Thanh Thúy, hiện tượng khó giải thích
Du Tử Lê/Người Việt
https://www.nguoi-viet.com/van-hoc-nghe-thuat/thanh-thuy-hien-tuong-kho-giai-thich/
Tin Cộng Đồng Việt Nam ở Mỹ và ở Việt Nam
Thanh Thúy, hiện tượng khó giải thích
Du Tử Lê/Người Việt
https://www.nguoi-viet.com/van-hoc-nghe-thuat/thanh-thuy-hien-tuong-kho-giai-thich/
“Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,
hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn (Tv 61, 2)”
Ave-Maria
Vincente Nguyễn Văn Hà, tttl
Thư một linh mục Công giáo gửi báo The New York Times:
Anh bạn phóng viên thân mến.
Tôi chỉ là một linh mục Công giáo bình thường. Tôi cảm thấy hạnh phúc và tự hào về ơn gọi của mình. Trong 20 năm qua, tôi đã sống ở Angola với tư cách là một nhà truyền giáo.
Tôi đọc trong nhiều phương tiện truyền thông, đặc biệt là tờ báo của bạn, sự phóng đại của chủ đề linh mục ấu dâm, nhưng trong một cách bệnh hoạn, vì chỉ tìm kiếm chi tiết trong đời sống các linh mục, các sai lầm trong quá khứ.
Có một trường hợp linh mục ấu dâm, trong một thành phố của Mỹ, trong những năm 1970, một trường hợp ở Úc trong thập niên 1980, và cứ như thế, có trường hợp mới đây hơn…. Chắc chắn rằng tất cả các trường hợp này đáng bị khiển trách!
Có các bài báo được cân nhắc và cân bằng, có các bài khác lại phóng đại, đầy thành kiến và thậm chí hận thù nữa. Tôi tự cảm thấy đau đớn nhiều về sự dữ lớn lao rằng các người đáng lẽ là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, lại là con dao găm trong cuộc sống của các người vô tội. Không có từ ngữ nào để biện minh cho các hành vi như vậy. Không có nghi ngờ rằng Giáo Hội phải là đứng về phia kẻ yếu, và người nghèo. Vì lý do này, tất cả các biện pháp mà người ta có thể dùng để ngăn ngừa và bảo vệ nhân phẩm của trẻ em sẽ luôn luôn là một ưu tiên.
Nhưng sẽ là kỳ cục hết sức khi có ít tin tức và sự thiếu quan tâm đến hàng ngàn các linh mục khác, đã hiến đời mình và phục vụ hàng triệu trẻ em, thanh thiếu niên và các người bất hạnh nhất ở bốn phương trời của thế giới.
Tôi nghĩ rằng đối với tờ báo của bạn, các điều sau đây không hề được quan tâm đề nói tới:
1) Tôi phải di chuyển qua các con đường đầy mìn do chiến tranh trong năm 2002, để giúp đỡ các em nhỏ đang chết đói từ Cangumbe đến Lwena (Angola), bởi vì cả chính quyền không thể làm được và cả các tổ chức phi chính phủ không được phép làm;
2) Tôi đã chôn cất hàng chục trẻ em chết do việc dời chỗ vì chiến tranh;
3) Chúng tôi đã cứu sống hàng ngàn người dân ở Mexico, nhờ một trung tâm y tế duy nhất hiện hữu trong một vùng có diện tích 90.000 km2, với việc phân phát thực phẩm và các loại giống cây trồng;
4) Chúng tôi đã có thể cung cấp giáo dục và trường học trong mười năm qua cho hơn 110.000 trẻ em;
5) Cùng với các linh mục khác, chúng tôi đã cứu trợ cho gần 15.000 người ở các trại du kích quân, sau khi họ đã đầu hàng và giao nạp vũ khí, bởi vì thực phẩm của chính phủ và của Liên Hiệp Quốc không thể đến được với họ;
6) Không phải là tin tức thú vị khi một linh mục 75 tuổi, Cha Roberto, rảo qua thành phố Luanda ban đêm, chăm sóc các trẻ em đường phố, dẫn họ đến một nơi trú ngụ, để cho họ không bị ngộ độc bởi xăng dầu mà họ hít để kiếm sống, như là người ném lửa;
7) Việc xoá nạn mù chữ cho hàng trăm tù nhân cũng không phải là tin hay;
8) Các linh mục, như cha Stéphane, tổ chức các nhà tạm trú cho các thanh thiếu niên bị ngược đãi, đánh đập, hãm hiếp, để họ tạm lánh;
9) Linh mục Maiato, 80 tuổi, đến thăm từng ngôi nhà một của người nghèo, an ủi người bệnh và người tuyệt vọng;
10) Không phải là tin hấp dẫn khi hơn 60.000 trong số 400.000 linh mục và tu sĩ hiện nay đã rời đất nước và gia đình của họ để phục vụ anh em mình tại các quốc gia khác trong các trại phong, bệnh viện, trại tị nạn, cô nhi viện cho trẻ em bị cáo buộc là phù thủy, hoặc cho trẻ em mồ côi do cha mẹ chết vì AIDS, trong các trường học dành cho người nghèo nhất, trung tâm dạy nghề, trung tâm tiếp nhận người nhiễm HIV……
11) Nhất là các linh mục dành đời mình trong các giáo xứ và cứ điểm truyền giáo, động viên mọi người sống tốt hơn và nhất là thương mến người khác;
12) Không phải là tin hấp dẫn khi bạn tôi, Cha Marcos Aurelio, để giải cứu trẻ em trong cuộc chiến ở Angola, đã đưa các em từ Kalulo đến Dondo và khi trên đường trở về, cha bị bắn chết; và một tu sĩ tên là Phanxicô và năm nữ giáo lý viên, bị chết trong một tai nạn, khi họ đi giúp đỡ các vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh nhất của đất nước;
13) Hàng chục các nhà truyền giáo tại Angola đã chết vì thiếu các phương tiện y tế, chỉ vì bệnh sốt rét đơn giản;
14) Nhiều người khác đã bị tung xác lên trời do mìn nổ, khi đi thăm các tín hữu; quả vậy, trong nghĩa trang ở Kalulo, có mộ các linh mục đầu tiên đến khu vực ấy… không ai sống hơn 40 tuổi cả….;
15) Không phải là tin hấp dẫn, khi một linh mục “bình thường” sống công việc hàng ngày của mình, trong các khó khăn và niềm vui của mình, sống âm thầm cả đời vì lợi ích của cộng đoàn mình phục vụ;
Sự thật, là linh mục chúng tôi không cố gắng để có tên trong tin tức, nhưng chỉ mang “Tin Mừng”, và Tin Mừng này, không ồn ào, đã bắt đầu vào buổi sáng Phục Sinh. Một cây ngã gây tiếng ồn nhiều hơn cả cánh rừng đang mọc và phát triển.
Người ta gây nhiều tiếng ồn cho một linh mục phạm một lỗi lầm, hơn là gây tiếng ồn cho hàng ngàn linh mục hiến đời mình cho hàng chục ngàn trẻ em và người nghèo khó.
Tôi không muốn làm một biện hộ cho Giáo Hội và các linh mục.
Một linh mục không phải là một anh hùng, cũng không phải là một người rối loạn thần kinh. Linh mục chỉ là một con người bình thường, và với bản tính con người của mình, tìm cách theo Chúa và phục vụ Ngài trong anh chị em của mình.
Linh mục có nhiều khổ đau, nghèo đói và sự mỏng giòn như các người khác; nhưng linh mục cũng có vẻ đẹp và hùng vĩ như mọi thụ tạo khác…. Việc nhấn mạnh một cách ám ảnh bẩm sinh và phá hoại về một đề tài đau đớn, trong khi mất tầm nhìn chung của công việc, tạo ra thật sự các biếm họa tấn công vào hàng linh mục Công Giáo, do đó tôi cảm thấy bị xúc phạm.
Tôi chỉ yêu cầu anh, người bạn phóng viên thân mến, hãy tìm kiếm Chân, Thiện, Mỹ. Điều này sẽ làm lớn mạnh nghề nghiệp của bạn.
Chào anh trong Đức Kitô,
Linh mục Martin Lasarte, SDB
“Quá khứ của con, Lạy Chúa, con phó thác cho lòng Thương xót của Chúa; hiện tại của con, cho Tình yêu Chúa; và tương lai của con, cho sự Quan Phòng của Chúa”.
(St. Padre Pio)
From: NguyenNThu & huynhthuyquyen
Từ bỏ giàu sang để theo Mẹ Têrêsa Calcutta
Jakarta – Sinh ra trong một trong những gia đình giàu nhất của Indonesia, Maria Donna Dewiyanti Darmoko, người Indonesia gốc Trung hoa, đã rời bỏ những xa hoa nhung lụa để dâng hiến đời mình phục vụ cho những người nghèo ở Hồng kông, ở Hoa kỳ và hiện nay ở Đông Timor. Chị vào dòng Mẹ Têrêsa và nhận tên gọi Lucy Agnes.
Maria Donna sinh tại Kudus, trong một gia đình Công giáo giàu có, sở hữu ngành công nghiệp thuốc lá PT Djarum. Cô đã theo học tại Úc và sau đó tốt nghiệp tại Hoa kỳ. Lần đầu tiên cô gặp các nữ tu Thừa sai bác ái là khi cô tham gia vào việc chăm sóc các người vô gia cư ở Illinois. Rồi một lần kia khi cô đang nghỉ hè với gia đình ở Hồng kông, trong một khách sạn sang trọng, cô cảm thấy khó chịu khi nhìn thấy quá nhiều người không nhà cửa trên các con đường của Hồng kông, những người nghèo khổ, thấp bé, dơ dáy, bệnh tật. Bản năng tình cảm đầu tiên của chị là muốn chạy khỏi cảnh tượng gây buồn nôn. Rồi khi chị tránh những người này, đã có điều gì đó ngăn chị lại, dường như bảo chị trở lại với họ để làm điều gì đó tốt cho những người kém may mắn này.
Maria Donna đã quyết định vào dòng các Thừa sai bác ái với tên gọi Lucy Agnes. Cha mẹ của chị phản đối mạnh mẽ chọn lựa của chị. Từ ngày đó chị Lucy bắt đầu làm việc với người nghèo và những người thấp bé nhất trong xã hội, tránh sự quan tâm của báo chí. Hiện nay chị đang phục vụ ở Đông Timor, một trong những đất nước nghèo nhất Á châu. Rất khó liên lạc với chị vì chị không cho nhiều người biết địa chỉ email cũng như số điện thoại của chị; điều này cũng giống như các Thừa sai bác ái ở Indonesia vì họ hoạt động trong âm thầm và không quảng cáo về mình. (Asia News
Hồng Thủy
From: NguyenNThu

Bốn trăm lẻ sáu( 406) tướng đảng CSVN mở mắt to ra xem nhục chưa ….?
Người có công với nhân loại nói chung và VN nói riêng
Con người và sự nghiệp
![]() |
Dân Việt chúng ta khá quen với tên tuổi của 2 danh nhân thuộc y giới người Pháp: Bác sĩ ‘vi sinh học’ Louis Pasteur và bác sĩ ‘vi khuẩn học’ Alexandre Yersin. Ta nghe biết nhiều về cụ Pasteur, sinh năm 1822, qua các ’viện Pateur’ với chuyện tiêm chủng chống bệnh đậu mùa. Còn cụ Yersin thì sinh vào năm 1863 (cha mẹ gốc Pháp, di cư qua Thụy Sĩ và sinh ông tại đây). Nhưng vị bác sĩ sau này đã về học và nhập tịch Pháp) rồi quyết định qua sống tại Việt Nam, và trở thành vị ân nhân sáng giá và gần gũi với dân tộc ta rất nhiều. Từ quê nhà, ông đã vang danh khi cùng một bác sĩ bạn khám ra độc tố ‘bạch hầu’, rồi sau khi qua Đông Dương, khám phá ra vi khuẩn bệnh dịch hạch.
Vì muốn phục vụ dân nghèo cũng như tìm chỗ thuận tiện cho việc nghiên cứu khoa học, ông quyết định chọn địa danh Nha Trang làm quê hương thứ hai, để rồi tìm cách xây dựng tại đây một ‘viện Pasteur’ đầu tiên. Trước hết, ông dựng một nhà gỗ đơn sơ tại ‘Xóm Cồn’ để chữa bệnh cho dân nghèo. Đồng thời ông cũng say mê khám phá thám du các vùng rừng núi gần xa. Chuyến đi đầu tiên khá nguy hiểm nhưng thành công mỹ mãn, trải rộng tới phía tây nước Việt, đụng tới sông Mekong bên xứ Miên và Thái. Thế là chính quyền Pháp bắt đầu biết và rất hãnh diện về ông.
Tháng 6 năm 1893, được sự ủy thác của Toàn quyền Đông Dương Jean-Marie de Lanessan, Yersin tổ chức đoàn thám hiểm theo đường bộ từ Đồng Nai lên Di Linh, cuối cùng khám phá Cao nguyên Lâm Viên. Trong nhật ký, Yersin ghi nhận có vài làng của người sắc tộc D’Lat nằm rải rác trong vùng, và “Từ trong rừng thông bước ra, tôi sững sờ khi đối diện một bình nguyên hoang vu, giống như mặt biển, tràn đầy những làn sóng màu xanh lá cây. Sự hùng vĩ của rặng Langbiang hòa lẫn vào đường chân trời tây bắc tạo nên bối cảnh tráng lệ, gia tăng vẻ đẹp của vùng đất này.” [Đến năm 1899, tại vùng đất được Yersin khám phá, Toàn quyền Paul Doumer cho thiết lập một khu nghỉ dưỡng cho người Âu châu, sau trở thành Đà Lạt].
Chẳng may, trên đường trờ về Nha Trang, ông bị một nhóm cướp tấn công, khiến ông bị thương nơi ngực và chân. Nhưng lại rất may, biết các kỹ thuật y khoa, ông sống sót, để rồi vẫn ráng tổ chức thêm cuộc thám hiểm kế tiếp.
Cuối năm đó, với một lực lượng hùng hậu – ngoài 54 người tùy tùng còn có một toán lính tập mang súng theo hộ tống – Yersin khởi hành cũng từ Đồng Nai, lên Đà Lạt, rồi đi tiếp đến cao nguyên Đắk Lắk, vào Attopeu ở nam Lào, rồi lại theo hướng đông ra biển, để đến Đà Nẵng vào ngày 17 tháng 5 năm 1894. Cuộc khảo sát lần này thăm dò một vùng đất rộng lớn trải rộng từ vĩ tuyến 11 ở phía nam đến vĩ tuyến 16 ở phía bắc.
Trang nhật ký Yersin ghi, “Đường đi thật là khủng khiếp. Trong 4 ngày liên tiếp, chúng tôi phải vượt qua một vùng núi hiểm trở, trèo xuống, leo lên, cứ đơn điệu như thế làm cho chúng tôi rất mệt mỏi… Cây cối chen chúc. Không có đường mòn. Chúng tôi phải khòm lưng chui qua các bụi tre. Vì trời mưa nên rừng có nhiều vắt không thể tả được. Những người Việt Nam đi cùng với chúng tôi bị sốt rét, mặc dầu đã uống thuốc ngừa…”
Nghiên cứu bệnh dịch hạch
![]() |
| Tượng Yersin tại Bảo tàng viện Y khoa Hồng Kông |
Trong khi Yersin đang chuẩn bị cho cuộc thám hiểm nữa thì bệnh dịch hạch đã bộc phát ở miền Nam Trung Hoa và lan truyền xuống Đông Dương, gây tử vong cao, và trở thành mối đe dọa cho tất cả cảng biển có giao dịch thương mại với Trung Hoa (Việt Nam lây dịch bắt đầu với cảng Hải Phòng). Nhà cầm quyền thuộc địa Pháp bèn cử Yersin đến Hồng Kông để nghiên cứu bệnh dịch hạch..
Yersin là người đầu tiên chứng minh rằng trực khuẩn dịch hạch hiện diện ở chuột bệnh và người bệnh là một, nhờ đó ông đã giải thích được phương thức truyền bệnh. Cũng trong năm ấy, khám phá này được cộng tác viên Émile Duclaux gửi đến Viện Hàn lâm Khoa học Pháp, trong bài báo nhan đề La Peste Bubonique de Hong-Kong (Bệnh dịch hạch ở Hồng Kông).
Năm 1895 ông trở lại Viện Pasteur ở Paris và cùng với Émile Roux, Albert Calmette và Armand Borrel đã điều chế ra huyết thanh chống bệnh dịch hạch đầu tiên. Cùng năm đó, ông trở về Đông Dương và lập một phòng thí nghiệm nhỏ tại Nha Trang để sản xuất huyết thanh. Năm 1896, ông thành lập trại chăn nuôi Suối Dầu, nuôi ngựa để sản xuất huyết thanh.
Năm 1896, Yersin đến Quảng Châu, được phép công khai tiêm huyết thanh (điều chế tại Nha Trang) cho một bệnh nhân tại đây, và nghiễm nhiên trở thành người thầy thuốc đầu tiên cứu sống một bệnh nhân dịch hạch. Yersin tiếp tục cuộc hành trình chống bệnh dịch hạch (bằng huyết thanh) với những điểm đến kế tiếp tại nhiều thành phố khác.
Ân nhân về nhiều ngành chuyên môn:
![]() |
| Viện Pasteur Nha Trang |
Sau ít thời gian làm việc ở Bombay (Ấn Độ), Yersin quyết định trở về Nha Trang trong năm 1898. Với sự hỗ trợ từ Toàn quyền Doumer, ông xây dựng Viện Pasteur Nha Trang. Rồi ông mua một khu đất rộng 500 héc-ta ở Suối Giao (nay là Suối Dầu) để làm nơi nghiên cứu nông nghiệp và chăn nuôi. Ông cho trồng cây cà-phê Liberia, các loại cây thuốc, cây coca để sản xuất cô-ca-in sử dụng trong ngành dược, tuyển chọn nhiều loại thực vật và động vật từ khắp nơi trên thế giới để nuôi trồng tại đây, biến nó thành một cộng đồng nông nghiệp và khoa học (với một trạm xá y tế phục vụ cư dân nghèo trong vùng). Trong thời gian này, sản xuất huyết thanh chống dịch cho bò tự nhiên trở thành nguồn thu nhập chính của Yersin, giúp ông có sức mở rộng việc nghiên cứu. Trung tâm thí nghiệm này về sau trở thành viện thú y đầu tiên ở Đông Dương.
Là người đầu tiên nhập giống cây cao su về trồng tại Việt Nam, Yersin trở thành chủ một đồn điền cao su lúc đầu rộng khoảng 100 hec-ta, kiếm tiền đủ để nuôi sống Viện của ông. Ông còn ra công nghiên thêm về các loại chim, nghề làm vườn, và sưu tầm các loại hoa. Ông cũng mở một chiến dịch trồng rừng, đồng thời khuyên dân làng bỏ tập tục chặt đốt cây rừng. Ông còn trồng thử nghiệm cây ‘canh-ki-na’ để sản xuất thuốc ký ninh chữa bệnh sốt rét. Ông cũng tìm ra đất thích hợp cho loại cây này ở vùng đất Dran và Di Linh.
Yersin thích biết mọi thứ, ông là chuyên gia về nông học nhiệt đới, nhà vi trùng học, nhà dân tộc học, nhiếp ảnh gia, rồi nghiên cứu khí tượng. Ông mua máy điện lượng kế, làm một con diều thật lớn thả lên độ cao một ngàn mét để đo điện khí quyển và dự đoán giông bão. Ông muốn giúp những người dân chài thường khi bị mất tích trên biển mỗi lúc có lốc xoáy vụt đến. Yersin thuyết phục Fichot, một kỹ sư thủy văn phục vụ trong hải quân và rất say mê thiên văn học, đến sống với ông trong ngôi nhà lớn ở Xóm Cồn với kính thiên văn và máy quan tinh được lắp đặt trên sân thượng, để cùng nhau nghiên cứu khí tượng. Trong những ngày cuối đời, Yersin gắn bó với niềm đam mê mới: văn chương. Ở tuổi tám mươi, ông lại học tiếng Latin, tiếng Hy Lạp, và biên dịch những tác phẩm của Phèdre, Virgile, Horace, Salluste, Cicéron, Platon, và Démosthène.
Trường Y Đông Dương
Năm 1902 Toàn quyền Paul Doumer, trước khi rời Đông Dương, mời Yersin từ Nha Trang ra Hà Nội để mở một trường Y, một bệnh viện, và một trung tâm vệ sinh. Chỉ với Trường Y “ước tính việc xây dựng sẽ tốn một triệu rưỡi franc!” Một số tiền lớn, song theo nhận xét của Yersin, vẫn rẻ hơn nhiều, lại hữu ích hơn nhiều so với cái nhà hát ở Sài Gòn.
Yersin được bổ nhiệm làm hiệu trưởng đầu tiên củaTrường Y Đông Dương này (là tiền thân của Đại học Y Hà Nội). Ông thiết lập giáo trình theo hình mẫu đại học Pháp – sáng khám bệnh ở bệnh viện, chiều dành cho lý thuyết – đích thân ông giảng dạy trong các giờ vật lý, hóa học, và phẫu thuật.
Trường khai giảng ngày 1 tháng 3 năm 1902, năm học đầu tiên có 29 sinh viên, 15 người đến từ Bắc Kỳ, 5 từ Trung Kỳ, 8 từ Nam Kỳ, và 1 từ Cao Miên. Tất cả đều được nhận học bổng 8 đồng mỗi tháng. Ghi nhận của Yersin về những sinh viên Y khoa đầu tiên được đào tạo ở Đông Dương, “Họ rất chăm học, có những người xuất sắc ngang với những sinh viên giỏi nhất bên Pháp. Điều thú vị là ngay cả những người thông minh cũng học rất chăm. Gần như có thể nói rằng không có ai lười biếng.”
Ông có công di chuyển trường khỏi làng Kinh Lược, cho xây dựng ngôi trường ở phố Bobillot (Lê Thánh Tông ngày nay), và xây dựng bệnh viện thực hành ở phố Lò Đúc.
Sau hai năm, khi mọi thứ đã vào guồng, Yersin xin từ nhiệm, và trở về Nha Trang.
Vĩ nhân từ trần
Trong thời gian diễn ra Chiến tranh thế giới thứ hai, ngày 1 tháng 3 năm 1943, Yersin từ trần tại nhà riêng ở Nha Trang, thọ 80 tuổi, ông để lại di chúc, “Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu. Yêu cầu ông Bùi Quang Phương giữ tôi lại tại Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho Viện Pasteur Nha Trang, và những người cộng sự lâu năm. Đám táng làm giản dị, không huy hoàng không điếu văn.” Dù vậy, rất đông người tìm đến để đưa tiễn ông về nơi an nghỉ cuối cùng. Nhiều người dân Xóm Cồn và Nha Trang than khóc và để tang cho ông. Đoàn người đưa tang dài đến hơn ba cây số. Dân chúng coi ông là ‘công dân’ Nha Trang, vì ông đã sống ở đây tròn 50 năm.
Di sản của ông quá lớn. Toàn dân Việt Nam, hơn mọi dân tộc khác, phải ghi ơn ông mãi mãi. Vua Bảo Đại đã truy tặng ông bội tinh kim khánh. Dân nghèo nhớ ông vì lòng nhân hậu. Bệnh nhân không quên công trình y khoa của ông. Nhiều thành phố có tên đường là ông. Nha Trang và Đà Lạt ghi dấu ấn của ông qua nhiều hình thức, nhất là có công viên vinh danh ông. Mộ ông tại Suối Dầu và thư viện ông tại viện Pasteur Nha Trang nay là di tích lịch sử quốc gia. Năm 2014 Việt Nam truy tặng ông là ‘công dân danh dự’ và cho ra mắt bộ sưu tập tem bưu chính mang hình ảnh ông.
![]() |
| Đại học Yersin Đà Lạt |
May mắn biết bao dân nước ta có một ân nhân vĩ đại, một ‘huyền thoại’ đáng kính phục như ngài Yersin !
Yersin đã sống trọn đời độc thân, xa lánh chốn phồn hoa Paris để theo con đường phục vụ tha nhân.
Lời cuối của ông: “Tôi muốn theo chân Chúa Ky Tô để phục vụ mọi người trọn đời tôi”.
Đáng ngưỡng mộ thay!
From: thunnguyen




Tạm Biệt Thượng Nghị Sĩ John S. McCain ! Cầu nguyện cho ông được an vui miền cực lạc
Tôi có dịp phỏng vấn và được diện kiến ông vài lần tại quốc hội . Ông hiền hoà , dễ mến và rất ủng hộ người Việt tị nạn CS . Ông là ân nhân của bao nhiêu gia đình H.O trong đó có gia đình tôi. Thế hệ của tôi không thể được như hôm nay nếu không có những người có đầy đủ nghị lực và tiếp tục tranh đấu sau những đau thương mất mát như ông, một người đã bước lên từ hố sâu của tuyệt vọng như một tù nhân chiến tranh ở Việt Nam đến chiếc ghế quyền lực như một Nghị sĩ đảng Cộng Hoà và Thượng Nghị Sĩ Arizona với hai lần ra tranh cử tổng thống Hoa Kỳ .
Ông là con trai , là cháu nội của những vị đại tướng 4 sao . Ông nội và ba của ông là những vị anh hùng được nhiều người ngưỡng mộ . Ông McCain đã mang tên tuổi nổi tiếng của mình vào trận chiến và chiến đấu trên chính trường hơn nữa thế kỷ qua .
Trong cuộc chiến tại Việt Nam nơi mà ông bị tước bỏ tất cả trừ tính cách của mình . Điều mà Việt Cộng không bao giờ tiết lộ là chúng tra tấn ông rất dã man trong tù ,ông bị biệt giam suốt hai năm , bị đánh thường xuyên trong tình trạng tay chân trói ngoặc ra sau lưng.
Trong suốt những ngày vừa qua truyền thông của Hoa Kỳ đều nói ra sự thật này. Điều đó cho thấy Việt Cộng là một tập đoàn gian xảo, dối trá và hèn hạ . Chính ông J McCain đã từ chối được phóng thích sớm để giữ danh dự của mình và để tránh VC dùng ông như một công cụ tuyên truyền để làm mất đi tinh thần của các tù nhân khác.
Đối với hàng triệu người Mỹ ông J. McCain là hiện thân của lòng can đảm, một anh hùng trở về sau cuộc chiến mang đầy thuơng tích trên cơ thể , thậm chí cho đến bây giờ ông đã vĩnh viễn không thể giơ tay lên đầu , nhưng Việt Cộng đã không thể làm cho tinh thần ông giảm đi do những vết sẹo về tâm lý . Mà chính ông lại là người bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong những năm vừa qua . Chắc chắn rằng ông tha thứ cho kẻ thù nhưng vẫn chưa bao giờ quên tên họ. Đây là lý do mà ông luôn ủng hộ và ưu ái dành cho những người lính VNCH một chỗ khá đặc biệt trong trái tim ông .
California 8/27/18
Những người Việt Nam từng gặp Thượng Nghị sĩ John McCain chia sẻ với VOA về tình cảm trân trọng của họ dành cho nhà lãnh đạo Quốc hội Hoa Kỳ vừa qua đời, người để lại một di sản lớn trong mối quan hệ giữa hai nước cựu thù.
Tấm gương cho lãnh đạo Việt Nam
Bà Lê Thu Hà, một phụ nữ ở Hà Nội, có dịp gặp Thượng Nghị sĩ John McCain cách nay mười mấy năm, nói với VOA rằng ông là nhân cách đáng trân trọng mà các lãnh đạo Việt Nam cần học tập.
“Ngài thượng nghị sĩ mà tôi từng gặp tại thủ đô Hà Nội đã ra đi rồi. Tôi rất ấn tượng khi trong những cuộc tranh luận tại thượng nghị viện Mỹ, ông thúc bách chính phủ Mỹ hãy thiết lập mối quan hệ với Việt Nam và gạt bỏ những đau thương trong chiến tranh. Tôi rất ngưỡng mộ vì ông, một cựu tù binh tại Hỏa Lò Hà Nội, lại là người đi đầu trong việc gạt bỏ những đau thương này. Tôi nghĩ chính phủ Việt Nam cần phải học ở ông John McCain. Những người cầm quyền, những vị lãnh đạo ở Hà Nội cần phải nhìn vào tính cách của ông John McCain mà học tập.”
Tôi nghĩ chính phủ Việt Nam cần phải học ở ông John McCain. Những người cầm quyền, những vị lãnh đạo ở Hà Nội cần phải nhìn vào tính cách của ông John McCain mà học tập.Bà Lê Thu Hà ở Hà Nội
Cựu nữ cử nhân khoa tiếng Anh ở Hà Nội vẫn còn nhớ lời của Thượng nghị sĩ Mỹ khi ông mong ước người Việt Nam hãy vượt trên các “khuôn khổ hạn hẹp” mà tiến xa hơn về phía trước:
“Ông muốn người Việt Nam dùng sức lực và tâm quyết của mình vượt lên trên các khuôn khổ hạn hẹp để phấn đấu đi lên bằng trí tuệ, học hành.”
Ủng hộ giới tranh đấu
Luật sư nhân quyền Lê Quốc Quân, đã đôi lần gặp ông John McCain, chia sẻ rằng ngài thượng nghị sĩ Hoa Kỳ là một người đầy bao dung, quan tâm đến từng cá nhân cụ thể:
“Ông ấy là một người tuyệt vời. Ông John McCain không chỉ quan tâm đến những vấn đề lớn, tầm quốc gia, mà còn quan tâm đến những con người cụ thể, trao đổi cụ thể đối với chính phủ Việt Nam.
“Cá nhân tôi là một bằng chứng rất rõ ràng. Khi tôi bị bắt thì ông lên tiếng, và ông lên tiếng với từng điều khoản cụ thể với phía Việt Nam. Và cuối cùng là tôi được trả tự do.
“Có lần tôi đến thăm ông về thì tôi bị đánh. Tôi kể câu chuyện đó cho ông và ông bảo Việt Nam phải tiến hành một cách rõ ràng để sự việc đó không bị lặp lại. Tôi nghĩ ông John McCain quan tâm đến từng người một và đầy lòng nhân hậu, bao dung và có tầm nhìn chiến lược.”
Thượng nghị sĩ bang Azrizon đã nhiều lần đến thăm Hà Nội, nơi ông từng bị giam cầm từ năm 1967 đến 1973 trong chiến tranh Việt Nam.
Từ Đức, luật sư Nguyễn Văn Đài kể lại những lần thượng nghị sĩ Mỹ lên tiếng ủng hộ cho các nhà hoạt động nhân quyền Việt Nam
“Vào năm 2007, khi Chủ tịch Nguyễn Minh Triết thăm Hoa Kỳ, chính quyền Việt Nam có bắt một số người bất đồng chính kiến như tôi, luật sư Lê Quốc Quân, và một số người khác. Ông John McCain đã gây áp lực rất là mạnh lên chuyến thăm của ông Nguyễn Minh Triết, buộc nhà cầm quyền phải trả tự do cho ông Lê Quốc Quân, ông Nguyễn Vũ Bình. Sau này, các vụ đàn áp, bắt giữ các blogger, các nhà hoạt động, những người bất đồng chính kiến xảy ra ở Việt Nam thì lần nào ông John McCain cũng lên tiếng rất mạnh và kêu cầu Việt Nam trả tự do cho họ ngay lập tức.”
Lên tiếng trước Trung Quốc
Luật sư Lê Quốc Quân nhận định những đóng góp to lớn của ông John McCain trong việc tạo ra sự e dè từ phía Trung Quốc đối với Việt Nam.
“Tôi cho rằng ông John McCain có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đóng góp cho quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, không chỉ là các nạn nhân của chiến tranh, nạn bách hại, mà còn đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của Việt Nam nói chung. Đặc biệt đóng góp quan trọng nhất là nỗ lực của ông để Việt Nam có mối quan hệ gần gũi hơn với Hoa Kỳ, mua sắm được một số trang thiết bị nhằm tự chủ tự cường trước sự xâm lấn của Trung Quốc. Chính ông đã tạo ra một cảm giác e dè nào đó từ phía Trung Quốc đối với Việt Nam.”
Chính ông đã tạo ra một cảm giác e dè nào đó từ phía Trung Quốc đối với Việt Nam.Luật sư Lê Quốc Quân
Trong sự nghiệp hơn 30 năm làm nghị sĩ Mỹ, ông John McCain, người có lập trường rất cứng rắn với Bắc Kinh, đã nhiều lần gọi Trung Quốc là “kẻ bắt nạt.”
Ông John McCain ủng hộ mạnh mẽ chủ trương hải quân Mỹ tiến hành thường xuyên tuần tra tự do hàng hải, đặc biệt là chiến hạm Mỹ đi vào phạm vi 12 hải lý quanh các đảo nhân tạo mà Bắc Kinh bồi đắp, cải tạo trái phép trên biển Đông, nơi có tranh chấp với Việt Nam.
Ông Nguyễn Văn Đài nhận định:
Tôi đánh giá rằng ông John McCain là một trong những người có sự quan tâm và lo lắng nhất đối với chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.Luật sư Nguyễn Văn Đài
“Tôi đánh giá rằng ông John McCain là một trong những người có sự quan tâm và lo lắng nhất đối với chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Việc ông ra đi là một sự mất mát to lớn không chỉ đối với gia đình ông, Quốc hội, nhân dân Hoa Kỳ, mà đó là sự mất mát một người bạn rất lớn đối với nhân dân Việt Nam, đặc biệt đối với những người đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam.”
Góc khuất Truyền thông
Đài truyền hình Việt Nam VTC dẫn lời nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết ông John McCain chính là người tiên phong trong “ngoại giao cựu chiến binh,” góp phần thúc đẩy nhanh tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ sau chiến tranh.
Các nhà quan sát nói truyền thông trong nước ca ngợi những công lao to lớn của Thượng nghị sĩ Mỹ trong mối quan hệ Việt – Mỹ, nhưng dường như không nhắc đến những năm tháng ông bị giam cầm và tra tấn tại nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội.
Ông Lê Quốc Quân nói:
Những câu chuyện ngày xưa đối xử tệ đối với ông John McCain thì cũng không đưa lên báo chí được, ví dụ hồi ký của John McCain kể rất rõ là ông đã bị đánh liên tục, bị tra trấn, nhục mạ.Luật sư Lê Quốc Quân
“Tôi nghĩ Hà Nội đã nghe theo lời của ông John McCain trong nhiều khía cạnh. Tuy nhiên, một chế độ độc tài có những vi phạm nhân quyền rõ ràng thì họ không thể đưa những ý kiến của ông John McCain về những vi phạm của mình.
“Những câu chuyện ngày xưa đối xử tệ đối với ông John McCain thì cũng không đưa lên báo chí được, ví dụ hồi ký của John McCain kể rất rõ là ông đã bị đánh liên tục, bị tra trấn, nhục mạ…. Nhưng sau đó họ đối xử tử tế, rất tốt, đó là lúc rất nhiều máy ảnh giương lên, phóng viên báo chí đến… đó là câu chuyện truyên truyền…”
Luật sư Trịnh Hữu Long viết trên Facebook hôm 27/8 rằng có ít nhất 3 điều mà chính quyền Việt Nam và và báo chí chính thống không muốn đề cập là: ông John McCain cáo buộc chính quyền Việt Nam tra tấn ông trong trại giam; bảo trợ cho một chương trình tị nạn cho người Việt Nam, trong đó cho phép con cái đã trưởng thành của những cựu sĩ quan Việt Nam Cộng hoà bị đi học tập cải tạo sau năm 1975 được đi định cư ở Mỹ; và việc ông thường xuyên gặp các nhà hoạt động dân chủ Việt Nam.
Tuy nhiên, Luật sư Quân cho biết chính quyền Việt Nam dường như hiểu được tấm lòng nhân ái và lòng yêu mến đất nước Việt Nam của ông McCain.
“Tôi nghĩ rằng chính quyền Việt Nam hiểu ông, và hiểu những đóng góp của ông cho đất nước, và ông có lòng nhân ái thực sự, và yêu mến đất nước Việt Nam.”
Tin Giờ Chót: Tổng trưởng Nội Vụ Peter Dutton tuyên bố sẽ gởi trả những người này về nguyên qúan VN.
****************
TÀU CHỞ NGƯỜI TỴ NẠN VIỆT? LÀN SÓNG TỴ NẠN ĐỢT 2?
Một chuyến tàu được cho là người Việt đã cập vào vùng cực Bắc tiểu bang Queensland vào ngày hôm qua 26-8-2018.
Những người trên tàu đã “tự làm đắm chiếc tàu” ở gần cửa sông Dantree, phía Bắc thành phố Cairn, TB Queensland… rồi sau đó bơi vào bờ.
Khi Lực lượng Biên phòng Úc và Cảnh sát Queensland tiếp cận số người này. Thì đa số đã bỏ chạy vào các rừng cây & đầm lầy chung quanh.
Sau đó ít nhất 15 người đã bị bắt giữ. Hiện Lực lượng Biên phòng Úc và Cảnh sát Queensland đang truy lùng số người đang tại đào, trong đó có thuyền trưởng. Vì vùng này nổi tiếng nhiều cá sấu khủng và có nhiều tour đưa du khách đến tham quan.
Bộ trưởng Nội Vụ Peter Dutton xác nhận chiếc thuyền trên được cho là chở người nhập cảnh lậu từ Việt Nam… và đây là chiếc tàu buôn lậu người đầu tiên cập vào lãnh thổ nước Úc sau 1400 ngày vắng bóng thuyền nhân.
Xin xem thêm chi tiết trong bài viếng sau đây:
Dutton says Daintree boat Australia’s first people-smuggling vessel in 1400 days
HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Hôm 26 Tháng Tám, khi tin Thượng Nghị Sĩ John Sidney McCain III qua đời được lan truyền qua mạng xã hội, ông Nguyễn Cảnh Bình, người sáng lập thương hiệu sách Alpha Books tiết lộ trên trang cá nhân: “10 năm qua chúng tôi không xuất bản được một bản sách dịch về Thượng Nghị Sĩ John McCain. Năm 2008, khi cuộc đua tranh cử tổng thống Mỹ bắt đầu, tôi theo dõi sát sao hơn và khi biết McCain ứng cử, chúng tôi quyết định đánh liều, đặt cược cho ông thắng và trong số các cuốn sách của ông, chúng tôi chọn cuốn ‘Faith Of My Fathers’ (tạm dịch ‘Đức Tin Của Tổ Tiên Tôi’).”
“Không lường trước hết rắc rối xảy ra, chúng tôi vẫn dịch cuốn sách này nhưng nó không được xuất bản, kể cả khi ông thất bại trước Obama, một nghị sĩ khá vô danh trước đó. Trong khi cuốn sách của Obama, ‘Những Giấc Mơ Của Cha Tôi’ đã trở thành bestseller ở Việt Nam, cuốn ‘Đức Tin Của Tổ Tiên Tôi’ thì không, và McCain cũng thất bại trước thượng nghị sĩ trẻ trung, lôi cuốn và giỏi hùng biện Obama năm đó. Đến hôm nay, bản thảo vẫn nằm trong máy tính của chúng tôi, cũng không có gì đặc biệt lắm, chỉ là một cuốn sách không xuất bản được mà thôi,” ông Bình viết.
“Đức Tin Của Tổ Tiên Tôi” là quyển sách lọt vào danh sách bestseller của báo New York Times, là cuốn hồi ký của Thượng Nghị Sĩ John McCain về ba thế hệ chiến binh và cách mà những người con trai học được từ cha của họ.
Trong cuốn sách này, ông McCain kể chi tiết về ông nội của mình, một đô đốc bốn sao và là một trong những tư lệnh vĩ đại nhất của Hải Quân Mỹ, dẫn đầu lực lượng hàng không mẫu hạm mạnh nhất của Hạm Ðội 3 trong Thế Chiến II. Cha của ông McCain, cũng là một đô đốc bốn sao, từng là tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương trong Chiến Tranh Việt Nam.
Chính tại Việt Nam, John McCain III đã đối mặt với thử thách khó khăn nhất trong cuộc đời ông khi máy bay do ông lái bị bắn hạ tại Hà Nội năm 1967. Ông đã bị tra tấn và giam cầm trong 5 năm rưỡi.
Có suy đoán rằng những chi tiết mà ông McCain viết trong sách về quãng thời gian tù đày tại Hà Nội khiến cho nhà cầm quyền CSVN “phật ý” và không muốn bản dịch được xuất bản.
Ngay cả trong phần tiểu sử công bố trên website của ông McCain viết rằng thời gian trong tù tại Hỏa Lò, ông “bị quản giáo đánh đập, bị biệt giam” và đây là các cáo buộc mà Việt Nam luôn bác bỏ.
Một chi tiết khác khiến nhà cầm quyền CSVN có thể “không ưa” ông McCain vì ông có nhiều phát ngôn về việc kêu gọi Hà Nội thúc đẩy nhân quyền song hành với phát triển kinh tế.
Trong chuyến thăm Việt Nam hồi năm 2015, ông McCain ngoài việc gặp Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng thì còn có cuộc gặp riêng một số đại diện phong trào dân sự của Việt Nam, gồm nhà hoạt động Phạm Đoan Trang, Nguyễn Đình Hà, Nguyễn Chí Tuyến và Luật Sư Trần Thu Nam. Một hình ảnh lan truyền trên mạng xã hội cũng cho thấy ông có cuộc gặp khác với Luật Sư Nguyễn Văn Đài ở Hà Nội, nhưng không rõ về thời điểm của cuộc gặp này.
Hồi Tháng Hai, 2018, Nhạc Sĩ Việt Khang đến Mỹ tị nạn và cho hay việc anh được sang định cư tại Hoa Kỳ là “kết quả của một quá trình can thiệp lâu dài của chính quyền Mỹ và nhiều tổ chức quốc tế đối với chính quyền CSVN, trong đó, đặc biệt phải nhắc đến Thượng Nghị Sĩ John McCain, người đã trực tiếp can thiệp, nêu trường hợp của nhạc sĩ này với chính phủ Hoa Kỳ khi làm việc với CSVN.” (T.K.)