18 NƠI CỔ XƯA NHỨT SÀI GÒN

-Đàm Ngọc Tuyên-

  1. Ngôi trường xưa nhứt

Trường Lê Quý Đôn được xây vào năm 1874, hoàn tất năm 1877 do người Pháp quản lý. Lúc đầu trường có tên Collège Indigène (Trung học bản xứ), rồi đổi thành Collège Chasseluop Laubat. Năm 1954, trường mang tên Jean Jacques Rousseau. Năm 1967, trường được trả cho người Việt quản lý mang tên Trung tâm giáo dục Lê Quý Đôn. Từ năm 1975 đến nay đổi tên là trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn. Hơn một thế kỷ qua trường vẫn giữ được kiến trúc ban đầu.

2.Nhà máy điện xưa nhứt

Nhà máy điện Chợ Quán được xây vào năm 1896, máy phát điện chạy bằng hơi nước có 5 lò hơi với 150m2, cung cấp dòng điện 3 pha, công suất chưa tới 120MW [Megawatt]. Máy phát điện chính công suất 1000A/h [A=Ampere hay Amp./h=hour]. Hiện nay, nhà máy đã được trang bị hiện đại với 7 máy phát điện, hòa với lưới điện quốc gia cung ứng phần quan trọng cho lưới điện thành phố. Nhà máy tọa lạc tại số 8 Bến Hàm Tử, quận 5.

  1. Nhà thương xưa nhứt

Nhà thương Chợ Quán được xây vào năm 1826 do một số nhà hảo tâm đóng góp, sau đó hiến cho nhà nước. Năm 1954-1957 nhà thương được giao cho Quân đội và đổi tên thành Viện Bài lao Ngô Quyền. Năm 1974, đổi thành Trung tâm Y tế Hàn-Việt với 522 giường. Tháng 9/1975, mang tên Bệnh viện Chợ Quán. Đến ngày 5/9/1989 chuyển thành Trung tâm Bệnh Nhiệt đới. Hiện nay có 610 Cán bộ-Công nhân viên và 550 giường bệnh.

  1. Nhà hát xưa nhứt

Nhà hát thành phố do kiến trúc sư người Pháp khởi công và hoàn tất vào ngày 17/1/1900. Các phù điêu bên trong được một họa sĩ tên tuổi ở Pháp vẽ giống như mẫu của các nhà hát ở Pháp cuối thế kỷ XIX. Nhà hát là nơi trình diễn ca nhạc kịch cho Pháp kiều xem. Năm 1956-1975, Nhà hát được dùng làm trụ sở Hạ nghị viện cho các chánh phủ Đệ I & II Việt Nam Cộng Hòa; tháng 5/1975 trở thành Nhà hát thành phố với 750 chỗ ngồi. Kỷ niệm 300 năm Sài Gòn, toàn bộ phần kiến trúc bên ngoài Nhà hát đã được tu sửa lại như lúc nguyên thủy.

  1. Khách sạn xưa nhứt

Khách sạn Continental tọa lạc tại 132-134 Đồng Khởi, được xây vào năm 1880 do Kiến trúc sư người Pháp thiết kế, tên khách sạn có ngay từ những ngày đầu. Sau ngày cướp được miền Nam, khách sạn Continental bị Bắc Việt đổi thành Hải Âu. Đến năm 1989, khách sạn được nâng cấp, chỉnh trang và lấy lại tên cũ Continental với diện tích 3430m2, cao 3 tầng, nơi đây đã từng đón tiếp các vị tổng thống, thống đốc, nhà văn, người mẫu nổi tiếng. Ngày nay, khách sạn Continental là một trong những khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế.

  1. Nhà thờ xưa nhứt

Nhà thờ Chợ Quán tọa lạc tại số 20 Trần Bình Trọng, P.2, Q.5 được xây vào năm 1674 là nhà thờ cổ nhứt tại Sài Gòn và cổ nhất ở miền Nam. Ngôi thánh đường nằm ở vị trí trung tâm, có kiến trúc kiểu phương Tây, lợp ngói đỏ, có thể chứa khoảng 1000 người. Ngoài việc sinh hoạt tôn giáo, Họ đạo Chợ Quán tích cực tham gia công tác xã hội giúp đỡ người nghèo. Trải qua hơn 3 thế kỷ Nhà thờ Chợ Quán đã được trùng tu nhiều lần. Hiện nay, nơi đây có phòng khám và phát thuốc từ thiện dưới quyền quản lý của Hội Chữ thập đỏ [Hội Hồng Thập Tự] Quận 5.

  1. Ngôi đình xưa nhứt

Một trong những ngôi đình cổ nhất của đất Gia Định xưa và xưa nhất Nam Bộ là đình Thông Tây Hội, được xây vào khoảng năm 1679, là chứng tích còn nguyên vẹn nhất của thời kỳ dân Ngũ Quảng kéo vào khai khẩn vùng Gò đất có nhiều cây Vắp (từ đó trở thành tên địa phương là Gò Vấp). Đình lúc đầu là của thôn Hạnh Thông–thôn khởi nguyên của Gò Vấp, sau đổi thành Thông Tây Hội (do sự sáp nhập của thôn Hạnh Thông Tây (thôn Mới) và thôn An Hội). Đình Thông Tây Hội có vị Thành Hoàng rất độc đáo. Hai vị thần thờ ở đình là hai hoàng tử con vua Lý Thái Tổ, do tranh ngôi với thái tử Vũ Đức nên bị đày đi khai hoang ở vùng cực Nam tổ quốc và trở thành “Thủy tổ khai hoang” trong lịch sử Việt Nam; hai vị thần đó là: Đông Chinh Vương và Dục Thánh Vương. Ngôi đình còn giữ được khá nguyên vẹn về quy mô và kiến trúc, kết cấu, với những chạm khắc đặc trưng Nam bộ. Đình Thông Tây Hội thuộc P.11, Gò Vấp.

  1. Nhà văn hóa xưa nhứt

Cung Văn hóa Lao Động. Năm 1866, với tên gọi Cèrcle Sportif Saigonnais được xây dựng làm sân thể thao cho các quan chức người Pháp với những hồ bơi, sân quần vợt, phòng đấu kiếm và phòng nhảy đầm. Thời Mỹ, sân chơi được mở rộng hơn phục vụ cho cả giới quý tộc. Tháng 11/1975, Ủy ban Quân quản Sài Gòn–Gia Định trao toàn bộ khu này cho Liên đoàn Lao động Thành phố để biến cải thành khu hoạt động văn hóa thể thao và vui chơi giải trí cho công nhân lao động, lấy tên là Câu lạc bộ Lao Động, sau đổi thành Nhà văn hóa Lao Động, và rồi là Cung Văn hóa Lao Động. Diện tích 2.8ha, với 132 năm hình thành và phát triển, Cung Văn hóa Lao Động là Nhà văn hóa cổ và lớn nhứt của Sài Gòn.

  1. Công viên lâu đời nhứt

Thảo Cầm Viên do người Pháp xây vào năm 1864, nhà thực vật học nổi tiếng người Pháp Louis Pierre làm giám đốc đầu tiên. Mục đích xây dựng Thảo Cầm Viên để ươm cây giống trồng dọc các đại lộ Sài Gòn, đồng thời là nơi nuôi & trồng những động & thực vật thuộc miền nhiệt đới mà các Thảo Cầm Viên của Pháp lúc bấy giờ chưa có. Năm 1865, chính phủ Nhật đã hỗ trợ khoảng 900 giống cây quý như: Chizgnamat, Goyamtz, Acamatz, Coramatz, Kayanoki, Kayamaki, Enoki, Maiki, Asoumaro, Sengni, Momi, Cashi, Kiaki, Inoki… Động vật của Thảo Cầm Viên khá phong phú như: gà lôi, sếu, cu gáy, hồng hoàng, công, hưu, nai, cọp, khỉ, chồn hương, tắc kè, rùa, cọp xám, báo đen, gà lôi xanh, chim cú lợn… Đến năm 1989, Thảo Cầm Viên được trùng tu, mở rộng và nhận thêm nhiều giống thú mới, trồng thêm cây quý. Hiện nay, có 600 đầu thú thuộc 120 loài, 1823 cây gỗ thuộc 260 loài và nhiều loại cây kiểng quý trên diện tích 21.352m2. Năm 1990, Thảo Cầm Viên là thành viên chính thức của Hiệp hội các vườn thú Đông Nam Á. Thảo Cầm Viên đã tròn 134 tuổi, số lượng động & thực vật ngày càng tăng, nơi đây đã gắn bó với từng bước đi lên của thành phố và là một trong những công viên khoa học lớn nhứt Đông Dương.

  1. Ngôi nhà xưa nhứt

Ngôi nhà có tuổi thọ lâu đời nhất còn hiện diện tại Sài Gòn nằm trong khuôn viên Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn, số 180 Nguyễn Đình Chiểu, P.6, Q.3. Năm 1790, Vua Gia Long cho cất ngôi nhà này ở gần Rạch Thị Nghè làm nơi ở cho Linh Mục Bá-Đa-Lộc và làm nơi dạy học cho Hoàng tử Cảnh. Ngôi nhà được xây bên bờ sông Thị Nghè trong địa phận Thảo Cầm Viên bây giờ. Năm 1799, Bá-Đa-Lộc chết, ngôi nhà được giao cho linh mục khác. Từ năm 1811 đến năm 1864 ngôi nhà bị đóng cửa vì chính sách cấm đạo của triều đình Huế. Sau khi vua Tự Đức ký hòa ước với Pháp, ngôi nhà được trao lại cho Tòa Giám Mục và được di chuyển về vị trí đường Alexandre de Rhodes hiện nay.

Sau đó năm 1900 Tòa Giám Mục được xây cất tại 180 đường Richaud (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu) thì ngôi nhà gỗ lại được dời về đây làm nhà thờ của Tòa Giám Mục. Ngôi nhà 3 gian 2 chái, lợp ngói âm dương, sườn, cột bằng gỗ, khung cửa và các khung thờ đều được chạm trổ công phu với hình hoa, lá, chim thú, hoa văn. Trong các di vật còn lại của ngôi nhà có một di vật có giá trị lịch sử lớn, đó là đôi liễn gỗ có tám chữ triện khảm xà cừ là tám chữ vua Gia Long ban tặng giám mục Bá-Đa-Lộc, một bên là “Tứ Kỳ Thịnh Hy”, một bên là “Thần Chi Cách Tư”.

Ngôi nhà được tu sửa vào năm 1980, cách tu sửa có tính chất vá víu, cốt giữ lại những gì có thể giữ được. Trải qua hai thế kỷ ngôi nhà không giữ được nguyên trạng nhưng đây là một di tích kiến trúc mang dấu ấn lịch sử, tôn giáo và văn hóa nghệ thuật. Đây là một tài sản có giá trị mà các bậc tiền nhân đã để lại cho chúng ta, không chỉ là truyền thống – bản sắc dân tộc mà còn là bộ mặt quá khứ mang tính văn hóa kiến trúc, một khía cạnh văn minh tại một vùng đất mới mọc lên từ đầm lầy, kênh rạch

  1. Ngôi chùa xưa nhứt

Ngôi chùa có cảnh trí đẹp nhưng nằm ở địa điểm không tiện đi lại nên được ít người biết đến, [đó] là chùa Huê Nghiêm, tọa lạc ở 20/8 Đặng Văn Bi, Thủ Đức. Chùa được thành lập năm 1721 do Tổ Thiệt Thùy (Tánh Tường) khai sáng. Tên chùa lấy từ tên bộ kinh Hoa Nghiêm. Đây là chùa cổ xưa nhất trong các chùa ở TP Sài Gòn nên còn gọi là Huê Nghiêm Cổ Tự. Những ngày đầu là một ngôi chùa nhỏ được xây cất trên vùng đất thấp cách địa thế chùa hiện nay khoảng 100m. Sau đó, Phật tử Nguyễn Thị Hiên pháp danh Liễu Đạo cúng đất để xây lại ngôi chùa rộng rãi khang trang như hiện nay.

Qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1960, 1969, 1990 mặt tiền chùa ngày nay mang dáng vẻ kiến trúc của chùa hiện đại nhưng các gian phía trong vẫn giữ nguyên kiến trúc cổ truyền, mái gian mặt tiền được cấu trúc gồm 3 lớp, nhỏ dần về phía trên. Các đường gờ mái chạy dài xuống cuối đầu đăng đều trang trí bằng hoa văn hình cánh sen đối xứng, giữa là hình bánh xe luân pháp, đặt trên hoa sen. Mái lợp ngói ống màu đỏ, đường viền mái ngói màu xanh.

Vườn chùa có nhiều cây xanh bóng mát, có 9 ngôi tháp cổ với nhiều kiểu dáng khác nhau như những cánh sen vươn lên. Những hàng cột gỗ trong chùa được khắc nổi các câu đối bằng chữ Hán màu đen kết hợp với việc chạm khắc mô típ “long ẩn vân” dùng trang trí.

Chùa Huê Nghiêm là một di tích Phật giáo quan trọng, là nơi dừng chân, sống đạo và hành đạo của nhiều vị danh tăng uyên thâm Phật pháp, có đạo hạnh và có đạo đức. Chùa cũng là bằng chứng về trình độ kiến trúc và phong tục tập quán của người Việt trên vùng đất mới khai phá, mở ra nền văn minh trên vùng đất hoang sơ.

  1. Đường sắt đầu tiên ở thành phố

Tuyến đường sắt đầu tiên ở nước ta là đoạn đường sắt Sài Gòn–Mỹ Tho dài 71km, được xây vào năm 1881. Ga chính trước chợ Bến Thành, văn phòng đường sắt là tòa nhà 2 tầng chiếm cả khu đất bao bọc bởi ba đường Hàm Nghi–Huỳnh Thúc Kháng–Nam Kỳ Khởi Nghĩa, nay là Xí nghiệp Liên hợp đường sắt khu vực 3. Xe lửa chạy bằng máy hơi nước phải dùng than củi đốt nồi súp-de nên xe chạy khá chậm. Vì không cạnh tranh nổi với xe đò trong việc chuyên chở hàng hóa và hành khách, đường xe lửa Sài Gòn–Mỹ Tho đã ngưng hoạt động từ lâu. Sau năm 1975, Ga xe lửa Sài Gòn được dời về Ga Hòa Hưng. Vào ngày 8/8/1998, người ta khởi công xây cất Trung Tâm Văn Hóa Thương Mại Sài Gòn trên nền Ga Sài Gòn cũ.

  1. Người Việt đầu tiên viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp

Ông Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Năm 1859, Pháo hạm Pháp bắn vào cửa biển Đà Nẵng và thành cũ Gia Định, triều đình nhà Nguyễn bắt buộc chấp nhận mở cửa đất nước cho tư bản thực dân Pháp xâm nhập. Trong giai đoạn lịch sử mới, người Việt Nam từng bước tiếp xúc với ngôn ngữ và văn minh mới. Trương Vĩnh Ký là một trong những người sớm tiếp xúc và hấp thụ ngôn ngữ văn hóa phương Tây đã trở thành học giả có nhiều sáng tác nhất bằng cả tiếng Pháp và tiếng Hán–Việt. Ông là người Việt Nam đầu tiên viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp. Cuốn “Giáo trình lịch sử An Nam” đã được xuất bản gồm hai tập dày 462 trang. Đây thực sự là một công trình bác học biên soạn công phu dưới ánh sáng của một phương pháp luận khoa học tiến bộ so với đương thời.

  1. Tờ báo bằng chữ Quốc Ngữ đầu tiên

Tờ “Gia Định Báo” là tờ báo chữ Quốc ngữ đầu tiên ở nước ta ra đời tháng 4/1865. Tờ báo đăng những thông tin nghị định của nhà nước và những tin kinh tế xã hội, lời bàn về thời cuộc, luân lý, lịch sử. Báo ra hằng tháng. Sau 4 năm phát hành, chính quyền thuộc địa cho phép báo phát hành hàng tuần bằng quyết định số 51 ngày 18/3/1869.

  1. Tờ báo đầu tiên của Phụ nữ Việt Nam

Ngày 1/2/1918 tờ báo chuyên về Phụ nữ đầu tiên ra đời là tờ “Nữ Giới Chung” nhằm nâng cao trí thức, khuyến khích công-nông-thương, đề cao người Phụ nữ trong xã hội, chú trọng đến việc dạy đức hạnh, nữ công, phê phán những ràng buộc đối với Phụ nữ, đánh đổ mê tín dị đoan, động viên Phụ nữ quan tâm đến việc “Nữ quyền”. Muốn có vị trí ngang hàng với nam giới ngoài việc tề gia nội trợ phải am hiểu “tình trong thế ngoài”.

Chủ bút tờ báo là nữ sĩ Sương Nguyệt Anh, con gái nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, vốn có lòng yêu nước, yêu thương đồng bào như thân phụ nên khi làm báo Bà có ý muốn làm diễn đàn để tỉnh thức lòng yêu nước trong dân chúng. Tuy chỉ tồn tại được hơn 6 tháng nhưng “Nữ Giới Chung” cũng đã gióng lên một hồi chuông nữ quyền còn vang mãi đến ngày nay.

  1. Cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên

“Đại Nam Quốc Âm Tự Vị” là cuốn từ điển tiếng Việt quốc ngữ La-tinh của Huỳnh Tịnh Của gồm hai tập: Tập I xuất bản năm 1895, tập II xuất bản 1896 tại Sài Gòn. Bộ từ điển chứa nhiều từ ngữ xưa, thành ngữ, tục ngữ, từ ngữ về thảo mộc, cầm thú của Việt Nam và của miền Nam. Bộ từ điển này trở thành Từ điển Bách khoa toàn thư đầu tiên về Nam Bộ.

  1. Người kiến trúc sư Việt Nam đầu tiên

Trong lúc ở Sài Gòn, ông Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) đã đứng ra xây cất tu viện dòng thánh Phao-lô (số 4 Tôn Đức Thắng). Đây là công trình xây cất theo kiến trúc Châu Âu do người Việt Nam thực hiện tại Sài Gòn. Công trình được khởi công từ tháng 9/1862 đến 18/7/1864 hoàn thành gồm nhà nguyện với ngọn tháp nổi bật trên cao xây theo kiểu Gô-thic, một tu viện, một nhà nuôi trẻ mồ côi và một tháp chuông. Công trình xây cất này là kết quả nghiên cứu kiến trúc châu Âu của Nguyễn Trường Tộ khi ông ở Hồng Kông. Qua nhiều lần sửa chữa trùng tu, ngày nay tu viện thánh Phao-Lô vẫn giữ được đường nét kiến trúc xưa, chứng tỏ tài năng kiến trúc của Nguyễn Trường Tộ không thua gì các kiến trúc sư người Pháp.

  1. Người Việt Nam đầu tiên vẽ bản đồ địa lý và đồ họa Sài Gòn theo phương pháp phương Tây

Ông Trần Văn Học, sanh quán ở Bình Dương, giỏi Quốc ngữ, La-tinh và tiếng Tây Dương, được giới thiệu làm thông ngôn cho Nguyễn Ánh. Ông phụ trách việc dịch sách kỹ thuật phương Tây, đồng thời kiêm việc chế tạo hỏa xa, địa lôi và các loại binh khí. Năm 1790, Nguyễn Ánh xây thành Bát Quái. Trần Văn Học phụ trách “phác họa đường sá và phân khu phố phường”.

Ông rất có tài vẽ địa đồ, họa đồ và kỹ thuật bản đồ như: tỷ lệ, trắc địa, và vẽ gần như chính xác các thành trì và công trình. Ông được coi như là người đầu tiên vẽ bản đồ Sài Gòn-Gia Định theo phương pháp Tây phương.

Bản đồ Gia Định – Sài Gòn – Bến Nghé do Trần Văn Học vẽ 1815.

Ảnh : Nhà thờ xưa nhứt ở quận 5

Đất và Người Nam – Kỳ

#Annam #Yakukohaiyo

Copy từ: Đàm Ngọc Tuyên

XẤU HỔ VÀ VÔ CÙNG XẤU HỔ

Pham Mylan  Những câu chuyện Nhân Văn

XẤU HỔ VÀ VÔ CÙNG XẤU HỔ

Cầu Long Biên khánh thành năm 1902 sau khi khởi công xây dựng 1898, mất 4 năm.

Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn khởi công 1877 và khánh thành năm 1880,mất 3 năm.

Tuổi đời của Cầu Long Biên là 120 năm.

Tuổi đời của Nhà Thờ Đức bà là 142 năm.

Hai công trình điển hình này do Thực dân Pháp ” cướp nước” ta để lại như là dấu tích của một thời thực dân.

Giờ đã đến lúc phải sửa chữa cho những thứ tồn tại hàng thế kỷ như vậy.

Nhưng.

Cầu Long Biên muốn sửa chữa nhưng trình độ Công nghệ của ta,tạm gọi vậy cho có vẻ khoa học, rất kém.

Nên đang muốn nhờ chính phủ Pháp cho tiền để sửa chữa VÀ.

Và gì.

Cử người Pháp sang làm cho gọn.

Nhà thờ Đức Bà cũng chẳng khác gì.

Sửa chữa từ 2017 khi Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn là người Quản trị Công trình này cam kết với Ủy Ban Nhân dân TP.HCM là họ sẽ hoàn thành năm 2019 vì đã có tiền để làm.

Đến cuối 2018 thì họ xin thêm đến 2023 vì ” nó phức tạp quá”.

Đang mừng khấp khởi là đến 2023 sẽ gỡ hàng rào bao quanh.

Không.

Chiều ngày 04/08/2022 giới chức có thẩm quyền công bố là họ mới xin đến 2027 , tức là 5 năm nữa mới hoàn thành sửa chữa và vẫn còn thòng thêm câu là ” trong tình hình diễn biến thuận lợi, nếu có những phát sinh mới sẽ được bổ sung để xin gia hạn tiếp giấy phép sửa chữa”.

Tức là chưa chắc 2027 là thời hạn cuối cùng mà sẽ là dài dài.

Việc còn đến 5 năm nữa mà vẫn không hoạch định được việc mình làm cho thấy gì.

Điều đáng nói là tất cả các chuyên gia phục hồi sửa chữa này đều là từ Pháp và Ý sang từ 2017 , tức là người Việt vẫn không thể làm được cái việc mà người Pháp 142 năm trước đã làm.

Từ cầu Long Biên đến Nhà Thờ Đức Bà đều chung một kết quả thấy được là Người nước ta không biết và không làm chủ được những thứ tri thức và kỹ năng đã có từ hàng thế kỷ trước.

Vậy chúng ta bước vào kỷ nguyên 4.0 bằng cái gì.

Bằng việc không học Số học và nhảy luôn vào Đại số hay sao.

Bằng việc không học Tiểu học mà thi thẳng lên Tiến sĩ hay sao.

Đất nước có 26.000 tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ, tức là 10 Sư đoàn thạc sĩ mà đến lúc sửa cầu Thăng Long do Liên Xô làm từ 1985 vẫn không làm nổi.

Công nghệ của Pháp hơn 140 năm trước vẫn không hiểu gì chưa nói tới chuyện để làm.

Vậy đất nước ta, dân tộc ta đứng ở đâu trong kho tàng tri thức của Nhân loại.

Rất xấu hổ.

Vô cùng xấu hổ.

Và bất lực.

Fb Hung Phan

NHẬT KÝ CỦA NGƯỜI VỢ CÓ CHỒNG ĐI “HỌC TẬP CẢI TẠO “

Sau 1975, hầu hết những quân nhân phục vụ trong quân đội miền Nam đều “được “đi học tập cải tạo. Những đoạn nhật ký dưới đây của tôi chắc rằng cũng giống như của hàng vạn người vợ khác ở Miền Nam Việt Nam thời bấy giờ .

Ngày… tháng… năm

Đã một tháng trôi qua, vẫn chưa được tin tức gì về anh, mặc dù ngày anh đi trình diện, họ nói mang theo quần áo và vật dụng cá nhân cho ba ngày? con gái ba tháng tuổi của mình chưa biết gì về sự vắng mặt của bố, nhưng em…

Ngày … tháng… năm

Thấm thoát đã ba tháng dài đằng đẵng, anh vẫn bặt tăm vô tín. Một ngày có 24 giờ, một tháng là 30 ngày, và 3 tháng tới 90 ngày, vậy là có bao nhiêu giờ em mong được tin anh?

Ba ngày và ba tháng nó cách xa nghìn trùng, xa vời vợi…

Em đi hỏi thăm các chị: Lệ kế bên, Nguyệt ở xóm trong, vợ anh Hải con bà Ngoạn… chưa một ai có tin tức gì về chồng của họ.

Con mình vẫn ngoan, vui cười khi chơi với em, chưa biết bố đã vắng nhà khá lâu.

Em vẫn ở nhà với ông bà nội, lo cơm nước và trông con, vậy mà cũng bận rộn hết ngày, vì chợ búa bây giờ phải xếp hàng cả ngày, viết tắt là XHCN

người ta nói vậy…

Ngày… tháng… năm

Em bắt đầu đi chợ trời bán đồ cũ với anh của em, anh Trung đó. Gửi con bà Nội giữ, em ra đường Huỳnh Thúc Kháng, mua và bán tại chỗ, đồng hồ, radio và các thứ linh tinh. Phần đông người mua là bộ đội, thứ gì cũng lạ lẫm đối với họ.

Chắc anh không thể tưởng tượng cái cảnh chợ mà người mua và bán chỉ đi tới đi lui cầm món hàng trong tay và trao qua, trao lại. Người muốn bán đem hàng ra đó, thường là người Miền Nam chồng đi học tập hoặc mất việc làm vì làm việc cho chế độ cũ, cứ bán dần các thứ mình có. Cũng có lúc em đi quanh xóm xem có ai bán gì thì mua.

Người ta nói thời thế tạo anh hùng hoặc đói thì đầu gối phải bò, đúng không? Em của anh đã phải lăn lộn ra đường kiếm sống, à phải bò ra đường để tìm cách sinh nhai, nói một cách hoa mỹ.

Ngày…tháng… năm

Hôm nay được thư anh, cả nhà mừng lắm. Phải cám ơn Bác và Đảng đã nuôi nấng và dạy dỗ anh để trở thành người tốt? mặc dù em chưa biết anh xấu ra sao? em chưa được học tập nên không rành cho lắm.

Cái thư không dài lắm, chỉ vài hàng cho biết là anh vẫn khỏe và sẽ có ngày em được thăm nuôi, vậy mà em đọc hàng giờ.

Chữ viết của anh đây mà, sao không kể gì hơn? trang giấy còn dài mà sao lời quá ngắn? có cái gì đó làm cay mắt em, chữ viết trong thư cứ nhoè đi…

Ngày… tháng…năm

Làm đơn đi thăm nuôi, về phường xác nhận, hẹn đến tháng sau! Họ làm việc đúng nội quy, đúng nguyên tắc. Đến giờ, cánh cửa mở, đến giờ, cánh cửa đóng. Danh sách đã lật qua, cánh cửa khép lại. Bao tháng nay anh không được nhận món gì, đó là việc riêng của anh. Một người tù phải biết chờ đợi. Tháng sau tên anh mới được lật ra, đúng với hệ thống, đúng với qui tắc.

Em có than khóc ư? có van xin ư? cái hệ thống máy móc không nghe thấy gì cả. Đành thôi!

Ngày….tháng… năm

Ba bốn hôm sửa soạn, sắp xếp thức ăn để thăm nuôi anh với bà nội và con. Chỉ được gặp anh 15 phút. Anh chỉ còn xương bọc da, em không dám nhìn lâu. Em nhìn xuống mặt bàn, nơi mà anh để hai bàn tay đầy ghẻ, lắng nghe anh nói với bà nội những gì cần thiết được phép mang cho khi thăm nuôi.

Con nhìn anh, như một người xa lạ.

Em lấy làm buồn khổ khi nghĩ rằng anh đang sống trong một cái phòng tương tự như chuồng khỉ, mà ở trong đó có những con người, nhìn không còn giống con người, suốt ngày họ làm quen với chấy rận, ghẻ lở và đói khát…

Em bổng thấy mình nghèn nghẹn nơi cổ. Khi ra về, vừa đi em vừa nhìn xuống chân, bóng nắng cứ chập chờn, nhòe dần…

Ngày….tháng… năm

Lần nào có giấy phép đi thăm nuôi , em và bà nội cũng hớn hở ghi chép, mua các thứ, xong nấu nướng, gói ghém, rồi lên đường tưởng chừng như đi hội chợ Tết du xuân. Nhưng khi đến cổng trại, xếp hàng ở ngoài chờ đợi, em lại thấy buồn. Chỉ cách cái hàng rào, và mấy bức tường kia, em với anh tuy gần mà xa.

Em chợt nhận thấy cuộc đời anh như một bức tranh hí họa trong tạp chí Tiền Phong. Đời người sau những chấn song. Lúc mới sinh ra người ta được nằm trong những chiếc giường có chấn song để khỏi té. Khi tới tuổi đi học, gởi vào nội trú. Chung quanh trường là những hàng rào song sắt. Lớn lên gia nhập quân đội, trong quân trường, lại là cái hình ảnh sau những hàng rào dây kẽm gai. Cho đến khi vào tù, luôn luôn con người ta ở sau những chấn song. Có thể khi chết, chung quanh ngôi mộ, xây hàng rào sắt kiên cố, để xác chết được nằm yên dưới mồ, khỏi bị trộm cắp đào lên.

Ngày…tháng… năm …

Nhanh quá mới ngày nào, khi anh đi, con nó chưa biết gì, nay đã bập bẹ kêu bà ăn cơm. Bà nội chỉ hình anh rồi bảo nó kêu bố nè. Xong bà còn dạy nó khi hỏi bố con đâu, thì trả lời, bố con đi học tập. Vậy là mỗi lần các bà hàng xóm gặp cứ hỏi, bố con đâu? để được nghe câu trả lời: “bố đi học bập” vì đã nói được rành đâu. Rồi họ cười.

Em dạo này không còn bán chợ trời nữa vì hàng họ đâu còn nhiều, người ta đòi giá cao rất khó mua bán, vả lại ở phường họ khuyến khích chị em phụ nữ không có việc làm nên đi vào làm ở Hợp Tác Xã Mây tre lá. Vậy là bọn em phải gia nhập thôi. Việc làm này không có lương, chỉ trả theo sản phẩm. Cả ngày làm được có 3 cái rổ, không đủ tiền mua ký khoai, ôi sao mà nản quá chừng!

Đi đến đâu cũng có những bảng hiệu Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc, độc lập thì có rồi, đương nhiên hai miền không còn chia cá nhân của mình, còn tự do và hạnh phúc thì không dành cho những gia đình như gia đình mình.

Em không hề muốn kể lể hay than vãn với ai, để làm gì? mọi người nhìn nhau với đôi mắt đượm buồn và thông cảm. Không biết phải nói làm sao? diễn tả thế nào? cái bề ngoài câm nín đã bao bọc sự bừng bừng bên trong.

Ngày…tháng…năm …

Được tin anh chuyển trại, không biết em nên buồn hay vui?

nên cười hay mếu?

Anh và em chưa bao giờ được kể và cũng không có thời gian để kể về cuộc sống của mình trong những giờ phút thăm nuôi và những lá thư ngắn ngủi. Nhưng như vậy dường như đã đủ, thấy mặt nhau, bố đã nắm tay con, con đã nhận biết bố, còn thấy mặt nhau là quý lắm rồi.

Thế là an tâm sống với cái đời sống riêng rẻ của mình. Một đôi khi gặm nhấm nỗi ray rứt và tự an ủi rằng mọi sự tuần tự trôi qua. Nhiều lúc hai mẹ con em lủi thủi đi, về, em tưởng rằng đã đủ. Em quen như một người cụt cánh tay mặt, họ làm việc bằng cánh tay trái. Lâu dần mọi sự sẽ quen.

Ngày…tháng…năm …

Sáng nay em dậy sớm đi ra bến xe miền Đông với mẹ của Liễu và một vài người bạn, bọn em đi buôn đậu xanh từ Vỏ Đắc về Saigon. Chưa bao giờ làm việc này, nhưng đánh liều chứ không biết làm gì ra tiền?

Xe đến nơi khoảng 8 giờ, mua vội 5 ký đậu xanh, chia ra từng bọc nhỏ và ngụy trang ít rau cỏ lên trên. Cả bọn lên xe khoảng hơn 10 giờ để trở về Saigon, xe chạy khoảng nửa tiếng thì bị công an chặn lại xét. Thế là cả bọn vào đồn công an để lập biên bản phạt và tịch thu số đậu xanh.

Khi họ cho bọn em về là đã một giờ trưa, đâu còn chuyến xe nào để về Saigon.

Biết làm sao, những bộ mặt tiu nghỉu, dắt díu nhau, đành cuốc bộ trên con đường đồng không mông quạnh, từ trưa cho đến tối khoảng 11 giờ đêm mới thấy một cái nhà bên đường để gỏ cửa xin nước uống và nghỉ nhờ chờ sáng đón xe về.

Sáng ra trên chuyến xe về, họ bàn tán về số lượng thiệt hại, và lo ngại về cái bụng con cái đói khát ở nhà. Có người còn đùa rằng chỉ có cách em nên vớ đại anh bộ đội nào đó, để khỏi phải buôn bán, như có vài người đã đầu hàng với số phận.

Ra đời là phải vật lộn với cuộc sống. Chen đua từng bước một. Người yếu bị kẻ mạnh đè lên, dẫm lên không thương xót. Mẹ con em đang trong dòng thác lũ đó. Miếng cơm manh áo đã mua bằng đồng tiền, đồng tiền do mồ hôi và nước mắt. Em đã sống, em xin được sống. Em có tội tình gì? Xin chúa thương xót em, hàng đêm em vẫn cầu nguyện.

Ngày…tháng…năm

Một đôi người đàn ông thăm hỏi. Em bây giờ đâu còn là buổi sáng, mà em như đã tới chiều, như đã xế bóng. Một bông hoa sắp tàn. Phận em đã định. Đời em đã xong, tự giam cầm mình trong niềm kiêu hãnh cách biệt.

Mỗi người một phần số. Em chấp nhận và chịu đựng số phận mình. Em phải níu lấy cái bổn phận và trách nhiệm để đứng lên, đi với tất cả cố gắng. Dù có phải trèo qua cái dốc đá cuộc đời một mình.

Ngày …tháng…năm…

Thăm nuôi anh dịp Tết. Bà nội mua một ít và em làm thêm các món đồ khô dành riêng cho những người tù mà em rất rành làm, sau nhiều lần thăm nuôi, những món ăn đủ chất dinh dưỡng, để lâu không hư. Sau nhiều năm anh đã trải qua bao trại giam, anh đã quen với bao sự thiếu thốn, khổ sở. Em vẫn buồn cho anh không được về nhà. Riêng em dù không có anh ở bên cạnh thật sự, nhưng em cảm thấy dường như em vẫn có anh hiện hữu. Em chả thường thì thầm tính toán mọi công việc hằng ngày với anh là gì? Những bữa ăn dù ở nơi đâu, em vẫn thường nhắc với con hoặc với mọi người rằng những món nào anh thích. Đêm đêm, em vẫn yên tâm ngủ với cái khoảng trống của anh bên cạnh. Trong những lúc vui buồn em đều nghĩ đến anh. Em vẫn sống bên anh trong tâm tưởng. Cho nên dù ở bên nhau hay xa nhau, theo em không có gì…….

Ngày…tháng…năm…

Đã hơn tháng nay em lại theo anh Trung ra chợ trời bán quần áo cũ. Ông bà nội đã bán nhà và dọn đi chỗ khác. Em không biết ở đâu, đầu óc ngổn ngang, chất chồng cái gì không biết, có lẽ thần kinh căng thẳng quá. Ngủ cứ bị bóng đè liên miên. Những giấc mơ làm nặng đầu ghê gớm. Nhà cửa không có, việc làm không ổn định. Nhiều đêm đang ngủ chợt thức giấc rồi không ngủ lại được.

Thỉnh thoảng em nghĩ đến anh và những buồn phiền đã gặp, em chỉ biết thở dài

Ôi định mệnh!

Ôi cuộc đời!

Ngày … tháng… năm…

Đã từ lâu em chịu đựng, chấp nhận tất cả mọi sự đến với em. Hình như em chỉ còn biết đợi chờ. Em đã chờ đợi từng giờ, từng ngày rồi từng tháng, từng năm. Chờ đến mỏi mòn, em vẫn cứ chờ. Nếu em biết rằng không có cái gì đến nữa, em vẫn cứ chờ đợi mãi. Không còn giải pháp nào nữa là cố đợi chờ.

Ngày….tháng… năm…

Lại một mùa xuân đến. Mọi người đang rạo rực đón xuân. Sơn phết nhà cửa, chưng hoa quả, nào quần, nào áo, đầu tóc ….

Còn em, em đang cặm cụi với những bàn chân… (thêm nghề làm móng). Còn 10 phút đến giao thừa, em mới được đứng dậy. Đau cứng cái lưng, bàn tay mỏi nhừ vì cả ngày làm liên tục, mệt ăn không nổi, cũng may lúc 10 giờ tối bà ngoại sang cho miếng bánh chưng. Giờ này mọi người sửa soạn cúng giao thừa. Pháo lách tách nổ. Con ngủ gục bên ngoại, em đánh thức dậy và bế về.

Cho con ngủ, tắm rửa xong, lên giường nằm nhìn xung quanh, em cảm thấy mình trơ trọi quá. Chả có gì để chứng tỏ có mùa xuân ở đây, một cọng hoa cũng không. Em không có mùa xuân, có lẽ thế! Mệt mỏi quá mà sao mắt em cứ mở. Trong mấy năm xa anh, có lẽ năm nay là em cảm thấy cô đơn nhất, lo lắng nhiều nhất và sức khỏe kém hơn hết. Em đã sống với một cố gắng phi thường để chống trả mọi sự phiền toái trên đời này. Những mối lo lắng hình như không muốn rời xa em. Máu còn chảy, tim còn đập là em còn xoay vần với cuộc sống.

Buổi sáng ra đi vội vã, trưa vội vã ăn, buổi tối vội vã ngủ, để rồi ngày mai tiếp tục vội vã. Thì giờ phải chạy theo cho kịp, kẻo trễ.

Sáng cần đi sớm bán hàng, tối cần về sớm lo cơm nước, giặt giũ. Ngủ sớm để dậy sớm và đi sớm, đều đặn.

Năm nay con sẽ bắt đầu đi học, nó đã biết hỏi bố có dẫn nó đến trường không, em biết trả lời sao?

S.T.
From: Tu-Phung

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Cỏ Hôi

Cỏ Hôi

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

01/03/2023

Tôi ít học và lười đọc nên mãi đến năm 2011 mới được nhà văn Vũ Thư Hiên giới thiệu cho tập Tùy Tưởng Lục của Ba Kim. Qua tác phẩm này, tôi lại biết thêm một người cầm bút (danh tiếng) khác của đất nước Trung Hoa – Lão Xá.

Ông cũng là một nạn nhân bi thảm trong cuộc Cách Mạng Văn Hoá. Cứ theo như  lời của Ba Kim thì Lão Xá đã “ngậm hờn mà chết.” Ông trầm mình vào ngày 24 tháng 4 năm 1966, với lời trối trăn (“Tôi yêu nước ta lắm chứ, thế nhưng ai yêu tôi?”) khiến ai cũng cảm thấy ngậm ngùi.

Nỗi đắng cay của Lão Xá cũng khiến tôi nhớ đến đôi lời cay đắng (khác) nghe được ngay sau khi Chiến Tranh Việt Nam vừa chấm dứt:

Gần nhà tôi có cụ Lập, hơn bảy chục tuổi, thổi clarinette dàn nhạc cung đình của Bảo Đại, cùng dàn nhạc theo cách mạng, đánh Pháp rồi tập kết ra Bắc … Sống một mình. Nghèo, đói…

Bây giờ, tôi mau mắn mừng cụ sắp được đoàn tụ gia đình. Nhưng cụ nắm tay tôi:

– Cảm ơn ông, đoàn với ai, tụ với ai? Vợ con chưa biết hiện ở đâu, đi theo nhà khác mất rồi có khi. Họ hàng thì chết trong Tết Mậu Thân… Tôi về đó vẫn lại trơ làm thằng tập kết đợt hai trơ trọi một mình… Ra đi để thống nhất đất nước, bây giờ ai thống nhất với thân già tôi? (Trần Đĩnh. Đèn Cù II. Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Cụ Lập, tất nhiên, không phải là người duy nhất sống “nghèo đói” và “trơ trọi một mình” như thế. Tôi còn biết thêm nhiều ông cụ nữa, cũng rơi vào hoàn cảnh bẽ bàng (và lỡ làng) tương tự:

“Điển hình nhất là ông Đốc Huệ và ông Đốc Thỉnh của tỉnh Bến Tre. Một học giả uyên thâm có bằng cử nhân Văn chương Pháp thời Pháp thuộc có được mấy người. Nếu ở lại với Pháp thì ông đã vinh thân phì da vào hạng nhất Nam kỳ, nhưng ông đã đem cả gia đình đi kháng chiến. Ra Bắc về Nam hai lần. Khi hiệp ước Hòa Bình 54 được ký kết ông Thỉnh bị bỏ quên…

Riêng ông Mười Huệ chủ tịch tỉnh Bến Tre chín năm liền, ra Bắc được phong cho chức Thư ký của Hội Việt Pháp Hữu Nghị ở đường Lý Thường Kiệt và được cho ở trong một cái garage tồi tàn dột nát đầy sách nát của Tây vứt lại trước khi chúng chuồn. Ông Mười có bệnh cánh tay phải, không được săn sóc, không có cả bếp để nấu cơm phải đi ăn vất vưởng ở hợp tác xã bữa có bữa không hoặc bằng những ổ bánh mì nguội nài nỉ mua bằng những hào bạc hiếm hoi còn sót lại của tháng lương chết đói.

Ngồi viết những dòng này tôi còn trông thấy ông trên những nẻo đường kháng chiến của Ba Tri, Giồng Trôm, Tán Kế mà tôi kính yêu như một thần tượng. Ôi kháng chiến mà chi. Anh dũng mà chi. Thành Đồng Đất Thép để làm gì? Tất cả đều đút vào mồm con sói mặt đỏ Bắc kỳ tên là Hồ Chí Minh thôi. Một tên sát nhân, một thằng bịp lớn nhất lịch sử Việt Nam.”  (Xuân Vũ & Dương Đình Lôi. 2000 Ngày Đêm Trấn Thủ Củ Chi. QII. California: Xuân Thu, 1998).

Tôi hoàn toàn chia sẻ cái tâm cảm uất hận của nhà văn Xuân Vũ. Tuy thế, tôi e rằng ông không được hoàn toàn khách quan khi mang hết đám dân miền Nam tập kết bỏ chung vào … một rọ để cho “một thằng bịp lớn nhất lịch sử Việt Nam” lạm dụng. Thực tế thì cũng có kẻ này, kẻ nọ, chớ Bác và Đảng đâu có bạc đãi tất cả mọi người.

Gần đây, trên trang Vietnamnet (đọc được vào hôm 13/05/2020) Ths Vũ Thị Kim Yến có những ghi nhận như sau :

Đến năm 1975, hơn 15.000 học sinh miền Nam được đào tạo qua bậc đại học và sau đại học ở các trường đại học trong và ngoài nước. Phần lớn các “hạt giống đỏ” mà Bác Hồ, Đảng ta và nhân dân miền Bắc gieo trồng ngày nào đã nẩy mầm thành những cây vạm vỡ, vững chắc.

Trong số này, có 6 ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư TƯ Đảng; 18 nguyên ủy viên TƯ Đảng, 3 Bí thư Tỉnh ủy; 18 Thứ trưởng và Chủ tịch tỉnh…

Điển hình như nguyên Phó Chủ tịch QH Trương Quang Được, nguyên Bộ trưởng, Chủ nhiệm UB Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em Trần Thị Thanh Thanh, nguyên Bộ trưởng Văn hoá Nguyễn Khoa Điềm, nguyên Trưởng Ban Nội chính TƯ Nguyễn Bá Thanh…

Nhiều học sinh miền Nam trở thành lãnh đạo cấp cao trong lực lượng công an, quân đội như Thượng tướng Nguyễn Khánh Toàn, Thượng tướng Trương Quang Khánh, Trung tướng Bùi Quang Bền…

Đặc biệt, hiện tại, nhiều học sinh miền Nam vẫn đang đảm nhận những trọng trách rất quan trọng của đất nước như Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Phó Thủ tướng thường trực Trương Hòa Bình, Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân, Chánh án TAND tối cao Nguyễn Hòa Bình…

Không ai chối cãi được rằng có những hạt giống đỏ miền Nam mà Bác và Đảng gieo trồng nay đã đơm bông. Chỉ có điều đáng tiếc lại là loại hoa hôi. Tuy đều “đảm nhận những trọng trách rất quan trọng của đất nước nhưng những nhân vật thượng dẫn đều không thực hiện được một thành quả nào ráo, ngoài những lời lẽ mị dân hoặc những câu tuyên bố ngây ngô hay sáo rỗng :

Nguyễn Thiện Nhân: “Đến năm 2010, giáo viên sống được bằng lương.”

Nguyễn Xuân Phúc: “Hợp tác xã là con đường để đưa nhân dân đến gần hơn với lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa xã hội.”

Nguyễn Bá Thanh: “Sắp tới tôi sẽ rà một số cái, cho hốt liền, khỏi nói nhiều.”

Nguyễn Hòa Bình: “Nếu không có đủ căn cứ chứng minh là tội nặng thì phải quyết có tội nhưng tội nhẹ.”

Nguyễn Khoa Điềm: “Bây giờ tôi chỉ còn chường cái mặt tôi ra trong thơ.”

Gọi họ là những tinh hoa của miền Nam trong đám người tập kết thì (nghe chừng) không ổn. Về hạn từ này, dịch giả Phạm Nguyên Trường đã rất cẩn thận khi dụng bút: “Nghĩa của từ ELITE: the richest, most powerful, best-educated, or best-trained group in a society cho nên nếu luôn luôn dịch là TINH HOA thì e rằng không đúng.” Vẫn theo lời ông thì có lắm kẻ chỉ đáng gọi là thuộc giới ăn trên ngồi trốc.

Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Thiện Nhân, Nguyễn Hòa Bình, Nguyễn Xuân Phúc … quả đúng là những kẻ thuộc giới ăn trên ngồi trốc. Họ là những hạt giống đỏ được gieo trồng từ miền Bắc, và đã ươm mầm thành cây. Loại cây này, học giả Phan Khôi gọi một cách lịch sự là cây Cộng Sản. Còn dân gian thì gọi là cỏ hôi hay cây cứt lợn!

Tưởng Năng Tiến

01/03/2023

Những đứa trẻ khó bỏ bú?

Báo Tiếng Dân

Chu Mộng Long

2-3-2023

Việc nhân viên ngành đăng kiểm đồng loạt không đi làm việc, các bênh viện đồng loạt không chịu nhập thiết bị y tế mà báo chí đăng tin như một báo động sau các vụ Bộ Công an khởi tố điều tra cả hệ thống đăng kiểm và hệ thống tiêu thụ test kit Việt Á.

Bài trước, tôi nói, rằng dễ có cảm giác như một sự đình công tập thể để phản kháng công vụ của Bộ Công an. Bởi các quan chức hai ngành trên nại lý do:

1) cán bộ đăng kiểm lo sợ đi làm sẽ bị bắt;

2) bệnh viện không dám nhập thiết bị vì sợ vu phạm thủ tục đấu thầu. Rõ ràng hai lý do này đều liên quan đến các tội trạng mà Bộ Công an đang khởi tố điều tra.

Dự luận cho rằng, nếu không có sai phạm thì việc gì phải lo sợ như vậy? Nếu cho rằng, trong một ngành nào đó bị điều tra sẽ gây hoang mang cho cả ngành, và hậu quả là không ai còn dám làm việc, tức toàn ngành bị đình trệ, vậy thì công an còn dám khởi tố điều tra ai nữa? Cách phản ứng đó, nếu Bộ Công an sợ thật, khác nào tháo cửa sổ lồng cho tội phạm?

Ngành giáo dục cũng đang bị điều tra về xuất bản sách, về thiết bị trường học, không chừng cũng bắt chước hai ngành trên? Rằng sẽ không xuất bản sách, không đầu tư trang thiết bị cho trường học nữa?

Hậu quả là, chết ai nấy chịu, từ tai nạn giao thông trên đường đến bệnh nhân đang lây lất ở các bệnh viện. Nguy cơ trường học cũng đóng cửa nếu ngành giáo dục cũng hô hoán lên như hai ngành trên?

Nếu làm được như vậy thì tôi mong điều này hơn. Hiện nhiều cán bộ cao cấp bị khởi tố hình sự, các quan cứ hô hoán lên rằng, ai cũng sợ làm quan vì sợ đi tù, và sẵn sàng từ quan đi? Có dám không? Lẽ nào Đảng và Nhà nước không thể tìm người có năng lực và trong sạch để thay thế?

Nếu không phải có ý thức phản kháng hay đình công thì nghe chừng đó là cái tâm lý giận dỗi của em bé trong giai đoạn bỏ bú?

Trong Phân tâm học có phân tích tâm lý em bé trong giai đoạn bỏ bú. Đây là giai đoạn khủng hoảng tâm lý sâu sắc nhất của em bé khi dục tính của nó bị hụt hẫng. Bởi em bé bú không chỉ vì sữa mà còn tham hơn, miệng ngậm vú bên này tay sờ vú bên kia, chưa đủ, đứa bé còn đòi nằm trên bụng mẹ. Đó là lý do, mẹ hết sữa nó vẫn khư khư giữ lấy bầu vú của mẹ. Tách ra khỏi mẹ, tất nhiên, vẫn không để nó đói, thay vì bú là ăn bột hay ăn cháo, nhưng thói quen miệng ngậm, tay sờ vú vẫn khó cắt được. Nó phản kháng bằng trò giận dỗi, khóc lóc, ứ thèm luôn cả bột và cháo! Tức nó viện lý do để đình công, dù hoạt động của nó đơn thuần chỉ là ăn và chơi.

Cán bộ đăng kiểm, cán bộ y tế, kể cả giáo dục và các ngành đều ăn lương nhà nước, tức từ thuế của dân. Hình như chưa đủ. Xem chừng họ có thói quen miệng ngậm lương bên này, tay vẫn sờ đến thu nhập từ phía khác. Như lãnh đạo ngành đăng kiểm thì ngoài lương và phụ cấp, họ còn phải nhận thêm tiền đút lót. Như lãnh đạo ngành y tế, ngoài lương và phụ cấp họ còn phải ăn thêm hoa hồng thiết bị. Như lãnh đạo ngành giáo dục, ngoài lương và phụ cấp, họ còn đòi ăn thêm hoa hồng sách, thiết bị và những thứ khác nữa. Bây giờ khởi tố điều tra tội hối lộ, tội nâng khống giá sách, trang thiết bị… chẳng khác nào bắt họ phải cai nghiện tiền đút lót, tiền hoa hồng, họ bị khủng hoảng tâm lý như thể em bé bị cai sữa vậy?

Tản Đà nói: “Dân hai mươi triệu ai người lớn/ Đất bốn ngàn năm vẫn trẻ con”. Là Tản Đà nói dân Việt trước cách mạng tháng Tám. Lẽ nào bây giờ lại vận vào quan, bậc cha mẹ của dân?

Thưa các quan, đến lúc phải cai sữa được rồi! Bộ Công an làm ráo riết là để báo động các quan phải đến lúc cai sữa đấy. Răng mọc đầy hàm, vú nào của nhân dân chịu nổi?

Chuyện quan chức các ngành đang hô hoán lên nỗi sợ hãi đến làm tê liệt hoạt động của ngành mình, và hiển nhiên làm rúng động đến toàn dân như vậy, tôi so sánh với chuyện khủng hoảng tâm lý của em bé vào giai đoạn bỏ bú, có khập khễnh không? Đúng nhận, sai cãi!

Đảng Cộng sản Việt Nam đề cử Võ Văn Thưởng làm chủ tịch nước mới theo nguồn tin của Reuters

Bài viết của Reuters • 4:00 AM EST

HÀ NỘI (Reuters) – Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề cử ông Võ Văn Thưởng làm tân Chủ tịch nước, hai nguồn tin của đảng cho biết hôm thứ Tư, sau khi người tiền nhiệm của ông đột ngột bị buộc phải từ chức vào tháng Giêng như một phần của chiến dịch chống tham nhũng sâu rộng.

Phó Bí thư Thường trực Thành ủy TP.HCM Võ Văn Thưởng, hình của © Thomson Reuters

Ông Thưởng, 52 tuổi, là thành viên trẻ nhất của Bộ Chính trị đảng, cơ quan ra quyết định hàng đầu của đất nước, và được nhiều người coi là thân cận với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhân vật quyền lực nhất của Việt Nam.

Trọng là kiến trúc sư chính của chiến dịch trừng trị tham nhũng “đốt lò” của đảng, theo đó hàng trăm quan chức đã bị điều tra và nhiều người bị buộc thôi việc, trong đó có cựu chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và hai phó thủ tướng.

Việc Ban Chấp hành Trung ương đảng đề cử ông Thưởng tuân theo quyết định trước đó của Bộ Chính trị, và sẽ cần được Quốc hội thông qua, dự kiến sẽ tổ chức một phiên họp bất thường vào thứ Năm và phiên họp chính thức vào tháng Năm.

Hôm thứ Tư, cả hai thành phần, Chính phủ và Đảng Cộng sản đều cho biết Ủy ban Trung ương của đảng đã đồng ý về một đề cử cho vị trí chủ tịch nước mà không nêu tên ứng cử viên.

Chủ tịch nước ở Việt Nam giữ vai trò chủ yếu mang tính nghi lễ, nhưng là một trong bốn nhân vật chính trị hàng đầu của đất nước, cùng với tổng bí thư đảng, thủ tướng và chủ tịch quốc hội.

Thế hệ lãnh đạo mới

Carl Thayer, một chuyên gia về chính trị Việt Nam tại Học viện Lực lượng Quốc phòng Úc ở Canberra, cho biết: “Từng là trưởng ban tuyên giáo, “Ông Thương là một nhân vật có thâm niên trong bộ máy đảng và là một thành viên thân cận đáng tin cậy của Tổng Bí thư Trọng.”

Ông hiện là một trong 16 ủy viên Bộ Chính trị và giữ chức Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, một trong những chức vụ cao cấp nhất của đất nước.

Phát biểu tại một cuộc họp đảng vào tháng trước, Thưởng nói: “Lợi ích hợp pháp và chính đáng của nhân dân phải là điểm khởi đầu quan trọng của mọi chủ trương và chính sách của Đảng”.

Các nhà ngoại giao ở Hà Nội nói với Reuters rằng họ thấy quyết định của đảng bổ nhiệm ông Thưởng làm chủ tịch nước là một nỗ lực nhằm thăng tiến một thế hệ lãnh đạo mới và củng cố quyền lực trong trường hợp tổng bí thư 78 tuổi Trọng quyết định từ chức trước khi kết thúc nhiệm kỳ. kỳ thứ ba vào năm 2026.

Một nhà ngoại giao cho biết tổng bí thư thường được chọn trong số một trong những nhà lãnh đạo hàng đầu và ông Trọng, người được tái bổ nhiệm nhiệm kỳ thứ ba vào năm 2021, “đang đảm bảo rằng ông ấy có một người kế vị phù hợp trong số đó”.

https://youtu.be/R1E22R_FG9o

Phan Sinh Trần

Điều luật hình sự 331 không chừa một ai! Luật pháp

 Điều luật hình sự 331 không chừa một ai! Luật pháp

Bauxite Việt Nam

Hoài Nguuyễn

(VNTB) – Dùng Điều 331 Bộ luật Hình sự để trừng phạt một người bịa chuyện nói xấu người khác.

Nhà báo Đặng Thị Hàn Ni đã bị bắt với cáo buộc tội danh theo điều luật Hình sự 331 “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.

Quyền tự do dân chủ ở Việt Nam là một quyền được hiểu ra sao mà đã có khá nhiều công dân xứ này bị vi phạm hình sự thay cho điều chỉnh bằng pháp luật dân sự?

Thời gian qua, bà Đặng Thị Hàn Ni vướng nhiều lùm xùm liên quan đến bà Nguyễn Phương Hằng (tổng giám đốc Công ty cổ phần Đại Nam) và bị bà Hằng từng có đơn đề nghị làm rõ hành vi vi phạm pháp luật của bà Đặng Thị Hàn Ni liên quan đến hoạt động của quỹ Hằng Hữu.

Được cho là liên quan, luật sư Trần Văn Sỹ cũng bị tạm giam để điều tra theo đơn tố cáo của bà Nguyễn Phương Hằng và ông Huỳnh Uy Dũng. Luật sư Trần Văn Sỹ từng là Chủ nhiệm Đoàn luật sư tỉnh Vĩnh Long.

Có ý kiến, rằng trong chuyện đôi co của một số cá nhân trên mạng xã hội cuối cùng biến thành án hình sự với nhiều người bị bắt. Người dân – tức những người đóng thuế, coi như phải nuôi cơm tù cho họ một cách vô lý.

Điều 331 “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”, có nội dung như sau:

Mức hình phạt tại Khoản 1 Điều 331 Bộ luật Hình sự, thì người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Người nào phạm tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Cái đáng bàn ở đây trong cụ thể vụ án bà Nguyễn Phương Hằng, là vì sao các cơ quan bảo vệ pháp luật đã không xử trí ngay từ đầu khi chớm “dấu hiệu lợi dụng các quyền tự do dân chủ”, mà để nó kéo thời gian rất dài, tạo nhiều hệ lụy có thể đưa đến “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”?

Lưu ý, trong các vụ án liên quan điều luật Hình sự 331, lâu nay phía cơ quan tố tụng thường bảo thủ với việc hễ ai đó chỉ cần có bất cứ hành vi nào mà “bề trên” cho rằng có “dấu hiệu lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”, thì vụ án được lập và người phạm tội đã có thể phải chịu hình phạt nghiêm khắc của pháp luật.

“Bề trên” ở đây có thể là quan chức đầu ngành nào đó, hay đại diện cho quyền lực nhóm trong bộ máy chính quyền mà dân gian có lúc ví von rằng “trâu bò đánh nhau, ruồi muỗi chết”.

Trong vụ án bà Nguyễn Phương Hằng, ngay từ lúc ban đầu nhiều người đã hoài nghi cho rằng những mạnh miệng tố cáo hết người này đến người khác của bà chủ thành Đại Nam là do có thế lực chống lưng, với tên tuổi cụ thể luôn đó là một cựu thủ tướng khi ấy đang chuyển sang làm chủ tịch nước.

Nhà báo Đặng Thị Hàn Ni của báo Sài Gòn Giải phóng được biết đến qua loạt bài về quán phở – cà phê Xin Chào ở trước cổng công an huyện Bình Chánh, TP.HCM. Thời điểm đó, những đồng nghiệp của bà Hàn Ni biết rằng bà có mối quan hệ thân tình với người đang giữ chức thủ tướng, và cả bí thư Thành ủy khi ấy là ông Đinh La Thăng.

Rất nhanh sau đó, cơ quan tuyên giáo đảng đã “đẩy” nhà báo Đặng Thị Hàn Ni lên như một cá nhân tiêu biểu chống tiêu cực với những “danh hiệu” như Bông hồng thép, Người truyền lửa truyền thông, Người dũng cảm đi tìm công lý, Người hùng trong làng báo, Hiệp sỹ công luận…

Nay thì hậu trường chính trị liên tục xáo trộn, và rất có thể để tạo làn sóng tin tức trước lần hội nghị trung ương sắp tới, vậy là “tìm con chốt thí” kiểu đưa ra lệnh trừng phạt một người vì bịa chuyện nói xấu một người khác, họ có thể dùng Điều 331, và như vậy vô hình trung vô hiệu hóa một điều luật sẵn có là tội vu khống.

Điều này tương tự muốn trừng phạt những người biểu tình bên ngoài các khu vực cho phép, gây tắc nghẽn giao thông, họ cũng có thể dùng Điều 331, và phớt lờ một tội danh sẵn có là tội gây rối trật tự công cộng.

H.N.

VNTB gửi BVN

80% dân chúng Việt Nam đều có thể có hành vi vi phạm điều 331 BLHS

Báo Tiếng Dân

Trương Nhân Tuấn

28-2-2023

Khi mà hàng loạt luật sư được cho là có hành vi vi phạm một điều luật 331 BLHS thì chuyện cần thiết (của người làm luật và người áp dụng luật) là phải rà soát lại nội dung và phạm vi áp dụng của điều luật đó.

Ý kiến của tôi, nếu truy xét “đại trà” 80% dân chúng Việt Nam đều có thể có hành vi vi phạm điều 331 BLHS. Con số 80% là vì có thống kê cho biết khoảng 80% dân Việt Nam sử dụng một phương tiện (YouTube, Facebook, v.v…)

Theo tôi, cái cách sử dụng quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam trong thời kỳ bùng nổ internet tương tự như cái cách sử dụng phương tiện lưu thông hiện nay ở Hà nội.

Dân Việt Nam vốn khép kín trong một thời gian rất dài. Việc tiếp xúc với thế giới tư bản mang tính đột ngột, thiếu chuẩn bị trên mọi phương diện. Phương tiện giao thông bùng nổ. Người nào, nhà nào cũng có xe gắn máy, bây giờ là xe ô tô. Hầu hết người sử dụng phương tiện giao thông đều thiếu kiến thức cơ bản về luật lệ giao thông. Chỉ cần 1/10 người sử dụng phương tiện giao thông không tôn trọng luật lệ thì hệ quả lây lan có thể khiến cho việc giao thông trở thành hỗn loạn, không ai tôn trọng luật lệ nữa.

Một vụ tại nạn giao thông ở Việt Nam. Ảnh trên mạng

Về ngôn luận, thời xa xưa cách biểu đạt quyền tự do ngôn luận (ở các quốc gia Tây phương) chỉ giới hạn qua các cuộc “diễn thuyết” ở công viên. Báo chí các quốc gia phương Tây thực sự trở thành đại chúng sau Thế chiến II. Quyền “tự do ngôn luận” vì vậy chỉ dành cho một số người giới hạn gọi là “trí thức”. Luật lệ nhằm điều chỉnh, hay giới hạn, quyền tự do ngôn luận cho dầu phức tạp đến đâu cũng không làm khó khăn những người cầm bút. Đa số lớp người cầm bút là “có học”, có một trình độ hiểu biết về luật đủ để thấy các giới hạn về quyền tự do ngôn luận của cá nhân.

Trên phương diện giao thông cũng vậy. Phương tiện xe cộ luôn tương ứng với hệ thống hạ tầng cơ sở. Luật lệ về giao thông cũng tương thích với kỹ thuật xe cộ và hệ thống đường xá.

Người Việt xưa nay không có cái may mắn trong việc sử dụng các quyền về tự do cá nhân, nhứt là quyền tự do ngôn luận.

Luật lệ về giao thông, sử dụng hàng ngày mà giao thông hỗn loạn. Luật về “tự do ngôn luận” dĩ nhiên vô cùng xa lạ với họ.

Trong khi phương tiện internet như youtube, facebook… giúp mọi người có thể phát biểu tư tưởng, ý kiến của mình một cách dễ dàng.

Luật lệ làm sao “chạy” cho kịp với sự bùng nổ kỳ thuật?

Một người “biết luật”, kiểu luật sư, phải đào tạo ít ra 5 năm đại học. Không lẽ họ còn vi phạm luật?

Người làm luật chưa chắc đã “chạy” kịp theo sự bùng nổ internet. Nói chi tới người “áp dụng luật”, tức công an. Tư cách gì họ để diễn giải luật? chưa nói tới việc áp dụng luật!

Điều 331 BLHS nếu tách bạch nội dung ta thấy vô số điều “bất cập”. Trầm trọng hơn cả là nội dung điều luật mang tính “flottant”, không chính xác. Giải thích sao cũng được.

Tập quán quốc tế, nếu một điều luật “diễn giải sao cũng được” thì nó không phải là luật. Nếu luật này áp dụng thì phải áp dụng ở mức độ nhẹ nhứt.

Từ chuyện y tế: Nhân sự theo quy trình; và khốn khổ, chết đúng… quy trình! (Phần 1)

Báo Tiếng Dân

Blog VOA

Trân Văn

27-2-2023

Xây dựng bệnh viện cho dân chúng trong tỉnh nhưng ngay cả Bí thư tỉnh cũng phải dựa vào vài người như bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn (Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc AIC) để “xin vốn Trung ương”. Nguồn: Báo TN

Xây dựng bệnh viện cho dân chúng trong tỉnh nhưng ngay cả Bí thư tỉnh cũng phải dựa vào vài người như bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn (Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc AIC) để “xin vốn Trung ương”.

Gần như hoạt động của toàn bộ các bệnh viện lớn nhất tại Việt Nam đều đã chuyển từ trạng thái bình thường sang cầm chừng. Tuy tất cả các cơ sở y tế bất kể quy mô đều thiếu đủ thứ (dược phẩm, hóa chất, trang bị, thiết bị,…) để có thể khám bệnh, chữa bệnh là hết sức bất thường (1) nhưng việc các điểm tựa cuối cùng cho sức khỏe, tính mạng của những người đang “thập tử, nhất sinh” như Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), Bệnh viện Việt Đức (Hà Nội), Bệnh viện Chợ Rẫy (TP.HCM),… cũng thiếu đủ thứ khiến bệnh nhân và thân nhân nếu không muốn chết mòn thì phải tự di chuyển nhiều nơi để tìm mua thuốc, tìm mua vật dụng y tế, hoặc làm các xét nghiệm,… rồi giao lại cho bác sĩ của họ chẩn đoán, xác định cách thức điều trị (2)… rõ ràng là không thể tưởng tượng được!

27 tháng 2 hàng năm là Ngày Thấy thuốc Việt Nam và năm nay, vào dịp này, các nhân viên y tế, lãnh đạo các cơ sở y tế chỉ đề cập đến một chuyện, không chỉ ngành y tế mà những người Việt cần được khám bệnh, chữa bệnh đều đang ngắc ngoải. Hôm 23/2/2023, Cổng Thông tin điện tử của chính phủ Việt Nam tổ chức một cuộc tọa đàm nhân dịp 27 tháng 2 nhưng chủ đề lại là “Ngành y vượt khó”. Ở cuộc tọa đàm ấy, Bác sĩ Trần Bình Giang – Giám đốc Bệnh việt Việt Đức – cảnh báo: Tại các bệnh viện lớn trên toàn quốc, vật tư y tế để chăm sóc người bệnh gần như đã hết, các hóa chất xét nghiệm để phục vụ chẩn đoán, điều trị cho người bệnh cũng gần như đã hếtChúng ta chỉ còn khoảng thời gian từ một tuần tới hai tuần nữa. Nếu như chúng ta không tháo gỡ được các vướng mắc liên quan đến mua sắm y tế, các bệnh viện hầu như sẽ không hoạt động được nữa!

Tương tự, khi đón ông Nguyễn Trọng Nghĩa – Bí thư BCH TƯ đảng kiêm Trưởng ban Tuyên giáo của BCH TƯ đảng đến tặng hoa, chúc mừng nhân Ngày Thấy thuốc Việt Nam, giống như các đồng nghiệp trên toàn quốc, Bác sĩ Nguyễn Tri Thức – Giám đốc Bệnh viện Chợ Rẫy – dành phần lớn thời gian để trình bày về những bất cập của qui định hiện hành: Muốn mua sắm thì phải tổ chức đấu thầu. Muốn xét chọn thầu thì phải có ba bảng chào giá nhưng trên thực tế, tỉ lệ gói thầu có đủ ba bảng chào giá chỉ chừng 30% đến 40%. Có thể vì biết yêu cầu đó khó khả thi nên Bộ Tài chính hướng dẫn thêm rằng nếu không đủ ba bảng chào giá thì có thể thẩm định giá kê khai nhưng trên thực tế, không có cơ quan hữu trách nào thẩm định giá kê khai có đúng hay không… Do vậy mua sắm trong ngành y tế rất nhiều rủi ro vì rất dễ trở thành “cố ý làm trái” (3)…

Thiết bị kỹ thuật cao rất đa dạng. Chẳng hạn máy chụp cắt lớp (Computed tomography – CT) có hàng trăm loại, mỗi loại có độ phân giải, chức năng khác nhau. Do đặc điểm, các bệnh viện cấp tỉnh có thể chỉ cần mua máy CT 64 lát cắt nhưng những bệnh viện “tuyến cuối” cần phải loại 258 hay 512 lát cắt… Do đó, cũng là máy CT nhưng giá rất khác nhau và rất dễ bị buộc phải giải trình, dễ gặp rắc rối. Theo Bác sĩ Thức, Bệnh viện Chợ Rẫy cần thiết bị đặt stent mạch vành nhưng không đủ ba bảng chào giá cho gói thầu này nên có thể chỉ tiến hành đặt stent với bệnh nhân cấp cứu, những trường hợp khác sẽ phải chờ… Vào lúc này, 3/5 máy CT của Bệnh viện Chợ Rẫy bị hư nhưng thiếu ba bảng chào giá nên không thể sửa chữa hay mua máy mới để thay thế. Tình trạng tương tự là máy siêu âm, 10/35 máy đã hư…

Thiếu trang bị, thiết bị, nhân viên y tế phải làm thêm giờ (có khoa như Xạ trị phải làm từ 6 giờ sáng hôm nay đến rạng sáng hôm sau), căng thẳng hơn, cực nhọc hơn nhưng đó vẫn chưa phải là điều đáng ngại nhất. Điều đáng ngại nhất là bệnh nhân lãnh đủ. Rất nhiều bệnh nhân có nhu cầu phải đi nơi khác để được chụp, chiếu rồi mang kết quả về Bệnh viện Chợ Rẫy cho bác sĩ chẩn đoán. Trước, mỗi ngày Bệnh viện Chợ Rẫy khám – điều trị cho khoảng 6.000 bệnh nhân ngoại trú, nay – con số này chỉ còn… 2.000! Báo điện tử VietNamNet mới giới thiệu một phóng sự ảnh về Bệnh viện Chợ Rẫy và gọi đó là… “cảnh tượng chưa từng thấy” (4): Hàng loạt thiết bị kỹ thuật cao hư hỏng, bất khiển dụng nhưng không thể mua sắm, sửa chữa nên bệnh viện “tuyến cuối” cho cả khu vực Tây Nam, Đông Nam của miền Nam vốn nổi tiếng đông đúc, giờ thưa vắng khác thường.

***

Giống như nhiều lĩnh vực khác, lĩnh vực y tế tại Việt Nam cũng có đủ loại scandal liên quan đến đầu tư hạ tầng, mua sắm dược phẩm, trang bị, thiết bị,… Giống như nhiều lĩnh vực khác, tham nhũng trong lĩnh vực y tế tại Việt Nam cũng là vấn nạn trầm kha đã vài thập niên. Nỗ lực chấn chỉnh bằng việc đặt ra đủ loại quy định, soạn lập quy trình, rồi thanh tra, điều tra truy cứu trách nhiệm hình sự như đã thấy trong vài năm gần đây đối với lĩnh vực y tế nói riêng và các lĩnh vực khác nói chung không những không khả quan mà còn cho thấy hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam đã mục ruỗng đến mức vô phương cứu vãn! Dựa trên những gì đã biết, không thể chỉ xem yêu cầu ba bảng chào giá đang gieo vạ cho cả y giới lẫn dân chúng là biểu hiện của bất trí, trong nhiều trường hợp, sự vô lý đến mức không thể lý giải vì sao chính là đặt bẫy để kiếm lợi…

Đầu tháng trước, Tòa án thành phố Hà Nội công bố hình phạt đối với 36 bị cáo dính líu tới vụ giao cho Công ty Tiến bộ Quốc tế (AIC) 16 gói thầu trong Dự án xây dựng Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai từ 2010 đến 2015 gây thiệt hại cho công quỹ 148 tỉ (5). Diễn biến của phiên xử kéo dài gần hai tuần này bộc lộ một điều mà không cá nhân hay cơ quan hữu trách nào ở Việt Nam chịu thừa nhận: Chính qui định, quy trình là bà đỡ vụ án này. Xây dựng bệnh viện cho dân chúng trong tỉnh nhưng ngay cả Bí thư tỉnh cũng phải dựa vào vài người như bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn (Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc AIC) để “xin vốn Trung ương”. Năm 2016, Trung ương chỉ đồng ý cấp cho Đồng Nai 889 tỉ để làm “vỏ” Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai. Sau khi lãnh đạo Đồng Nai nhờ bà Nhàn, Trung ương cấp thêm 754 tỉ để nhồi “ruột” (mua sắm các thiết bị y tế).

Do bà Nhàn có công, lãnh đạo tỉnh Đồng Nai mới chỉ đạo lãnh đạo Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai sắp đặt để bà Nhàn thắng hết các gói thầu với giá cao hơn nhiều so với giá trị thật và cùng nhau nhận tiền… “tạ ơn”. Trước tòa, ông Trần Đình Thành – cựu Bí thư Đồng Nai – khai, chính ông điện thoại cho bà Nhàn để kể về dự án xây bệnh viện đa khoa cho tỉnh bị thiếu vốn và nhờ bà Nhàn “góp cho tỉnh Đồng Nai một tiếng nói”, bởi “Nguyễn Thị Thanh Nhàn có thể thuyết phục bộ, ngành Trung ương ủng hộ vốn cho các địa phương. Còn bộ, ngành nào thì tôi không biết” (6). Hệ thống tư pháp (công an, kiểm sát, tòa án) chỉ ghi nhận – đúng là hồi đầu (2006), Trung ương chỉ cho Đồng Nai 899 tỉ để xây bệnh viện đa khoa chứ không cấp tiền sắm thiết bị y tế, mãi đến năm 2010, Trung ương mới phê duyệt, cho thêm 754 tỉ để mua thiết bị – nhưng… không nói gì thêm!

(Còn tiếp)

Chú thích

(1) http://daidoanket.vn/khong-the-tram-dau-do-dau-nguoi-benh-5710713.html

(2) https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/cap-cuu-cua-cap-cuu-hoa-chat-vat-tu-y-te-can-kiet-chi-1-2-tuan-nua-cac-benh-vien-lon-se-khong-the-hoat-dong-119230223140229899.htm

(3) https://vietnamnet.vn/nguy-co-benh-vien-cho-ray-chi-dat-stent-cho-ca-cap-cuu-vi-vuong-gia-goi-thau-2114148.html

(4) https://vietnamnet.vn/canh-tuong-chua-tung-thay-o-benh-vien-cho-ray-2113981.html

(5) https://thanhnien.vn/nhan-hoi-lo-cuu-bi-thu-tinh-uy-dong-nai-tran-dinh-thanh-lanh-11-nam-tu-1851538705.htm

(6) https://cand.com.vn/phap-luat/lanh-dao-tinh-dong-nai-moc-noi-voi-ai-de-xin-duoc-von-tu-trung-uong–i678668/

“Hết rau rồi anh có lấy măng không?”

Báo Tiếng Dân

Mai Bá Kiếm

26-2-2023

Trong 34 doanh nghiệp bất động sản, xây dựng xin khất nợ trái phiếu, có nhiều tập đoàn lớn: như Novaland, Hải Phát, Sacomreal, Nam Land, Đầu tư LGD, Danh Khôi, Gotec Land, Bất động sản Hà An, Apec Land Huế, Đất Xanh miền Nam, Nam Land, Sunny World, Gotec Land.

Novaland đề xuất gia hạn thanh toán hoặc hoán đổi tiền gốc lấy các sản phẩm bất động sản, tức hát bài Trường Sơn Đông – Trường Sơn Tây: “Hết rau rồi anh có lấy măng không?”. Hỏi cho có hỏi vậy, chớ em chưa có măng, vì em mới trồng tre mà!

Cách đây 3 năm, vào ngày mùng một Tết năm 2020 (25/1/2020), đại gia Bùi Thành Nhơn viết “Đơn kêu cứu khẩn cấp” gửi cựu bộ trưởng Bộ Xây dựng Phạm Hồng Hà rằng “Novaland đã kiệt sức, cần Đảng và Nhà nước hỗ trợ, vì đang mất tính thanh khoản. Khẩn cầu Bộ trưởng Bộ Xây dựng cho Cty Phát triển Quốc tế Thế kỷ 21 (Cty thànhviên của Novaland, do Novaland chuyển nhượng lại cổ phần) được tiếp tục phát triển Dự án Khu dân cư tại khu đất 30,224 ha tại phường Bình Khánh, Q.2, TPHCM, vì đây là dự án đã đủ điều kiện bán hàng và Novaland đã bỏ vào dự án hơn 6.000 tỷ đồng.

Novaland cam kết chấp hành mọi quyết định của Chính phủ. Việc cho Novaland tiếp tục phát triển dự án, ngoài việc giúp Novaland có nguồn thu, còn giúp cho hơn 200 nhà đầu tư nước ngoài đang đầu tư vào Novaland yên tâm tiếp tục bỏ vốn Novaland để tiếp tục phát triển các dự án đang dang dở”.

Đang khóc khẩn cầu, bỗng dưng Bùi Thành Nhơn trở giọng hăm dọa: “Để tránh hệ lụy xấu không thể nào cứu vãn được, nếu cổ phiếu của Novaland mất tính thanh khoản như: Gây nợ xấu gần 50.000 tỷ đồng cho hệ thống ngân hàng, gần 250.000 người biểu tình đòi trả nhà, đòi lấy tiền, mất an ninh trật tự Thành phố; gây kiện tụng quốc tế dây chuyền phức tạp; mất công ăn việc làm cho hàng chục gia đình (Novaland và các đối tác); giảm niềm tin của doanh nhân và doanh nghiệp trọng và ngoài nước; ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư… Novaland khẩn cầu Bộ trưởng Bộ Xây dựng khẩn cấp giúp Novaland vượt qua khó khăn, cho phép Novaland tiếp tục thực hiện dự án 30,224 ha P. Bình Khánh, Q.2 đã bị tạm dừng gần 2 năm”.

Bộ trưởng Phạm Hồng Hà có bút phê trên đơn kêu cứu “TT Sinh chỉ đạo, b/c bộ trưởng”!

Khi con nợ quá to, nó đách sợ chủ nợ! Nhà nước nó còn dám dọa mà!

Cuộc Đầu Độc Vĩ Đại Ở Việt Nam (Thạch Thảo)

Khắp Việt Nam, người dân đang sống với thực phẩm bẩn và thực phẩm tẩm thuốc độc hàng ngày! (Tiền Phong)

Từ bao nhiêu năm nay rồi, quê tôi có những chuyến xe đêm đi thành phố khởi hành lúc một giờ sáng, đến Sài Gòn lúc năm giờ. Có hai loại hành khách thường phải đi xe khuya như vậy: Một là người đi làm thuê và hai là người đi khám bệnh. Đến Sài Gòn lúc năm giờ sáng, người làm thuê kịp giờ đến xí nghiệp và người đi khám kịp vào bệnh viện “bắt số” để xếp hàng. Hành khách đi khám bệnh thường quen nhà xe và quen biết nhau vì họ đi lên đi xuống Sài Gòn tái khám từ năm này qua tháng nọ.

Trên xe, họ trò chuyện thân thiết, hiểu rõ hoàn cảnh gia đình cũng như bệnh tình của nhau, và thường nhắc đến những người bệnh vắng mặt. Cứ dăm ba chuyến xe không gặp thì hiểu là người ấy đã “về nhà” rồi, có nghĩa là về trên chuyến xe chở xác của bệnh viện. Đa số người bệnh trên những chuyến xe khuya ấy đều bệnh ung thư. Quê tôi bệnh ung thư nhiều vô số, đến nỗi có ai đó bị bệnh phải đi Sài Gòn khám là mọi người nói như mặc định “lại ung thư rồi”.

Một trong những địa chỉ quen thuộc ở Việt Nam, nơi mỗi năm có hơn 200,000 ca mắc mới; và khoảng 82,000 ca tử vong (NLĐ)

Ở cửa ngõ Sài Gòn hướng miền Tây có Bệnh viện Triều An, gần như đó là bệnh viện dành cho người miền Tây và dành cho bệnh nhân ung thư. Lúc ông Trầm Bê còn đương thời, ông đã dành một khoản từ thiện tài trợ cho bệnh nhân ung thư, bệnh nhân nghèo bệnh nặng được miễn giảm viện phí ở Triều An.

Con sông quê đã hết hiền hòa

Đa số bệnh nhân ung thư ở quê tôi là nông dân. Trong văn chương nghệ thuật, hình ảnh con sông quê luôn đẹp đẽ hiền hòa. Giờ khác rồi, những con sông quê miền Tây vẫn đẹp mà không hiền chút nào. Tất cả ô nhiễm tới nỗi không ai dám tắm sông nữa. Hình ảnh trẻ con bơi đùa trên sông là xưa rồi. Chúng biết sông rất dơ, hễ xuống sông tắm là sẽ bị ngứa, ghẻ lở, nhiễm độc.

Thành phố có công ty vệ sinh đô thị thu gom rác, chứ nông thôn làm gì có, bao nhiêu rác người dân đều thải xuống sông. Cống rãnh đều dẫn ra sông mà không bao giờ và không ai nghĩ đến chuyện xử lý nước thải. Chợ nông thôn hầu hết đều ở ven sông, tan buổi chợ là tất cả rác rến lùa hết xuống sông. Cách đây mươi năm, hầu hết người dân nông thôn đều đi vệ sinh trên cầu cá, tức là đào cái ao nuôi cá tra, phía trên làm cầu tiêu để lấy phân nuôi cá. Tất nhiên là cái ao có đường cống thông ra sông rạch, có nước ra vô. Sau khi cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt ra Chỉ thị 100 cấm cầu cá thì đỡ hơn, nhưng đây đó vùng quê vẫn còn.

Sông ngòi miền Tây ô nhiễm kinh hoàng! (RFA)

Dù sao thì rác hữu cơ có dơ chút mà không độc. Những dòng sông quê nhiễm độc là bởi phân hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, những loại thuốc bảo vệ thực vật cực kỳ độc hại bón trên ruộng lúa, xong rồi xả hết ra sông. Miền Tây trồng lúa ba vụ một năm, đất không có thời gian hồi phục nên phải xài phân thuốc thật nhiều thì lúa mới trúng. Cứ nhìn những doanh nghiệp kinh doanh phân bón, thuốc nông nghiệp giàu lên như thế nào thì đủ biết người nông dân sản xuất lúa toàn bằng phân thuốc.

Khi được sử dụng xong, các chai thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ bỏ lăn lóc bên bờ ruộng hoặc liệng hết xuống sông, hầu như không ai xử lý đúng cách cả. Chúng ta biết là thuốc sâu độc hại ra sao, thuốc diệt cỏ còn hơn vậy. Những người tự tử bằng thuốc sâu thì còn cứu được, chứ uống thuốc cỏ là bó tay luôn. Nông dân biết hết, nhưng họ tỉnh bơ, họ vẫn trữ thuốc độc trong nhà, trong nhà bếp, pha thuốc vào bình xịt xong vứt chai thuốc lăn lóc sau hè. Thậm chí mấy quán tạp hóa ở quê bán thuốc sâu, phân bón chung với thực phẩm luôn.

Mấy anh nông dân than với tôi là mỗi khi đi xịt thuốc về, họ “mắc bịnh” cả tuần chưa hết: Nhức đầu, mệt mỏi, nóng sốt, bải hoải chân tay… Đó chính là tình trạng nhiễm độc thuốc trừ sâu, nhưng họ “quen” rồi, nếu khuyên họ mặc đồ bảo hộ lao động, đeo khẩu trang và kính bảo vệ thì họ không bao giờ nghe, vì “vướng víu khó làm việc”, họ bảo vậy. Những bệnh nhân ung thư tương lai là đây chứ đâu.

Người nông dân đã hết thật thà

Đến nhà nông dân, bạn sẽ thấy họ trồng riêng một mảnh ruộng, một mảnh vườn “đồ nhà”, tức là không bón phân xịt thuốc, để dành riêng nhà họ ăn. Họ biết rõ bón phân xài thuốc là rất độc nhưng họ vẫn làm – để lúa có năng suất cao, rau cải xanh tốt – để bán cho người khác ăn. Riêng gia đình họ khôn hơn, chỉ ăn đồ nhà. Chưa hết, nếu ngày xưa mua gạo về để lâu trong khạp, bạn thấy có mọt. Giờ kiếm không ra con mọt nào đâu, gạo đều đã được xử lý chất bảo quản, để bao lâu cũng không mọt, không mốc. Còn rau cải, người đi chợ có xu hướng tìm rau cải có sâu để bảo đảm không bị xịt phân thuốc, nhưng làm gì tìm ra được. Rau xanh mướt, nhưng đem về nhà để tới chiều là bấy nhầy ra, ủng thối.

Nhà nông bây giờ khỏe re, nuôi heo không còn lo cám gạo rau muống và xắt chuối cây như ngày xưa. Tất cả heo gà vịt cá tôm đều nuôi bằng thức ăn công nghiệp có chất tăng trọng. Đôi khi tôi nghĩ có phải vì thế mà con người cũng béo phì hơn xưa không, ăn thịt toàn chất tăng trọng cơ mà. Tôi có người bạn, con gái làm trang trại nuôi gà công nghiệp. Bạn nói, nó cho gà ăn toàn thuốc và thực phẩm công nghiệp nhập khẩu Trung Quốc, mở đèn, mở máy lạnh cho gà ăn suốt ngày đêm.

Chỉ 3 tuần lễ là con gà to 3-4 kg. Gà không thể đứng nổi, phải nằm ăn, vì xương không phát triển kịp đủ để nâng đỡ trọng lượng. “Bắt con gà lên sẽ thấy nó nặng trịch và thịt cứng ngắc, rất sợ” – bà bạn cho biết vậy. Gà nuôi bằng thuốc rất yếu, dễ chết, chỉ cần cúp điện tắt máy lạnh chừng vài mươi phút là gà ngã ra chết hết luôn. Họ còn nuôi thuốc cho gà đẻ trứng sai, trứng to và đẻ trứng hai tròng đỏ; nhưng con gà đẻ chỉ một, hai lứa là chết vì kiệt sức. Nếu như ở quê tôi không mấy ai ăn thịt gà công nghiệp thì cả Sài Gòn này đều ăn, nhất là các quán cơm gà bình dân bán cho công nhân và sinh viên. Gà vườn giá hai trăm ngàn trong khi gà công nghiệp chỉ khoảng bảy chục ngàn một ký, Người nghèo ăn đồ độc hại là điều đương nhiên rồi.

Người bán thực phẩm, những mụ phù thủy độc ác

Có lần tôi ra cảng cá, thấy cá từ tàu mang lên ướp nước đá nhão nhoét, tôi thắc mắc “Cá như này sao bán được?” Chủ vựa trả lời: Đây mới là cá tươi, bạn hàng mang cá về nhà sẽ “muối” hàn the và ure, hôm sau mang ra chợ thấy cứng sảng, tươi chong chớ mà ăn độc lắm á em.

Hàn the là chất cấm sử dụng trong thực phẩm, là chất độc và lưu trữ vĩnh viễn trong cơ thể mà không bị đào thải qua bài tiết, nhưng người dân quê vẫn sử dụng để bảo quản thực phẩm, làm cho thức ăn tươi lâu, cứng giòn và dai. Chả lụa ướp hàn the sẽ dai ngon và để ngoài nhiệt độ thường hàng tuần lễ không bị hư. Hàn the ướp dưa chuột, dưa kiệu cho giòn, hàn the hay formol dùng trong sản xuất bún, bánh phở cho dai và để được lâu. Người ta còn dùng Tynopal là chất tẩy trắng trong công nghiệp giấy để làm cho bún trắng sáng. Chập tối đi chợ chiều, tôi từng bắt gặp người bán rải từng vốc hàn the lên thớt thịt để giữ thịt có màu đỏ tươi; sáng mai đem ra bán lại, bán hết thịt cũ mới bán tới thịt tươi, trong khi người nội trợ cứ nghĩ đi chợ sớm sẽ mua được thịt tươi ngon, tội nghiệp biết bao!

Ngâm thịt thối để biến thành thịt tươi! (NLĐ)

Đi về vùng biển, tôi được bà con ngư dân chia sẻ một bí mật trong cách làm tôm khô. Tôm biển từ tàu đánh bắt xa bờ (đi ít nhất nửa tháng mới về) thì phải ướp để bảo quản. Cá có thể ướp nước đá, nhưng tôm tép thì không bởi tôm ướp nước đá sẽ bị đen đầu. Do đó, ngư dân phải muối tôm bằng hàn the để giữ được con tôm có màu tươi. Vậy là tôm khô biển rất độc hại, bạn chỉ nên ăn tôm biển từ những tàu đánh bắt gần bờ sáng đi chiều về mà thôi.

Cá khô cũng vậy. Bây giờ ra chợ hải sản khô người ta không thấy ruồi. Cả làng cá ven biển phơi cá lớp lớp trên giàn phơi bốc mùi tanh nồng cũng không thấy con ruồi nào đậu vào. Tại sao? Bạn bè miền biển cho tôi biết, gia đình họ tự phơi cá ăn chứ không bao giờ mua ở chợ, vì cá khô bây giờ đều được ngâm “thuốc ruồi”. Đó là một loại hóa chất diệt côn trùng mua từ bên kia biên giới Việt Nam – Campuchia, chỉ cần ngâm cá vào hóa chất, treo lên giàn một đêm là cá khô bán được, không cần phơi nắng, không bị ruồi bu sinh dòi, làm “cá một nắng” bằng cách ngâm thuốc sẽ bảo quản lâu mà không cần đông lạnh gì cả.

Người ta cũng phát hiện nhà kinh doanh hải sản nhuộm ruốc bằng phẩm màu công nghiệp, đó là chất Rhodamine B dùng nhuộm vải, có thể gây ngộ độc cấp tính và gây ung thư. Vàng Ô (Auramine O) là tên thương mại của chất diarylmethane. Đây là chất màu tổng hợp, chỉ được sử dụng trong công nghiệp để nhuộm và dùng để làm màu sơn quét tường. Thế nhưng người Việt dùng chất đó để nhuộm màu vàng cho măng và dưa cải! Và họ dùng oxyt đồng để nhuộm cho dưa chuột ngâm chua giữ được màu xanh tươi.

Ở Sài Gòn, dù thèm sầu riêng đến mấy tôi cũng không mua. Nhiều người giống như tôi vậy. Họ sợ sầu riêng ngâm thuốc. Con buôn đến từng vườn sầu riêng, bao mua hết vườn, trái non trái già gì họ cũng hái hết, rồi ngâm sầu riêng trong thùng hóa chất; vài hôm sau, sầu riêng chín đều, bán được hết. Những loại trái cây khác như táo, nhãn…, họ cũng ngâm hóa chất – gọi là thuốc phì, chỉ một đêm là táo nở to, trái trông rất ngon; long nhãn nở to đến nỗi nứt cả hạt ra.

Chợ Việt hàng Tàu

Khi tôi đi chợ mua rau củ, tôi chỉ mua hàng xấu, củ nhỏ đèo, màu ít tươi. Tôi nói KHÔNG với hàng Trung Quốc. Tất cả rau củ quả, gia vị như cà rốt, khoai tây, củ hành, tỏi, đường, bột ngọt… đều của Trung Quốc. Chợ Việt Nam toàn hàng Trung Quốc. Rau củ Trung Quốc củ to, màu tươi đẹp, bạn mua về để sáu tháng sau không hư hỏng. Và rất rẻ. Chính một chủ vựa hàng légume nói với tôi rằng, “hàng Trung Quốc vừa rẻ, vừa đẹp, để lâu không bị hư, thì chúng tôi (các nhà kinh doanh) tất nhiên là phải mua bán rồi”.

Tại chợ Kim Biên, Sài Gòn, muốn mua hóa chất “bảo quản” gì cũng có. Tất cả đều là hàng Trung Quốc (TN)

Khi đến cửa khẩu Tân Thanh, Lạng Sơn, tôi thấy bãi hoa quả Trung Quốc chuẩn bị đưa sang Việt Nam nồng nặc mùi hóa chất bảo quản. Mỗi thùng trái cây có một bịch hóa chất, bạn sẽ không bao giờ thấy nó bởi chủ vựa đã thủ tiêu mất trước khi bán cho người tiêu dùng. Vì vậy, trái cây Trung Quốc không cần bảo quản lạnh vẫn giữ tươi nguyên mấy tháng liền. Dân buôn bán vùng biên giới gọi đó là hàng nóng. Thật bất công khi hàng Việt Nam bán sang Trung Quốc phải là hàng lạnh, trái cây phải được bảo quản bằng xe container lạnh, trong khi hóa chất bảo quản của Trung Quốc bán sang Việt Nam đầy ắp ở chợ Kim Biên, Sài Gòn.

Trong khuôn khổ một bài viết, tôi không biết nói sao cho hết những nỗi khổ của người Việt Nam khi còng lưng làm lụng để rồi phải ăn toàn chất độc, sống trong môi trường nhiễm độc và chết sớm vì bệnh tật. Trung Quốc cung cấp thuốc độc và người Việt đầu độc lẫn nhau, một cuộc đầu độc vĩ đại có thể khiến đất nước và dân tộc này suy tàn, diệt vong.

From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen

Nguyễn Chí Vịnh ‘quay xe,’ ám chỉ Putin ‘phát động chiến tranh’ thì phải kết thúc

Báo Nguoi-viet

February 24, 2023

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – “Để kết thúc cuộc xung đột này [cuộc chiến Ukraine], ai là người phát động chiến tranh cũng phải là người tính toán, tìm cách rút khỏi cuộc chiến.”

Đó là phát ngôn của ông Nguyễn Chí Vịnh, cựu thứ trưởng Quốc Phòng Việt Nam, trong đoạn video clip phát trên YouTube VTC Now hôm 23 Tháng Hai, nhân đánh dấu một năm Nga xâm lăng Ukraine.

Ông Nguyễn Chí Vịnh, cựu thứ trưởng Quốc Phòng Việt Nam, trong đoạn video clip phát trên YouTube VTC Now hôm 23 Tháng Hai. (Hình: Chụp qua màn hình)

Lời của ông Vịnh được hiểu là ám chỉ ông Vladimir Putin, tổng thống Nga, là người phải có trách nhiệm rút lui, kết thúc cuộc xâm lược.

Bên cạnh việc quy trách nhiệm cho ông Putin về việc kết thúc cuộc chiến, ông Vịnh còn mạnh miệng chê tổng thống Nga “đánh giá thấp tinh thần chiến đấu của người Ukraine.” Ông Vịnh cũng bình luận thêm rằng việc “dùng chiến tranh để kết thúc mâu thuẫn là vô nghĩa.”

“Dù anh có đúng hay sai, mà anh có đúng đi nữa. Dù anh có bị sức ép như thế nào đi chăng nữa, dù anh về tình cảm về lý trí có bị phản bội như thế nào đi nữa nhưng anh giải quyết vấn đề bằng chiến tranh đưa quân sang một nước khác là điều tối kỵ, điều không bao giờ được chấp nhận. Và kết cục của cái việc ấy sẽ là thất bại,” ông Vịnh nói trong đoạn clip.

Đề cập về giải pháp hòa bình cho Ukraine, ông Vịnh nói chung chung: “Năm 2023, tôi vẫn chờ đợi sẽ có một nhân tố nào đó đột phá để có kẽ hở cho hòa bình ở Ukraine.”

Ngoài ra, trong đoạn clip trả lời phỏng vấn của VTC Now, ông Nguyễn Chí Vịnh cũng lặp lại quan điểm của đảng là “không chọn bên, không dựa vào nước này để chống nước kia”…

Đến nay, các báo ở Việt Nam không dám chỉ đích danh Nga là “quân xâm lược” mà vẫn tuyên truyền rằng Moscow phát động “chiến dịch quân sự” tại Ukraine.

Do vậy, việc ông Vịnh dù “chỉ trích nhẹ nhàng” ông Putin được coi là bước “quay xe” của ông này sau nhiều phát ngôn tỏ ý bênh vực Nga và ông Putin khi cuộc xâm lược khởi sự từ 24 Tháng Hai năm ngoái.

Tuy vậy, công luận không rõ phát ngôn mới nhất của ông Vịnh có thể hiện quan điểm chính thức của Bộ Quốc Phòng Việt Nam hay không.

Trong một diễn biến khác, hãng AP ghi nhận, thêm một lần nữa, Việt Nam tiếp tục bỏ phiếu trắng cho nghị quyết của Liên Hiệp Quốc đòi Nga rút khỏi Ukraine trong cuộc bỏ phiếu hôm Thứ Năm, 23 Tháng Hai.

Trong số 193 quốc gia, có 141 quốc gia bỏ phiếu thuận, 32 quốc gia bỏ phiếu trắng, bảy quốc gia bỏ phiếu chống, và 13 quốc gia không bỏ phiếu.

Các đại sứ EU tại Việt Nam bày tỏ sự ủng hộ tại Đại Sứ Quán Ukraine ở Hà Nội hôm 24 Tháng Hai. (Hình: Facebook European Union in Vietnam)

Đây là lần thứ năm Việt Nam bỏ phiếu có lợi cho Nga, quốc gia đồng minh lâu đời và là nhà cung cấp vũ khí chính cho quốc gia Đông Nam Á này. Trong số các quốc gia bỏ phiếu trắng với Việt Nam có cả Trung Quốc và Ấn Độ, giống như mọi lần trước.

Hành động bỏ phiếu trắng khiến hàng trăm Facebooker người Việt vào trang Facebook Đại Sứ Quán Ukraine ở Hà Nội để lại bình luận “xin lỗi vì đảng không đại diện cho suy nghĩ của người dân Việt Nam.”

Ngày 24 Tháng Hai, 2022, ông Putin ra lệnh cho quân đội Nga xâm lăng Ukraine, mà ông gọi là “hành quân đặc biệt,” để tiêu diệt “Phát Xít” Ukraine, bảo vệ người nói tiếng Nga, và xóa tan âm mưu của Kiev định gia nhập khối NATO. (N.H.K)