Michelin giới thiệu lốp xe không hơi!

Michelin giới thiệu lốp xe không hơi!

Michelin giới thiệu lốp xe không hơi, nỗi lo thủng lốp, xịt hơi vĩnh viễn không còn nữa.

Từ cả trăm năm nay, khi các loại phương tiện cơ giới trở nên phổ biến, thủng lốp xe, xịt hơi đã trở thành các vấn đề ám ảnh hàng ngày đối với mọi người trên thế giới. Vấn đề nằm ở chỗ, lốp xe cần không khí để có thể co giãn một cách linh hoạt trong các điều kiện đường xá khác nhau cũng như các cách vận hành xe khác nhau.

Giải pháp cho nó rất đơn giản. Lốp xe sẽ không thể thủng nếu nó không có không khí bên trong. Đó chính là điều hãng sản xuất lốp xe danh tiếng Michelin vừa làm được khi ra mắt loại lốp xe Uptis mới. Đây chính là thành quả nghiên cứu phát triển của Michelin từ một thập kỷ nay, khi tìm kiếm một loại lốp xe có tuổi thọ dài hơn cũng như giảm tác động đến môi trường. Mới đây, Michelin đã trình diễn loại lốp xe mới này trong một sự kiện tại Munich, Đức. Thay vì dùng không khí để nâng đỡ chiếc xe và người lái, loại lốp xe này dùng chính các thanh nan hoa đặc biệt để tạo độ cứng. Bên cạnh đó, các thanh nan hoa này còn có khả năng điều chỉnh độ cứng để phù hợp với các mục đích khác nhau như tăng tốc hoặc phanh xe lại.

Lợi ích của loại lốp xe này rất rõ ràng. Không còn không khí bên trong, người dùng sẽ không còn lo về việc thủng lốp hay xịt hơi nữa, cũng có nghĩa là tuổi thọ của lốp xe sẽ dài hơn. Theo Michelin, Uptis sẽ có tuổi thọ gấp 3 lần so với lốp xe thông thường. Theo công ty, mỗi năm có hơn 200 lốp xe bị đưa ra bãi phế liệu do những vấn đề về tuổi thọ và hư hỏng. Tuổi thọ dài hơn và độ bền tốt hơn sẽ giúp giải quyết được các vấn đề này. Hy vọng điều này không có nghĩa là Michelin sẽ đặt mức giá cao cho sản phẩm lốp xe mới của mình. Mức giá càng cao sẽ càng làm ít người lựa chọn nó khi họ không cảm thấy đủ bù đắp lại lợi ích về độ bền. Kéo theo đó, lợi ích về môi trường cũng không được như kỳ vọng.

Việc tạo ra một chiếc lốp như Uptis là không dễ dàng. Nguyên mẫu đầu tiên về lốp xe không hơi đã được Michelin trình làng từ cách đây 16 năm và lúc đó nó không thật sự hoàn thiện. Có nhiều nghi ngại về việc bụi bẩn và các mảnh vụn khác có thể tích tụ trong lốp và gây ra các vấn đề về thăng bằng. Nhưng giờ đây dường như Michelin đã tìm ra cách giải quyết các vấn đề này.

Sau buổi lái thử lốp xe Uptis ở Munich, các thành viên lái thử cho biết trải nghiệm này có thể so sánh với việc lái xe bằng lốp thông thường. Michelin cho biết họ cuối cùng đã đạt được tiêu chuẩn sản xuất cho Uptis và đã hợp tác với hãng GM để thiết kế và sẽ bắt đầu bán loại lốp xe không hơi này cho các hành khách vào năm 2024.

From: TU-PHUNG

Luật sư Võ An Đôn bị Việt Nam cấm xuất cảnh tị nạn chính trị

 VOA Tiếng Việt 

Luật sư Võ An Đôn vừa cho VOA biết ông và gia đình được chính phủ Hoa Kỳ cho đi tị nạn chính trị nhưng phía Việt Nam đã cấm xuất cảnh “vì lý do an ninh”. Vụ việc xảy ra vào tối ngày 27/9 khi ông và gia đình làm thủ tục xuất cảnh từ sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất khởi hành đi New York.

“Theo lịch thì hôm nay tôi bay qua New York, nhưng khi làm thủ tục xuất cảnh tại sân bay Tân Sơn Nhất đến cửa an ninh thì công an xuất nhập cảnh không cho gia đình xuất cảnh vì lý do an ninh”, Luật sư Đôn cho biết.

Biên bản tạm hoãn xuất cảnh của Công an Cửa khẩu Tân Sơn Nhất, thuộc Cục Quản lý Xuất Nhập cảnh, được ông Đôn đăng trên Facebook cá nhân cho biết lý do được nêu ra là “ Vì an ninh quốc gia”.

Võ An Đôn, 45 tuổi, một luật sư nổi tiếng ở Phú Yên với những vụ bào chữa miễn phí và lên tiếng hỗ trợ cho các nhà hoạt động nhân quyền, bị chính quyền cấm hành nghề từ năm 2017.

Ông cho VOA biết chính phủ Hoa Kỳ đã chấp thuận cho ông và gia đình thị thực nhập cảnh để xin tị nạn chính trị, sau những áp lực an ninh và chính trị tại Việt Nam.

Ông nói: “Bên phía Mỹ đã nhận gia đình tôi đi định cư, làm đầy đủ thủ tục hết cả rồi, và từ trước đến nay không vi phạm pháp luật…Nhưng phút cuối thì an ninh cửa khẩu nói là tôi không được phép xuất cảnh theo đề nghị của công an tỉnh Phú Yên.

“Rõ ràng là người ta đã gây khó khăn cho tôi và gia đình, mất bao tiền bạc và công sức”.

VOA đã liên lạc Cục Quản lý XNC, Bộ Công an Việt Nam, và Công an tỉnh Phú Yên, yêu cầu cho ý kiến về việc cấm xuất cảnh đối với ông Võ An Đôn, nhưng chưa được phản hồi.

Ông Đôn cho VOA biết việc ông Đôn và gia đình không được phép xuất cảnh diễn ra trước chứng kiến của đại diện của tổ chức Di trú Quốc tế (IOM), cơ quan chuyên hỗ trợ các trường hợp tị nạn và di dân vì lý do chính trị.

Luật sư Đôn được Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam trao giải Nhân quyền năm 2016 vì các hoạt động bảo vệ cho quyền con người, bất chấp rủi ro và đe dọa.

Luật sư Võ An Đôn bị Việt Nam cấm xuất cảnh tị nạn chính trị

BI KỊCH

Lê Vi

BI KỊCH

Có thể chỉ là bi kịch của một gia đình, một số phận khắc nghiệt của hai vợ chồng. Cũng có thể chỉ là một mẩu tin rất nhỏ trong hàng trăm tin nóng đang ngập tràn trên báo chí hàng ngày có thể người đọc sẽ đọc lướt qua. Nhưng tin đó sẽ có người đặt câu hỏi chúng ta đang sống thời kỳ nào mà có những số phận bi đát đến tận cùng như thế này. Có một thời, văn học đã có nhiều tác phẩm tố cáo chế độ thực dân, phong kiến với những nhân vật bế tắc không lối thoát, với những con người ngặt nghèo trong cuộc sống phải tìm đến cái chết. Và người ta kêu gọi đứng lên để đạp đổ chế độ ấy để xây dựng một chế độ tốt đẹp hơn.

Thế nhưng hoàn cảnh của những nhân vật xa xưa ấy chưa đến nỗi khốn cùng như hai nhân vật trong bản tin này. Hiện nay rất nhiều người tham nhũng hàng trăm hàng ngàn tỷ, tài sản nhiều không kể xiết như lão Hòa Thân bên Tàu ngày xưa. Có kẻ dưới vỏ bọc là doanh nhân thành đạt phát biểu hùng hồn chỉ cần có 230 tỷ, hay 100 tỷ là đủ, tiền nhiều chi cho khổ. Nhưng các ông bà ấy không hướng dẫn, giải thích số tiền tỷ đó lấy từ đâu ra, làm sao có được? Có ông lại bảo, tiền nhiều để làm gì? Những ông cán bộ tham nhũng, những doanh nhân thành đạt đó có bao giờ nghĩ đến những số phận không may vì không có tiền chữa bệnh mà phải dùng điện chấm dứt cuộc đời cả vợ lẫn chồng như thế này không? Toà án đang xử kẻ bị kết án là sát nhân. Thế nhưng đằng sau kẻ sát nhân này, ai mới là kẻ thật sự có tội? Ai mới thật sự là kẻ giết người? Chúng ta vẫn là những kẻ bị số kiếp săn đuổi và cũng là những kẻ có tội? Tội nghèo lại dám có bệnh trong xứ sở không còn nhà thương thí.

Cuộc sống sẽ vẫn trôi đi. Những số phận bất hạnh này rồi cũng bị quên lãng theo thời gian. Những số phận khác sẽ lần lượt tiếp nối. Nghĩ cho cùng xã hội chúng ta đang sống đầy những bi kịch. Nhà nước đang ở xa quá, đang bận rộn với những dự án, kế hoạch vĩ mô. Thân phận con người đã bị lãng quên và chấp nhận đầu hàng số phận. Cái chết là sự lựa chọn bởi không còn cách nào khác.

26.9.2022

DODUYNGOC

Cỗ tràng hạt quý chôn theo Công nương Diana

 Cỗ tràng hạt quý chôn theo Công nương Diana

TGPSG / Aleteia — Tử nạn tại Paris cách đây 25 năm, ngày 31.8.1997, công nương Diana, còn được gọi là Lady Di, từng cất giữ một cách thành tín một tràng hạt Mân Côi mà Thánh Têrêsa Calcutta đã tặng cho Lady, và đã được người thân đặt vào quan tài của công nương.

CỖ TRÀNG HẠT QUÝ


Nhìn qua thì chẳng có gì có thể báo trước một tình bạn khắng khít giữa Công nương xứ Wales và Nữ Thánh thành Calcutta, nhưng thực ra thì hai người phụ nữ đó đã gắn kết với nhau bằng mối dây lo toan chung cho những người cùng khổ. Nghe tin Lady Di tử nạn, Mẹ Têrêsa đã gởi lời chia buồn, và nói về Diana rằng: “Cô ấy đúng là đã từng rất lo cho người nghèo. Cô rất mong được làm cái gì đó cho họ và điều đó thật là đẹp. Vì vậy, cô thật gần gũi với tôi.”

Vị nữ tu đã từ trần sau đó vài ngày, ngày 5.9.997. Hai tháng trước, tháng 6/1997, hai người đã gặp nhau ở New York.

Theo báo The Independent, Diana và Mẹ Têrêsa “đã bước đi, tay trong tay, trên đường phố khu Bronx, TP New York… Họ đã choàng tay nhau, ôm nhau và cùng nhau cầu nguyện khoảng 40 phút. Nhân dịp này, Mẹ Têrêsa đã chúc phúc cho công nương”. 
Mẹ Têrêsa có biết rằng cỗ tràng hạt mà Mẹ tặng cho Lady Di đã đồng hành cùng công nương đến nơi an nghỉ cuối cùng không?

Những giờ phút sau cái chết của vị công nương đã được tường thuật chi tiết trên tờ Daily Mail:

Đêm ngày 30 rạng sáng 31.8.1997, khi vị quản gia Paul Burrell của Diana từ cung điện Kensington, Luân Đôn, nhận được tin về cái chết  bi thảm của công nương, ông được lệnh phải đem mọi vật dụng mà Diana yêu thích nhất sang bệnh viện La Pitié-Salpêtrière ở Paris, nơi công nương được đưa tới. Lòng tan nát, ông đi vào căn hộ của Lady Di, “nhìn cái bàn làm việc của công nương trên đó có cây viết và một lọ mực, bên cạnh là tờ giấy ghi danh sách những từ ngữ vốn dùng để cải thiện vốn từ vựng của Lady. Ông cầm vội lấy một chuỗi hạt Mân Côi – mà Mẹ Têrêsa tặng cho công nương, treo trên một bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh – và bỏ vào túi.”

Vừa đến bệnh viện, chính Colin Tebbutt, tài xế riêng của Diana, đã đưa cỗ tràng hạt cho một nữ điều dưỡng mà dặn rằng phải đặt nó vào tay công nương. Cũng được đặt trong quan tài của bà là một tấm ảnh 2 đứa con trai mà công nương vẫn giữ trong ví của mình.

LINH MỤC TUYÊN ÚY BỆNH VIỆN

Được gọi khẩn cấp đến bệnh viện La Pitié-Salpêtrière, Paris, cha Yves-Marie Clochard Bossuet, với tư cách linh mục tuyên úy trực đêm 31.8.1997, đã canh thức 8 giờ liền cạnh thi thể của Lady Di.

Năm nay 73 tuổi, cha Bossuet chánh xứ Notre-Dame des Foyers ở Paris, Pháp, đã tâm tình cùng Aleteia về những ơn thiêng được ban xuống trong đêm đó.

Nhận cuộc gọi vào lúc 2 giờ sáng 31.8.1997, cha Yves-Marie Clochard Bossuet lúc đầu nghĩ đây là trò đùa. Nhưng viên trực ban của bệnh viện cứ gọi lại, nài nỉ và cuối cùng đã cho ngài biết danh tính của người mà ngài được mời đến bên: Lady Diana, Công nương xứ Wales, được đưa đến bệnh viện La Pitié-Salpêtrière trong tình trạng rất nặng, sau một tai nạn xe hơi trong đường hầm dưới cầu Alma, TP Paris. 

From: tao ngo & Kim Bang Nguyen

ĐỈNH CAO TRÍ TUỆ

Nghệ Lâm Hồng

ĐỈNH CAO TRÍ TUỆ

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, có nhiều xáo trộn trong cuộc sống, nhưng trước mắt cũng như trong tâm tưởng, mình vẫn còn hiển hiện nhiều hình ảnh xinh đẹp về con người xứ Huế hiền hòa và hình ảnh một Sài Gòn hoa lệ.

Bỗng dưng, cuối tháng 9/1975 tôi có mặt ở Hà Nội một thành phố chỉ có 3 màu: đen (áo quần công nhân và hầu hết dân chúng), xanh ô liu (bộ đội), và vàng (công an). Đại đa số dân chúng không biết gì về tiện nghi vật chất và rất ngờ nghệch về một cuộc sống hiện đại của miền Nam.

Tôi đến ở trọ một nhà người quen, buổi tối nấu nước tắm, bà cụ trong nhà mở rương ra lấy cho tôi một lát xà bông cục được gói mấy lớp giấy báo, họ bảo tôi là khách quý mới được mời dùng cái này. Vài lần tôi uống cà phê ở một cửa hàng ăn uống quốc doanh ở Khu nhà tập thể Kim Liên. Một lần tôi yêu cầu ly cà phê sữa, cô bán phiếu xé cho 2 phiếu và tính tiền hai ly. Đó là ly cà phê đen và ly sữa nước sôi. Bà mậu dịch viên pha cà phê vào một ly rồi chế nước sôi vào ly sữa, xong đỗ ly cà phê vào ly sữa thành một ly cối to đùng.

Hôm sau tôi cũng mua cà phê sữa, nhưng tôi bảo đổ cà phê vào sữa, đừng đổ nước sôi vào, thế là bị một câu mắng chua lè: “Để tôi tự chế biến, không mượn ông góp ý”.

Một hôm tôi vào cửa hàng ăn uống trên đường Thanh Niên. Tôi yêu cầu cà phê sữa đá. Cô gái trẻ đứng tại quầy chanh chua: “Ông này buồn cười nhỉ. Sữa thì uống với nước sôi, làm gì uống với đá”. Thế là tôi đành phải uống một ly to đùng phối hợp 1 ly cà phê đen và 1 ly sữa nước sôi và phải trả tiền cho hai ly.

Tôi khá buồn cười với cái ngờ nghệch của họ. Ngay những người có vai vế trong xã hội cũng thế. Năm 1993, một đoàn gồm bốn nhà thơ rất nổi tiếng được tổ chức phản chiến William Joiner mời sang thăm trụ sở của họ tại Đại học Massachusetts, Boston, Hoa Kỳ. Hồi đó tôi đang học tại Đại học Simmons được mời đến nghe buổi trò chuyện. Giờ giải lao chúng tôi gặp riêng, một nhà thơ trong đoàn nói với chúng tôi rằng:

– Bọn Mỹ đối xử với bọn mình thật tốt, nhưng có một cái mình bất mãn là họ bố trí mình ở đâu cũng đặt máy nghe lén.

Tôi nói: Họ đặt máy nghe lén thì làm sao các anh biết được?.

– Họ đặt ngay giữa phòng trên trần nhà, chứ có dấu diếm gì đâu.

Tôi bật cười, thì ra đó là thiết bị báo cháy (smoke detector). Khổ thân cho bốn nhà thơ vĩ đại nước ta, mấy ngày qua không giám ăn nói gì hết, vì sợ bị nghe lén!.

Minh Nguyễn

Thiết bị nghe lén

Trường Học Trường Ðời – Gs. Nguyễn Văn Tương

Bang Uong

Trường Học Trường Ðời

Gs. Nguyễn Văn Tương

Kính Thưa Quý Anh Chị,

Nhân được tin buồn Cố Gs. Nguyễn Văn Tương vừa từ trần, kính gởi đến Quý Anh Chị vài đoạn trích trong cuốn Hồi Ký 2 ” Trường Học Trường Ðời”

để Quý Anh Chị biết thêm chi tiết về sinh hoạt của Cố Giáo Sư sau khi định cư tại Pháp Quốc.

Thân kính,

NT Hà

TIỂU SỬ : NGUYỄN VĂN TƯƠNG (1929 – 2022)

Sinh quán làng Tân hựu Ðông, quận Châu Thành, tỉnh Sa đéc. Con thứ trong một gia đình có 9 Anh Chị em.

  • Cựu học sinh trường Chasseloup-Laubat-Saigon (1951)
  • Tốt nghiệp Khóa 1 Sĩ quan Trừ bị Thủ Ðức (1952)
  • Cử Nhân Luật (1955), Cao Học Công Pháp (1960)
  • Tốt nghiệp Tiến sĩ Luật khoa ban Công Pháp (1965)
  • Cựu Giáo sư Công Pháp tại Học viện Quốc gia Hành Chánh Sài Gòn – các trường Ðại Học Luật tại Sài Gòn , Huế – Phân Khoa Luật của Ðại Học Paris, Poitiers, Brest & Angers
  • Tham gia các chính phủ Phan Huy Quát, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Lộc

Sau 30 tháng 4, 1975 đi cải tạo từ 1975 đến 1981 Ðịnh cư tại Pháp từ 1983 đến nay.

DẠY HỌC TẠI PHÁP (trang 65..)

…Gia đình tôi sang Pháp ngày 08 tháng 07 năm 1983. Lúc bấy giờ nhà tôi 48 tuổi, còn tôi 54 tuổi. Già thì không già lắm, mà trẻ thì không còn trẻ nữa, Hành lý là những vali quần áo cũ, nồi niêu xoong chảo vợ tôi gói ghém đem theo. Lúc tôi đi cải tạo vợ tôi thuê người đem đổ xuống sông Thị Nghè tất cả hàng trăm sách của thư viện cá nhân tôi, kể cả mấy quyển luận án tiến sĩ của tôi. Trước ngày đi Pháp tôi có đến trường luật xin lại một bổn luận án đem theo. Chủ mới cho biết đã bán hết sách của thư viện cho bọn tàu Chợ-lớn . Cũng may là nhà tôi còn giữ một số giấy tờ của tôi, như bằng cấp, Nghị định bổ nhiệm.

Người ta thường nói “Trời sanh voi sanh cỏ”, ngặt vì mình không phải là voi làm sao ăn cỏ được. Các con lớn của tôi có báo tin cho nhiều gia đình quen Pháp lẫn Việt, nhờ họ giúp đỡ lúc ban đầu. Thêm vào đó có sở xã hội và các đoàn thể địa phương cứu trợ trong lúc tìm việc làm. Tôi viết thư cho toàn thể các Khoa trưởng trường luật tại Pháp và hải ngoại để xin một chỗ dạy, kèm theo tiểu sử ngắn gọn và Nghị định bổ nhiệm dịch ra tiếng Pháp. Lúc ấy vào khoảng bãi trường nên chậm có thư trả lời. Qua tháng 9 năm ấy mới có thư hồi đáp, nhưng là thư khước từ vì quá trễ cho năm 1983 . Chủ sở trợ cấp thất nghiệp ở Rambouillet yêu cầu tôi cho biết đã có vận động gì trong mấy tháng qua. Khi tôi trình cho xem một sắp thư trả lời từ chối thì mới thấy tôi quả có thiện chí tìm việc.

Bao giờ cũng vậy trong cái rủi có cái may. Trường đại học Panthéon-Sorbonne yêu cầu tôi trình bày cho Ban Cử nhân Công Pháp trước cuối năm đề tài ” Nền ngoại giao của Nhật bổn và nền ngoại giao của Trung Quốc”. Là người Á châu từng theo dõi thời cuộc trong mấy chục năm qua, tôi chuẩn bị dễ dàng hai đề tài ấy với tài liệu phong phú của một người bạn Pháp. Phải nói rằng tôi đã nhờ giáo sư Vũ Quốc Thúc cố vấn tôi rất nhiều…

… Bỗng dưng có Khoa trưởng trường luật Poitiers, phía Tây Nam Paris, đề nghị tôi nhận trình bày trong 6 tháng cho lớp hậu Cử nhân về đề tài “Vấn đề phát triển dân chủ tại các nước Á châu”. Buồn ngủ gặp chiếu manh, tôi nhận lời ngay mà không ngờ đã phóng lao mình phải theo lao. Ông Khoa trưởng nói rõ môn này sẽ không được đưa ra thi cuối năm, không thể làm khác hơn vì phải tôn trọng nội quy của trường. Làm sao giữ nổi sinh viên hậu Cử nhân (tức sau 3 năm đại học) trong 6 tháng, trừ phi cao tăng giảng kinh xuất chúng!

Than ôi tôi chỉ là một giáo sư thất nghiệp đi tìm việc, chớ nào phải là cao tăng đâu! Nghĩ cho cùng ban giảng huấn các đại học đã có lòng cứu vãn đồng nghiệp sa cơ vậy thôi! Tôi căn cứ vào luận án tiến sĩ của tôi trình bày vấn đề đặt ra. Chỉ tiếc là thiếu một họa đồ để tiện vị trí hóa các nước, dầu là sinh viên trình độ đại học cũng chưa biết nước nào ở đâu ? Chính tại quốc hội pháp một dân biểu tên tuổi còn nói rằng Nhật bổn ở Nam bán cầu! Mọi việc đều có kết thúc. Khởi sự bài giảng hiện diện khoảng 40 sinh viên, chấm dứt còn phân nửa! Ông Khoa trưởng mừng cho tôi còn giữ được đệ tử! Nhóm sinh viên này còn mời tôi một bữa cơm trưa tại quán ăn tàu ở Poitiers…

… Gia đình tôi trọ trong một căn phòng chung cư tại thành phố Rambouillet. Có sở xã hội và các bà phước cho chút ít bàn ghế, tủ giường, quần áo cũ. Tôi làm đơn xin việc, vợ tôi nấu ăn dã chiến. May mà lúc ấy nhằm mùa hè ấm áp, chớ chưa phải mùa đông lạnh buốt. Các con nhỏ đi học mà ban đầu chẳng biết một chữ tiếng Pháp. Vậy mà nhờ ơn trời phật gia đình dần dần cũng gỡ rối được. Như con thuyền không bến của Ðặng Thế Phong rồi cũng tạm có bến đậu.

Ðó là trường luật đại học Brest, vùng Bretagne tận cùng phía Tây nước Pháp. Tôi biết ơn giáo sư Nguyễn Quốc Vinh đã hết lòng giúp đỡ tôi, có thể vì tình đồng bào cũng như vì nghĩa đồng nghiệp. Tôi xin được giới thiệu ân nhân trẻ của tôi. Ðó là con trai của giáo sư Nguyễn Quốc Ðịnh, gốc người Nam Ðịnh, trước giảng dạy tại Viện Ðại học Pathéon-Sorbonne Paris. Giáo sư Ðịnh là tác giả quyển sách nổi danh ”Droit Public International” (Luật Quốc Tế Công Pháp), tám lần tái bản, đâu đâu cũng dùng, một thời kiêm nhiệm Ðại sứ Việt Nam Cộng hòa ở Unesco. Giáo sư Vinh ân cần chỉ dẫn tôi lập hồ sơ xin cộng tác với Ðại học Luật khoa Brest. Ông Vinh lúc ấy là giáo sư Công pháp, phó khoa trưởng rồi lên khoa trưởng rất có uy tín ở đây. Sau này giáo sư Vinh đỗ thạc sĩ về dạy ở viện đại học Maine tại Le Mans, cách Paris hơn 200 cây số về hướng Tây, rồi được bổ nhiệm làm phó Viện trưởng đại học này.

Trong lúc chờ đợi quyết định của Hội đồng Giáo sư địa phương rồi Hội đồng Giáo sư Paris, tôi được sắp xếp dạy môn Ðịa dư kinh tế năm thứ hai Ban Cử nhân, thù lao lấy trên tài khoản liên khóa 1982-83. Môn này liên quan đến các nguồn tài nguyên kinh tế thiết yếu trên thế giới, các hệ thống chuyển vận liên lục địa đường bộ, hàng không, hàng hải, ít có giảng dạy tại các phân khoa đại học khác. Sau đó Hội đồng Giáo sư Paris chấp thuận cho tôi dạy tại trường Luật khoa Brest về các môn Công pháp thù lao theo mức lương giáo sư thực thụ, qua sự chấp thuận ngân khoản thường niên .

Tôi phụ trách nhiều môn Luật hành chánh, Tố tụng hành chánh, Công pháp kinh tế, Hành chánh địa phương đối chiếu, miễn đủ số giờ ấn định cho cấp giáo sư. Tôi cộng tác với trường Luật khoa Brest từ năm 1983-84 đến năm 1992- 93. Trong thời gian ấy tôi còn lãnh dạy thêm ở viện đại học Maine-et-Loire, miền Tây Nam Paris, thủ phủ là thành phố Angers về môn Thuế vụ và Hành chánh địa phương là một môn tôi rất thích bởi có nhiều điểm tâm lý xã hội liên quan đến nền văn minh nước Pháp là nước đang mở rộng vòng tay cứu giúp gia đình tôi…

LÀM NHÀ HÀNG Ở PHÁP

Khi còn ở với cha mẹ cũng như khi đã lập gia đình, không có lúc nào vợ tôi nghĩ đến việc nấu ăn bởi lúc nhỏ lo đi học, lúc lớn lên lo đi làm việc. Nhưng một khi đã qua đất Pháp vợ tôi phải nghĩ đến sinh kế gia đình. Phải làm nghề gì kiếm sống để phụ giúp chồng nuôi con nhỏ dại. Do đó vào năm 1990 chúng tôi vay tiền ngân hàng mở nhà hàng cơm Việt Nam ở Chalon-sur-Saône, tỉnh Saône-et-Lorie, vùng Bourgogne, cách Paris hơn 400 cây số ngàn về phía Nam.

Do một người cậu vợ tôi sang lại, nhà hàng tọa lạc ngay trước ga hỏa xa, đi hướng Bắc là về Paris, còn đi hướng Nam là đi Marseille. Vợ tôi học ôn cấp tốc các bài nấu ăn thịt bò, thịt heo, tôm kho, chả giò, gỏi cuốn, cách làm nước sauce. Tại phòng ăn có thuê người chạy bàn, biết pha rượu, nước ngọt. tính tiền. Nhà hàng đắt khách qua bốn mùa xuân hạ thu đông chẳng những khách tại địa phương còn khách từ Bắc Âu đi Vùng Ðịa Trung Hải, khách từ Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha đi lên miền Bắc Âu.

Những lần đi dạy về tôi chịu khó ghé Paris mua sắm các món cần dùng đem về nhà hàng. Những ngày nhà hàng nghỉ bán tôi chở nhà tôi đi Lyon miền Nam bổ túc các thứ cần dùng như gạo, nước mắm. Ðó là thú vui chạy xe theo xa lộ mặt trời, qua những vùng đồng quê, với những tháp chuông nhà thờ cao nhất từng xanh, ghé qua những nhà dừng chân dọc theo xa lộ, ngắm cảnh để nhớ đồng quê cỏ bay thẳng cánh hồi trước của mình. Chúng tôi đã có dịp bách bộ từ nhà hàng đến bờ sông Saône ngồi trên bờ cẩn đá ngắm dòng nước chảy, xem cánh chim bay trên nền trời xanh biếc mà nhớ Sông Tiền Sông Hậu bên nhà. Biết bao giờ mình trở về hay là gửi lắm xương tàn trên đất Pháp này?

Việc gì cũng đến chỗ kết thúc. Các con tôi sau khi thi đỗ tú tài ước ao được về vùng Paris học có nhiều chọn lựa hơn. Vợ chồng tôi sang gấp nhà hàng cơm về tậu nhà vùng Essonne, phía nam thủ đô Paris để các con có điều kiện theo học Ðại học. Giờ này đây các con đã thành gia thất, có nghề nghiệp sinh sống. Nguyễn Thị Kim Oanh, bào chế dược viên, Nguyễn Thị Kim Phượng, Tiến sĩ dược khoa, Nguyễn Thị Kim Loan, quang học viên, Nguyễn Thị Phương Thảo, Tài Chánh kế toán viên, Nguyễn Trung Chánh, kỹ sư Tin học, Nguyễn Thị Thanh Nga, y khoa Bác sĩ. Còn vợ chồng tôi xin hưởng hưu bổng, ít nhiều gì cũng được miễn sống cần kiệm là đủ. Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm, đó là sự thật muôn đời ở đâu cũng vậy thôi !

KẾT LUẬN

Tại sao tôi để tựa quyển sách mỏng này ” Trường học Trường đời “. Tôi học ở trường rất nhiều, từ lớp 5 Trường làng, lấy bằng tiểu học ở trường tỉnh Sa Ðéc, bằng trung học ở Mỹ Tho, bằng tú tài, bằng cử nhân, bằng tiến sĩ ở Sài Gòn, mong giúp ích xứ sở, giúp đỡ cha mẹ, anh em, các con. Từ trường làng Tân-hựu-Ðông đến Viện đại học Panthéon Sorbornne Paris con đường xa thăm thẳm, phải trải qua Mấy Dặm Sơn Khê. Ðã học nhiều ở trường học, tôi học càng nhiều hơn nữa ở trường đời, cho đến lúc nghiễm nhiên lãnh trách nhiệm góp phần xây dựng nền Ðệ Nhị Cộng hòa miền Nam, rồi bị đưa vào trại tù cải tạo, ăn cơm trộn đá sạn, để nằm gai nếm mật, tưởng chừng như giấc chiêm bao! May mà có nước Pháp ra tay cứu giúp trong cơn phong ba bão táp dập vùi!

Tôi xin độc giả hãy cùng tôi xem lại mấy dòng này của nhà văn Nguyễn Khắc Hiếu trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư của giáo sư Dương Quảng Hàm: “Người ta ở trong đời khi nổi khi chìm, lúc may lúc rủi, không rồi lại có, đầy rồi lại vơi, lên lên xuống xuống như cây thụt máy tàu. Tiền chôn bạc chứa chưa là giàu, nhà tranh vách đất chưa là nghèo, võng lọng ngựa xe chưa là vinh , xiềng xích gông cùm chưa là nhục. Những cái đó chỉ làm cho ta đương mừng hóa lo, đương buồn hóa sướng, say mê chìm đắm khóc hão thương hoài.”

Mùa đông Kỷ Hợi 2019 Les Ulis 91940 FRANCE

NGUYỄN VĂN TƯƠNG

Chân dung văn nghệ sĩ Việt qua họa sỹ trẻ Trần Thế Vĩnh

Chân dung văn nghệ sĩ Việt qua họa sỹ trẻ Trần Thế Vĩnh

Là một họa sĩ hãy còn trẻ tuổi đời nhưng rất vững tay cầm cọ, Trần Thế Vĩnh đang chuẩn bị ra mắt những người yêu nghệ thuật một tuyển tập gồm 51 chân dung văn nghệ sĩ Việt Nam thành danh từ trước năm 1975.

Chân dung gồm những người đã mất nhưng cũng có những người vẫn còn tiếp tục sự nghiệp văn chương – văn nghệ cho đến ngày hôm nay. Họ đến từ khắp các miền đất nước, lại còn có những người đang sinh sống tại hải ngoại.

Tất cả sẽ góp mặt trong bộ chân dung được phác họa bởi một họa sĩ “tuổi trẻ – tài cao”, tràn đầy nhựa sống. Họa sĩ sáng tác 51 chân dung trong 2 năm 2018-2019 và đến năm nay đã có giấy phép xuất bản. Hy vọng một ngày rất gần chúng ta sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng những khuôn mặt văn nghệ sĩ quen thuộc.

Họa sĩ Trần Thế Vĩnh sinh ra tại Quảng Trị, học vẽ tại Huế và hiện ở Sài Gòn. Ngoài tài vẽ chân dung, anh còn có những tác phẩm về phong cảnh, tĩnh vật và một chút hội họa trừu tượng.

Bộ sưu tập 51 chân dung văn nghệ sĩ là một con số không nhiều nhưng cũng không ít. Phải nói đây là bộ sưu tập vừa phong phú lại vừa quý hiếm đối với những người quan tâm đến nghệ thuật và cả những người làm nghệ thuật.

Người xem tranh có thể cảm nhận cái thần thái “nửa điên nửa tỉnh” của Bùi Giáng; vẻ “tiên phong đạo cốt” của Văn Cao, Hữu Loan, Phùng Quán, Trần Dần; nét đạo mạo của Phạm Công Thiện, Nguyễn Hiến Lê, Cung Trầm Tưởng; vẻ khắc khổ của Phan Khôi, Phạm Đình Chương, Nguyễn Bắc Sơn hay chân quê của Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử…

Chúng tôi xếp 51 chân dung văn nghệ sĩ theo danh sách từng nhóm theo mẫu tự để các bạn tiện theo dõi.

***

Hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí (1908-1993), cùng với Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tường Lân, Trần Văn Cẩn tạo thành “bộ tứ họa sĩ nổi tiếng thời kỳ đầu của nền mỹ thuật Việt Nam”.

Học giả Nguyễn Hiến Lê (1912-1984), ông còn là một dịch giả, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục và hoạt động văn hóa độc lập, với 120 tác phẩm sáng tác, biên soạn và dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như giáo dục, văn học, ngữ học, triết học, lịch sử, du ký, gương danh nhân, chính trị, kinh tế…

Nhà phê bình văn học Đỗ Long Vân (1934‒1997), có lẽ là tác giả tài năng nhưng lặng lẽ bậc nhất của Sài Gòn, và cả Việt Nam trong thế kỷ 20. Ngoài gia đình, ông còn vài ba người bạn khác là Nguyên Sa, Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Trịnh Công Sơn, Đinh Cường, Hoàng Anh Tuấn, Khánh Ly.

Nhà thơ, nhà báo Phan Khôi (1887-1959), thành viên nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm, cháu ngoại của Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu, đỗ Tú tài chữ Hán năm 19 tuổi nhưng lại mở đầu và cổ vũ cho phong trào Thơ mới.

Nhà thơ Bùi Giáng (1926-1998), ông còn là dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học của Việt Nam. Các bút danh khác của ông: Trung niên thi sĩ, Thi sĩ, Bùi Bàn Dúi, Bùi Văn Bốn, Vân Mồng… Ông nổi tiếng từ năm 1962 với tập thơ “Mưa nguồn”.

Nhà thơ Cung Trầm Tưởng (1932) , năm 15 tuổi (1947), ông bắt đầu làm thơ, và có tập thơ đầu tay tên là “Sóng đầu dòng”. Năm 1952, sau một năm học đại học, ông sang Pháp du học tại Trường Kỹ sư không quân ở Salon-de-Provence. Năm 1957, ông tốt nghiệp trở về nước làm trong ngành không quân của Việt Nam Cộng hòa. Trong năm này, hai bài thơ của ông là “Mùa thu Paris” và “Vô đề” (thơ trường thiên) xuất hiện trong tuyển tập “Đất đứng” của nhóm Quan Điểm (gồm Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng), và đã làm người đọc chú ý.

Nhà thơ Đinh Hùng (1920-1967) ông còn dùng bút hiệu Thần Đăng khi làm thơ châm biếm và Hoài Điệp Thứ Lang khi viết tiểu thuyết.

Nhà thơ Du Tử Lê (1942-2019) làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 cho bài “Bến tâm hồn”, đăng trên tạp chí Mai.

Nhà thơ Hàn Mặc Tử (1912-1940), ông khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là “Bàn thành tứ hữu”, nghĩa là bốn người bạn ở thành Đồ Bàn.

Nhà thơ Hoàng Cầm (1922-2010) nổi tiếng với vở kịch thơ “Hận Nam Quan”, “Kiều Loan” và các bài thơ “Lá diêu bông”, “Bên kia sông Đuống”. Bài thơ “Bên kia sông Đuống” được chọn vào giảng dạy trong giáo trình trung học phổ thông. Ngoài bút danh Hoàng Cầm, ông còn có các bút danh: Bằng Việt, Lê Thái, Lê Kỳ Anh, Bằng Phi. 

Nhà thơ Hữu Loan (1916-2010) sau khi phong trào Nhân văn – Giai phẩm bị dập tắt vào năm 1958, nhà thơ Hữu Loan phải đi học tập chính trị, tiếp đó bị quản thúc tại địa phương. Cuối đời ông về sống tại quê nhà ở tỉnh Thanh Hóa. Ông nổi tiếng với bài thơ “Màu tím hoa sim” do ông sáng tác trong thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp và được lưu hành rộng rãi trong vùng kháng chiến. 

Nhà thơ Lưu Quang Vũ (1948-1988) – Các tác phẩm của ông đã để lại một dấu ấn đáng kể trong lòng công chúng Việt Nam. Tác phẩm ông nổi bật lên từ những năm sau chiến tranh, đặc biệt là những năm 80. Ông đã từng sống những năm tháng tuổi trẻ trong chiến tranh, vào bộ đội chiến đấu và trở về sống trong một thời kỳ khó khăn của nước nhà: thời hậu chiến, kinh tế bao cấp với chồng chất khó khăn, cơ cực. Các vở kịch, truyện ngắn, thơ của Lưu Quang Vũ giàu tính hiện thực và nhân văn cũng như in đậm dấu ấn của từng giai đoạn trong cuộc sống của ông. Với tuổi đời còn khá trẻ, 40 tuổi ông đã là tác giả của gần 50 vở kịch và hầu hết các vở kịch của ông đều được các đoàn kịch, chèo gây dựng thành công dưới sự chỉ đạo của nhiều đạo diễn nổi tiếng. Rất nhiều các tác phẩm của ông đã làm sôi động sân khấu Việt nam thời kỳ đó như: “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, “Lời thề thứ 9”, “Bệnh sĩ”, “Khoảnh khắc và vô tận”, “Ông không phải bố tôi”, “Tôi và chúng ta”, “Tin ở hoa hồng”, “Nàng Sita”. Giữa lúc tài năng đang vào độ chín, Lưu Quang Vũ qua đời trong một tai nạn ô tô trên quốc lộ số 5 tại Hải Dương, cùng với người bạn đời là nhà thơ Xuân Quỳnh và con trai Lưu Quỳnh Thơ. 

Nhà thơ Minh Đức Hoài Trinh (1930-2017), trước tác của bà thuộc nhiều thể loại như thơ, truyện ngắn, truyện dài. Có lẽ trong các tác phẩm của bà, được biết đến nhiều nhất là một số bài thơ được các nhạc sĩ phổ nhạc trong đó có Phạm Duy: “Đừng bỏ em một mình” và “Kiếp nào có yêu nhau” và Phan Văn Hưng: “Ai trở về xứ Việt”. Sau năm 1975 khi lưu vong sang Pháp bà sáng lập Hội Văn Bút Việt Nam Hải ngoại. Năm 1982 bà sang Mỹ định cư và mất tại Quận Cam.

Nhà thơ Nguyên Sa (1932-1998) là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng từ thập niên 1950, với những tác phẩm như “Áo lụa Hà Đông”, “Paris có gì lạ không em”, “Tuổi mười ba”, “Tháng sáu trời mưa”, “Hư ảo trăng”… Thơ Nguyên Sa có một số bài được biết đến nhiều hơn qua những bài hát do nhạc sĩ Ngô Thụy Miên phổ nhạc (Áo lụa Hà Đông, Tuổi mười ba, Paris có gì lạ không em…). Những nhạc sĩ khác có phổ nhạc vào thơ Nguyên Sa là Phạm Duy (Vết sâu), Phạm Đình Chương (Màu Kỷ Niệm), Anh Bằng (Mai Tôi Đi), Song Ngọc (Tiễn đưa) Hoàng Thanh Tâm (Tháng sáu trời mưa), Phạm Anh Dũng (Hư Ảo Trăng)… 

                                                             

Nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn (1944-2015), trước năm 1975 Nguyễn Bắc Sơn là binh nhì, lính địa phương quân ở Sài Gòn, thời gian này ông có tập thơ phản chiến in năm 1972 “Chiến tranh Việt Nam và tôi”, gây được tiếng vang trong giới văn nghệ miền Nam. Thơ Nguyễn Bắc Sơn từng được nhiều bạn đọc ưa thích, ngâm nga trong các quán văn nghệ ở Đà Lạt, Vũng Tàu, Sài Gòn, Cần Thơ… 

Nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) được coi như là nhà thơ của làng quê Việt Nam với những bài thơ mang sắc thái dân dã, mộc mạc. Bài thơ của ông được đăng báo đầu tiên là bài “Cô hái mơ”. Năm 1937 Nguyễn Bính gửi tập thơ “Tâm hồn tôi” tới dự thi và đã được giải khuyến khích của nhóm Tự lực văn đoàn.

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn (1937) được giới văn nghệ miền Nam trước năm 1975 gọi là một trong ba kỳ nhân của thời đó (hai người còn lại là Bùi Giáng và Phạm Công Thiện). Nguyễn Ðức Sơn bắt đầu công việc viết của mình với bút hiệu Sao Trên Rừng. Ông được coi là một người có cá tính đặc biệt. Trả lời trong bài phỏng vấn của tạp chí Bách Khoa, ông nói: “Tôi viết vì bị thúc đẩy bởi một lực ở đằng sau và được thu hút bởi một lực ở phía trước. Ðó là những ma lực làm tôi cảm khoái huyền diệu xa xăm. Thứ cảm khoái này kéo dài được chứ không ngắn như nhục cảm. Viết được một đoạn hay tôi đi lên đi xuống thưởng thức và khoái chí. Nên tôi nghĩ rằng sáng tác cho mình trước hết.”

                                                                                

Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên (1952-1992), thi sĩ đã gặp một cô gái người miền Bắc tên là Duyên và có với cô này một tình cảm nhẹ nhàng nhưng không thành công vì hoàn cảnh gia đình và cả tính nghệ sĩ của Tất Nhiên. Dù vậy, cô gái tên Duyên này cũng đã là cảm hứng cho Tất Nhiên sáng tác khá nhiều bài thơ “Khúc tình buồn”, hay các bài “Cô Bắc Kỳ nho nhỏ”, “Linh mục”, “Em hiền như ma sơ”. 

Nhà thơ Phạm Công Thiện (1941-2011), ông còn là nhà văn, triết gia, học giả và cư sĩ Phật giáo với pháp danh Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận vai trò triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia “thần đồng”, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 1960 với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. 

Nhà thơ Phùng Cung (1928-1997), tham gia phong trào Nhân văn – Giai phẩm tại miền Bắc vào những năm 1955 – 1957. Sau đó ông bị kết án lợi dụng các bài viết của mình để kích động bạo loạn, và bị bắt giam 12 năm trong nhà tù Hỏa Lò. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông là “Con ngựa già của Chúa Trịnh” và “Dạ Ký”, có ngụ ý đả kích những văn nghệ sĩ bẻ cong ngòi bút, bị lưu đày trong cõi tung hô. 

Nhà thơ Quang Dũng (1921-1988) là tác giả một số bài thơ nổi tiếng như “Tây Tiến”, “Đôi mắt người Sơn Tây”, “Đôi bờ”… Ngoài ra Quang Dũng còn là một họa sĩ, nhạc sĩ. Ông thuộc thế hệ các nhà thơ miền Bắc trưởng thành và nổi danh sau Cách mạng tháng Tám.  

Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền (1936-2006) được biết đến với những cách tân thơ ca táo bạo. Năm 1956, lúc tròn 20 tuổi, ông đã nổi tiếng với tập thơ “Tôi không còn cô độc”, và năm 1957, lúc 21 tuổi, với tiểu thuyết “Bếp lửa” (viết năm 1954) mô tả khung cảnh Hà Nội trước 1954, với những người ra đi cũng như những người ở lại, cả hai đều bị giằng co bởi những chọn lựa miễn cưỡng, sự chia ly hay cái chết. Thanh Tâm Tuyền có ảnh hưởng lớn trên văn học Việt Nam giai đoạn 1956-1975 và cả những năm về sau này.  

Nhà thơ Tô Thuỳ Yên (1938-2019) là tác giả bài thơ “Chiều trên phá Tam Giang” mà một phần của bài thơ đã được Trần Thiện Thanh phổ nhạc. Ông cũng là tác giả bài “Trường Sa hành” sáng tác vào Tháng Ba, 1974, không lâu sau khi Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa để vinh danh những chiến sĩ bảo vệ đất nước ngoài biển khơi. 

Nhà thơ Trần Dần (1926-1997) – Năm 1955, Trần Dần viết đơn đề nghị được giải ngũ, ra khỏi Đảng và kết hôn với bà Bùi Thị Ngọc Khuê (gia đình bà Khuê có người di cư vào Nam, nên chi bộ Đảng không cho phép kết hôn). Theo báo Nhân dân, việc Trần Dần đòi ra khỏi Đảng đã làm cho một số người đi theo. Tham gia Phong trào Nhân văn-Giai phẩm, Trần Dần lên tiếng đòi thay đổi quan điểm lãnh đạo văn nghệ trong quân đội, đòi xuất bản các tác phẩm mang tính cách tân của mình. Chỉ huy đơn vị nhiều lần cảnh cáo nhưng ông vẫn giữ quan điểm, ông liên tiếp cho ra đời các tác phẩm phê phán như “Lão rồng” và chuyện “Anh Cò Lấm” phê phán cải cách ruộng đất. Sau đó ông bị đơn vị giam 3 tháng do không tuân lệnh chỉ huy, cũng theo báo Nhân dân, trong tù ông kéo da cổ, lấy một lưỡi dao cạo râu cứa ngoài da rồi dọa tự tử. Sau đó ông viết thư cho tướng Nguyễn Chí Thanh, và vị tướng này ra lệnh thả ông. 

Nhà thơ Trần Vàng Sao (1942-2018) hầu như không cho xuất bản thơ nhưng vẫn nổi tiếng với “Bài thơ của một người yêu nước mình” ký bút danh Trần Vàng Sao, sáng tác tháng 12 năm 1967 và được chọn trong 100 bài thơ xuất sắc nhất Việt Nam thế kỷ 20. Năm 2008, Nhà xuất bản Giấy Vụn đã cho in tập thơ này.  

Nhà thơ Vũ Hoàng Chương (1916-1976) – Văn phong của ông được cho là sang trọng, có dư vị hoài cổ, giàu chất nhạc, với nhiều sắc thái Đông phương. Ngày 13/4/1976, ông bị Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam bắt giam tại khám Chí Hòa. Bệnh nặng đưa về nhà được 5 ngày thì ông mất tại Sài Gòn. Hoài Thanh – Hoài Chân trong “Thi nhân Việt Nam” đã nhận xét: “… Ý giả Vũ Hoàng Chương định nối cái nghiệp những thi hào-xưa của Đông Á: cái nghiệp say. Người say đủ thứ: say rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa. Người lại còn “hơn” cổ nhân những thứ say mới nhập-cảng: say thuốc phiện, say nhảy đầm. Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say sưa to hơn mọi say sưa khác: say thơ…. cái say sưa của Vũ Hoàng Chương là một thứ say sưa có chừng mực, say sưa mà không hẳn là trụy lạc, mặc dầu từ say sưa đến trụy lạc đường chẳng dài chi. Nhưng trụy lạc hay say sưa đều mang theo một niềm ngao ngán. Niềm ngao ngán ấy ta vốn đã gặp trong thơ xưa”.  

Nhà thơ Xuân Quỳnh (1942-1988) nổi tiếng với nhiều bài thơ được nhiều người biết đến như “Thuyền và biển”, “Sóng”, “Thơ tình cuối mùa thu”, “Tiếng gà trưa”… Xuân Quỳnh mất năm 1988 trong một vụ tai nạn giao thông tại đầu cầu Phú Lương, thị xã Hải Dương, tỉnh Hải Dương, cùng với chồng Lưu Quang Vũ và con trai Lưu Quỳnh Thơ mới 13 tuổi.             

       

Nhà văn hoá Nguyễn Hữu Đang (1913-2007) là người chỉ huy dựng Lễ đài Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, nơi Hồ Chí Minh và Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắt quốc dân. Ông đã bị kết án 15 năm tù vì tội kích động bạo loạn trong vụ án Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm. 

Nhà văn Phùng Quán (1932-1995), tác phẩm đầu tay “Vượt Côn Đảo” của ông được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1955. Trong di cảo hồi ký “Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào” do Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2007, ông kể nhiều chi tiết rất thú vị về sự ngẫu nhiên và tình cờ đưa ông từ một người lính trở thành một nhà văn và những biến cố phải gánh chịu nhưng với giọng kể rất hóm hỉnh, không một chút trách móc hay thù hận. Không lâu sau đó, Phùng Quán tham gia phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm bằng hai bài thơ “Lời mẹ dặn” và “Chống tham ô lãng phí” (1957). Khi phong trào này chấm dứt, Phùng Quán bị kỷ luật, ra khỏi quân đội, sau đó mất đi tư cách hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và phải đi lao động thực tế ở nhiều nơi.

Nhà văn Vũ Trọng Phụng (1912-1939) đã để lại một kho tác phẩm đáng kinh ngạc: hơn 30 truyện ngắn, 9 tập tiểu thuyết, 9 tập phóng sự, 7 vở kịch, cùng một bản dịch vở kịch từ tiếng Pháp, một số bài viết phê bình, tranh luận văn học và hàng trăm bài báo viết về các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa. Một số trích đoạn tác phẩm của ông trong các tác phẩm “Số đỏ” và “Giông tố” đã được đưa vào sách giáo khoa môn Ngữ văn. Tuy nhiên, cũng vì phong cách “tả chân” và yếu tố tình dục trong tác phẩm mà khi sinh thời ông đã bị chính quyền bảo hộ Pháp tại Hà Nội gọi ra tòa vì “tội làm tổn thương phong hóa”. Về sau này, tác phẩm của ông lại bị cấm xuất bản, cấm đọc vì là “tác phẩm suy đồi” tại miền Bắc Việt Nam từ năm 1954 và cả nước từ ngày 30/4/1975 cho đến tận cuối những năm 1980 mới được chính quyền cho lưu hành.

Nhạc sĩ Cung Tiến (1938) được xem như nhạc sĩ trẻ nhất có sáng tác được phổ biến rộng với bài “Hoài cảm” năm 14 tuổi. Mặc dù Cung Tiến chỉ xem âm nhạc như một thú tiêu khiển nhưng ông đã để lại những nhạc phẩm rất giá trị. Ra hải ngoại, Cung Tiến viết nhạc tấu khúc Chinh phụ ngâm năm 1987, soạn cho 21 nhạc khí, được trình diễn lần đầu vào ngày 27/3/1988 tại San Jose, California với dàn nhạc thính phòng San Jose, và đã được giải thưởng Văn Học Nghệ thuật năm 1988. 

Nhạc sĩ Đoàn Chuẩn (1924-2001) là một nghệ sĩ biểu diễn guitar Hawaii, song được biết đến nhiều hơn cả như một nhạc sĩ Việt Nam với số lượng sáng tác ít ỏi nhưng đều trở thành những giai điệu thuộc nằm lòng của nhiều thế hệ. Tất cả ca khúc của ông đều được ghi tên tác giả là “Đoàn Chuẩn-Từ Linh”. Thực ra Từ Linh không trực tiếp tham gia sáng tác, nhưng Đoàn Chuẩn ghi tên chung hai người để tôn vinh người bạn tri âm của mình, tôn vinh tình bạn đã góp phần tạo cảm hứng nghệ thuật. Hiện đã xác định được tổng cộng là hai mươi mốt ca khúc của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn, trong đó các sáng tác của ông thường đề cập nhiều đến mùa thu. Những nhạc phẩm nổi tiếng: Tình nghệ sĩ (1947), Gửi gió cho mây ngàn bay (1952), Lá đổ muôn chiều (1954), Tà áo xanh (1955)… 

Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ (1929-2001) có nhiều sáng tác ca ngợi quê hương, đất nước, con người Việt từ trước 1975. Hoàng Thi Thơ sáng tác trên 500 ca khúc từ tình ca đến nhạc quê hương, dân ca đến nhạc thời trang, đoản khúc đến trường ca, nhạc cảnh đến nhạc kịch. Ngoài ra, tại Sài Gòn, ông có thực hiện ba băng nhạc mang tên ông với những giọng ca thượng thặng thời đó: Hoàng Thi Thơ 1: Rước tình về với quê hương, Hoàng Thi Thơ 2: Việt Nam như đóa hoa xinh, Hoàng Thi Thơ 3: Đưa em qua cánh đồng vàng. 

Nhạc sĩ Lam Phương (1937 – 2020) là một nhạc sĩ tiêu biểu của nền tân nhạc Việt Nam với gần 170 tác phẩm phổ biến từ giữa thập niên 1950 đến nay. Nhạc sĩ Lam Phương trong một lần lên Đà Lạt biểu diễn văn nghệ, ngồi trên khu nội trú nhìn xuống thung lũng ông viết bài “Thành phố buồn” và bán với giá 12 triệu đồng, tiền hồi đó. Ngoài ra còn rất nhiều bản khác như “Tình bơ vơ”, “Duyên kiếp”… khiến ông có một tài sản lớn. Ông nói rằng người ta đi tị nạn chính trị còn tôi tị nạn ái tình. Ở Pái ông đã gặp được một người phụ nữ tên Hường và viết hàng loạt ca khúc vô cùng tươi vui như “Bé yêu”, “Bài tango cho em”. Điển hình là bài “Mùa thu yêu đương” với câu hát “Đường vào Paris có lắm nụ hồng”. Tuy nhiên cuộc tình này không đi đến đâu, nên sau cùng ông viết “Tình vẫn chưa yên”. 

Nhạc sĩ Lê Uyên Phương (1941-1999) – Lê Uyên Phương là nghệ danh chung của vợ chồng nhạc sĩ Lê Minh Lập và ca sĩ Lê Uyên Lâm Phúc Anh. Lê Uyên Phương nổi tiếng bởi việc sáng tác và trình diễn những tình khúc ca ngợi tình yêu nồng nàn, lãng mạn tại Sài Gòn trước năm 1975. Những nhạc phẩm nổi tiếng: Tình khúc cho em, Uống nước bên bờ suối, Vũng lầy của chúng ta, Yêu nhau trong phận người… 

Nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên (1948), một số ca khúc đáng chú ý như: “Giáng ngọc”, “Mùa thu này cho em” (sau đổi là “Mùa thu cho em”), “Gọi nắng” (sau đổi là “Giọt nắng hồng”), “Dấu vết tình yêu” (sau đổi là “Dấu tình sầu”), “Cho những mùa thu” (sau đổi là “Thu trong mắt em”), “Tình khúc tháng 6”, “Mùa thu về trong mắt em” (sau đổi là “Mắt thu”) và “Ngày mai em đi”… Tiếp theo, Ngô Thụy Miên có những nhạc phẩm phổ từ thơ của nhà thơ Nguyên Sa như: “Áo lụa Hà Đông”, “Paris có gì lạ không em”, “Tuổi 13″…

Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 (1940-2016) là nhạc sĩ kiêm nhạc công chơi dương cầm. Nguyễn Ánh 9 bắt đầu sự nghiệp viết nhạc một cách rất tình cờ trong một chuyến đi Nhật biểu diễn cùng ca sĩ Khánh Ly. Sau buổi diễn tại hội chợ Osaka, khi cùng với Khánh Ly đứng chờ thang máy lên phòng khách sạn, thấy người bạn mình mang vẻ mặt buồn buồn, Khánh Ly lên tiếng hỏi: “Còn thương nó không bạn?”, ý muốn hỏi về một người bạn gái quen biết Nguyễn Ánh 9 vào thời đó. Sẵn cây đàn ghi-ta trên tay, Nguyễn Ánh 9 gảy ngay rồi cất tiếng hát: “Không! Không! Tôi không còn, tôi không còn yêu em nữa…”. Đến khi trở về Việt Nam, Khánh Ly đề nghị ông soạn nhạc phẩm này. 

Nhạc sĩ Phạm Duy (1921-2013), thường được coi như nhạc sĩ lớn nhất của nền Tân nhạc Việt Nam với lượng sáng tác đồ sộ cũng như đa dạng về thể loại, trong đó có rất nhiều ca khúc trở nên kinh điển và quen thuộc với người Việt. Câu mở đầu của bài “Tình ca”, ca khúc của Phạm Duy viết trong giai đoạn trước 1954 trở thành quen thuộc với mọi người: “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi!…”. Thi sĩ Chế Lan Viên nhắc tới Phạm Duy trong một bài báo tên “Hồi Ký” đăng tại tạp chí Sông Hương ngày 22 tháng 6 năm 1986: “Tất cả về cội, không mất mát gì ư? Có chứ, mất Phạm Duy! Chúng ta tiếc lắm, vì anh có tài lớn. Nhưng chúng ta làm sao được! Anh ấy bỏ chúng ta, chứ chúng ta đâu có bỏ anh.”

Nhạc sĩ Phạm Đình Chương (1929-1991), ông còn là một ca sĩ với nghệ danh Hoài Bắc trong ban hợp ca Thăng Long. Phần nhiều những tác phẩm của Phạm Đình Chương thường được xếp vào dòng tiền chiến bởi mang phong cách trữ tình lãng mạn. Hai sáng tác đầu tiên “Ra đi khi trời vừa sáng” và “Hò leo núi” đều có không khí hào hùng, tươi trẻ. Phạm Đình Chương cũng phổ nhạc từ thơ. Nhiều bản nhạc phổ thơ của ông đã trở thành những bài bất hủ, có một sức sống riêng như: “Đôi mắt người Sơn Tây” (thơ Quang Dũng), “Mộng dưới hoa” (thơ Đinh Hùng), “Nửa hồn thương đau” (thơ Thanh Tâm Tuyền), “Đêm nhớ trăng Sài Gòn” (thơ Du Tử Lê)… Phạm Đình Chương cũng đóng góp cho tân nhạc Việt Nam bài trường ca bất hủ Hội Trùng Dương nói về ba con sông đại diện cho ba miền: sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long.

Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng (1937-2000) – Năm 1966, Trầm Tử Thiêng gia nhập Cục Tâm lý chiến thuộc Tổng cục Chiến tranh Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Thời gian này ông viết các bản nhạc như: “Quân trường vang tiếng gọi”, “Đêm di hành”, “Mưa trên Poncho”. Sự kiện Tết Mậu Thân 1968, Trầm Tử Thiêng viết bài “Chuyện một chiếc cầu đã gãy” nói về cầu Trường Tiền bị giật sập. Năm 1970, ông viết “Tôn Nữ còn buồn” về trận bão tàn phá miền Nam. Ngoài ra, ông cũng tham gia vào phong trào Du ca Việt Nam. 

Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh (1942-2005) còn là ca sĩ với nghệ danh Nhật Trường và được xem như là một trong bốn giọng nam nổi tiếng nhất của nhạc vàng. Về sáng tác, hai chủ đề lớn trong sáng tác của Trần Thiện Thanh là tình yêu và tình lính. Ông sáng tác nhiều nhạc về lính, nhưng nhạc lính của ông không có thù hận, gay gắt, kích động hoặc u uất, bi thảm mà thường là trong sáng vui tươi, làm thi vị hóa và lãng mạn hóa đời lính gian khổ. 

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (1939-2001), hiện nay chưa có thống kê chính xác về số tác phẩm để lại của ông. Tuy nhiên số ca khúc của ông được biết đến rộng rãi là 236 ca khúc. Ngoài ra, ông còn được xem là một nhà thơ, một họa sĩ, một ca sĩ và một diễn viên không chuyên. 

Nhạc sĩ Trúc Phương (1933-1995) – Nhiều ca khúc viết bằng giai điệu Bolero của ông trở thành bất hủ và vẫn được yêu thích cho đến tận nay. Năm 1976, Trúc Phương vượt biên nhưng không thành công và bị tịch thu nhà. Những năm sau, ông vượt biên thêm 2 lần nhưng vẫn không thành công. Lúc ra tù, vợ con ly tán, ông sống không nhà cửa, không giấy tờ tùy thân rồi lưu lạc về Trà Vinh, Vĩnh Long và vài nơi khác. Tác phẩm tiêu biểu: “24 giờ phép”, “Ai cho tôi tình yêu”, “Chiều cuối tuần”, “Đò chiều”, “Nửa đêm ngoài phố”, “Tàu đêm năm cũ”, “Tình thắm duyên quê”… 

Nhạc sĩ Từ Công Phụng (1942) là một nhạc sĩ thuộc dân tộc Chàm. Ông cũng là tác giả của các ca khúc trữ tình được nhiều người biết đến như “Bây giờ tháng mấy”, “Mắt lệ cho người”, “Giọt lệ cho ngàn sau”, “Trên ngọn tình sầu”, “Mùa xuân trên đỉnh bình yên”… Ông cũng hát một số trong những bài hát của chính mình. Có một thời ông hát chung với Từ Dung trở thành một cặp song ca nổi tiếng tại Sài Gòn.

Nhạc sĩ Văn Cao (1923-1995), ông là tác giả của ca khúc “Tiến quân ca”, quốc ca chính thức của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời ông cũng là một trong những cây bút có sức ảnh hưởng lớn nhất của nền Tân nhạc Việt Nam. Ông được giới chuyên môn và công chúng yêu nhạc đánh giá là một trong ba nhạc sĩ nổi bật nhất của nền âm nhạc hiện đại Việt Nam trong thế kỷ XX, cùng với Phạm Duy và Trịnh Công Sơn. Những ca khúc trữ tình lãng mạn như “Bến xuân”, “Suối mơ”, “Thiên Thai”, “Trương Chi”… nhanh chóng trở thành một trong những gương mặt tiên phong, nổi bật nhất của trào lưu lãng mạn trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, đặc biệt là để lại những dấu ấn mang tính khai phá của ông trong tân nhạc Việt. 

Nhạc sĩ Vũ Thành An (1943) với các “Bài không tên” là những tác phẩm nổi tiếng của ông. Hiện nay, ông là một phó tế của Giáo hội Công giáo Rôma, đã ngừng sáng tác nhạc tình ca mà chỉ sáng tác thánh ca. Ông cũng là người có nhiều tai tiếng trong thời gian đi học tập cải tạo… 

Nhạc sĩ Xuân Tiên (1921) là một nhạc sĩ có nhiều đóng góp cho nền tân nhạc Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Ngoài sáng tác nhiều bản nhạc có giá trị được nhiều người yêu thích như “Khúc hát ân tình”, “Duyên tình”, “Về dưới mái nhà”, … ông còn có khả năng chơi 25 loại nhạc cụ, đồng thời cải tiến và sáng tạo một số nhạc cụ mới. Năm 1976, lúc còn ở Việt Nam, ông chế tác cây đàn 60 dây chơi được tất cả âm giai. Tiếng đàn tương tự tiếng đàn tranh nhưng mạnh và chắc hơn. Năm 1980, ông cải tiến cây đàn bầu cổ truyền với thân đàn làm từ trái bầu dài làm hộp khuếch âm. Đàn này đã nhiều lần được đem đi triển lãm ở Úc, thường được gọi là Đàn bầu Xuân Tiên. Ông vừa mừng sinh nhật tháng 1/ 2021 đại thọ 100 tuổi.

Nhạc sĩ Y Vân (1933-1992) – Y Vân có nghĩa là “Yêu Vân”, tên tiểu thư Tường Vân – người yêu đầu tiên của ông. Ông chọn tên này từ khi chuyện tình giữa ông và cô tan vỡ. Một số ca khúc của ông đã được viết lên để nói lên tâm sự này: “Đò nghèo”, “Ảo ảnh”, “Nhạt nắng”… Bài hát “Lòng mẹ” của ông rất nổi tiếng và được xem như một trong những ca khúc tiêu biểu, sâu sắc và thiêng liêng nhất về tình mẹ, được sáng tác năm 1957. Từ đó đến nay, bài hát đã được nhiều ca sĩ thể hiện, vì thế nó còn là một bài hát rất quen thuộc với người Việt Nam từ ngày ra đời đến bây giờ.

Thầy Tuệ Sỹ (1943): Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, tục danh Phạm Văn Thương, sinh ngày 15/2/1943 tại Paksé, Lào, quê tại Quảng Bình, Việt Nam. Ông là một học giả uyên bác về Phật giáo, nguyên giáo sư thực thụ của Đại học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, nhà văn, nhà thơ, dịch giả và là một người bất đồng chính kiến với chính quyền. Ông được giới học giả Việt Nam đánh giá cao vì đã công bố nhiều tiểu luận, chuyên khảo, thơ và nhiều công trình dịch thuật Phật giáo từ tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa và tiếng Nhật. Lúc bị bắt năm 1984, ông và Thích Trí Siêu, được coi là 2 nhà sư uyên bác nhất của Phật giáo Việt Nam, đang soạn thảo quyển Bách khoa Phật học Ðại Tự điển.

Triết gia Trần Đức Thảo (1917-1993) – Năm 1957-1958, ông bị kết án dính líu đến phong trào Nhân văn-Giai phẩm khi công bố hai bài báo có bàn đến một số vấn đề về tự do, dân chủ. Sau vụ Nhân văn-Giai phẩm, ông bị cách chức Phó Giám đốc trường ĐHSP Hà Nội, chức Trưởng khoa Lịch sử chung cho cả ĐHSP và ĐHTH Hà Nội. Trần Ðức Thảo bị cấm giảng dạy, phải dịch thuật lặt vặt để sống, phải bán dần bán mòn những bộ từ điển. Ông hạn chế liên hệ với người khác, bị cô lập trong cuộc sống.

Hoạ sĩ Vĩnh Phối… thầy tôi 

(Theo chú thích của họa sĩ Trần Thế Vĩnh)

Chân dung tự họa của Trần Thế Vĩnh

Họa sĩ Trần Thế Vĩnh

Họa sĩ Trần Thế Vĩnh
Đào Nguyên Thông sưu tập
From: TU-PHUNG

Carolyn Huỳnh và cuốn sách ‘Fortunes of Jaded Women’ rất Việt Nam

Carolyn Huỳnh và cuốn sách ‘Fortunes of Jaded Women’ rất Việt Nam

September 7, 2022

Đằng-Giao/Người Việt

LOS ANGELES, California (NV) – Cuốn “Fortunes of Jaded Women” của tác giả Carolyn Huỳnh xoay quanh câu chuyện của những người mẹ và những đứa con gái tại Little Saigon, Westminster.

Tác giả Carolyn Huỳnh tại thư phòng ở Los Angeles. (Hình: Carolyn Huỳnh cung cấp)

Lâm li, hóm hỉnh và có hậu

Cuốn sách kể câu chuyện của nhiều nhân vật thuộc nhiều thế hệ lần tìm về với nhau sau khi bị cuộc sống trên quê hương mới làm cho tình cảm rạn nứt, sứt mẻ.

“Và trong quá trình tìm về với nhau, họ tìm được con người của chính họ,” tác giả Carolyn Huỳnh nói.

Nhưng thông điệp lớn nhất của cuốn sách là sự cứu chuộc của cá nhân.

Cô nói: “Cho dù cuộc đời có tàn ác với chúng ta đến đâu thì chúng ta vẫn có thể viết lại câu chuyện của mình.”

Bằng giọng văn thân mật, khi thì dí dỏm, hóm hỉnh, khi thì căng thẳng, nghiêm chỉnh, Carolyn khéo léo lôi cuốn độc giả vào một cuộc hành trình của trái tim đầy thú vị và cảm động.

“Fortunes of Jaded Women” được nhà xuất bản Atria Books thuộc công ty Simon & Schuster, Inc. có trụ sở ở New York, London, Toronto, Sydney, và New Delhi phát hành.

Cuốn sách của Carolyn Huỳnh viết bằng tiếng Anh nhưng tâm tư, tình cảm, nỗi lo âu, niềm hy vọng, những giọt nước mắt và những nụ cười ý nhị lại hết sức Việt Nam.

Hai tầng ý nghĩa

“Tựa đề cuốn sách này có hai ý nghĩa,” cô Carolyn cho biết. “Chữ ‘fortunes’ vừa có nghĩa là vận may mà cũng có nghĩa là giá trị của những phụ nữ này. ‘Jaded’ vừa có nghĩa là mệt mỏi vừa có nghĩa là cẩm thạch.”

Cô muốn để độc giả tự hiểu toàn bộ câu chuyện theo cảm nhận của mình chứ không muốn áp đặt ý nghĩa của cuốn sách, buộc độc giả phải hiểu theo ý cô.

Những nhân vật trong “Fortunes of Jaded Women” hoàn toàn linh hoạt, sống động và có cá tính chứ không tẻ nhạt, mập mờ và rập khuôn như những nhân vật nhan nhản trong những cuốn sách thị trường theo thị hiếu khán giả bình dân.

Chỉ cần đọc qua vài trang đầu là độc giả thấy ngay sự thực tâm chăm sóc mà tác giả dành cho từng nhân vật của mình. Phải quý trọng nhân vật như người nhà thì cô Carolyn mới có giọng văn ân cần, nâng niu như vậy.

“Fortunes of Jaded Women” của Carolyn Huỳnh kể về tình cảm gia đình của người gốc Việt. (Hình: Carolyn Huỳnh cung cấp)

Chuyện riêng tư nhưng lại rất… “chung”

Câu chuyện của “Fortunes of Jaded Women” không vội vàng hời hợt với diễn biến tình tiết nhanh mà chậm rãi, từ tốn đào sâu vào nội tâm để tìm kiếm cái “hồn” sâu lắng của câu chuyện.

Cô Carolyn nói: “Những nhân vật có những nỗi niềm không nói được thành lời.”

“Fortunes of Jaded Women” nói về những câu chuyện gia đình riêng tư nhưng cũng là câu chuyện chung ở mọi nơi trên thế giới: sự xung đột, hiểu lầm của những thế hệ khác nhau.

“Câu chuyện cũng về khả năng phục hồi và hy vọng. Tôi muốn viết về cuộc đấu tranh đồng hóa và những gì xảy ra sau đó, cho nhiều thế hệ tiếp nối,” cô trình bày.

Nếu độc giả cảm thấy vui khi đọc “Fortunes of Jaded Women” là cô Carolyn cho rằng mình đã thành công.

Cô nói: “Chỉ cần một số ít người thôi là tôi đủ vui rồi. Với tôi, đó là thành công. Danh tiếng và tiền bạc không quan trọng bằng niềm vui của độc giả.”

Sinh ra tại Fountain Valley và lớn lên tại Santa Ana, cô Carolyn lấy rất nhiều cảm hứng cho cuốn sách từ những ngày còn bé ở Santa Ana theo mẹ đến Little Saigon.

Sau khi so sánh lối sống của ngưởi gốc Việt tại nhiều nơi, cô nhận xét rằng cuộc sống của người Việt ở Orange County rất khác với kinh nghiệm cuộc sống của người gốc Việt ở Houston (Texas) hay New Orleans (Louisiana).

Cô nói: “Người Việt ở Nam California khác ở cách ăn mặc thời trang cũng như thái độ sống của họ khác với người ở nơi khác và họ tự tin hơn rất nhiều bởi vì có đông người Việt chung quanh để thành lập một cộng đồng. Nơi khác không được như vậy.”

Cô Carolyn Huỳnh cùng cha mẹ tại Santa Ana. (Hình: Carolyn Huỳnh cung cấp)

Cuốn “Fortunes of Jaded Women” là một món quà ý nghĩa và thú vị bậc phụ huynh có thể mua tặng con em mình để gia đình có thể hiểu và thông cảm cho nhau hơn

Sách có bán khắp nơi, Amazon, Barnes & Noble hay Walmart, Target. [qd]

____________________

Liên lạc tác giả: ngo.giao@nguoi-viet.com

CÂU CHUYỆN VỀ CÔ BÉ 7 TUỔI CỨU SỐNG HÀNG TRIỆU TRẺ EM Ở CHÂU PHI

 CÂU CHUYỆN VỀ CÔ BÉ 7 TUỔI CỨU SỐNG HÀNG TRIỆU TRẺ EM Ở CHÂU PHI

Đây là câu chuyện có thật về cô bé ấy có tên là Katherine Commale:

– Vào ngày 6/4/2006, cô bé Katherine Commale ở Mỹ xem đoạn phóng sự ở châu Phi trên TV, trong đó có nói ở châu Phi trung bình mỗi 30 giây sẽ có một đứa trẻ tử vong do bệnh sốt rét.

Cô bé 5 tuổi ngồi trên sô pha đếm số bằng tay 1, 2, 3,… 30. Khi đếm đến 30, cô bé hoảng sợ nói: “Mẹ ơi, có một bạn nhỏ ở châu Phi chết rồi, chúng ta nhất định phải làm gì đó!”.

Vài ngày sau, mẹ của Katherine nhận dược điện thoại của cô giáo mẫu giáo nói rằng cô bé không đóng tiền ăn nhẹ.

Khi mẹ hỏi tiền đâu thì Katherine nói: “Mẹ ơi, nếu con không ăn đồ ăn nhẹ ở trường, bình thường không ăn vặt, cũng không mua búp bê nữa, vậy thì có đủ để mua một chiếc mùng không ạ?”

Mẹ đưa cô bé đến siêu thị, mua một chiếc mùng chống muỗi lớn có thể sử dụng cho 4 trẻ em có giá mười mấy đô la. Sau đó cô gọi điện thoại cho tổ chức làm từ thiện ở châu Phi hỏi cách làm thế nào để gửi được chiếc mùng đến đó.

Rất nhanh sau đó họ đã tìm cho cô tổ chức Nothing But Nets chuyên gửi mùng đến châu Phi cho trẻ em. Katherine tự tay gửi chiếc mùng đi, một tuần sau, cô bé nhận được thư cảm ơn từ tổ chức Nothing But Nets, trong thư họ cho biết cô bé là người quyên góp nhỏ tuổi nhất và nếu cô bé quyên góp 10 chiếc mùng thì sẽ được giấy chứng nhận.
Katherine yêu cầu mẹ cùng mình ra chợ bán đồ cũ để bày bán sách cũ, đồ chơi cũ, quần áo cũ của cô bé để lấy tiền quyên góp mùng. Nhưng bán cả một ngày mà không ai mua. Katherine nghĩ: “Mình quyên tiền mua mùng, tổ chức Nothing But Nets sẽ cho mình giấy chứng nhận. Vậy người khác mua đồ của mình, đưa cho mình tiền, họ cũng nên nhận được giấy chứng nhận mới đúng chứ.”

Thế là cô bé bắt đầu tự làm giấy chứng nhận, mẹ giúp mua vật liệu, bố giúp sắp xếp phòng làm việc, em trai giúp vẽ trái tim. Mỗi tờ giấy chứng nhận đều có dòng chữ “Nhân danh bạn, chúng ta mua một chiếc mùng để gửi đến châu Phi” do chính Katherine viết tay, đương nhiên còn có chữ ký chứng nhận của cô bé.

Chỉ cần quyên góp 10 đô la để mua một chiếc mùng là sẽ nhận được một tờ giấy chứng nhận. Hàng xóm nhìn thấy giấy chứng nhận của cô bé, họ cảm thấy vừa ngây thơ vừa cảm động, cô bé nhanh chóng bán được 10 tờ giấy chứng nhận. Katherine gửi tiền cho tổ chức từ thiện và nhận được “Giấy chứng nhận danh dự” đặc biệt làm riêng cho cô bé từ tổ chức Nothing But Nets, họ phong cho Katherine là “Đại sứ mùng chống muỗi”.
Vào ngày 8/6/2007, Katherine nhận được thư gửi đến từ làng Stiga, các bạn nhỏ trong làng viết: “Cảm ơn mùng mà bạn đã gửi cho chúng mình, chúng mình đã thấy ảnh của bạn, mọi người đều cảm thấy bạn rất xinh!”. Katherine vui lắm khi nhận được sự khích lệ này, khiến cô bé có động lực lớn hơn, cô và các “đồng đội” cùng chung tay làm 100 tờ giấy chứng nhận để gửi cho mỗi tỷ phú trong bảng xếp hạng của tạp chí Forbes mỗi người một tờ.

Trên một lá thư có viết: Kính gửi ông Bill Gates, không có mùng chống muỗi, các bạn nhỏ ở châu Phi sẽ bị mất mạng do bệnh sốt rét. Họ cần tiền, nhưng nghe nói tiền đều ở chỗ của ông…

Ngày 5/4/2011, Quỹ từ thiện Bill Gates tuyên bố quyên góp 3 triệu đô la cho tổ chức Nothing But Nets. Bill Gates cho biết ông nhận được một tờ giấy chứng nhận cùng một lá thư, trong thư nói rằng số tiền mà trẻ em ở châu Phi cần để mua mùng chống muỗi đều ở chỗ ông. Có vẻ như ông “không đưa tiền ra là không được đâu”.

Năm 2008, Quỹ từ thiện Bill Gates đã quay một bộ phim tài liệu công ích có tên là “Trẻ em cứu trẻ em”, nhờ đó mà Katherine đã đến châu Phi. Cô bé nhìn thấy các bạn nhỏ dùng bút viết lên mùng chữ “Katherine”, các bạn đều gọi những chiếc mùng cứu mạng này là “mùng Katherine”. Chiếc mùng đầy tình yêu thương này sẽ bảo vệ cho các bạn mỗi đêm. Làng Stiga bây giờ có tên là “Làng mùng Katherine”!.

Cho đến năm 10 tuổi, Katherine đã gây quỹ trên 180.000 USD, tương đương với 18.000 chiếc màn chống muỗi đã được gửi tới các gia đình châu Phi. Không lâu sau dấu mốc quan trọng này, cô bé nhận được tin tức rằng con số cứ 30 giây lại có một đứa trẻ ra đi vì sốt rét đã được cải thiện thành 45 giây. Hiện nay, con số này đã được nâng lên thành 60 giây.

 Nguồn: Vì Hoà Bình

From: Phong Dương

Bao Thuốc Lá CAPSTAN Ngày Xưa Đã Để Lại Nhiều Bài Thơ Hay!

Danh Họa Vũ Hối Vừa Qua Đời

Van Pham

Cầu chúc ông yên nghỉ (R.I.P) nơi cõi vĩnh hằng. Xin chia buồn cùng anh Vũ Nhân cùng tang quyến.

***

Danh Họa Vũ Hối Vừa Qua Đời

Họa Sĩ Vũ Hối đã vĩnh viễn ra đi vào lúc 5 giờ 15 phút ngày 19/08/2022, tại tiểu bang Maryland hưởng thọ 90 tuổi. Theo trang mạng đại học sự phạm Saigon, ông Vũ Hối sinh ngày 22 tháng 11 năm 1932 tại Tam Kỳ, Quảng Nam.

Là một nghệ sĩ đa tài, ông được biết đến như một họa sĩ, thi sĩ, người viết thư pháp. Ông là một tên tuổi lớn của nền văn học nghệ thuật nước nhà và quốc tế. Ông được mời vẽ chân dung tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy, vẽ chân dung Đại tướng Creighton W. Abrams. Đã nhận Giải Khôi Nguyên Hội Họa Quốc Tế năm 1963 tại Hoa Kỳ. Sáng lập trường phái Luân Vũ Họa (Paintings In Motion) và Thư Họa (Handwriting Painting).

Ông xuất thân trong một gia đình khoa bảng, nhưng chẳng may thân phụ và 11 người trong gia đình ông đã bị cộng sản tàn sát dã man vì là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Ðảng. Ông còn có bào huynh là Giáo Sư Vũ Ký, cũng nổi tiếng với cuốn biên khảo “Cương Lĩnh Văn Hóa.” Là một danh tài, một nghệ sĩ tích cực chống cộng của Miền Nam nên sau ngày 30 tháng 4, 1975 ông bị cộng sản bắt giam chung với nhà văn Doãn Quốc Sỹ, nhà thơ Vũ Hoàng Chương, nhạc sĩ Lê Thương và nhạc sĩ Ðức Quỳnh mà chúng ghép tội là “văn nghệ sĩ chống cộng – văn nghệ sĩ ngụy.”

Trong suốt thời gian bị giam, ông luôn luôn tỏ ra là con người Quốc Gia đầy sĩ khí, nhất định không khai danh tánh của những người đồng chí hướng với ông nên bị chúng tra tấn tàn bạo đến mù con mắt bên phải và chúng cùm ông cho đến liệt chân phải. Đây là một mất mát lớn cho cộng đồng người Việt hải ngoại nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung. Toàn ban giám đóc đài truyền hình SBTN xin chia buồn cùng tang quyến và phóng viên Vũ Nhân.

Bryan Phạm bỏ việc lương cao, lập diễn đàn AHN với 200,000 thành viên

Bryan Phạm bỏ việc lương cao, lập diễn đàn AHN với 200,000 thành viên

August 22, 2022

Trà Nhiên/Người Việt

LAS VEGAS, Nevada (NV) – Từ một kỹ sư nhu liệu với mức lương “đáng mơ ước,” đến nhà đầu tư bất động sản, nhưng Bryan Phạm lại quyết định “gác kiếm” để khởi nghiệp và sáng lập diễn đàn Asian Hustle Network (AHN), chấp nhận không có thu nhập năm đầu, chỉ vì một ước mơ.

Từ trái, anh Bryan Phạm và cô Maggie Chui-đồng sáng lập Asian Hustle Network, và MC Eric Chen trong một buổi hội thảo. (Hình: Bryan Phạm cung cấp)

Ước mơ của chàng trai 33 tuổi là gầy dựng diễn đàn kết nối giới trẻ gốc Á để các thành viên học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm về khởi nghiệp, về cách lãnh đạo, và làm cách nào để làm chủ doanh nghiệp.

AHN là “đứa con tinh thần” mà anh Bryan đồng sáng lập với cô Maggie Chui vào Tháng Mười Một, 2019. Mới đầu, AHN chỉ là một group nhỏ trên Facebook, nhưng chưa đầy một tuần lại thu hút 10,000 người nhấn nút tham gia.

Rồi sau đó thì trung bình group thu hút hơn 10,000 người mỗi tuần, để đến giờ đây diễn đàn AHN, www.asianhustlenetwork.com, có đến hơn 200,000 thành viên khắp thế giới.

Lý tưởng của “kẻ mộng mơ”

“Năm 2018, tôi tìm kiếm một diễn đàn gốc Á trực tuyến để tham gia nhưng lại không tìm được gì. Tôi thấy cộng đồng mình khi ấy thật rời rạc, coi nhau là đối thủ nhiều hơn là đoàn kết,” anh Bryan nói với nhật báo Người Việt.

“Các diễn đàn lúc bấy giờ toàn nói về đồ ăn và trà sữa, chứ chưa thấy một nơi nào cùng hỗ trợ các chủ doanh nghiệp hoặc một nơi nào đó dành cho những ‘kẻ mộng mơ’ như tôi. Thế là tôi hạ quyết tâm tự tạo một diễn đàn và đó là Asian Hustle Network,” anh bộc bạch.

Bryan Phạm đồng sáng lập Asian Hustle Network để kết nối cộng đồng gốc Á. (Hình: Bryan Phạm cung cấp)

Giải nghĩa cho sự thành công bất ngờ của AHN, anh Bryan cho biết: “Có thể AHN ra mắt là lúc cộng đồng cần nhất, họ cần mội diễn đàn để kết nối người có cùng chí hướng, cùng hỗ trợ nhau, và để cùng thành công.”

“Cha đẻ” của AHN cũng cho biết, khoảng 60% thành viên của diễn đàn là người từ 24 đến 36 tuổi, đa số là các bạn trẻ đang trên đường tìm kiếm ước mơ, và ý tưởng kinh doanh.

Cha mẹ của Bryan là thuyền nhân, vượt biển sang Mỹ năm 1987.

Anh sinh trưởng ở thành phố San Gabriel, thuộc Los Angles County. Sau đó, anh tốt nghiệp đại học UC Irvine, với ngành kỹ sư nhu liệu.

Sau khi ra trường, chàng sinh viên trẻ làm việc ở San Franciso trong bảy năm. Vài năm trở lại đây, anh chuyển sang sinh sống tại Las Vegas.

Anh làm kỹ sư nhu liệu được 10 năm, sau đó nhảy vào đầu tư bất động sản, nhưng chính ý tưởng thành lập diễn đàn của giới trẻ gốc Á đã thôi thúc anh đổi nghề.

“Một năm đầu thì AHN chẳng có thu nhập nào nhưng đến giờ nghĩ lại thì quyết định này thật đúng đắn dẫu nó không dễ dàng là bao,” anh tâm sự.

Buổi hội thảo 2022 Uplifted Conference của Asian Hustle Network, ở Las Vegas, thu hút hơn 500 thành viên tham dự. (Hình: Bryan Phạm cung cấp)

Diễn đàn của những nhà lãnh đạo tương lai

Các thành viên chính thức của AHN được tham gia giao thiệp với các chuyên gia ở nhiều lĩnh vực, được học hỏi kinh nghiệm qua các buổi hội thảo, được cung cấp các thông tin bổ ích và nguồn trợ giúp để mọi người cùng tiến phía trước.

Tháng Tư vừa qua, AHN thành công bằng việc tổ chức buổi hội thảo Uplifted Conference ở Las Vegas khi thu hút hơn 500 thành viên tham dự.

Anh Bryan cho biết buổi hội thảo tiếp theo sẽ được tổ chức từ 27 đến 28 Tháng Tư, 2023, và dự trù hơn 1,000 người tham dự.

Thêm vào đó, anh Bryan còn bật mí rằng sẽ có AHN Talk Series, buổi hội thảo mời các diễn giả có kinh nghiệm để chia sẻ nhiều chủ đề cũng như câu chuyện thành công của họ.

Vào 23 Tháng Tám, AHN Talk Series sẽ ra mắt ở Seatle, Washington, sẽ mời hai diễn giả một nữ, một nam, sinh sống ở đó để thuyết trình.

Sau đó, mỗi tháng AHN Talk Series sẽ có buổi hội thảo ở khắp Hoa Kỳ như ở Washington DC, New York, và sẽ mở rộng hơn sang các nước Á Châu như Việt Nam, Nam Hàn, và Singapore.

Anh Bryan cũng chia sẻ thêm rằng dù AHN vẫn còn được xem là công ty khởi nghiệp nhưng vẫn luôn sát cánh hỗ trợ cộng đồng.

Vừa rồi, AHN quyên góp tiền cho trường Good Shepherd Academy ở Los Angles, để hỗ trợ học sinh nơi đây.

“Chúng tôi luôn nghĩ mình có bổn phận giúp đỡ cộng đồng vì thành công mà AHN có được mới chỉ là sự bắt đầu thôi,” anh nói.

Bryan Phạm khuyến khích mọi người tham gia Asian Hustle Network để cùng học hỏi kinh nghiệm và chia sẻ thành công. (Hình: Bryan Phạm cung cấp)

Anh Bryan cũng khuyến khích các bạn trẻ: “Nếu các bạn muốn khởi nghiệp mà còn mông lung, hoặc muốn biết thêm về kinh nghiệm, về các giấy tờ chuyên môn khi kinh doanh thì hãy tham gia AHN để bạn không còn phải lạc lõng nữa, hãy cùng đồng hành trên chặng đường này.”

Vị đồng sáng lập AHN cũng chia sẻ chặng đường khởi nghiệp không hào quang như mọi người vẫn nghĩ.

“Đừng bị lừa là khởi nghiệp chỉ toàn ‘màu hồng.’ Chúng ta phải luôn siêng năng và làm việc hết mình vì đó là chặng đường gian nan, thậm chí là lắm chông gai,” anh Bryan tâm sự. [kn]

Liên lạc tác giả: nguyen.nhien@nguoi-viet.com