“1984” nằm ở hàng đầu trong danh sách “bestsellers” của Amazon.

“1984” nằm ở hàng đầu trong danh sách “bestsellers” của Amazon.

George Orwell mất năm 1950, tức là cách đây 67 năm. Ấy thế mà một trong những tác phẩm của ông mới đây, Tháng Giêng 2017, đột ngột nằm ở hàng đầu trong danh sách “bestsellers” của Amazon.

George Orwell là ai? Ông là tác giả của tập truyện hư cấu nổi tiếng toàn thế giới nói về thế giới Cộng Sản: Trại Súc Vật (Animal Farm). Tác phẩm này đã từng được đài BBC dịch ra tiếng Việt và đọc vào chương trình phát thanh hàng đêm khoảng thập niên 1980. Nó cũng đã được xuất bản ở trong nước nhưng dưới một cái tựa đề rất “vô duyên,” “Chuyện ở Nông Trại,” có lẽ để tránh kiểm duyệt.

Tác phẩm “bestseller” này là gì? Là Nineteen Eighty-Four, sau này được đổi thành “1984” cho gọn, được Amazon đặt in lại 75 ngàn ấn bản. Xin lưu ý: Con số 1984 ở đây chỉ là cách nói ngược với năm 1948, năm hoàn tất tác phẩm, nhằm mục đích đưa ra một khái niệm về tương lai. Tác phẩm này chưa hề được dịch ra tiếng Việt. Truyện mô tả một thế giới bị chi phối bởi ba siêu cường quốc: Eurasia, Eastasia và Oceania. Oceania luôn luôn sống trong tình trạng chiến tranh với hai siêu cường kia, đẩy toàn thế giới ở trong một tình trạng thù hận, cô lập và sợ hãi. Xứ sở này được cai trị bởi đảng và nhà lãnh tụ nắm giữ quyền hành tuyệt đối có tên là “Big Brother” (Ðại Ca), mà khuôn mặt của ông ta hiện diện khắp nơi trên các tấm pa-nô tuyên truyền lớn với dòng chữ “Big Brother Is Watching You” (Big Brother Ðang Theo Dõi Bạn). Người dân không có bất cứ một thứ quyền riêng tư nào, “ngoại trừ một ít phân khối nằm bên trong cái sọ của anh,” theo cách mô tả trong truyện.

“Ðại Ca” kiểm soát đất nước bằng bốn bộ: Hòa Bình, Tình Yêu, Thịnh Vượng và Sự Thật. Chức năng của bốn bộ này là một nghịch lý: Bộ Hòa Bình thì đảm nhiệm chiến tranh, Bộ Tình Yêu thì phụ trách chuyện hành hạ, Bộ Thịnh Vượng thì chuyên lo về bỏ đói, chuyên môn công bố những bản thống kê hoang đường và Bộ Sự Thật thì đảm trách chuyện nói láo. Nhân vật chính là Winston Smith, 39 tuổi, một nhân viên làm việc cho Bộ Sự Thật. Tất cả những gì lưu trữ trong bộ này đều không mảy may liên hệ gì đến thực tại bên ngoài. Chúng được hoàn toàn dựng nên bởi đảng, nghĩa là bằng sự dối trá. Bộ Sự Thật không những chỉ lo thay đổi hiện tại mà còn tiêu hủy cả quá khứ.

Một trong những phương cách thống trị quần chúng hữu hiệu của đảng là sáng tạo ra một hệ thống ngôn ngữ mới gọi là “Newspeak,” bắt buộc tất cả mọi người đều phải sử dụng. Rất nhiều từ sẽ không còn hiện hữu như “tự do,” “dân chủ,” “công bằng,” “tôn giáo,” “danh dự,” vân vân… Mục đích của việc tạo ra thứ chữ mới là giới hạn “tầm tư tưởng” (range of thought) của con người và đồng thời nhằm mục đích xóa bỏ tất cả ký ức về những gì đã xảy ra trong quá khứ. Xin nêu một vài từ điển hình trong tự điển này:

– duckspeak/nói như vẹt: nói mà không suy nghĩ; nói như con vịt kêu quạc quạc.

– blackwhite/đen-trắng: cùng một vật mà nói đen cũng được, trắng cũng được.

Không chịu đựng nổi một nhà nước như thế, Winston âm thầm chống đối. Anh liên kết với một người tên là Charrington và O’Brien, người làm cùng sở với anh. Ngoài ra, anh còn lôi kéo cô tình nhân Julia. Họ gặp nhau và thảo luận về việc gia nhập tổ chức bí mật “Brotherhood” có mục đích lật đổ nhà độc tài. Chưa làm được gì thì anh đã bị bắt. Hóa ra, Charrington là một cảnh sát tư tưởng còn O’brien là thành viên cao cấp của đảng. Winston và Julia bị bắt Nàng thú nhận rằng nàng cũng đã phản bội anh. Sau khi bị tra tấn và tẩy não, Winston hoàn toàn bị khuất phục.

Cốt truyện không có gì gây cấn. Tác giả chỉ muốn đẩy ý niệm về một nhà nước toàn trị đến chỗ tuyệt đối của nó. Trong ý niệm đó, nhà nước toàn trị là một xã hội hoàn toàn mới, trong đó, đảng là Thượng Ðế. Xã hội đó sẽ như thế nào? Ðó là một xã hội, “Sẽ không còn sự trung thành nào khác ngoài trung thành với đảng. Sẽ không còn tình yêu nào ngoài tình yêu đối với Big Brother. Sẽ không còn nụ cười nào ngoài nụ cười mừng chiến thắng khi kẻ thù bại trận. Sẽ không còn nghệ thuật, không còn văn chương, không còn khoa học. Khi chúng ta có quyền năng vô biên thì chúng ta đâu có cần gì đến khoa học. Sẽ không còn phân biệt giữa đẹp và xấu. Sẽ không còn sự tò mò, không còn cái thú hưởng thụ cuộc sống. Tất cả những lạc thú sẽ bị hủy diệt (…). Nếu anh muốn có một hình ảnh về tương lai thì hãy tưởng tượng đó là một chiếc giày ống đạp lên trên một khuôn mặt người – mãi mãi,”

Khác với “Trại Súc Vật” đề cập đến một cuộc cách mạng kiểu Cộng Sản và sự phá sản của nó, 1984 mô tả một thế giới trong đó hình thức nhà nước toàn trị đã đạt đến giai đoạn ổn định và đang trên đường hoàn chỉnh lý tưởng mà nó đã đặt ra. Ðó là một nhà nước mà quyền lực đạt mức cao nhất đến độ trở thành vô chính phủ. Xã hội đó hầu như vô luật pháp, vì không có gì còn được gọi là bất hợp pháp nữa. Một xã hội nghịch đảo.

***

Tại sao “1984” lại trở thành “bestseller” lúc này? Theo nhận định của Peter Stansky, người viết tiểu sử Orwell, thì sự gia tăng số lượng sách bán ra xuất hiện từ sau khi nữ cố vấn của Trump, Kellyanne Conway, sử dụng từ “alternative facts” để biện hộ cho phát ngôn viên tòa Bạch Ốc Sean Spicer khi ông này nhất quyết cho rằng số lượng người tham dự buổi lễ nhậm chức của Tổng Thống Trump nhiều hơn Obama trước đây, mặc dù các hình ảnh và số thống kê cho thấy điều ngược lại. “Alternative facts” có nghĩa là “những sự kiện chọn lựa.” Nghĩa là, theo ý Conway, Spicer vẫn đúng dù không phù hợp với những gì diễn ra trong thực tế. Ðiều đó nhắc người ta nhớ đến loại từ vựng trong tự điển “Newspeak” mà Orwell nêu ra trong 1984, “whiteblack,” “duckpeak,” nghĩa là nói sao cũng được miễn phù hợp với ý định của nhà cầm quyền. Ý kiến này được dư luận trên mạng xã hội và nhiều cơ quan truyền thông như CNN, New York Times, USA Today, Quarzt, vân vân – cái mà ông Trump cho là chuyên môn đưa tin giả (fake news) và nặng nề hơn, bị ông kết án là “kẻ thù của nhân dân Mỹ” (Media is the enemy of the American People) – chia sẻ.

Thực ra, “1984” đã bắt đầu bán chạy kể từ khi Trump đắc cử tổng thống Hoa Kỳ, 8 Tháng Mười Một 2016 và đạt đến cao điểm sau khi bà Conway phát biểu từ “alternative facts.” Ðây là một phản ứng với một Trump trở thành tổng thống Hoa Kỳ. Cách vận động tranh cử bất thường cũng như các sử dụng ngôn ngữ không nhất quán (flip-flop) để hạ bệ và vượt thắng các đối thủ cũng như để tấn công và bôi nhọ truyền thông của Trump khiến người ta lo sợ một Trump-tổng-thống sẽ thao túng sự kiện và ngôn ngữ và do đó, có nguy cơ đưa Hoa Kỳ đến một sự khủng hoảng chính trị tệ hại. Hiện tượng “bestseller” của“1984” có vẻ như là một lời cảnh cáo của công luận về một chế độ độc tài toàn trị có thể thoát thai từ cơ chế dân chủ. Ðây không phải là lần đầu tiên, 1984 gia tăng số lượng bán. Thời Tổng Thống Reagan mới lên cầm quyền năm 1981, sách cũng bán chạy vì người ta sợ rằng Reagan có thể trở thành độc tài. Và gần đây nhất vào năm 2013, lúc Edward Snowden, nhân viên hợp đồng của của cơ quan National Security Agency, tiết lộ chương trình dò thám cá nhân quy mô của chính phủ Hoa Kỳ, sách cũng bán rất chạy.

Nhưng Stansky đồng thời cũng cho rằng, chính Internet cũng đã góp phần khiến cho các sự kiện bị bóp méo. Ðó là nơi chồng chất thông tin, đúng lẫn sai vì là nơi “cha chung không ai khóc,” người ta có thể điều chỉnh, sửa đổi, ngụy tạo tin tức và sự kiện một cách dễ dàng để ảnh hưởng đến công luận.

Tóm lại, một lần nữa, “1984” của George Orwell lại xuất hiện đúng lúc như một lời cảnh báo đến các nước dân chủ về nguy cơ của một chế độ toàn trị được khởi đầu bằng những lời lẽ mỵ dân và gây xúc động.

————–
Tham khảo:
– “Nineteen Eighty-Four,” George Orwell, nxb Hatcourt, Brace and Company, New York, 1949
– USA Today, CNN, New York Times, Quarzt… các ngày 25, 26/1/2017

Bác sĩ Phùng Văn Hạnh gởi

Buổi xin lỗi ‘tử tù’ Hàn Đức Long ‘không thành’

Buổi xin lỗi ‘tử tù’ Hàn Đức Long ‘không thành’

Người nhà và gia đình cháu bé bị hại phản ứng tại buổi xin lỗi
Người nhà và gia đình cháu bé bị hại phản ứng tại buổi xin lỗi

Buổi xin lỗi ông Hàn Đức Long, người trải qua 11 năm ngồi tù oan, đã diễn ra “không thành công”, một luật sư tham gia bào chữa cho ông Hàn Đức Long nói với BBC chiều ngày 25/4.

TAND Cấp cao tại Hà Nội tổ chức buổi xin lỗi chính thức ông Long tại UBND xã Phúc Sơn, tỉnh Bắc Giang chiều 25/4.

Buổi xin lỗi gây nhiều sự chú ý, có nhiều phóng viên và người dân địa phương đến tham gia nhưng mọi việc đã không diễn ra như mong muốn, luật sư Ngô Ngọc Trai cho biết.

“Buổi xin lỗi diễn ra không thành công vì sự thiếu chu đáo của cơ quan đứng ra tổ chức, không liệu được việc gia đình cháu bé có mặt, bức xúc và gây ra sự hỗn loạn.”

Người nhà và gia đình cháu bé bị hại lớn tiếng chỉ trích cơ quan tư pháp và yêu cầu tìm ra thủ phạm trước khi công khai xin lỗi.

 

Nhưng theo luật sưTrai, yêu cầu này không có cơ sở pháp lý. Ông Long đã được quyết định không phải là thủ phạm. Ông ấy đã đi tù oan 11 năm thì cơ quan tư pháp phải đứng ra xin lỗi theo quy định của pháp luật.

“Toà án nhân dân cấp cao chỉ đọc một văn bản rất chóng vánh, trong không khí lộn xộn, hỗn loạn.”

“Với tư cách là luật sư của ông Long, tôi cho rằng việc xin lỗi đã không thành công. Tôi sẽ làm việc với gia đình ông Long để yêu cầu bên Toà án thực hiện lại việc xin lỗi.”

“Rất là đáng tiếc trong khi vụ án đã gây ra tổn thương tinh thần cho ông Long và những người liên quan, khâu tổ chức lại lầm lỗi tiếp, khiến cho tổn thương tinh thần của nhiều người lại bị ảnh hưởng.”

Ông Long và vợ có mặt tại hội trường nhưng vội ra về.

Về việc bồi thường, ông Trai cho biết gia đình ông Long đang làm việc để trình ra các cơ sở căn cứ, các khoản và các mục để các bên thương lượng đàm phán.

Bất cập trong cơ chế tư pháp

Theo luật sư Ngô Ngọc Trai, người theo đuổi vụ án oan sai của ông Long từ năm 2011: “Vụ án oan của ông Long một phần là do lỗi yếu kém do năng lực con người.”

“Một phần khác là do sự bất cập của cơ chế tư pháp, chưa thiết lập một cách khoa học, chưa bổ trợ được khiếm khuyết của con người, còn lạc hậu, dẫn đến tình trạng oán sai mà bản thân cơ quan tư pháp cũng không mong muốn.”

“Một vấn đề quan trọng khác là có quá nhiều cơ quan có thẩm quyền giam giữ, cả cơ quan điều tra, viện kiểm sát lẫn tòa án. Ở những nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, chỉ có tòa án mới có quyền ra lệnh bắt giữ.”

 

Theo truyền thông Việt Nam, thi thể cháu bé Nguyễn Thị Yến, sinh năm 2000, được phát hiện năm 2005 sau khi mất tích.

Ông Hàn Đức Long bị bắt giam và thú nhận mình là thủ phạm trong vụ án hãm hiếp và giết cháu bé. Nhưng tại các phiên tòa ông Long kêu oan, không nhận tội và ông nói bị ép cung, bức cung.

Tuy nhiên, sau đó ông vẫn đi tù 11 năm và từng bốn lần bị tuyên án tử hình. Ông được thả vào ngày 20/12/2016 sau khi cơ quan tư pháp xác định không có đủ bằng chứng kết tội.

BẢN LÊN TIẾNG ỦNG HỘ ĐỒNG BÀO ĐỒNG TÂM, MỸ ĐỨC, HÀ NỘI

From facebook:   Hoa Kim Ngo‘s post.
 
Image may contain: tree, crowd, plant and outdoor

Hoa Kim Ngo with Hoang Le Thanh and 34 others.

* Mong mọi người ủng hộ và ký tên gửi về email: phanvanloi@fvpoc.org.

Ghi đầy đủ họ tên, chức danh và địa chỉ.

BẢN LÊN TIẾNG ỦNG HỘ ĐỒNG BÀO ĐỒNG TÂM,
MỸ ĐỨC, HÀ NỘI

(20-04-2017)

Tin tức cho hay từ hôm Thứ bảy 15-04-2017, đã xảy ra tình trạng đối đầu giữa khoảng 6000 người dân xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, với nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam.

Vụ việc có liên quan tới chuyện thu hồi đất đai, vốn đã khiến người dân theo kiện từ 5 năm nay nhưng không được giải quyết. Họ cáo buộc nhà cầm quyền cấp xã và cấp huyện đã tự ý lập hồ sơ bán phần đất nông nghiệp 59 hecta mà bà con nông dân đã canh tác từ lâu đời cho cán bộ. Sau khi bà con khởi kiện thì mới đây đã quay ra bán cho Viettel, đại công ty viễn thông của Quân đội để làm dự án. Việc cưỡng chế đất đai này là hoàn toàn sai trái, bởi lẽ đất Đồng Tâm đã dành một phần làm trường bắn, một phần làm sân bay, và phần còn lại ấy làm đất canh tác cho bà con sinh cơ lập nghiệp.

Theo người dân cho biết, lúc 10g sáng ngày 15-04, nhà cầm quyền đã mời 5 đại diện cho dân khiếu kiện chuyện tham nhũng đất đai đến khu vực đang tranh chấp để gọi là “đo đạc, xác định mốc giới giữa đất quốc phòng và đất nông nghiệp của xã”. Nhưng khi vừa đến, 5 đại diện này, hầu hết già lão, trong đó có cụ Lê Đình Kình 83 tuổi, cựu thương binh, đã bị công an ập tới bắt đi mà chẳng hề có lệnh. Dân làng đuổi theo đòi thả thì bị công an bắt thêm 4 người nữa và còn đánh đập một người trọng thương phải nhập viện. Ngay lập tức, nhà cầm quyền sai phái một lực lượng đông đảo gồm cán bộ, cảnh sát cơ động đến xã Đồng Tâm để trấn áp.

Quá phẫn uất trước hành vi bắt người lẫn hành động cướp đất cách trắng trợn vô pháp luật, và với mục đích nắm con tin để dễ thương lượng, người dân đã cầm giữ một số trong đoàn cán bộ và cảnh sát cơ động ấy song đối xử tử tế với họ. (Tin tức cho hay tổng cộng có 38 người, đa phần không có thẻ ngành, chỉ đem lựu đạn cay). Dân đồng thời tự canh phòng, tự bảo vệ cũng như bày tỏ lòng mong đợi Trung ương đến giải quyết mọi chuyện cách hợp tình hợp lý. Đáp lại thái độ đó, nhà cầm quyền đưa thêm công an, quân đội và cả côn đồ đến phong tỏa khu vực, đồng thời phá sóng điện thoại, mạng internet để ngăn chặn mọi liên lạc.

Tuy vậy, đang khi nhiều chiến sĩ nhân quyền tại Hà Nội và báo lề dân tìm cách tiếp xúc với dân làng, cố gắng đưa thông tin chính xác và bình luận trung thực, đang khi nhiều luật sư nỗ lực làm trung gian giữa chính quyền với nhân dân để mong giải quyết vấn đề cách tốt đẹp và đúng luật pháp, thì chiều ngày 16-04, ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội đã đưa “thông tin chính thức về tình hình tại xã Đồng Tâm” với nhận định rằng việc dân bắt giữ người của nhà nước là hành vi coi thường pháp luật, chống nhân viên thi hành công vụ, bị “các đối tượng xấu lợi dụng, kích động”. Phó giám đốc Công an Hà Nội, thiếu tướng Bạch Thành Định, còn tuyên bố: người dân Đồng Tâm đã “có những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, cần phải xử lý nghiêm minh, không để ảnh hưởng đến tư tưởng cán bộ, nhân dân Mỹ Đức cũng như người dân Hà Nội”.

Nay (19-04) thì nhà cầm quyền đã thả 8 người, chỉ giữ lại cụ Lê Đình Kình, thủ lãnh nông dân, trong bệnh viện (vì đã bị đánh gãy xương đùi và rạn xương sườn), để gọi là “làm việc”. Dân cũng đã thả 18 trong số 38 cán bộ và cảnh sát cơ động bị họ cầm giữ. Nhưng việc Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Đức Chung đã không đến xã Đồng Tâm, hôm 18-04, để đối thoại với dân như lời hứa trước đó qua trao đổi điện thoại với vài cư dân địa phương và các luật sư khiến người ta e ngại rằng nhà cầm quyền đang chuẩn bị một cuộc đàn áp quy mô và khốc liệt. Vì tin tức mới nhất cho hay dân vừa phát hiện nhiều súng đạn và một thiết bị định vị ai đó đã lén đem vào làng, cũng như nhận ra một kẻ lạ mặt xâm nhập để quay phim chụp ảnh toàn bộ khu vực thời gian qua. Riêng dân Đồng Tâm thì đồng lòng chấp nhận mọi khả năng xấu nhất và quyết tâm tử thủ đến cùng!

Trước tình hình đó, chúng tôi, các tổ chức và cá nhân ký tên dưới đây tuyên bố:

1- Khẳng định rằng đây là hậu quả của việc Hiến pháp và luật pháp (Luật đất đai) phủ nhận quyền tư hữu đất đai của người dân, một quyền tự nhiên và phổ quát, qua khái niệm vô lý và lừa đảo: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu” (Hiến pháp đ. 53). Việc phủ nhận này đã và đang tạo cớ cho các nhóm lợi ích câu kết với quan chức bản địa cướp đất nhà của dân, là nguyên nhân gây nên cuộc sống điêu đứng và nghèo khổ của nông dân, sự suy thoái dần dần của nền kinh tế, dẫn đến cảnh quyền lợi của người dân luôn bị đe dọa trong hệ thống tư pháp không độc lập.

2- Nhận định rằng nguyên nhân khởi đầu của sự kiện trên là hành xử vô luật và thái độ hống hách của nhà cầm quyền đối với nhân dân. Việc nhà cầm quyền –trong não trạng coi mọi phản đối của dân như thái độ thù nghịch– chọn hạ sách lừa gạt và vu khống, đánh đập và cầm giữ, có sử dụng cả xã hội đen, đã dẫn đến việc người dân phải tự vệ bằng bạo lực, vì “con giun xéo mãi cũng quằn”. Một khi nhà cầm quyền hành xử không theo luật, thì đừng đòi hỏi người dân phải làm theo luật hay hiểu pháp luật. Thượng bất chính, hạ tắc loạn! Đấy không phải là động thái của một hàng lãnh đạo khôn ngoan sáng suốt và chính danh đích thực.

3- Ủng hộ hoàn toàn cuộc đấu tranh vì quyền sống, quyền làm người và quyền sở hữu đất đai của đồng bào xã Đồng Tâm (cũng như của đồng bào Dương Nội ở Hà Đông, Cẩm Giàng ở Hải Dương và nhiều nơi khác). Phản ứng giữ con tin để thương lượng với một nhà nước độc tài là điều dễ hiểu. Đó là quyền tự vệ chính đáng của những dân lành bị dồn đến bước đường cùng. Thông điệp này phải được nhà cầm quyền lắng nghe và thấu hiểu.

4- Chân tình nhắc nhở các nhân viên công lực như công an, mật vụ, cảnh sát cơ động rằng việc một số anh em không mang thẻ ngành, chẳng mặc sắc phục, lại kết hợp với côn đồ xã hội đen (được trưng dụng hay thuê mướn), để dễ dàng trấn áp nhân dân, đó vừa là dấu chỉ anh em đang bị lợi dụng như một công cụ của bạo quyền, của các nhóm lợi ích, vừa là hành vi đắc tội với nhân dân vốn đang nuôi dưỡng mình. Ngoài ra, sự kiện vài người chấp nhận bị bắt làm con tin hơn ra tay đàn áp dân là một điều đáng suy nghĩ. Nên nhớ quyền sống và quyền lợi của nhân dân là tối thượng!

5- Tha thiết kêu gọi đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước tiếp lời tiếp sức ủng hộ bà con xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức. Họ đang cần hỗ trợ công lý, hỗ trợ tinh thần và hỗ trợ vật chất. Chúng ta không thể để bà con đơn độc cũng như để nhà cầm quyền tự tung tự tác, sử dụng mọi thủ đoạn để áp bức và cướp bóc dân lành. Xin nhanh chóng tổ chức những cuộc biểu tình trên mạng, xuống đường giữa phố, thực hiện những hành vi bất tuân dân sự để trước mắt giải cứu Đồng Tâm, và lâu dài là xây dựng một chế độ biết tôn trọng con người và nhân dân, biết bảo vệ sự thật và công lý, biết cổ vũ tự do và dân chủ.

Làm tại Việt Nam và hải ngoại ngày 20 tháng 4 năm 2017

Hai tổ chức khởi xướng
1- Hội Cựu Tù nhân Lương tâm. Đại diện: BS Nguyễn Đan Quế+Lm Phan Văn Lợi.
2- Khối Tự do Dân chủ 8406. Đại diện: KS Đỗ Nam Hải+Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa.

Các tổ chức khác đồng ký tên:
3- Ban Đại diện Khối Nhơn sanh đạo Cao Đài. Đại diện: Các Chánh trị sự Hứa Phi, Nguyễn Kim Lân, Nguyễn Bạch Phụng.
4- Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng. Đại diện: Ông Lê Thân
5- Diễn đàn Bauxite Việt Nam. Đại diện GS Phạm Xuân Yêm
6- Diễn đàn Dân chủ Đuốc Việt (Hoa Kỳ). Đại diện: Ông Lưu Hoàn Phố.
7- Diễn đàn Xã hội Dân sự. Đại diện: Tiến sĩ Nguyễn Quang A
8- Đại gia đình Nguyễn Ngọc Huy. Đại diện: Giáo sư Trần Minh Xuân.
9- Đảng Dân chủ Việt. Đại diện: Hương Huỳnh.
10- Đảng Việt Tân. Đại diện: Ông Hoàng Tứ Duy.
11- Diên Hồng Thời Đại Việt Nam. Đại diện: Ông Phạm Trần Anh.
12- Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo Thuần túy. Đại diện: Hội trưởng Lê Văn Sóc, Tổng thư ký Lê Quang Hiển.
13- Giáo xứ Phú Yên, Nghệ An. Đại diện: Linh mục Đặng Hữu Nam.
13- Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam. Đại diện: Ông Nguyễn Bắc Truyển.
15- Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo VN (Hải ngoại). Đại diện: Ni sư Diệu Nghiêm.
16- Hội Bầu bí Tương thân. Đại diện: Ông Nguyễn Lê Hùng.
17- Hội Biệt Động quân Bắc California (Hoa Kỳ). Đại diện: Ông Trần Song Nguyên.
18- Hội Dân Oan Đòi Quyền Sống. Đại diện: Bà Hồ Thị Bích Khương
19- Hội đồng Liên kết Quốc nội Hải ngoại Việt Nam. Đại diện: các đồng chủ tịch HT Thích Không Tánh, LM Phan Văn Lợi, CTS Hứa Phi, Đạo huynh Lê Văn Sóc, Ms Nguyễn Hoàng Hoa,BS Võ Đình Hữu, BS Đỗ Văn Hội, Ông Lưu Văn Tươi, Ông Nguyễn Văn Tánh, Nhà Biên khảo Phạm Trần Anh, Ông Cao Xuân Khải, PTS Trần Viết Hùng, Ông Trần Văn Đông, Ông Lạc Việt, BS Hoàng Mỹ Lâm.
20- Hội Giáo chức Chu Văn An. Đại diện: Nhà giáo Vũ Mạnh Hùng.
21- Hội Người Việt Tự Do Tại BC Canada – Đại Diện Ông Phan Mật.
22- Hội Pháp Việt Tương trợ AFVE. Đại diện: Ông Bùi Xuân Quang.
23- Hội thánh Tin lành Mennonite Độc lập. Đại diện: Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng.
24- Khối 8406 Úc Châu. Đại diện: Tiến sĩ Lê Kim Song.
25- Liên minh Dân chủ Tự do Việt Nam. Đại diện: Ông Huỳnh Hưng Quốc.
26- Liên Minh Dân Chủ Việt Nam. Đại diện: Ông Nguyễn Hữu Ninh.
27- Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam. Đại diện: Tiến sĩ Nguyễn Bá Tùng.
28- Nhóm Anh em Thiện chí San José (Hoa Kỳ). Ðại diện: Ông Nguyễn Ðình Lê.
29- Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền. Đại diện: Linh mục Nguyễn Hữu Giải.
30- Nhóm Thanh niên Dân chủ Việt Nam (Hoa Kỳ). Ðại diện: Kỹ sư Trần Long.
31- Nhóm Vietlist.US, Ðại diện: Cử nhân Hoàng Lan.
32- Nhóm Yểm trợ bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận. Đại diện: Ông Nguyễn Văn Lợi, Ông Ô. Sonny Nguyễn.
33- Phong trào Dân chủ Việt. Đại diện: Sơn Nguyễn
34- Phong trào Liên đới Dân Oan. Đại diện: Bà Trần Ngọc Anh
35- Phong trào Thăng Tiến VN. Đại diện : Hoàng Lê Hy Lai & Trần Quốc Việt.
36- Phong trào Yểm trợ Khối 8406 Vancouver Canada. Đại diện: Ông Trần Ngọc Bính.
37- Phong trào Yểm trợ Tự do Tôn giáo và Nhân quyền VN. Đại diện: HT Thích Nguyên Trí, TTK Cao Xuân Khải.
38- Radio Việt Nam Hải ngoại Âu châu (Đức). Đại diện: Ông Đinh Kim Tân.
39- Tăng đoàn Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất. Đại diện: Hòa thượng Thích Không Tánh.
40- Tập hợp Dân chủ Đa nguyên. Đại diện: Ông Nguyễn Vũ,
41- Tập hợp Quốc dân Việt. Lm Nguyễn Văn Lý hiệp nhất & nối kết.
42- Tập hợp Quốc Dân Việt Vancouver Canada – Đại Diện Ông Lê Ngọc Diệp
43- Tập hợp Vì nền Dân chủ (Hoa Kỳ). Đại diện: BS Nguyễn Quốc Quân.
44- Trung tâm Sinh hoạt Văn hóa Việt Nam BC Canada . Đại diện: Bà Mai Kim Huyền
45- Trang mạng LacVietNews & Chương Trình Hội Luận 8406. Đại diện: Ông Lạc Việt.
46- Trang mạng www.nganlau.com (Hoa Kỳ). Đại diện: Ông Vũ Hoàng Anh Bốn Phương.
47- Trang mạng Ủy ban Liên lạc Cộng đồng Hải ngoại. Đại diện: Ông Vương Văn Giàu.
(Còn nhận chữ ký tiếp)
Các cá nhân đồng ký tên:
1- Bùi Minh Quốc, Nhà báo, Đà Lạt.
2- Bùi Quang Vơm, Kỹ sư, Paris, Pháp.
3- Đặng Thị Hảo, Tiến sĩ, Hà Nội.
4- Đinh Hữu Thoại, Linh mục, Dòng Chúa Cứu Thế.
5- Đoàn Hòa, Phiên dịch tư vấn, Jihlava, Cộng hòa Séc
6- Đỗ Thị Ngọc Nguyên, Dân oan, Đồng Nai.
7- Hoàng Dũng, PGS TS, Sài Gòn.
8- Hoàng Hưng, Nhà thơ, Sài gòn.
9- Hồn Nhiên, Thành viên Mạng lưới Nhân quyền VN, California, Hoa Kỳ.
10- Kha Lương Ngãi, Nhà báo, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng
11- Lại Thi Ánh Hồng, Nghệ sĩ, Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn.
12- Lê Anh Hùng, Nhà báo độc lập, Hà Nội.
13- Lư Văn Bảy, cựu TNLT, Kiên giang.
14- Lý Đăng Thạnh, Người chép Sử, Sài Gòn.
15- Ngô Kim Hoa (Sương Quỳnh), Nhà báo tự do, Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn.
16- Ngô Thị Thúy Vân, Nhân viên xã hội, Praha, Cộng hòa Séc
17- Nguyễn Bích, Piping Designer, Texas, USA.
18- Nguyễn Chính Kết, Giáo sư, Hoa Kỳ.
19- Nguyễn Cường, Kinh doanh, Cộng hòa Séc.
20- Nguyễn Đình Nguyên, TS y khoa, Australia
21- Nguyễn Đông Yên, GS TSKH, Hà Nội.
22- Nguyễn Huệ Chi, Giáo sư, Hà Nội.
23- Nguyễn Kỳ Hưng, Tiến sĩ, Úc châu.
24- Nguyễn Nguyên Bình.Nhà văn, Hà Nội.
25- Nguyễn Quang Vinh, Sĩ quan Quân đội nghỉ hưu, Hà Nội.
26- Nguyễn Thanh Liêm, Hiền tài Đạo Cao Đài, California USA.
27- Nguyễn Thế Quang (Quang Nguyen), Giáo viên, Hoa Kỳ
28- Nguyễn Tường Thụy, Nhà báo tự do, Hà Nội.
29- Phạm Anh Tuấn, Kỹ sư, Sydney. Úc châu.
30- Phạm Đình Trọng. Nhà văn. Sài Gòn.
31- Phạm Xuân Yêm, Giáo sư, Paris, Pháp
32- Phan Tấn Hải, Nhà văn, Hoa Kỳ.
33- Trần Đức Quế, Chuyên viên hưu trí, Hà Nội
34- Trần Kim Thập, giáo chức, Tây Úc.
35- Trần Minh Thảo, Nhà văn, Bảo Lộc – Lâm Đồng.
36- Triệu Sang, thương phế binh VNCH, Sóc Trăng.
37- Văn Hiền, Lập trình viên, Bình Thuận.
38- Võ Văn Tạo, Nhà báo, Nha Trang.
39 – Lê Phú Khải, Nhà Báo, Sài Gòn.
————-
Quý vị ủng hộ đồng bào Đồng Tâm, xin email về hộp thư phanvanloi@fvpoc.org (xin ghi đủ danh tính, nơi cư trú. Xin đa tạ!

Tháng Tư nhớ Nguyên Sa, chuyện trò cùng ‘Nga buồn như con chó ốm’

Tháng Tư nhớ Nguyên Sa, chuyện trò cùng ‘Nga buồn như con chó ốm’

Vũ Đình Trọng/Người Việt

Bà Nguyên Sa, Trịnh Thúy Nga, bên mộ chồng. (Hình: Vũ Đình Trọng/Người Việt)

WESTMINSTER (NV) – Mười chín năm qua, từ ngày nhà thơ Nguyên Sa qua đời (18 Tháng Tư 1998), những đóa cúc vàng trên mộ ông trong nghĩa trang ở thành phố Westminster vẫn vàng rực, nhờ sự chăm sóc ân cần từ người vợ thủy chung.

Vợ nhà thơ Nguyên Sa, bà Trịnh Thúy Nga, người đi vào cõi thơ Nguyên Sa với những câu mở đầu “tếu táo”: “Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm/Như con mèo ngái ngủ trên tay anh /Ðôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình /Ðể anh giận sao chả là nước biển!…”

Trên đời, chắc chỉ có mình ông, nhà thơ Nguyên Sa, viết thư thông báo đám cưới của mình bằng thơ. Cũng chẳng có ai đặt tựa cho bài thơ báo hỷ “cộc lốc” như ông – chỉ vỏn vẹn một chữ “Nga,” tên người con gái ông lấy làm vợ.

Thế mà người ta nhớ! Có ai mà không nhớ thơ tình Nguyên Sa!

Và bà Nguyên Sa-Trịnh Thúy Nga, luôn nhớ một câu chuyện chẳng thể nào cũ.

Tháng Giêng Mai Thảo đã qua
Tháng Tư chợt nhớ Nguyên Sa, lại buồn.
(Thơ Ngọc Hoài Phương)

“Năm 1952, sau khi hồi cư về Hà Nội, tôi được gia đình cho sang Pháp du học cùng với người anh họ. Ông Lan (tên nhà thơ Nguyên Sa: Trần Bích Lan) qua trước hai năm. Ông thân sinh của ông ấy  buôn bán lớn, sợ Việt Cộng làm phiền nên cho ba người con lớn sang Pháp du học. Tôi quen em gái ông ấy ở Paris, tình cờ đến nhà chơi nên quen ông.”

Quen nhau Tháng Mười Hai năm 1952, đến mùa Hè năm 1953, ông làm bài thơ tỏ tình tặng bà. Cho đến giờ, chưa ai biết nội dung bài thơ đó như thế nào, vì bà muốn giữ kín, cho riêng bà. Chỉ biết rằng, trái tim của cô nữ sinh tên Nga từ đó có một hình bóng, mà cô luôn trân trọng nhớ về, từ mùa Hè năm đó.

Bà hồi tưởng lại: “Hồi đó tôi còn trẻ, cũng chẳng suy nghĩ gì cả, chỉ lo học thi đậu xong rồi về. Phải lo học xong cho sớm chứ đời sống bên Pháp đắt đỏ lắm. Cũng trong năm 1953, cụ thân sinh ông Lan mất ở Hà Nội, ông ấy phải ngưng học, về nước để giúp đỡ gia đình. Lúc đó chúng tôi yêu nhau rồi, ông ấy cũng muốn dỗ dành tôi về Việt Nam chung, nhưng tôi còn ham học cao lên. Tuổi trẻ mà, ai cũng có giấc mơ lớn, và tôi cũng muốn thực hiện ước mơ của mình.”

Cuộc chia tay này là nguyên nhân bài thơ “Paris có gì lạ không em?” ra đời trong nỗi nhớ khắc khoải của ông.

“Paris có gì lạ không em?
Mai anh về em có còn ngoan
Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ
Em có tìm anh trong cánh chim

Paris có gì lạ không em?
Mai anh về mắt vẫn lánh đen
Vẫn hỏi lòng mình là hương cốm
Chả biết tay ai làm lá sen?…”

Câu hỏi cuối ông gởi lại bà trong sự chờ đợi, thay cho câu hỏi “Em có bằng lòng làm vợ anh không?” Để rồi hai năm sau gặp lại nhau ở Paris, khi bà khẽ gật đầu ưng thuận “làm lá sen” suốt đời cho ông, thì ông mới viết bài thơ đính hôn thay cho thiệp báo hỷ gởi cho gia đình, bằng hữu, trong niềm vui sướng tột độ.

“Chúng mình lấy nhau
Cần gì phải ai hỏi…
Cả anh cũng không cần phải hỏi anh
‘Có bằng lòng lấy em?…’
Vì anh đã trả lời anh
Cũng như em trả lời em
Và cũng nghẹn ngào nước mắt!…”
(Nga – Nguyên Sa)

Bà Nga nhớ lại: “Sinh viên tụi tôi ở lại Pháp sau Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, gia đình lo tản cư vào Nam nên đâu có gởi tiền qua được. Chúng tôi ra Tòa Đốc Lý Paris ký giấy hôn thú, bạn bè theo đông lắm. Xong kéo nhau ra quán cà phê đối diện uống cà phê, ăn bánh. Bạn bè chung tiền trả tiền cho cô dâu, chú rể. Thế thôi.”

Tháng Tư nhớ Nguyên Sa, chuyện trò cùng 'Nga buồn như con chó ốm'
Nơi yên nghỉ của nhà thơ Nguyên Sa (1932-1998). (Hình: Vũ Đình Trọng/Người Việt)

Đám cưới sinh viên Việt Nam nghèo ở kinh đô ánh sáng diễn ra như thế. Chú rể chẳng mặc lễ phục, cô dâu không có áo cưới, mà ngay cả nhẫn cưới họ cũng chẳng mua được. Nhưng có sao đâu, vì ông trao cho bà những thứ quý hơn nhẫn cưới.

“Người ta làm thế nào cấm được chúng mình yêu nhau
Nếu anh không có tiền mua nhẫn đeo tay
Anh sẽ hôn đền em
Và anh bảo em soi gương
Nhìn vết môi anh trên má
Môi anh tròn lắm cơ
Tròn hơn cả chữ O
Tròn hơn cả chiếc nhẫnTròn hơn cả hai chiếc
nhẫn đeo tay!…”
(Nga – Nguyên Sa)

***

Mười chín năm ông ra đi, chữ O tròn trên má vẫn chẳng phai nhòa, vì với bà, ông chẳng bao giờ đi xa cả, mà chỉ chuyển chỗ từ ngôi nhà ở thành phố Irvine đến nơi đầy nắng và gió ở thành phố Westminster.

“Đối với tôi thì lúc nào ông cũng quanh quẩn đâu đây, trong cái nhà này. Tôi ở trong nhà, hay đi bất cứ con đường nào, đều thấy hình bóng ông ở bên cạnh tôi hết.” Bà Nga nói.

Nhà thơ Ngọc Hoài Phương cho biết, lúc sinh thời Nguyên Sa rất thích hoa cúc vàng – như câu thơ trong bài “Áo lụa Hà Đông” của ông: Áo nàng vàng, anh về yêu hoa cúc – nên bà Nga chỉ mang hoa cúc ra mộ ông thôi. “Nếu để ý sẽ thấy, hoa cúc vàng trên mộ nhà thơ Nguyên Sa không bao giờ tàn hay héo cả vì được bà Nga chăm sóc rất kỹ. Hoa sắp héo sẽ được bà thay bằng hoa mới.” Nhà thơ Ngọc Hoài Phương cho biết.

Hôm gặp bà ở mộ ông, bà cho hay: “Ông ấy không bao giờ nghĩ đến cái chết, hay mình được chôn cất ở đâu cả. Khi ông ấy mất, tôi ra đây xem rồi chọn cho ông chỗ này. Nó gần hồ nước, lại dưới một bóng cây. Lúc trước trông vắng vẻ, giờ trông ấm cúng vì chung quanh ông có rất nhiều bạn bè.”

“Hồi nhà tôi mới mất, ngày nào tôi cũng ra đây, sửa bông, cắt cỏ. Giờ thì lớn tuổi rồi, thì một tuần tôi ra thăm ông ấy 2 lần. Nhiều khi bực mình với ông ấy cũng ra đây nói cho ông ấy biết.”

“Hồi ông Lan còn sống, tôi rất ít tiếp xúc với bạn ông ấy lắm, nhưng từ hồi ông ra đây, tôi được gặp nhiều người thăm ông, an ủi nâng đỡ tôi. Tôi nhớ ông Đỗ Ngọc Yến (nhà báo, sáng lập nhật báo Người Việt), hồi đó, cứ có ai từ xa đến Little Saigon, muốn gặp tôi thì ông ấy cứ nói cứ ra thăm mộ Nguyên Sa thì gặp bà Nga. Cho nên ở đây tôi được gặp nhiều người lắm, kể cả bạn cũ ở Việt Nam sang chơi. Cuối năm còn có người hẹn tôi ra đây cho cá kho, dưa chua nữa.”

Điều trùng hợp là sự lựa chọn nơi yên nghỉ cho ông, lại chính là nơi ông từng mơ ước được về qua câu thơ của ông, được bà khắc trên mộ.

“Nằm chơi ở góc rừng này
Chưa thiên thu cũng đã đầy cỏ hoang
Xin em một sợi tóc vàng
Làm hoa khởi sự cho ngàn kiếp sau
Biết đâu thảo mộc bớt đau
Biết đâu có bản kinh cầu dâng lên?”

Và trong bài Tân Ước trong tập thơ cuối cùng, hình như lời “năn nỉ” của ông cũng được bà chiều theo.

“…Anh vẫn nhận ra em, em khác biệt mà vẫn đồng nhất, giấc mơ gián đoạn bao nhiêu, em vẫn trở lại, giấc mơ phi lý, em khắng khít bằng những liên tục vuốt ve, liên tục hiền dịu, liên tục chăm sóc. Em liên tục không gian em, liên tục luận lý em. Tân ước nói có thế giới ở ngoài thế giới, khác biệt và bao trùm thế giới. Em có phải là giấc mơ ở trong giấc mơ và phủ kín giấc mơ?”

Chẳng biết như thế nào, nhưng trong thế giới thật này, “Nga buồn như con chó ốm” tiếp tục dùng đôi tay “làm lá sen” phủ kín “hương cốm” Nguyên Sa cho đến tận cùng.

TẢN MẠN NGÀY VỀ HƯU…

From facebook:   Kimtrong Lam‘s post.
 
Image may contain: one or more people, people sitting and outdoor

Kimtrong Lam to Lương Văn Can 75.

 

TẢN MẠN NGÀY VỀ HƯU…

Chúng ta thường cảm thấy băn khoăn mỗi khi bàn luận chuyện về hưu. Vui hay buồn, sớm hay muộn, thoải mái hay chán nản?

Mùa hè năm 2007 bà Vũ được tròn 75 tuổi đang do dự nên về ở với đứa con nào và ở đâu sau khi bà bán ngôi nhà riêng của bà trước đó vài tháng. Bà ngỏ ý với cô con gái tên Vy:

– Con ơi có lẽ mẹ sẽ dọn về ở tạm với vợ chồng chúng con vài tháng rồi sau đó mẹ cố gắng thu xếp mọi thứ để về Hải Phòng sống cuộc đời còn lại với anh em dòng họ và con cháu của Mẹ.

– Mẹ tính thế cũng tạm ổn nhưng cứ về ở thử với tụi con rồi từ từ rồi chúng con sẽ lo liệu. Vy, con gái lớn của bà Vũ trã lời qua loa để trấn an bà.

Thế rồi bà Vũ quyết định dọn về ở chung với đứa con gái có chồng tên là Thụy và hai đứa con trai tên Chắc và Trung đều sinh trưởng ở Montreal, Canada. Cũng như các phụ nữ thời đại khác, vợ chồng Vy đều phải đi làm full time và khi về nhà hai người đều có trách nhiệm như nhau. Lo cho con cái ăn học đầy đủ, làm bếp, dọn dẹp nhà cửa, làm vườn tược, hốt tuyết, cắt cỏ, v.v….Như thế đời sống xã hội không còn giống như bên VN ngày xưa mà có thì giờ chăm sóc cha mẹ già. Bên phương tây này để các cụ già ở nhà một mình không ai trông nom rất nguy hiểm vì nếu có chuyện gì xảy hay các cụ bị té ngả sẽ không ai hay biết. Hàng xóm mặc dù ở gần nhau nhưng lúc nào cũng đóng cửa kín mít nếu có chuyện gì xảy ra trong gia đình họ không ai biết được gì cả. Do tình trạng đó mà đa số nhà già mộc ra như nhan nhản để gia đình an tâm mà đưa bố mẹ vào trong đó ở vì có người chuyên môn chăm sóc và trông chừng đêm lẫn ngày, có tổ chức sinh hoạt cho các cụ vui chơi với nhau. Những người VN khác không hiểu điều này nên luôn kết tội các con bà là “đem con bỏ chợ…”

Hai đứa cháu ngoại của bà Vũ đang học đại học. Vợ chồng Thụy và Vy đều đi làm. Hằng ngày bà Vũ sống thui thủi một mình trong căn nhà Vy.

Năm giờ chiều hai đứa cháu đi học về chào qua loa bà ngoại rồi mỗi đứa lên phòng riêng của chúng để nghỉ mệt ôn bài hay chơi game.

Sáu giờ chiều vợ chồng Vy đi làm về thì bắt tay vào việc nấu cơm chiều và công việc tắm rửa nghỉ ngơi để ngày mai còn đi làm. Vì thế thời gian trò chuyện với bà Vũ rất ít. Bà càng ngày càng trở nên trầm cảm, khó tính và áp huyết lại tăng cao ra phết. Ở với con gái được hơn 4 tháng bà Vũ bàn với vợ chồng Thụy là bà có ý định dọn về Hải Phòng xây nhà để ở quay quần với các anh em và sẽ được các cháu chăm sóc bà chu đáo hơn. Bà Vũ di dân vào miền Nam những năm 54 và sang Canada tháng tư năm 75. Vì thế lâu lắm không gặp anh em dòng họ hơn 50 năm trời, bà Vũ có hiểu được tình cảm của họ dành cho bà có còn gắn bó như xưa chăng.

Bà Vũ có 10 đứa con bên Canada và Hoa Kỳ, 5 trai và 5 gái đều có gia đình, nghề nghiệp tạm khá thành công và có con cái đàng hoàng. Khi mấy cô em của Vy biết định ý định của Mẹ muốn bỏ rơi các con và cháu mà về Việt nam để dưỡng gìa thì thấy không ổn. Cô em gái giáp chót tên Thi ngăn cản ý định Mẹ Vũ về Việt Nam và phân trần rằng:

– Mẹ đã ở với các con đã gần 40 năm trời và gần gũi con cháu hàng ngày. Bây giờ đùn một cái Mẹ cắt đứt cái tình cảm ấy mà không thương tiếc. Mẹ nở lòng nào đoạn tuyệt mà bỏ chúng con ra đi như thế.
– Mẹ về VN để dưỡng già chứ có bỏ chúng con đâu. Mẹ trả tiền mấy cháu ở VN đàng hoàng thì tụi chúng sẽ phục vụ tốt chứ có gì đâu mà sợ. Khi mấy con thấy cần thăm mẹ thì du lịch một chuyến về VN thì không là quá đáng nhỉ.

– Làm sao Mẹ biết được các cháu ở VN đối xử tốt với Mẹ được. Bây giờ Mẹ còn tiền bồi dưỡng các cháu dồi dào thì có dịch vụ tốt. Rồi đến lúc nào đó họ trở mặt thì Mẹ cũng chẳng làm gì được. Vả lại bên Canada Mẹ có đau ốm thì chúng con còn lái xe đến chăm sóc hay thăm Mẹ thường xuyên hơn, chứ còn ở VN chưa chắc Mẹ được chăm sóc tận tâm như con ruột của Mẹ được.

Bà Vũ nghe riết rồi mủi lòng nên từ đó bỏ ý định về VN dưỡng già. May mắn thay tại Montreal có một bà VN tên Mai đang lên kế hoạch xây Nhà Già Carrefour Rosemont từ 2 năm nay cho người Việt. Bà này bắt đầu nộp giấy tờ xin chính quyền địa phương Montreal để xây Nhà Già từ 20 năm trước và gần đây được chính quyền chấp thuận lên kế hoạch và công trình xây cất cũng gần xong trong nay mai. Vợ chồng Vy đưa bà đến dự buổi họp ra mắt công trình và viếng thăm tại chỗ Nhà Già đang thi công.

Sau buổi họp bà Vũ hài lòng về dự án và giá cả cũng phải chăng. Với tiền trợ cấp về hưu của chính phủ Canada và Tỉnh bang thì bà Vũ vẫn còn thừa chút ít sau khi trả tiền Nhà Già.

Cũng nên nhắc lại là Nhà Già Carrefour Rosemont (Rosemount Senior Home) có 227 căn hộ dành cho người cao niên trên 60 tuổi còn tự chủ. Họ bao ăn trưa, 5 bửa mỗi tuần. Mỗi thứ ba họ mướn xe mini-bus đưa các cụ đi chợ mua sắm để các cụ có tự do nấu ăn sáng, tối và cuối tuần. Chính quyền Montreal cấp giấy phép xây Nhà Già với điều kiện là cho nhập 75% người VN còn 25% căn hộ còn lại Nhà Già này phải chấp nhận bất cứ dân địa phương nào cần đến ở và trả tiền như nhau. Nhà Già này không có dịch vụ y tế. Nếu cần các cụ đến gặp nhân viên tiếp tân túc trực 12 tiếng mỗi ngày để được trợ giúp như gọi xe taxi hay báo y tá đến khám bệnh, trường hợp khẩn cấp quan trọng.

Chung quanh Rosemount Senior Home có công viên và một trường trung học. Mùa hè các cụ có thể đi bộ hóng mát hoặc các cụ nào có sức khỏe thì sách thức ăn ra park làm pic nic với con cháu khi chúng đến thăm. Ngoài ra ngay bên cạnh Senior Home còn có chùa Huyền Không cho các cụ muốn qua xin lễ Phật hay muốn ăn chay. Đối diện xéo của Nhà Già còn có 1 quán MacDonald và 2 nhà hàng Việt nam.

Nói tóm lại các cụ sẽ rất an tâm vì ở đây có hầu hết các dịch vụ, gần trạm xe bus và không xa metro (đường hầm) cho lắm. Bà Vũ dọn vào Nhà Già tháng 3 năm 2008. Hai năm đầu bà Vũ làm quen được vài bà cụ khác tâm đầu ý họp, trò chuyện vui vẻ. Mỗi khi con cháu bà Vũ đến thăm, họ cảm thấy cuộc đời bà lên hương vui vẻ hẳn ra chứ không như lúc ở với vợ chồng Thụy, nét mặt bà lúc nào cũng u buồn, lo âu trầm cảm vì ít trò chuyện với mọi người.

Bảy năm sau các cụ già bắt đầu đi đứng khó khăn, sức khỏe xuống cấp thấy rỏ. Vài cụ dần dần ra đi khỏi thế giới này nhất là bạn thân mới của bà Vũ. Bà Vũ bắt đầu có nhiều triệu chứng bệnh tiểu đường týp 2 và cao huyết áp. Sức khỏe bà Vũ sau 7 năm xuống cấp trầm trọng. Tay chân và mắt bà lúc nào cũng yếu và rung. Bệnh tiểu đường quá tai hại gây biết bao chứng cho bà.

Mắt bà mờ đi ban đêm, sáng thức dậy bà bị ngứa đầy người. Bà lúc nào cũng cảm thấy đói mà ăn thì kém vị giác. Bà ít đi chùa lại vì mỗi khi có dịp vào chùa lễ Phật, các bà bạn khác hay nhắc nhở bà hãy mua sắm một bộ áo màu xám như các người đi lễ Phật cho đồng đều và đẹp mắt. Bà Vũ tỏ ra khó chịu trả lời rằng “tôi đi lễ Phật chứ có phải đi diện thời trang đâu mà mấy bà lẩy nhẩy về việc trang phục cúng Phật thế. Phật đâu có bắt chúng ta phải ăn mặt thế này hay thế nọ đâu”. Thỉnh thoảng trong Nhà Già Rosemount có bà còn hỏi bà Vũ ‘’ông nhà đâu mà bà ở đây một mình thế”. Bà Vũ là người không thích người ngoài tò mò hay chọt vào đời tư của bà. Bà còn tự chủ thì vào đây ở còn ông chồng bà hết tự chủ phải vào Nursing home, nơi đó có đủ dịch vụ như y tế, làm vệ sinh, dọn phòng và cho ăn đầy đủ 3 bửa và 7 ngày.

Con cái bà Vũ bây giờ thỉnh thoảng phải bỏ công ăn việc làm khá thường xuyên và thay phiên để vào nhà già đưa bà đi khám bác sỹ, nhà thương hay đi khám mắt. Hơn nữa Vy có nhiệm vụ nấu ăn đem lên cho bà ăn tối hay ăn trưa vì thức ăn nhà già không còn hợp khẩu vị với bà nữa. Bà Vũ hầu như mất tự chủ, đi chậm chạp, tắm rửa và mặc quần áo hơi khó khăn. Số bạn thân bà trong Nhà Già cũng giảm đi nhiều. Bà ít ra đường vì thời tiết lạnh và nhất là bà hay mệt vì cơn bệnh tiểu đường hành hạ.

Vy bây giờ cũng gần 60 và sức khỏe bắt đầu yếu đi, không còn đủ sức nấu ăn cho bà mẹ thường xuyên. Mặc dù Vy còn 9 anh em khác nhưng các con dâu bà Vũ thì bà không thích làm phiền về việc nấu ăn cho bà. Trong 5 cô con gái của bà Vũ thì chỉ có Vy là nấu ăn hợp khẩu vị bà trong khi đó các cô khác trẻ hơn lấy chồng tây và nấu thức tây cho bà thì bà từ chối. Nghĩ về tương lai muốn cho mẹ già được ăn uống đầy đủ và có dịch vụ y tế tốt, Vy bắt đầu đi tìm những Nhà Già khác có cho ăn uống ngày 3 bửa và bảy ngày trên bảy. Nhà Già bên Montreal thì chẳng thiếu gì nhưng toàn là người Gia nả Đại ở hay giá cả hơi mắc quá túi tiền bà Vũ. Đầu năm nay Vy tìm được một viện DL công giáo tên Providence, nơi đây dịch vụ lịch sự, có y tá túc trực, cung cấp thức ăn 3 buổi và gần chỗ con cái bà hơn. Viện DL Providence có hơi mắc hơn Rosemount Senior Home một chút nhưng với tiền bà Vũ tích lũy sau khi bán nhà riêng bà thì cũng có khả năng bù đắp vào đến những 20 năm tới.

Trước khi dọn ra Nhà Già Rosemount, cô quản lý Nhà Già Rosemount hỏi bà Vũ lý do tại sao bà quyết định dọn đi nơi khác và có điều gì bà không hài lòng về dịch vụ ở đây. Bà Vũ trả lời:

– Tôi ở đây hơn 8 năm và quen nhiều bạn bè, tôi đâu muốn dọn ra nhưng vì ở đây nói thật với cô việc ăn uống càng ngày càng tệ, món ăn thì bớt phần thịt lại và không hợp khẩu vị với tôi mặc dù là thức ăn VN. Trước khi đi ngủ tôi cứ cảm thấy lúc nào cũng đói vì thiếu chất đạm trong phần ăn.

– Cách đây không lâu ban lảnh đạo thành phố Montreal về Nhà Già có làm trưng cầu dân ý để họ tìm cách cải thiện cuộc sống trong các Nhà Già ở Montreal. Hầu như đa số các cụ đều cho biết “rất hài lòng” cuộc sống ở đây. Bây giờ các cụ bảo là không hài lòng vì cái này cái nọ. Tức nhiên chính các cụ hại các cụ đấy. Cô quản lý diện giải.

– Tôi có trò chuyện với nhiều bạn bè trong Viện, tất cả đều có cùng ý nghĩ như tôi. Sở dĩ chúng tôi không giám nói thẳng vì sợ họ “trả thù” và cắt bớt các dịch vụ. Bà Vũ trả lời.
– Các cụ lầm to rồi đây là xứ tự do, các cụ không hài lòng điều gì thì các cụ trực tiếp nói với chúng cháu. Chúng cháu sẽ tìm cách giúp các cụ để có cuộc sống thoải mái hơn kia mà. Trên giấy tờ hẳn hoi các cụ bảo là rất hài lòng rồi bây giờ Hội Đồng Quản Trị thành phố đã có bằng chứng là dịch vụ ở đây rất tốt nên họ sẽ không đầu tư gì hết để cải thiện đời sống trong viện này.

Thế rồi Bà Vũ rời nhà già Rosemount và dọn vào viện DL Providence đầu tháng 3 năm 2016.

Đặc biệt nhà già mới Providence này đa số các cụ ở tuổi từ 80 đến 100.

Vào đây vài tuần đầu bà tỏ ra vui hơn môt tí. Trong Nhà Già mới này cũng có hơn 20 người VN mà đa số là dân trí thức nên cách đối xử với nhau cũng có khác. Bà Vũ tỏ ra vui lắm. Nhưng nét vui ấy chỉ vỏn vẹn được vài tuần vì những người VN đến trước bà hoặc có cặp có đôi vợ chồng. Những cặp khác thường là 2 bà già hợp jeu với nhau nên lúc nào cũng đi ăn chung, sinh hoạt chung với nhau và bám với nhau như một cái phao. Bệnh cô đơn là căn bệnh chung cũa người già và khi tìm được một người hợp gu họ thường bám díu với nhau thật chặt và rất sợ bị tách rời. Vì thế bà Vũ vẫn chưa tìm được người tâm đầu ý hợp. Những lúc rảnh rỗi bà vô iPad để nghe nhạc VN trong YouTub. Cứ mỗi vài tuần iPad bắt phải upgrade mà bà Vũ không biết tiếng Anh và không rành tiếng Pháp lại điện thoại các con và cằn nhằn phải lên Viện DL để sửa gấp cái iPad. Người già bây giờ ít kiên nhẫn vì có nhiều thì giờ rảnh rỗi nên một chuyện nhỏ nhặt cũng trở thành nghiêm trọng. Nhiều lúc Bà lại bị lọt vào sự cô đơn hụt hẫn một lần nữa.

Trong những nghiên cứu mới nhất thì bệnh cô đơn đang là tác nhân gây ra nhiều cái chết ở con người. Cô đơn ở tuổi già trở thành bi kịch và tác động rất nhiều đến sức khỏe con người. Bà Vũ vẫn biết rằng để làm giảm cô đơn thì bà phải ra ngoài đi bộ, đọc sách xem tv, lên mạng tìm bạn, sinh hoạt với người hợp gu. Kẹt nỗi bà dọn vào viện lúc mùa đông, tuyết phủ đầy đường rất dễ gây tai nạn cho người già nên bà ngại ra đường. Đọc sách, lên mạng hay xem TV thì mắt bà lúc mờ lúc tỏ nên bà không làm được. Người hợp gu thì chưa có vì thế các con cháu bà lần nữa lục tụt thay phiên vô viện DL thường xuyên thăm bà.

Trong khi đó chồng bà Vũ là ông Xuân hơn bà khoảng 8 tuổi tức trên 80 khi bà Vũ vào nhà già thì ông Xuân xin vào Viện Dưỡng Lão Lafayette vì nơi đây có dịch vụ y tế đầy đủ 24 trên 24, cho ăn 3 buổi và 7 ngày trên bảy.

Vài năm trước khi vào viện DL, ông Xuân bị phẫu thuật cột xương sống. Ông nằm viện được hơn 1 năm thì hai chân yếu đi và lúc nào cũng đi bằng sáu chân (walking cart). Cảm thấy quá yếu năm 2009 các con xin cho cụ Xuân vào Viện DL Lafayette. Các con ông đều tất bật đi làm, đều có con cái cần chăm sóc nên không còn đủ thì giờ lo cho bố mẹ, thì nhà già hay viện DL vẫn tốt hơn vì có người túc trực 24 tiếng mỗi ngày và cho ăn uống đầy đủ hơn là ở nhà riêng.

Trong viện DL ông Xuân có nhiều thời gian rảnh rỗi. Sau khi xem chán TV hay dọc iPad ông điện thoại cho tất cả các con mỗi ngày ở Canada cũng như bên Mỹ. Các con cháu ông Xuân cũng khá cực với ông vì Microsoft thường xuyên cập nhật chương trình của iPad. Mỗi lần cập nhật như thế ông Xuân không thể nào mở máy iPad, nên tỏ ra cáo kỉnh điện thoại gấp cho con cháu vào viện sửa iPad cho ông. Nói đúng ra hằng giờ ông điện thoại để nhắc nhở con cháu xiêng năng vào viện DL thăm ông. Cách đây 2 năm chị của Vy tên Hằng vừa mới về nghỉ hưu ở tuổi 59. Ông Xuân biết chị Hằng luôn có mặt ở nhà nên ông gọi điện thoại từ tờ mờ sớm lúc 5 giờ sáng đánh thức chị dậy có lúc nói là khó ngủ hay phải vô viện DL gấp vì ông cần chị đưa ông đi nhà thương vì khó thở hay trở trời cảm cúng. Thực ra với cái tuổi gần 90 ông cụ sức khỏe yếu kém là chuyện bình thường. Ngoài ra ông Xuân muốn lúc nào cũng phải có con cái bên cạnh chăm sóc ông như một đứa con nít. Sau nhiều lần bị làm phiền quá nhiều nên chị Hằng không thèm bắt máy điện thoại. Ông Xuân tìm cớ gọi 911 và bầy lý do tố cáo cô con gái dựt tiền ông gửi để họ gửi CS đến can thiệp giùm ông. Cảnh sát đến Viện DL làm enquete rồi quay ngược về nhà cô Hằng lập biên bản. Những chuyện gia đình ồn ào như thế xảy ra liên tục, kết cục cũng chẳng đến đâu mà ngược lại dân Gia Nả Đại ở chung với ông Xuân tỏ ra thái độ bực bội ông vì chuyện gia đình không đâu. Ông Xuân càng ngày càng cảm thấy cô đơn và tìm cách này cách nọ để đì con cháu và muốn chúng nó quan tâm vào viện DL thăm thường xuyên hơn.

Có lần vợ chồng Thụy đến thăm ông. Ông Xuân ngồi kể lể chuyện ngày xưa, khó khăn lắm ông mới đưa được cả đại gia đình qua đây. Sau đó ông đi làm xa, cực khổ tứ bề chỉ mong cò đủ tiền nuôi tất cả các con ăn học thành tài đến nơi đến chốn. Bây giờ ông mong muốn các con có hiếu mà đền bù lại công nuôi dưỡng của ông. Bài ca này ông từng nói với tất cả các con mỗi khi có dịp. Thụy hơi bực mình ông bố vợ và trả lời “Ba à bên xứ này nuôi con tốt là một bổn phận thiên liêng của bố mẹ. Chúng con chỉ mong cố gắng nuôi con cái tốt, đối xử với chúng hòa hợp chứ chúng con không có một hi vọng mãi mai nào là con cái phải trả công sau này. Vì nếu mình đặt nhiều kỳ vọng vào con cái thì sau này mình sẽ thất vọng vô cùng”. Các con ông Xuân dần dần mệt mỏi về vấn đề chăm lo sức khỏe bà Mẹ bây giờ đến phiên ông bố đầy đọa con cháu. Các con tỏ ra mệt mỏi với bố mẹ già.

Chúng tôi nghiệm ra rằng làm bố mẹ không nên đòi hỏi quá nhiều, quá khả năng con cái mình. Những gì cha mẹ làm được cho con khi còn nhỏ dại, khi chúng còn sống chung với mình thì hãy tạo điều kiện cho con cái mình làm tốt công việc đó cho con cái chúng ngày nay. Đừng buồn vì chúng không làm được những điều mà chúng ta làm cho chúng lúc nhỏ. Thí dụ khi đi làm việc bên xứ sở này, hãng cho phép nhân viên nghỉ phép để lo cho con cái chứ họ không cho nghỉ phép để lo cho bố mẹ đâu. Nếu đầu óc chúng ta thông cảm cởi mở thì sẽ thấy không có đứa con nào bất hiếu hết và như vậy mình cũng cảm thấy vui vẻ không áy náy vì sự phiền hà hờn trách của mình. Mấy ông bà cụ luôn bất mãn với con cái của mình sẽ là những người đau khổ cho đến chết và cũng là lý do đẩy xa con cháu mình thêm. Lòng thông cảm bao dung nhân ái sẽ đem lại hạnh phúc cho mọi người.
——–oOo——-
Ngày xưa người Việt mình sống đến 60 tuổi được xem là đã già.
Bạn bè cùng lứa với tôi ngày nay đã trên 60, đã hay chuẩn bị ngày về hưu.
Ở xứ tạm dung này mùa đông dài đăng đẳng hơn 6 tháng. Tuyết trắng mang màu ảm đạm phủ kín sân nhà hơn năm tháng làm cho cuộc sống người già hẩm hiu hơn.

Mỗi khi vào viện dưỡng lão thăm bố mẹ thấy mà thương cho họ. Nhìn các cụ thui thủi sống cô đơn một mình trong các viện, có cụ đi tới đi lui nhìn người ta ra vào mà không hiểu họ làm gì, có cụ ngồi một mình xem ti vi, còn các cụ khác mang gậy đi từ đầu hành lang đến cuối dẫy hành lang để khuây khỏa vì không đi được ngoài vườn phủ đầy tuyết trắng.

Trái với người già bên Việt Nam sống chung vui vẻ trong cùng mái ấm gia đình với con cháu đầy đàng. Ăn uống luôn được người thân quan tâm chiếu cố. Ra đường người già ở VN được kính trọng – kính lão đắc thọ nên các cụ ít bị tủi thân. Đi đâu người ta cũng nễ nang. Các quyết định quan trọng trong gia đình đều nằm trong tay các cụ. Trong khi đó các cụ trong viện dưỡng chỉ được con cháu mỗi tuần đến thăm một lần là may lắm rồi. Ăn uống thì các cụ không hài lòng cho lắm vì là thức ăn tây phương không thể so sánh với phở, bún bò huế hay chả giò của VN mình. Còn các viện dưỡng lão dành riêng cho người Á châu thì thức ăn bị ban quản trị cắt xén nên cũng kém ngon nhạt nhẽo và thiếu chất đạm cho các cụ. Nói chung người già VN mình đều bị hụt hẫng đủ thứ – từ tinh thần đến thể xác.

Ở bắc Mỹ này tôi thấy người ta càng nhiều tuổi càng khổ. Khổ vì không còn hưởng thụ gì được sự đời, ăn uống kém ngon, thị lực yếu kém mà còn phải chịu những bệnh tật do già yêú sinh ra. Người già không tự lo được cho thân mình, mắt mờ, tai điếc, trí nhớ mất, sống nhờ người khác. Người già vua chúa hay cùng đinh, tỷ phú hay anh nghèo rớt một xu dính túi không có, kẻ quyền uy chấn động thế giới một thời hiển hách hay anh phó thường dân cả đời cơm nhà, quà vợ, khi tuổi già đến đều có những nỗi khổ như nhau.

Nghỉ hưu thường được nhiều người xem là bước ngoặt của cuộc đời. Dự lường những biến đổi tâm lý có thể diễn ra như sốc vì có cảm giác mình không còn giá trị, lo lắng vì nghĩ không được người khác tôn trọng…, nhiều người đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho mình các kế hoạch từ công việc đến sức khỏe.

Đa số những người về hưu sẽ có cảm giác buồn chán và tâm lý hụt hẫng khi “bỗng dưng quá nhàn”. Mặc dù sự gia tăng tuổi tác có thể gây ra các khó khăn cho thị lực nhưng các chuyên gia khuyến khích người già đừng từ bỏ việc đọc và học cách thích ứng với hoàn cảnh mới.Vậy chính xác điều gì diễn ra trong não khi chúng ta đọc?

“Bộ não luôn tạo mới các nút giao giữa các tế bào thần kinh nhờ những kích thích như đọc sách”, chuyên gia y tế và là chủ tịch Hội Lão khoa Đức, ông Manfred Gogol giải thích. Một nghiên cứu mới của châu Âu đã phát hiện ra rằng, sức khỏe của một người cải thiện đáng kể sau khi họ nghỉ hưu, do họ có giấc ngủ tốt hơn, tập thể dục nhiều hơn và ít căng thẳng hơn. Theo kết quả của nghiên cứu này, người về hưu nếu có thể, khoảng 40 phút của giấc ngủ mỗi đêm và có 10% khả năng tập luyện thường xuyên.

Điều này làm tăng sức khỏe thể chất và tinh thần của họ, giảm 25% đến gặp bác sĩ so với những người vẫn đang làm việc ở tuổi đó. Vì thế ông Gogol đề nghị đọc những cuốn sách có nội dung thực sự hấp dẫn chính người đọc. Nếu một cuốn tiểu thuyết quá dài gây mệt mỏi thì hãy thử đọc những truyện ngắn, các bài viết về xã hội…

Khả năng chuyển đổi từ ngữ sang những hình ảnh tinh thần là rất tốt cho hoạt động nhận thức. Đọc cũng giúp cải thiện vốn từ vựng, cách sử dụng ngôn ngữ và khả năng tập trung, theo chuyên gia Simone Helck, tổ chức thúc đẩy và phát triển chiến lược chăm sóc người cao tuổi Deutsche Kuratorium Altershilfe (Đức).

Thông thường người có tuổi ở hải ngoại hay bị mắc phải 3 cao và 1 thấp.
Ba cao là – cao huyết áp (high blood pressure), cao đường (diabetes) và cao mở (cholesterol). Hơn nữa các cụ hay bị chứng loãng xương, xương khớp bị phong thấp (arthritis). Các bác sỹ khuyên người già nên tập luyện thể xác và ăn uống lành mạnh để có cuộc sống có nhiều ý nghĩa hơn. Thông thường các cụ buồn chán vì thiếu sự chăm sóc của con cháu, ăn uống không ngon miệng vì 3 cái thiếu sau đây:

Cái thiếu thứ nhất là thiếu vận động – Độ tuổi 55-65 thường có những thay đổi lớn về thể trạng, quá trình lão hóa diễn ra khá nhanh, cần tăng cường vận động nhẹ nhàng để giảm quá trình này. Chú ý, không nên vận động quá mạnh, cần tạo sự cân bằng giữa động và tĩnh thông qua các hoạt động hàng ngày như sinh hoạt câu lạc bộ, tập dưỡng sinh, chăm sóc vườn hoa cây cảnh… Bên cạnh đó, cần đảm bảo cân bằng trong tư duy, tránh hưng phấn và ức chế quá mức, không nên để tư duy nghỉ ngơi quá lâu, tức là tâm phải tĩnh tại, phải ổn định. Để tránh sự nhàm chán, lời khuyên cho người về hưu là nên đa dạng loại hình hoạt động trong nhà cũng như ở ngoài trời, hoạt động tinh thần, hay vận động cơ thể, hoạt động tập thể hoặc cá nhân phù hợp với sở thích và khả năng của mình nhất, để khỏi có những ngày ngồi không khi cuộc sống thay đổi.

Theo các nhà tâm lý thì khi phụ nữ đến tuổi về hưu, nội tiết tố suy giảm cùng lúc với những diễn biến âm thầm trong cơ thể khiến cho họ phải đối mặt với các bệnh: tim mạch, loãng xương, tiểu đường… Còn nam giới khi về hưu, ngoài hói đầu, bụng phệ, cơ bắp mềm nhão thì có nhiều nguy cơ bị huyết áp cao, xương khớp… Để tránh bệnh tật cũng như tổn thương về tâm lý, mọi người nên lên chương trình tiền về hưu, nghĩa là bàn giao công việc từ từ để không bị hụt hẫng và chuẩn bị chương trình, kế hoạch sau khi về hưu, gồm: Thời gian, kinh tế, các hoạt động và mối quan hệ dự kiến thay thế công việc và quan hệ đồng nghiệp…, chẳng hạn như du lịch, làm từ thiện, chăm sóc con cháu, nghiên cứu trên mạng, hoạt động nghệ thuật, tham gia các lớp thiền, Yoga hay càn Khôn Thập Linh, v.v…

Ở tỉnh nhỏ chúng tôi đang cư ngụ, các bạn già về hưu tổ chức đi bộ mỗi sáng bằng cách hẹn tụ họp ở cafeteria của Costco ăn sáng nhẹ lúc 9 giờ với croissant và ly café. Sau đó mọi người cùng nhau đi bộ 2 tiếng đồng hồ quanh thành phố rồi về nhà nghỉ ngơi và lo cho việc nhà. Mỗi tối từ 7 giờ đến 9 giờ mọi người đến một trường trung học có hơn 10 bàn ping pong để các vị giải trí và có dịp trò chuyện cho hết ngày.

Một nghiên cứu mới của châu Âu đã phát hiện ra rằng, sức khỏe của một người cải thiện đáng kể sau khi họ nghỉ hưu, do họ có giấc ngủ tốt hơn, tập thể dục nhiều hơn và ít căng thẳng hơn. Theo kết quả của nghiên cứu này, người về hưu nếu có thể nên lấy 40 phút trước giấc ngủ mỗi đêm tương đương với 10% thời gian để tập luyện thường xuyên. Điều này làm tăng sức khỏe thể chất và tinh thần của họ, giảm 25% đến gặp bác sĩ so với những người vẫn đang làm việc ở tuổi đó.

Cái thiếu thứ hai là thiếu bạn – bạn bè rất quan trong đời sống hàng ngày của con người từ khi đứa bé vào đời đến cụ già lú lẩn.Tình bạn vốn là thứ tình cảm thiêng liêng và đáng được trân trọng. Một người có thể có rất nhiều bạn tuy nhiên không phải ai cũng có một người bạn thân hay một tình bạn chân thành. Đôi khi sự bận rộn của cuộc sống cuốn chúng ta vào khiến con người dần trở nên lãnh cảm. Tuy nhiên, trong một giây phút nào đó, khi người ta cảm thấy cô đơn, trống trải họ mới thấy việc có một người bạn bên cạnh ý nghĩa đến nhường nào. Đó là người hiểu về quá khứ của ta, tin tưởng vào tương lai của ta và chấp nhận con người hiện tại của ta. Sự tồn tại của một người bạn không phải là luôn nhìn thấy bằng mắt mà là luôn cảm nhận bằng trái tim.Trong sự cô đơn, trong đau ốm, trong bối rối – nhận thức về tình bạn khiến ta có thể bước tiếp, thậm chí ngay cả khi bạn ta bất lực không thể giúp ta. Họ ở đó là đủ rồi. Tình bạn không phai nhạt bởi không gian hay thời gian, bởi sự giam cầm của chiến tranh, bởi khổ đau hay sự im lặng. Chính trong những thứ đó mà nó bắt rễ sâu nhất. Chính từ những thứ đó mà nó nở hoa

Cái thiếu thứ ba là thiếu… ăn.

Khi ta còn nghèo thì lo ăn no mặc ấm. Đến khi ta khá giả hơn thì cố ăn ngon mặc đẹp. Đến lúc có tuổi thì ăn chơi mặc kệ và đến khi không còn răng nữa thì ăn chay mặc niệm…chú ý nhu cầu dinh dưỡng người già là rất cần thiết. Theo đó, trong chế độ dinh dưỡng cho người cao tuổi, phải đảm bảo sự hợp lý giữa các loại thức ăn. Các nguồn cung cấp vitamin, chất khoáng phải cân bằng với đạm, chất xơ. Không nên dùng quá tỷ lệ một dưỡng chất nào đó. Ngoài ra, đừng vì lo ngại người già ăn nhiều sẽ gặp nhiều bệnh mà quá kiêng khem, dẫn đến thiếu chất, cơ thể sẽ mệt mỏi.

Như vậy, sự cân bằng mọi mặt đời sống sau khi về hưu là rất quan trọng. Người già nên lưu ý tránh những áp lực của cuộc sống, đảm bảo dinh dưỡng, tăng cường các mối quan hệ và sinh hoạt tại cộng đồng nhằm đảm bảo tâm sinh lý, sống khỏe, sống có ích.

Lắm lúc ngẩm nghĩ lúc nào về hưu mới đúng lúc, ta sẽ ở đâu và vợ chồng tôi sẽ ở với ai thì tôi thở dài ngao ngán. Vào Nhà Già ở suy cho cùng cũng là một giải pháp tốt nhất. Thực ra Nhà Già ở Canada thật sạch sẽ, đầy đủ tiện nghi, nhân viên phục vụ tử tế, không có gì đáng phàn nàn.

Cuộc sống tự nó là điều kỳ diệu. Lúc mầm non son trẻ luôn vươn lên để sống là kỳ diệu. Lúc già kiệt lú lẫn yên phận cũng là kỳ diệu. Đừng quá bi quan vì tuổi già. Chúng ta không mãi duy trì được hình thức bên ngoài tốt đẹp, nhưng có thể giữ ấm trái tim với đồng loại cho đến lúc ngừng nghỉ.

Tuy nhiên tôi vẫn tự hỏi liệu đời sống người già là một diễm phúc tốt lành hay một sự kém may mắn vì phải sống trong bốn bức tường cho đến lúc ra đi vĩnh viễn…

Nguyễn Hồng Phúc
Montréal, Canada..

Bà Hạnh Nhơn, ân nhân của thương phế binh và quả phụ VNCH, qua đời.

 Bà Hạnh Nhơn, ân nhân của thương phế binh và quả phụ VNCH, qua đời.

Nguoi-viet.com

Bà Hạnh Nhơn (giữa) tại Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh kỳ V. (Hình: Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y)

FOUNTAIN VALLEY, California (NV) – Cựu Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn, một người được coi là ân nhân của vô số thương phế binh và quả phụ VNCH, vừa qua đời lúc 1 giờ 43 phút sáng Thứ Ba, 18 Tháng Tư, tại bệnh viện Fountain Valley, California, hưởng thọ 90 tuổi.

Tin này được bà Trâm Lý, con gái bà Hạnh Nhơn, xác nhận với nhật báo Người Việt.

Khi biết tin, nhà báo Huy Phương, một người thân thiết và sát cánh với bà Hạnh Nhơn trong công tác giúp thương phế binh và quả phụ VNCH nhiều năm qua, thốt lên: “Xin cầu nguyện cho chị Hạnh Nhơn. Nghĩ rằng chuyện sẽ tới, nhưng khi tới, không khỏi xót xa.”

Khi hay tin, ông Trần Văn Lý, một thương phế binh VNCH, viết trên email:

Tin sét đánh ngang tai
Một tượng đài vừa đổ!

Nay chị lìa bể khổ
Để về cõi vĩnh hằng

Chúng em gạt nước mắt
Đành chúc chị bình an!

Nhà báo Huy Phương cho biết thêm: “Chúng tôi sẽ gặp gỡ các cháu trong gia đình để bàn thảo việc cáo phó theo chúc thư của chị ghi lại cho tôi. Sau đó tôi sẽ thông báo cho tất cả diễn tiến của tang lễ.”

Sở dĩ bà Hạnh Nhơn được coi là “ân nhân của vô số thương phế binh và quả phụ VNCH” vì bà là hội trưởng Hội H.O. Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ VNCH, người đứng đầu các đại nhạc hội Cám Ơn Anh, gây quỹ giúp thương phế binh và quả phụ VNCH tại quê nhà.

Đại nhạc hội này nay đã trở thành một trong những sự kiện lớn nhất của cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại.

Mỗi năm, hội giúp hàng chục ngàn cựu chiến binh VNCH bị mất một phần thân thể, cùng những phụ nữ có chồng hy sinh, trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của bà, cùng phối hợp với các tổ chức, trung tâm ca nhạc, và cơ quan truyền thông, đại nhạc hội Cám Ơn Anh nay được luân phiên tổ chức ở Nam và Bắc California, mỗi năm thu được cả trăm hoặc cả triệu đô la, do đồng bào hải ngoại đóng góp, gởi về Việt Nam giúp rất nhiều người.

Đại nhạc hội lần thứ 10 hồi năm ngoái thu được tổng cộng $1,279,000.

Theo nhiều tài liệu, bà Hạnh Nhơn nhập ngũ năm 1950 ngành hành chánh tài chánh, với công việc là phát lương cho “đệ nhị quân khu” sau gọi là Quân Ðoàn I. Kế đến, bà là thiếu úy rồi trung úy sĩ quan tiếp liệu tại quân y viện Nguyễn Tri Phương. Sau đó bà được thuyên chuyển về Trung Tâm Huấn Luyện và Trường Nữ Quân Nhân và rồi lên lon đại úy làm việc tại văn phòng đoàn nữ quân nhân của Bộ Tổng Tham Mưu. Năm 1969, bà là thiếu tá trưởng phòng nghiên cứu. Sau đó, bà được chuyển qua Không Quân và lên trung tá năm 1972.

Sau Tháng Tư, 1975, bà bị Cộng Sản bắt đi tù nhiều nơi khác nhau, bao gồm Long Giao, Quang Trung, Hóc Môn, Z30D, Hàm Tân, và Long Thành.

Sau khi ra tù, năm 1990, bà định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO2.

Ban đầu, bà là phó chủ tịch Hội Tương Trợ Cựu Tù Nhân Chính Trị, phụ tá cho ông Nguyễn Hậu là chủ tịch thời bấy giờ. Công việc của bà là làm giấy tờ bảo lãnh cho các cựu quân nhân QLVNCH không có thân nhân bảo lãnh.

Sau đó, bà làm hội trưởng Hội H.O. Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ VNCH cho tới nay.

Trong một lần trả lời phỏng vấn nhật báo Người Việt hồi năm 2011, khi được hỏi lý do khiến bà hăng say trong công việc cứu trợ thương phế binh và quả phụ VNCH, bà cho biết: “Tôi cảm thấy vui khi được cùng đồng hương Việt Nam và các hội đoàn tổ chức Ðại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Kỳ I và các lần sau này là vì tình huynh đệ chi binh. Là lính, tình cảm ấy nặng lắm.”

Bà không giấu được xúc động khi nhắc đến những giây phút làm hồ sơ cứu trợ, hoặc khi đọc những lá thư hồi báo của các thương phế binh, hay từ gia đình các quả phụ, gởi về cho hội: “Tôi tưởng tượng lúc họ vui khi nhận được tiền, con cái họ có thêm miếng cơm, có thêm tấm áo, gia đình họ ấm lòng khi đồng bào ở hải ngoại xa xôi vẫn nghĩ đến và nhớ ơn sự hy sinh của họ.” (Đ.D.)

Vượt biển !

From facebook: Hoang Le Thanh added 2 new photos 
Vượt biển !

Khi trường Đại học Kinh Thương (Viện ĐH Minh Đức) tổ chức lễ tốt nghiệp khóa đầu tiên, tôi đến Kỳ Đồng lôi Thắng vào một phòng riêng, hỏi nhỏ:

– Ông có giúp tôi một vài bản nhac, được chăng?
– Ở đâu ?
– Lễ tốt nghiệp khóa đầu tiên, trường Kinh Thương.
– Ồ! Rất vinh dự!
Tôi nói :
– Sinh viên tổ chức, không có tiền thù lao đâu nhé !
– Biết rồi! Thắng bảo và nói thêm: – Tôi thích hát cùng sinh viên!
– Khôn dữ hé! Tôi và Thắng cùng cười.

Vài hôm sau, tôi đến cư xá Bắc Hải đón và đưa Thắng cùng cây đàn guitar đến dự buổi lễ. Bố trí Thắng ngồi cùng dãy quan khách gồm các vị tổng trưởng, thứ trưởng, qúy Đức Cha, Linh muc và các giáo sư đại học, …

Sau nầy tôi cảm ơn Thắng bằng một chầu cà phê cóc ở chợ Kiến Thiết, gần nhà anh Ngô Mạnh Thu (dân ca), có cả anh Nguyễn Minh Nữu, Ngô Mạnh Thu, Nguyễn Đức Quang, … vài cô nữ sinh Gia Long cũng có mặt uống ké.

… tình cờ nhìn thấy bài viết của Nguyễn Quyết Thắng (nhạc sĩ). Một chút xa xưa nhớ về người bạn nhạc sĩ dễ thương, hiền hóa, thường nỡ nụ cười trên môi.

Xin giới thiệu và mời qúy bạn cùng đọc một bài viết về̀ – Kỷ niệm Tháng Tư Đen – của Nguyễn Quyết Thắng.

Xin tag đến anh Nguyễn Minh Nữu để Thắng có hỏi, nhờ Nữu nói với Thắng: Tôi gởi lời thăm!
Lê Thanh Hoang Le Thanh

***
” Nước …”

Nguyễn Quyết Thắng
Du Ca
Sau chuyến vượt biên hụt hẫng tại Nha Trang vào một buổi tối mùa thu của năm 1980, tôi không thể trở về Banmê được nữa nên chạy thẳng xuống Sài gòn. Cơ duyên hội ngộ chúng tôi 3 người bắt tay nhau để tiếp tục thực hiện ý định vượt biên luôn sẵn trong tâm trí, anh Nguyễn Thế Bang có tài ăn nói khôn khéo, uyến chuyển và nhanh trí, lo tiếp xúc với bạn bè và những người muốn tham gia vượt biên, anh “làm cái” đứng mũi chịu sào nên tôi gọi đùa là “Cái Bang”, chị Minh Tâm một người hiền hòa ăn nói nhã nhặn, khuôn mặt phúc hậu và là người con của một gia đình uy tín trước kia, vì thế những người được chị mời đến tham gia đều tin tưởng và hy vọng. Cũng từ cái duyên này mà anh Bang và chị Tâm thường xuyên gặp nhau, tình yêu nẩy nở và nên duyên vợ chồng.

Nhiệm vụ tôi phải lo trực tiếp những nhu cầu cần thiết cho chiếc thuyền, từ giấy tờ chuyên chở hàng hóa để ngụy trang, đến vật dụng cần thiết như tìm mua hải bàn, hải đồ, dầu nhớt, thuốc men v..v.. một công việc qủa khó khăn và nguy hiểm. Mặc dù sẽ có tài công lo điều khiển con tầu, nhưng tôi cũng phải nghiên cứu tìm tòi học hỏi cách lái tầu, chọn con nước, hướng gió, ôn lại ánh trăng sao, những chuyện này tôi từng quen biết nhờ sinh hoạt trong Hướng Đạo, các hội đoàn và những ngày tháng phục vụ trong quân đội. Tôi luôn có mặt trên thuyền để bảo vệ phá hoại hoặc bị đánh cắp thuyền, nó là một vật quan trọng, một ước mơ, một hy vọng của tương lai đời sống chúng tôi.

Tôi đã bán đi chiếc nhẫn cưới và sợi dây chuyền cuối cùng để mua ly tách, phin càphê, vài cái ghế đẩu chân thấp và 2 cái bàn xếp cho có lệ, thuê một quán cóc bên đường đối diện với cổng sau Sở Thú đầu cầu Thị Nghè mở quán bán càphê, dùng làm điểm hẹn hò, nơi gặp gỡ bàn bạc công việc, khách qua đường ghé uống càphê thì cũng bán bình thường như thường. Đêm về, xập mái hiên lá xuống che kín phiá trước thay cho cánh cửa, nằm trong chiếc ghế bố mượn của anh chị Kha được mở ra khi đi ngủ, nghe đêm về tịch liêu, nhớ nhà, nhớ vợ con đang còn ở trên cao nguyên Banmê, nơi chất chứa đầy kỷ niệm thời mới lớn, nay đành phải rời xa, thương cho tương lai đàn con thật mịt mờ, cuộc sống hẩm hiu thua kém chúng bạn, thiếu thốn mọi điều, ngay hạnh phúc gia đình với tình cha con cũng bị cách ngăn, không biết bao giờ mới an bình quây quần bên nhau. Thương chúng bao nhiêu, thương mình bấy nhiêu, trong bóng đêm âm thầm lặng câm, đôi dòng lệ trào dâng, ấy là niềm an ủi vô biên luôn theo sát bên tôi.

Chiếc thuyền dài 9 thước, rộng 2 thước rưỡi, đã được vài người tài công mời từ Phan Thiết đến thăm, cùng đôi người thợ máy đến viếng, đều lần lượt bỏ ra đi với nhiều lý do khác nhau, tựu chung là ” chê “, máy Zanma 2 đầu bạc với bánh trớn to tổ chảng và nặng chình chịch, xưa qúa rồi, mũi thuyền thấp qúa, không phải thuyền đi biển, phải là mũi..” Thái Lan ” mới được, anh Bang nói rằng : ” Tháng 3 bà già đi biển “, sóng êm gió lặng, loại thuyền này đi thì không sợ bị lộ, thắng là cái chắc. Điều này tôi không có ý kiến, chẳng có kinh nghiệm, mở mắt chào đời đến nay, đây là chiếc thuyền đầu tiên tôi thực sự được sờ tận tay ray tận mắt, tôi nghĩ rằng chiếc nào thì cũng tương tự như nhau, khác chăng là to hay nhỏ hơn thế thôi ! tôi là dân sống trên núi, bơi còn chưa biết nữa huống hồ…

Thế rồi ! tháng 3 năm 1981 ngày dự định đã đến, chàng cựu sĩ quan hải quân cùng người thợ máy bạn của anh ta đột nhiên biến mất, không một lý do ? May thay chị Tâm đã mời được ông Nhất từ Phan Thiết về làm tài công, ngày đi không thay đổi, chỉ có tôi và ông Nhất trên thuyền đến điểm hẹn nơi cửa biển, các “taxi” ( ghe nhỏ ) sẽ đổ người ra. Tôi cầm sổ thông hành cấp phép đi từ bến Hàm Tử Chợ lớn đến Vũng Tầu để nhận hàng về, qua trạm kiểm soát tôi phải nhẩy lên bờ trình giấy, xòe điếu thuốc Vàm Cỏ ra mời. Đường đi nước bước trên sông ngòi, tôi hoàn toàn mù tịt, chỉ lẳng lặng nghe theo lời ông Nhất, cũng chẳng hề nghi ngờ ông ta có biết đường hay không? dường như cũng có lần lạc lối vì thấy ông ta hỏi vọng qua những thuyền khác dọ hướng đi, điểm đến ở đâu đó bên cửa Thuận An !! tất cả hải bàn, hải đồ, thuốc men, thực phẩm đều giao cho người điều động đánh bãi và taxi, họ sẽ giao lại ở bãi chính, chúng tôi không được mang theo, sợ lộ.

Thuyền chạy qua bao làng xóm, tỉnh lỵ bên sông nước, những vẻ đẹp thật thơ mộng của sông rạch miền Nam tôi chưa hề được chiêm ngưỡng, những cành lá của cây dừa nước xỏa ra bên bờ lạch cùng những mái nhà tranh thấp thoáng sau vườn cây thưa nắng, yên bình như trong hình vẽ, ngồi trước mũi thuyền thở mùi nước đục, hưởng làn gió mát và tiếng nước vỗ bên mạn thuyền, tôi quên rằng mình đang trên đường trốn chạy. Ánh mây chiều đỏ thẫm, từng vệt dài chen lẫn hàng mây xanh-vàng, những khối mây đen nổi rõ từng cuộn phía trước, hoà tan dần dần, nối đến mây xám trải dài sau lưng. Giữa dòng sông rộng lớn, sóng nhấp nhô dập mũi thuyền chồm lên chúi xuống, hai bên bờ sông lui dần ra xa và bóng tối phủ xuống không còn nhìn rõ những mái nhà thấp thoáng sau rặng tre bên bờ sông đất lở. Giữa sông có chòm cù lao khá lớn, thuyền chạy đến đó, tôi nhẩy lên bờ. Cù lao trống trơn không có ngọn cỏ, toàn cát-đá-sỏi trộn lẫn bùn đất, có những con Thòi Lòi nằm dương cặp mắt tròn lo như nai tơ nhìn chúng tôi dò hỏi?… Ông Nhất nói : “mình nấu cơm ăn đi” rồi tự tay cầm nồi múc nước sông vo gạo, lấy bình nước uống đổ vào, đặt nồi cơm trên bếp dầu sau thuyền, tôi lấy loong guigoz đựng thịt kho mặn bầy ra. Cơn gió thổi lồng lộng trong khung trời rộng, không ai nói nói lời nào, tôi nhìn ông Nhất ưu tư, da xạm nắng dáng khắc khổ, râu dài hơn tóc, và hàm răng đóng nhựa thuốc lào, tôi đoán ông khoảng 60 tuổi, nhưng thực ra tuổi của ông mới ngoài 50, sóng gió và biển cả đã làm ông già đi trước tuổi.

Ăn xong chúng tôi nhổ neo đi tiếp, trong bóng đêm của sông nước miền đất lạ, thật khó nhận diện cảnh vật phía trước, ông Nhất lái thuyền thì tôi đứng trước mũi dòm chừng chỉ lối, hoặc ngược lại, chiếc đèn pha trên mui không đủ chiếu ánh sáng xa hơn chục thước phía trước, càng làm tôi mỏi mắt hơn khi phải điều tiết trong bóng đêm, bực mình hơn thế nữa là những lưới đánh cá giăng qúa nhiều giữa sông, thường thì người ta cắm 2 chiếc đèn bão ở 2 đầu cọc lưới, đêm khuya có khi 1 đèn bị tắt không biết đâu là bên phải, đâu là trái, có khi thuyên trôi vào giữa đáy lưới, làm ông Nhất phải nhẩy xuống nước gỡ lưới quấn quanh chân vịt và cả bàn lái, cũng may đó chỉ là lưới cá nhỏ dễ gỡ, phải làm thật nhanh và chạy cho lẹ, kẻo chủ lưới bắt được không những đòi bồi thường mà còn bị lộ chuyện vượt biên thì thật tai họa.

Thuyền qua nhiều khu vực tỉnh lẻ, tôi không nhớ hết địa danh mà ông Nhất đã kể…, rồi thuyền đến bến Ninh Kiều Cần Thơ, ông Nhất nói nghỉ ở đây một chút rồi thuê ghe nhỏ vào chợ, quanh đây đầy thuyền to ghe nhỏ dọc ngang qua lại, hay im lìm neo trước bến. Trên bờ đèn đuốc sáng trưng, khói nấu-nướng tỏa mù mịt một góc. Chừng nửa giờ sau ông Nhất trở về với chai rượu trắng và gói giấy trong tay, tôi đoán là đồ nhậu ! Thì ra ông Nhất thèm rượu, nói đúng ra là nghiện rượu, có rượu là ông ta vui vẻ, khoẻ mạnh hơn, tiếc cho ông ta là tôi không biết uống để làm bạn tri kỷ với ông, tuy nhiên ông ta cũng huyên thuyên kể chuyện về gia đình của ông, cũng vì thế tôi biết được vợ con ông đều đang sống ở Mỹ, qua những đợt vượt biên trước đây họ đã chở thuê cho những người ra bãi rồi nhẩy theo luôn, ông ta thì bị bắt nhốt tù, nay mãn hạn trở về, đang tìm cơ hội để ra đi lần nữa.

Rời bến Ninh Kiều, thuyền chạy dọc qua nhiều lò gốm phía bên trái, từng đống chum lọ bằng đất sứ chồng chất lên nhau, chờ ngày đem bán, bên phải là bờ đất cao hơn cả 3-4 thước, phía trên là lò nấu đường, thơm mùi khét mía cháy, vị ngọt của mạch nha, lửa đốt trong lò rực sáng hun đúc chum đường sôi sục văng vãi lung tung, những đường rãnh nước chẩy bào mòn từ trên lò chẩy xuống bờ sông nhớp nháp, có đàn chuột cống nhẩy qua, chạy lại loanh quanh, tôi nghĩ, giá có con chuột nào vô phước rớt vào chum đường đang sôi kia, chắc cũng chẳng ai biết vì khói trong nồi bốc ra khá dầy đặc. Tới ranh giới tỉnh Sóc Trăng, tôi thấy đằng xa có ngôi nhà thờ sáng rực, nhiều quầy-quán và xe bán dạo bật đèn sáng đủ mầu, bóng người thấp thoáng đông đảo. Tôi nhẩy lên bờ nhắm hướng ánh sáng đi tới, đoán là buổi chợ đêm, định đến để tìm mua thêm gói thuốc lá dằn túi, đến nơi mới biết đó là một buổi lễ cầu nguyện của giáo dân trong vùng trong ngày cuối tuần, tiếng cầu kinh vang ra từ trong giáo đường hòa lẫn tiếng nhạc của xe bán nước ngọt, caphê, mực khô vang lên ngoài đường, âm vang vui nhộn. Tôi đảo mắt tìm xe thuốc lá, nhưng chợt đổi ý, không nên đến chỗ đó, mình dễ bị phát hiện là kẻ lạ mặt và chẳng may bị bắt thì thật đáng tiếc. Nghĩ thế, tôi quay lưng trở về thuyền.

Dường như có ánh trăng nửa đêm yếu ớt ẩn mình sau tầng mây cao, thuyền trôi đến một một vùng sông rộng lớn, những cành cây lưa thưa vươn trên mặt nước khẳng khiu đơn độc, những tàn cây này đã bị nước thủy triều dâng cao nên không thấy gốc, chốc nữa nó cũng sẽ bị ngập chìm toàn diện dưới mặt nước, quay nhìn lại phía sau, tôi chợt bắt gặp một vùng lân tinh tỏa ánh sáng lung linh, nhấp nhô ánh thép bạc lan tỏa khắp mặt nước như trăm ngàn ngọn đèn lấp lánh từ đáy nước hắt lên, và từ trên cao rơi xuống, những cuộn hơi sương đục như khói trắng bốc lên, tan loãng trên mặt nước trông tựa như một giòng nước nóng đang bốc hơi giải nhiệt êm đềm, thật ngoạn mục và kỳ quái, một cảnh thần tiên tôi chưa hề thấy, lạ lùng và huyền bí như truyện thần thoại, tôi muốn vốc những ánh lân tinh mầu trắng-xanh lấp lánh trong suốt đó trong lòng tay, hay thử đập vỡ nó ra xem có gì lạ? lòng vui và kinh ngạc trộn lẫn chút lo lắng không tên, …
Trong khoang ông Nhất ngồi ngủ gục sau những ngụm rượu khề khà, tôi nghe hình như có tiếng nước chẩy lao xao phía trước, qua khung cửa kính phòng lái, tôi nhìn thấy cảnh vật mờ mờ ảo ảo phía trước, bật đèn pha trên mui ra xem, thì hỡi ôi ! cách mũi thuyền dăm bẩy thước là một đáy lưới cá khổng lồ giăng ngang bằng một dây cáp sắt cao hơn mũi thuyền, nước đổ vào đáy ào ào tạo thành một phễu nước xoáy từ miệng sông rộng gom vào túi đáy thu nhỏ phía sau, 2 đầu giây cáp được quấn chặt vào 2 cột trụ gỗ đóng sâu xuống lòng sông to bằng tay người ôm.

Tôi không còn đủ thời giờ để hét lên nữa, tay giật mạnh cần số về phía sau, bánh đưôi tôm quay ngược, con tầu rung chuyển bần bật trong tiếng rú của máy de lui mệt nhọc khó khăn, tuy đã rú ga lui hết cỡ về sau, nhưng con tầu vẫn từ từ trôi vào miệng đáy, không còn thời giờ để suy tính chọn lựa tìm cách thoát hiểm, chỉ còn phản xạ tự nhiên, thực hiện ngay những gì lý trí bảo mình làm.

Nếu tầu bị hút vào đáy, nước sẽ nhận chìm con tầu xuống nước như những chiếc lá trôi sông, như những con cá vào đáy không đủ sức vẫy vùng bơi ngược dòng trở lại, huống chi tôi lại chẳng biết bơi, và cái lưới to lớn kia sẽ cuốn hút xoay vòng trói chặt con mồi hết lối thoát.

Thấy de lui không có kết qủa và sự nguy hiểm đang cận kề, tôi gạt cần số tới, rú ga và bẻ hết cỡ về bên phải, con tầu rướn lên trôi ngang trên mặt nước cuồn cuộn, đâm xầm vào đầu cột đáy giữa sông rồi trượt qua bên kia, cái cột to bị đổ nghiêng qua một bên, và may thay con tầu đã lướt qua được phía ngoài của miệng đáy trôi tuột ra xa….. tôi nhủ thầm cám ơn Trời Phật đã độ lượng, tiếng ông Nhất vọng ra : – Chuyện gì đó ?…

Bấy giờ tôi mới nhớ có ông Nhất ngủ trong khoang.

Một giờ sau, thuyền đến một bến nước có nhiều căn nhà dựng tuốt ngoài sông, thủy triều xuống để trơ ra những cột nhà khẳng khiu mỏng manh được đóng xuống lòng sông cao lêu khêu, nhà nhà đều tối thui, ông Nhất ghé vô một căn nhà còn ánh sáng hắt ra, gọi lớn :
– Còn đồ ăn không ? ông chủ ơi ! rồi quay lại bảo tôi : – Đây là quán ăn .

Quả đúng như vậy, nhà có một cầu thang phía sau thòng xuống nước để đón khách thuyền đò ghé qua, chúng tôi leo lên, căn nhà vắng hoe…, chợt có một bà khoảng 50 tuổi bước ra hỏi :

– Cần chi ông? đồ ăn hết mất rồi…
Ông Nhất đòi hỏi :
– Có cái gì ăn cũng được !! Tô cháo gà đi ! được mà..
– !!!!… Nhà chỉ còn con gà, nhưng còn nhỏ xíu xìu hà.
– Được rồi, được !!!

Bất đắc dĩ bà chủ bắt gà làm thịt nấu cháo cho chúng tôi không một tiếng thở than, chắc cảnh này vẫn thường xẩy ra.. Tôi ngồi im chờ đợi, nhìn ra mặt sông tối đen, lo lắng, mệt mỏi, nhiều suy nghĩ đổ ra rối tung, tôi cũng chẳng biết còn bao lâu nữa thì đến điểm hẹn, đi cũng đã gần 2 ngày rồi còn gì ?. Tránh các trạm kiểm soát làm việc ban ngày và tránh để người dân nhận diện thuyền lạ, chúng tôi phải chọn đi ban đêm, ít phiền nhiễu, nhưng không ngờ lại gặp những khó khăn khác.

Ăn xong trả tiền, chúng tôi cho thuyền qua phía bên kia, sau một dẫy nhà dựng trên mặt nước neo ở đấy ngủ. Sáng hôm sau bị đánh thức bởi tiếng máy đuôi tôm gào lớn và sóng nước cuộn tới, nâng thuyền tôi lên xuống lắc lư, sóng đánh vào mạn thuyền bồm bộp, mở mắt nhìn theo thấy đó là 1 chiếc ghe tam bản dài khoảng 5-6 mét, phía sau gắn một máy đuôi tôm cần trục dài thoòng chĩa xuống nước quậy sóng, người thanh niên trẻ tuổi háo động, rồ máy ghe lượn qua lượn lại, phóng hết ga biểu diễn, khiến các ghe buôn bán hàng hóa trên mặt sông la ó bất bình. Chúng tôi ở đó nguyên ngày, chờ đến chiều tối lại nổ máy đi tiếp…

Cuối cùng cũng đã đến điểm hẹn, đợi ở đó suốt từ sáng đến chiều mới thấy một chiếc ghe nhỏ từ đâu chèo đến, một người thò đầu vào thuyền nhìn tôi cười cười hất hàm hỏi :

-Tới lâu chưa ? mệt không ?. Rồi quay qua nói với ông Nhất :- Lui thuyền lại chỗ trống kia đi bác Hai ?

Chẳng cần nghe tôi trả lời, và cũng chẳng cần biết họ có quen tôi hay không? đoán chắc chỉ là người trong ” bãi đánh ” nên ông Nhất thản nhiên nổ máy làm theo lời họ. Một lúc sau, cũng chiếc ghe đó chạy xát vào thuyền tôi và quăng qua cửa sổ một chùm bánh nếp nhân đậu đỏ, gói bằng lá dừa mầu vàng trông giống như bánh ú nho nhỏ, khoảng 50-70 cái cột với nhau thành 1 chùm, nói với theo :

– Đồ ăn đó !

Mừng qúa, buồn ngủ gặp chiếu manh, họ thật tử tế và chu đáo đã cho tôi thức ăn lót bụng, bèn mở một cái ra ăn thử. Có biết đâu rằng đó là phần thực phẩm dành của 50 người vượt biên trong bao nhiêu ngày lênh đênh trên biển đấy?… Lúc sau lại có 1 ghe khác cặp vào bên hông, một người đàn ông chui vô khoang máy nói :

– Trước khi ra biển, phải kiểm tra máy móc lần chót cho an toàn ! nhé ?

Rồi ông ta mở nắp máy xem xét, chỉnh qua chỉnh lại, vặn tới vặn lui 4 cái “Béc dầu” xong nhẩy ra ngoài biến mất. Còn người thợ máy chính thức theo chúng tôi trên đường vượt biển, sẽ đến chung với nhóm người bằng ” ghe taxi ” tối nay.

Ánh mặt trời dần tắt, tôi bồn chồn chờ đợi, thỉnh thoảng lại ghé mắt bên cửa sổ nhỏ nhìn ra ngoài, ông Nhất cũng thế ! chẳng ai muốn nói năng lời nào, và chẳng ai nghĩ đến chuyện cần phải nấu cơm ăn tối cả. Nhìn lại bao quát căn buồng máy, tất cả đã gọn gàng ngăn nắp, sàn ngồi trong khoang lót ván là chỗ ngủ của tôi bấy lâu nay có thể chứa được 35 người ngồi bó gối, phía sau buồng lái chứa khoảng 15 người, số còn lại ở trên mui, cái máy thuyền to qúa, nằm giữa khoang với cái ” bánh trớn ” to chả khác gì của “xe ủi lô”, thấy phát khiếp không ai dám ngồi gần, thùng nước bằng thiếc to thiết kế theo dạng mũi thuyền chứa được 800 lít nước và phía sau đuôi thuyền cũng có 1 thùng thiếc phía dưới chứa 800 lít dầu gasoil, thêm 4 kan lẻ để phía trên và 4 kan nhớt máy nữa. Tất cả do ông chủ nhà, nơi neo thuyền ở bến Hàm Tử lo đầy đủ và giao cho chúng tôi lúc ra đi, 2 cái “béc ” phun dầu dự phòng để trong hộc khoang phía trước cùng với sợi dây cu roa máy bơm nước, bên hông trên cao mới gắn thêm 1 máy bơm nước bằng tay, phòng trường hợp máy bơm máy không làm việc, một trục máy dài 2 mét gắn sẵn chân vịt mới dự trữ, đây là kinh nghiệm học được ở những người đi trước thưòng gặp phải trục trặc.

Chợt có tiếng người nhẩy lên thuyền làm tôi điếng người, một người đàn ông cúi mình thò đầu vào khoang nhìn dáo giác một lượt rồi hỏi :

– Xong rồi chứ ? đánh nhe, mọi người tới rồi.

Tôi chỉ kịp trả lời :- Dà. thì ông ta đã quay gót nhẩy lên bờ, lát sau thì nhiều tiếng động trước mũi thuyền, làm chiếc thuyền chao đảo không ngừng, gìa trẻ trai gái, lần lượt chui nhanh vào khoang, chỉ có tiếng xì xào to nhỏ và tiếng lục cục của chân dẫm lên bục gỗ. Em Nguyễn Hữu Chí trao cho tôi gói giấy, phía ngoài bọc bao nylon, trong đó có cái hải bàn, và tấm hải đồ mà tôi đã khó khăn dò la để mua được. Ông Nhất nói với Chí quay giúp bánh trớn, cái máy ho lên xằng xặc nổ được chốc lát rồi từ từ tắt ngấm, lại quay – rồi lại tắt. Ông Nhất bực dọc : – Thợ máy đâu rồi hè ?. Một người lên tiếng :- Tôi đây, rồi thoăn thoắt chen qua đám người ngồi chật ních đến bên máy tầu kiểm soát, tôi cũng chui đầu vào nhìn, thấy nhớt trong máy phun ra phè phè mỗi khi máy nổ, anh ta lẩm bẩm gì đó với nắp máy đã dược tháo ra, tôi hỏi :

– Có cần gì không anh ? sao vậy ?

Anh ta trả lời :
– Không sao, chạy được, nhưng uống nhớt hơi nhiều, ai căn máy gì kỳ qúa dzậy? để coi lại coi !!!

Anh ta vặn vặn xoay xoay một chặp thì máy cũng nổ được đều đặn trở lại, và chiếc thuyền rời bến nhắm thẳng cửa biển tiến tới, mọi người ngồi im lặng trong bóng tối nén tiếng thở mạnh, thế nhưng cái máy tầu cứ ho lên còng cọc vang lên và ống nước giải nhiệt trong máy thải ra ngoài phun lên phè phè. Cái khoang bé xíu vậy mà có thể chứa được hầu hết tất cả mọi người trong đó, khi nghe ông Nhất nói tôi mới để ý : – Ráng chịu khó ở trỏng một lát đi bà con, ra khỏi cửa biển là xong rồi.
Thuyền chạy được một lúc thì đến cửa biển, nước trong thuyền dâng cao ướt chỗ ngồi, ông Nhất mở máy bơm cho nước ra ngoài, sóng cuộn có phần mạnh hơn, trước mặt là biển nước mênh mông, ánh nước nhấp nhô trong bóng đen rờn rợn, tôi quay lại nhìn phía sau, không còn thấy nhánh sông vừa đi ra là ở chỗ nào nữa, chỉ thấy lờ mờ những hàng cây, bờ đất ẩn hiện thành một hàng ngang, trên cao là cột hải đăng sừng sững đang thè lưỡi liếm bóng đêm từng vòng.

Thuyền kéo ga hết cỡ đi về phía trước, tôi mừng thầm : “Chạy nhanh như vậy sẽ mau đến hải phận, giờ này nếu bị phát hiện họ đuổi theo cũng không kịp”. Nhưng mỗi khi nhìn lại ngọn đèn hải đăng, thì vẫn thấy nó nằm đó, vẫn thấy rõ mồn một chẳng cách xa được là bao nhiêu. Tôi lần mò mở bao giấy lấy hải bàn ra xem, giờ phải dùng đến nó để định hướng đi, tôi xực nhớ đến những vật dụng cần thiết khác, bèn hỏi lớn :

– Ai cầm gói thuốc tây ??… Có ai thấy cái buồm không ??… Ai giữ phao, mấy cái ruột xe hơi đó ??…

Không có tiếng trả lời, đáng nhẽ ra tôi phải nhớ hỏi ngay từ lúc mọi người lên thuyền chứ ? nhiều việc chi phối trong đầu, khiến tôi không thể nhớ được mọi thứ. Tôi hỏi lại lần nữa, hỡi ôi ! vẫn không có ai trả lời, tôi thất vọng, bực bội và nổi giận. Bịch thuốc Tây gồm thuốc tiêu chẩy, thuốc say sóng, dầu nóng, thuốc nhức đầu, những cuộn băng vết thương v.v.. tất cả tôi đã mua được của anh Trần Đại Lộc, gần chợ An Đông. Cũng không thấy 4 cái ruột bánh xe vận tải được cắt đôi ra thành 8 khúc, ép kín và bắt khoen 2 đầu, dùng để gắn 2 bên sườn thuyền thay thế phao nổi cho thuyền cân bằng, tôi đã phải khó khăn để thuê làm cho thật tốt và kín đáo với giá không rẻ, thuê xe Ba Gác chở từ Hàng Xanh về Bến Hàm Tử thật không dễ tránh né Công An kiểm soát. Còn cái buồm nữa :- Trời ơi ! cái buồm đâu rồi ?. Cái buồm được cắt ra từ một cái dù mầu trắng của lính nhẩy dù còn cả dây dù mới tinh, anh Thảo đã nhờ người nhà ngồi may suốt buổi tối. Tội nghiệp cái cột buồm còn nằm trơ kia, tôi đã phải đợi đến bến Ninh Kiều Cần Thơ mới mua được một thân cây gỗ dài 6 mét, đục đẽo làm chốt gắn sau buồng lái, để phòng khi ra khơi cần đến sẽ dựng lên. Tất cả mọi vật, anh Bang đã trao cho ông Đông ” chủ bãi ” để đem ra đây cùng với mọi người trong ngày hôm nay, tất cả đều không thấy đâu? Vì cuộc sống khó khăn, hay vì lương tâm bất nhẫn, lòng tham đã khiến người ta giữ những vật ” vô giá ” đó của chúng tôi làm của riêng, mà không cần màng đến tính mạng và thân phận của những người đang đi vào cõi tử sinh, “một đi không trở lại”, và họ nghĩ rằng, sẽ không còn gặp lại chúng tôi nữa. “Bần cùng sinh đạo tặc”, buồn cho ” thế thái nhân tình” trong cuộc sống khó khăn của xã hội mới, đã tạo cho họ những tư tưởng và hành động bất nhân như thế. Có tiếng ai la lớn trong khoang:

– Sao nước vô nhiều qúa vậy ? mở máy bơm lên.

Có tiếng ông Nhất vang lên :

– Mở rồi, chở ” khẳm ” nước dô chút đỉnh mà, lo chi.
Tiếng máy vẫn nổ cọc cọc vang động dòn tan, đẩy chiêc thuyền đi tới, trong bóng đêm mênh mông, mặt nước tương đối bình lặng, biển nước bao la không có một điểm mốc nên thấy như nó vẫn đứng nguyên một chỗ, trong khoang lặng im trong sự căng thẳng hồi hộp, tôi lo lắng nhìn về phía bờ xa sau lưng, ngọn hải đăng vẫn còn đấy, – Trời ơi, đi lâu qúa rồi mà vẫn chưa khuất ngọn hải đăng, điệu này, chắc họ nhìn thấy mình qúa. Tôi nhủ thầm, bỗng nghe ” Xầm ” một cái, chiếc thuyền nghiêng về một bên, bất động, ông Nhất la lên :

– Mắc cồn rồi !!!

Tiếng máy rú lên, hạ xuống, rồi lại rú lên, chiếc thuyền không nhúc nhích, ông Nhất nói lớn.

– Bà con làm ơn xuống bớt đi, bị mắc cạn rồi, xuống cho nhẹ bớt… xuống đẩy phụ thuyền lui lại một chút, mấy người to con đó, xuống đi, lẹ lẹ một chút đi, làm ơn mà !!!

Chẳng một ai dám xuống cả, giữa đêm đen bảo nhẩy xuống giữa biển mênh mông, làm sao có đủ can đảm. Tôi lại không biết bơi, không dám nhẩy xuống nước, thì làm sao dám hô hào kêu gọi mọi người, đang bận rộn tìm phương cách gỉải cứu chiếc thuyền ra khỏi chỗ này, nên không có hề ý tưởng thất vọng bi quan gì cả. Tiếng ông Nhất lại la lên :

– Bà con giúp một tay đi chớ, tụi nó ra bắt cả lũ bây giờ, lẹ lên.

Vài người thanh niên làu bàu văng tục nhẩy xuống nước, chắc họ không biết bơi, có người leo qua mạn thuyền trượt xuống nước, tôi hỏi :

– Nước có sâu không vậy ?
– Tới đây nè !

Người thanh niên khoác tay, quơ ngang cần cổ, tôi lần theo mạn thuyền cũng trèo xuống, thuyền chạy trên một bãi cồn cát ngay giữa cửa biển trong khi mực nước xuống thấp và chiếc thuyền chở nặng với sức trớn phóng nhanh đã đâm sâu vào giữa vùng cát nên bị mắc cạn, chúng tôi hè nhau đẩy tới, đẩy lui, tiếng máy rú lên, nhưng chiếc thuyền chỉ lắc qua lắc lại.

– Xuống hết đi bà con, nặng qúa, giúp một tay đi bà con ơi !!!

Thêm được một vài người nữa nhẩy xuống, người đẩy, người dùng chân moi cát, người lắc, làm được chuyện gì thì cứ làm. Khoảng 15 phút sau chiếc thuyền không còn nhúc nhích được nữa, nó lệch nghiêng qua một bên, lặng im như đài tưởng niệm được xây cứng bằng xi măng, mức nước xuống tới ngực, tiếng máy thuyền chậm dần hậm hực rồi tắt lịm. Tôi hỏi như một phản xạ :
– Sao vậy ?
Ông Nhất nói :
– Chạy gì nổi, chờ nước lên rồi đẩy ra chạy tiếp.

Niềm lo lắng và thất vọng bao trùm lên mọi người, tiếng lẩm bẩm, tiếng chửi, tiếng than và tiếng cầu kinh nổi rân rang trên thuyền. Mọi người đều chờ đợi, đợi con nước mau mau về tới, đợi tầu tuần tra ra cứu? hay họ ra bắt? sao cũng được, không thể làm khác hơn được, niềm lo lắng và thất vọng kéo dài từng giây phút khiến sự chấp nhận số phận đã an bài. Tôi miên man nghĩ đến những sự việc đen tối sẽ sẩy ra, tương lai rồi sẽ ra sao ? Ở nhà chắc đang mừng rỡ khi nghe ông Đông về báo tin tất cả đã ra cửa biển an toàn, hay đã được tầu buôn ngoại quốc vớt lên rồi. Bầu trời vẫn tối đen, có một chút mờ ảo của ánh trăng đã bị mây mù và hơi nước của biển che lấp không nhìn rõ những sự vật xung quanh, bộ quần áo trên người ướt sũng nhưng không thấy lạnh , vì nhiệt độ nóng bức hay bởi sự chán nản khiến chẳng ai quan tâm ? Lậy trời đừng để tôi bị bắt, nếu bị vào tù chắc chắn vợ và con tôi khổ lắm, họ đang lao đao sống ẩn núp mọi nơi, việc học của các con bị gián đoạn,

Ồ mà không sao, đâu cần đến trường học những thứ đó, ráng chịu khó một thời gian rồi sẽ được học những điều giá trị hơn, sống một cuộc sống đúng nghĩa hơn. Tội nghiệp vợ tôi phải vất vả với các con nơi vùng đất xa lạ với miếng cơm giấc ngủ hằng ngày, những người thân thích nay đã không còn ở đó nữa, họ đã đi vùng kinh tế mới, vượt biên hay trong lao tù cả rồi, bằng hữu thì phần lớn đã ra nước ngoài, phần còn lại cũng lao đao vất vả không kém gì mình, chắc rồi lại phải dắt díu nhau trở về nhà mà thôi, nơi còn có cha mẹ anh em đang hy vọng cầu mong con mình đã tìm được một chỗ an thân, trở về với đắng cay, về với khổ nhục lưu đầy, về bên những con người cùng mầu da, cùng tiếng nói nhưng luôn tìm cách đầy đọa trấn áp nhau, có còn lối nào thoát thân nữa không? Nếu như giờ này vợ con tôi cũng có mặt trên chiếc thuyền này thì sẽ ra sao ? cả nhà sẽ vào chung trong một nhà tù? lại càng đau lòng và ân hận hơn.

Tôi thở một hơi dài an ủi may chỉ có 1 mình, định mệnh đã xếp đặt tôi không thể tham lam, không thể thất hứa những hẹn ước mà ngay ban đầu đã dành cho nhau, cả nhà đều đặt ưu tiên cho tôi lên hàng đầu, phải bằng mọi cách vượt thoát càng nhanh càng tốt, phần còn lại sẽ giải quyết sau, hoàn cảnh chỉ có thế !!!

Ngồi chờ con nước lên, chờ niềm hy vọng và hạnh phúc mong manh sẽ tới. Có tiếng nước vỗ vào mạn thuyền, lúc đầu nhè nhẹ rồi mạnh dần, ông Nhất gọi lớn :

– Bà con phụ đẩy thuyền một chút đi, nước lên rồi.

Rồi kêu người quay bánh trớn cho nổ máy, vài người thanh niên nhẩy xuống, đẩy qua đẩy lại, chiếc thuyền nhúc nhích có vẻ nhẹ hơn đêm qua, rồi bất chợt chiếc ghe bật qua nằm thẳng, mấy người thanh niên vội leo nhanh lên thuyền khi nghe tiếng máy rú lên, chiếc thuyền lúc lắc vài cái và trôi tuột ra phía sau, mọi người vui mừng reo lên chuyện trò nhốn nháo, ông Nhất quay mũi thuyền tránh bãi cồn và tống ga nhắm hướng chân trời phóng tới…, phía xa trước mặt một vẫng sáng mờ lạt đang tỏ dần, báo hiệu bình minh sắp ló dạng, cái lưỡi ánh sáng của ngọn hải đăng vẫn gắng gượng quét trên đầu chúng tôi, và thật hân hoan, tôi ưỡn ngực hít sâu một luồng gió mát đầy phổi, thật sảng khóai, nhẹ nhõm…

Đợt thủy triều kéo về đất liền, tạo thành những lằn nước cuộn tròn lăn về phía chúng tôi, thuyền bơi theo dòng ngược ra khơi như những con cá hồi vượt dòng thác trở về nơi ra đời, chống chỏi mệt mỏi, mỗi lần thuyền cưỡi lên lằn sóng rướn mình qua bên kia, nó dập mũi xuống múc lên một mẻ đầy nước biển, cũng may, mặt boong thuyền đã được đóng kín và cửa vào khoang thuyền cũng có bệ cao ngăn chặn nước tràn vào. Bầu trời mỗi lúc một tỏ hơn, tôi đứng trước cửa khoang, nhìn ra ngoài mặt biển, chung quanh vẫn chỉ một mầu nước thâm đen, không một bóng thuyền nào khác ngoài tiếng động cơ máy nổ rầm rộ và tiếng ói mửa bên trong lại vang lên. Đây là lần đầu tiên tôi được đi trong một chiếc thuyền nhỏ trên biển, tận hưởng những lằn sóng ngoạn mục nhào lên lặn xuống, vậy mà tôi lại không bị say sóng không một mảy may khó chịu, ngược lại, còn có phần thích thú là đằng khác, không hề nghĩ rằng sự nguy hiểm có thể xuất hiện bất cứ lúc nào.

Niềm lo lắng đêm qua vừa tan biến, niềm vui mới chưa ngập lòng thì bỗng :

– Sao nước vô nhiều vậy nè bà con ơi, tát nước, tát nước, lẹ lên, lẹ lên.

Nhiều tiếng hốt hoảng la lên, tôi hoảng hồn nhìn vào khoang thuyền, nuớc ngập làm ướt chỗ ngồi, nhìn qua bệ gắn máy tầu, phía dưới nước dâng ngang lườn máy, chiếc motor bơm nước cũng nằm phía dưới đó, người ta nhốn nháo la ó loạn xạ :

– Tát nước, mở máy bơm nước !! bể thuyền rồi, máy bơm không chạy !!
– Máy đang bơm mà ? bơm tay nữa đi, cái bơm gắn trên tường kia kìa…

Cái máy bơm bằng điện chắc bi hư rồi, nên không làm việc được, vài người thay nhau đẩy cần bơm tay qua lại, nước phun ra ngoài, nhưng được một lúc thì ai cũng nản vì mệt mỏi, chiếc thuyền chở nặng chìm xuống mặt nước sâu hơn, và mỗI lần cưỡi sóng ngoi lên, là một lần múc đầy nước trên mui thuyền, chả khác gì con cá voi mỗi lần trồi lên là phun nước phè phè ra ngoài, đồ ói mửa như mật xanh mật vàng, lênh láng bồng bềnh trong khoang thuyền bám vào quần áo mọi người đang ngồi thu gối nước ngập ngang mông, mùi tanh hôi nồng nặc tỏa khắp căn phòng như cái hầm gỗ, mọi người cùng hít thở cái không khí vẩn đục đó, người không say sóng cũng bị ói mửa theo là vì vậy.
Bình thường nhìn qua khung cửa nhỏ trên vách thấy cảnh vật phía dưới thật xa, nhưng giờ thì thấy nước biển lấp ló phía ngoài, tựa hồ muốn trào vào trong, trong thuyền còn có một cái gầu múc nước, giờ chuyền nhau múc nước tạt ra ngoài cửa sổ, chị Nguyệt ngồi tựa lưng vào cửa sổ nhỏ bên trái, múc từng ca nước hắt ra ngoài, miệng túm tím như đang ăn trầu, khuôn mặt thản nhiên không vướng chút âu lo, bởi chị đã quen và từng sống trên sông nước lâu năm. Lê Văn Thành người có nước da ngâm đen ngồi sau lưng cửa khoang, nụ cười luôn nở trên môi, anh dùng một can nhựa 20 lít đã được cắt rộng miệng và cũng thản nhiên múc nước trong khoang đổ ra ngoài, anh nói nói cười cười kể chuyện luôn miệng nhưng tôi không nghe rõ được điều gì, một hình ảnh thể hiện tâm tánh của con người bình tĩnh, thản nhiên đối phó trước sự hiểm nguy trước mặt, thật dễ cảm mến, cũng kể từ lúc đó tôi quen biết anh.
Không ai biết được nước từ đâu vào, mọi người lần mò tìm kiếm khe hở trong lòng thuyền, từ chỗ những mảnh ván ghép vào nhau được trét kín bằng giây gai trộn Chai keo, cho đến những lỗ bắt đinh ốc dưới đáy thuyền, cũng không thấy mạch nước phun lên, lạ qúa ? chắc chắn phải có chứ !! vì tát hoài mà nước mỗi lúc một nhiều hơn. Có người đề nghị :

– Vứt đồ không cần thiết cho nhẹ bớt đi.
– Vứt bớt mấy can dầu dư kia đi.

Thật là điên, vứt dầu đi thì làm sao vượt biển được nữa, nhưng đã qúa trễ, người ta quăng tất cả những gì có thể quăng được xuống biển khi vừa nghe xong lời đề nghị. Như một quyết định có sẵn, như một mệnh lệnh vừa được ban ra, kể cả mấy can dầu lẻ nằm ngang phía sau mạn thuyền, không ai kịp ngăn cản cũng đã bồng bềnh nhấp nhô trên sóng nước trôi xa.

Một người lớn tuổi ôn tồn nói :
– Bà con thấy rồi đấy, máy bơm hư rồi và nước vô nhiều qúa, nếu tiếp tục đi nữa chắc chìm thuyền luôn không ai có sức tát nổi, mấy can dầu cũng bị vứt xuống biển rồi, làm sao đi tới nơi, bà con muốn tiếp tục đi nữa hay quay về ?
Nghe tới đây nhiều người la lên :
– Thôi dzề đi bà con ơi !!!

Tiếng la ó, tiếng chửi thề, tiếng than khóc vang lên, nhưng mọi người dường như hài lòng với đề nghị này, họ đã nhận thấy sự nguy hiểm đang đến gần, việc quay trở lại bây giờ là đúng lúc, vì thuyền không ở xa bờ là bao nhiêu. Trong trường hợp này bắt buộc ông Nhất phải chấp nhận, quay tay lái đánh một vòng ngược lại. Tôi buồn rầu cúi mặt nghĩ đến chặng đường gian nan sắp tới mà lòng đầy thất vọng, mắt chằm chằm nhìn đôi bàn tay của anh Thành vẫn nhịp nhàng múc nước trong khoang đổ ra ngoài, như một lời cảnh báo, cùng là một lời vỗ về an ủi. Thuyền nhắm thẳng ngọn hải đăng trở về, ánh vừng hồng ngại ngùng tỏa sáng sau lưng…

Cửa Thạnh An, nơi khởi hành đêm qua, giờ chẳng biết đâu nữa, từ xa nhìn vào chỉ thấy một bờ giống nhau, cứ chạy thẳng vào đấy rồi tìm nhánh sông chui vào, thâp thoáng 2 bên có bóng thuyền chạy ra biển, chắc tầu đánh cá, chẳng ai để ý đến chúng tôi cả, và cũng không thấy bóng dáng tầu tuần duyên.

Thấy được nhánh sông, ông Nhất tiến sâu vào đấy, chạy được một lúc, có một bờ đất rộng nhiều cây lớn mọc, phía xa có bóng nhà dân, ông Nhất cho thuyền ghé xát vào bờ rồi la to :
– Chạy đi bà con, chạy lẹ đi kẻo bị bắt đó.

Thế là mọi người vội vã ùa nhau nhẩy lên bờ, tiếng la của trẻ con, tiếng khóc của phụ nữ, tiếng than của đàn ông tạo thành một âm thanh ồn ào hỗn độn, mọi người tủa ra mọi phía, mạnh ai người đó chạy. Ông Nhất nhìn tôi ngầm hỏi ý, rồi quay lưng định nhẩy luôn lên bờ, tôi gọi dật lại :

– Bác Nhất ! đừng đi bác ơi ! ai lái thuyền về bây giờ đây ?
– Đem thuyền về bây giờ là bị bắt cho coi, thua rồi thì bỏ tiếc chi nữa, anh cũng chạy mau đi ?
– Bác làm ơn giúp một phen cho chót đi, lên bờ chưa chắc là thoát, tôi còn giữ giấy tờ ghe chở hàng, ráng chạy về đi, bỏ mất lấy gì đi được nữa.

Tôi năn nỉ một tràng, vừa nghe, ông Nhất vừa khom mình luồn vô buồng lái, mở máy chạy tiếp. Coi vậy mới biết ông ta là người tốt, không có ý phản bội, cũng còn có trách nhiệm và giữ lời hứa, hay tại ông ta không còn lối nào thoát, trên ghe vẫn an toàn hơn trên đất chứ ?, kinh nghiệm lần trước cho ông thấy lớ ngớ trên đất lạ, bị phát hiện vượt biên là bị bắt ngay, phải có vài chỉ vàng trong túi để hối lộ chính quyền địa phương kịp thời.

Mọi dấu tích của sự vượt biên phải được phi tang lập tức, tôi chui vào khoang thuyền kiểm soát, một cảnh hỗn độn bừa bãi bầy ra trước mắt như một bãi rác sau cuộc ăn chơi vui thú, nào giấy báo gói xôi, nào lá chuối lá dừa gói bánh, nào bao nylon gói rác, gói đồ ói mửa, quần áo dơ bẩn bám đầy dầu mỡ, dây dợ, chai lọ…tất cả lềnh bềnh dạt qua dạt lại trong khoang thuyền, mùi tanh hôi của nôn mửa vẫn còn đó làm tôi lợm giọng, khó thở. Dang rộng tay, tôi vội vã gom tất cả những thứ đó quăng nhanh ra sông, phải làm sạch sẽ càng nhanh càng tốt, thời gian thật cần thiết, lật mấy tấm ván lên để kiểm soát phần phía dưới, ở đó cũng bừa bãi chẳng khác gì phía trên. Trời ơi ! quần áo dầy dép bao bì rác rưới ở đâu mà nhiều thế ?

Ngồi chật ních bó gối một chỗ trong khoang, cho nên những thứ gì không cần dùng nữa, tiện nhất là nhét xuống phía dưới, nhét vô kẽ thuyền, hoặc chỗ dựa lưng là xong. Đầu ống tube của máy bơm nước được bao chung quanh bằng một tấm lưới sắt dùng để ngăn lọc đất cát hay rác vụn, giờ bị bít kín bởi giấy báo và bao nylon, thảm nào máy không thể bơm nước ra ngoài, may quá bơm chưa bị hư, tôi gỡ bỏ tất cả những rác bẩn đó và nước dược bơm ra ào ào ngay lập tức, chốc lát sau, trong khoang cạn khô và chẳng tìm đâu ra một chỗ hở hay vết nứt khiến nước ngập tràn như thế, tôi nói với ông Nhất :

– Kỳ qúa, không biết nước vô chỗ nào ? bây giờ thì chẳng còn giọt nước nào cả !!!

Sau này, khi nâng tầu lên bờ sửa chữa mới biết rằng, cái ống tube được gắn kín trong hầm phía sau, làm trục đõ cho cần lái thuyền qúa ngắn, bình thường thì không có chuyện gì xẩy ra, nhưng khi chở qúa nặng, thuyền chìm sâu xuống nước, sức đẩy của nước bị tống lên theo lõi ống tube phun vào trong, thuyền càng chạy nhanh, đuôi thuyền càng rị xuống thấp, sức ép của nước phun vào càng nhanh.

Thuyền đi lạc lối loanh quanh, xuyên qua nhiều lạch nhỏ, băng qua bao nhánh lớn, thỉnh thoảng gặp thuyền qua lại, ông Nhất hỏi thăm đường về SàiGòn, lần này thuyền chỉ đi vào ban ngày, ban đêm tìm chỗ neo thuyền ngủ lại, đường về ít bị để ý hơn lúc đi.

Thế nhưng vào một buổi chiều khoảng 4-5 giờ, trên một bờ đất lở, có một đám người đứng gìm súng hô gào, gọi vẫy chúng tôi cặp vào bờ. Cột thuyền vào hàng cọc đã neo sẵn vài chiếc thuyền nơi đó, tôi và ông Nhất cùng leo lên, họ hỏi thẻ Chứng Minh Nhân Dân cùng Giấy Thông Hành, họ chỉ chúng tôi ngồi chung với đám người đang ủ rũ trên cây gỗ mục nằm sát ven hàng rào, cạnh hàng cây bụi tre. Mọi người ngồi đấy đã hơn nửa tiếng đồng hồ mà chẳng nghe gọi đến tên, chẳng nghe chất vấn hay tra khảo chi cả, một nguời trong “trạm kiểm soát ” lững thững ra mé sông, nhẩy lên từng chiếc ghe – thuyền, nhìn ngó quanh quất, rồi lại trở lên.

Một ông lớn tuổi ngồi trong đám lên tiếng :

– Thôi ! góp chút đỉnh caphê thuốc lá cho nó đi, có tiền không ?

Thiệt chán qúa ! ” gia tài ” tôi chỉ còn độc nhất 20 đồng trong túi, còn phải mua đồ ăn dọc đường nữa chứ ! ông Nhất chỉ còn khoảng 15 đồng ( lương nhân viên lúc này khoảng 27 đông VN một tháng ), tôi trao 10 đồng cho người đàn ông đại diện cho cả nhóm, số còn lại dấu đi, ông Nhất cũng nộp 10 đồng, gom góp chẳng biết được bao nhiêu, chặp sau ông ta từ trong văn phòng ra nói :

– Chưa đủ, nộp thêm nữa, họ làm khó dễ qúa bà con.

Lại một vòng ” lạc quyên ” nữa, tôi đành móc hết cho xong, kẻo lỡ họ ra lục soát thấy còn dấu tiền thì…không biết nói sao đây ?

Gió chiều lồng lộng thổi, bầu trời ngả mầu xám xịt như cơn giông đang kéo đến, mặt sông gợn sóng bồng bềnh dập vào mạn thuyền, những chiếc thuyền nhẹ tâng lúc lắc, uốn éo theo làn sóng nước va dập vào nhau, gió cuộn hơi nước mát lạnh thổi ập đến chúng tôi, chưa lúc nào tôi thấy lạnh như lúc này, có lẽ vì đói, mệt và chán nản, chúng tôi phải ngồi chịu trận ở đó cả tiếng nữa, không biết lý do tại sao lại phải ngồi đây ? (cũng may là không có lý do ). Cuối cùng thì chúng tôi cũng nhận lại được giấy tờ, lục đục kéo nhau trở về thuyền. Hầu như tất cả những chiếc thuyền này đều đi chở thuê, nhưng hôm nay đều trống rỗng, không chở hàng hóa trên thuyền, cho nên bị ” phạt ” ngồi hơi lâu, bình thường nếu có hàng chuyên chở thì phải tự động vào nộp ” mãi lộ ” sẽ được đi ngay.

Đường trở về bao giờ cũng thấy ngắn hơn, tránh né tất cả những gì có thể đem lại phiền phức, lần mò hỏi thăm đường đi thường xuyên, nên chúng tôi đã về được bến Sài Gòn dễ dàng và nhanh hơn dự tính, nắp khoang thuyền cũng như mái che buồng lái, vẫn phủ mờ một lớp muối mỏng trắng xóa dưới ánh mặt trời, mặc dù thỉnh thoảng tôi đã phải múc nước sông lên dội cho muối trôi đi, cột ống khói và những đinh-ôc bằng kim loại, đều bị hoen rỉ đổ mầu vàng nâu vì muối ăn mòn. Đến bến Hàm Tử, chạy ngay về chỗ cũ, nơi ông chủ nhà đã giao kết chấp chứa cho neo thuyền sau nhà ông, đúng vào những ngày cuối năm, mọi người đang sửa soạn đón Tết Tân Dậu 1981. Chúng tôi cột thuyền xong, bước xuyên qua phòng khách băng ra đường, đón xe ôm về nhà, để lại sự kinh ngạc của ông chủ nhà, đang ngơ ngác nhìn chiếc thuyền còn phủ mờ một làn muối trắng, dấu tích của cuộc vượt biên thất bại vừa qua.

Và cũng kể từ hôm đó, tôi không còn dịp gặp lại ông Nhất nữa.

Nguyễn Quyết Thắng

Image may contain: ocean and water
Image may contain: ocean, water, outdoor and nature
 
 

Giáo sư Nguyễn Ngọc Linh, người xây dựng ngôi nhà báo chí VN

Từ Thức
(Cựu Thông tín viên VTX tại Hòa đàm Ba Lê)

Giáo sư Nguyễn Ngọc Linh vừa qua đời, hưởng thọ 88 tuổi, nột năm sau ngày bào đệ Nguyễn Ngọc Bích quy tiên. Hai ông là những khuôn mặt tích cực của sinh hoạt báo chí và văn hóa, giáo dục, ở miền Nam trước 75 và sau đó, ở hải ngoại.

Ông Nguyễn Ngọc Linh là người đã mang lại tính chuyên nghiệp cho báo chí ở miền Nam, và cũng là người đặt nền tảng cho báo chí  “quốc gia” ở hải ngoại.

blank

CHUYÊN NGHIỆP HÓA NGHỀ LÀM BÁO

Trong chức vụ Tổng giám đốc Việt Tấn Xã (từ 1965), ông mở khóa huấn luyện báo chí đầu tiên ở Sai Gòn, với 30 khoá sinh trẻ, trên dưới 20 tuổi. Việt Tấn Xã  (VTX) là cơ quan truyền thông quan trọng hàng đầu của Việt Nam Cộng hòa, một quốc gia đang lâm chiến.

VTX cung cấp tin tức, phóng sự cho báo chí Việt Nam và ngoại quốc, với các ấn bản Việt ngữ, Pháp và Anh Ngữ.

Đó là giai đọan đầu tiên của lịch sử báo chí miền Nam, ký giả, phóng viên được đào tạo  để nắm vững những kỹ thuật viết tin, phóng sự theo những tiêu chuẩn của báo chí Quốc tế.

Trước đó, người ta làm báo theo kiểu rất tài tử, rất…Việt nam. Anh nào có năng khiếu hay trình độ văn hóa khả quan thì viết lách gọn ghẽ, anh nào kém hơn vẫn viết lách; viết lách theo kiểu… bình dân, lôi thôi, dài dòng, với một mớ kiến thức chuyên nghiệp rất lơ mơ.

Với hy vọng ‘’nghề dạy nghề ‘’, nhưng khi cái căn bản nó không vững, kinh nghiệm nhiều khi chỉ là cái hại. Ở một nước tân tiến, cái gì cũng phải học, từ ông kỹ sư cho tới ông sửa ống cống, ông thợ hớt tóc, anh thợ hồ, chị bán cá.

Ngược lại, ở một nước chậm tiến, không cần phương pháp. Nếu anh thấy mình muốn nấu phở, nếu bà thấy mình có khiếu làm bánh cuốn, cứ khơi khơi mở tiệm. Báo chí cũng vậy. Một sớm, một chiều, cao hứng, hay không biết làm nghề ngỗng gì, ông có thể trở thành ký giả. Chỉ cần biết đọc, biết viết. Đúng hơn, chỉ cần biết đọc, còn viết,  trong nhiều trường hợp, phải xét lạị .

Môi trường báo chí hỗn loạn như xã hội VN; Bên cạnh những nhà báo khả kính-và khả tín-có kiến thức, có lương tâm nghề nghiệp, coi nghề báo như một sứ mạng, cũng có những ông trình độ văn hóa rất mơ hồ, khả năng chuyên nghiệp rất đại khái. Cái khiếm khuyết về khả năng còn tai hại hơn nữa nếu nó đi đôi với sự vắng bóng lương tâm nghề nghiệp.

Thời  ấy, không thiếu những người coi nghề viết báo là một cơ hội để làm ăn với những người có quyền thế, có máu mặt. Đâm thuê, chém mướn bằng ngòi bút nó tệ hại hơn cả đâm thuê, chém mướn bằng dao, búa. Cái bệ rạc văn hóa nó tệ hại và bệ rạc hơn cái bệ rạc xã hội.

Khóa huấn luyện báo chí VTX  của Giáo sư, Nhà báo Nguyễn Ngọc Linh dạy viết tin, viết ký sự, làm phóng sự, bình luận thời sự, những kỹ thuật chuyên môn tối thiểu không thể thiếu của người làm báo. Khóa học cũng đặt vấn đề lương tâm, trách nhiệm của người cầm bút.

Cố nhiên, không phải qua một khoá huấn luyện, bạn trở thành một nhà báo xứng đáng với tên gọi, nhưng đó là điều kiện tối thiểu để hành nghề, điều kiện tối thiểu để đưa báo chí VN ra khỏi tình trạng tiểu công nghệ. Ra khỏi tình trạng lạc hậu của một nước chậm tiến. Nó cho bạn một gói hành lý tối cần để nếu bạn có ý chí học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu không ngừng, để, một ngày đẹp trời nào đó, trở thành một ngòi bút chuyên nghiệp, có thể trình làng một bài báo đáng gọi là bài báo.

Trong số 30 người tốt nghiệp khoá báo chí, một số làm việc cho VTX, một số cộng tác với các cơ quan báo chí khác. Một nhóm sáng lập ‘’ Việt Nam Ký Sự ‘’, cung cấp phóng sự cho báo chí miền Nam.

Khi nhận chức giám đốc Đài Phát Thanh, Đài Truyền Hình (1964), Ông Linh cũng không quên việc huấn luyện để đào tạo những người chuyên nghiệp. Đó là một bước đầu cho những phân khoa báo chí sau này ở vài Đại học, như Đại Học Đà lạt. Bước tiến ấy bị chận lại với cái đại họa 75 chụp xuống miền Nam.

Ngày nay, báo chí ‘’ lề phải ‘’ trong nước chỉ là công cụ của một chế độ độc tài do đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Ở đó không có báo chí, chỉ có những tờ truyền đơn.

Nhân dịp, xin ngả mũ chào những nhà báo độc lập, đang sẵn sàng hy sinh để nói lên tiếng nói của sự thực, của lẽ phải.

Bên cạnh sinh hoạt trong ngành truyền thông, ông Nguyễn Ngọc Linh còn tích cực trên lãnh vực giáo dục. Ông cùng bà Linh mở trường dạy Anh ngữ, cùng bào đệ Nguyễn Ngọc Bích và bà Bích mở Đại Học Cửu Long. Muốn cải tiến đất nước, không có con đường nào khẩn cấp hơn là phát triển giáo dục. Ông Linh là người thấy gần và nhìn xa. Chỉ thấy gần là người thiển cận. Chỉ nhìn xa là người sống ở trên mây.

ĐẶT NỀN TẢNG CHO BÁO CHÍ VIỆT NGỮ HẢI NGOẠI.

Sau 75, báo chí VN mở ra như nấm ở nước ngoài, đặc biệt tại Hoa Kỳ, nơi có dông người Việt tị nạn sinh sống nhiều nhất trên Thế giới. Tình trạng báo chí hải ngoại đã trải qua nhiều giai đoạn, từ giai đoạn khó khăn của những ngày chân ướt, chân ráo, tới một thời trăm hoa đua nở, và ngày nay, một giai đoạn đầy thử thách. Báo chí Việt ngữ đang sống bi quan, trong cái bi quan chung của báo chí thế giới. Số độc giả bớt đi, vì nhiều người cao niên, đọc sách báo Việt ngữ nhiều, dần dần ra đi. Những người trẻ trình độ tiếng Việt kém, có nhiều hình thức giải trí thích hợp hơn, không thấy có nhu cầu đọc sách báo Việt ngữ. Đó là một vấn đề rất đáng quan tâm.

Báo chí, hay những sinh hoạt văn hóa, là chuyện tối cần cho một công đồng. Một cái giây nối những thành phần hỗn tạp của cộng đồng lại với nhau, là cái gạch nối giữa người Việt ly hương trên khắp thế giới. Khi không còn sinh hoạt báo chí, sinh hoạt văn hóa, cộng đồng sẽ trở thành một cộng đồng chết, không cá tính, không tâm hồn . Cũng như một cá nhân không có văn hóa chỉ là một xác chết biết đi. Cố nhiên, đó là nói về báo chí theo đúng nghĩa của nó. Tạm bỏ qua những tờ báo lá cải, chỉ chuyên tung tin dựt ngân, mạ lỵ, chụp mũ, điển hình của một thời đại nhiễu nhương.

Ít người biết Ông NNL là người  đặt viên đá đầu tiên cho báo chí có khuynh hướng quốc gia ở hải ngoại. Trước đây, ở hải ngoại, nhất là ở Pháp, báo chí Việt ngữ rất lèo tèo, hầu hết đều thiên Cộng, hoặc bị CS giựt dây.

Ông Linh phụ trách báo chí, truyền thông bên cạnh Phái Đoàn VNCH tại cuộc hội đàm Paris về VN (1968). Ông thấy cần một tờ báo Việt Ngữ, loan tin và trình bầy vấn đề VN với quan điểm của VNCH, chống lại luận điệu tuyên truyền của tờ Đoàn Kết hay những tờ báo thiên Cộng, phát hành ở Paris hay các nước Âu Châu. Tuần báo TIN QUÊ HƯƠNG ra đời ít ngày sau khi cuộc hội đàm bắt đầu, phát hành đều đặn, cho tới ngày 30 tháng Tư, 75. Báo gởi tới tận nhà cho các độc giả hải ngoại ở khắp nơi. Lần đầu tiên, người Việt sống ở nước ngoài từ lâu, được đọc tin tức về VN , thấy miền Nam có khuôn mặt khác hẳn với hình ảnh do báo chí CS tô vẽ.

Trước 75, khuynh hướng thiên tả rất mạnh ở Âu Châu, nhất là ở Pháp. Trước Tin Quê Hương, đại đa số báo chí Việt Ngữ đều thiên Cộng, từ những tờ báo dành cho giới bình dân, thợ thuyền, cựu quân nhân trong quân đội Pháp, sống xa quê hương từ lâu, hoàn toàn bị đàu độc bởi tuyên truyền CS.’’ Trí thức ‘’, nghiã là giới sinh viên, khoa bảng cũng không hơn gì, bị ảnh hưởng của báo chí thiên tả Pháp, đứng đầu là tờ Le Monde. Le Monde, cẩm nang của trí thức, sinh viên du học, khi loan tin Khmer Đỏ tiến về thành phố, đã viết một cách khơi khơi là dân chúng hồ hởi đứng hai bên đường chào đón quên giải phóng.

Ký giả của Le Monde chỉ nói tới cái tốt của CS và cái xấu của VNCH . Ở thời điểm đó, là trí thức, nghĩa là thiên Cộng, thiên tả. Người ta nhắm mắt trước sự thực. Được hỏi tại sao yên lặng trước những tội ác của Goulag, Jean Paul Sartre trả lời : ‘’ Il ne faut pas désespérer Billancourt‘’ (Không nên làm Billancourt tuyệt vọng ‘’.) Boulogne-Billancourt , ở ngoại ô Paris, nơi có trụ sở của hãng xe hơi Renault, được coi là tiêu biểu cho cuộc tranh đấu của thợ thuyền Pháp, giấu sự thực ở Nga để thợ thuyền khỏi thất vọng và tiếp tục tranh đấu cho thiên đường xã hội chủ nghiã. Bất chấp sự thực, vì sự thực không có cách mạng tính, la vérité n’est pas révolutionnaire, như một câu nói nổi tiếng khác. Trong bối cảnh đó, rất nhiều sinh viên miền Nam, du học với học bổng VNCH, nhưng ‘’chống Mỹ cứu nước’’.

LÀN GIÓ NGUYỄN NGỌC LINH

Báo  Tin Quê Hương đã mang một hình ảnh khác, một cái nhìn khác về quê hương, đã hỗ trợ cho những người chống Cộng còn hiếm hoi ở hải ngoại thời ấy. Nhiều độc giả lần đầu nghe tới lúa thần nông, chính sách chiêu hồi, thảm sát Mậu Thân, tai họa kinh hoàng của Cải Cách điền địa. Nhiều người, lần đầu tiên, khám phá Võ Phiến, Nguyễn Mạnh Côn, Tô Thùy Yên…

Đó là một tiếng nói khác với gịọng lưỡi CS, ở một thời chưa có Internet, tuyên truyền là độc quyền của CS. Ngày nay, chống Cộng là chuyện đương nhiên trên báo chí Việt Nam hải ngoại.

Năm 1968, đánh dấu thảm họa Cộng Sản bao phủ Tết Mậu Thân ở miền Nam, làng báo Việt Nam đã đón nhận một luồng gío mới đến từ một nhà báo đầy sáng kiến, một người nắm vững kỹ thuật truyền thông Quốc tế  hiếm hoi ở VN, Ông Nguyễn Ngọc Linh.

Người Việt ta có thói quen trọng nể những người có bằng cấp, kể cả những tay khoa bảng, ngoài việc học gạo lấy bằng, không có khả năng gì, không làm gì ra hồn, trói gà không chặt và cũng chẳng thử vén tay trói gà, vì lười và vô trách nhiệm.
Nhiều người trong chúng ta quên rằng đất nước muốn tiến bộ, phải có những ngưòi nhìn xa, trông rộng, có sáng kiến, và sẵn sàng thực hiện những sáng kiến đó, dù nó rất mới với thời đại. Những người có khả năng và thiện chí thường muốn truyền đạt kiến thức để góp một viên gạch , xây dựng một ngôi nhà chung cho đất nước.

Những người như vậy, trong xã hội VN không đông đảo như người ta tưởng. Ông Nguyễn Ngọc Linh là một trong số những nhân vật hiếm hoi đó.-/-

Từ Thức

(Paris)

Tin công giáo

Trong đêm lễ Vọng Phục Sinh năm nay, thứ bảy 15-04-2017, Giáo phận Houston-Gaveston đã làm lễ rửa tội cho khoảng 1600 người lớn gia nhập đạo công giáo.

Hình ảnh 38 anh chị em nhận bí tích rửa tội và thêm sức trong đêm Vọng Phục sinh 15 tháng 04 năm 2017 tại Giáo xứ  Đức Ki Tô Ngôi Lời Nhập Thể.

Và chụp với Ban Điều hợp.

Xin hãy công bằng với nước Mỹ


Minh họa. Ảnh: VOA/Lam Thủy

Minh họa. Ảnh: VOA/Lam Thủy

Nếu định nghĩa “xâm lược” là cướp đoạt chủ quyền bằng vũ lực, quyền hành, thì không thể xem Hoa Kỳ là xâm lược như giọng điệu tuyên truyền của Hà Nội để kích động thanh niên miền Bắc, để Hồ Chí Minh có thể hoàn thành sứ mạng của một cán bộ Cộng Sản quốc tế, nhuộm đỏ toàn quốc Việt Nam, dưới danh nghĩa được gọi là “giải phóng dân tộc.”

Sau khi Hoa Kỳ đổ quân vào Việt Nam, giúp miền Nam chống lại sức tấn công hung hãn của Bắc Việt với sự yểm trợ tối đa vũ khí và tiền bạc của Liên Xô và Trung Cộng, trong vòng 10 năm, 58 nghìn thanh niên ưu tú của nước Mỹ đã chết hoặc mất tích tại đây. Nước Mỹ đã tốn phí trong cuộc chiến này 738 tỉ đô la, cuộc chiến tốn kém nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Nước Mỹ thu lợi gì trong cuộc chiến xa đất nước mình nửa vòng trái đất này, nếu không nói là một cuộc thua trận, “Không Hòa Bình, Chẳng Danh Dự” (No Peace, No Honor) như nhan đề cuốn sách của giáo sư Larry Berman (The Free Press, 2001.)

Sau khi Hoa Kỳ ký hiệp định Paris, chấp nhận rút quân khỏi miền Nam, năm 1973, Lê Đức Thọ từ chối nhận giải Nobel Hòa Bình cùng với Kissinger để xé hiệp định, tiến công miền Nam, hoàn thành mục tiêu của Bắc Việt, “đánh là đánh cho Trung Quốc, đánh cho Liên Xô.”

Và nước Mỹ đã làm gì cho người dân miền Nam sau ngày 30 tháng Tư khi xe tăng Bắc Việt vào dinh Độc Lập?

Trong những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam, hơn 7.000 người Việt Nam được di tản bằng trực thăng ra khỏi đất nước trong “Chiến Dịch Gió lốc” (Operation Frequent Wind) do Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ thực hiện.

Thời gian tiếp theo sau đó là những thuyền nhân vượt biên ra nước ngoài bằng đường biển, đã được Hoa Kỳ đón nhận nhiều nhất.

Thập niên 1990 bắt đầu các chương trình lớn, ODP, H.O., chương trình con lai…

Theo Sở Di Trú và Nhập Tịch Hoa Kỳ, từ năm 1950 đến 1974, chỉ có 650 người Việt ở Mỹ. Năm 1980 con số này lên đến 261.729 và theo US Census, năm 2015 đã có 1.980.344 người Việt định cư ở Hoa Kỳ.

Người Việt ở Mỹ thành công trong nhiều lãnh vực và mau chóng hội nhập vào xã hội mới. Hàng trăm ngàn chuyên viên kỹ thuật rất có khả năng đã và đang đóng góp tích cực vào quê hương thứ hai. Chính Người Việt tị nạn Cộng Sản – từng bị chính quyền Việt Nam gọi là “bọn ma cô, đĩ điếm chạy theo chân Đế Quốc để kiếm bơ thừa sữa cặn” – đã cứu nền kinh tế của Việt Nam khỏi sụp đổ vào những năm 80. Các “khúc ruột ngàn dặm” này gửi về Việt Nam hàng nhiều tỷ Mỹ Kim mỗi năm.

Nhưng thực sự chúng ta, người Việt trên đất Mỹ từ bao nhiêu năm nay, sinh sôi nảy nở, thành công, sống an bình và hạnh phúc, đã công bằng với nước Mỹ chưa?

Tôi tin rằng, chúng ta chưa công bằng với nước Mỹ, khi vẫn nói “nước Mỹ phản bội,” “Đồng Minh tháo chạy!”, hay những câu nói mỉa mai: “Bạn như thế thì đâu cần đến kẻ thù!,” “nước Mỹ là đất tạm dung”…

Chúng ta đã thật sự xem nước Mỹ là “nhà” của mình chưa?

Một ngôi nhà để chúng ta trú mưa, tránh nắng, có phên dậu để ngăn kẻ xấu xâm nhập làm tổn hại đến gia đình chúng ta, một ngôi nhà có khu vườn có bóng cây che mát cho chúng ta, có trái cây cho chúng ta dùng và những luống hoa đầy hương sắc cho chúng ta thưởng thức. Trong ngôi nhà ấy con cái chúng ta đã được sinh ra và lớn lên, được nuôi dạy và học hành để thành người đôn hậu tử tế, và chúng ta chưa hề nghĩ đến một ngày nào đó chúng ta sẽ từ giã ngôi nhà này để ra đi, tìm một nơi trú ngụ khác.

Có đôi lúc, tôi nghĩ chưa coi đây là ngôi nhà thực sự của chúng ta và không ít người vẫn coi đây là ngôi nhà trọ qua đường, và chúng ta là những người khách trọ vô tình và vô ơn.

Chúng ta đã chối bỏ căn cước tị nạn nhiều lần để về lại nơi chúng ta đã bỏ ra đi, nơi mà chúng ta gọi là tù đày, áp bức, nơi chúng ta không thể nào sống, đã bỏ quê hương, làng mạc và mồ mả ông cha để ra đi.

Chúng ta đã biểu tình lên án nước Mỹ bình thường hóa quan hệ, giao thương, thỏa hiệp với kẻ thù xưa, trong khi chúng ta vẫn nuôi sống, vỗ béo chế độ ấy với số đô la khổng lồ gửi về hàng năm.

Chúng ta đã cứu đói, xây cầu, vá đường gọi là làm từ thiện ở Việt Nam, ví như trong $10 cho Việt Nam, chúng ta đã dành được $1 cho nước Mỹ chưa?

Chúng tôi không nói đến người Việt ở đất nước khác, mà là người Việt trên đất Mỹ hôm nay. Cái đất nước đã được che chở chúng ta đêm qua, chỉ 15 phút khi chúng ta gọi 911 đã có xe cấp cứu đến nhà, cái đất nước mà con cái chúng ta đến trường được dạy dỗ, được che chở, cái đất nước mà trẻ con, người già được săn sóc, không bao giờ thiếu bánh mì, giọt sữa và viên thuốc!

Đã cạn lời, tôi xin trích vài dòng của một tác giả Việt Nam, tên Song Châu trên Facebook, mà tôi tin đây là một người Việt đang sống ở Mỹ, để làm lời kết của bài này: “…Ở đây, mục đích của bài viết này, người viết chỉ mong rằng, không cần phải yêu nước Mỹ, nhưng xin bạn đừng vô tình hay cố ý làm tổn thương nước Mỹ, một đất nước đã cưu mang bạn, giúp cho bạn mọi phương tiện, mọi cơ hội để bạn vươn lên sống cuộc đời tươi đẹp mà nhiều người trong nhiều quốc gia trên thế giới ước ao.”

Tôi cũng xin phụ hoạ thêm: “Xin hãy công bằng với nước Mỹ!”

Tỷ phú từ thiện 8 tỷ USD: Sinh ra tay trắng, cuối đời trắng tay

Tỷ phú từ thiện 8 tỷ USD: Sinh ra tay trắng, cuối đời trắng tay

Tỷ phú Chuck Feeney là người đầu tiên ở Mỹ bỏ ra số tiền lớn là tài sản của mình để làm từ thiện. Ông chính thức rỗng túi, đi ở thuê vào tuổi ngoài 80, nhưng đã hoàn thành khát vọng “cho đi khi còn đang sống”.

“James Bond” của giới từ thiện

Tỷ phú Charles F. Feeney (1931) là một người Mỹ gốc Ireland. Ông thường được gọi với cái tên thân mật Chuck Feeney, thời gian gần đây ông được giới truyền thông Mỹ đặt cho biệt danh “James Bond của giới từ thiện”.

Vị tỷ phú Mỹ này nói thông thạo 2 tiếng Pháp và Nhật, là người xây lên đế chế các cửa hàng miễn thuế. Từ nhỏ, ông đã nghỉ ra đủ mọi cách để kiếm tiền như: gõ cửa từng nhà để bán thiệp Giáng sinh, dọn tuyết trên đường hay nhặt bóng trên sân golf,…

Tỷ phú Charles F. Feeney năm 2007.

Charles F. Feeney bắt đầu sự nghiệp kinh doanh cùng với bạn học cùng đại học từ đầu thập niên 1950: bán rượu không thuế cho thủy thủ Mỹ. Sau đó, ông bán xe hơi cho cho lính Mỹ và lập nên chuỗi cửa hàng miến thuế (DFS) ở các cửa khẩu, với doanh thu đạt 3 tỷ USD/năm.

Vào những năm 60, khi Nhật Bản tổ chức thế vận hội và dỡ bỏ hạn chế du lịch nước ngoài, Chuck Feeney đã chộp cơ hội này để thu tiền của khách du lịch Nhật. Đó là những khoản tiết kiệm khổng lồ người Nhật bỏ ra mua sắm rượu, nước hoa, đồ trang sức miễn thuế,… tại các địa điểm nổi tiếng như Hawaii, Hong Kong, San Francisco, Saipan và Guam…

Mặc dù kiếm được rất nhiều tiền từ rất sớm, với tổng tài sản theo New York Times lên tới 8 tỷ USD, nhưng Chuck Feeney có cuộc sống riêng tư rất bình lặng và đơn giản, không xa hoa, không bao giờ thắt cà-vạt Hermes hay mang giày Gucci. 

New York Times tiết lộ, trong nhiều năm ở New York, bữa trưa của ông không phải ở các nhà hàng sang trọng mà là ở khu nhà Irish Pavillion Tommy Makem trên phố East 57th – nơi ông ăn bánh mì kẹp thịt.

Feeney kín tiếng tới mức, mãi tới 1988, thế giới mới biết đến sự giàu có của ông. Khi đó, lần đầu tiên Forbes ước tính Feeney có khoảng 1,3 tỷ và xếp thứ 31 tại Mỹ. Tuy nhiên, tài sản thực của ông vẫn là một ẩn số, chỉ sau những lần làm từ thiện, thế giới mới biết được.

Công chúng còn kinh ngạc về cuộc sống giản dị và tiết kiệm tới mức tối đa. Ông keo kiệt với bản thân, gia đình nhưng hào phóng với người dưng. Ông ghét sự phung phí, không muốn con cái trở thành con nhà giàu hư hỏng và bắt chúng làm hầu bàn, bồi phòng khách sạn, thu ngân trong các kỳ nghỉ hè ngay từ khi còn nhỏ.

Sự hà khắc của Feeney không làm cho con cái khó chịu, thậm chí con gái đầu của Feeney còn cho rằng, cách làm của người cha đã giúp họ sống như những người bình thường khác, làm được việc đáng làm và vẫn có đủ tiền để chi tiêu cho cuộc sống.

Làm từ thiện ở khắp 5 châu.

Theo quan điểm của vị tỷ phú này, “bạn chỉ có thể mặc một chiếc quần vào cùng một thời điểm”. Ông thích kiếm tiền nhưng không muốn sở hữu chúng, tiền quá nhiều cũng không thể đem ra tiêu xài hết. Một thời gian dài, ông sống trong căn hộ đi thuê và toàn bộ tài sản được dần hiến tặng cho các tổ chức từ thiện. Các con ông cũng phải tự lăn lộn kiếm sống khi đến tuổi trưởng thành. Feeney cho biết, đây chính là cách để ông giáo dục các con biết quý trọng giá trị của đồng tiền.

 “Sinh ra tay trắng thì khi trở về cũng phải trắng tay”

Suốt hơn 30 năm qua, Chuck Feeney đã đi khắp thế giới để làm từ thiện từ tài sản 8 tỷ USD của mình, tập trung và giáo dục, khoa học, chăm sóc y tế,… tại Mỹ, Úc,Việt Nam, Nam Phi và Ireland.

Quỹ từ thiện Atlantic Philanthropies do ông sáng lập đã rót khoản tiền cuối cùng trị giá 7 triệu

USD vào cuối 2016 cho Đại học Cornell nhằm hỗ trợ sinh viên làm công tác dịch vụ cộng đồng. Chuck Feeney đã hoàn thành khát vọng “cho đi khi còn đang sống” và chính thức rỗng túi.

Trả lời trên tờ New York Times, ông Feeney cho biết: “Bạn luôn lo lắng khi phải quản lý quá nhiều tiền như thế, nhưng chúng tôi dường như đã làm việc đó khá tốt”.

Tới đầu 2017, tổng giá trị tài sản còn lại của Feeney là hơn 2 triệu USD. Hiện ông và vợ (Helga) đang sống trong một căn hộ thuê ở San Francisco.

Tại Việt Nam, quỹ Atlantic bắt đầu rót tiền vào chỉ vài năm sau khi chiến tranh kết thúc, tài trợ bắt đầu từ miền Trung như xây dựng trường Đại học Đà Nẵng.

Cho đến nay, 2 người còn gái của ông là: Diane Feeney và Juliette Feeney cũng tiếp tục theo gót cha làm từ thiện. Họ làm chủ tịch của một số tổ chức từ thiện của gia đình và cộng đồng.

Quỹ Atlantic Philanthropies của Feeney bắt đầu sứ mệnh “làm rỗng túi” từ năm 1982 với ước mơ muốn tạo ra sự thay đổi lớn cho cuộc sống của những người gặp khó khăn. Ông ước mơ mang lại hòa bình cho Bắc Ireland, hiện đại hóa hệ thống chăm sóc y tế của Việt Nam hay biến Roosevelt Island của New York trở thành một trung tâm công nghệ.

Tỷ phú Chuck Feeney đã quyên tặng tổng cộng 8 tỷ USD tài sản và giờ chỉ còn lại 2 triệu USD.

Cho đến nay, Feeney đã xây cả ngàn tòa nhà khắp châu lục, nhưng tên của ông không hề xuất hiện trong bất cứ công trình nào, từ trên các viên đá ốp tòa nhà hay trong các văn bản. Trong nhiều năm, quỹ Atlantic Philanthropies của Feeney yêu cầu những người được hưởng lợi không được công khai sự tham gia giúp đỡ của họ.

“James Bond” của giới từ thiện cho biết, ông làm từ thiện và quyên tặng hết tài sản rất đơn giản là bởi vì, “vải liệm không có túi”, người chết ra đi không mang được gì. Con người “sinh ra tay trắng thì khi trở về cũng phải trắng tay”.

Khối tài sản lớn cuối cùng được Chuck Feeney quyên tặng vào cuối năm ngoái. Ông Feeney giờ 86 tuổi và quỹ Atlantic Philanthropies theo kế hoạch sẽ đóng cửa vào năm 2020.

Giàu có không lộ diện, nhiều tiền không tiêu xài sang, làm từ thiện không cần ghi danh nhưng những việc làm của ông được cả thế giới biết đến. Hành động cao cả của Feeney là động lực cho nhiều người, là nguồn cảm hứng cho cả những người rất giàu có và nổi tiếng, cũng hay làm từ thiện như Bill Gates và Warren Buffett.

 V.Hà (tổng hợp)

Anh chị Thụ & Mai gởi

Vì sao cộng sản đòi cấm vĩnh viễn bản nhạc cổ “Dạ cổ hoài lang”

Vì sao cộng sản đòi cấm vĩnh viễn bản nhạc cổ “Dạ cổ hoài lang”

 

Hải Âu (Danlambao) – Cục Nghệ thuật biểu diễn của nhà nước cộng sản đang tỏ ra thách thức công chúng khi liên tiếp cấm những bản nhạc bất hủ đã đi vào lòng khán thính giả Việt Nam. Câu chuyện về 5 ca khúc nổi tiếng (Cánh thiệp đầu xuân, Con đường xưa em đi, Chuyện buồn ngày xuân, Đừng gọi anh bằng chú, Rừng xưa) đã bị cộng sản cấm sử dụng vĩnh viễn vẫn đang làm cho dư luận phẫn nộ trong những ngày qua.
Lấy lý do ca từ trong những bản nhạc đã bị sửa lời so với bản gốc, nhưng thực chất thâm ý của cộng sản là muốn giết chết nền âm nhạc vốn dĩ được hình thành và phát triển từ nét văn hóa của thời Việt Nam Cộng Hòa. Mới đây nhiều thông tin cho thấy cộng sản có thể sẽ cấm vĩnh viễn lưu hành bản nhạc cổ “Dạ cổ hoài lang” của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu cũng với lý do ca từ của bản nhạc đã bị sửa lời.
Bản nhạc cổ “Dạ cổ hoài lang” có nội dung nói về nỗi niềm của một người vợ nhớ chồng mỗi khi đêm về. Bản nhạc cổ được chính nhạc sĩ Sáu Lầu (Cao Văn Lầu) sáng tác trong hoàn cảnh duyên nợ trái ngang của vợ chồng ông. Năm 28 tuổi, ông Sáu Lầu buộc phải nghe lệnh mẹ thôi vợ vì lý do “tam niên vô tự bất thành thê”, (hai vợ chồng ông không có con sau ba năm chung sống). Thời ấy nếu thôi vợ thì ông phải đem trả vợ về cho cha mẹ vợ, nhưng vì quá thương vợ, ông đã âm thầm chống lại lệnh của mẹ ông khi gửi vợ đến một gia đình có tấm lòng nhân hậu. Chiều chiều ông lại đem cây đàn Kìm ra làm bạn, khi màn đêm buông xuống, phu thê ông lại phải cam chịu cảnh “đêm đông gối chiếc cô phòng”… Chính từ những cảm xúc rất tự nhiên của đời người trong câu chuyện của ông Sáu Lầu mà từ đó bản nhạc cổ “Dạ cổ hoài lang” đã ra đời.
Cũng như bao tác phẩm âm nhạc nổi tiếng khác, người nhạc sĩ cần có và phải có hoàn cảnh sống hoặc những câu chuyện đầy cảm xúc mới có thể sáng tác những ca khúc đi vào lòng người cùng những áng văn nên thơ, lãng mạn và đẹp đẽ. Nhưng đó lại là những điều mà cộng sản ngày nay không muốn thừa nhận vì lẽ đó không phải là nhạc đỏ, nhạc cách mạng. Nó khác hẳn với dòng nhạc cổ vũ chiến tranh khi “bác cùng chúng cháu hành quân” hay cổ xúy cho sự chết chóc khi “đường vinh quang xây xác quân thù”. Hơn thế nữa, những bản nhạc bất hủ trước năm 1975 lại là của những người “bên thua cuộc” sáng tác.
Chuyện sửa lời bài hát mà cộng sản mượn cớ để cấm lưu hành những ca khúc trước năm 1975 chỉ là cách biện hộ cho thói hành xử vô lối của cộng sản. Có thể những ca từ ấy được chỉnh sửa, thay đổi ca từ âu cũng là làm cho những ca khúc ấy gần gũi với công chúng nghe nhạc hơn. Tuy nhiên sau khi sửa lời thì nội dung và ca từ của những bản nhạc ấy không hề làm mất đi ý nghĩa chính của bản nhạc, cũng không gây phản cảm cho người nghe. Những người lính hay những trận chiến trong bối cảnh sáng tác những ca khúc ấy không xuyên tạc sự thật, không kích động chiến tranh, cũng chẳng thù hằn Nam, Bắc. Thế thì sao phải cấm chúng lưu hành khi những bản nhạc ấy mang lại món ăn tinh thần cho hàng triệu người từ Bắc chí Nam.
Cũng vậy, bản nhạc cổ “Dạ cổ hoài lang” chỉ đơn thuần là một tác phẩm âm nhạc kể về sự trái ngang trong tình duyên của một xã hội còn nhiều giáo điều mang tâm thức phong kiến thời ấy. Một bản nhạc cổ đã làm rơi nước mắt của biết bao người yêu nhạc và đã tạo hứng khởi để từ đó Bạc Liêu trở thành cái nôi của dòng nhạc “Đờn ca tài tử”. Một thể loại âm nhạc được UNESCO chính thức công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào ngày 5/12/2013. Đến cuối tháng 4/2014 chính nhà nước cộng sản đã long trọng tổ chức Festival Đờn ca tài tử lần thứ nhất tại Bạc Liêu. Hầu hết các quan chức cao cấp của đảng cộng sản đều có mặt trong dịp Festival này nhằm vinh danh dòng nhạc có âm hưởng gần gũi với văn hóa và tính cách con người miền Nam. Hàng tỷ đồng đã được nhà cầm quyền chi ra để xây nhà tưởng niệm, khu trưng bày di sản của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu cùng những hạ tầng cơ sở khác để tạo nên một Festival “Đờn ca tài tử” rất Nam bộ.
Thế nhưng chỉ ba năm sau, cũng chính những kẻ “làm văn hóa” của cộng sản đảng lại hăm he sẽ cấm vĩnh viễn bản nhạc cổ “Dạ cổ hoài lang”. Cục Biểu diễn nghệ thuật của nhà nước cộng sản đưa ra lý do “chưa xác định thời điểm sáng tác ca khúc này và cho rằng có nhiều dị bản đang được lưu hành trên thị trường”. Một bản nhạc đã tạo ra cái nôi của “Đờn ca tài tử” khiến UNESCO và thế giới công nhận là di sản của nhân loại đang đứng trước nguy cơ chịu án “tù chung thân” tại Việt Nam.
Nếu cộng sản cấm những bài hát trước năm 1975 vì “bị” sửa ca từ hay vì “dính” những hình ảnh người lính và chiến trận. Vậy thử hỏi những ca từ trong bài “đồng chí” hay “năm anh em trên một chiếc xe tăng” và vô số những bài hát liên quan đến cuộc chiến Bắc Nam của “bên thắng cuộc” tại sao lại không cấm. Đất nước không còn chiến tranh, cộng sản luôn mồm kêu gọi hòa hợp dân tộc nhưng tâm địa lại luôn thù hằn những gì gắn liền với Miền Nam Việt Nam. Phải chăng cộng sản lo sợ văn hóa nghệ thuật đầy tính nhân văn và tình dân tộc của Việt Nam Cộng Hòa hồi sinh và sẽ là bước đệm nhằm giải thể cộng sản đảng độc tài?
 
08.04.2017