn hóa Việt Nam và Tây Phương, “One of those very rare works about Vietnam that may claim to be definitive. This is undoubtedly the most important single achievement in scholarship to come thus far from the ranks of Vietnamese intellectuals exiled from Vietnam since 1975. It also represents a significant landmark in Vietnamese-Western Cultural relations”

Bổ túc cho giá trị của tác phẩm, Giáo sư Douglas Pike của Đại Học University of California-Berkeley đã phê bình:

“Đây là tác phẩm học thuật gây ấn tượng mạnh mẽ nhất trong thập niên vừa qua”

“The most impressive piece of Vietnamese scholarship in the past decade”

Trong một xã hội cộng sản đầy ảo tưởng muốn nhào nặn mọi lãnh vực theo quan điểm Mác Lê, hôm nay bộ sách The Le Code đang được trưng bày tại Viện Sử Học ở Hà Nội, đã nói lên vừa là giá trị bền vững về công trình nghiên cứu của học giả lỗi lạc Nguyễn Ngọc Huy, vừa là một nghịch lý cho người cộng sản hiểu rằng họ không thể nào tiêu diệt được văn hóa dân tộc. Chỉ có trở về nguồn dân tộc mới mong bảo vệ được non sông Việt Nam.

Nguyện vọng của ông Nguyễn Ngọc Huy là muốn được hỏa táng và đem tro cốt về quê nhà. Dù nguyện vọng chưa thực hiện được, nhưng sự hiện diện tác phẩm The Le Code đã nói lên sự kính trọng công trình trí tuệ của ông ngay tại trung tâm quyền lực của một nước cộng sản, đồng thời như một điềm báo trước, sớm muộn cộng sản Việt Nam sẽ cáo chung và dân tộc sẽ sinh tồn như đã sinh tồn mạnh mẽ bốn ngàn năm nay.

Non nước ở lại

Nhìn chiều dài cuộc tranh đấu, sự nghiệp của nhà lãnh đạo chính trị Nguyễn Ngọc Huy đã nửa đường đứt gánh. Nhưng nếu nhìn toàn phía cuộc đời ông, thì đây là một bức tranh hoàn hảo với một nội dung sống động, những đường nét và màu sắc ý nghĩa, làm nên một tác phẩm giá trị gần như khó tìm được tác phẩm thứ hai.

Nỗi đau về những mất mát trong gia đình, nỗi buồn về công lao bao nhiêu năm tranh đấu tan tành sau ngày cộng sản cướp đoạt miền Nam, nỗi đau thể xác ròng rã tám năm chiến đấu với trọng bệnh, và những chướng ngại trên đường hoạt động, ông đã vượt qua, đã chiến thắng nghịch cảnh.

Ông đã sống, đã tranh đấu, đã cống hiến cho đất nước Việt Nam trong mọi thời điểm của lịch sử, từ tham gia kháng chiến đến lãnh đạo các tổ chức chính trị, từ giảng huấn đến biên khảo, từ hợp tác bước qua vận động quốc tế. Ông đã làm nên tấm gương một nhà lãnh đạo đức độ và tài năng, đầy viễn kiến và thuyết phục, đem lại cho những người theo ông niềm tin về triển vọng thành công cuộc tranh đấu dân chủ hóa Việt Nam. Ông đã tạo được ảnh hưởng sâu rộng, không những trong cộng đồng người Việt, mà cả trên thế giới.

Hình ảnh một nhà lãnh đạo chính trị sức cùng lực kiệt, lại mang trọng bệnh ung thư, lầm lũi trên đường thiên lý bất kể nắng mưa sương tuyết, để tìm phương cứu vớt đồng bào khỏi xiềng xích cộng sản, là hình ảnh của tình nhân ái vô cùng lớn lao trong thời đại ngày nay.

Ông Trần Sĩ Hải cho rằng sự ra đi của ông là tổn thất lớn nhất của Cộng Đồng Người Việt hải ngoại, vì sự nghiệp chính trị của ông quá lớn lao, con người ông quá vĩ đại, con đường ông vạch ra quá rõ ràng.

Ông đã dành trọn cuộc đời phụng sự đất nước, từ tuổi thanh xuân đến hơi thở cuối cùng. Không có gì dang dở nơi ông. Những kẻ ở lại, những người từng theo ông, cần tiếp tục đi nốt phần còn lại của cuộc tranh đấu ông đã vạch ra. Như một lời tự vấn mà Giáo sư Nguyễn Toản muốn trong lòng mỗi người Việt: “Hãy làm gì để khỏi hổ thẹn với người quá cố”

Người đi, đã ra đi vĩnh viễn, để lại cho các thế hệ Việt Nam những thông điệp mạnh mẽ, tiềm tàng trong hai di sản vàng ròng: Sự hy sinh cho Đất Nước và nền Dân Chủ Pháp trị cho tương lai Việt Nam.

Chu Lynh

GS Nguyễn Xuân Vinh, cựu tư lệnh Không Quân VNCH, qua đời ở tuổi 92

GS Nguyễn Xuân Vinh, cựu tư lệnh Không Quân VNCH, qua đời ở tuổi 92

July 23, 2022

Báo Nguoi-viet

COSTA MESA, California (NV) – Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh, cựu tư lệnh Không Quân VNCH, vừa qua đời lúc 2 giờ 39 phút chiều Thứ Bảy, 23 Tháng Bảy, tại tư gia ở Costa Mesa, California, hưởng đại thọ 92 tuổi.

Tin này được bà Phiến Đan (Elizabeth Xuân Vinh), hiền thê của ông Vinh, xác nhận với nhật báo Người Việt, đồng thời cho hay, “giáo sư ra đi nhẹ nhàng, bình an, bên cạnh những người thân yêu trong gia đình, và được nghe Thánh Ca do ca đoàn Giáo Xứ La Vang hát.”

Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh, tư lệnh không quân VNCH. (Hình tài liệu)

Bà thêm: “Là vợ, và là người kề cận chăm sóc giáo sư trong những ngày tháng cuối đời, tôi vô cùng đau xót.”

Theo bà Phiến Đan, Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh sinh ngày 3 Tháng Giêng, 1930, tại Yên Bái, miền Bắc Việt Nam. Ông có anh chị em ở cả Hà Nội và Sài Gòn. Ông ra đi để lại năm người con (bốn trai, một gái) và ba cháu nội ngoại.

Ông là người nổi tiếng không chỉ về binh nghiệp mà còn đóng góp nhiều cho khoa học, đặc biệt là lĩnh vực không gian từ Việt Nam, Pháp đến Hoa Kỳ, và còn là nhà văn với bút hiệu Toàn Phong.

Tháng Chín, 1951, thi hành lệnh động viên của Quốc Trưởng Bảo Đại, ông nhập ngũ vào Quân Đội Quốc Gia tại trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định.

Ngày 1 Tháng Sáu, 1952, ông tốt nghiệp với cấp bậc chuẩn úy phục vụ ngành Không Quân và được đi du học tại Học Viện Không Quân ở Salon-de-Provence, Pháp (École de l’Air).

Đầu năm 1954, ông tốt nghiệp với bằng phi công. Sau đó, ông phục vụ chuyên ngành tại Pháp và Maroc. Trong thời gian này, ông ghi danh học đại học và thi đậu bằng cử nhân toán ở đại học Aix-Marseille University.

Đầu năm 1955, ông được lệnh trở về Việt Nam và được thăng cấp trung úy, phục vụ trong Bộ Tư Lệnh Không Quân. Cuối năm 1955, ông được thăng cấp đại úy làm trưởng phòng nhân viên trong Bộ Tư Lệnh Không Quân.

Tháng Mười, 1956, ông được thăng cấp thiếu tá làm tham mưu phó tại Bộ Tư Lệnh Không Quân.

Ngày Quốc Khánh 26 Tháng Mười, 1957, ông được thăng cấp trung tá và được bổ nhiệm làm tham mưu trưởng Không Quân. Tháng Hai, 1958, ông được thăng cấp đại tá, được bổ nhiệm làm tư lệnh Không Quân.

Tháng Hai, 1962, ông xin giải ngũ và du học Hoa Kỳ, bắt đầu sự nghiệp khoa học của mình khi mới 32 tuổi.

Năm 1965, ông được cấp bằng Tiến Sĩ Khoa Học Không Gian tại đại học University of Colorado, Boulder, sau khi thực hiện thành công nghiên cứu công trình tính toán quỹ đạo tối ưu cho phi thuyền do NASA tài trợ.

Năm 1968, ông dạy tại đại học University of Michigan, và năm 1972 được trường này phong hàm giáo sư.

Cũng trong năm 1972, ông lấy tiếp bằng Tiến Sĩ Quốc Gia Toán Học tại Đại Học Sorbonne, Paris, Pháp. Năm 1982, ông là giáo sư của ngành Toán tại đại học National Tsing Hua University, Đài Loan.

Năm 1984, Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh là người Hoa Kỳ thứ ba, và là người Châu Á đầu tiên được bầu vào Viện Hàn Lâm Quốc Gia Hàng Không và Không Gian Pháp. Năm 1986, ông trở thành viện sĩ chính thức của Viện Hàn Lâm Không Gian Quốc Tế.

Trong nhiều năm, ông được mời tham gia thuyết trình và thỉnh giảng tại các hội nghị quốc tế và nhiều đại học trên thế giới.

Giáo Sư Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh tại buổi lễ vinh danh ông ở Little Saigon, do Hội Giáo Chức Việt Nam Nam California, Câu Lạc Bộ (CLB) Hùng Sử Việt và Hội Bưởi-Chu Văn An đồng tổ chức hồi Tháng Ba. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

Năm 1999, Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh nghỉ hưu, được Hội Đồng Quản Trị (Board of Regents) đại học University of Michigan phong tặng chức Giáo Sư Danh Dự ngành kỹ thuật không gian vì công lao đóng góp cho khoa học và giáo dục.

Ngày 19 Tháng Mười, 2016, giáo sư được Giám Mục Mai Thanh Lương, giám mục phụ tá Giáo Phận Orange, rửa tội, trở thành tín đồ Công Giáo, tại nhà thờ Saint Bonaventure Church ở Huntington Beach, California.

Trong sinh hoạt hội đoàn ở cộng đồng, Giáo Sư Vinh cũng là chủ tịch Hội Đồng Đại Diện Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Hải Ngoại bắt đầu từ năm 2003.

Về tang lễ Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh, bà Phiến Đan cho biết: “Vào Thứ Năm tuần tới, 28 Tháng Bảy, sẽ là lễ phát tang và thăm viếng. Ngày Thứ Sáu, 29 Tháng Bảy, sẽ tổ chức Thánh Lễ An Táng tại nhà thờ thờ Chính Tòa Chúa Kitô, Garden Grove. Sau đó, linh cữu giáo sư sẽ được đưa đi hoả táng và tro cốt sẽ được an vị ở nhà thờ này.” (KN)

Việt Nam: Hàng loạt báo lớn tường thuật, rồi gỡ bỏ tin ông Tô Văn Lai, người sáng lập trung tâm Thúy Nga, qua đời (BBC)

BBC News Tiếng Việt 

Tin tức về sự ra đi ngày 19/7 của ông Tô Văn Lai, người sáng lập Trung tâm Thúy Nga nổi tiếng với chương trình ca nhạc Paris By Night, đã bị gỡ bỏ khỏi các trang Thanh Niên, Pháp Luật, Dân Trí, Tiền Phong… ngay trong ngày đăng 20/7.

Từ Sài Gòn, nhà văn Nguyễn Viện cho rằng một nguyên nhân có thể các bài viết về ông Tô Văn Lai bị gỡ hàng loạt là do ông Tô Văn Lai là một nhân vật “có ảnh hưởng nhưng ngoài luồng”.

“Khi báo chí đưa tin về sự qua đời của ông Tô Văn Lai không khác gì là tuyên dương một người không nằm trong hệ thống nhà nước”, nhà văn Nguyễn Viện nói.

Trong khi đó, trao đổi với BBC News Tiếng Việt sáng 21/7, nhạc sĩ Tuấn Khanh, một công dân ở Việt Nam, cho rằng đây là “ý kiến của một cá nhân mà đủ sức tác động tới toàn bộ một hệ thống”.

Theo nhạc sĩ, trên đà dần dần cởi mở của Việt Nam đối với cộng đồng người Việt ở hải ngoại, gần đây đã có nhiều văn nghệ sĩ hải ngoại, tuy từng bị Đảng Cộng sản xem là ‘chống Cộng’, cũng đã được báo đài đưa tin và giới thiệu.

“Về tin tức ông Tô Văn Lai qua đời, tôi nghĩ rằng có một người nào đó muốn giới thiệu sự thông minh của mình, mang tính là “tôi là người phát hiện được điều này”, chứ không phải là xu hướng chung của nhà nước Việt Nam trong công cuộc cố gắng hòa hợp – hòa giải với cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Tôi nghĩ đây là quyết định của một cá nhân nhưng gây ảnh hưởng đến bộ mặt toàn bộ nhà nước Việt Nam”, nhạc sĩ Tuấn Khanh nhận định.

Các bạn đọc lại bài viết tại đây: https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-62248101 

Hồng Đăng, Hồ Hoài Anh được Sứ Quán CSVN ‘hỗ trợ thủ tục lưu trú’

Hồng Đăng, Hồ Hoài Anh được Sứ Quán CSVN ‘hỗ trợ thủ tục lưu trú’

July 21, 2022

MAJORCA, Tây Ban Nha (NV) – Đại Sứ Quán Việt Nam tại Tây Ban Nha “vẫn đang giữ liên lạc và đang hỗ trợ thủ tục lưu trú cho hai công dân Việt Nam bị tố cưỡng hiếp ở đảo du lịch Majorca,” theo tờ Tuổi Trẻ hôm 21 Tháng Bảy.

Thông tin được bà Phạm Thu Hằng, phó phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao CSVN, loan báo nhưng vẫn giấu tên hai nghệ sĩ nổi tiếng bị cáo buộc cưỡng hiếp cô gái 17 tuổi ở Tây Ban Nha.

Diễn viên Hồng Đăng đăng hình chụp trước nhà thờ chính tòa Milan, Ý, trên trang cá nhân vài ngày trước khi ông này bị bắt tại đảo Majorca, Tây Ban Nha. (Hình: Pháp Luật TP.HCM)

Lần duy nhất mà giới chức chính phủ Việt Nam xác nhận ông Hồng Đăng, Hồ Hoài Anh chính là hai nghi can trong vụ này là khi ông Tạ Quang Đông, thứ trưởng Bộ Văn Hóa – Thể Thao và Du Lịch, được cho là “hớ miệng” tại một cuộc họp hôm 5 Tháng Bảy.

Trước đó, các báo địa phương của đảo Majorca đưa tin cảnh sát địa phương đã tạm giữ một diễn viên 37 tuổi và một nhạc sĩ 42 tuổi người Việt Nam đã ra tòa lần đầu hôm 28 Tháng Sáu, với cáo buộc “cưỡng hiếp.”

Liên quan vụ này, bà Hằng cho biết thêm hiện tại, Sứ Quán Việt Nam tại Tây Ban Nha “tiếp tục theo dõi sát vụ việc, giữ liên lạc với các công dân, chính quyền địa phương và sẵn sàng hỗ trợ công dân theo các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam và nước sở tại.”

Phát ngôn của bà Hằng là chỉ dấu cho thấy ông Hồng Đăng và Hoài Anh sẽ còn phải ở Tây Ban Nha trong một thời gian dài và không có cơ hội được về nước, trước khi tòa án địa phương mở phiên xử.

Báo Zing hôm 6 Tháng Bảy dẫn lời bà Patricia Faraldo Cabana, giáo sư Luật Hình Sự tại đại học University of A Coruna, Tây Ban Nha: “Tôi không thể đưa ra con số cụ thể vì thời gian điều tra phụ thuộc vào các tình tiết và bối cảnh vụ án, cũng như hồ sơ tồn đọng nếu có của tòa án. Trên thực tế, thường phải mất vài tháng, thậm chí vài năm trước khi vụ án được đưa ra xét xử.”

“Trong trường hợp của hai nghệ sĩ Việt Nam, đến thời điểm này, họ vẫn chưa được tố tụng nhanh. Điều đó có nghĩa trường hợp này khá nặng,” bà Patricia Faraldo Cabana nhấn mạnh.

Nhiều nhãn hàng ở Việt Nam đã gỡ hình ảnh Hồ Hoài Anh làm đại sứ thương hiệu cho họ ngay sau khi ông này bị cáo buộc cưỡng hiếp ở Tây Ban Nha. (Hình: Zing)

“Việc hai nghệ sĩ này được tại ngoại có nghĩa là thẩm phán thấy hai người không có dấu hiệu tái phạm, đi về nước hoặc gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng trong lúc được tại ngoại,” bà Cabana nói.

Bà Cabana cũng nhấn mạnh: “Tội phạm tình dục được coi là tội nghiêm trọng ở Tây Ban Nha. Khi được tại ngoại, thông thường, họ sẽ phải báo cáo thường xuyên với cảnh sát. Điều này tùy thuộc vào yêu cầu của tòa án.” (N.H.K) [qd]

SỰ HÌNH THÀNH BỆNH-VIỆN VÌ DÂN

SỰ HÌNH THÀNH BỆNH-VIỆN VÌ DÂN

Bác Sĩ Phạm Ngọc Tỏa

Bệnh Viện Vì Dân (BVVD) thành lập trên ba mươi năm nay bởi Hội Phụ Nữ Phụng Sự Xã Hội (PNPSXH), Chủ Tịch Hội là Bà Nguyễn Văn Thiệu, với sự trợ giúp của nhiều cơ quan, đoàn thể thiện nguyện, các nhà hảo tâm trong nước và ngoại quốc, các phái bộ quân sự đồng minh, và nhất là phủ Tổng Thống (TT). Một đồng nghiệp sống nhiều năm ở Pháp bảo chúng tôi viết về sự hình thành của bệnh viện này. Vì thời gian đã qua lâu, chúng tôi có thể bỏ sót một vài chi tiết hay bị lầm lẫn, độc giả nào nhận thấy xin cho chúng tôi biết để chúng tôi bổ túc hay đính chánh, chúng tôi xin đa tạ.

Khoảng đầu năm 1969, Đại tá Võ Văn Cầm, Chánh Văn Phòng Phủ Tổng Thống có mời tôi lên nói là Bà Nguyễn Văn Thiệu muốn thành lập một bệnh viện tư làm việc thiện với danh nghĩa Chủ Tịch Hội Phụ Nữ Phụng Sự Xã Hội, ông bà Tổng Thống thấy tôi có kinh nghiệm trong việc thành lập Bệnh Viện Trưng Vương cho Hội Bảo Trợ Gia Đình Binh Sĩ năm 1967, nên muốn tôi tham gia vào việc này. Lúc đó tôi đã giải ngũ được hơn một năm, có ý định xin đi tu nghiệp để về gia nhập ban giảng huấn của YKĐH Saigon. Tôi phân vân vì nghĩ là việc này sẽ kéo dài nhiều năm, bắt đầu từ số không, sẽ gặp nhiều khó khăn về đủ mọi phương diện và đòi hỏi rất nhiều thì giờ, nếu làm đàng hoàng thì không còn thì giờ hành nghề tư, và xong việc có khi bị thay thế, đó là thường tình ở các nước chậm tiến! Nhưng tôi cũng có một ý nghĩ khác là khi mới bước chân vào trường Đại Học Y Khoa Hà Nội năm 1951, đến tập sự tại Bệnh Viện Yersin (Phủ Gioãn) thấy dụng cụ giải phẫu, máy móc cũ kỹ, thiếu thốn do Pháp để lại từ trước Đệ Nhị Thế Chiến, tôi vẫn tâm niệm làm sao cho có được một bệnh viện trang bị đầy đủ để các thầy thuốc làm việc thoải mái, có cơ hội tiến về kỹ thuật, cứu được bệnh nhân đến mức tối đa. Thêm vào đó khi còn học PCB tại Khoa Học Đại Học Hà Nội tôi đã được nghe một lời phê phán nghiêm khắc của một Giáo Sư Pháp, GS P.L., về khả năng của người Việt như sau: “Người Việt Nam chẳng làm được việc gì nên hồn cả”, câu này đã in sâu vào tâm khảm tôi. Ngoài ra BVVD sẽ giúp đỡ nhiều cho bệnh nhân nghèo, đó là ba động cơ thúc đẩy tôi hy sinh thì giờ để nhận việc này.

Một Ủy Ban xây cất được thành lập gồm có:

  • Đại Tá Võ Văn Cầm, Chánh Văn Phòng phủ T T, Chủ Tịch
  • Ô. Nguyễn Đình Xướng, Tổng Thư Ký phủ T T, Ủy viên
  • Phạm Ngọc Tỏa, Bộ Y Tế, Ủy viên
  • Kiến Trúc Sư Nguyễn văn Chuyên, phủ T T, Ủy viên

Ủy ban này thường họp vào buổi trưa hay sau giờ làm việc công sở, tổ chức các buổi hội họp với các bộ Y Tế, Công Chánh và các ban Giám Đốc các bệnh viện tư Saigon, Chợ Lớn (Triều Châu, Sùng Chính v.v…) để học hỏi các kinh nghiệm của họ vào buổi tối. Riêng phần tôi còn phải lo về lập quy chế của bệnh viện, lo trang bị dụng cụ máy móc y khoa, vật dụng văn phòng, tổ chức tiếp liệu, tuyển dụng nhân viên chuyên môn và hành chánh. Tất cả khởi sự từ số không, trong thâm tâm tôi nghĩ là không thể nào khánh thành đợt đầu kịp vào tháng chín 1971 được, thời hạn này do phủ TT ấn định!

  • Đặt tên bệnh viện:

Ông Nguyễn Đình Xướng đề nghị nên đặt tên là Bệnh Viện Vì Dân. Phủ TT chấp thuận tên đó.

  • Kiếm địa điểm để xây cất:

Sau mấy tháng tìm kiếm mới chọn được lô đất trống ở đường Lý Thái Tổ cũ Chợ Lớn, gần mấy nhà Ủy Hội Quốc Tế Đình Chiến ở, chủ đất là người Trung Hoa vui lòng cho xử dụng một nửa, còn một nửa họ tính xây khách sạn nếu giải tỏa được, và họ hứa sẽ yểm trợ bệnh viện. Lô đất đó hình như dành để xây cất một trường Đại Học Kinh Doanh và Thương mại thì phải, nhưng vì chưa có ngân khoản nên chưa thực hiện được. Thủ tục chưa làm xong, anh em Thương Phế Binh chiếm đất xây nhà lên lô đất đó, đành phải tìm nơi khác. Cũng may sau tìm được ở góc đường Lê Văn Duyệt nối dài và đường Nguyễn Văn Thoại, gần Ngã Tư Bảy Hiềàn, thuộc Gia Định một khu đất bị trưng dụng từ lâu, hiện dùng làm Kho Đạn cho Sư Đoàn Dù, bom đạn được chứa trong những hầm bê tông tường dầy một thước, nóc cũng vậy. Lô đất thuộc quyền sở hữu của nhà Chung. Sau khi được sự chấp thuận giải tỏa của Bộ Quốc Phòng, phải điều đình với nhà Chung. Nhà Chung bằng lòng bán cho Hội PNPSXH khu đất đó khoảng gần 2 mẫu tây với giá tượng trưng một đồng bạc. Có đất rồi phải lo phá các hầm bê-tông bằng cách nổ mìn rồi san bằng. Công tác này làm gãy chân vợ một quân nhân. Người này được bồi thường thỏa đáng.

  • Kiến trúc sư vẽ kiểu:

Hội PNPSXH mướn KTS Trần Đình Quyền, vừa tu nghiệp về xây cất bệnh viện ở Hoa Kỳ về, để vẽ kiểu. Tôi phải góp ý về một số chi tiết với KTS. Sau khi sơ đồ được bà Chủ Tịch Hội chấp thuận thì nhà thầu xây cất khởi công. Việc kiểm soát công trường xây cất là của KTS Nguyễn Văn Chuyên. Sau này Đại Tá Võ Văn Cầm có yêu cầu tôi lưu tâm cả về việc này nữa.

  • Việc gây quỹ xây cất và điều hành:

Hội PNPSXH chỉ góp phần nhỏ thôi như thỉnh thoảng có tổ chức chợ phiên chẳng hạn, như chợ phiên Đồng Tâm v.v.. Các buổi tiếp tân tại phủ TT để gây quỹ xây cất BVVD mới quyên được nhiều: như mời các nhà tài phiệt gốc Hoa (các ông Trần Thành, Lý Long Thân v.v…), mời các ngân hàng nhân dịp đầu năm. Riêng ngân hàng Việt Nam Thương Tín đang xây cất trụ sở mới còn cho thêm đá cẩm thạch nữa để trang trí bệnh viện. Ngoài ra mỗi vé xi-nê lấy thêm mấy đồng cho BVVD. Trường đua ngựa Phú Thọ thỉnh thoảng tổ chức một cuộc đua đặc biệt để ủng hộ BVVD. Đông Phương Ngân Hàng ứng trước từng đợt hai chục triệu để xây cất. Đồng bào cư ngụ ở Nouvelle Calédonie về thăm Miền Nam cũng ủng hộ một số tiền lớn (hình như là một triệu đồng thì phải) v.v… Tóm lại việc gây quỹ thành công là nhờ ở thế lực của phủ TT. Vì tiền có dư dả nên lúc đầu chỉ định xây 5 tầng lầu cho Khu Điều Trị, sau xây thành bảy tầng.

  • Việc trang bị bệnh viện:

Tôi được ủy quyền đi gặp các cơ quan thiện nguyện, các phái bộ quân sự đồng minh để xin viện trợ y cụ và vật dụng. Đầu tiên tôi đến tiếp xúc với phái bộ quân sự Hoa kỳ, tôi được một vị Thiếu Tướng Quân Y tiếp đãi rất nhã nhặn, sau khi nghe tôi trình bày việc xin yểm trợ cho BVVD, ông ta trả lời vấn đề viện trợ ông không rành và kêu một vị Đại tá Hành Chánh Quân Y ra tiếp tôi. Vị này hỏi tôi là định thiết lập một bệnh viện mấy trăm giường, gồm những khoa nào, tôi trả lời chúng tôi có kế hoạch làm một bệnh viện toàn khoa 500 giường, ông bèn tham khảo cuốn sách về bảng cấp số các quân y viện, rồi đưa cho tôi xem nhu cầu trang bị một bệnh viện như vậy gồm có những thứ gì, trong cuốn sách có ghi đầy đủ hết không thiếu một thứ gì. Xong ông ta cho biết là rất tiếc hiện không có chỉ thị nào cho cơ quan của ông viện trợ một bệnh viện tư, nếu làm sai luật các thanh tra của Quốc Hội Mỹ sẽ khiển trách cơ quan ông. Mới ra quân lần đầu đã thất bại, tôi ra về lòng tràn ngập lo âu, thất vọng, vì đồng minh lớn nhất và giàu có nhất từ chối không giúp thì ít hi vọng nơi khác trợ giúp cho mình được gì! Tôi báo cáo cho ĐT Cầm biết và khuyến cáo TT nên biếu cho BVVD một trang bị có giá trị để cho các Mạnh Thường Quân khác noi gương, như châm ngôn “mình tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp mình” (Aide-toi le Ciel t’aidera). Vài bữa sau ĐT Cầm cho tôi biết là TT hỏi nên cho BVVD cái gì, tôi trả lời quý nhất là đồ trang bị cho Khu Quang Tuyến X, vì trang bị này đắt tiền ít người cho nếu có thì có khi là đồ cũ lỗi thời dễ hư hỏng khó bảo trì không xứng đáng với một bệnh viện tối tân. TT chấp thuận lời đề nghị này.

Với các phái bộ đồng minh khác và các cơ quan thiện nguyện thì cuộc vận động của tôi có kết quả như sau:

– Phái bộ quân sự Úc và Tân Tây Lan: trang bị cho hai phòng chữa răng và phòng thí nghiệm nha khoa với các dụng cụ đều mới và nhập cảng từ Tây Đức.

– Phái bộ quân sự Đại Hàn: bàn ghế mới cho khu Hành Chánh, một xe Hồng Thập Tự kiểu mới, và toàn bộ một nhà máy giặt cũ giao cho BVVD khi Sư đoàn của họ rút khỏi Việt Nam (nhà máy này giặt quần áo cho quân số một Sư Đoàn do ĐT Cầm điều dình xin được)

– Trung Hoa Quốc gia (Đài Loan): một xe HTT mới

– Cơ quan UNICEF: trang bị cho khu Nhi Khoa khoảng 100 giường bệnh trẻ em, 20 lồng ấp (couveuses) cho trẻ sơ sinh thiếu tháng, dụng cụ cho Nhi khoa và Sản Phụ Khoa.

– Hội Việt Hoa Thân Hữu Hương Cảng: trang bị cho phòng cấp cứu tim mạch gồm 4 máy điện tâm ký (electrocardiographe) cho 4 giường bệnh, mỗi máy được nối với một máy điện tâm ký trung ương đặt trong phòng y tá trực ở phòng kế bên để theo dõi 4 bệnh nhân, khi có một bệnh nhân trở bệnh nặng thì y tá trực làm ngay điệân tâm đồ ở máy trung ương và kêu Bác sĩ ngay.

– Hãng Schimadzu (sản xuất máy quang tuyến X) và ngân hàng Sumitomo: trang bị cho một phòng mổ đặc biệt có máy quang tuyến X giúp Bác sĩ nhìn rõ chỗ phải chẩn đoán qua màn truyền hình của máy quang tuyến X rồi mổ. Nếu muốn chụp phim ngay lúc đó để lưu trữ cũng được. Thật là tiện lợi và nhanh chóng cho các trường hợp giải phẫãu chỉnh hình, hay mổ lấy đạn v.v…

– Hãng Roussel Vietnam: trang bị cho phòng thí nghiệm máy chụp quang phổ (spectrophotometre) v.v…

Tất cả các tặng phẩm nhận được chúng tôi đều gắn danh hiệu của quốc gia, cơ quan hay cá nhân đã tặng cho BVVD. Một số vật dụng như dụng cụ vật lý trị liệu thì BVVD bỏ tiền ra mua.

Riêng việc trang bị Khu Quang Tuyến X (do TT tặng) định đặt mua của hãng CGR Pháp rồi hãng Phillips Hòa Lan đều không được, họ trả lời không đủ thời gian để giao hàng trước tháng chín năm 1971 được, vì đơn đặt hàng của hãng họ quá nhiều rồị. Thế là đầu 1971, ĐT Cầm cử tôi đi Nhật với lời dặn phải làm sao mua cho bằng được đồ trang bị cho Khu Quang tuyến X và ráp xong trước tháng chín 1971, đúng là làm việc theo lối nhà binh (système D). Tôi tiếp xúc với hãng Schimadzu là hãng sản xuất lớn nhất máy móc quang tuyến X ở Nhật. Nhà máy tọa lạc ở Osaka, khởi thủy chỉ là một nhà nhỏ lợp mái tranh, thành lập một năm sau khi nhà bác học Đức Rontgen tìm ra được tia X hồi cuối thế kỷ thứ 19. Bây giờ nhà máy choán một diện tích lớn như một thành phố và sản xuất cả nhiều bộ phận điện tử cho hãng Boeing Mỹ, sản xuất máy quang tuyến chỉ chiếm một khu thôi. Sau khi xem nhà máy, họ dẫn tôi gập vị Giám đốc kỹ thuật để cho biết nhu cầu của BVVD, và sơ đồ của khu Quang Tuyến X. Đại cương khu này có 4 phòng vây quanh một trung tâm điều khiển máy móc, đó là nơi làm việc của Bác sĩ và chuyên viên, tường của trung tâm này làm bằng kính cản tia X để có thể nhìn sang các phòng khác, tường của các phòng này bằng bê-tông dầy 25cm, đủ cản tia X. Về máy móc thì dự trù như sau:

– phòng số 1: một máy hoàn toàn tự động, có máy truyền hình, chuyên viên điều khiển máy ngồi tại phòng điều khiển và liên lạc với bệnh nhân qua một hệ thống âm thanh, trong phòng này có máy truyền hình liên hệ với máy quang tuyến X ở phòng số 1.

– phòng số 2: trang bị một máy bán tự động, có máy truyền hình

– phòng số 3: trang bị một máy chụp X-quang cắt lớp (tomographie)

– phòng số 4: trang bị một máy chụp phổi phim nhỏ.

Sau khi biết nhu cầu của BVVD, ông Giám Đốc Kỹ Thuật trả lời ngay là vì có nhiều đơn đặt hàng quá từ trước rồi, không thể giao hàng kịp thời hạn ấn định. Tôi đã thất vọng, nhưng vẫn bình tĩnh cố níu kéo ông ta, cho ông ta biết là BVVD là một bệnh viện làm việc thiện, tối tân nhất Đông Nam Á, khi khánh thành sẽ có mặt toàn thể ngoại giao đoàn, nếu ông cố gắng giúp chúng tôi, đó là một dịp chúng tôi quảng cáo không công cho hãng của ông, nhất là máy phòng số 1 là kiểu mới nhất của loại này như ông nói, chúng tôi lại là người đầu tiên đặt mua. Sau một lúc suy nghĩ ông ta trả lời sẽ ráng thu xếp công việc, để ưu tiên cung cấp cho BVVD kịp ngày khánh thành. Giá cả là 220.000 đô la, phải đặt trước 20.000 đô la sau một tháng, hai tháng sau sẽ nhận được hàng, kỹ sư sẽ tới ráp ngay khi hàng tới. Thế là tôi yên tâm về Saigon.

Hãng Schimadzu gửi ngay một kỹ sư đến BVVD xem vị trí xây cất của khu Quang Tuyến X, lúc đó khu này đã xây cất xong ở tầng 1 Khu Ngoại Chẩn. Mọi chi tiết đều được cả, trừ một điểm là các máy sẽ được đặt lên một tấm thép dầy mấy phân để cản tia X không đi xuống tầng trệt, nên phải phá một khúc tường của tầng 1 để câu các tấm thép này lên.

Khi các máy móc về đủ , hãng Schimadzu cử 3 kỹ sư tới làm việc: một chuyên về máy phát tia X, một chuyên về điện và một chuyên về máy truyền hình. Họ bắt tay ngay vào việc ráp máy. Tôi gửi họ 3 chuyên viên về quang tuyến X để phụ tá cho họ và nhờ họ huấn luyện luôn trong lúc làm việc để những người này biết điều khiển các máy sau khi ráp xong. Ngày 3/9/71 họ hoàn tất công việc sau hai tháng trời làm việc cực nhọc. Ngày hôm sau là ngày khánh thành BVVD đợt đầu (khu Ngoại Chẩn).

Sau này hãng Schimadzu cho tôi biết tính ra còn dư 20.000 đô la, xin tôi quyết định, tôi đề nghị cung cấp cho một máy rửa phim tự động, còn dư tiền thì dùng hết vào việc mua phim và các hóa chất xử dụng cho việc rửa phim.

  • Quy chế và tuyển dụng nhân viên:

BVVD là một bệnh viện tư thuộc Hội PNPSXH dành 25% sô’ giường cho bệnh nhân nghèo (gia đình tiểu công chức, gia đình hạ sĩ quan và binh sĩ, gia đình nghèo có giấy chứng nhận của khu phố) được giảm phí hay miễn phí tùy trường hợp do sự cứu xét và quyết định của Ban Xã Hội hàng ngày tới BVVD làm việc. Bệnh nhân nghèo được săn sóc, ăn uống như bệnh nhân hạng trả tiền, chỉ có khác là hưởng thuốc miễn phí do Bộ Y Tế hay các tổ chức thiện nguyện cho và nằm phòng 4 giường.

Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị (HDQT) là Chủ Tịch Hội PNPSXH tức là bà Nguyễn Văn Thiệu, các thành viên của HDQT đều là hội viên của Hội .

Giám Đốc bệnh viện có hai Phụ tá: một Phụ tá Kỹ Thuật (Bác sĩ Lê Phước Thiện) và một Phụ tá Hành Chánh (Trung tá Hành chánh Quân Y Phạm văn Sinh).

Các nhân viên chuyên môn như Bác sĩ , Dược sĩ, Nha sĩ, Nữ Hộ Sinh, Chuyên Viên Gây Mê, Chuyên viên Quang Tuyến X, Chuyên viên Phòng Thí Nghiệm, Y tá và Tá Viên Điều Dưỡng trong giai đoạn đầu xin Bộ Y Tế và Cục Quân Y biệt phái. Ngoài lương bổng do cơ quan gốc đài thọ, họ được hưởng thêm một phụ cấp do Hội PNPSXH đài thọ. Các Giáo Sư, Giảng Sư Đại Học Y khoa có thể gửi bệnh nhân của mình tới nằm BVVD để điều trị dưới sự săn sóc của họ.

Trong thời kỳ đang xây cất, BVVD có nhờ Bộ Y Tế huấn luyện cho một khóa Tá Viên Điều Dưỡng, chương trình một năm, học viên là những cô nhi quả phụ quân nhân có bằng Trung Học Đệ Nhất cấp, do BVVD tuyển dụng. Trong tương lai BVVD sẽ thành lập một trường Cán Sự Điều Dưỡng, chương trình học ba năm và tuyển dụng các cô nhi, quả phụ quân nhân có bằng tú tài cho đi học để làm nhân viên cốt cán cho bệnh viện. Tầng thứ bảy của Khu Điều Trị sẽ xây cất nhiều phòng để làm lớp học, và một thính đường lớn 500 chỗ dùng làm nơi hội nghị. Trên nóc Khu này có bãi đáp trực thăng để nhận bệnh nhân cần cấp cứu từ các nơi khác đưa tới, có thang máy đưa ngay xuống phòng mổ hay khu cấp cứu ở các tầng dưới.

Chúng tôi phải tuyển dụng khoảng 400 nhân viên đủ các loại: chuyên môn, hành chánh, y công, thợ thuyền v.v… (nếu bệnh viện hoạt động với 400 giường thì trung bình mỗi giường bệnh có một nhân viên). Sau khi họ đã được xét là đủ tiêu chuẩn thì được nhận việc tạm thời, đợi kết quả điều tra của An Ninh Quân Đội , nếu không có hoạt động cho Việt Cộng thì được tuyển dụng chính thức.

  • Tiếp liệu :

Vì các nguồn cung cấp vật dụng, y cụ, thuốc men rất phức tạp, đa nguyên, nên chúng tôi áp dụng kế toán sổ sách, phiếu xuất nhập theo kiểu Hoa Kỳ như ở các đơn vị Quân Y QLVNCH, để dễ kiểm soát bất thần, bất cứ lúc nào cũng có thể biết rõ số lượng tồn kho, biết rõ các nơi đã được phân phối của mỗi món hàng. Theo hệ thống tiếp liệu này ngay từ đầu, việc quản trị vật dụng không có khó khăn gì cả.

Riêng về dược phòng phải làm 2 phòng riêng biệt:

1/ Phòng thuốc miễn phí: quản trị các thuốc men do Bộ Y Tế, các cơ quan thiện nguyện cung cấp để phát miễn phí cho các bệnh nhân nghèo.

2/ Phòng thuốc trả tiền: cho các bệnh nhân nằm hạng trả tiền , thuốc do các Bác Sĩ Điều Trị kê toa và các Hãng Bào Chế OPV, Trang Hai và Tenamyd cung cấp, nếu các hãng này không đủ món nào thì BVVD có thể mua ở ngoài theo giá thị trường. Đây là quyết định của HĐQT. Đầu tiên chúng tôi có đề nghị cho đấu thầu phòng thuốc thứ hai này, nhưng không được HĐQT chấp thuận.

  • Khánh thành BVVD:

Ngày 4/9/1971 TT đến cắt băng khánh thành khu Ngoại Chẩn BVVD do Hội PNPSXH mời. Quan khách có Ngoại Giao Đoàn, các Phái Bộ Quân Sự Đồng Minh, các Tổng Bộ Trưởng, các vị Đại Diện Hành Pháp, Lập Pháp và Tư Pháp, các cơ quan thiện nguyện, các nhà hảo tâm, các thân hào nhân sĩ v.v… Đại Sứ Mỹ Bunker cũng tới dự.

Bà Chủ Tịch đọc diễn văn trình bày mục tiêu của BVVD, diễn tiến việc thành lập xây cất bệnh viện và cảm ơn các Phái Bộ Quân Sự Đồng Minh, các cơ quan thiện nguyện, các nhà hảo tâm trong nước và ngoại quốc đã giúp nhiều trong việc trang bị và xây cất BVVD, những tặng phẩm như xe cộ vật dụng máy móc gì đều kể ra hết, lẽ dĩ nhiên là không nói tới Phái Bộ Quân Sự Hoa Kỳ vì không có tặng phẩm nào cả.

Khu Ngoại Chẩn có hai tầng, hình chữ L, một phần chạy song song với đường Lê Văn Duyệt nối dài, phần kia song song với đường Nguyễn văn Thoại , Gia Định. Ngoài một số phòng dùng để khám bệnh: Ngoại khoa, Nội khoa, Sản Phụ khoa, Nhi khoa, Tai Mũi Họng, Nhãn khoa, Bệnh Tiêu Hóa, Bệnh Phổi v. v., phòng phát thuốc, phòng băng bó, ở tầng trệt còn phòng Vật Lý Trị Liệu, tiếp giáp vơi Khu Cấp Cứu. Trên tầng 1 là khu Nha Khoa với hai phòng khám và chữa răng, và phòng làm răng giả, kế bên là Phòng Thí nghiệm của Bệnh Viện, tiếp theo là khu Quang Tuyến X, rồi tới tám phòng mổ và phòng Hồi Sinh.

Sau bài diễn văn của Bà Chủ Tịch , quan khách được hướng dẫn đi thăm bệnh viện. Hôm đó quan khách đều chú ý tới khu Quang Tuyến X, các máy móc đều do Kỹ sư Nhật trình bày và cho chạy thử. Buổi tiếp tân kéo dài đến quá trưa mới chấm dứt.

  • Sau khi khánh thành:

Khoảng hơn hai giờ chiều, tôi đang ngồi nghỉ ở trong văn phòng thì có hai người Mỹ của phái bộ viện trợ Hoa Kỳ USAID xin gặp tôi. Một người là quan chức hành chánh và một người là Thiếu Tướng Quân Y Hải Quân hồi hưu tên là Iron. Hai người cho biết là nếu BVVD cần gì sẽ viện trợ cho. Tôi bèn hỏi họ sao trước chúng tôi xin viện trợ thì không được giúp. Họ trả lời bây giờ tình thế đã thay đổi: Hiện nay Việt Nam Hóa chiến tranh, Quân Đội Mỹ rút khỏi Việt Nam, nên có thể giúp cho BVVD các dụng cụ của Quân Y Hoa Kỳ.

Chúng tôi xin được vài chiếc xe vận tải để chuyên chở vật dụng cho bệnh viện, mấy trăm giường bệnh đủ trang bị cho mấy tầng lầu đang xây cất, các máy móc dụng cụ trang bị đầy đủ cho một phòng thí nghiệm và nhất là ba máy phát điện 250 KW để làm một nhà máy điện nhỏ đủ cung cấp điện cho những nơi quan trọng như các khu Cấp Cứu, Giải Phẫu, Hồi Sinh, Quang Tuyến X và Thí Nghiệm khi điện thành phố bị cắt.

Chúng tôi cho thực hiện ngay một phòng bảo trì để sơn phết lại các giường bệnh và vật dụng nhận được, sơn luôn cả phù hiệu hai bàn tay nắm chặt cùng với quốc kỳ Mỹ-Việt như trên các hàng viện trợ Mỹ cho dân chúng. Sau mỗi lần nhận hàng và tân trang lại thì sắp đặt vào các nơi sẽ xử dụng, chúng tôi mời B.S. Iron lại xem để ông biết là hàng không bị thất thoát.

Sau này B.S. Iron tín nhiệm BVVD, cho luôn cả những vật dụng dành cho bệnh viện thực tập tương lai của Y Khoa Đại Học, vì chờ mãi không có ngân khoản để xây cất bệnh viện này! Ngoài ra BVVD có xuất tiền ra mua một số giường có máy điện tự động thay đổi tư thế nằm cho bệnh nhân để trang bị cho một số phòng một giường. Bệnh viện chỉ có ba loại phòng: hạng một giường, hạng hai giường và hạng bốn giường.

  • Nhận bệnh nằm điều trị :

Khi đã có tạm đủ đồ trang bị và xây cất gần xong, chúng tôi bắt đầu nhận bệnh nhân nằm điều trị. Trước đó chúng tôi xin Cục Quân Y biệt phái cho một số bác sĩ chuyên môn làm nòng cốt. Các vị này thường quá 15 năm quân vụ, nhưng vì chiến tranh triền miên họ chưa được giải ngũ. Danh sách dưới đây có thể thiếu sót vì đã trên ba mươi năm rồi, xin lỗi đồng nghiệp nào mà chúng tôi quên không ghi tên:

Y Sĩ Đại Tá Lưu Thế Tế, chuyên khoa tim mạch

Y Sĩ Đại Tá Nguyễn Quang Huấn, giải phẫu ung thư, thường trú ở ngay trong BVVD

Y Sĩ Trung Tá Lê Thế Linh, giải phẫu chỉnh hình

Y Sĩ Trung Tá Trịnh Cao Hải, giải phẫu chỉnh hình

Y Sĩ Trung Tá Phạm Hữu Phước, giải phẫu thần kinh

Y Sĩ Trung Tá Trần văn Khoan, giải phẫu tổng quát

Y Sĩ Trung Tá Hồ Hữu Hưng , nhãn khoa

Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Thế Huy, Tai Mũi Họng

Y Sĩ Trung Tá Vũ Ban, Quang Tuyến X

Các vị trên đây có nhiều kinh nghiệm chuyên môn và từng đã đi tu nghiệp tại Hoa Kỳ, ngoài ra một số bác sĩ vẫn làm việc trong ngành Quân Y nhưng giúp BVVD ngoài giờ làm việc như các B.S. Cao Xuân An (bệnh lý học), B.S. Đặng Như Tây (Vi Trùng Học), B.S. Bạch Toàn Vinh (Vi Trùng Học), Ngô Tôn Liên (Gây Mê , Hồi Sức)

Bộ Y Tế biệt phái cho BVVD:

B.S. Phạm Ngọc Tỏa, Giám Đốc, Sản Phu. Khoa, năm 1972 có đi tu nghiệp tại Singapore về giải phẫu triệt sản qua âm đạo (sterilisation par voie culdoscopique) do Ford Foundation tổ chức, mang về cho BVVD một bộ đồ giải phẫu theo thủ thuật này, do Ford Foundation tặng.

Nha Sĩ : Bà Nguyễn đình Hiệu, Cô Võ thi Văn (?)

Các đồng nghiệp trong Ban Giảng Huấn của Y Khoa Đại Học Saigon cộng tác với BVVD có:

G.S. Trần Kiêm Thục , Bệnh Tiêu Hóa

G.S. Trần Hữu Chí, Bệnh Phổi

G.S. Bùi Thị Nga, Nhi Khoa

G.S. Nguyễn Bích Tuyết, Sản Phụ Khoa

G.S. Vũ Thiện Phương, Sản Phụ Khoa

G.S. Trương Minh Ký, Tai Mũi Họng

BVVD có tuyển dụng:

B.S. Nguyễn Xuân Xương, Nội Khoa và tim mạch

Bà Nguyễn Gia Kiểng, B.S chuyên về Huyết học mới ở Pháp về

Dược sĩ Nguyễn Thị Dung, coi Dược Phòng

Dược sĩ Tôn Nữ Duy Thạnh, Phòng Thí Nghiệm (Hóa Học)

Ngoài ra còn một số quân y sĩ chuyên làm việc trực ngoài giờ làm việc của công sở.

Tóm lại có gần ba chục Y Nha Dược sĩ tham gia vào việc điều hành chuyên môn trong giai đoạn đầu.

Các y công được huấn luyện xử dụng máy móc lau chùi nhà cửa luôn luôn sạch sẽ chẳng kém gì các bệnh viện ngoại quốc. Hồi đó Việt Cộng thường kiểm soát các khu rừng ở miền Nam, sách nhiễu các người khai thác nên gỗ rất đắt, do đó tất cả các cửa đều làm bằng alumimium nhập cảng từ bên Nhật, vừa đẹp, vừa bền lại dễ bảo trì.

Vấn đề thực phẩm cho bệnh nhân lúc đầu do chủ nhân nhà hàng Đồng Khánh ở Chợ Lớn và Lê Lai ở Saigon cung cấp. Tôi thấy thức ăn phẩm lượng rất kém, lại không hợp vệ sinh, nên đề nghị HĐQT tìm nhà cung cấp khác vì thực phẩm bổ túc cho việc điều trị và cần cho việc phục hồi sức khỏe của bệnh nhân. HĐQT đồng ý, bèn cử hội viên ra đảm nhiệm việc nấu ăn cho bệnh nhân, nên sau này thức ăn rất tinh khiết ngon lành.

Trong giai doạn đầu khi các giường bệnh hạng trả tiền chưa choán hết, lại cho miễn phí, giảm phí rất nhiều, để giữ cho bệnh viện ở mức độ cao việc bảo trì rất tốn kém, đó là nguyên nhân lỗ vốn của giai đoạn này.

Một vài thân chủ đặc biệt là: vợ một Tham vụ Ngoại giao Mỹ nhờ một Bác Sĩ Quân Y Mỹ đỡ đẻ tại BVVD, trả giá đặc biệt; con Bà Chủ tịch HĐQT mổ cesarienne ở BVVD, khi ra về Bà Chủ Tịch tặng cho Quỹ Xã Hội một số tiền rất lớn; hãng Air America nhờ BVVD săn sóc sức khỏe cho nhân viên của hãng.

  • Vài sự kiện đáng ghi nhớ:

1/ Trường Y Khoa Đại Học Minh Đức muốn xin HĐQT cho sinh viên đến tập sự HĐQT hỏi ý kiến chúng tôi, chúng tôi trình bày muốn thu hút nhiều bệnh nhân hạng trả tiền để quân bình ngân sách nên tránh thâu nhận sinh viên y đến tập sự. Sau này nên mở các lớp chuyên khoa cho các Bác sĩ đã ra trường, muốn theo chương trình thường trú (resident) dự trù sẽ được tổ chức tại BVVD với sự cộng tác của các trường Đại Học Âu Mỹ. BVVD đã dự trù xây cất các phòng ở cho các B.S. thường trú tương lai. Như vậy họ vừa được huấn luyện tại chỗ các chuyên khoa, sau rồi ở lại làm việc tại VN, đỡ thất thoát chất xám. Ngược lại các trường Y khoa Đại Học ngoại quốc có dịp cử Giáo Sư đến VN dạy học, có thể nghiên cứu thêm bệnh lý đặc biệt của người Việt. Đề nghị này đươc chấp thuận.

2/ Có một phái đoàn Bác Sĩ Mỹ sang VN để giải phẫu tim (hình như là thuộc trường Đại Học Loma Linda thì phải) cho bệnh nhân VN. Xong việc họ mới biết Saigon có BVVD, họ đến thăm và không ngờ có một cơ sở tốt như vậy. Họ hứa lần sau sẽ đến mổ tại BVVD, rồi để lại cho bệnh viện các dụng cụ giải phẫu tim

3/ Trong đầu thập niên 70 Pháp tái lập bang giao với VN, muốn tân trang lại BV Grall, cử một phái đoàn của bộ Y Tế Pha’p trong đó có một Giáo Sư Đại Học Y Khoa, một ky õsư Bách Khoa. Ông Giám Đốc BV Grall điện thoại cho tôi xin phép cho phái đoàn đến thăm BVVD. Tôi dẫn họ xem các phòng ốc, đồ trang bị và trình bày diễn tiến của việc thành lập BVVD. Khi ra về họ nói không ngờ trong nước còn đang có chiến tranh mà đã làm được một cơ sở quá tốt như thế này.

4/ Khoảng năm 1973 bà Chủ Tịch HDQT có hỏi tôi: BVVD nên có một cái gì khác các bệnh viện khác. Tôi trả lời quý bà là Hội PNPSXH thì nên giúp cho phụ nữ VN, mà phụ nữ thì hay bị ung thư, hiện nay Viện Ung Thư Quốc Gia được Cơ Quan Y Tế Quốc Tế (OMS) viện trợ cho một bom Cobalt để trị liệu, nhưng không có ngân khoản để xây cất chỗ chứa và cơ sở tiếp bệnh nhân. Nếu bây giờ mình có khả năng xây cất nhanh chóng thì nên mở thêm khu điều trị ung thư. Đúng vào thời điểm đó một Bác Sĩ kiêm Kiến Trúc Sư chuyên về xây cất bệnh viện, làm việc cho OMS, lại thăm BVVD thấy còn nhiều đất trống, ông ta hỏi sao không xử dụng bỏ phí quá. Tôi có kể lại với ông là đang dự trù làm cơ sở dùng bom Cobalt trị liệu ung thư. Ông ta sốt sắng xung phong vẽ kiểu cho và hứa sẽ tìm người viện trợ trái bom này. Ít lâu sau tôi rời khỏi BVVD, nghe đâu ông ta đã vận động xin Hoàng Gia Đan Mạch viện trợ cho thì phải.

Khoảng tháng mười 1974 ĐT Cầm nói với tôi Ủy Ban Xây Cất chấm dứt nhiệm vụ vì việc xây cất đã xong. Tôi nghĩ mình làm việc gần năm năm rồi từ trước khi kiếm được địa điểm xây cất, nay đã hoàn thành việc tổ chức, trang bị và điều hành giai đoạn đầu, mỗi ngày làm việc trung bình 9, 10 giờ, nên tôi đệ đơn xin trở về Bộ Y Tế. Tôi phải chờ hơn hai tháng, đến 31/12/1974 HĐQT mới tìm được người thay thế: đó là Giáo Sư Đặng Văn Chiếu, cựu Khoa Trưởng Y Khoa Đại Học Saigon. Có sự thay đổi trong Sơ Đồ Tổ Chức BVVD: Dược Sĩ Nguyễn Thị Hai được Hội PNPSXH cử ra làm Giám Đốc BVVD, G.S. Đặng Văn Chiếu làm Giám Đốc Kỹ Thuật và Dược Sĩ Nguyễn Tiến Đức, có bằng Cao Học Y Tế Công Cộng Mỹ (MPH), làm Giám Đốc Hành Chánh.

Ngày 21/4/1975 TT Nguyễn Văn Thiệu trao quyền cho Phó TT Trần văn Hương. Ngày 22/4/1975 bà Nguyễn Văn Thiệu trao BVVD cho Bộ Y Tế. Ngày 30/4/1975 Cộng Sản cưỡng chiếm Saigon, BVVD được chúng đổi tên là Bệnh Viện Thống Nhất (BVTN). Như vậy danh hiệu BVVD sống được 3 năm 7 tháng 26 ngày tính từ ngày khánh thành đến 30/4/1975, trong thời gian đó tôi phục vụ được 3 năm 3 tháng.

  • Vài hàng về BVTN:

Khi tiếp thu, theo lời các nhân viên cấp nhỏ còn được ở lại làm việc, thì CS vào ở bừa bãi trong bệnh viện, thấy phòng Thí Nghiệm luôn luôn cho chạy máy điều hòa không khí, họ chỉ trích tư bản phung phí tiền của nhân dân, họ đâu có biết trong đó có nhiều máy móc điện tử cần lúc nào cũng phải điều hòa không khí. Họ lạm dụng thang máy, những thang máy để chuyên chở một giường bệnh lớn hay hơn 10 người, họ xử dụng bừa bãi. Cuối tháng tiền điện tăng lên quá cao, họ la lối có địch phá hoại, phải điều tra! Thật là “Ngọc để Ngâu vầy”, không biết vật dụng có mất mát gì không hoặc có bảo trì đúng mức không ! Có một đồng nghiệp nghe người nhà cũng ở trong ngành y ở lại làm việc ở miền Bắc kể lại trong thời chiến miền Bắc có được một nước bạn Đông Âu viện trợ cho toàn bộ đồ trang bị một bệnh viện nhỏ, sau vài tháng đến thăm vật dụng bị mất cắp gần hết!

Sau 30/04/1975 trong vài tháng đầu, để mị dân BVTN nhận tất cả mọi người vào nằm điều trị. Được vài tháng, họ tuyên bố BVTN chỉ thâu nhận đảng viên và cán bộ cao cấp, cán bộ trung cấp thì được nằm ở BV Trưng Vương, còn nhân dân thì nằm BV Bình Dân. Thật là phân chia giai cấp rõ ràng, đến nỗi một cán bộ nhỏ không được nằm BVTN phải than rằng: “Thời Thiệu Kỳ ai muốn nằm BVVD cũng được, bây giờ BVTN chỉ dành cho mấy ông lớn!”. Thê’ mới biết: BVVD thì lo điều trị cho Dân, còn BVTN chỉ lo phục vụ cho Đảng!”

Sau mấy tuần họ tưởng là đã học hết công việc điều hành của bệnh viện rồi , nên họ chỉ giữ lại các y công, còn thuyên chuyển đi nơi khác tất cả các nhân viên trung cấp như một số y tá phải đổi lên nhà thương điên Biên Hòa, trong số đó có một nữ chuyên viên Gây Mê Hồi Sức rất giỏi ! Vì họ chú trọng “Hồng hơn chuyên”, nên chính những cán bộ cao cấp nằm điều trị tại BVTN, tuy nằm ở đó, mà không tin tưởng vào B.S. của họ, nên vẫn tìm B.S. “ngụy” để chữa trị!

Kết luận :

Trong thời Đệ Nhị Cộng Hòa, chiến cuộc gia tăng mạnh mẽ, BVVD ra đời nhờ sự cố gắng của trong nước và sự yểm trợ của các nước đồng minh, các cơ quan thiện nguyện và các vị hảo tâm trong và ngoài nước để bù đắp một phần nào sự thiếu thốn một hệ thống An Sinh Xã Hội (Securité Sociale). Ở thời điểm đó BVVD tương đối đầy đủ nhưng chưa thể so sánh được với các bệnh viện tối tân hiện đại của các nước Âu Mỹ ngày nay. Riêng phần tôi vì muốn làm việc xã hội mà không làm chính trị và muốn thực hiện những gì mình ấp ủ từ lâu nên đã nắm lấy cơ hội để thử sức mình. Kết quả: mang tiếng chạy theo chế độ và mất hết thân chủ phòng mạch tư, nên bị bà xã trách móc cho đến tận bây giờ!!!

Bộ Ngoại giao: Tây Ban Nha đang thu thập chứng cứ vụ án tố 2 nghệ sĩ Việt hiếp dâm

Bộ Ngoại giao: Tây Ban Nha đang thu thập chứng cứ vụ án tố 2 nghệ sĩ Việt hiếp dâm

07/07/2022

Bãi biển ở đảo Mallorca, Tây Ban Nha, nơi thu hút nhiều du khách quốc tế đến tham quan, nghỉ dưỡng. Hai nghệ sĩ Việt Nam bị tố cáo xâm hại tình dục tại đảo này.

Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm 7/7 cho biết các cơ quan chức năng Tây Ban Nha hiện đang thu thập các thông tin, chứng cứ để phục vụ cho việc điều tra vụ án tố cáo hai nghệ sĩ nổi tiếng của Việt Nam hiếp dâm một thiếu nữ người Anh trong lúc đi du lịch tại đây.

“Hai công dân nói trên sức khoẻ bình thường, được hỗ trợ pháp lý theo đúng quy định”, người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng cho biết trong cuộc họp báo vào ngày 7/7 khi được yêu cầu cung cấp thông tin chi tiết về tình hình hai công dân Việt Nam, được cho là diễn viên Hồng Đăng và nhạc sĩ Hồ Hoài Anh, hiện đang bị cảnh sát Tây Ban Nha điều tra với cáo buộc xâm hại tình dục.

Trước đó, vào ngày 1/7, Bộ Ngoại giao Việt Nam xác nhận Đại sứ quán Việt Nam tại Tây Ban Nha đã nhận được thông báo từ cảnh sát đảo Mallorca của nước này cho biết đã bắt giữ 2 công dân Việt Nam với cáo buộc “xâm hại tình dục đối với trẻ vị thành niên 17 tuổi” và “xâm phạm quyền riêng tư”, sau khi hàng loạt hãng truyền thông Anh và Tây Ban Nha đưa tin một thiếu nữ Anh 17 tuổi đã tố cáo với cảnh sát Tây Ban Nha rằng cô đã bị hai người là “nam diễn viên và nhạc sĩ nổi tiếng” người Việt, ở độ tuổi 37 và 42, cưỡng hiếp trong khách sạn tại Majorca (Mallorca), sau khi cô gặp các nghệ sĩ này ở một nhà hàng gần đó và giao lưu với họ.

Hai nghệ sĩ Việt đã bị cảnh sát Tây Ban Nha bắt vào ngày 25/6 và ra hầu tòa vào ngày 28/6. Mặc dù đã được tại ngoại, nhưng họ bị tịch thu hộ chiếu, bị cấm rời khỏi Tây Ban Nha trong khi cuộc điều tra đang diễn, theo truyền thông địa phương của Tây Ban Nha.

Thiếu nữ người Anh đã trở về nước cùng với gia đình sau khi đưa lời khai đầy đủ cho cảnh sát Tây Ban Nha.

Trả lời tại buổi họp báo ngày 7/7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết thêm rằng “Đại sứ quán đã khẩn trương bước đầu triển khai các biện pháp bảo hộ công dân”, và những thông tin liên quan đến vụ án cũng như việc bảo hộ công dân “sẽ được Bộ Ngoại giao cung cấp theo đúng chức năng nhiệm vụ và thẩm quyền phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam”.

Cho đến nay, mặc dù danh tính của hai nghệ sĩ người Việt vẫn chưa được các cơ quan chức năng tiết lộ, nhưng công luận và truyền thông Việt Nam đều đưa thông tin ám chỉ đến diễn viên Hồng Đăng và nhạc sĩ Hồ Hoài Anh, là hai nghệ sĩ có cùng độ tuổi và cũng đang có chuyến công tác kết hợp nghỉ dưỡng tại Italy và tại đảo Majorca của Tây Ban Nha.

Sau khi thông tin về vụ bê bối được đưa ra, hai nghệ sĩ này dù chưa xuất hiện nhưng đã bị các hình thức kỷ luật ảnh hưởng nặng nề đến sự nghiệp.

Ngay ngày 1/7, ngày đầu tiên thông tin được công bố tại Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam (VTV) đã ra chỉ thị thay thế hoặc cắt bỏ tất cả các chương trình có sự xuất hiện của diễn viên Hồng Đăng và nhạc sĩ Hồ Hoài Anh, dù họ đang là hai tên tuổi đang ăn khách của làng giải trí Việt.

Đến tối 1/7, Ban giám đốc Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, nơi nhạc sĩ Hồ Hoài Anh đang là giảng viên, đã có cuộc họp khẩn cấp và đưa ra quyết định đình chỉ công tác của nhạc sĩ này với lý do “vi phạm quy định tự động ra nước ngoài nhưng không xin phép hay thông báo tới nhà trường”.

Hôm 5/7, Thứ trưởng Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch Tạ Quang Đông cho biết diễn viên Hồng Đăng và nhạc sĩ Hồ Hoài Anh đã có luật sư và vẫn đang ở Tây Ban Nha để chờ gặp thẩm phán.