Thi sĩ Du Tử Lê, tác giả của ‘Khúc Thụy Du,’ qua đời, hưởng thọ 77 tuổi

Thi sĩ Du Tử Lê, tác giả của ‘Khúc Thụy Du,’ qua đời, hưởng thọ 77 tuổi

Đỗ Dzũng/Người Việt

GARDEN GROVE, California (NV) –

October 8, 2019

Cố thi sĩ Du Tử Lê. (Hình: Uyên Nguyên).

Thi sĩ Du Tử Lê vừa qua đời lúc 8 giờ 6 phút tối Thứ Hai, 7 Tháng Mười, tại tư gia ở Garden Grove, hưởng thọ 77 tuổi.

Tin này được cô Orchid Lâm Quỳnh, ái nữ của ông, cho nhật báo Người Việt biết lúc 11 giờ tối Thứ Ba.

Cô kể: “Em báo tin này hơi trễ vì bây giờ mọi việc mới xong. Thực ra, tim bố ngừng đập lúc 8 giờ 6 phút tối Thứ Hai. Lúc đó, em vẫn gọi 911 và đưa bố vào bệnh viện. Bây giờ thì bố đã thật sự vĩnh viễn ra đi.”

Theo trang nhà dutule.com, nhà thơ Du Tử Lê, tên thật là Lê Cự Phách, sinh năm 1942 tại Hà Nam.

Năm 1954, ông theo gia đình di cư vào miền Nam.

Ông là cựu học sinh trường Chu Văn An, Trần Lục, rồi đại học Văn Khoa Sài Gòn, nguyên sĩ quan QLVNCH.

Ông làm việc tại Cục Tâm Lý Chiến trong vai trò phóng viên chiến trường, trước khi làm thư ký tòa soạn nguyệt san Tiền Phong.

Năm 1969, ông theo học khóa tu nghiệp báo chí tại thành phố Indianapolis, tiểu bang Indiana.

Năm 1973, ông được trao giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc, bộ môn Thi Ca, với thi phẩm: “Thơ Du Tử Lê 1967-1972.”

Ông định cư tại Hoa Kỳ sau biến cố 30 Tháng Tư, 1975.

Khởi sự làm thơ rất sớm, từ năm 1953 tại Hà Nội, với nhiều bút hiệu khác nhau, bút hiệu Du Tử Lê được ông dùng chính thức từ năm 1958 trên tạp chí Mai.

Thơ của ông xuất hiện trên nhiều tạp chí trong và ngoài nước. Ông có thơ đăng trên nhật báo Los Angeles Times, 1983, và New York Times, 1994.

Năm 1993, Giáo Sư Neil L. Jaimeson chọn dịch và phân tích một bài thơ của Du Tử Lê in trong cuốn “Understanding Vietnam,” do hai đại học UC Berkeley và UCLA và nhà xuất bản London ấn hành, là sách giáo khoa về văn học Việt Nam cho nhiều đại học tại Hoa Kỳ và Âu Châu.

Vẫn theo tác giả này, cùng với Nguyên Sa, sự đóng góp trí tuệ của Du Tử Lê cũng như Linh Mục Thanh Lãng và Nhất Linh-Nguyễn Tường Tam là điều không cần phải hỏi lại (Understanding Vietnam, trang 344).

Du Tử Lê là một trong sáu nhà thơ Việt Nam thuộc thế kỷ thứ 20, có thơ được chọn in trong tuyển tập “Thi Ca Thế Giới Từ Thời Thượng Cổ Tới Ngày Nay” (World Poetry – An Anthology of Verse from Antiquity to Our Time) do nhà xuất bản W.W. Norton New York, New York, ấn hành năm 1998.

Thơ của ông cũng được một số đại học dùng để giảng dạy cho sinh viên từ năm 1990.

Ký giả Jean Claude Pomonti, một nhà báo hàng đầu của tạp chí Le Monde của Pháp, đã chọn một bài thơ của Du Tử Lê để dịch sang Pháp ngữ và phê bình trong tác phẩm “La Rage D’Être Vietnamien” do Seuil de Paris xuất bản năm 1975.

Du Tử Lê là một trong bảy nhà thơ miền Nam, được cố nhà văn Mai Thảo chọn là “Bảy Vì Sao Bắc Đẩu” của nửa thế kỷ thi ca Việt Nam. Sáu người kia là Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Bùi Giáng, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, và Tô Thùy Yên.

Du Tử Lê là tác giả của trên 70 tác phẩm đã xuất bản.

Thi phẩm đầu tiên của ông xuất bản năm 1964.

Tùy bút của ông bao gồm “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời,” do công ty Văn Hóa Cổ Phần Phương Nam, Sài Gòn, ấn hành Tháng Tư, 2017; “Mẹ về Biển Đông,” do Hội Nhà Văn Việt Nam, Hà Nội, xuất bản Tháng Sáu, 2017; Tuyển tập thơ “Khúc Thụy Du,” do Phanbook, Sài Gòn, xuất bản Tháng Sáu, 2018; Tuyển tập thơ “Trên Ngọn Tình Sầu” và truyện dài “Với nhau, một ngày nào” (in lần thứ ba), do Saigon Books xuất bản Tháng Bảy, 2018.

Nếu không kể những tác phẩm được tái bản thì tuyển tập thơ “Trên Ngọn Tình Sầu” là tác phẩm thứ 73 của họ Lê, tính đến Tháng Bảy, 2018.

Là một trong những nhà thơ lớn của văn học Việt Nam, thơ của ông cũng được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc và trở thành những bài nhạc nổi tiếng như “Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn,” “Hạnh Phúc Buồn (Trong Tay Thánh Nữ Có Đời Tôi),” “Giữ Đời Cho Nhau (Ơn Em),” “Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển,” “Khúc Thụy Du,” “K Khúc Của Lê,” “Khi Cuộc Tình Đã Chết,”….

Từ năm 1981 tới nay, nhà thơ Du Tử Lê có nhiều buổi thuyết trình tại một số đại học tại Hoa Kỳ, Pháp, Đức, và Úc. Ông từng hai lần được mời đến Harvard University để nói chuyện về thơ của mình.

Từ năm 2009 tới 2012, mỗi năm Du Tử Lê đều có ít nhất một lần thuyết trình về thơ tại đại học UC Berkeley và đại học Cal State Fullerton.

Ngoài thi ca, Du Tử Lê còn là một họa sĩ.

Kể từ Tháng Bảy, 2011, nhiều tranh của ông được dùng làm bìa sách cũng như in nơi trang bìa của một số tạp chí xuất bản tại Hoa Kỳ.

Tính tới 2012, ông đã có hai cuộc triển lãm cá nhân, một tại Houston, Texas, và một tại Seattle, Washington.

Cuộc triển lãm cá nhân lần thứ ba của Du Tử Lê, vào Thứ Bảy, 30 Tháng Ba, 2013, tại Virginia, là triển lãm mở đầu cho năm.

Và năm 2014 của họ Lê được đánh dấu bằng cuộc triển lãm bỏ túi ở Coffee Lover, San Jose, California, với bảy tác phẩm hội họa, được bán hết trong vòng 45 phút.

Cuối năm 2012, với sự hướng dẫn của Giáo Sư Diêu Thị Lan Hương, cô Trần Thị Như Ngọc, cư dân Hà Nội, đã chọn thơ Du Tử Lê cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ, chuyên ngành Lý Luận Văn Học, với tựa đề “Thơ Du Tử Lê Dưới Góc Nhìn Tư Duy Nghệ Thuật,” được hội đồng giám khảo chấm đậu và được phép dùng để giảng dạy. Luận văn này hiện được lưu trữ tại Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, thuộc Đại Học Quốc Gia Hà Nội, mã số: 60 22 01 20.

Chưa hết, thi sĩ Du Tử Lê còn viết văn và biên khảo văn học.

Bước vào năm 2015, tác phẩm truyện dài “Với nhau, một ngày nào” (tái bản lần thứ nhất) của nhà thơ, và bộ sách dầy 700 trang, tựa đề “Sơ lược 40 năm văn học nghệ thuật Việt 1975-2015” – tập 1, được cơ sở H.T. Productions xuất bản, công ty Amazon in và phát hành. Ngoài ra, bộ sách “Sơ lược 40 năm văn học nghệ thuật Việt 1975-2015” – tập 2, đầu sách thứ 67, của nhà thơ Du Tử Lê cũng được công ty Amazon in và phát hành giữa Tháng Chín.

Riêng năm 2018, tại Sài Gòn, đã có bốn đầu sách của Du Tử Lê được xuất bản cũng như tái bản, trong số đó, có các tuyển tập như:

– Tuyển tập thơ “Khúc Thụy Du,” tác phẩm thứ 72, do PhanBooks, Sài Gòn, xuất bản Tháng Sáu, 2018.

– Tuyển tập thơ “Trên Ngọn Tình Sầu,” tác phẩm thứ 73, do Saigon Books xuất bản Tháng Bảy, 2018.

– Tuyển tập tùy bút “Giữ Đời Cho Nhau” II, do PhanBooks, Sài Gòn, xuất bản Tháng Sáu, 2018.

Nguồn: Đỗ Dzũng – Báo Người Việt
https://www.nguoi-viet.com/little-…/thi-si-du-tu-le-qua-doi/

Image may contain: one or more people and closeup

Nhìn Lại Một Sự Kiện Tham Nhũng Gây Chấn Động Nước Mỹ

Nhìn Lại Một Sự Kiện Tham Nhũng Gây Chấn Động Nước Mỹ

Năm 2010 đã xảy ra một sự kiện chấn động tại thành phố Bell thuộc Los Angeles (bang California, Mỹ): Một người phụ nữ sống bằng nghề nhặt ve chai vậy mà lại có thể khiến lương quan chức ở địa phương này giảm 90%…

Vào một ngày đầu tháng 7/2010, khi người phụ nữ nhặt ve chai tên là Jane Alice 53 tuổi ở thành phố Bell đi qua cửa Văn phòng chính phủ thành phố thì có một nhân viên lao công gọi lại. Người này chỉ vào một đống lớn giấy tờ bỏ đi và một ít rác rồi nói với bà Jane: “Bà giúp tôi dọn đống rác này đi, tôi sẽ tặng hết tất số giấy phế liệu này cho bà!”. Bà Jane vui vẻ đồng ý, sau khi dọn rác xong, bà lập tức cho số giấy tờ phế liệu vào xe của mình.

Bà Jane đã được một món hời. Khi đang sắp xếp số giấy bỏ đi này, bà phát hiện một tờ giấy ghi chép lương của quan chức thành phố Bell, trên đó viết rõ lương của Chánh văn phòng thành phố Roberto Rizzo, Cảnh sát trưởng Randy Adams, Trợ lý quản lý hành chính Angela Spaccia…

Trong đó, lương của Chánh văn phòng thành phố Roberto Rizzo cao đến 790.000 đô la (cao hơn nhiều so với thu nhập của tổng thống Obama), còn lương của ông Randy Adams là 460.000 đô la (cao hơn Cảnh sát trưởng thành phố Los Angeles 150.000 đô la) và của Angela Spaccia là 376.000 đô la, dù Nghị viên Hội đồng thành phố là chức vị không toàn thời gian mà lương cũng cao đến 100 ngàn đô la. Còn theo tiêu chuẩn của chính phủ Mỹ, Nghị viên Hội đồng thành phố như thành phố Bell thì mỗi tháng chỉ được nhận mức lương là 400 đô la.

Dù bà Jane là một người nhặt ve chai, nhưng bà vẫn biết rõ thu nhập trung bình của thành phố Bell chỉ tương đương bằng một nửa của thu nhập cả nước Mỹ, đa số người dân đều sống trong những ngôi nhà trệt, mức lương 40.000 đô la đã là thu nhập cao đối với thành phố Bell rồi. Bà càng biết rõ rằng thành phố Bell là một trong những thành phố nhỏ và nghèo nhất của Los Angeles, người dân ở đây đa số là công nhân.

Sau khi nhìn thấy tờ ghi chép tiền lương này, bà Jane cảm thấy vô cùng tức giận, bà không thể nào hiểu nổi, trong khi thành phố có rất nhiều người phải vật lộn mưu sinh cực khổ giống như bà thì các quan chức chính phủ lại thản nhiên cầm mức lương cao đến thế?!

Bà Jane đi ra ngoài đường để công khai sự việc này: “Tổng thống Mỹ kiếm được ít hơn các quan chức thành phố Bell, tôi nghĩ rằng điều này đủ để cho thấy mức lương của các quan chức này cao đến mức quá đáng, Hội đồng thành phố của chúng ta đã hoàn toàn bỏ qua trách nhiệm đối với những người đóng thuế!”

Bà Jane đọc to những con số cao đến bất thường trên giấy ngay giữa đường. Mọi người lập tức xôn xao, có người hét lớn: “Đám người đó đúng là một đám ký sinh trùng, phải bắt bọn họ từ chức!”

Việc làm của bà Jane đã khiến tờ Los Angeles Times chú ý, họ nhanh chóng liên lạc với kiểm sát trưởng địa phương để tiến hành điều tra vụ việc cũng như xác nhận thông tin mà bà Jane cung cấp là chính xác để đăng bài về sự việc này. Kết quả là đã gây sự chú ý ở cả Los Angeles và trên toàn nước Mỹ, người dân rất phẫn nộ.

Viện trưởng Viện kiểm sát California, ông Jerry Brown đã rất tức giận khi biết tin này. Vào ngày 26/7, ông đã gửi trát hầu tòa đến các quan chức thành phố Bell, yêu cầu kiểm tra ghi chép lương và hợp đồng của các nhân viên chính quyền thành phố nhằm điều tra kỹ hơn cũng như xác định biện pháp truy tố những quan chức và nghị viên có hành vi bí mật nhận lương cao.

Trước sức ép của người dân, các quan chức và nghị viên của thành phố Bell đã tổ chức “Cuộc họp tự kiểm điểm”. Trong cuộc họp có hơn 200 người dân thành phố tham dự và lắng nghe. Khi các quan chức và nghị viên cấp cao này xuất hiện, người dân lập tức la ó.

Trong cuộc họp lần này, các quan chức nhận lương cao đã tuyên bố từ chức. Đồng thời các nghị viên đã bỏ phiếu thông qua nghị quyết: Tất cả các quan chức và nghị viên nhận lương cao bao gồm Thị trưởng Hernandez đều bị giảm 90% mức lương của mình.

Thị trưởng Hernandez còn xin lỗi người dân: “Là một thị trưởng, điều tôi nên ưu tiên xem xét là khiến thành khố Bell trở thành một thành phố để mọi người có thể tự hào. Đối với vấn đề lương cao trước đây, tôi bày tỏ sự hối lỗi!”. Ông còn cho biết trong nhiệm kỳ còn lại, ông sẽ không tiếp tục nhận lương vì cảm thấy hổ thẹn.

Bà Jane nhanh chóng trở thành người nổi tiếng được mọi người biết đến, thậm chí bà còn được đài Columbia xướng danh là “Người phụ nữ nhặt rác có sức ảnh hưởng nhất đối với chính trị”. Họ còn bình luận rằng, một quốc gia nếu muốn phát triển lành mạnh, thì phải để bất cứ công dân nào cũng có “sức ảnh hưởng” như thế này.

Sau vụ việc có nhà báo nhận định rằng “Một người phụ nữ nhặt rác bình thường ở Mỹ mà lại dám tố cáo tham nhũng của chính phủ Mỹ ngay giữa đường, (dù là) việc quan chức chính phủ nhận lương cao chẳng hề liên quan đến mình”. Sở dĩ bà Jane phẫn nộ như vậy chính bởi vì bản thân bà là người đóng thuế; tuy nghề nghiệp  “thấp kém”, nhưng bà nhận định mình đã nuôi sống các quan chức và nghị viên đó. Ít nhất thì, bản thân bà có quyền giám sát và kiểm soát họ.

Ngọc Trúc

trithucvn.net

Chúng ta không tiên đoán về tương lai, chúng ta đang tạo dựng nó hàng ngày.

Năm 1983, trong một dịp về thăm nhà ở California, tôi đang loay hoay sửa lại hệ thống tưới nước cho khu vườn trước nhà, áo quần mặt mày lem luốc như một anh lao công Mỹ chính hiệu; thì một người phụ nữ lạ mặt xuất hiện ngoài cổng, cao tiếng, “Ông Tổng; Ông Tổng”. Đã lâu lắm tôi mới nghe lại danh từ này.

Ngạc nhiên, tôi ra mở cửa mời khách vào nhà. Chị giải thích, “Con là nhân viên cắt thịt của nhà máy Dona Foods ở Biên Hòa ngày xưa. Chắc ông không nhớ?” Tôi lắc đầu. Nhà máy có hơn 3.000 nhân viên, ngoài các cán bộ trong ban quản lý, tôi thực sự không biết ai. Chị đưa ra tấm thẻ ID cũ của công ty, đã bạc màu, nhưng vẫn còn nhận rõ tên Dương Thị Gấm, với tấm hình đen trắng ngày xưa rất quê mùa, có cả tên và chức vụ của anh quản lý trong khu vực sản xuất.

Chị tiếp tục kể, “Sau khi chính quyền tiếp thu, con làm thêm bốn tháng rồi bị cho nghỉ vì nhà máy không đủ nguyên liệu để điều hành. Con lên thành phố làm ô sin cho một gia đình vừa ở ngoài Bắc vô. Sau một năm, ông chủ được thăng chức điều về Hà Nội. Vì con làm việc tốt, ông đem con đi luôn và con ở ngoài đó đến hai năm. Trong thời gian làm thuê, có ông nhân viên ngoại giao người Đức cạnh nhà. Ông ta lớn tuổi, nhưng ngỏ ý muốn cưới con và đem về Đức khi mãn nhiệm. Muốn giúp gia đình nên con đồng ý, dù con chỉ mới 22 tuổi trong khi ông ta đã hơn 60. “Tôi nhìn chị kỹ hơn. Năm 1975, chị mới 19, thì năm nay, có lẽ chị chỉ mới 27, nhưng xem chị già và phong trần nhiều. Chị thuộc loại đàn bà xấu, dưới trung bình, lại thêm đôi chân bị khập khễnh. Có lẽ những bệnh tật, bất hạnh và mặc cảm đã làm chị già trước tuổi?”

“Con theo chồng về Đức được ba năm thì phải bỏ trốn, rồi ly hôn, vì ông này mỗi lần say rượu là đánh đập con tàn nhẫn. Con phải vào nhà thương cả chục lần mỗi năm. Không có tiền bạc hay của cải, làm bồi bàn khổ cực, nên con nghe lời rủ rê của bạn bè chạy qua Mỹ tìm đường sống. Con đến Los Angeles được 6 tháng nay.” Đại khái, chị đang làm nhân viên thoa bóp (masseuse) cho một tiệm trên San Bernadino. Thu nhập cũng tạm đủ sống, nhưng có cơ hội, người chủ muốn sang tiệm, nên chị tìm cách mua lại.

“Con dành dụm được hơn 12 ngàn đô la, nhưng còn thiếu năm ngàn nữa. Nghe tin ông Tổng ở đây, con hy vọng ông giúp cho con số tiền này để con có cơ hội vươn lên”.

Tôi đính chính với chị, tôi đã hết là ông Tổng, hiện nay chỉ là một nhân viên xoàng của một ngân hàng nhỏ ở Wall Street, sống đời trung lưu bình dị như hàng triệu người Mỹ khác. Nhưng may cho chị là hôm ấy, gần ngày Giáng Sinh, tôi thấy rộng lượng và nhất là vừa nhận được tấm chi phiếu khá lớn của ngân hàng cho tiền thưởng cuối năm. Tôi cho chị mượn năm ngàn và thực sự, không nghĩ rằng mình sẽ thấy lại số tiền này, như nhiều trường hợp vẫn luôn xảy ra với bà con bạn bè.

Nhưng chỉ sáu tháng sau, chị lại tìm đến nhà trả lại số tiền năm ngàn và còn muốn đưa thêm ba ngàn tiền lãi. Tôi không có nhà, vợ tôi chỉ nhận lại năm ngàn không lấy lãi và chúng tôi đều đồng ý là số tiến năm ngàn khứ hồi này quả là chuyện thần thoại của Hollywood. Chị còn khoe với vợ tôi là đã mua thêm một tiệm massage khác.

Bẵng đi năm năm, tôi không gặp lại chị và cũng không liên lạc gì. Tình cờ, tôi và bạn bè vào một quán ăn khá sang trọng ở Bolsa (quận Cam) và người chủ tiệm đứng đón tiếp chúng tôi là chị Gấm ngày nào. Chị huyên thuyên câu chuyện, “Làm massage có tiền nhưng nhức đầu với nhân viên, khách hàng và cơ quan công lực, nên con bán hết năm tiệm và quay ra kinh doanh nhà hàng. Ngoài tiệm này, con còn hai tiệm nữa ở khu phố Tàu và khu đại học UCLA.” Chị cũng khác hẳn lúc xưa. Áo quần thời trang bảnh bao, ăn nói lịch thiệp hơn, cư xử đúng như một bà chủ, và chiếc xe Mercedes đời mới đậu ngay cạnh cửa nói lên sự “thành công” của chị.

Sau bữa ăn miễn phí, tôi cũng không liên lạc gì với chị, vì công việc làm ăn của tôi lúc này đem tôi đi khắp thế giới, không mấy khi về lại California. Cho đến năm 1997, khi tôi đi dự một hội thảo và triển lãm về ngành ngân hàng ở Chicago, chị lại xuất hiện. Tôi đang nghiêm túc ngồi trên bàn làm phối hợp viên (moderator), còn chị thì tươi cười chào tôi trong bộ âu phục của một nhân viên cao cấp (executive), với một thẻ bài đeo trên người có tên rất Mỹ là Christina Spencer. Trong bữa ăn chiều sau hội thảo, chị đưa tấm hình chồng chị và đứa con đã lên 3, rồi tiếp tục, “Trong khi kinh doanh, con đi học thêm vào buổi tối và cuối tuần, cuối cùng cũng lấy được mảnh bằng Cử nhân (Bachelor) về Tài chính (Finance). Sau đó con đi làm cho Wells Fargo (ngân hàng lớn ở California), gặp chồng con là Phó Giám Đốc R&D cho Xerox nên đời sống hai đứa cũng tốt đẹp. Chúng con đang sống ở Palo Alto (một khu giàu của Bắc California cạnh đại học Stanford)”. Một nhân công nghèo hèn, thất học với một nhan sắc kém cỏi, lại gặp nhiều gian truân, chị đã lên tới đỉnh sung túc của một xã hội có sự cạnh tranh khắc nghiệt giữa nhiều loại dân tứ xứ. Tôi nhìn lại chị thêm lần nữa, một biểu tượng đáng khâm phục cho ý chí cầu tiến và sự hy sinh vô bờ để đạt đến giấc mộng của mình.

Dĩ nhiên là chị không nói ra, nhưng tôi tin là trong cuộc hành trình 22 năm vừa qua của chị, đã không thiếu những tình huống hiểm nghèo, cay đắng và tuyệt vọng chị phải đối diện. Sức mạnh nội tại nào đã giúp chị vượt qua và bay cao mới thực sự là “cú đấm thép” mà cộng động chúng ta hay bàn luận.
Không thiếu những trường hợp như chị trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Rời quê hương với hai bàn tay trắng, thiếu sót mọi kiến thức, kinh nghiệm và quan hệ trên xứ người, những người Việt như chị đã vượt lên mọi rào cản, trở ngại để dành cho mình một chỗ đứng dưới ánh mặt trời (a place in the sun).

Tôi muốn nói với các doanh nhân trẻ và nhỏ của Việt Nam, trong hay ngoài nước, là nếu những con người như chị Gấm đã làm được, chúng ta cũng sẽ làm được.

Điều thú vị nhất là lần ăn tối ở Chicago với chị Gấm, tôi bốc được một lời khuyên trong chiếc bánh may mắn (gọi là fortune cookies mà các nhà hàng Tàu ở Mỹ thường mời khách free. Bánh kèm bên trong một lời bói toán hay một câu nói của doanh nhân). Tôi còn giữ tờ giấy này, “Thua cuộc chỉ là một tình trạng tạm thời. Bỏ cuộc biến nó thành một sự kiện thường trực”. (Being defeated is often a temporary condition. Giving up is what makes it permanent Marlene vos Savant).

Chúng ta không tiên đoán về tương lai, chúng ta đang tạo dựng nó hàng ngày.

Tiến sĩ Alan Phan
(st)  

Image may contain: cloud, sky, plant, tree, flower, outdoor and nature

Điểm sách VĂN HỌC VIỆT NAM của Trần Bích San – BS Trần Văn Tích

Điểm sách VĂN HỌC VIỆT NAM của Trần Bích San – BS Trần Văn Tích

Chúng ta đã có nhiều công trình biên khảo về nền văn học dân tộc của Dương Quảng Hàm, Nghiêm Toản, Phạm Thế Ngũ, Hà Như Chi, Phạm Văn Diêu v.v. Đó là chỉ nói về Miền Nam, dưới chế độ quốc gia. Ở Miền Bắc cũng có nhiều tuyển tập văn học sử, phần lớn do một tập thể biên soạn. Các tác giả sáng tác theo tinh thần quốc gia chỉ nhắm mục đích là cung cấp cho giới đọc sách một cái nhìn tổng quát về văn học sử Việt Nam. Đến lượt mình, Trần Bích San nêu rõ tâm nguyện khi chấp bút nơi trang 25 sách Văn học Việt Nam: “Sách này được soạn thảo với mục đích bảo tồn sự trung thực của lịch sử văn học Việt Nam.” Như vậy, khác hẳn các nhà nghiên cứu văn học sử tiền bối, Trần Bích San không những là một người biên khảo văn học mà còn là một người lính chống cộng.

***

Tác phẩm Văn học Việt Nam phát hành cuối năm 2018, dày 1200 trang, in chữ cỡ 12, do Nhà Xuất bản Cỏ Thơm ấn loát và tác giả cùng thân nhân phát hành. Sách gồm 31 chương, bắt đầu với

Chương 1 Nguồn gốc Văn học Việt Nam rồi qua các

Chương 2 Chữ Việt Thượng Cổ,

3 Chữ Hán–Chữ Nho,

4 Chữ Nôm,

5 Chữ Quốc Ngữ; kế tiếp là các

Chương 6 Giáo Dục Nho Học,

7 Giáo Dục Pháp Thuộc,

8 Giáo Dục Quốc Gia,

9 Giáo Dục Cộng Sản, rồi đến các

Chương 10 về Nho Giáo,

11 Quan Niệm Quân Tử–Đại Trượng Phu,

12 Mẫu Người Kẻ Sĩ,

13 Danh Vị Tam Nguyên,

14 Học Vị Phó Bảng.

Từ Chương 15 Văn Khảo Khái Luận, qua các

Chương 16 Phương Pháp Biên Soạn Văn Học Sử,

17 Sai Lầm, Nghi Vấn Trong Văn Học Sử,

18 Trở Ngại Biên Khảo Nho Nôm.

Sách trình bày cung cách và tầm nhìn văn học sử cùng với những vấn đề tồn nghi. Lịch sử văn học dân tộc được ký thác trong các

Chương 19 Trương Vĩnh Ký,

20 Đông Dương Tạp Chí và Nam Phong Tạp Chí,

21 Tự Lực Văn Đoàn,

22 Các Nhà Văn Nữ Chữ Việt,

23 Trào Lưu Văn Chương Lãng Mạn,

24 Khuynh Hướng Trào Phúng,

25 Thơ Văn Yêu Nước,

26 Thi Ca Dục Ái.

Phần cuối gồm những

Chương 27 Câu Đối,

28 Phê Bình Văn Học,

29 Truyện Ngắn,

30 Phóng Sự–Tùy Bút và

31 Ca Dao.

Sách chấm dứt với ba Phụ Lục: Các Nhà Văn Nữ Chữ Quốc Ngữ, Mục Lục Tác Giả, Nhân Vật và Tiểu Sử Tác Giả.

Sáng tạo

Chương 2 Chữ Việt thời Thượng cổ là một chương mới, các sách viết về văn học sử dân tộc trước kia không có. Chương này trình bày các luận cứ nhằm chứng minh là người Việt có văn tự riêng từ đời thượng cổ căn cứ vào các di tích khảo cổ học.

Các chương dành riêng cho hai vấn đề Danh vị Tam nguyên và Học vị Phó bảng là những chương chỉ giáo quý báu và khoa học, chúng được trình bày một cách có hệ thống về hai học vị thời phong kiến kèm theo danh tính và tiểu sử các vị tam nguyên (Lê Quý Đôn, Trần Bích San, Nguyễn Khuyến, Vũ Phạm Hàm cùng với giai thoại văn học) và một số vị phó bảng (như Nguyễn Văn Siêu, Hoàng Diệu, Kiều Oánh Mậu, Phan Chu Trinh, v.v.) Riêng đối với Kiều Oánh Mậu, sách Văn học Việt Nam chỉ ghi nhận ông là tác giả Bản triều Bạn nghịch Liệt truyện. Thực ra Kiều Oánh Mậu còn là một nhân vật văn học sử rất quan tâm đến nền văn học chữ Nôm nên đã diễn nôm các truyện Tỳ bà, Hương sơn Quan thế âm. Đáng nói hơn nữa, Kiều Oánh Mậu đã tiến hành chú thích rất công phu Truyện Kiều của Nguyễn Du, phân biệt rõ ràng các bản phường, bản kinh và trả lại tên gọi chính thức Đoạn trường tân thanh cho Truyện Kiều.

Chương 17 Sai lầm, Nghi vấn trong Văn học sử có thể được xem như một bản tập đại thành về những vấn đề còn tồn nghi liên quan đến thành phần chính thức của Tự lực Văn đoàn, đến năm sinh năm mất của một số nhân vật, đến hành trạng tiểu sử của một vài khuôn mặt, đến tác giả đích thực của một số tác phẩm văn học, v.v.

Ca dao đã được đề cập đến ở Chương 1 nhưng Chương cuối, Chương 31 lại cũng mang tên Ca dao. Đúng ra nó phải mang tên “Ca dao Lịch sử” vì Chương này trình bày ca dao thời Nguyễn triều và nhất là ca dao thời hiện đại, ca dao đả kích chế độ cộng sản, gồm từ trang 997 đến trang 1023 với những tiểu mục Sau tháng Tư đen, Đổi tiền, học tập cải tạo, Hợp tác xã, Đi kinh tế mới, đào kinh, Phí phạm công quỹ, Vượt biên, vượt biển, Cuộc chiến biên giới Việt–Trung năm 1979, Việt kiều, Khối Cộng sản tan rã, Đổi mới, Chế độ, Dân biểu nghị gật, Lãnh tụ, Cán bộ cao cấp, Đường lối cai trị, Tham nhũng thối nát, Phẩm chất Việt xuống thấp, Bán nước.

Kèm theo những phần do chính tác giả phụ trách viết, có những phần gọi chung là “Bài đọc thêm”, những phần này góp công vào việc giải thích chi tiết hơn, chu đáo hơn, cụ thể hơn những điều đã được ký thác trong văn bản chính.

Thiếu sót

Có những chi tiết tác giả chưa biết để nêu ra trong thành quả trí tuệ của mình. Không những chỉ có Nam Phong được chuyển toàn bộ vào sáu dĩa DVD (tr. 644) mà Bách Khoa cũng được tàng trữ nguyên vẹn tại Thư viện Quốc gia của Quốc Hội Hoa Kỳ và thư viện Đại học Yale; mới đây tạp chí này còn được Diễn đàn Thế kỷ bên Mỹ số hoá toàn bộ và 426 số báo đã được điện tử hoá, qua công trình của nhà nghiên cứu văn học Phạm Phú Minh.

Trần Thanh Mại đã tìm ra khuê danh của Bà Huyện Thanh Quan là Nguyễn thị Hinh. Chữ “hinh” viết với bộ “hương” trong chữ Hán nghĩa là mùi thơm lan toả mạnh và xa, như nói hinh hương đảo chúc nghĩa là đốt hương cầu khấn; thùy hinh thiên tự nghĩa là để lại tiếng thơm ngàn năm. Khi Hiệp khách hành của Kim Dung sắp chấm dứt, người đọc có dịp làm quen với nhân vật nữ tên họ là Mai Văn Hinh, Văn Hinh có thể chuyển sang Anh ngữ thành literary perfume, một cái tên thực đẹp.

Trong tác phẩm của mình, Tác giả Trần Bích San chỉ có thể trình bày những kiến giải tưởng chừng đã ổn định nhưng thực ra không phải hoàn toàn chính xác.

Ví dụ, đối với Kinh Dịch, tác giả chấp nhận là đã được “Khổng Tử giải nghĩa” (tr. 290). Đó là một phần nội dung thuyết tác dịch tam thánh của Trịnh Huyền đời Đông Hán, theo thuyết này, truyền thuyết cho rằng Phục Hy chế ra quẻ, Chu Văn Vương viết Quái từ và Khổng Tử viết Thập dực. Tuy nhiên theo khảo chứng của các tác giả gần đây, thuyết này không đáng tin vì Phục Hy là một nhân vật hư cấu, huyền thoại, không có thật; vả lại Kinh Dịch không phải là tác phẩm do một nhân vật viết trong một thời đại. Chu Dịch đã được nhiều tác giả chuyển sang Việt ngữ, như Phan Bội Châu, Ngô Tất Tố, v.v.

Nơi trang 125, tác giả cho rằng Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận soạn có 9,353 chữ. Sự thực lịch sử phức tạp hơn. Hứa Thận căn cứ vào kinh điển cổ văn cùng các sách Sử lựu thiên và Thương Hiệt thiên để biên soạn thành bộ tự điển Thuyết Văn Giải Tự vào năm Kiến Quang nguyên niên đời Hán An đế (121). Công trình trước tác đòi hỏi 23 năm. Nguyên bản sách này đã bị tàn khuyết, triều Nam Đường thời Ngũ Đại, Từ Huyền hiệu đính xác định văn bản thu chép được 10,516 chữ, trong đó có 1163 chữ trùng lắp, còn lại 9,353 chữ. Năm 1963 sách được Trung Hoa Thư cục xuất bản. Trong lịch sử qua các triều đại, các bản chú thích Thuyết văn Giải tự có rất nhiều, ảnh hưởng lớn nhất là Thuyết văn Giải tự chú của Đoàn Ngọc Tài đời Thanh do Thượng Hải Cổ tịch Xuất bản xã phát hành năm 1981.

Chế độ quốc gia vốn quan tâm rất lớn đến kho tàng văn học chữ Hán nên đã có nhiều cống hiến rất đáng biểu dương và trân trọng như thành lập Ủy ban Dịch thuật thuộc Phủ Quốc vụ khanh Đặc trách Văn hoá với người đứng đầu cơ quan là Mai Thọ Truyền, kế đó lại thành lập Trung Tâm Học Liệu với trụ sở ở đường Trần Bình Trọng. Ngoài ra còn có những tổ chức dịch thuật từ Hán sang Việt khác như Ủy ban Phiên dịch của Viện Khảo cổ Sài Gòn, Ủy ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam của Viện Đại học Huế, Hội Việt Nam Nghiên cứu Liên lạc Văn hoá Á châu, v.v. Riêng Ủy ban Dịch thuật của Phủ Quốc vụ khanh qui tụ nhiều ban ngoài ban Hán, ban Nôm còn có các ban Trung Hoa học, Anh, Pháp, Nhật, Đức, v.v. Mỗi ban lại chia ra nhiều tổ chuyên môn như ban Hán văn có các tổ Sử, tổ Địa, tổ Triết. Đội ngũ dịch giả khá đông đảo, dễ đến hơn trăm người, nhiều người có danh vọng và uy tín như Đoàn Trung Còn, Lê Xuân Giáo, Lê Mạnh Liêu, Hoàng Khôi, Lê Xuân Mai, Tạ Quang Phát. Những dịch phẩm đã hoàn tất bao trùm các lĩnh vực văn, sử, triết, luật, địa, kinh… Xin liệt kê vài tác phẩm đáng để ý vì có giá trị đặc biệt về văn học lịch sử, do từng cá nhân hoặc do Phủ Quốc vụ khanh phụ trách dịch thuật, ấn loát và phát hành:

Quốc triều Hình luật do Cao Nãi Quang dịch, xuất bản năm 1956;

An Nam Chí lược, do Ủy ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam Viện Đại học Huế xuất bản năm 1961;

Ô Châu Cận lục do Bùi Lương dịch, xuất bản năm 1961;

Sử ký Tư Mã Thiên, Nhượng Tống dịch, xuất bản năm 1964;

Ức Trai tập, Hoàng Khôi dịch, xuất bản năm 1972, v.v.

Ngoài ra Công dư Tiệp ký của Vũ Phương Đề, Vân đài loại ngữ, Kiến văn Tiểu lục của Lê Quí Đôn, Lịch triều Hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, v.v. cùng với Tứ thư Ngũ kinh của Nho giáo cũng được Trung tâm Học liệu tổ chức dịch thuật và ấn loát, phát hành trong khi Truyện Kiều bản Chiêm Vân Thị in tại Nhà in Tương Lai, đường Võ Tánh, Sài Gòn cũng được đích thân Bộ Văn hoá Giáo dục và Thanh niên tái bản năm 1973 với phần chữ Nôm in rất mỹ thuật. Các tài liệu tham khảo này in và đóng thành sách với trang giấy cỡ lớn, văn bản ít lỗi ấn loát và nhất là với ưu điểm nổi bật mà chỉ có sách dịch dưới chế độ quốc gia mới làm được, đó là việc in nguyên văn chữ Hán chữ Nôm kèm theo ở phần sau hoặc xen kẽ với phần dịch. Công việc in nguyên văn Hán tự không những giúp phổ biến rộng rãi các tác phẩm cổ mà các nguyên bản chữ Hán đính kèm dịch phẩm còn có tác dụng giúp người đọc có phương tiện và cơ hội thẩm tra lại những chỗ còn nghi vấn khi cần thiết hoặc cung cấp thêm tài liệu cho giới nghiên cứu tiến hành khảo dị.

Bổ túc

Chúng tôi trộm nghĩ sách Văn học Việt Nam cần được bổ túc bằng một chương riêng liên quan đến thi loại từ trong văn học Việt Nam.

Tất cả các tài liệu văn học sử Việt Nam từ trước đến nay không có tài liệu nào trình bày về thi loại từ. Trường Đại học Văn khoa Hà Nội trước 1954 và Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn trước 1975, cả hai trường đều không có một giờ nào giảng về từ cho sinh viên. Thậm chí Giáo sư Văn khoa Trần Trọng San còn cho rằng “trong văn học Việt–Hán chỉ có độc nhất một bài từ: bài này làm theo điệu Vương lang qui do Đại sư Ngô Chân Lưu tặng sứ thần nhà Tống Lý Giác ở thời Lê Đại Hành (năm 907); trong văn chương chữ Nôm chỉ có mấy bài từ làm theo điệu Tây giang nguyệt trong truyện Sơ kính tân trang của Phạm Thái ở đời Hậu Lê”. Đến lượt mình, tác giả Trần Bích San chỉ có một lần duy nhất đan cử thể từ nơi trang 183 một cách ngắn ngủi, nguyên văn: “các bài từ của Phạm Thái”.

Từ là một thể loại thi ca cổ điển của Trung Hoa. Từ manh nha thời Nam triều, trưởng thành vào đời Đường, thịnh hành ở thời Tống. Từ sản sinh sớm nhất trong dân gian, gốc gác của nó vốn là chốn thanh lâu và các chuyên viên trình diễn từ đầu tiên là giới kỹ nữ. Từ là tổng hoà thi và nhạc bởi vì mỗi bài từ đều được viết theo một nhạc phổ mà thuật ngữ chuyên môn gọi là từ phổ và công việc đặt lời ca cho từ phổ được gọi là điền từ.

Bài ca của Đại sư Ngô Chân Lưu sáng tác để tống tiễn sứ thần Lý Giác thực ra làm theo điệu Nguyễn lang qui chứ không phải Vương lang qui. Nhà Trần tiếp sứ Nguyên là Trần Phu đã cho cử nhạc gồm các điệu Trang Chu mộng điệp, Bạch Lạc Thiên, Mẫu biệt tử, Vi sinh, Ngọc tiêu, Đạp ca, Thanh ca, Giáng chân long, Nhập Hoàng đô, Yến giao trì và Nhất thanh phong. Đó là những khúc hát đã được Lê Quí Đôn ghi lại trong Kiến văn Tiểu lục, dựa theo Giao châu Thi tập của Trần Cương Trung; rất có thể đây là những điệu từ. Điệu Đạp ca chẳng hạn có lẽ là điệu Đạp ca từ. Bài từ cuối cùng là của Tản Đà, đó là bài Tống biệt viết vào năm 1917 theo điệu Hoa phong lạc.

Giữa hai thời điểm 907 và 1917 – hơn mười thế kỷ – thỉnh thoảng cũng có tác giả vận dụng thể từ. Về phái nữ có Liễu Hạnh tiên chúa với những bài theo các điệu Bộ bộ thiềm, Xuân quang hảo, Cách phố liên, Nhất tiễn mai; Trương Quỳnh Thư trong Sơ kính tân trang với hai điệu Tây giang nguyệt và Nhất tiễn mai; Hồ Xuân Hương với điệu Xuân đình lan.

Về nam giới có thể kể chúa Trịnh Cương với điệu Kiều dương cách; Ngô Thì Sĩ với điệu Tô mộ già; Tùng Thiện Vương với rất nhiều điệu tập hợp trong từ tập Cổ duệ từ như Hoãn khê sa, Thanh bình lạc, Dương châu mạn, Mô ngư nhi, Giải bội lệnh, Lưỡng đồng tâm, Kim nhân bổng ngọc bàn, Pháp khúc hiến tiên âm; Đào Tấn với gần hai mươi điệu trong Mộng mai từ tập: Mãn giang hồng, Bồ tát man, Nhất lạc sách, Ngư phủ từ, Lâm giang tiên, Trường tương tư, Giá cô thiên, Ức Vương tôn, Ức Giang nam, Hậu đình hoa, Ỷ la hương, Ngu mỹ nhân, Tiểu trùng sơn, Như mộng lệnh, Điệp luyến hoa, Chuyển ứng khúc, Bốc toán tử, v.v. Thi hào Nguyễn Du cũng có ít nhất một bài theo điệu Hành lạc từ và mười lăm bài theo điệu Trúc chi từ (mà tác giả Truyện Kiều gọi là Trúc chi ca). Ngoài ra các nhân vật hư cấu truyện Nôm như Vương Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Tô Hữu Bạch trong Ngọc Kiều Lê tân truyện của Lý Văn Phức cũng đều có điền từ.

Phần “Bài Đọc Thêm” của Chương này sẽ giới thiệu vài ba bài từ kinh điển, quen thuộc chữ Hán của các tác giả Trung Hoa nổi tiếng bên cạnh các bài từ cùng điệu bằng chữ Hán hay chữ Nôm của nam nữ từ gia Việt Nam.

Khoa văn học sử có nhiệm vụ nghiên cứu các hiện tượng văn học, các phong trào văn học, các tác giả văn học. Văn học sử tìm hiểu quá trình phát triển của nền văn học dân tộc, khám phá những qui luật nội tại của văn học giúp áp dụng những qui luật ấy vào công việc phê bình và đính chính văn học. Văn học sử cố gắng giải thích những điều kiện lịch sử trong đó nền văn học dân tộc đã hình thành và tồn tại.

Văn học của một dân tộc có những đặc điểm không giống với văn học của các dân tộc khác và nhiệm vụ của văn học sử là nghiên cứu những đặc điểm liên hệ; ví dụ một đặc điểm của nền văn học Việt Nam là sự phát triển song song của nền văn học viết bằng chữ Hán và nền văn học viết bằng chữ Nôm trong khung thời gian dài nhiều thế kỷ, hoặc một đặc điểm khác là sự chống đối mãnh liệt giữa hai nền văn học tạm gọi nôm na là văn học Việt quốc và văn học Việt cộng.

Ra đời trong bối cảnh lưu vong, Văn học Việt Nam của Trần Bích San đáp ứng được phần lớn nhiệm vụ mà văn học sử đã ủy thác cho nó. Nó là một trân phẩm hiện đại, khoa học, nhân bản, khai phóng; nó đáng được xem là của gia bảo đối với những ai còn nặng lòng với tiếng Việt chữ Việt.

BS Trần Văn Tích

(Bonn, CHLB Đức)

Địa chỉ mua sách:

Tiến sĩ Trần Gia Thái, Ph.D. hoặc Trần Ngọc Châu,

P.O.Box 740248,

New Orleans, LA 70174, USA.

ĐT: (504)615–5606, (504)263–5661;

E–mail: chautran6@aol.com

Giá bán sách: $50.00USD. Độc giả ở Hoa Kỳ được miễn bưu phí. Tất cả tiền bán sách dùng tặng quỹ yểm trợ Thương Phế Binh VNCH.

From: Vu Nhat Tri

GIÁO SƯ HOÀNG XUÂN HÃN, 

GIÁO SƯ HOÀNG XUÂN HÃN, NGƯỜI SOẠN THẢO VÀ BAN HÀNH CHƯƠNG TRÌNH TRUNG HỌC VIỆT NAM ĐẦU TIÊN.

 Giáo sư Hoàng Xuân Hãn (1908–1996) là một nhà sử học, nhà ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục Việt Nam đồng thời là một kỹ sư, nhà toán học.

– Năm 1930, ông đỗ vào trường École normale supérieure và Trường Bách khoa Paris. Ông chọn học trường Bách Khoa. Trong thời gian này ông bắt đầu soạn cuốn Danh từ khoa học.
– Năm 1932-1934, ông vào học École Nationale des Ponts et Chaussées (Trường Cầu đường Paris).
– Năm 1934, ông trở về Việt Nam, 4 tháng sau đó sang Pháp. Trên chuyến tàu, ông gặp cô sinh viên Nguyễn Thị Bính sang Pháp học Dược khoa.
– Từ năm 1934 đến năm 1936 ông trở lại Pháp, đậu cử nhân toán 1935 và thạc sĩ toán 1936 tại khoa Toán trường Đại học Sorbonne (Licence des Sciences mathématiques Sorbonne).
– Năm 1936, ông kết hôn với cô Nguyễn Thị Bính sau này trở thành dược sĩ.
– Từ năm 1936 đến năm 1939, ông trở về Việt Nam dạy các lớp đệ nhất ban toán trường Bưởi. Trong thời gian này ông hoàn tất cuốn Danh từ Khoa học.
– Năm 1936, ông cho xuất bản tập giáo trình Eléments de trigonométrie (Cơ bản của lượng giác học), có lẽ là tập giáo trình Toán phương tây đầu tiên được viết bởi người Việt.
– Năm 1942, ông cho xuất bản Danh từ khoa học (Vocabulaire scientifique).
– Năm 1943, Đại học Khoa học được thành lập tại Hà Nội. Ông được mời dạy môn cơ học.
– Tháng 4 năm 1945, vua Bảo Đại mời ông vào Huế để tham khảo ý kiền về việc thành lập chính phủ độc lập đầu tiên của Việt Nam.
– Ngày 17 tháng 4 năm 1945, Hoàng Xuân Hãn tham dự nội các Trần Trọng Kim với chức vụ Bộ trưởng Giáo dục – Mỹ thuật.

– Từ ngày 20 tháng 4 đến ngày 20 tháng 6 năm 1945, với chức bộ trưởng, ÔNG ĐÃ THIẾT LẬP VÀ BAN HÀNH CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC BẰNG CHỮ QUỐC NGỮ Ở CÁC TRƯỜNG HỌC.

– Sau ngày chính phủ Trần Trọng Kim từ nhiệm, ông trở về dạy và viết sách toán bằng tiếng Việt, cùng cứu vãn những sách cũ, sách cổ bị đưa bán làm giấy lộn khắp đường phố Hà Nội.
– Hoàng Xuân Hãn sang Paris năm 1951 và định cư tại Pháp.
– Vào tháng 8 năm 2011, Trường Đại học Ponts et Chaussées (Trường Cầu đường Paris), một trong những đại học có uy tín hàng đầu của Pháp đã chọn giáo sư Hoàng Xuân Hãn đặt tên cho giảng đường đại học thuộc trường. Trước đó, nhân kỷ niệm 100 năm truyền thống Trường Cầu đường Paris, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn được Nhà trường vinh danh là một trong 100 sinh viên tiêu biểu nhất trong lịch sử của Trường.

From: TU PHUNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT KHOA SÀI GÒN (FACULTÉ DE DROIT).

Hoang Le Thanh
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT KHOA SÀI GÒN (FACULTÉ DE DROIT).

Sau Hiệp Định Geneve năm 1954 chia đôi lãnh thổ. Trường Đại học Luật Khoa (Trung tâm Hà Nội) di chuyển vào Miền Nam, sáp nhập với Trung Tâm Sài Gòn, cải danh là Luật Khoa Đại Học Đường (Faculté de Droit) trực thuộc Viện Đại Học Sài Gòn.

Ngày 30-4-1955, cùng lúc thu hồi chủ quyền đất nước, Trường Đại Học Luật Khoa Sài Gòn, trụ sở ở số 17 đường Duy Tân.

Trường sở nầy nguyên là một trường mẩu giáo thời Pháp thuộc, chính phủ Đệ nhứt Việt Nam Cộng Hòa mới thu hồi.

Tính đến năm 1975 thì Trường Luật Sài Gòn là ngôi trường xưa nhất trong ba trường luật của Việt Nam Cộng hòa. Tiền thân là Trường Pháp Chính Đông Dương, thành lập tại Hà Nội ngày 15/10/1917. Hai trường kia là Luật khoa của Viện Đại học Huế (1957) và Luật khoa thuộc Viện Đại học Cần Thơ (1966).

Đáng lẽ ra phải gọi là Luật Khoa Đại Học Đường (Phân Khoa Luật) thuộc Viện Đại Học Sài Gòn, nhưng thói quen nên dân Sài Gòn hay gọi tắt là Đại Học Luật Khoa Sài Gòn, hay ngắn gọn hơn:Trường Luật.

Đây là hình ảnh của ngôi trường vẫn cổ kính cho đến năm 1972 khi Mỹ được gây ảnh hưởng nhiều trên Hội Đồng Khoa, với sự có mặt của những giáo sư Việt tốt nghiệp từ Mỹ về dạy học thì Trường Luật cổ kính này bị phá đi và xây theo kiểu mới và như bây giờ là trường Đại Học Kinh Tế của chế độ mới.

I- CÁC KHOA TRƯỞNG

– GS Vũ Văn Mẫu – Khoa trưởng 1955-1957, Thượng Nghị sĩ, Bộ trưởng Ngoại giao, Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa
– GS Vũ Quốc Thúc – Khoa trưởng 1957-1963
– GS Nguyễn Cao Hách – Khoa trưởng 1963-1967
– GS Nguyễn Ðộ – Khoa trưởng 1967-1971
– GS Bùi Tường Chiểu – Khoa trưởng 1971-1973
– GS Vũ Quốc Thông – Khoa trưởng 1973-1975

II- TỔ CHỨC

Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn có ba ban:

1- Ban Công pháp (Droit public): gồm Luật Hiến pháp (Droit constitutional), Luật Hành chánh (Droit administrative) và Luật Công pháp Quốc tế (Droit international public).

2- Ban Tư pháp (Droit privé): gồm Dân luật (Droit civil), Hình luật (Droit pénal ), Luật Thương mại (Droit commercial)và Tư pháp Quốc tế (Droit international privé).

3- Ban Kinh tế (Économie Politique): gồm Phân tích Kinh tế (Analyse économique), Lịch sử Học thuyết (Histoire des Doctrines) , Địa lý Kinh tế Phát triển (Géographie Économique Dévelopement).

4- Sinh viên luật còn phải học thêm môn Cổ luật Việt Nam.

Tổng số sinh viên ghi danh học vào năm 1969 là 13.711 và đến năm 1974 là 58.000.

III- CHƯƠNG TRÌNH HỌC

Thoạt tiên chương trình Cử nhân Luật là 3 năm nhưng đến năm 1967 thì tăng lên thành 4 năm. Bằng Cao học là thêm 2 năm (chủ yếu thêm Chuyên môn). Khi trình Luận án thì được cấp bằng Tiến sĩ Luật.

Tuy sĩ số Trường Đại học Luật khoa khá đông nhưng số người hoàn tất Cử nhân và tốt nghiệp Cao học rất ít (năm 1974 có 715 người tốt nghiệp).

Bắt đầu từ 1967, học trình Ban Cử nhân là 4 năm. Hai năm đầu chưa phân ban, sinh viên học chung cùng một chương trình với các môn như sau:

1- Cử nhân năm thứ nhất gồm 7 môn: Dân luật (Civil Law), Luật Hiến pháp (Constitutional Law), Kinh tế Học (Économie), Công pháp Quốc tế (International Public Law), Pháp chế sử (History of Law), Danh từ Kinh tế Anh ngử (Economical Terminology in English) và cả Danh từ Pháp lý (Justidical Termonology).

2- Cử nhân năm thứ hai: Hình luật (Penal Law), Dân luật (Civil Law), Bang giao Quốc tế (International Relations), Kinh tế học (Economie), Tài chánh (Finances), Luật Hành chánh (Administrational Law), Danh từ Kinh tế (Economical Terminology in English) và Luật Đối chiếu (Comparative Law in French).

3- Bắt đầu từ năm thứ ba trở đi, sinh viên sẽ bắt đầu chọn ngành, với các môn học chung và chuyên biệt như Ban Kinh tế sẽ học thêm các môn Thống kê và Kinh Toán Học.

Sau 4 năm nếu thi đậu hết, sinh viên sẽ được cấp bằng Cử Nhân Luật ban Công pháp, Tư pháp hay Kinh tế. Sau khi tốt nghiệp Cử nhân, sinh viên có thể ghi danh tiếp tục học Ban Cao Học Luật 2 năm theo ngành của mình để đủ điều kiện trình Luận án lấy bằng Tiến sĩ Luật.

IV- CHẾ ĐỘ THI CỬ

Bắt đầu từ năm 1967, ban Cử nhân năm thứ nhất học 7 môn, năm thứ hai học 8 môn, năm thứ ba tùy theo Ngành học khoản 10 môn và năm thứ tư học 13 môn. Đại học Luật khoa Sài Gòn mổi năm có 2 kỳ thi vào tháng 6 và tháng 9 cho các sinh viên Ban Cử nhân.Thí sinh phải thi viết 2 môn trong 7 môn chính, 5 môn còn lại thì thi vấn đáp. Thí sinh phải đạt điểm trung bình 10/20 mới được coi như trúng tuyển. Nếu có một môn bị điểm loại (4/20) thì thí sinh coi như rớt dù điểm trung bình có vượt quá điểm đậu là 10/20. Về sau có ân giảm về điểm loại cho các môn vấn đáp ban Cử nhân. Sinh viên có thể được bù điểm giữa các môn. Trong niên học, sinh viên bị rớt thi vấn đáp kỳ I sẽ được thi lại vấn đáp kỳ II mà không phải thi viết lại.

Nguồn: Nguyễn Vô
Vô Nguyễn
https://m.facebook.com/photo.php?fbid=2224302424348490&id=100003062636866&set=a.784068128371934&source=57

Image may contain: house, tree, outdoor and nature

Phạm Đoan Trang đã có những cuốn sách được đưa vào Thư viện các Trường Đại Học nổi tiếng trên thế giới!

Trần Bang is with TranBang Jos and 2 others.

Chúc mừng Phạm Đoan Trang đã có những cuốn sách được đưa vào Thư viện các Trường Đại Học nổi tiếng trên thế giới!

FB Phạm Đoan Trang viết : Năm 2016, kỷ niệm 5 năm phong trào xã hội dân sự độc lập ở Việt Nam ra đời (từ nguyên nhân khởi đầu là biểu tình chống Trung Quốc), cuốn “Từ Facebook xuống đường/ From Facebook down to the Street” (song ngữ Việt-Anh, 400 trang) của NXB Hoàng Sa ra mắt độc giả.

Cuốn sách này sau đó đã được đưa vào thư viện của Đại học Monash (Australia). Đây là một trường đại học cũng thuộc hàng “top 100” của thế giới; như năm nay, nó đứng hạng 30 và 31 trong số 100 trường tốt nhất toàn cầu về đào tạo triết và luật.

Tôi cũng có một niềm vui nhỏ là bốn cuốn sách của tôi – gồm “Chính trị bình dân”, “Cẩm nang nuôi tù”, “Phản kháng phi bạo lực”, “Politics of A Police State” – cũng vừa được đưa vào thư viện của Viện Đông Phương học, Đại học Ecole Normale Superieure Lyon (Pháp).

Ngày mai, 24/9/2019, sách sẽ được giới thiệu tại Viện Nghiên cứu Quốc gia Pháp về Ngôn ngữ và Văn minh Phương Đông.

* * *

Việc những ấn phẩm “ngoài luồng” này có mặt tại các thư viện, trường đại học, viện nghiên cứu nước ngoài có một số ý nghĩa lâu dài và không dễ nhận thấy ngay, xuất phát từ hai đặc điểm sau đây của nhà sản:

1. “Nhà sản sợ văn bản”. Tất cả những tài liệu, ấn phẩm, tư liệu có khả năng vạch ra và lưu lại những lỗi lầm, sai trái cũng như tội ác (thường được gọi tránh đi là “tiêu cực”) của nhà sản đều khiến nhà sản rất khó chịu, đặc biệt nếu những tư liệu đó có giá trị lưu trữ và lan rộng cả đến cộng đồng quốc tế.

2. Nhà sản cấm dân ghi chép sử, nhất là sử “ngoài luồng”, sử của phong trào đấu tranh dân chủ. Quan trọng hơn, sản cấm ngặt sự ghi nhận lực lượng đối lập, cấm ngặt vinh danh giới bất đồng chính kiến, không cho người bất đồng chính kiến có bất cứ một cơ hội gì để được “chính danh hóa”, được thừa nhận như những công dân bình thường chứ đừng nói gì tới như nhà hoạt động dân chủ hay chính trị gia.

Chính vì vậy cho nên, sẽ rất tốt nếu các nhà báo, nhà nghiên cứu, các cây viết nói chung đẩy mạnh việc viết, xuất bản và phổ biến (cả trong và ngoài nước) các tác phẩm nêu lên sự thật ở nước Việt Nam đương đại, ghi lại lịch sử phong trào đấu tranh dân chủ, vạch trần và lưu lại vĩnh viễn mọi lỗi lầm, sai trái, tội ác của nhà sản.

Ở một khía cạnh khác, việc xuất bản có ý nghĩa cực kỳ quan trọng ngay cả trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền đất nước. Nếu không tin điều đó, bạn hãy thử nghĩ đến một thực trạng nguy hiểm: Giới học giả Trung Cộng đang chiếm sóng khắp các diễn đàn quốc tế với các tài liệu, công trình nghiên cứu chứng minh chủ quyền của Trung Quốc đối với Trường Sa, Hoàng Sa…

Image may contain: 1 person, text
Image may contain: 2 people

Ngày ra tòa, cựu Chủ tịch VN Pharma tự dưng nói giờ già rồi, mất trí nhớ nhiều

About this website

CANHCO.NET
Luật sư của bị cáo Nguyễn Minh Hùng cho hay, sau gần 2 năm bị bắt tạm giam, sức khỏe của bị cáo khá suy sụp, trí nhớ giảm sút do mắc bệnh cao huyết áp. Thứ trưởng Bộ Y tế cũng bị triệu tập Ngày 24/9, TAND TP.HCM mở phiên xét xử đ…..

Ăn sáng chiều chưa tiêu

Mai Thanh Truyet Envirovn
 Thưa Quý Bà Con,

Câu chuyện bún, bánh phở ngâm Formol, hàn the, sulfite…để chống thiu, chống mốc, và làm cho giòn đã xảy ra từ năm 2007 ở Việt Nam. Và bây giờ, 2019 bánh phở, bún đã cho hóa chất TINOPAL vào nữa để cho bún…bắt mắt, bóng lưỡng… Kết quả là, xin Bà Con đọc bài dưới đây:

80 ca nội soi ở Viện Nhi Trung Ương mỗi ngày do bún, ăn từ sáng đến chiều vẫn chưa tiêu và lời cảnh tỉnh cho những gia đình hay ăn bún

On Th9 22, 2019 0

TS Phạm Thị Việt Hà – Trưởng khoa tiêu hóa Bệnh viện Nhi TW – giật mình bởi rất nhiều bệnh nhi ăn bún, phở từ sáng nhưng đến chiều vẫn không tiêu.

Ăn sáng chiều chưa tiêu

TS Hà cho biết phòng khám tiêu hóa nhi của Bệnh viện Nhi trung ương mỗi ngày tiếp nhận từ 70-80 cháu đến khám, và phòng nội soi tiêu hoá nhi cũng có khoảng 70-80 cháu nội soi tiêu hoá. Tuy nhiên nhiều lần bác sĩ Hà giật mình thấy sợi bún, phở trong đường tiêu hoá của các cháu vẫn còn nguyên.

Bún ăn từ sáng đến chiều vẫn chưa tiêu.

Theo lý thuyết, bún và phở sẽ phải tiêu hoá nhanh như cơm vì đều là tinh bột, tuy nhiên lại hoàn toàn ngược lại.

Trường hợp của bé Nguyễn Châu A. 3 tuổi, trú tại Hoàng Mai, Hà Nội thường đau bụng, buồn nôn được bố mẹ cho đi kiểm tra tiêu hoá, và khi nội soi lúc 15h, sợi bún bé ăn từ sáng vẫn còn nguyên.

Mẹ của cháu cho biết bữa sáng cháu thường được bà nội đưa ra ăn sáng bằng bún hoặc phở cùng với bà rồi đi học. Sáng hôm đó, chị cho bé ăn bún như mọi khi và đến khi nhìn những hình ảnh bún còn trong bụng, chị cũng giật mình.
Tại Bệnh viện K, các bác sĩ gặp rất nhiều bệnh nhân bị viêm loét dạ dày thường xuyên tái đi tái lại. Các bác sĩ cho rằng bún chính là nguyên nhân có thể khiến đau dạ dày.

Theo bác sĩ Hà, người làm bún có sử dụng các chất chua và không ai biết chất này là gì. Chị khuyên các bậc cha mẹ không nên cho trẻ nhỏ ăn, và ngay cả người lớn hạn chế ăn bún, nhất là những người có bệnh lý về tiêu hoá.

PGS Trần Hồng Côn – Khoa Hoá học, Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội – cho biết các chất phụ gia được sử dụng trong bún là gì ông cũng không rõ, bởi bún là sản phẩm không được ghi bao bì, thành phần, phụ gia sử dụng như một số loại thực phẩm khác.

Tuy nhiên, từ trước đến nay rất nhiều lần làm xét nghiệm thì đã chỉ ra trong bún có chất huỳnh quang được gọi là tinopal, thường được người làm bún dùng để sợi bún sáng, trong, nhìn ngon hơn. Chất này có thể ảnh hưởng đến sức khỏe.

Đây là một chất chủ yếu dùng trong công nghiệp sản xuất giấy, vải, sợi, mực in, mỹ phẩm và dùng làm chất tẩy rửa, tẩy trắng sản phẩm. Lợi dụng tính chất hóa học của tinopal, người dân đã cho vào một số thực phẩm, đặc biệt là bún phở.

PGS.TS Nguyễn Duy Thịnh – nguyên giảng viên Viện Công nghệ sinh học và Công nghệ thực phẩm Đại học Bách Khoa Hà Nội – cho biết trong các chất phụ gia thực phẩm, tinopal là chất cấm chỉ dùng trong công nghiệp như trong sơn để làm bóng sơn.

PGS Thịnh cho biết chất này rất nguy hiểm, có thể gây suy gan, suy thận và lâu dần dẫn đến ung thư nhưng người ta vẫn cho nó vào thực phẩm để làm bóng thực phẩm.

Ngoài chất huỳnh quang làm sáng, PGS Thịnh lo ngại bún còn bị sử dụng hàn the. Hàn the là chất cấm, không có trong danh mục các chất được Bộ Y tế cho phép dùng chế biến thực phẩm do tính độc hại. Con người ăn phải hàn the sẽ tích lũy trong cơ thể, tùy liều lượng có thể gây nên những triệu chứng cấp tính và mạn tính.

Nếu sử dụng hàn the lâu ngày có thể gây ngộ độc tiêu hóa như nôn mửa, đau bụng tiêu chảy; với da thì gây ban đỏ dẫn đến tróc vẩy. Ngoài ra, hàn the còn gây hại thận, gây rối loại chức năng, yếu ớt, bất lực, rối loạn kinh nguyệt, rụng tóc.

PGS Thịnh cho biết để nhận biết bún sạch không chứa chất hóa học thì dựa vào đặc tính hóa học các phụ gia cấm được cho vào như chất huỳnh quang làm sợi bún trắng trong. Nếu không có chất này, sợi bún đục màu cơm.

Còn nếu bún chứa hàn the, sợi bún rất dai và giòn. Chỉ cần dùng tay sờ thử sợi bún có thể thấy bún đó có dùng hàn the hay không. Nếu sợi bún hơi nát, dễ đứt gãy và chạm vào có cảm giác hơi dính, nhuyễn là không chứa hàn the và chất huỳnh quang. Còn bún dai, khó đứt là bún chứa hàn the.

No photo description available.

PHÁI ĐOÀN USCIRF GẶP GỠ ĐẠI DIỆN DÂN OAN VƯỜN RAU LỘC HƯNG

Kha Ngo Van and Duong Hoa shared a post.
Image may contain: 6 people, people smiling, people standing
Phạm Thanh NghiênFollow

PHÁI ĐOÀN USCIRF GẶP GỠ ĐẠI DIỆN DÂN OAN VƯỜN RAU LỘC HƯNG
(Phạm Thanh Nghiên)

Trưa ngày 17/9/2019, phái đoàn Uỷ ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) đã có cuộc gặp gỡ với một số đại diện của dân oan Vườn rau Lộc Hưng. Cuộc gặp nhằm mục đích tìm hiểu về sự kiện nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam phá huỷ 503 căn nhà và cưỡng chiếm mảnh đất VRLH hồi đầu tháng 1/2019. Đặc biệt là ảnh hưởng, hậu quả sau biến cố trên đối với đời sống tôn giáo của người dân tại khu đất này.

Phía USCIRF gồm Uỷ viên Anurima Bhargava. Hai nhân viên là bà Tina L. Mufford và ông Dominic Nardi. Về phía Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ có ông Gaetan W. Dambergott- Viên chức chính trị, người mới nhậm chức tại Sài Gòn.

Đại diện cho bà con dân oan VRLH có ông Cao Hà Chánh, Cao Hà Trực và tôi, Phạm Thanh Nghiên, với tư cách một cư dân Vườn rau và là một blogger độc lập.

Cuộc gặp được diễn ra tại một nhà hàng thuộc quận 1, gần trụ sở Lãnh sự quán vì phái đoàn USCIRF mời chúng tôi ăn trưa trong lúc trao đổi công việc.

Chúng tôi đã trình bày về sự kiện ngày 4 và 8/1, về thảm cảnh mà hàng trăm con người mất nhà mất đất đang phải gánh chịu. Đoàn Uỷ ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ bày tỏ sự quan tâm đặc biệt đối với đời sống tôn giáo của bà con Lộc Hưng sau khi mảnh đất này bị phá huỷ và cưỡng chiếm.

Kết thúc buổi làm việc, chúng tôi có trao cho phải đoàn những tài liệu cần thiết liên quan đến sự kiện Vườn rau Lộc Hưng. Xin chia sẻ thêm một chi tiết đáng chú ý. Trong khi chúng tôi ăn trưa và trao đổi công việc trong nhà hàng thì an ninh mật vụ cũng dọn chỗ rình mò, thập thò ở bên ngoài. Đoàn USCIRF ra về trước, dân oan chúng tôi rời nhà hàng ít phút sau đó. Khi chúng tôi vừa bước ra thì lập tức từ phía bên kia đường, nhiều kẻ lạ mặt đồng loạt giơ điện thoại lên quay phim chụp hình. Một số kẻ bám theo chúng tôi bằng xe gắn máy. Tuy nhiên, anh em chúng tôi đã cắt được đuôi.

Một ngày sau đó (18/9) , phái đoàn cũng có buổi gặp gỡ với một số Chức sắc tôn giáo thuộc Hội đồng Liên tôn tại Chùa Giác Hoa. Đại diện phía Hội đồng Liên tôn cũng đã trao cho phái đoàn một Bản phúc trình, tóm tắt các vi phạm về tự do tôn giáo tại VN. Đồng thời nêu một số kiến nghị đối với đoàn USCIRF.

Cùng ngày, phái đoàn cũng đã đến thăm Đức Tăng thống Thích Quảng Độ thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại chùa Từ Hiếu- Sài Gòn.

Vì lý do tế nhị nên thông tin này đến trễ 5 ngày so với sự kiện đã diễn ra.

(Hình ảnh đại diện bà con dân oan VRLH chụp cùng Phái đoàn Uỷ ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ.
Từ trái qua phải: Ông Cao Hà Chánh, Phạm Thanh Nghiên, Cao Hà Trực, bà Anurima Bhargava- Uỷ viên, ông Dominic Nardi và bà Tina L. Mufford).
#vuonraulochung
Ha Chanh CaoHà Trực

Joshua Wong và Denise Ho: ‘Tuổi trẻ Việt Nam, hãy liên kết với thế giới trong cuộc chiến đấu của các bạn’

 

Joshua Wong và Denise Ho: ‘Tuổi trẻ Việt Nam, hãy liên kết với thế giới trong cuộc chiến đấu của các bạn’

Cát Linh/Người Việt (tường trình từ Wahsington, D.C.)

Ca sĩ Denise Ho (Hà Vận Thi) trả lời phỏng vấn của nhật báo Người Việt, kế bên là nhà đấu tranh dân chủ Joshua Wong (Hoàng Chi Phong) – lãnh đạo phong trào Dù Vàng, tổng thư ký đảng Demosito. (Hình: Cát Linh/Người Việt)

WASHINGTON, D.C. (NV) – Tại buổi chiếu phim tài liệu mang tên “Last Exit to Kai Tak” (tạm gọi là “Lối Thoát Cuối Cùng Đến Phi Trường Kai Tak”), nhà đấu tranh dân chủ Joshua Wong (Hoàng Chi Phong) và ca sĩ Denise Ho (Hà Vận Thi) đã gửi đến các bạn trẻ Việt Nam những chia sẻ về cuộc đấu tranh đòi dân chủ của người dân Hồng Kông.

Đoạn phim tài liệu “Last Exit to Kai Tak” có thể nói là tự truyện về phong trào Dù Vàng Hồng Kông năm 2014 của của năm nhà đấu tranh: Ca sĩ Denise Ho, Edward Lau (Wai Tak), Derek Lam (Shun Hin), Joshua Wong, và Yeung-tat Wong. Phim được chiếu tại Global Taiwan Institute, Washington D.C., chiều Thứ Năm, 19 Tháng Chín.

Khác với cuộc điều trần trước Ủy Ban Trung Quốc của Quốc Hội Mỹ (Congressional-Executive Commission on China, CECC) hôm Thứ Ba, 17 Tháng Chín vừa qua, buổi chiếu phim chỉ có sự tham dự của ca sĩ Denise Ho và lãnh đạo phong trào Dù Vàng, tổng thư ký đảng Demosito, anh Joshua Wong. Tuy nhiên, Global Taiwan Institute đã dành hẳn khoảng 45 phút ngay phần đầu để hai nhà đấu tranh dân chủ trả lời những câu hỏi của người tham dự.

“Việt Nam, chúng tôi luôn lắng nghe các bạn!” 

Nhật báo Người Việt gửi đến cuộc đấu tranh dân chủ của người Hồng Kông, đại diện là ca sĩ Denise Ho và lãnh đạo phong trào Dù Vàng, anh Joshua Wong, hai câu hỏi: “Hồng Kông và Việt Nam khá gần gũi, về địa lý, văn hóa, và đặc biệt là cuộc đấu tranh đòi dân chủ, nhân quyền. Các nhà đấu tranh dân chủ Việt Nam cũng đối mặt với rất nhiều cuộc chiến khó khăn và những đàn áp cứng rắn của nhà cầm quyền trong nước. Nhiều nhà tranh đấu Việt Nam đang bị giam trong tù với những bản án rất nặng nề. Qua phong trào Dù Vàng năm 2014 và những cuộc tuần hành lịch sử suốt mấy tháng qua, các bạn có thể chia sẻ với các bạn trẻ Việt Nam về kinh nghiệm đã trải qua trong những cuộc chiến đấu đó?”

Ca sĩ, nhà đấu tranh dân chủ Denise Ho là người nhận trả lời câu hỏi trên. Cô nói: “Tôi đã từng gặp một nữ ca sĩ, cũng là nhà đấu tranh dân chủ Việt Nam, đó là cô Mai Khôi. Từ câu chuyện của Mai Khôi, tôi biết được những khó khăn mà người dân Việt Nam đang phải trải qua.”

“Đối với cuộc đấu tranh của người Hồng Kông, chúng tôi nhận thức được những đòi hỏi bên trong cuộc chiến đấu này là rất quan trọng. Đó là kêu gọi cộng đồng quốc tế đồng hành cùng chúng tôi, thông qua Internet, cho thế giới thấy cuộc đấu tranh của chúng tôi,” cô nói tiếp.

Buổi chiếu phim tài liệu “Last Exit to Kai Tak.” (Hình: Cát Linh/Người Việt)

“Riêng với tôi, những điều tôi muốn chia sẻ với các bạn Việt Nam là hãy tìm cách có được những có sự liên quan đến vấn đề chúng ta đang gặp phải. Chúng tôi thấy một sự khác biệt rất lớn từ Phong Trào Dù Vàng 2014 cho đến phong trào đấu tranh 2019. Phong Trào Dù Vàng 2014 khá cô lập (isolated) với người dân về những gì Hồng Kông đối diện lúc đó. Năm năm sau, chúng tôi (người Hồng Kông) cũng đối diện với cùng một sự việc nhưng tất cả mọi người đã bắt đầu hiểu được ‘Đây cũng là vấn đề tôi quan tâm đến,’” cô nhấn mạnh.

Để kết thúc phần trả lời của mình, ca sĩ Denise Ho gửi lời nhắn: “Và tôi cũng muốn chia sẻ với cả cộng đồng Việt Nam: ‘Hãy luôn mạnh mẽ! Chúng tôi luôn lắng nghe các bạn.’”

“Chúng ta cùng nỗi lo: Sự gia tăng quyền lực mềm của Trung Quốc” 

Câu hỏi kế tiếp nhật báo Người Việt đưa ra: “Vào ngày Thứ Tư, 18 Tháng Chín vừa qua, chủ tịch Hạ Viện Hoa Kỳ, bà Nancy Pelosi, bày tỏ ủng hộ và bảo vệ đạo luật Dân Chủ và Nhân Quyền Hồng Kông. Bà cho biết sẽ yêu cầu bảng đánh giá hằng năm về đối xử đặc biệt mà Washington dành cho Hồng Kông, bao gồm các đặc quyền thương mại và kinh doanh. Đây có phải là một thắng lợi lớn trong chuyến đi này của các nhà đấu tranh dân chủ Hồng Kông?”

Lãnh đạo phong trào Dù Vàng, anh Joshua Wong, trả lời: “Trong những ngày vừa qua, chúng tôi đã có cơ hội được điều trần trước chủ tịch, đại diện Ủy Ban Trung Quốc của Quốc Hội Mỹ. Cuối cùng, chúng tôi đã thành công trong việc kêu gọi Chủ Tịch Hạ Viện Hoa Kỳ Nancy Pelosi đưa đạo luật Dân Chủ và Nhân Quyền Hồng Kông vào nghị sự của những tuần sắp tới. Đó chưa phải là CHIẾN THẮNG. Đó chỉ là một yếu tố đáng chú ý (remarkable) cho chúng tôi thấy Hồng Kông đang được thế giới quan tâm. Tôi hy vọng trong những tháng sắp tới đây, đạo luật Dân Chủ và Nhân Quyền Hồng Kông được thông qua. Bắc Kinh phải nhận thấy rằng nếu họ đàn áp nhân quyền, tự do của người Hồng Kông, họ phải trả giá.”

“Chúng tôi tiếp tục tìm kiếm sự ủng hộ của các bạn, từ Đài Loan, từ Việt Nam, nơi mà chúng ta cùng quan tâm đến sự bành trướng về quyền lực mềm của Bắc Kinh. Chúng tôi hy vọng tất cả những ai có cùng nỗi lo ngại này sẽ cùng đứng chung với nhau. Tuy tôi không phải là người lãnh đạo duy nhất của phong trào đấu tranh này, nhưng tất cả những người lãnh đạo khác đều có cùng một mục đích, đó là thế giới lắng nghe tiếng nói từ cuộc đấu tranh của người Hồng Kông. Chúng tôi tin rằng chúng tôi tiếp tục cuộc đấu tranh này, thì chúng tôi sẽ có kết quả mà chúng ta ta mong muốn,” Joshua Wong nói.

Có thể dễ dàng nhận thấy ngay, trong chuyến đi đến Hoa Kỳ lần này, các nhà đấu tranh dân chủ Hồng Kông không những tìm kiếm sự ủng hộ từ Quốc Hội Hoa Kỳ, mà còn kêu gọi sự hưởng ứng từ quốc gia Châu Á kề cận khác, có cùng một quan tâm về sự chính sách bành trướng của Trung Quốc.

Đoạn phim tài liệu mà các nhà dân chủ Hồng Kông “mang đi chiếu ở xứ người” đã cho thấy, họ vận dụng tất cả yếu tố trong cuộc sống: văn hóa, chính trị, nghệ thuật thứ bảy, hùng biện… để đưa tiếng nói của người dân Hồng Kông ra khắp thế giới. (Cát Linh tường trình từ Wahsington, D.C.)

—–
Liên lạc tác giả: ngo.kalynh@nguoi-viet.com