Nữ cảnh sát viên gốc Việt đầu tiên tại Sở Cảnh Sát Fountain Valley
Hành trình H.O.
Hành trình H.O.
2014-04-29

Gia đình và tù nhân chính trị đến Hoa Kỳ theo diện tỵ nạn. Files photos
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 hàng triệu binh sĩ chế độ VNCH buông súng để sau đó hơn 200 ngàn sĩ quan và viên chức vào hơn 80 trại cải tạo trong nhà tù của chế độ mới. Những tù nhân ấy sau khi ra trại lại có một chuyến hành trình nữa được gọi là HO để đến Mỹ bắt đầu vào năm 1990.
Mặc Lâm tìm hiểu thêm chương trình nhân đạo có một không hai này qua lời kể của bà Khúc Minh Thơ, một trong những người vận động cho chương trình H.O. thành hình.
Từ Hội Gia đình Tù nhân Chính trị đến H.O.
Sau ngày 30 tháng 4, hai danh từ mới xuất hiện trong từ điển Việt Nam là thuyền nhân và HO. Thuyền nhân là những người không chịu sống trong chế độ mới, vượt biển đông bất chấp sóng gió, cướp biển cùng những nguy hiểm khác để tìm tự do. HO là những sĩ quan, viên chức bị cải tạo ba năm trở lên trong các nhà tù sau khi trình diện Ủy ban Quân quản tại khắp miền Nam để lên đường vào trại cải tạo gọi là học tập. Những sĩ quan viên chức này trở thành HO khi qua cuộc phỏng vấn của phái đoàn Mỹ tại tp HCM và chính thức có danh sách sang Mỹ bắt đầu bằng hai chữ HO.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, bên cạnh sĩ quan các cấp, những chính trị gia, nhà báo, dân biểu, lãnh đạo tôn giáo cũng cùng số phận với những người cầm súng. Tất cả đều được gọi là tù nhân cải tạo, tất cả đều bị đối xử như nhau và tất cả đều không có án.
Từ sự gợi ý của ông Lawman, một hội mang tên Gia đình Tù nhân Chính trị Việt Nam thành hình tập hợp vợ con của những người tù cải tạo để có tiếng nói chung
Cuộc sống của những tù nhân này được nuôi dưỡng bằng mồ hôi nước mắt của người thân, cha mẹ vợ con thậm chí là bạn bè, hàng xóm. Cũng có những trường hợp vợ con của họ vượt biên và nơi xa xôi tưởng chừng như mù mịt ấy những món quà nhỏ bé chắt chiu gửi về thăm nuôi họ. Sợi dây ràng buộc mong manh ấy đã ngày một bện chặt hơn khi số thuyền nhân ngày càng nhiều và ý tưởng cứu những người tù cải tạo ra khỏi đất nước một cách hợp pháp đã nảy sinh trong lòng những người vợ của họ đang sống tại Mỹ.
Một trong những người như thế là bà Khúc Minh Thơ, chồng bà là một sĩ quan đã chết trước khi trở thành một HO và bà có rất nhiều bạn bè của chồng vẫn nằm trong trại cải tạo. Bà Khúc Minh Thơ sang Mỹ năm 1977 và ý tưởng vận động cho tù nhân cải tạo vẫn thôi thúc trong lòng bà. Ông Shef Lawman, một chuyên viên của Bộ Ngoại giao Mỹ làm việc tại Việt Nam cho tới phút cuối. Do có vợ Việt ông Lawman hiểu rất rõ tình hình chính trị, văn hóa và xã hội Việt Nam và là người đầu tiên bà Khúc Minh Thơ gặp và trao đổi với ông ý tưởng của mình. Từ sự gợi ý của ông Lawman, một hội mang tên Gia đình Tù nhân Chính trị Việt Nam thành hình tập hợp vợ con của những người tù cải tạo để có tiếng nói chung.
Bà Khúc Minh Thơ kể lại giai đoạn đầu khi bà nghĩ tới bắt tay vào việc vận động này:
Khi mà tôi qua tới đây giống như trong một con đường tăm tối mà tôi phải đi tại vì không làm cách gì ngoài tình thương của gia đình, tình thương của bạn bè mà tôi cùng với anh chị em trong hội Gia đình Tù nhân Chính trị để mà làm. Có hy vọng nhưng không bao giờ nghĩ tới mình sẽ thành công nhưng vì không thể nào không nghĩ tới những người thân yêu ruột thịt của mình chết trong tù mà mình không làm gì được.
Khi nghe bà Khúc Minh Thơ vận động một việc làm không khác gì mò kim đáy biển như thế rất nhiều người e ngại cho sự thành công là quá ít và kéo dài vô tận vì nước Mỹ vừa mới thất bại trên chiến trường, tiếng nói không còn mạnh như xưa đối với Việt Nam và nhất là dân chúng Mỹ chưa chắc chấp thuận một gánh nặng cho hàng trăm ngàn người Việt như thế. Tuy nhiên nhạc sĩ Nam Lộc lúc đó đang làm việc cho cơ quan thiện nguyện USCC chuyên giúp đỡ người tị nạn tại Mỹ lại không bi quan như vậy căn cứ vào kinh nghiệm của ông:
Người thúc đẩy cho tôi nhiều nhất là ông Robert Funseth, ông ấy đặc trách chương trình tỵ nạn của Bộ ngoại giao, hai nữa người mà theo dõi diễn tiến của tụi tôi nhiều nhất là ông Shef Lowman, ông ấy là nhân viên của Bộ ngoại giao…..Ngoài ra bên lập pháp còn có TNS John McCain và TNS Robert Kennedy
bà Khúc Minh Thơ
Việc tranh đấu cho những người tù nhân chính trị bị cộng sản giam giữ mà họ gọi là cải tạo rất nhiều người nghĩ rằng là một nỗ lực không tưởng, khó để thành công. Nhưng cá nhân tôi thì tôi rất tin tưởng. Cũng những suy nghĩ tiêu cực như vậy đã xảy ra trước đó cả chục năm khi cơ quan thiện nguyện USCC cùng một số cơ quan định cư khác nỗ lực thành lập chương trình ODP thành ra chúng tôi nghĩ nếu ODP thành công thì việc tranh đấu cho các tù nhân chính trị này cũng không phải là điều không tưởng.

Một người Mỹ khác có công rất nhiều trong việc vận động cho chương trình này là ông Robert Funseth, Phụ tá Thứ trưởng Ngoại giao đặc trách Chương trình Tỵ nạn. Ông là một nhà ngoại giao dành hầu như toàn bộ cuộc đời ngoại giao của ông tại Việt Nam từ khi bước chân sang cho tới khi miền Nam sụp đổ. Ông chứng kiến nhiều cảnh chiến đấu của người lính VNCH và rất hăng hái trong việc vận động tổng thống Reagan và Quốc Hội Hoa Kỳ cũng như đứng ra thương thuyết thẳng với Việt Nam về vấn đề trao đổi đối với những người tù chính trị. Bà Khúc Minh Thơ cho biết thêm về ông và những người như ông trong tiến trình giúp bà vận động:
Người thúc đẩy cho tôi nhiều nhất là ông Robert Funseth, ông ấy đặc trách chương trình tỵ nạn của Bộ ngoại giao, hai nữa người mà theo dõi diễn tiến của tụi tôi nhiều nhất là ông Shef Lowman, ông ấy là nhân viên của Bộ ngoại giao, hiểu nhiều nhất chương trình tù nhân chính trị, cũng như những người bị bắt ở tù thành ra rất là ủng hộ tôi về vấn đề này. Ngoài ra bên lập pháp còn có Thượng nghị sĩ John McCain và Thượng nghị sĩ Robert Kennedy và hầu hết phần đông những thượng nghĩ sĩ, dân biểu mà hồi xưa là cựu chiến binh Hoa Kỳ họ hiểu hoàn cảnh của anh em họ rất là ủng hộ.
Chuyến bay HO đầu tiên
Đoạn đường vận động phía Hoa Kỳ chấp nhận thương thuyết đã gian nan, nhưng về phía Việt Nam, nơi nắm giữ vận mạng của hàng trăm ngàn tù nhân chính trị cũng không phải là dễ thuyết phục khi bản thân chính quyền đang say sưa trên chiến thắng, bà Khúc Minh Thơ kể:
Cuối cùng tôi lên gặp tòa đại sứ của Việt Nam cộng sản ở New York. Tôi nhớ là ngày 30 tháng 4…tôi được Bộ Ngoại giao và Quốc hội sắp xếp cho tôi gặp ở trên đó để đòi cho được họ thả tù nhân chính trị và định cư ở Mỹ. Ba tháng sau cái ngày cuối cùng đó thì họ chấp thuận ký cái thỏa hiệp, agreement để cho tù nhân chính trị ra đi là ngày 30/7/1989
bà Khúc Minh Thơ
Mình vận động rất là lâu tới chừng cuối cùng tôi lên gặp tòa đại sứ của Việt Nam cộng sản ở New York. Tôi nhớ là ngày 30 tháng 4, tôi luôn luôn lấy ngày 30 tháng 4 như một điểm quan trọng, tôi được Bộ Ngoại giao và Quốc hội sắp xếp cho tôi gặp ở trên đó để đòi cho được họ thả tù nhân chính trị và định cư ở Mỹ. Ba tháng sau cái ngày cuối cùng đó thì họ chấp thuận ký cái thỏa hiệp, agreement để cho tù nhân chính trị ra đi là ngày 30 tháng 7 năm 1989.
Ngày mà ông Funseth và phái đoàn đi qua để thương thuyết cái thỏa hiệp này tôi vô tới Bộ Ngoại giao cầu chúc ông ấy thành công thì ông ấy cho tôi một lịch trình làm việc của ông ấy, tôi để cái lịch trình ấy trước mặt để mà cầu nguyện.
Khi ông Funseth tới phi trường Bangkok thì ông gọi cho vợ là bà Funseth để bà này báo tin cho tôi biết là đã ký xong. Lúc đó không thể tưởng tượng, không thể nói được lời nào vì mình đâu có nghĩ kết quả lại trọn vẹn như vậy.
Ngày 5 tháng 1 năm 1990 có lẽ là ngày lịch sử đối với hàng trăm ngàn người trong đại gia đình tù nhân chính trị Việt Nam. Chuyến bay chở nhóm HO đầu tiên ghé Bangkok làm thủ tục trung chuyển sang Mỹ đã làm cộng đồng người Việt tại Mỹ theo dõi từng giây phút. Sau bao nhiêu năm chờ đợi trong một đống tin tức lệch lạc thậm chí sai sự thật thì những tù nhân ấy đã chính thức bước chân xuống Mỹ. Nhạc sĩ Nam Lộc kể lại ngày vui mừng ấy khi ông ra phi trường đón những người tù nhân này trong nhóm người ra đi đầu tiên dưới cái tên HO1.
Khi những người trong đợt đầu tiên đặt chân đến Hoa Kỳ thì đó là một ngày chúng tôi chờ mong, một ngày giấc mơ đã thành sự thật. Tôi đã ra phi trường đón tiếp những người đầu tiên trong số đó có anh Nguyễn Tiến Chỉnh một người bạn thân của chúng tôi từ khi còn rất trẻ. Anh là một trung úy không quân, một thành viên của ban nhạc Spot Light và là một trong những người thuộc nhóm đầu tiên đến Hoa Kỳ.
Cái chữ HO hồi đó có nhiều người hỏi tôi cho nên tôi hỏi lại những người làm việc tại BNG phòng đặc trách về người tỵ nạn thì họ nói hai chữ HO của bên Việt Nam chứ không phải của Bộ Ngoại giao hay chính phủ Hoa Kỳ…Bộ Ngoại giao họ thì thường trong ba tháng họ gửi cho chúng tôi để biết cái CT tỵ nạn đã có bao nhiêu người qua thì họ gọi là Political Prisoners Sub-Committee chứ họ không gọi là HO
bà Khúc Minh Thơ
Tuy nhiên, sau khi 5 năm trôi qua chương trình HO phải ngưng lại vì Quốc hội chỉ cho phép với giới hạn 5 năm. Sự ngưng lại ấy lại làm cho những người vận động cho chương trình một lần nữa phải tìm cách đối phó, bà Khúc Minh Thơ kể:
Ở trong Quốc hội Bộ Ngoại giao họ nói với tôi nếu tôi xin nhiều thì Quốc hội sẽ không chấp thuận thành ra khi đầu tiên bắt đầu xin cho chương trình đó vào năm 1990 là tới 1996 là 5 năm cho chương trình HO. Sau đó ông Funseth các người bên văn phòng của McCain, Kennedy nói rằng sau đó thì sẽ xin lại thêm chứ bây giờ mà xin 10 năm, 20 năm thì họ đâu có chịu! nhưng tù nhân mà xin 5 năm thì làm sao cho đủ? Vì vậy tới năm 1996 nó ngưng thì tôi lại phải vận động để 10 năm sau, năm 2005 tôi mới có được cái thỏa hiệp thứ hai để cho chương trình HO tiếp tục, tuy nhiên những người nào đã được chấp thuận (approve) rồi thì tiếp tục ra đi cho tới khi nào tới Mỹ.
Cho tới nay hai chữ HO vẫn là cái tên chính thức cho chương trình ra đi này. Nhiều người tra tìm chữ viết tắt của HO đã không hài lòng về kết quả của nó. Một lần nữa bà Khúc Minh Thơ cho biết nguồn gốc của hai từ này, nó không phải của Mỹ mà là từ Việt Nam:
Cái chữ HO hồi đó có nhiều người hỏi tôi cho nên tôi hỏi lại những người làm việc tại Bộ Ngoại giao phòng đặc trách về người tỵ nạn thì họ nói hai chữ HO của bên Việt Nam chứ không phải của Bộ Ngoại giao hay chính phủ Hoa Kỳ. Đầu tiên HO 1 mới kêu là HO cho tới khi HO10 thì không còn là HO nữa mà là H10. Bộ Ngoại giao họ thì thường trong ba tháng họ gửi cho chúng tôi để biết cái chương trình tỵ nạn đã có bao nhiêu người qua thì họ gọi là Political Prisoners Sub-Committee chứ họ không gọi là HO.
Theo nhạc sĩ Nam Lộc cũng là giám đốc USCC tại miền Nam California cho biết có khoảng trên dưới 200 ngàn tù nhân chính trị và gia đình đã sang Mỹ theo diện HO kéo dài cho tới năm 2008 thì mới chính thức chấm dứt.
Đó là sự chờ đợi của tất cả những người Việt ờ hải ngoại cũng như thân nhân những người tù nhân chính trị họ vui mừng không còn chỗ nào vui hơn sau năm 1975. Đó là niềm vui cho tất cả mọi người Việt Nam.
Sự ra đi chính thức của hàng trăm ngàn tù nhân chính trị và thân nhân có thể được xem là một phép lạ của thượng đế bù đắp những khốn khổ, chết chóc mà dân tộc này phải chịu. Các thế hệ nối tiếp đã có những thành tựu trong nhiều lĩnh vực tại Hoa kỳ do con em HO thực hiện. Thành quả ấy không phải do một mình bà Khúc Minh Thơ, tổng thống Reagan, ông Funseth hay John McCain, hoặc Robert Kennedy mà là kết hợp của tất cả trong niềm tin: đây là một đất nước hình thành từ di dân, do đó mọi ý tưởng cứu người bị ngược đãi, đàn áp là phương châm đầu tiên của cả dân tộc này để rồi những người di dân sau tiếp tục phát triển, bồi đắp triết lý nhân văn ấy.
BỐN MƯƠI NĂM QUỐC TẾ CỨU THUYỀN NHÂN.!
BỐN MƯƠI NĂM QUỐC TẾ CỨU THUYỀN NHÂN.!
Hôm nay 20 tháng 7 người Việt ở hải ngoại đang kỷ niệm ngày được tàu quốc tế cứu vớt và cưu mang…
Trong lịch sử nhân loại, có hai dân tộc chịu số phận bi thảm hơn các dân tộc khác. Rất không may, một trong hai lại là dân tộc Việt chúng ta. Một trong hai còn lại là Do Thái.
Cái “lỗi” của dân tộc Do Thái là sinh ra Chúa rồi hành hình Chúa trên thập giá. Họ đã bị kỳ thị, xua đuổi, bị truy bức giết hại và lưu vong khắp nơi. Năm 1947, cái dân tộc rã rời nát vụn đó đã cùng nhau gom góp từng đồng tiền, từng mãnh đất để gầy dựng lại quốc gia của mình. Định mệnh bi thảm của dân tộc đã khiến họ gắn kết với nhau thành một khối, nhờ đó quốc gia Israel đã phát triển không ngừng. Một mình họ đã đánh bại quân đội của liên minh các nước Ả rập để bảo vệ sự tồn vong của đất nước. Và giờ, họ đã trể thành một cường quốc chỉ trong vài thập niên…
Khác với dân tộc Do Thái lưu vong hơn ngàn năm trước, dân Việt chỉ bắt đầu lưu vong đại trà từ sau 30-4-1975. Dân tộc này không hành hình Chúa nhưng vẫn phải chịu một định mệnh bi thảm không kém. Cuộc chiến tranh giữa hai miền anh em với vũ khí bom đạn của ngoại bang kết thúc, đất nước được gom về một mối những tưởng sẽ bắt đầu một thời đại vàng son, nhưng không ngờ, thời đại đó biến thành một cuộc phân ly bi thảm.
Vượt qua cả dân tộc Do Thái, người Việt ” vươn lên” dẫn đầu lịch sử lưu vong của nhân loại bằng cuộc di cư chính trị quy mô nhất về mặt số lượng từ trước đến nay. Hàng triệu người đã lao ra biển trên những chiếc tàu đánh cá các loại để thoát khỏi đất mẹ của mình, chấp nhận cả cái chết để…lưu vong. Một phần của dân tộc đã làm mồi cho cướp biển cho cá mập và bị nhốt trong những trại tị nạn nghẹt thở ở các nước Đông Nam Á đồng liêu…
Cuộc di cư khốc liệt của người Việt đã đưa họ đến khắp nơi trên thế giới, kể cả châu Phi, điều mà trước 1975, cả hai miền Nam Bắc đều không hề có.Tâm thức lưu vong kể từ mốc thời gian đó, đã phục kích trong các tầng lớp dân Việt, đóng đinh trong đầu họ cho đến tận ngày nay, không ngơi nghỉ và không có cơ hội để chấm dức..
Vậy tại sao người Việt lại khát khao…lưu vong như thế? Câu hỏi này quá dễ trả lời bằng câu thành ngữ Việt Nam: đất lành chim đậu. Khi đất mẹ không còn lành thì người dân Việt sẽ tìm cách ra đi như một tất yếu để tìm đến mãnh đất lành hơn.

“Dù sao giữa một VN tan nát vẫn còn có những Võ Hồng Ly !”
… “Dù sao giữa một VN tan nát vẫn còn có những Võ Hồng Ly !”
(Trích một lời comment)

Võ Hồng Ly is with Võ Hồng Ly.
19.07.2019
Cách đây mấy hôm, tình cờ tôi gặp một cô gái trẻ người nước ngoài khoảng hơn 20 tuổi đang ngồi thẫn thờ trước bậc tam cấp của một trung tâm thương mại. Thấy cô gái với khuôn mặt tái nhợt vẫn còn lộ vẻ bàng hoàng nhưng người dân chỉ đứng gần chỉ chỏ mà không hiểu cô muốn nói gì nên tôi lại gần hỏi thăm. Thì ra là cô gái vừa bị cướp giật mất túi xách trong đó có toàn bộ giấy tờ tuỳ thân, thẻ ngân hàng và số tiền mặt đem theo phòng khi có vấn đề với việc giao dịch ngân hàng. Vì đã mất điện thoại cùng sổ tay ghi chép cá nhân nên cô không biết địa chỉ khách sạn của mình để về. Cô đang đi vòng vòng tìm đồn công an xin trợ giúp mà không thấy…
Tôi liền đi cùng cô gái đến đồn công an gần nhất làm thủ tục khai báo bị cướp giật để cô làm lại giấy tờ về nước. Tôi đưa điện thoại của tôi cho cô dùng FB liên lạc với người thân trong gia đình để lấy lại mọi thông tin đã mất. Cô gái cho tôi biết cô vừa hoàn thành xong 5 năm đại học. Để tự thưởng cho mình, cô đã quyết định đi du lịch một mình 5 nước châu Á trong đó Việt Nam là điểm đến đầu tiên mơ ước của cô. Cô nói rằng cô cần đi và cần có thêm trải nghiệm để xác định được thật sự mình muốn gì trước khi học tiếp lên thạc sĩ.
Để biến giấc mơ thành hiện thực, ngoài một phần giúp đỡ của gia đình, cô gái trẻ đã phải làm thêm liên tục trong hai năm cuối cùng đại học để thực hiện hành trình dài ngày đầu tiên của cuộc đời mình. Và giờ thì tất cả đã tan biến… Vé máy bay và khách sạn của cả bốn nước còn lại đều đã được mua và thanh toán từ trước để có giá rẻ nhất nên bây giờ cô không thể hoàn đổi hay trả lại được nữa. Kế hoạch 5 tháng du lịch tại 5 nước châu Á đã kết thúc chỉ sau ba tuần tại Việt Nam. Giờ cô phải chờ toà lãnh sự của cô tại Sài Gòn cấp giấy thông hành để cô về nước. Vì biết cô không có bạn bè nào tại Sài Gòn trong khi chờ làm thủ tục về nước nên tôi đã đưa số điện thoại và email của tôi trong trường hợp cần thiết.
Đang ngồi ở văn phòng thì tôi nhận được điện thoại cô gọi từ phòng xuất nhập cảnh. Thì ra ngoài giấy thông hành, cô còn cần phải xin một thị thực xuất cảnh nhưng cô lại không biết thủ tục này phải bị mất thêm phí vì cô cứ nghĩ đã trả phí visa cho 30 ngày trước đó rồi… Hiện tại cô không còn đủ tiền để vừa trả phòng khách sạn cho đêm nay và vừa trả thêm phí visa xuất cảnh nữa…Nghe giọng cô gái tuyệt vọng như muốn khóc trong điện thoại nên tôi vội xin phép cấp trên cho vắng mặt một tiếng rồi sẽ quay lại làm bù giờ sau.
Khi tôi rời quầy làm thủ tục quay trở lại đưa cho cô tờ giấy hẹn lấy visa xuất cảnh thì cô ngẩng khuôn mặt xinh đẹp của mình lên và đầm đìa nước mắt. Tôi động viên cô rằng chỉ còn chưa đầy 36h đồng hồ nữa là cô sẽ bình an trong vòng tay gia đình rồi. Chỉ kịp đưa cô về lại khách sạn là tôi phải quay trở về văn phòng làm việc. Trước khi đi, tôi đưa thêm cho cô một số tiền nhỏ để dằn túi trong những giờ cuối cùng ở lại Việt Nam và cũng để giúp cho cô đi taxi ra sân bay thay vì đi xe bus như cô dự tính. Cô kiên quyết không muốn nhận thêm gì nữa nhưng tôi đã nói nếu cô không nhận thì tôi sẽ giận vì tôi không muốn bất cứ rắc rối nào có thể xảy ra thêm với cô gái trẻ này nữa. Giả vờ nói cứng vậy thôi nhưng nếu phải bị rơi vào trường hợp của cô gái thì tôi cũng thật sự không biết mình sẽ làm gì ở tuổi 23, một mình nơi đất khách với hành trình đột ngột bị dang dở như vậy…
Chiều nay, khi đang làm việc tôi nhận được tiếng bíp báo có email đến. Thì ra là thư của cô gái trẻ thông báo đã về đến nơi và rất hạnh phúc khi tìm lại gia đình mình.
Trong email có một đoạn cô viết: “Bạn biết không, sau những điều tồi tệ đã xảy ra, tôi đã định sẽ không bao giờ quay trở lại Việt Nam, nơi có kẻ đã cướp đi hết tất cả những gì tôi có và đã phá hủy đi tất cả kế hoạch đầu đời mà tôi đã dồn mọi tâm sức bằng cách chăm chỉ làm việc để thực hiện nó trong vòng hai năm trời… Nhưng, chính bạn đã làm cho tôi thay đổi ý định này ! Chính bạn đã giúp tôi lấy lại được hình ảnh đẹp của Việt Nam và con người Việt Nam mà tôi đã tưởng tượng ra trước khi đến đất nước xinh đẹp này… Và, còn một điều cuối cùng mà tôi muốn bạn biết đó là tôi đã tìm thấy điều mình muốn trong lúc này rồi. Có lẽ tôi không cần phải đi thêm bốn đất nước nữa để được trải nghiệm và để nhận ra rằng cuộc sống là chia sẻ và để cho đi những điều mình có một cách vô điều kiện… Cảm ơn bạn về tất cả và nhất định tôi sẽ làm việc chăm chỉ để quay lại Việt Nam trong một ngày gần nhất !…” ❤️
Đại diện tu sĩ tôn giáo bị bách hại ở Việt Nam gặp Tổng thống Trump
Đại diện tu sĩ tôn giáo bị bách hại ở Việt Nam gặp Tổng thống Trump
Hai vị tu sĩ thuộc giáo hội bị bách hại tại Việt Nam được Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump tiếp tại Nhà Trắng vào ngày 17 tháng 7.
Đó là Mục sư A Ga thuộc Hội Thánh Tin Lành ở Tây Nguyên và đạo hữu Cao Đài Lương Xuân Dương. Cả hai thuộc nhóm 27 đại diện các nạn nhân bị bách hại do niềm tin tôn giáo đến từ các quốc gia trên thế giới được người đứng đầu chính phủ Mỹ tiếp.
Tất cả đến tham dự Hội Nghị Cấp Bộ Trưởng Thăng Tiến Tự Do Tôn Giáo do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tổ chức trong ba ngày 16, 17 và 18 tháng 7 tại thủ đô Washington, DC.
Trong ngày cuối của Hội nghị, chính quyền Hoa Kỳ sẽ công bố những biện pháp thêm nữa đối với vấn đề tự do tôn giáo trên khắp thế giới.
Trước khi được tổng thống Hoa Kỳ tiếp tại Nhà Trắng, Mục sư Tin Lành A Ga và đạo hữu Lương Xuân Dương tham dự cuộc vận động cho nhân quyền và tự do tôn giáo tại Việt Nam lần thứ 9. Hoạt động này do BPSOS tổ chức. BPSOS là một tổ chức phi chính phủ của người Việt Nam tại Mỹ chuyên giúp đỡ người tị nạn và những nạn nhân của bách hại tôn giáo.
Nhân dịp này đạo hữu Lương Xuân Dương, cựu tù nhân lương tâm và đến từ bang Texas, lên tiếng với Đài Á Châu Tự Do:
“Nhà cầm quyền Việt Nam đã hứa rất nhiều lần nhưng không thực hiện. Tôi mong muốn ngành lập pháp Hoa kỳ tác động lên ngành hành pháp để đưa Việt Nam vào lại danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo (CPC), buộc Việt Nam phải tôn trọng những điều mà chính họ đã cam kết.”
Đạo Hữu Dương Xuân Lương cho RFA biết, ông đến tham dự Ngày vận động cho Việt Nam với ba mục tiêu: thứ nhất là vận động các dân biểu và nghị sĩ của Quốc hội Hoa Kỳ làm việc với chính quyền Việt Nam về những vi phạm của chính quyền Việt Nam đối với quyền tự do tôn giáo đạo Cao Đài cũng như các tôn giáo khác như Phật Giáo, Hòa Hảo, Công Giáo, Tin Lành…; thứ hai là từ chính sách độc tài, nhà cầm quyền Việt Nam bóp nghẹt tiếng nói những người yêu nước, yêu nhân quyền, tôn trọng quyền tự do tôn giáo, bắt giam họ một cách tùy tiện. Vị này bày tỏ mong muốn nói lên sự thật để các vị thuộc lập pháp, hành pháp Hoa Kỳ tác động lên chính quyền Việt Nam, buộc họ phải trả tự do cho các tù nhân lương tâm; thứ ba là chế tài những viên chức Việt Nam có liên quan đến tình trạng vi phạm nhân quyền trong nước.
Sân bay Vình hành xử kiểu như xã hội đen.



Sân bay Vình hành xử kiểu như xã hội đen.
Đã lâu không về quê bằng máy bay. Hôm nay đang bị cảm cúm may có cái vé thưởng nên tự thưởng cho mình chuyến đi mây về gió. Đến sân bay Vinh thấy mừng vì khang trang sạch sẽ hơn xưa. Ra cổng đang xem có chuyến xe phòng vé nào về Hà Tĩnh không. Họ bảo phải chờ hơn một tiếng nữa cho đủ người về Hà Tĩnh. Có tay cò mồi tắc xi cứ gạ gẫm nhưng mình bảo không vội. Đang lang thang ngó nghiêng thì thấy một chiếc xe 5 chỗ chạy qua và khi nhìn thấy tôi thì lái xe hỏi: Bác về Hà Tĩnh à? Lên xe tui chở về tôi đang về Hà Tĩnh đây. May quá, đang nắng chang nên mình lên xe. Bác tài bảo trông bác quen quen mà lại đứng giữa nắng nên tui chở về, Hình như bác làm y tế thì phải. Xe chưa kịp chạy thì thấy tên cò tắc xi gõ cửa bảo: Nếu chơ người ra thì bị gông xe. Bác tài bảo chắc nó nói đùa chứ chỏ người nhà về thì có làm sao.
Xe vừa đến cổng thì thấy cổng đóng sập lại và vài ba tay bảo vệ mặt mũi hầm hố hò hét bắt dừng lại. Bác tài hỏi tại sao dừng. Thì được trả lời là cứ chờ sẽ biết. Mấy giây sau thấy một tay bảo vệ vác cái gông sắt ra và lao vào gông vào lốp xe. Bác tài xuống xe hỏi tại sao thì vừa lúc tên cò tắc xi lao xe máy tới và lệnh: Gông lại cho tao roi sẽ biết. Bác tài quay sang toi bảo: Bác thông cảm, tui thấy bác quen định chở về nhưng chúng nó ngăn cản thì bác xuống đi phương tiện khác vậy.
Tôi đành xuống xe giữa trời nắng chang chang. Vừa bước qua cổng thì một đoàn cò chạy tới bu lấy làm tôi phát hoảng. May quá lúc đó có cái xe 30 chỗ biển số Hà Tĩnh chạy ra. Tôi vẫy tay thì được mở của. Tôi nhanh chân lên xe chạy thoát và một mình trên xe mát rượi về tận quê.
Trên xe cứ nghĩ lại và áy náy vì mình mà bác tài tốt bụng bị phiền toái, thương cái xe vô tội bị gông cùm.
Vậy đấy, lòng tốt của con người đã bị ngược đãi bới Ban quản lý sân bay Vinh. Hổ thẹn thay cho Cục hàng không nước nhà.
Nhà thơ lãng tử dễ thương Nguyễn Tất Nhiên


Mai-Agnetha Pham is with Mai-Agnetha Pham.
Bài viết giới thiệu văn nghệ sỹ miền nam tự do: Nhà thơ lãng tử dễ thương Nguyễn Tất Nhiên
Đoàn Dự
Nguyễn Tất Nhiên tên thật là Nguyễn Hoàng Hải, là một nhà thơ được nhiều người Việt Nam yêu thích.
Đối với các nhà thơ khác thì người ta hâm mộ, còn đối với Nguyễn Tất Nhiên, người ta yêu thích do thơ của Nhiên rất hay, phóng khoáng, có những nét gần như kỳ lạ nhưng lại rất trẻ, rất hồn nhiên, cứ viết là viết, hễ thích là viết và viết rất gần gũi với cuộc sống con người. Ví dụ: “Người từ trăm năm/ Về ngang sông rộng/ Ta ngoắc mòn tay/ Trùng trùng gió lộng/ Thà như giọt mưa/ Vỡ trên tượng đá/ Thà như giọt mưa/ Khô trên tượng đá/ Có còn hơn không…” (Trích: Khúc tình buồn.
Phạm Duy phổ nhạc và đổi tên thành ‘Thà như giọt mưa’ nhưng xem ra cái tên Khúc tình buồn hay hơn).
Ôi, tình yêu mà chỉ có “một khúc” thôi – một khúc ngắn ngủi, nhỏ bé, giống như những giọt mưa rơi trên tượng đá, sau đó khô đi và tác giả tự an ủi: “Có còn hơn không”.
Thật dễ hiểu, dễ gần gũi, vì ai cũng đã từng trải qua thứ tình cảm ấy nên thấy yêu thơ Nguyễn Tất Nhiên.
Thời trẻ tuổi: Nguyễn Tất Nhiên sinh ngày 30 tháng 5 năm 1952 tại quận Đức Tu, tỉnh Biên Hòa, mất ngày 3 tháng 8 năm 1992 tại California, Mỹ, hưởng dương 40 tuổi.
Lúc còn là một học sinh với cái tên khai sinh Nguyễn Hoàng Hải, Nhiên theo học tại trường Trung học Công lập Ngô Quyền – Biên Hòa từ năm lớp 6 (1963) cho tới năm lớp 12 (1970).
Biên Hòa trước 1975 có hai trường trung học lớn, là trường Ngô Quyền (công lập) và trường Khiết Tâm (tư thục, công giáo). Trường Ngô Quyền nay vẫn còn nhưng trường Khiết Tâm đã bị tịch thu ngay sau 30-4 và trở thành trường bán công.
Khi còn là một học sinh Trung học Đệ Nhất cấp (lớp 6 đến lớp 9), cậu học sinh Nguyễn Hoàng Hải đã làm thơ và thơ rất hay, rất tình cảm, với những ý tưởng đặc biệt nên được bạn bè hâm mộ. Mới học lớp 7 nhưng cậu rủ cậu bạn cùng lớp cũng yêu thơ như mình tên là Đinh Thiên Thọ thành lập thi văn đoàn Tiếng Tâm Tình và khuyến khích bạn bè hợp tác. Các “tác phẩm” cả thơ lẫn văn trong thi văn đoàn đem quay ronéo rồi chuyền tay nhau đọc.
Năm sau, lên lớp 8, mới 14 tuổi (năm 1966), hai “nhà thơ học trò” này chung tiền nhau xuất bản tập thơ đầu tay Nàng thơ trong mắt.
Gia đình Nguyễn Hoàng Hải có tiệm may âu phục lớn ngay trong trung tâm thành phố, còn gia đình Đinh Thiên Thọ có tiệm tạp hóa cũng rất khá giả, nên tiền in thơ cũng “lo được”.
Đinh Thiên Thọ lấy bút hiệu là Đinh Thiên Phương còn Nguyễn Hoàng Hải lấy bút hiệu Hoài Thi Yên Thi. Như vậy, Đinh Thiên Phương và Hoài Thi Yên Thi là hai nhà thơ “nhí” có tác phẩm xuất bản rất sớm, vào năm 14 tuổi (Đinh Thiên Thọ và Nguyễn Hoàng Hải bằng tuổi nhau).
Trong thời gian này, Hoài Thi Yên Thi (Nguyễn Tất Nhiên) thầm yêu một cô bạn cùng lớp gốc “Bắc kỳ di cư 54” tên là Duyên (Hoài Thi Yên Thi người miền Nam) với những tình cảm nhẹ nhàng, trong sáng, nhưng không đi đến đâu vì tình yêu thuở học trò thời đó là như vậy, “yêu rất nhiều mà chẳng được bao nhiêu” chứ không như bây giờ.
Tuy nhiên, dù sao thì cô bạn gái cùng lớp tên Duyên cũng là niềm cảm hứng cho nhà thơ Hoài Thi Yên Thi và sau này “chàng” đổi bút hiệu thành Nguyễn Tất Nhiên, sáng tác khá nhiều bài thơ rất có giá trị: “Khúc tình buồn”
(Phạm Duy phổ nhạc thành “Thà như giọt mưa”), “Linh mục”
(Nguyễn Đức Quang phổ nhạc thành “Vì tôi là linh mục”), “Ma sơ” (Phạm Duy phổ nhạc thành “Em hiền như ma sơ”), “Cô Bắc Kỳ nho nhỏ”,v.v… Người ta tìm được 71 bài đã đăng báo và 3 tập thơ đã xuất bản, trong đó có một tập in ở Mỹ khi Nhiên còn sống.
Tâm hồn nghệ sĩ của Nguyễn Tất Nhiên đã bộc lộ từ lúc còn rất ít tuổi. Đầu óc Nhiên được mô tả là lúc nào cũng như mơ mộng, suy nghĩ đâu đâu, không tập trung ngay cả trong khi còn đang đi học.
Bạn bè thời đó gọi đùa Nhiên là “Hải-ngố” hay “Hải-khùng”.
Có câu chuyện do bạn bè kể lại là một buổi sáng, Nguyễn Tất Nhiên đứng giữa ngã tư trong thành phố Biên Hòa, hai tay đút túi quần, cặp mắt mơ mộng nhìn lên trời như không biết đó là ngay giữa ngã tư.
Theo lời kể của nhà thơ Thái Thụy Vy, hồi chưa nổi tiếng, trời nắng chang chang mà “Hải-khùng” vẫn mặc chiếc áo măng-tô mua ở khu Dân sinh dưới Sài Gòn, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, đạp xe đạp đi theo “cô Bắc Kỳ nho nhỏ” tên Duyên.
Giai đoạn từ 1971 trở về sau:
Sự nghiệp của Nguyễn Tất Nhiên thời gian đầu không mấy thành công, thơ in ronéo tặng cho các nữ sinh chẳng ai buồn đọc.
Hai tập thơ xuất bản, gửi bán trong tiệm sách ở đầu chợ Biên Hòa, để lâu giấy vàng cả ra cũng chẳng ai mua.
Cho đến khi thơ của Nhiên được một giáo sư trong trường Ngô Quyền (trước năm 75 các thầy cô giáo dạy trung học gọi là giáo sư, dạy tiểu học gọi là giáo viên; sau 75 tất cả đều là giáo viên giống như ngoài Bắc), vốn yêu thơ và biết thơ của Nhiên có giá trị nên gửi tới tạp chí Sáng Tạo ở Sài Gòn do nhà văn Mai Thảo chủ trương.
Lúc ấy, hễ có bài đăng trên tạp chí Văn của Trần Phong Giao, tạp chí Sáng Tạo của Mai Thảo hay Bán nguyệt san Thời Nay của Nguyễn Văn Thái v.v… là rất dễ được mọi người chú ý.
Các nhạc sĩ Phạm Duy, Nguyễn Đức Quang thấy thơ của tác giả Nguyễn Tất Nhiên nào đó đăng trên Sáng Tạo rất hay và có ý lạ nên phổ nhạc, từ đó Nguyễn Tất Nhiên bắt đầu nổi tiếng.
Bị… lính chê!
Đầu năm 1972, Nguyễn Tất Nhiên nhận được giấy gọi nhập ngũ Trường Sĩ quan Thủ Đức, nhưng mới đi trình diện, khám sức khỏe tại Trung tâm Nhập ngũ số 3 đường Tô Hiến Thành thì bị các bác sĩ trong Hội đồng Giám định Y khoa… chê và cho về với lý do “tâm thần không ổn định”.
Đối với anh chàng lãng tử đầu óc luôn luôn để đâu đâu này thì đi lính cũng được, không đi lính cũng được, chẳng sao cả.
Nhưng đã đi rồi lại bị cho về vì… đầu óc không bình thường thì cũng hơi mắc cỡ với bạn bè. Do đó, chàng bèn nói dóc rằng chính chàng giả bộ tâm thần, đánh lừa được Hội đồng Giám định nên họ cho về.
Giải thích riết rồi… chính chàng cũng tưởng rằng mình có tài “giả điên” thật, nên bèn lấy làm khoái chí lắm, hễ gặp bạn bè là khoe tới khoe lui hoài.
Thế rồi, sau 1975, ai cũng nghèo, Nguyễn Tất Nhiên may mắn xin được một chân làm nhân viên điều hành trong Hợp tác xã xe lam ở bến xe Tam Hiệp, Biên Hòa, đồng lương tuy chẳng bao nhiêu nhưng cũng đỡ phải chơi không. Ngoài ra, Nhiên cũng có một người anh và một người chị ở bên Pháp làm ăn từ trước rất khá giả, luôn luôn gửi quà (tức các thùng hàng, lúc đó chưa được gửi tiền như bây giờ) về giúp đỡ nên gia đình không đến nỗi nào.
Không phải lo cho chuyện gia đình, buổi tối buồn tình chàng đi học đàn ghi-ta và học sáng tác âm nhạc với nhạc sĩ Nguyễn Hữu Nghĩa nhưng không thành công. Chàng chẳng sáng tác được bản nhạc nào. Cuối năm 1980, gia đình được bảo lãnh sang Pháp, trong đó có Nhiên. Lúc ấy chàng 28 tuổi.
Ba năm sau, có một cô gái tên Lê Minh Thủy từ bên Mỹ đi du lịch Âu châu, sang Pháp.
Cô này vẫn hâm mộ thơ của Nguyễn Tất Nhiên, nhất là qua các bài đã được nhạc sĩ Phạm Duy và nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang phổ nhạc, bèn tìm đến thăm.
Họ gặp nhau, yêu nhau rồi ít lâu sau chàng sang Mỹ làm đám cưới với nàng và ở lại với vợ tại Mỹ, sống ở Quận Cam, California.
Năm 1987, theo gợi ý của vợ, chàng gia nhập Hội Nhà Văn Việt Nam tại hải ngoại. Đó là một mối tình đẹp, họ rất yêu nhau và có với nhau hai con trai.
Ngày 3 tháng 8 năm 1992, người ta thấy nhà thơ lãng tử Nguyễn Tất Nhiên chết trong chiếc xe hơi của mình đậu dưới bóng cây trong một sân chùa thuộc California, có lẽ do bị trụy tim bất ngờ.
Ta phải khổ cho đời ta chết trẻ
Phải ê chề cho tóc bạc với thời gian
Phải đau theo từng hớp rượu tàn
Phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định
Đây là những câu thơ được coi là “tiền định” trích trong bài “Giữa trần gian tuyệt vọng” làm năm 1972, lúc Nguyễn Tất Nhiên mới 20 tuổi.
Những câu thơ này được khắc trên mộ bia của chàng. Mộ Nguyễn Tất Nhiên nằm tại Vườn vĩnh cửu trong nghĩa trang Westminster, phía tây Little Saigon, California.
Rất thường xuyên, các du khách Việt đến thăm khu phố Bolsa – Little Saigon có ghé ngang qua thăm mộ thi sĩ.
Theo lời nhà báo Đoàn Thạch Hãn thì bút hiệu Nguyễn Tất Nhiên là do nhà thơ Du Tử Lê đặt. Ông Hãn kể rằng theo nhà thơ Phạm Chu Sa, “có lần Nhiên bộc bạch rằng bút hiệu Nguyễn Tất Nhiên là do Du Tử Lê đặt.
Nhiên bảo, ngay lần đầu mới gặp, Du Tử Lê đã chê cái bút hiệu Hoài Thi Yên Thi.
Nhiên hỏi Du Tử Lê:
– “Bạn bè em ai cũng chê. Cái bút hiệu này hơi sến phải không?”
Lê đáp: – ‘Tất nhiên’.
Du Tử Lê nói thêm:
– “Họ Nguyễn hả? Ừ thì lấy luôn là NguyễnTất Nhiên đi”.
Thế là cái tên định mệnh đó ra đời, gắn chặt với thi nghiệp của một con người tài hoa bạc mệnh.
Bài thơ dưới đây được xem là cuối cùng của Nguyễn Tất Nhiên:
Tình ơi hỡi tình
Lâu rồi…, không nhớ bao lâu
Tìm nhau trong cõi bạc đầu nhân gian.
Em về, dưới gót trăng tan
Có nghe thiên cổ tiếng ngàn thông đau?
* * *
Lâu rồi…, lâu lắm xa nhau
Còn chăng hư ảnh trong màu thời gian.
Em đi, tóc lộng mây ngàn
Ngàn mây lộng khổ mây bàng bạc theo
Lâu rồi…, không biết bao nhiêu
Nắng mưa trên những tàn xiêu đổ đời.
Hôm em êm ả điệu ngồi,
Sau lưng là những tình ơi hỡi tình..
“Người xưa” lên tiếng:
Trong số những bài thơ Nguyễn Tất Nhiên để lại, người con gái tên Duyên có một vị trí đặc biệt. Trong “Khúc tình buồn”, Nguyễn Tất Nhiên đã thấy “Người từ trăm năm về qua sông rộng. Ta ngoắc mòn tay (nhưng chỉ thấy) trùng trùng gió lộng”.
Anh yêu người con gái ấy song không thể đến gần, bởi vì người đó cứ xa cách muôn trùng.
Anh yêu, cuồng nhiệt, bỏng cháy mà không được đáp lại nên điều ước thật… điên: “Thà như giọt mưa/ Vỡ trên tượng đá/ Thà như giọt mưa/ Khô trên tượng đá/ Có còn hơn không”.
Sau này, một người bạn của Nguyễn Tất Nhiên kể lại là đã hỏi tại sao lại “thà như giọt mưa” thì anh trả lời hết sức cắc cớ: “Ai biểu Duyên không yêu tôi thì tôi làm giọt mưa… vỡ trên vai nàng”.
Người con gái xứ Bắc tên Duyên đã đi vào thơ Nguyễn Tất Nhiên là ai? Bóng hồng ấy có sức hút mãnh liệt thế nào khiến nhà thơ đắm say, si tình, điều đó gợi ra trí tò mò của người yêu thơ Nguyễn Tất Nhiên…
Chính từ thắc mắc ấy, nhà báo Hà Đình Nguyên đã bỏ công ra truy tìm nguyên mẫu trong hàng chục năm ròng rã từ nhiều nguồn tin, bằng các mối quan hệ và bằng cả cơ duyên.
Trong một lần tâm sự với nhà thơ Lê Minh Quốc, anh thành thật nói rằng mấy chục năm nay đã cố tìm tòi về người đẹp tên Duyên trong các bài thơ nhưng “bó tay”.
Lê Minh Quốc lục trong trí nhớ và giới thiệu Hà Đình Nguyên tìm gặp nhà báo Lưu Đình Triều, người học cùng trường Ngô Quyền thuở trung học với người đẹp tên Duyên và cả nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên ở Biên Hòa, Đồng Nai.
Qua trí nhớ của người bạn của Nguyễn Tất Nhiên, cô gái tên Duyên cũng hé mở.
Theo Lưu Đình Triều, nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên tên thật là Nguyễn Hoàng Hải sinh năm 1952, sau mới lấy bút danh Nguyễn Tất Nhiên.
Còn cô Duyên, tên đầy đủ là Bùi Thị Duyên dân “Bắc Kỳ”, gia đình di cư vào Nam năm 54.
Tình yêu của Hải dành cho Duyên cả trường Ngô Quyền ai cũng biết. Ngoài ra, Duyên còn là nguồn cảm hứng, là nguyên mẫu cho nhiều bài thơ của Nguyễn Tất Nhiên khi anh ở độ tuổi đôi mươi.
Những tưởng Nguyễn Tất Nhiên sẽ chiếm được trái tim “người đẹp” khi tên cô ngân vang cùng nhạc Phạm Duy trong lòng bao nhiêu người yêu mến.
Thế nhưng, người đẹp tên Duyên và nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên vẫn đường hai lối rẽ.
Sau này, họ cùng sống ở Mỹ nhưng không biết có cơ hội nào gặp lại nhau không, vì một người ở Michigan, một người ở California.
Cô gái xứ Bắc mang tên Bùi Thị Duyên ngày nào hiện nay vẫn sống tại Michigan, Hoa Kỳ.
Sau này, qua những người bạn của Nguyễn Tất Nhiên, cô đã nhớ lại những kỷ niệm thật đẹp của tuổi học trò:
– “Tụi này học chung cùng lớp với nhau từ năm đệ Tứ. Nhưng lúc đó tôi ngây thơ, chưa nghĩ gì hết, còn Nguyễn Tất Nhiên nghĩ gì hay không thì tôi không biết. Gặp nhau, biết nhau từ lúc 14, 15 tuổi. Tôi được tặng một quyển thơ mà Nguyễn Tất Nhiên nói là có ba bản đặc biệt.
Một bản của Nhiên, một bản tặng tôi và một bản cho ai tôi quên mất rồi. In ra khoảng chừng 100 quyển thôi. Tôi biết sự hình thành tập thơ của Nguyễn Tất Nhiên chứ không phải không. Tất cả bạn bè trong lớp ai cũng biết, nhưng đó là chuyện hồi nhỏ”.
Trong tập thơ Thiên Thai, Nguyễn Tất Nhiên có rất nhiều bài nói về người thiếu nữ tên Duyên và tập thơ này viết bởi nguồn cảm hứng duy nhất đó. “Dĩ nhiên là phải xúc động bởi nguyên một tập thơ viết cho tôi. Nhưng tôi đã nói với Nguyễn Tất Nhiên ngay từ đầu rằng mình là bạn thôi. Nếu có ý gì đó thì tôi không gặp nữa. Về sau anh ấy phải công nhận là muốn làm bạn, để còn được tiếp tục gặp một người bạn như tôi. Chắc anh ấy cũng quý tôi lắm” – người con gái tên Duyên chia sẻ.
Mới hay, tình yêu đơn phương, hay tình dang dở khiến người ta nghĩ đến nhau nhiều.
Những vần thơ đã sống cùng thời gian, và người con gái tên Duyên thành biểu tượng thơ của Nguyễn Tất Nhiên. Những bài thơ đã làm cho cái tên Duyên trở nên nổi tiếng và ý nghĩa. Cái ý nghĩa gắn với một tình yêu cuồng si của một tài thơ điên, phận mỏng.
Nguyễn Tất Nhiên yêu và chẳng ngại ngùng khi gọi tên người mình yêu trong thi ca.
Trong bài “Duyên của tình ta con gái Bắc”, anh viết: “Em nhớ giữ tính tình con gái Bắc/ Nhớ điêu ngoa nhưng giả bộ ngoan hiền/ Nhớ dịu dàng nhưng thâm ý khoe khoang/ Nhớ duyên dáng, ngây thơ mà xảo quyệt/ Nếu vì em mà ta phải điên tình/ Cơn giận giữ đã tận cùng mê muội/ Thì đừng sợ, Duyên ơi, thiên tài luôn yếu đuối…”
Đoàn Dự ghi chép
Khúc Buồn Tình
Người từ trăm năm
về ngang sông rộng
ta ngoắc mòn tay
trùng trùng gió lộng
(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)……
người từ trăm năm
về như dao nhọn
ngọt ngào vết đâm
ta chết âm thầm
máu chưa kịp đổ
(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)
(1970)
Hình ảnh bên dưới là hình Nguyễn Tất Nhiên và Bùi Thị Duyên (Người con gái tên Duyên trong thơ của Nguyễn Tất Nhiên )
Từ anh thợ sơn đến Bác sĩ chuyên khoa và Huy Chương OAM của Nữ Hoàng

VẺ VANG NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN…
********
Từ anh thợ sơn đến Bác sĩ chuyên khoa và Huy Chương OAM của Nữ Hoàng
Từ một cậu bé bỏ học năm lớp 10, lao công đào binh từ chiến trường K, vượt biên qua Úc làm đủ thứ từ thợ sơn, thợ mài, phụ shop, công nhân bưu điện đến trở thành một bác sĩ chuyên khoa, Bác sĩ Hồ Quang Phú- người vừa vinh dự nhận Huy chương OAM của Nữ Hoàng vì sự đóng góp của ông trong lãnh vực Y khoa và cộng đồng, nói về ba người với ba câu nói đơn giản đã ảnh hưởng quan trọng đến cuộc đời ông.
Cộng đồng người Việt Úc Châu vừa vinh dự có thêm một thành viên được trao tặng Huy chương Phục vụ cộng đồng và nhân sinh.
Đó là Bác sĩ Hồ Quang Phú ở Sydney đã được Ngài Toàn Quyền Úc Peter Cosgrove trao tặng huy chương OAM nhân dịp sinh nhật Nữ Hoàng mới đây vì sự đóng góp của ông trong Y khoa.
Để đi từ một người lao động làm những công việc nặng nhọc đến trở thành bác sĩ chuyên khoa sản và hiếm muộn, một người thầy được nhiều sinh viên tại trường Y thuộc đại học Sydney yêu mến là cả một chặng đường dài lý thú.
Với hàng trang là lớp 10 bỏ học giữa chừng khi còn ở Việt Nam, đi nghĩa vụ quân sự chiến trường Campuchia bị đẩy ra trận sau hai tháng quân trường chỉ được bắn đúng ba phát đạn thật, chứng kiến vô số bạn đồng ngũ bị làm bia đỡ đạn bia tập bắn cho lính Pol Pot, Phú đào ngũ.
Phú bị bắt đi lao động cải tạo và những ngày đói vàng mắt vì chỉ ăn bo bo với nước mắm ở Bù Đăng Bù Đốp tưởng phải bỏ mạng vì những cơn sốt rét rừng năm 18 tuổi.
Gia đình gom góp vay mượn cho Phú đi vượt biên. Chuyến đi vượt biên ly kỳ với hai lần bể bánh xe lôi, bị bỏ lại trên đường đi đến điểm hẹn để xuống ghe ra tàu lớn ở Cần Thơ, hai lần bị lạc đoàn, và khi lên được ghe thì lại bị chết máy.
Nhóm ông bị chậm đến một ngày một đêm tính luôn thời gian ghe nhỏ bị chết máy trong lúc chạy đuổi theo tàu lớn thế nhưng cũng lên được tàu.
Vào lúc cậu thanh niên Phú nghĩ mình bỏ về lại Sài gòn để tránh bị bắt tù lao động lần nữa thì một người phụ nữ trong đoàn bị lạc nói Phú đừng về vì “Chồng tôi sẽ không đi nếu như không có tôi”.
Và đúng vậy người chồng trên chuyến tàu lớn đã tìm mọi cách để nấn ná ở lại một ngày một đêm trong tình trạng hai bên hoàn toàn không có một phương tiện gì liên lạc ngoài niềm tin và sự gắn bó vợ chồng đã giúp họ tìm thấy và hợp lại với nhau trên tàu.
Sự gắn bó keo sơn của cặp vợ chồng người tổ chức chuyến đi không chỉ đã giúp họ tìm nhau mà còn giúp cả đoàn vượt biên gần 105 người ra đi trọn vẹn sau một ngày một đêm lạc nhau kẻ trên bờ người trên biển.
Cũng trong một ngày một đêm lạc nhau đi tán loạn trên bến Ninh Kiều, gần như ai cũng đoán ra cái nhóm người lạ mặt không giống dân địa phương đang đi lơ ngơ không biết đường trong khu chợ chồm hổm trên bờ bến Ninh Kiều kia là nhóm người từ Sài Gòn đi vượt biên nhưng đã không ai báo công an để bắt họ; và nếu không có sự mách nước của một người phụ nữ bán hàng thúng ở chợ thì có lẽ chuyến đi vượt biên cậu thanh niên 20 tuổi Phú đã kết thúc ở trại cải tạo.
Chính người phụ nữ vô danh tốt bụng trong ngôi chợ chồm hỗm bằng lòng tốt cho đi không hồi đáp đã giúp nước Úc có một bác sĩ tương lai tài giỏi và một OAM mà cộng đồng người Việt tự hào.
Những hành động và thái độ của những người ông gặp trên đường đời đã gieo trong Phú về lòng tốt và lòng biết ơn.
Sạt lở trong đêm tại Đồng Tháp, 5 căn nhà rơi xuống sông
5 căn nhà của người dân bên kênh Nha Mân (tỉnh Đồng Tháp) vừa bị nhấn chìm trong vụ sạt lở xảy ra vào khoảng 5 giờ sáng nay, 15/7.

M.TRITHUCVN.NET
Bão đe dọa đánh vào Louisiana, gây nguy cơ lũ lụt, nước dâng khắp nơi
Bão đe dọa đánh vào Louisiana, gây nguy cơ lũ lụt, nước dâng khắp nơi
Trận bão thứ nhì của mùa bão Đại Tây Dương năm 2019 có thể sẽ hình thành dọc theo vùng Vịnh Mexico trong ngày Thứ Tư hoặc Thứ Năm và sau đó đổ bộ vào vùng bờ biển Louisiana.
Giận dữ kẻ khác khi lái xe ở Alabama, một bà lỡ tay bắn vào đầu chồng
Giận dữ kẻ khác khi lái xe ở Alabama, một bà lỡ tay bắn vào đầu chồng
BREMEN, Alabama (NV) – Một phụ nữ bị cáo buộc là tìm cách bắn một người khác khi giận dữ về tranh chấp lúc lái xe trên đường ở tiểu bang Alabama, nhưng bà này lại bắn lầm vào đầu ông chồng, theo nguồn tin cảnh sát.
Theo tin của đài truyền hình địa phương WVTM, cuộc tranh chấp trên đường này xảy ra vào khoảng 6 giờ 45 chiều Thứ Bảy, 6 Tháng Bảy, giữa ông Nicholas Cole và bà Erica Cole, với một người đàn ông trong chiếc xe khác, trên xa lộ 69 ở thành phố Dodge City.
Bản tin của đài WVTM nói bà Erica Cole rút súng khi ông chồng và người đàn ông kia đánh nhau. Bà định bắn người đàn ông kia, nhưng một viên đạn lại trúng vào đầu ông chồng của bà, tên Nicholas Cole.

Bà Erica Cole bị bắt về tội tìm cách giết người, tấn công và có hành động bất cẩn gây nguy hiểm tính mạng, theo nhà chức trách.
Ông Nicholas Cole được nhanh chóng chở vào bệnh viện và hiện được cho biết trong tình trạng sức khỏe ổn định, theo Văn Phòng Cảnh Sát Trưởng Cullman County.
Bà Erica Cole ra tòa lần đầu hôm Chủ Nhật và tiếp tục bị giam với số tiền thế chân ấn định để được tại ngoại hậu tra là $30,000. (V.Giang)





