Nhân dân Hà Nội tự nguyện đón Tổng thống Mỹ Donald Trump Đảng/nhà nước VN tổ chức đón Tập Cận Bình.

Thuong Phan and Tai Nguyen shared Phạm Văn Hải‘s post.
Image may contain: 1 person, standing, walking and outdoor
Image may contain: one or more people, night and outdoor
Image may contain: 4 people, night and outdoor
Image may contain: 5 people, people standing, suit, wedding, child and outdoor
Image may contain: 4 people, child and outdoor
+2
Phạm Văn Hải added 6 new photos.Follow

 

Nhân dân Hà Nội tự nguyện đón Tổng thống Mỹ Donald Trump

Đảng/nhà nước VN tổ chức đón Tập Cận Bình.

Các bạn coi ảnh sẽ rõ:

Ảnh 1-2-3 rất đông nhân dân tự phát (thiếu tổ chức) đón Trump. Ảnh 4-5-6 chứng minh các quan chức, vài nhóm người do chính quyền tổ chức ăn mặc chỉnh tề, mang cờ TQ đón tập cận bình.

Cuốn sách kỳ diệu có thể ‘lọc nước’ và làm thay đổi số phận 600 triệu người châu Phi

Cuốn sách kỳ diệu có thể ‘lọc nước’ và làm thay đổi số phận 600 triệu người châu Phi

Giá trị của sáng tạo không chỉ là mới mẻ mà còn là những món quà ý nghĩa gửi đến những người cần giúp đỡ. Theresa Dankovic là một Tiến sĩ Hóa học, là người đã phát mình ra cuốn sách mang tên Drinkable Book – Sách có thể uống, một cuốn sách đã thay đổi số phận cho hơn 600 triệu người.

Sau chuyến công tác đến châu Phi, vì quá kinh ngạc và đau lòng trước cảnh nhiều em nhỏ phải uống nước bẩn và không đảm bảo vệ sinh, Theresa đã ấp ủ trong mình giấc mơ mang nguồn nước sạch đến cho những người dân nghèo khó.

Chính những điều đó đã thôi thúc Theresa sáng tạo, mặc dù là một tiến sĩ hóa học tài năng, nhưng cô không bị kiến thức khô cứng tách rời cuộc sống. Cô bắt đầu đem những kiến thức mình học được ứng dụng vào đời sống thực tế của người dân.

Tại châu Phi, nguồn nước sạch được xem là một vấn nạn nghiêm trọng, đây cũng chính là nguyên nhân đang khiến cho rất nhiều dịch bệnh xảy ra khắp nơi khi không có đủ nguồn nước sinh hoạt, nhất là những quốc gia đang phát triển.

Trở về từ chuyến đi, Theresa làm việc miệt mài trong phòng thí nghiệm trong suốt 8 năm với hy vọng tìm ra giải pháp cải thiện nguồn nước sạch. Những cố gắng không mỏi mệt ấy đã đem đến cho cô một kết quả thật sự ngoài sức tưởng tượng. Đó là ion nano bạc có tác dụng diệt khuẩn cực hiệu quả! Theresa nảy ra ý tưởng dùng ion bạc nano bỏ vào nguyên liệu làm giấy, nhằm tạo ra loại giấy có độ lọc khuẩn. Trong nhiều tháng, cô làm việc miệt mài tại phòng thí nghiệm, tiến hành hàng ngàn lần kiểm tra. Và cô đã thành công.

Kết quả nghiên cứu, loại giấy này có thể loại bỏ 99% vi khuẩn trong nước, giúp nguồn nước uống sạch hơn tiêu chuẩn nước sạch của Mỹ. Cuốn sách Drinkable Book đã được xuất bản thành công và được đánh giá là một trong 25 thiết kế tốt nhất năm 2015 do tạp chí Time bình chọn.

Mỗi cuốn sách đều có ghi dòng chữ ấm áp: “Nguồn nước ở nông thôn ẩn chứa nhiều loại vi khuẩn gây chết người. Tuy nhiên, những tờ giấy trong cuốn sách này đều là giấy lọc nước, đảm bảo an toàn cho người uống”.

Điều tuyệt vời bên trong cuốn sách đó là nó được thiết kế rất tiện lợi, mỗi khi dùng chỉ cần mở hộp và đóng hộp, lấy ra tờ giấy và đổ nước vào lọc, nước bẩn sẽ trở thành nước sạch. Một trang sách nhỏ có thể lọc được 100 lít nước. Mỗi cuốn có thể dùng lọc nước uống cho 1 người trong 4 năm.

Cô ngay lập tức đem theo loại giấy mới mà mình vừa nghiên cứu này đi đến Nam Phi, Kenya, Haiti, Ấn Độ và các nước khác để làm thử nghiệm với 25 loại nước bị ô nhiễm nặng.

Theresa chia sẻ sáng kiến hữu dụng của mình với người dân địa phương và hướng dẫn họ cách dùng thử. Sự hài lòng của mọi người đã làm cô cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Điều này cũng đem đến cho cô điều ngạc nhiên thú vị. Cô thật sự hạnh phúc khi nghĩ đến trẻ em ở châu Phi sẽ không phải uống nguồn nước màu đen nữa.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trong quá trình trò chuyện khi làm việc cùng mọi người cô phát hiện rằng: “Điều đáng sợ nhất không phải là nguồn nước bị ô nhiễm mà là ý thức về uống nước sạch của người dân địa phương”.

Thành quả này giúp cô nhận ra sáng tạo và đam mê cộng hưởng cùng lòng thương mới mang đến niềm hạnh phúc thật sự. Niềm hạnh phúc khi biết rằng mình có thể bằng công sức và năng lực của mình để đem niềm vui đến cho nhiều người.

Một người có đầu óc sáng tạo là người biết kết nối vấn đề và mọi thứ trở nên rõ ràng hơn theo thời gian. Đó là bởi vì họ có thể kết nối những kinh nghiệm mình có và tổng hợp thành những thứ mới. Lý do khiến họ có thể làm điều đó là họ có nhiều kinh nghiệm hơn hoặc họ đã suy nghĩ nhiều về kinh nghiệm của mình hơn người khác.

Mỗi người chúng ta ai cũng có một sợi dây vô hình nào đó tự buộc lại những sáng tạo của bản thân mình, chúng sẽ ngăn cản và phá hủy đi nhiều cơ hội mới. Và nếu thế mãi mãi bạn sẽ ở trong cái khung cũ kỹ của cuộc đời mình. Bạn nhớ rằng, trên đường đua sáng tạo hay nghệ thuật, điều kỳ diệu chỉ thực sự xuất hiện khi bạn nắm bắt cơ hội, sẵn sàng cho mình thật nhiều trải nghiệm mới.

 Gia Viên – Hồng Tâm 

Hãy bảo vệ đất nước của các bạn !

From facebook:   Hoang Le Thanh‘s post.
No automatic alt text available.
Image may contain: 1 person
Hoang Le Thanh added 2 new photos — with Phan Thị Hồng.

 

Hãy bảo vệ đất nước của các bạn !

Tại Đà Nẵng, Việt Nam, TT Hoa Kỳ Donald Trump khuyến khích 94 triệu người dân Việt Nam những lời tế nhị và ẩn ý sâu xa:

– “Không có gì quý hơn độc lập chủ quyền”.

– “Gần 2000 năm trước, Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa vì nền độc lập và niềm tự hào dân tộc (Việt Nam) của các bạn”.

– “Không nơi nào quý giá như nhà mình. Hãy bảo vệ đất nước của các bạn, vì gia đình và đất nước của các bạn”.

– “Cùng với nhau, chúng ta (Hoa Kỳ và Việt Nam) có sức mạnh để cùng nhau phát triển…”.

*
Xin mời các bạn đọc bản dịch lời phát biểu (đoạn nói về đất nước Việt Nam của TT Hoa Kỳ – Donald Trump:

“Mỹ cũng như mỗi quốc gia ở đây đều hướng đến việc bảo vệ chủ quyền. Chúng ta hiểu rằng không có gì quý hơn độc lập chủ quyền.

“Nhận thức đó đã đưa đường chỉ lối cho chúng tôi trong suốt lịch sử Mỹ, là nguồn động lực để chúng tôi cống hiến và phát triển.

“Và đó là lý do vì sao ngày nay, sau hàng trăm năm chiến thắng trong cuộc Cách mạng Mỹ, chúng tôi vẫn khắc ghi những lời nói của những người lập quốc. Như tổng thống thứ 2 trong lịch sử Mỹ John Adams nói …. “Independence forever” (Độc lập mãi mãi). Điều đó có ý nghĩa đối với mọi quốc gia.

“Đất nước Việt Nam cũng có cùng tư tưởng đó, không phải chỉ trong 200 năm mà gần 2.000 năm. Đó là khoảng năm 40 sau công nguyên, khi Hai Bà Trưng khơi dậy tinh thần của những người dân đất nước này. Đó là lần đầu tiên dân tộc Việt Nam đứng lên vì nền độc lập và niềm tự hào dân tộc của các bạn.

“Ngày nay những anh hùng ấy và câu chuyện ấy vẫn là lời nhắc nhở về lịch sử, là câu trả lời cho câu hỏi lớn về tương lai của chúng ta. Điều đó nhắc nhở tôi rằng: Chúng ta là ai, chúng ta cần phải làm gì. Cùng với nhau, chúng ta có sức mạnh để cùng nhau phát triển…

“Đừng quên rằng thế giới vẫn còn rất nhiều nơi, với nhiều giấc mơ, nhưng không nào quý giá như nhà mình. Hãy bảo vệ đất nước của các bạn, vì gia đình và đất nước bạn”.

Nguồn: https://news.zing.vn/tong-thong-trump-noi-ve-hai-ba-trung-v…

Dân biểu Liên bang Úc thúc giục Việt Nam trả tự do cho tù chính trị

Dân biểu Liên bang Úc thúc giục Việt Nam trả tự do cho tù chính trị

RFA
2017-11-01
 

 
 

Bà Cấn Thị Thêu, một nông dân đấu tranh đòi đất, nằm trong danh sách các dân biểu Úc yêu cầu Hà Nội trả tự do. Ảnh chụp tháng 11, 2016.

Bà Cấn Thị Thêu, một nông dân đấu tranh đòi đất, nằm trong danh sách các dân biểu Úc yêu cầu Hà Nội trả tự do. Ảnh chụp tháng 11, 2016.

AFP
 

Dân biểu Liên bang Úc, ông Chris Hayes, vào ngày 1 tháng 11 lên tiếng  tham gia với dân biểu Tim Wilson về lá thư gửi cho Đại sứ Việt Nam tại Úc, ông Ngô Hướng Nam. Theo nội dung thư thì chỉ nội trong năm nay mà đã có đến hơn hai mươi nhà hoạt động bị bắt vì những tội danh rất mù mờ là âm mưu lật đổ nhà nước, hay tuyên truyền chống nhà nước.

Ông Chris Hayes kèm theo văn thư của ông với chữ ký của hơn 20 chính khách Úc thuộc các đảng phái chính trị khác nhau, đồng tình việc thúc giục Việt Nam trả tự do cho những tù nhân lương tâm tại Việt Nam. Kêu gọi Hà Nội tôn trọng các cam kết đã ký theo Công Ước Quốc tế Về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị.

Các dân biểu và chính khách Úc đưa ra một danh sách gồm những người mà nhà cầm quyền Việt Nam cần phải trả tự do, đó là ông Nguyễn Văn Đài, ông Phạm Văn Trội, ông Trương Minh Đức, ông Nguyễn Bắc Truyển, ông Nguyễn Trung Trực, Mục sư Nguyễn Trung Tôn, ông Lê Đình Lượng, blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, bà Trần Thị Nga, ông Nguyễn Văn Oai, bà Cấn Thị Thêu, ông Hồ Đức Hòa, bà Nguyễn Đặng Minh Mẫn, ông Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, ông Nguyễn Văn Hóa, ông Trần Huỳnh Duy Thức, và bà Trần Thị Thúy.

Trên trang web của Tòa Đại sứ Việt Nam tại Canberra chưa thấy có phản hồi gì về lá thư của hai dân biểu Chris Hayes và Tim Wilson.

Ông Chris Hayes cũng thông báo trên trang web của ông là ông nhận được thư trả lời của bà Bộ trưởng Ngoại giao Úc, Julie Bishop, về trường hợp xin qui chế tị nạn chính trị tại Úc của cựu tù chính trị Trần Minh Nhật.

Bà Bishop nói rằng chính phủ Úc đang làm việc chặt chẽ với Cao ủy tị nạn của Liên Hiệp Quốc tại Thái Lan, nơi thụ lý nhiều hồ sơ xin tị nạn của người Việt Nam. Bà Ngoại trưởng nhấn mạnh rằng Chính phủ Úc luôn đặt ưu tiên giúp đỡ những người bị đàn áp về nhân quyền, và không còn đường về quê hương xứ sở.

Bà nói rằng nếu ông Trần Minh Nhật có nguyện vọng tị nạn tại Úc thì ông sẽ làm đơn xin thị thực một khi qui chế tị nạn của ông được Cao ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc chấp nhận.

Ông Trần Minh Nhật là một trong số 14 thanh niên Công giáo và Tin lành bị nhà cầm quyền Việt Nam bỏ tù vào năm 2012.

Tạp chí Bách Khoa được ‘số hóa’ toàn bộ

Tạp chí Bách Khoa được ‘số hóa’ toàn bộ


CD toàn bộ tạp chí Bách Khoa đã được 'số hóa'

CD toàn bộ tạp chí Bách Khoa đã được ‘số hóa’

Phạm Phú Minh

Thời trước 1975 ở miền Nam báo chí tư nhân rất phong phú, nhất là từ sau năm 1963 thì nhật báo và các tạp chí xuất hiện rất nhiều. Nhưng những ai theo dõi tình hình báo chí cả hai thời kỳ Đệ nhất và Đệ nhị Cộng Hòa thì đều thấy tờ báo tồn tại lâu dài nhất của miền Nam Việt Nam chính là tờ bán nguyệt san BÁCH KHOA : số 1 ra đời vào ngày 15 tháng 01 năm 1957, số cuối cùng 426 ra ngày 19 tháng 4 năm 1975.

Hôm nay chúng tôi xin loan báo một tin vui, là sau nhiều năm cố gắng, một nhóm bạn bè của báo mạng Diễn Đàn Thế Kỷ đã sưu tầm đầy đủ toàn bộ báo Bách Khoa, chỉnh đốn lại để thành một bộ báo số hóa có thể phổ biến cho mọi người. Chúng ta đều biết sau biến cố năm 1975, tất cả sách vở báo chí của miền Nam đều là mục tiêu thiêu hủy của bên phía cộng sản thắng cuộc, nên dù trước kia các thư viện của Việt Nam Cộng Hòa đều có hầu như đầy đủ các loại sách báo của cả nước, chỉ một thời gian sau đều trở thành tan tác, rỗng tuếch để thay thế vào đó là các sách báo của phe cộng sản. Ngay các tủ sách gia đình của dân chúng miền Nam cũng luôn luôn bị đe dọa hoặc bị trực tiếp tịch thu đốt phá, bất kể là loại sách báo gì.

Việc chúng tôi nghĩ nên làm ngay sau khi hoàn tất việc sưu tầm là đến thăm ông Huỳnh Văn Lang, Chủ Nhiệm Sáng Lập tạp chí Bách Khoa để kính tặng ông đĩa DVD chứa đựng toàn bộ 426 số báo đã được điện tử hóa. Chiều ngày 16 tháng 10, 2017 vừa qua anh Trần Huy Bích và tôi đã tới thăm ông Huỳnh Văn Lang tại nhà ông trong thành phố Westminster Nam California, rất mừng thấy ông tuy đã ở tuổi 96, vẫn tương đối mạnh khỏe, nhất là tinh thần còn rất sáng suốt.

Ông đã rất vui và cảm động nhận đĩa DVD chứa toàn bộ báo Bách Khoa do chúng tôi tặng, và nói : “Với công trình tìm tòi và lưu giữ như thế này, tạp chí Bách Khoa sẽ an toàn tồn tại nhiều trăm năm về sau”. Và chúng tôi đã được vị sáng lập tờ Bách Khoa kể lại không biết bao nhiêu là “chuyện xưa tích cũ”, thời gian từ Mỹ mới về nước để giúp ông Ngô Đình Diệm xây dựng chính quyền, những ngày đám chuyên viên trẻ tuổi còn “ngủ ghế bố” trong dinh Gia Long cho đến khi Thủ Tướng dời vào dinh Độc Lập. Mỗi câu chuyện như thế đối với tôi là một mảng lịch sử, qua giọng kể Nam Kỳ hấp dẫn và chân thành của ông. Thú vị nhất là ý tưởng lập hệ thống các trường Bách Khoa Bình Dân, rồi hội Văn Hóa Bình Dân để sau cùng là tạp chí Bách Khoa chào đời.

Ông Huỳnh Văn Lang (bên phải), với DVD Bách Khoa trên tay, đang trò chuyện với Phạm Phú Minh. (Ảnh: Trần Huy Bích)

Ông Huỳnh Văn Lang (bên phải), với DVD Bách Khoa trên tay, đang trò chuyện với Phạm Phú Minh. (Ảnh: Trần Huy Bích)

Ông Huỳnh Văn Lang là người sáng lập, là Chủ nhiệm kiêm Chủ bút của Bách Khoa từ số ra mắt cho đến cuộc đảo chánh 1963 chấm dứt Đệ Nhất Cộng Hòa. Ông nói : “Ngay khi quyết định ra báo, 30 thành viên của hội Nghiên cứu Kinh tế Tài chánh mà tôi đứng đầu mỗi người góp 1000 đồng (trừ một vị chỉ góp 500) để làm vốn. Hồi đó 30,000 đồng là một số tiền lớn, nhưng khi bắt tay làm báo thì tiền in nó ngốn mau lắm, tôi phải xoay xở liên tục cho đến khi tờ báo ổn định…”

Qua buổi gặp gỡ và trò chuyện với ông Huỳnh Văn Lang, tôi hình dung ra hoạt động của một nhóm trí thức trẻ cách đây 60 năm, đồng lòng xắn tay áo lao vào những công việc cụ thể, trong buổi bình minh của một vận hội mới mẻ cho vùng phía Nam của đất nước.

***

Cho tới nay, Bách Khoa là tờ báo tư nhân sống lâu nhất trong lịch sử báo chí Việt Nam. Tờ sống lâu thứ nhì là tạp chí Nam Phong của học giả Phạm Quỳnh, ra đời vào tháng Bảy năm 1917, đình bản ở số 210, ngày 10 tháng Mười Hai năm 1934. Trên Nam Phong số cuối này có dòng chữ Năm thứ mười tám, nhưng đó là chỉ mới bước vào năm thứ 18 thôi, trong thực tế Nam Phong thọ 17 năm 5 tháng. Trong khi đó báo Bách Khoa xuất bản từ tháng 1 năm 1957, tính tới tháng 1 năm 1975 là đủ 18 tuổi, tới hết tháng 4-1975 nó được 18 năm 3 tháng. Đó là chưa kể số lượng các số báo, Bách Khoa xuất bản 426 số; Nam Phong tổng cộng 210 số, chỉ bằng một nửa. Dễ hiểu, Nam Phong là nguyệt san (mỗi tháng ra một số), Bách Khoa là bán nguyệt san (mỗi tháng ra hai số).

Do đời sống lâu dài của nó suốt gần 20 năm cộng với nội dung mà nó mang lại, Bách Khoa có thể coi là cái xương sống tinh thần của miền Nam từ khi đất nước chia cắt 1954 cho đến 1975. Cho đến nay, các bài viết về báo Bách Khoa trong và ngoài Việt Nam đã khá nhiều, từ các hồi ức của những người trực tiếp góp phần xây dựng tờ báo đến những nhà nghiên cứu về sau, chúng tôi chỉ xin tóm tắt một ít điểm chính để giới thiệu một cách tổng quát Bách Khoa với độc giả.

Bách Khoa do ai sáng lập? Dưới đây là hình bìa trước và bìa sau của số đầu tiên. Ở bìa sau chúng ta thấy danh tính những người tạo ra nó:

Chủ nhiệm sáng lập là Huỳnh Văn Lang, “hợp tác cùng các bạn” gồm ba mươi người liệt kê ngay bên dưới. Tập thể này là những chuyên viên của Hội Kinh tế/ Tài chánh thành lập từ 1955, đứng đầu là ông Huỳnh Văn Lang. Họ là những người hầu hết còn trẻ tuổi vào thời điểm đó, một số du học ngoại quốc mới về nước, tham gia chính quyền miền Nam với lý tưởng xây dựng một quốc gia Việt Nam tự do và phú cường. Sinh hoạt của Hội là họp mỗi hai tuần một lần, thảo luận về những vấn đề kinh tế tài chánh Việt Nam đang phải giải quyết. Sau một thời gian hoạt động nhóm chuyên viên này nhận thấy cần phổ biến rộng rãi các nghiên cứu của họ, nên đã quyết định tổ chức một tờ báo như là một “diễn đàn chung của tất cả những người tha thiết đến các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”: tờ BÁCH KHOA ra đời.

Số đầu tiên ra mắt ngày 15 tháng 01 năm 1957 và những số kế tiếp các bài nòng cốt là của các cây bút “cơ hữu” như Huỳnh Văn Lang, Phạm Ngọc Thảo, Hoàng Minh Tuynh, Nguiễn-Ngu-Í… Các cây bút có tên tuổi dần dần tham gia ngày một đông : Nguyễn Hiến Lê xuất hiện vào số 4, Mặc Thu, Vi Huyền Đắc số 5, Võ Phiến số 7, Bùi Giáng số 8…

Trong cuốn Hồi Ký của mình xuất bản sau 1975, học giả Nguyễn Hiến Lê, người bắt đầu viết cho Bách Khoa từ cuối tháng 2 năm 1957 và “dính” luôn với Bách Khoa cho đến số cuối ra ngày 19 tháng 4 năm 1975, đã viết:

Trong lịch sử báo chí nước nhà, tờ Bách Khoa có địa vị đặc biệt. Không nhận trợ cấp của chính quyền mà sống được mười tám năm từ 1957 đến 1975, bằng tờ Nam Phong, có uy tín, tập hợp được nhiều cây bút giá trị như Nam Phong, trước sau các cộng tác viên được khoảng một trăm.”

Nhà văn Võ Phiến, người cũng đã gắn bó với Bách Khoa suốt 18 năm, với các sáng tác truyện ngắn, truyện dài, tùy bút, tạp luận, ngoài ra ngày càng viết nhiều mục với các bút hiệu khác nhau như Tràng Thiên, Thu Thủy. Ông tuy không phải là người làm việc trực tiếp trong tòa soạn Bách Khoa nhưng có thể coi như là người quan trọng tạo nên linh hồn của tờ báo. Ông kể :

“Thoạt tiên là tờ báo của hai nhân vật trong chính quyền: các ông Huỳnh Văn Lang và Hoàng Minh Tuynh. Về sau các ông này rút lui ra khỏi chính quyền, rồi tờ Bách Khoa cũng dần dần chuyển về ông Lê Ngộ Châu.

Các ông Huỳnh và Hoàng là những chuyên viên trong giới ngân hàng, rồi ngay ông Lê cũng không phải là một văn gia, ấy vậy mà Bách Khoa phải kể là một trong những tờ báo thành công nhất ở miền Nam trong ngót hai mươi năm. Đó là chỗ lý thú trong tình hình sinh hoạt của thời kỳ văn học này.”

(Văn Học Miền Nam – tổng quan, Võ Phiến, trang 238)

Đoạn này nhà văn Võ Phiến hình như cố tình viết không rõ về hai sự kiện ông Huỳnh Văn Lang và Hoàng Minh Tuynh “rút lui ra khỏi chính quyền” và việc “tờ Bách Khoa cũng dần dần chuyển về ông Lê Ngộ Châu”. Xem lại quyển Ký Ức Huỳnh Văn Lang (tập 1) do tác giả xuất bản năm 2011, có đoạn viết :

Sau 6 tháng hoạt động, 30 thành viên toàn là chuyên môn quyết định, mỗi người bỏ ra 1000 đồng (trừ ra một GS chỉ chịu hùn 500 đồng thôi, vì xem như là bố thí), để phổ biến những nghiên cứu của Hội trên một tạp chí.

Và Bách Khoa Tạp chí đã ra đời. Số 1 phát hành ngày 15 tháng 1 năm 1957, người viết kiêm chủ nhiệm và chủ bút cho đến năm 1963 phải giao cho anh thư ký tòa soạn Lê Ngộ Châu, vì bị chế độ ‘người lính cai trị’ bắt đi bắt lại ba bốn lần giam giữ sau trước gần ba năm.”

(Ký Ức Huỳnh Văn Lang tập 1, trang 624)

Sự kiện người Thư ký Toà soạn Lê Ngộ Châu được giao toàn quyền điều hành tiếp tục tờ Bách Khoa trong một biến cố bất ngờ như thế đã cho chúng ta hiểu rằng vị Thư ký Tòa soạn này đã thực sự đóng một vai trò rất tích cực đối với tờ báo từ nhiều năm tháng trước đó. Về tài làm báo cùng kiến thức, tính tình của ông Lê Ngộ Châu, xem lại hồi ức của nhiều nhà văn cộng tác, thấy ai cũng yêu mến và kính phục ông.

Ý kiến của Nguyễn Hiến Lê, người cộng tác với Bách Khoa từ 1957 đến 1975:

“Ông Châu làm việc rất siêng, đọc hết mọi bài nhận được, đăng hay không ông đều báo cho tác giả biết. (…) Tôi mến ông vì ông có tinh thần trách nhiệm, làm việc đàng hoàng, biết cương quyết giữ vững chủ trương cả khi báo suy, biết xét người, xét văn và có tình với người cộng tác: ai gặp nạn gì ông lại nhà thăm, tìm mọi cách giúp đỡ; nhất là sau vụ Mậu Thân, ông rất băn khoăn lo lắng về các anh em bị kẹt trong vòng máu lửa.”

(Trích từ “Đời viết văn của tôi” của Nguyễn Hiến Lê)

Nhà phê bình văn học Đặng Tiến, trong bài viết tưởng niệm khi nghe tin ông Lê Ngộ Châu qua đời (vào ngày 24 tháng 9 năm 2006), có đoạn đánh giá Lê Châu -như cách gọi của anh em văn nghệ- như sau:

“Nhờ đức tính kín đáo, hòa nhã, Lê Châu đã tập hợp không những trên mặt báo nhiều khuôn mặt khác biệt, thậm chí trái ngược về hoàn cảnh, tính tình lẫn chính kiến, mà còn quy nạp được nhiều bè bạn đến từ những chân trời khác nhau, trong đời sống cụ thể hằng ngày. Chưa kể những tác giả sinh sống ở ngoài nước thường xuyên gửi bài về cộng tác.

Lê Châu kiến thức rộng, thường xuyên giao tiếp với quan chức hay các nhà văn hóa danh vọng, nhưng luôn luôn từ tốn, trong cách ứng xử hàng ngày, với những người viết trẻ tuổi. Ông đặc biệt lưu tâm đến những người viết mới, viết từ các tỉnh nhỏ, đặc biệt là từ Miền Trung. Bách Khoa là một tờ báo phổ thông, chủ tâm vào những đề tài chính trị, quốc tế, kinh tế, khoa học, chỉ dành một phần cho văn học nghệ thuật, nhưng về lâu về dài đã có những đóng góp lớn lao cho bộ môn văn nghệ. Về sau, phần văn nghệ này lại là khối tài liệu quý giá.

Lê Châu còn là gương sáng về đức khiêm tốn trí thức. Hai chữ Bách Khoa bình thường được dịch ra tiếng Pháp là Encyclopédie theo nghĩa từ điển bách khoa, hoặc tư trào Bách Khoa trong văn học Pháp thế kỷ XVIII ; nhưng Lê Châu không nhận từ này, cho rằng quá to tát so với tờ báo. Ông dịch Bách Khoa là Variétés, sát nghĩa là « tạp chí ». (…)

“Lê Châu là kẻ sĩ theo truyền thống, luôn luôn mực thước, trong nếp trung dung của cửa Khổng sân Trình và theo nếp mực thước, juste mesure của bực trí thức tân học. Trong đời sống, ông là người bảo thủ ; trên cương vị chủ báo, ngược lại, ông khuyến khích văn chương trẻ và tư tưởng mới, nhưng chừng mực thôi.”

(Tạp văn: Lê Ngộ Châu, 160 Phan Đình Phùng – Đặng Tiến)

Trong cuốn Văn Học Miền Nam tổng quan, nhà văn Võ Phiến đã ghi lại một nhận xét của nhà văn Nguyễn Hiến Lê mà chắc ông cũng đồng ý: “Tuy vậy kể là cây bút chủ yếu của Bách Khoa từ trước đến sau vẫn là hai người : Võ Phiến và Nguyễn Hiến Lê (xem Hồi ký Đời viết văn của tôi của Nguyễn Hiến Lê)”.

Học giả Nguyễn Hiến Lê (1912 - 22.12.1984).

Học giả Nguyễn Hiến Lê (1912 – 22.12.1984).

Thế nào là cây bút chủ yếu của một tờ báo? Có cần đó là Chủ bút hay Chủ nhiệm không? Có cần là Thư ký toà soạn không? Không cần, vì những chức vụ ấy có những trách nhiệm khác phải lo, không đương nhiên phải viết lách gì cả ngoài những lá thư nhắc nhở nọ kia về việc điều hành, đường lối. Vậy có phải là người viết thường xuyên trong một thời gian dài cho tờ báo ấy? Có thể đó cũng là một điều kiện, nhưng số lượng các bài viết cũng không đương nhiên khiến cho một tác giả trở nên một cây bút chủ yếu, vì không ai đếm số bài để định giá mức độ ảnh hưởng của một cây bút.

Theo chúng tôi, một cây bút gọi là chủ yếu của một tờ báo là một người thường xuyên, qua bài vở của mình, đem đến cho độc giả một ích lợi và ảnh hưởng tinh thần nhất định, được đa số độc giả biết giá trị và ham thích đón nhận. Hai vị Nguyễn Hiến Lê và Võ Phiến quả thật là những người như thế, có thể nói những đóng góp dài lâu của họ đã góp phần quan trọng tạo nên linh hồn của tờ báo.

Thứ nhất, về phương diện bài vở, hai vị là những người đóng góp dài hơi nhất. Như trên đã nói, Nguyễn Hiến Lê gửi bài đầu tiên cho Bách Khoa ở số 4, ra ngày 1 tháng 3 năm 1957; Võ Phiến số 7, ra ngày 15 tháng 4, 1957. Từ thời điểm ban đầu đó, hai vị liên tục tham dự xây dựng nội dung tờ báo cho đến số cuối cùng, ra ngày 19 tháng 4, 1975. Về số lượng bài vở đã đăng trên Bách Khoa trong suốt 18 năm thì chắc chắn hai ông chia nhau ngôi thứ một/hai, có thể Võ Phiến nhiều hơn Nguyễn Hiến Lê, vì không những đóng góp phần sáng tác phong phú gồm truyện ngắn, truyện dài, tùy bút, tạp bút…, ông còn viết các mục khác (Thời sự Văn nghệ, Thời sự Chính trị…) và dịch các tác giả Tây phương, dưới các bút danh Tràng Thiên, Thu Thủy.

Báo Bách Khoa tại 160 Phan Đình Phùng Sài Gòn càng về các năm sau càng biến thành một địa chỉ thân mật cho mọi người cộng tác, với tình thân như gia đình. Theo lời kể của bà Võ Phiến (vào tháng 10, 2017), năm 1960 khi Võ Phiến từ Qui Nhơn dời vào Sài Gòn để làm việc với bộ Thông Tin, chính Lê Ngộ Châu là người lo đi tìm nhà để thuê cho bạn, yểm trợ ngay các nhu cầu cần thiết cho một gia đình từ tỉnh mới về nơi đô thị. Các văn thi sĩ cộng tác đều coi báo quán là nơi gần gũi, tin cậy; những người đóng góp bài vở từ khắp mọi miền đất nước, khi có dịp về Sài Gòn đều ghé thăm Bách Khoa, như về một loại “nhà tinh thần” của mình.

Chính trong loại tình thân và tin cậy có tính chất đại gia đình ấy, những người như Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, với uy tín và năng lực của mình, đã biến thành những “cây bút chủ yếu” của tạp chí Bách Khoa. Trước sau họ vẫn chỉ là người “cộng tác” thôi, không bao giờ giữ một chức vụ nào của tổ chức tòa báo. Nhưng họ vẫn là những “cây bút chủ yếu” đúng nghĩa.

Lê Ngộ Châu (trái) gặp lại Võ Phiến trong chuyến đi Mỹ năm 1994.

Lê Ngộ Châu (trái) gặp lại Võ Phiến trong chuyến đi Mỹ năm 1994.

***

Trong số những người tham gia vào Bách Khoa sớm nhất, phải kể đến Nguiễn-Ngu-Í (1921-1979, tên thật Nguyễn Hữu Ngư, còn có các bút hiệu Trần Hồng Hừng, Tân-Fong-Hiệb, Ngê-Bá-Lí v.v…). Ông là người đã thực hiện nhiều cuộc phỏng vấn với giới viết lách, từ những nhà văn lớp trước như Nhất Linh, Đông Hồ, Lê Văn Trương, Đỗ Đức Thu, Nguyễn Vỹ… đến lớp sau như Bình Nguyên Lộc, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Võ Phiến, Nguyễn Văn Trung… Nhà văn Nguyễn Hiến Lê đã viết : “Ngu Í chuyên nghề phỏng vấn, từng trải, có nhiều nhiệt tâm, văn có duyên”. Các đề tài phỏng vấn của ông và câu trả lời của giới cầm bút thời ấy vẫn còn giá trị cho người nghiên cứu văn học ngày nay lẫn mai sau.

Nhà báo Nguiễn-Ngu-Í.

Nhà báo Nguiễn-Ngu-Í.

Ngoài tài phỏng vấn, Nguiễn-Ngu-Í cũng viết nhiều bài báo có giá trị, ví dụ bài Nhớ và Nghĩ về bài Quốc Ca Việt là một bài nghiên cứu tường tận về tác giả, trường hợp sáng tác, vai trò của bài hát đó trong xã hội từ năm 1942 trở về sau: đã được những ai đặt bao nhiêu nhan đề và lời ca, những ai đã sử dụng nó, với mục đích gì v.v… Thiết tưởng cộng đồng người Việt lưu vong vẫn dùng bản quốc ca Việt Nam Cộng Hòa trong bao nhiêu lễ lạc, biến cố của mình, cần hiểu biết rõ hơn về tiếng hát Này công dân ơi ! ấy qua bài nghiên cứu này.

Sau cùng, nên nói đến một vấn đề tế nhị liên quan đến tờ báo Bách Khoa, là tên gọi của nó qua những năm tháng thăng trầm. Chúng ta vẫn gọi chung tờ báo là Bách Khoa từ số đầu đến số cuối, nhưng cũng nên biết rằng để giữ được hai tiếng Bách Khoa vững chắc và thân yêu ấy, nó phải theo thời mà có những biệt danh đi kèm. Đây là những cái mốc cho những biến thiên ấy:

1. BÁCH KHOA : Số 1 (ngày 15-1-1957) đến số 193-194 (15-1-1965)

2. BÁCH KHOA THỜI ĐẠI : số 195 (15-2-1965) đến số 312 (1-1-1970)

3. trở lại tên BÁCH KHOA : số 313-314 (Xuân Canh Tuất) (15/1 và 1/2/1970) đến số 377 (15-9-1972)

4. ĐẶC SAN BÁCH KHOA : số 378 (1-10-1972) – đến số 379 (15-10-1972)

5. GIAI PHẨM BÁCH KHOA : số 380 (1-11-1972) đến số chót 426 (19-4-1975)

Tất cả những việc vẽ vời “làm cho khác” tên gọi như thế thì hoặc là vì lý do chính trị (cho khác với tên gọi từ “chế độ cũ”), hoặc để thích ứng với chế độ kiểm duyệt hoặc luật báo chí về sau. Thời gian qua, những cái đó được hiểu chỉ là những thủ thuật né tránh để sống còn, và sống còn luôn luôn với cái tên khai sanh của nó: Bách Khoa. Vậy chúng ta trước sau chỉ nên gọi nó là BÁCH KHOA.

22 tháng Mười, 2017.

Phạm Phú Minh

Bánh vẽ

  1. Bánh vẽ
  2. Chế Lan Viên
  3. Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ
    Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
    Cầm lên nhấm nháp
    Chả là nếu anh từ chối
    Chúng sẽ bảo anh phá rối
    Đêm vui
    Bảo anh không còn có khả năng nhai
    Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc…
    Thế thì còn dịp đâu nhai thứ thiệt?
    Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
    Như không có gì xảy ra hết
    Và những người khác thấy anh ngồi
    Họ cũng ngồi thôi
    Nhai nhồm nhoàm
    Trừ Đi
  4. Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
    Có phải tôi viết đâu! Một nửa
    Cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết rồi
    Giết một tiếng đau – giết một tiếng cười
    Giết một kỷ niệm – giết một ước mơ – tôi giết
    Cái cánh sắp bay – trước khi tôi viết
    Tôi giết bão ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ
    Và giết luôn mặt trời lên trên biển – Giết mưa
    Và giết cả cỏ trong mưa luôn thể
    Cho nên câu thơ tôi gầy còm như thế
    Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình
    Và thơ này rơi đến tay anh
    Anh bảo đấy là tôi.
    Không phải!
    Nhưng cũng chính là tôi – Người có lỗi
    Đã phải giết đi bao nhiêu cái
    Có khi không có tội như mình
  5. Ai? Tôi!
  6. Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
    Chỉ một đêm, còn sống có 30
    Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
    Tôi!
  7. Tôi – người viết những câu thơ cổ võ
    Ca tụng người không tiếc mạng mình
    trong mọi cuộc xung phong.
    Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm
    Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
  8. Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ,
    Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
    Ai chịu trách nhiệm vậy?
    Lại chính là tôi!
  9. Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời,
    Tôi ú ớ.
    Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
    Mà tôi xấu hổ.
    Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
    Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
    Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười
  10. Chế Lan Viên

Trân trọng giới thiệu trang web Việt Nam Thời Báo của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam

From facebook:  Pham Chi Dung‘s post.

Image may contain: text

Pham Chi Dung

Trân trọng giới thiệu trang web Việt Nam Thời Báo của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam vừa được nâng cấp về kỹ thuật và nội dung bài viết.

Kính mong bạn đọc ở Việt Nam và nước ngoài đọc Việt Nam Thời Báo và chia sẻ tinh thần tự do ngôn luận, tự do báo chí theo đường link:

http://vietnamthoibao.org/
https://d1s66ldlhegqs2.cloudfront.net/

Nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng

Chiêm ngưỡng biệt phủ “phó thống đốc” khổng lồ ở TP.HCM

From facebook: Thuc Tran and Son Ngo shared Trần Khải‘s post.

Image may contain: 1 person, outdoor
Image may contain: tree, plant and outdoor
Image may contain: sky, outdoor and nature
+5
Trần Khải added 9 new photos

 

Chiêm ngưỡng biệt phủ “phó thống đốc” khổng lồ ở TP.HCM. Giới lãnh đạo nhiều ngân hàng kể, Phó thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam Nguyễn Phước Thanh (vừa nghỉ hưu ngày 1/10) – người vừa được Ngân hàng TMCP Vietcombank đãi tiệc chia tay “bình thường” đình đám ở khách sạn 5 sao Melia đắt nhất Hà Nội và Ngân hàng Agribank tổ chức cho đi một chuyến “vòng quanh” thế giới để tiễn quan về hưu – lúc còn đương chức thường rủ các lãnh đạo ngân hàng, nơi ông ấy giữ vai trò kiểm tra, giám sát, phòng ngừa phát hiện tham nhũng về biệt phủ khổng lồ nằm ngay mặt tiền đường Nguyễn Hữu Trí (Chợ Đệm, huyện Bình Chánh, TP.HCM) để ăn nhậu, tiện thể khoe cái biệt phủ hoành tráng này. Nhiều lãnh đạo ngân hàng kể, lần nào nhậu ông Nguyễn Phước Thanh cũng bảo về biệt phủ gia đình, nhất định không ra quán nhậu.
Biệt phủ này quá lộng lẫy, sang trọng như một cung vua. Mỗi cây cảnh quý trong khuôn viên biệt phủ có giá trên dưới 1 tỷ đồng. Giá thị trường đất mặt tiền đường Nguyễn Hữu Trí hiện nay khoảng 70 triệu/m2. Khuôn viên biệt phủ rộng chừng hơn 5.000 m2. Người dân xung quanh đây gọi cái biệt phủ khổng lồ này với cái tên cúng cơm là “biệt phủ phó thống đốc”! Hỏi người dân xung quanh có phải cái biệt phủ khổng lồ này được hình thành từ tiền nuôi heo, buôn chổi đót hay chạy xe ôm của ông chủ nó hay không? Không ai trả lời được.

Con lai ‘Thiên Thần’ của một cựu binh Mỹ

Con lai ‘Thiên Thần’ của một cựu binh Mỹ

25/10/2017

Tấm ảnh chụp với bà Huỳnh Thị Chút khi 2 người quen nhau ở Camp Tien Sha, Đà Nẵng, mà ông Gary Wittig giữ lại hơn 48 năm qua. Họ đã gặp lại nhau trên đất Mỹ cùng với người con gái của họ sau gần 5 thập kỷ

Gary Wittig gặp Huỳnh Thị Chút khi trở lại Việt Nam trong đợt đưa quân ra chiến trường lần 2. Một cô bé đã ra đời sau khi người lính Mỹ rời Việt Nam. Gần 50 năm sau, cả 3 người được đoàn tụ trên đất Mỹ.

 

Cuộc đoàn tụ diễn ra đầu tháng này khi bà Chút lần đầu tiên đặt chân tới nước Mỹ để gặp lại người đàn ông mà nay đang nằm trên giường bệnh và hô hấp qua ống trợ thở. Cô con gái của họ, Nguyễn Thị Kim Nga – nay đã 48 tuổi, bay từ Nebraska tới trước đó để đoàn tụ với bố mẹ mình.

Giây phút bà Chút được gặp lại ông Gary sau 48 năm mất liên lạc tại 1 căn nhà ở ngoại ô Atlanta, theo người cháu gái của Gary, Christine Gimmey, rất là “tuyệt diệu. Không từ nào diễn tả nổi giây phút đó.”

“Bà Chút đặt tay lên tay chú Gary rồi bắt đầu massage phần ngực của chú. Họ nhìn nhau và mỉm cười. Họ chỉ ngồi đó không nói gì và mỉm cười.”

Ông Gary và bà Chút đã sử dụng Facetime nói chuyện vài lần trước khi được thực sự cầm tay nhau tại một ngôi nhà ở ngoại ô Atlanta, Georgia.

Dù đó là cuộc hội ngộ sau gần nửa thế kỷ nhưng họ không thể nói với nhau được nhiều chuyện bởi cả 2 ông bà đều không nói được ngôn ngữ của nhau.

Bà Chút và ông Gary cũng giống như nhiều phụ nữ Việt Nam và những người lính Mỹ khác, gặp nhau trong một cuộc chiến tranh không mong muốn kéo dài hàng thập kỷ, có lẽ sẽ không bao giờ tìm lại nhau nếu không phải bởi một đứa con chung như chị Nga.

Tương tự chị Nga, hàng trăm ngàn trẻ lai của những binh lính Mỹ và phụ nữ Việt Nam đã được sinh ra trong cuộc chiến và phải chịu cảnh không cha không mẹ hoặc bị phân biệt đối xử. Mặc dù hầu hết những người con lai đều đã được sang Mỹ hoặc được gia đình Mỹ nhận nuôi, không mấy người tìm được cha ruột của mình như chị Nga.

“Chúa đã gửi thiên thần đến cho tôi,” người cha ấy gọi con gái mình là “Angel.”

Mối tình không hẹn ngày gặp lại

Khi quay trở lại Việt Nam vào năm 1968 sau khi từng phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ tại Đà Nẵng lần đầu vào năm 1967-1968, ông Gary lúc đó 23 tuổi, tình nguyện tới Việt Nam vì “mức lương hậu hĩnh.”

“Việt Nam là đất nước đẹp, có nhiều đồi núi, cây cối và biển. Nó cũng giống như nước Mỹ,” ông Gary nhớ lại khi nằm trên giường tại ngôi nhà nhỏ ở khu Riverdale, ngoại ô thành phố Atlanta, Georgia.

Ông cũng nhớ rằng bà Chút “lúc đó rất đẹp.”

Trong lần quay trở lại thành phố miền Trung, ông là tài xế xe quân đội cho Camp Tien Sha, nơi Huỳnh Thị Chút, lúc đó 19 tuổi, đang làm lao công.

“Nhiều lính Mỹ đến rửa xe. Họ mang xe đến rồi bỏ đó đi khi nào xong mới quay trở lại lấy. Nhưng ông (Gary) thì ở lại,” bà Chút kể lại những khoảnh khắc 2 người lần đầu gặp nhau ở trại hậu cần Hải Quân Mỹ ở Đà Nẵng – lúc đó được gọi là Camp Tien Sha. “Mặc dù xe không bẩn, ông Gary vẫn mang đến rửa,” bà Chút, nay đã 69 tuổi, tủm tỉm cười khi nhớ lại những lần ông Gary cùng té nước rửa xe, “làm tôi ướt hết, rồi ông ôm tôi xin lỗi.” Tình cảm giữa 2 người nảy nở từ đó mặc dù cả hai không nói được nhiều chuyện với nhau. Ông Gary không nói được tiếng Việt; bà Chút chỉ biết 1 chút tiếng Anh bồi.

Ông Gary Wittig bên chiếc xe của mình ở Đà Nẵng. Bà Chút nói “ông thường mang xe đến cho bà rửa” thậm chí khi xe vẫn sạch.

​Bà Chút lúc đó đã có chồng và một người con trai. Chồng bà là một quân nhân Việt Nam Cộng hòa. Nhưng chuyện tình của bà Chút và ông Gary đã vượt quá những gì mà họ cho là “vui chút chút.”

“Vui chút chút,” nhưng bà Chút có thai. Bà nói ông Gary có lần đưa bà tới 1 bệnh viện ở Đà Nẵng để siêu âm thai.

Nhưng ông Gary, giờ đây gần như không thể đi lại được, lại không nhớ điều này. Ông nói khi đang đeo ống thở oxy vì suy phổi rằng ông biết bà Chút mang thai đứa con của mình và biết đó là con gái nhưng đó cũng là lúc thời gian ở Việt Nam của ông kết thúc.

Người chồng Việt của bà Chút biết chuyện của 2 người và rằng vợ mình đang mang thai đứa con của người lính Mỹ nhưng không phản đối. Ông đã đón bà ở bệnh viện với đứa con lai Mỹ và coi nó như con đẻ của mình, theo lời bà kể.

Còn phía bên kia bờ đại dương, ông Gary bắt đầu cuộc sống mới ở quê nhà. Sau khi rời Việt Nam năm 1969, ông Gary tới Las Vegas và tiếp tục nhiệm vụ lái xe tại đó 1 năm, nơi ông nói “có một thời gian tuyệt vời.” Đó cũng là lúc bà Chút sinh đứa con gái của ông.

“Có con vẫn nuôi bình thường. Không oán trách ai. Mình làm mình chịu.”

Bà Chút nói về quyết định sinh đứa con với ông Gary

Nằm trên giường bên cạnh 1 bình ôxy, ông Gary nói với giọng ngắt quãng giữa những cơn ho, rằng dù cho lúc đó đứa con của ông đã được sinh ra thì ông cũng không thể mang nó về Mỹ vì những thủ tục rất phức tạp để xin tị nạn cho mẹ con bà Chút.

Giống như nhiều cuộc tình chớp nhoáng của những người lính Mỹ và các cô gái Việt trong chiến tranh lúc đó, ông Gary về nước không hẹn ngày gặp lại.

Với bà Chút, đó cũng là một mối tình thoáng qua vì bà là người phụ nữ đã có chồng và không bao giờ nghĩ có ngày gặp lại nhau. “Cuộc sống lúc đó khổ lắm, chỉ lo đi làm thôi.”

Nhưng bà xác định, “có con vẫn nuôi bình thường. Không oán trách ai. Mình làm mình chịu.”

Bà Chút hồi tưởng lại ý nghĩ lúc đó rằng “con mình sẽ không bao giờ qua được Mỹ.”

Trước khi rời Việt Nam, ông Gary đã để lại cho bà Chút những tấm ảnh của ông cũng như ảnh 2 người chụp chung, cùng tấm thẻ quân nhân, nhưng bà đã đốt hết khi quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam. Từ đó, bà mất hết dấu vết của Gary.

Giấc mơ Mỹ

Lớn lên cùng với 3 người anh em cùng mẹ khác cha ở Me Pu, Bình Thuận, chị Nguyễn Thị Kim Nga cho rằng mình may mắn vì không bị bố dượng đối xử phân biệt. Tuy nhiên chị thường bị bọn trẻ cùng lứa trong làng trêu ghẹo.

“Tôi thấy tủi nhưng không oán trách ai vì mình là con lai. Chỉ tự hỏi sao mình không có cha. Ở xóm duy nhất mình là con lai. Không ai như mình.”

“Có lúc muốn tự tử.”

Chị Nguyễn Thị Kim Nga nói về những ngày tháng thất vọng không làm được giấy tờ sang Mỹ

Khi sinh chị Nga, bà Chút cũng gặp nhiều kỳ thị vì đứa con lai của mình. Bà không nhận được trợ cấp quần áo cho em bé như những người mẹ có con bình thường khác. Bà nói “nghèo khổ lắm, không có cơm ăn, không có quần áo mặc.”

Chị Nga cũng đã phải bỏ học khi chưa biết đọc biết viết để phụ giúp gia đình kiếm sống. Sau khi cha dượng mất, mẹ chị một mình nuôi 4 đứa con.

Chính điều đó đã thôi thúc chị tìm cách sang Mỹ để tìm người bố mà chị chưa bao giờ biết mặt.

Nhưng sau 3 lần làm thủ tục không được – trong đó có lần đầu tiên chị làm đám cưới giả với một người không quen biết – chị thấy tuyệt vọng.

“Có lúc muốn tự tử,” chị nói vậy với những giọt nước mắt lăn trên má.

Nhưng chính lúc thất vọng nhất trong cuộc đời, chị gặp được người chồng mà bà Chút ca ngợi là một người con rể rất tốt.

“Nhờ nó mà Nga đi được sang Mỹ và tìm được bố,” bà Chút nói.

Chị Nga cuối cùng đã tìm được cha mình. Ông Gary nói DNA của 2 cha con ông có độ trùng khớp đến hơn 99%.

Biết được mong muốn tìm cha của vợ mình, anh Nguyễn Quế quyết tâm tìm cách đưa gia đình sang Mỹ. Sau 6 năm tìm hiểu từ những lần “lên Sài Gòn và gặp luật sư” và tiêu tốn hết số tiền tích cóp được, anh đã tìm ra cách. Đó là đưa chị Nga vào lãnh sự quán Mỹ ở thành phố Hồ Chí Minh để xác nhận là con lai.

Và gia đình chị làm được thủ tục nhập cư sang Mỹ.

Cuộc sống mới của gia đình chị Nga bắt đầu khi 2 vợ chồng và 1 đứa con nhỏ sang định cư tại Ohama, tiểu bang Nebraska, vào năm 2000.

Nhưng đó cũng là lúc chị Nga phải quên đi ước mơ tìm cha bởi gia đình chị đến Mỹ “với 2 bàn tay trắng.”

“Ba người với một vali quần áo và không có gì,” chị Nga nói.

Hai vợ chồng chị bắt đầu với công việc đóng gói tại một tiệm bánh của người Mexico ở Omaha. Đã có lúc anh Quế phải làm 2 việc và sau khi cửa hàng này đóng cửa, chị Nga đã chuyển sang làm cho 1 tiệm làm nail. Nhưng họ cũng đã kịp sinh ra thêm 2 đứa con – một con gái giờ đã 14 tuổi và một con trai giờ đã 12 tuổi. Chồng chị nay đã có việc làm ổn định – làm lao công trong 1 trường học ở Omaha.

Nước Mỹ đối với gia đình chị Nga là một giấc mơ bởi vợ chồng chị đã thoát cảnh nghèo khó khi còn sống ở một vùng quê ở Việt Nam. Giờ đây chị Nga, không biết chữ và tự cho mình là “khù khờ,” cùng chồng con có một căn nhà, xe hơi và trở thành công dân Mỹ.

Chị Nga (thứ 2 từ phải) cùng chồng (giữa) và 3 con tại Mỹ. Chị Nga nói giấc mơ “thoát nghèo” đã trở thành sự thực khi chị và gia đình có nhà, xe và trở thành công dân Mỹ.

Tuy nhiên, giấc mơ tìm bố của chị vẫn còn xa vời vì “không có một manh mối nào để tìm cha” và “nhiều người tìm cha mà không được.”

Nhưng đến đầu năm nay, một người bạn của chị Nga, cũng là con lai tìm được cha thông qua dịch vụ so sánh DNA.

Hy vọng đã trở lại với chị dù chị nghĩ rằng có thể cha đã không còn trên cõi đời này nữa hoặc không biết “ông có chấp nhận mình không.”

“Người con duy nhất”

Trở lại quá khứ. Năm năm sau khi từ chiến trường Việt Nam trở lại Mỹ, Gary cưới vợ. Khi nhắc về người vợ đã mất vì bệnh ung thư vú vào năm 2006, mắt ông Gary dường như sáng lên và ông nói “Giá mà tôi lấy lại được 30 năm của cuộc hôn nhân đó.”

Gary và vợ, Linda, không có con.

Ông Gary, giờ đây 72 tuổi, chưa bao giờ cho ai trong gia đình biết về người con của ông ở Việt Nam. Nhưng cháu gái của ông, chị Christine Gimmey, nói chị nhớ rằng “dì Linda có lần nói với chúng tôi, khi đó tôi 14 tuổi, rằng chú Gary có một người con ở Việt Nam.”

Và những người trong gia đình chị đã không bao giờ nhắc lại điều này cho tới gần đây khi một thám tử DNA gửi cho chị tin nhắn về một người con lai Việt đang tìm bố Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam.

Đó là ngày 31/3/2017, chỉ vài tuần trước lễ Phục Sinh, chị Christine nói.

DNA của chị Nga và ông Gary có độ trùng khớp đến hơn 99%.

“Đó là người con duy nhất của tôi,” ông Gary nói về chị Nga, người mà ông đặt tên là Angel.

Chị Nga là người con duy nhất của ông Gary. Ông gọi cô con lai Việt là Angel.

Mỗi lần có chị Nga bên cạnh giường chăm sóc và cầm tay mình, ông Gary giường như trở nên sống động hơn và luôn mỉm cười.

Mặc dù đã sống ở Mỹ 17 năm, chị Nga không thể hiểu hết những gì người cha Mỹ nói với mình. “Có những cái tôi không hiểu hết,” chị nói khi trò chuyện với chúng tôi giữa những lần cho ông Gary uống thuốc hay giúp ông vào nhà tắm.

Tuy vậy ông Gary nói “cô ấy hiểu tôi hơn cả tôi hiểu cô ấy,” và với ông, sự kết nối bằng tình cảm và ánh mắt là đủ.

Nhưng trước khi chị Nga tìm được bố mình, theo câu chuyện, Gary chưa từng bao giờ trở lại Việt Nam hay có ý định tìm mẹ con chị. Với ông, ký ức về Việt Nam là “khoảng trống.” Ông Gary cho rằng chính phủ không nên đưa những thanh niên trẻ như ông lúc đó tới Việt Nam. Tuy nhiên, ông vẫn đăng ký tình nguyện sang Việt Nam lần 2 vì ông biết số tiền ông được trả sẽ như thế nào.

“Tôi không có con. Không phải vì (Linda). Không phải vì tôi. Cô ấy không thể có con… Tôi cầu nguyện và Chúa đưa Angel đến với tôi.”

Gary Wittig

Những gì ông kể với cô cháu gái Christine về Việt Nam là công việc của ông tại một đơn vị công binh hải quân Mỹ có biệt danh Seabees. Ông không bao giờ kể về câu chuyện của ông với một người phụ nữ Việt Nam tại nơi làm việc ở Đà Nẵng. “Chỉ có bố tôi biết chuyện này,” chị Christine nói. “Kể cả dì Linda cũng không được chú Gary cho biết.”

Nhưng sự xuất hiện của chị Nga không gợi lại cho Gary những ký ức về Việt Nam. Ông nói chỉ bởi vì trong những tháng qua ông luôn cầu nguyện để Chúa đưa đến cho ông 1 thiên thần.

“Tôi không có con. Không phải vì (Linda). Không phải vì tôi. Cô ấy không thể có con.” Chính vì vậy mà Gary rất vui mừng khi “Người đưa Angel” đến với ông.

“Khi nó ở bên cạnh, tôi có mọi lý do để mỉm cười,” ông Gary nói với đôi mắt mơ màng và tự nhận mình là người sùng đạo. “Từ ngày có Angel, tôi như thấy mình trên thiên đường thứ 7.”

Chúa dẫn lối

Với thân phận người con lai không cha, lớn lên trong nghèo khó và nhiều lần không làm được giấy tờ đi Mỹ, chị Nga đã thấy rất đau khổ và kém may mắn.

Là một người Công giáo, chị nghĩ rằng “Chúa đã sắp đặt đời sống của mình” như thế.

Nhưng vì có lòng tin ở Chúa, chị nói, Chúa đã dẫn dắt chị tìm được cha.

“Chưa bao giờ thấy Chúa bất công với mình. Chương trình của Chúa đã dẫn dắt mình. Có lúc mình muốn tự tử vì thất vọng. Nhưng rồi Chúa cho mình gặp người chồng lo cho mình mọi thứ và tìm được cha.”

Giờ đây mặc dù đã “toại nguyện” vì “Chúa cho ba mẹ đoàn tụ với mình,” chị Nga lại ao ước “giá mà mình tìm được cha sớm hơn để chăm sóc cho ông.” Chị nói nếu tìm gặp được “bố Gary” sớm hơn có lẽ ông đã không lâm vào cảnh ốm yếu thế này.

Giây phút đầu tiên chị Nga gặp bố Gary của mình. Họ đều cầu nguyện Chúa. Chị Nga tìm được bố và ông Gary được Chúa đưa tới một “Thiên thần.”

Sau nhiều năm nghiện rượu và thuốc lá, nhất là sau 2 lần trở về từ Việt Nam, Gary mắc bệnh chai phổi trong 10 năm qua và phải đeo ống thở oxy trong 3 năm trở lại đây. Một lần ngã đã làm ông nhập viện với tình trạng suy tim và giờ đây hầu như không thể đi lại được.

Anh Nguyễn Quế, chồng chị Nga, cũng có chung niềm ao ước đó. Anh ước, giá mà anh chị tìm được ông sớm hơn thì ông đã không còn là một người cô đơn với một cuộc sống không có vợ con chăm sóc.

“Hầu như ngày nào Angel cũng gọi điện thoại hỏi thăm sức khỏe chú Gary,” chị Christine nói đến khoảng thời gian chị Nga phải quay về Nebraska để làm việc và chăm sóc gia đình riêng của chị. “Và Angel luôn nhắc ông uống nước.”

Chị Christine luôn nói về cô em họ mới của mình với nụ cười rạng rỡ trên môi. Chị nói, mọi người trong gia đình chị chưa gặp chị Nga nhưng đã biết và rất vui vì ảnh hưởng của chị Nga tới chú Gary của chị.

Kể từ khi Nga trở thành thành viên trong gia đình, Christine bắt đầu tìm đọc về tập tục và văn hóa Việt Nam cũng như tìm hiểu về cuộc chiến tranh mà chú cô từng tham dự. Christine tìm hiểu cả số phận của những người con lai Mỹ – Việt như chị Nga, người em họ mới của mình.

“Từ ngày có Angel, tôi như thấy mình trên thiên đường thứ 7.”

Gary Wittig

Cuộc chiến Việt Nam đã khiến bao gia đình ly tán, gây chia rẽ triền miên giữa lòng nước Mỹ và giữa lòng Việt Nam. Nhưng cuộc chiến ấy giờ đây đã khép lại với ông Gary và bà Chút. Dù 2 ông bà không được ở bên nhau lâu nữa, nhưng cái kết có hậu đã mang lại hạnh phúc cho cô con gái khi chị Nga đã có 1 người cha và 1 gia đình mới cũng như ông Gary đã có được 1 “thiên thần” vào lúc cuối đời.

Chị Nga thấy mình may mắn bởi còn nhiều người con lai như chị vẫn còn đang trên đường tìm cha của mình.

Và sự trùng phùng này, như chị Nga và người chị họ mới – Christine – mong muốn, sẽ truyền cảm hứng và hy vọng cho họ.

Hà Nội: Tập thể dục, 3 phụ nữ bị xe tông, 2 chết

Hà Nội: Tập thể dục, 3 phụ nữ bị xe tông, 2 chết
Công an khám nghiệm hiện trường vụ việc. (Hình: Báo VNExpress)

HÀ NỘI,Việt Nam (NV) – Ba phụ nữ ở xã Vĩnh Ngọc, huyện Đông Anh, đang đi bộ tập thể dục trên vỉa hè thì bất ngờ bị xe tải tông trúng, khiến hai người chết ngay tại chỗ, một bị thương nặng.

Khoảng 6 giờ sáng ngày 24 Tháng Mười, xe tải cứu hộ giao thông mang bảng số Hà Nội đang chạy trên đường hướng từ cầu Nhật Tân ra phi trường Nội Bài. Khi đi đến đoạn nối với quốc lộ 5, xã Vĩnh Ngọc, huyện Đông Anh, thì chiếc xe bất ngờ lạc tay lái, lao lên vỉa hè, đâm vào ba bà đang đi bộ tập thể dục buổi sáng.

Cú tông mạnh khiến bà Hoàng Thị Tươi (53 tuổi) và Trần Thị Chiến (66 tuổi) chết tại chỗ, còn bà Nghiêm Thị Hương (72 tuổi), được đưa đi viện cấp cứu. Do hoảng sợ, tài xế bỏ xe và trốn ngay sau đó.

Theo mô tả của báo điện tử VNExpress tại hiện trường, phần đầu xe cứu hộ bị móp nhẹ, vỉa hè bị cày xước. Các nạn nhân và giày dép bị văng xa vài mét. Nhận được tin báo, lực lượng chức năng đã xuống hiện trường điều tra. (Tr.N)

Sự dối trá của một số du học sinh Việt Nam ở trời Tây

Sự dối trá của một số du học sinh Việt Nam ở trời Tây

Đạo đức có thể bù đắp cho sự thiếu hụt về trí tuệ, nhưng trí tuệ mãi mãi không thể bù đắp cho sự thiếu hụt về đạo đức.

Một cô gái sau khi tốt nghiệp liền sang Pháp, bắt đầu một cuộc sống vừa đi học vừa đi làm. Dần dần, cô phát hiện hệ thống thu vé các phương tiện công cộng ở đây hoàn toàn theo tính tự giác, có nghĩa là bạn muốn đi đến nơi nào, có thể mua vé theo lịch trình đã định, các bến xe theo phương thức mở cửa, không có cửa soát vé, cũng không có nhân viên soát vé, đến khả năng kiểm tra vé đột xuất cũng rất thấp.

Cô đã phát hiện được lỗ hổng quản lí này, hoặc giả chính suy nghĩ của cô có lỗ hổng. Dựa vào trí thông minh của mình, cô ước tính tỉ lệ để bị bắt trốn vé chỉ khoảng ba phần trăm.

Cô vô cùng tự mãn với phát hiện này của bản thân, từ đó cô thường xuyên trốn vé. Cô còn tự tìm một lí do để bản thân thấy nhẹ nhõm: mình là sinh viên nghèo mà, giảm được chút nào hay chút nấy.

 

Sau bốn năm, cô đạt được tấm bằng tốt nghiệp loại giỏi của một trường danh giá, cô tràn đầy tự tin đến những công ty lớn xin việc.

Nhưng những công ty này không hiểu vì lí do gì, lúc đầu còn rất nhiệt tình nhưng về sau đều từ chối cô. Thất bại liên tiếp khiến cô tức tối. Cô nghĩ nhất định những công ty này phân biệt chủng tộc, không nhận người nước ngoài.

Cuối cùng có một lần, cô trực tiếp đến bộ phận nhân lực của một công ty, yêu cầu giám đốc đưa ra một lý do vì sao từ chối cô. Kết cục họ đưa ra một lí do khiến cô không ngờ.

“Thưa cô, chúng tôi không hề phân biệt chủng tộc, ngược lại chúng tôi rất coi trọng cô. Lúc cô đến phỏng vấn, chúng tôi đều rất hài lòng với môi trường giáo dục và trình độ học vấn của cô, thực ra nếu xét trên phương diện năng lực, cô chính là người mà chúng tôi tìm kiếm.”

“Vậy tại sao công ty ngài lại không tuyển dụng tôi?”

“Bởi chúng tôi kiểm tra lịch sử tín dụng của cô và phát hiện ra cô đã từng ba lần bị phạt tiền vì tội trốn vé”

“Tôi không phủ nhận điều này, nhưng chỉ vì chuyện nhỏ này, mà các anh sẵn sàng bỏ qua một nhân tài đã nhiều lần được đăng luận văn trên báo như tôi sao?”

“Chuyện nhỏ? Chúng tôi lại không cho rằng đây là chuyện nhỏ. Chúng tôi phát hiện, lần đầu tiên cô trốn vé là khi mới đến đất nước chúng tôi được một tuần, nhân viên kiểm tra đã tin rằng do cô mới đến và vẫn chưa hiểu rõ việc thu vé tự giác, cho phép cô được mua lại vé. Nhưng sau đó cô vẫn trốn vé thêm 2 lần nữa.”

“Khi đó trong túi tôi không có tiền lẻ.”

“Không, không thưa cô. Tôi không thể chấp nhận lí do này của cô, cô đang đánh giá thấp IQ của tôi ư. Tôi tin chắc trước khi bị bắt trốn vé, cô đã trốn được cả trăm lần rồi.”

“Đó cũng chẳng phải tội chết, anh sao phải cứng nhắc như vậy? Tôi sửa là được mà.”

“Không không, thưa cô. Chuyện này chứng tỏ hai điều: Một là cô không coi trọng quy tắc. Cô lợi dụng những lỗ hổng trong quy tắc và sử dụng nó. Hai, cô không xứng đáng được tin tưởng. Mà rất nhiều công việc trong công ty chúng tôi cần phải dựa vào sự tin tưởng để vận hành, nếu cô phụ trách mở một khu chợ ở một nơi nào đó, công ty sẽ cho cô toàn quyền lực phụ trách. Để tiết kiệm chi phí, chúng tôi sẽ không lắp đặt các thiết bị giám sát, cũng như các hệ thống xe công cộng mà cô đã thấy đó. Vì vậy chúng tôi không thể tuyển dụng cô, tôi có thể chắc chắn rằng, tại đất nước chúng tôi, thậm chí cả châu Âu này cô sẽ không thể xin vào được nổi một công ty nào đâu.”

Đến lúc này cô mới tỉnh ngộ và cảm thấy hối hận vô cùng. Sau đó, điều khiến cô ghi nhớ nhất là câu nói cuối cùng của vị giám đốc này: Đạo đức có thể bù đắp cho sự thiếu hụt về trí tuệ, nhưng trí tuệ mãi mãi không thể bù đắp cho sự thiếu hụt về đạo đức.

Đạo đức là phẩm chất cơ bản nhất của con người, cũng là nhân cách của một người. Một người dù ưu tú đến đâu nhưng nhân cách có vấn đề, cũng sẽ mất đi niềm tin và sự ủng hộ của người khác. Trên phương diện việc làm, những hành vi mất nhân cách thế này càng đáng sợ hơn, vì cái lợi nhỏ trước mắt mà phá bỏ nguyên tắc, điều này chắc chắn sẽ hủy hoại tiền đồ của bạn. Tôi cho các bạn lời khuyên chân thành, trong sự nghiệp cần phải dựa vào năng lực và chân thành của bản thân, mất thứ gì cũng không bằng mất nhân phẩm.

Nguồn: Cafekubua

HỘI VĂN BÚT ANH QUỐC LÊN TIẾNG YÊU CẦU NHÀ CẦM QUYỀN HÀ NỘI “NGƯNG NGAY ĐÀN ÁP”

From facebook:Hoa Kim Ngo shared Nguyễn Hoàng-Thanh Tâm‘s post.
 
Image may contain: 2 people, text
Nguyễn Hoàng-Thanh Tâm is with Oai Jb Nguyễn Văn and 7 others.

 

HỘI VĂN BÚT ANH QUỐC LÊN TIẾNG YÊU CẦU NHÀ CẦM QUYỀN HÀ NỘI “NGƯNG NGAY ĐÀN ÁP”

Trang web của Hội Văn Bút Anh Quốc (English PEN) hôm nay đã đăng tải bản thông cáo báo chí yêu cầu nhà cầm quyền Hà Nội phải chấm dứt cuộc đàn áp các nhà đấu tranh dân chủ đang diễn ra tại Việt Nam.

Bản thông cáo báo chí của liên minh 10 tổ chức nhân quyền quốc tế và Việt Nam đồng ký tên cho biết: “Việt Nam đang phải đối diện với một cuộc đàn áp chính trị rộng lớn nhất từ trước đến nay. Tính đến nay, chỉ trong vòng chưa đầy một năm, nhà cầm quyền Việt Nam đã bắt giữ hay lưu đày ít nhất 25 nhà hoạt động và blogger ôn hòa.”

Đặt dưới chiêu bài “an ninh quốc gia” những hành động của nhà nước Việt Nam thực chất chỉ nhằm “đàn áp và bịt miệng những tiếng nói phản kháng.”

Liên minh các tổ chức nhân quyền kêu gọi mọi người cùng nỗ lực:

– Tạo sự quan tâm sâu rộng để lên án việc đàn áp hiện nay tại Việt Nam

– Hỗ trợ tài chánh, pháp lý và tinh thần cho các nhà hoạt động đang bị bắt giữ và cho gia đình họ

– Dùng các biện pháp và luật lệ hiện hành nhằm gia tăng các áp lực quốc tế lên nhà cầm quyền Hà Nội, đòi hỏi phải trả tự do cho mọi tù nhân chính trị.

Danh sách tham gia liên minh các tổ chức nhân quyền này gồm các tổ chức tại Việt Nam và quốc tế như Hội Bầu Bí Tương Thân, Hội Anh Em Dân Chủ, Phong Trào Chấn Hưng Nước Việt, Defend The Defenders, English PEN, Lawyers for Laywers, Lawyers’ Rights Watch Canada, Reporters Without Borders, Phong Trào Lao Động Việt và Đảng Việt Tân.

#StopTheCrackdownVN

—–
Nguyễn Hoàng-Thanh Tâm

Link English PEN: https://www.englishpen.org/c…/stop-the-crackdown-in-vietnam/
Toàn văn bản tiếng Việt: http://www.viettan.org/Ngung-Ngay-Đan-Ap-tai-Viet-Nam.html