Nhà văn Tam Lang đi học i-tờ sau 30/ 4/ 1975 ở Saigon                                              

Hoàng Hương Trang

Nhà báo Tam Lang (Họa sĩ TạTỵ vẽ)

Nhà văn Tam Lang ở Sàigòn từ 1954 đến sau 30/4/75, ông rất hoang mang, lo sợ; vì trước đó đã bị tuyên truyền, nhồi sọ: ‘Việt Cộng vào Sàigòn thế nào  cũng có cuộc tắm máu, đấu tố, tẩy não– nhất là thành phần trí thức + văn nghệ sĩ.’ (nhất là ‘văn nghệ sĩ di cư 1954 thì càng khó thoát!).

Lúc ấy; ông đã ngoài 70, già yếu, lụm cụm, từng được giới văn nghệ sĩ Sàigòn  bầu làm ‘tiên chỉ’ trong làng văn. Với nỗi lo sợ, hoang mang trên, tương tế tựu kế; khi mấy cán bộ phường đến từng nhà dân, ghi tên, năm sinh, trình độ học vấn — [thì] ông tự khai ‘mù chữ’, không biết ký tên, chỉ lấy ngón tay ‘chỉ điểm’ thay chữ ký.

Ít ngày sau, phường tổ chức lớp xóa mù chữ, trong danh sách những người cần đi học, có tên ‘ông già Vũ đình Chí’.

Thế là, đêm đêm ông cắp sách đi học i-tờ và đóng kịch rất khéo, làm như cả đời chưa hề học chữ bao giờ, cầm bút cứ lóng nga lóng ngóng, viết nét chữ xiên xẹo, ngoằn ngoèo đến độ cô giáo trẻ phải tới đứng sau lưng ông già, đưa tay choàng qua vai ông già, cầm bàn tay tập viết cho từng chữ một.

Ông già này rất ngoan ngoãn, đồ theo nét chữ cô giáo, tỏ ra chuyên cần, chí thú trong việc học. Cô giáo rất hài lòng.

Bất ngờ có một buổi nọ, một cán bộ từ Hà nội vào Sài gòn, được mời tới thăm một lớp học xóa mù chữ. Ông cán bộ vào lớp, chào cô giáo, chào cả lớp, rồi hỏi:

“Lớp này cũng có cả những bà con ta đã cao tuổi đi học it-ờ cơ à?”
Cô giáo nhỏ nhẹ, đáp:

“Dạ, thưa  ông chú cán bộ, có cả cụ ông tuổi đã 75, 76  xung phong đi học, học siêng năng; không nghỉ một buồi nào cả.”

“Thế ư? Vậy cô giáo cho tôi gặp ông cụ ấy được chứ, cô giáo?”

Cô giáo trẻ đon đả đưa ông cán bộ xuống dãy bàn cuối lớp; đưa tay chỉ vào một ông cụ đang cúi gằm tập viết, nói:

‘Thưa chú, là cụ này ạ “.

Ông cán bộ nhã nhặn chìa tay ra trước mặt ông cụ:
“Chào cụ, cụ đi học có vui không?”

Ông cụ nghe tiếng có người chào hỏi mình; vội buông bút, ngẩng mặt lên … chưa kịp trả lời — thì, ông cán bộ nọ la toáng:

“Ơ kìa, anh Tam Lang ! Có phải đúng là anh Tam Lang không đây?”

Ông cụ ngơ ngác một giây, cũng la lên,

“Kìa, anh Nguyễn công Hoan, phải vậy không?”

“Đúng rồi. Còn anh, sao lại đi học lớp i-tờ? ai bắt anh phải đi học?” — nói rồi, quay sang phía cô giáo — “… Này cô giáo, cô có biết là cô đang dạy ai đây không?  Đây là nhà văn Tam Lang-Vũ đình Chí đấy, tác giả phóng sự ‘Tôi kéo xe’, một tác giả nổi tiếng trong văn đàn tiền chiến; cớ sao ông cụ lại phải đi học i- tờ, thế này ?”

Cô giáo đứng sững như trời trồng, xanh mặt, há hốc miệng, trố mắt kinh ngạc, không biết trả lời sao –[thì], cụ già kia đã cười khì, đỡ lời cô giáo:
‘Thì … ngày xưa mình học ‘cái chữ’… xưa quá rồi; nay Cách mạng về, mình đi học lại ‘cái chữ mới’ xem có cái gì mới lạ không? Nếu lỡ có khác nhau chỗ nào, thì mình còn kịp ‘cập nhật hóa’ đặng mà còn viết lách với người ta nữa chứ.”

Cô giáo lúc bấy giờ mới hoàn hồn, từ tốn thưa:

“Trước đây, khi học Văn khoa Sàigòn; cháu đã học tác phẩm ‘Tôi kéo xe’ của cụ rồi, nào ai ngờ … Thôi xin cụ hãy về nghỉ cho khỏe; cũng xin cụ tha lỗi cho cháu ạ.”

Nhà văn [cách mạng] Nguyễn công Hoan, tác giả tiểu thuyết ‘Tấm lòng vàng’  bá vai nhà phóng sự Tam Lang ‘Tôi kéo xe’, đi ra khỏi lớp học giữa sự ngơ ngác của mấy chục đôi mắt nhìn theo.

Họ đi xa rồi mà tiếng cười còn dòn dã vang vọng./.

Hoàng Hương Trang

From: Anh Dang & KimBang Nguyen

Báo chí Việt Nam than bị ‘nền tảng xuyên biên giới lấy cả người và quảng cáo’

10/03/2023

Đài VOA

Một sạp báo ở Hà Nội.

Một sạp báo ở Hà Nội.

Đại diện một cơ quan truyền thông Việt Nam lên tiếng báo động về tình trạng bị các nền tảng xuyên biên giới như Facebook, YouTube, Netflix và TikTok “lấy cả người và quảng cáo của báo chí” trong nước.

Nhận định được ông Nguyễn Đức Quang, Phó Trưởng Ban Tổ chức – Đào tạo HTV, đưa ra tại Diễn đàn Kinh tế Báo chí 2023 mới đây, khi ông cho rằng các nền tảng xuyên biên giới trên, với tiềm lực tài chính hùng hậu, không chỉ thu hút lượng người dùng mà còn làm ảnh hưởng đến doanh thu quảng cáo của báo chí Việt Nam.

Một số tờ báo cho biết doanh thu đã bị giảm 60-70%. Tình trạng sụt giảm quảng cáo cộng thêm chi phí sản xuất chương trình tăng lên khiến nhiều cơ quan báo chí Việt nam thời gian qua gặp nhiều khó khăn về tài chính.

Theo ông Quang, một trong những thách thức lớn là các cơ quan báo chí phải thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền chính trị, phổ biến các chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước mà vẫn phải đảm bảo nguồn kinh phí hoạt động thường xuyên.

Điều này có nghĩa là các cơ quan báo chí phải cạnh tranh với các nền tảng kỹ thuật số và trả chi phí sản xuất cao hơn để có sản phẩm tốt cho độc giả. Ngoài ra, họ còn phải phân bổ thu nhập cho các chương trình tuyên truyền. Đây được xem là một “nhiệm vụ khó khăn” đối với các cơ quan báo chí Việt Nam trong thời điểm này.

Trong khi đó, các nền tảng xuyên biên giới nước ngoài có nguồn lực tài chính mạnh mẽ, lại không bị rang buộc những nội dung trên, nên có thể dễ dàng thu hút người dùng.

Tại Diễn đàn, các đại diện truyền thông Việt Nam cũng phàn nàn rằng trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, Bộ Truyền thông và Thông tin đã có các quy định hướng dẫn định mức về sản xuất chương trình, nhưng trong thời gian qua, về cơ chế, việc hỗ trợ cơ quan báo chí thực hiện nhiệm vụ chính trị, tuyên truyền chưa đủ mạnh và nguồn lực tài chính cho hoạt động của cơ quan báo chí ngày càng giảm sút.

Ngoài ra, các cơ quan truyền thông Việt Nam cũng cho rằng họ gặp nhiều trở ngại về vấn đề biên chế, phải tuân theo nhiều quy định pháp luật vốn chưa bắt kịp với xu thế phát triển, dẫn đến không có sự đầu tư hợp lý để sản xuất nội dung và trả lương cho người làm, dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám.

Theo thống kê của Ban Tuyên giáo Trung ương, tính đến cuối năm 2020, Việt Nam có khoảng 779 cơ quan báo chí, trong đó có 142 báo, 612 tạp chí, 25 cơ quan báo chí điện tử độc lập.

Chính phủ Việt Nam trong thời gian gần đây đã gia tăng các biện pháp kiểm tra, xử phạt các cơ quan báo chí vì lo ngại tình trạng mà chính phủ gọi là “báo hóa” tạp chí và “tư nhân hoá” báo chí, theo Reuters.

Việt Nam cho đến nay không cho phép tư nhân được làm báo, nhưng Luật Báo chí sửa đổi năm 2016 cho phép các cơ quan báo có liên quan đến các đơn vị trực thuộc các thành phần kinh tế đủ năng lực được phép hoạt động. Đây được cho là kẽ hở dẫn đến tình trạng “tư nhân hoá” báo chí và “báo hóa” tạp chí, theo nhận định của Bộ Thông tin & Truyền thông.

Thử gọi đúng tên đảng cộng sản ở Hà nội – Nguyễn thị Cỏ May

Nguyễn thị Cỏ May

Nhơn ngày 3/2 kỷ niệm 93 năm tuổi đảng cộng sản ở Hà nội, để gọi đúng  tên cái đảng đang cai trị nước Việt nam là thứ đảng gì, về bản chất, và cả về hành động, Cỏ May tôi xin nhắc lại một giai thoại trong truyện «Xe lên, xe xuống» (Nguyễn Bình Phương, Diển Đàn Thế kỷ, Huê kỳ xuất bản tháng 12-2011) : « Có lần Trùm thổ phỉ Chu Chồ Sền bảo với Chu Văn Tấn Chúng mày vì nghèo khổ mà đi làm cách mạng. Chúng tao vì nghèo khổ mà đi ăn cướp. Thế là chúng mình giống nhau”.

Tướng Chu văn Tấn trả lời bảo không giống nhưng không nói tại sao không giống. Và không giống ở điểm nào ?

Có lẽ trong lúc đó, Tướng Chu văn Tấn nghĩ «Chúng nó nghèo mà đi ăn cướp. Còn mình, thiệt tình cũng đói, mà đi làm cộng sản. Nhưng chúng nó đi ăn cướp vì nghèo là chúng nó nói thiệt. Chúng nó nói thật lòng. Còn mình cũng đi ăn cướp nhưng lại nói đi làm cách mạng, thì làm sao mà gióng nhau với chúng nó được?».

Vậy đảng cộng sản ngày nay ở Việt nam, về bản chất, về thiên chức, đúng là đảng ăn cướp ! Nhưng nó bắt đầu từ lúc nào ? Ai là đảng trưởng sáng lập ?

Lê-nin, đảng trưởng sáng lập

Truyền thống của cộng sản, từ ngày gọi là Cách mạng Tháng 10 ỏ Nga, là cướp chánh quyền, không hề và ở đâu, do toàn dân tín nhiệm đưa lên nắm chánh quyền hết cả. Và người cướp chánh quyền đầu tiên để mở ra thời đại cộng sản gieo tai ương, tang tóc cho nhơn loại, là Lê-nin ở Mạc-tư-khoa (Moscou).

Lúc bấy giờ, Lê-nin tính toán đã có cách mạng Pháp, cách mạng Đức, thì nay phải là cách mạng Nga. Cách mạng Nga sẽ triệt để hơn hết. Nhưng ông phải có lý thuyết. Tchenychevski là người đầu tiên đem chủ nghĩa cộng sản vào Nga qua cuốn tiểu thuyết « Làm gì ? » (1864) mà Lê-nin mê say và sau này, ông lấy nguyên tựa sách làm tựa cho tập sách của ông, cũng « Làm gì ? ».

Tiếp theo, Lê-nin bắt được quyển «Gìáo lý của người cách mạng» (1871) của Serge Netchaïev. Ông đắm mình trong quyển thánh kinh của người làm cách mạng nhà nghề giúp ông nhuần nhuyễn những nguyên tắc căn bản như người làm cách mạng là phải «sẳn sàng giết và chết» và «những người lãnh đạo cách mạng nga phải là những tướng cướp ».

Lê-nin và Staline là hai người kế tiếp nhau lãnh đạo nước Nga đều được đào tạo bởi tư tưởng của Tchemychevski và Netchaìev. Lê-nin là người suy nghĩ ra những phương pháp thiết lập một chế độ độc tài toàn trị. Ông là người lập thuyết của chế độ cộng sản nga còn Staline vốn xuất thân trong giới lục lâm, nhờ có thành tích thổ phỉ, được Lê-nin tuyển chọn. Staline thực thi lý thuyết cai trị của Lê-nin. Và hai người trở thành một cặp «Lê-nin-Staline » lập ra chế độ cộng sản đầu tìên và lần lược cộng sản hóa gần phân nửa thế giới.

Tìến hành cướp chánh quyền dân chủ xã hội của chánh phủ Alexandre Kerensky, Lê-nin quả quyết « giai cấp tư sản chấm dứt chu kỳ của nó, bây giờ phải là lúc giai cấp vô sản bắt đầu. Cũng rất hợp lý ». Bắt được Karl Marx, Engels, Lê-nin nhin thấy viển ảnh thế giới theo bước đi của Marx phát họa bằng óc tưởng tượng phong phú của ông, một người chưa từng tiếp cận thực tế. Theo đó, khi giai cấp vô sản tìến lên thay thế giai cấp tư sản thì không có gì hơn phải làm là tiến hành giai cấp đấu tranh. Lý thuyết này đã làm mê hoặc Lê-nin vì nó đáp ứng hoàn toàn bộ óc tôn thờ lý luận của ông. Nhưng thực hiện đấu tranh giai cấp, để lực lượng dân chủ còn xót lại không phá hỏng được, thì cách mạng phải có chánh nghĩa. Vậy Lê-nin phải trở lại với Marx, học lý thuyết, tuy không đạo đức, nhưng nó lại rất «khoa học», nó sẽ giúp bảo vệ tính chính thống cách mạng bằng cách «thanh toán trước nhứt tất cả lực lượng chống đối, sau đó, tới những người cùng làm cách mạng nhưng có thể sẽ là đối thủ bất lợi, với tội danh phản cách mạng».

Nhưng «Cách mạng tháng 10» thật sự có phải là cách mạng hay không?

Theo sử gia pháp chuyên về cộng sản, ông Stéphane Courtois, (Le livre noir du communisme, Robert Laffont, Paris, 1997- Sách đen của cộng sản), thì đó thật sự hoàn toàn không phải là «cách mạng» đúng nghĩa của nó hoặc cuộc nổi dậy của « quần chúng », như người cộng sản rêu rao. « Cách mạng tháng 10 » chỉ là một vụ « binh biến » do lối ngàn quân nhơn nổi loạn và Hồng vệ binh chống lại chánh quyền dân chủ lâm thời đang trên đà suy thoái, gây tổn thất không tới năm người thiệt mạng ỏ Pétrograd. Lại cũng không thể nói đó là một cuộc đảo chánh.

Và đây là vụ biến động thứ ba. Vụ thứ nhứt xảy ra ngày 15/3 dẩn đền nhà vua thoái vị, có thể gọi là cách mạng. Vụ thứ hai nghiêm trọng hơn, đưa quân đội đánh Đức, thất bại, làm cho hằng ngàn binh sĩ đào ngũ với cả võ khí Vụ thứ ba phức tạp hơn nên bị lợi dụng. Alexandre Kerenski, lãnh đạo chánh phủ lâm thời, giải nhiệm Tướng Kornilov vì thấy Kornilov đang tính ổn định lại tình hình. Hạ Kornilov vì Kerenski bị ám ảnh bởi Napoléon của cách mạng pháp nên sợ sẽ phải đối đầu với Kornilov. Nhưng khi hạ được Tướng Kornilov, Kerenski đã vô tình tách rời chánh phủ khỏi quân đội. Thấy mình bổng ở thế cô đơn, ông vội ngã theo bolchevick tìm chỗ dựa. Nhiều đảng viên bolchevick vừa được ông mở cửa nhà tù thả ra, trang bị 40 000 khẩu súng và cả cho phép nhà in tái hoạt động. Ông không biết làm như vậy không khác gì mình đang dấn thân vào con đường tự sát.

Xã hội lâm vào tình trạng khủng hoảng, lương thực thiếu do vận chuyển bế tắc, cải cách nông nghiệp thất bại. Lợi dụng tình hình khủng hoảng, lực lượng bolchevick bắt đầu tấn công. Lê-nin ra lệnh chiếm mau các cơ cấu chánh quyền, tuy bolchevick hảy còn thiểu số. Thế là Quốc hội Lập hiến vừa mới bầu, nền dân xã hôi non nớt thành hình sau bảy thập niên quân chủ chuyên chế kết thúc, nhường chổ cho một chế độ mới, độc tài.

Nắm được chánh quyền, Lê-nin rất hài lòng «Thật không ngờ cướp chánh quyền còn dễ dàng hơn trở bàn tay!».

Và đây là bài học dạy Hồ Chí Minh làm cách mạng mùa Thu ở Hà nội năm 1945.

Thành tích ăn cướp của Staline, « con người không bao giờ sai lầm » của HCM

Staline tâm niệm «quá khứ phải giủ sạch trơn». Khi nắm quyền ở Điện Cảm-linh (Kremlin), điều làm Staline lo sợ hơn hết là quá khứ của mình sẽ bị khai quật. Hồ Chí Minh học kỷ sư phụ Staline ở điểm này.

Khi Đoàn Thanh niên cộng sản, năm 1938, đệ nạp cho Staline một tập suu tầm về đời tư của Staline, ông hét lên và bảo hảy đem đốt ngay. Mười năm sau, khi công bố tiểu sử chánh thức, Staline tự viết lại hai mươi năm tuổi trẻ của ông chỉ với vỏn vẹn bốn mươi hàng.

Thật vậy, về tuổi trẻ của ông lúc đương quyền, rất khó tìm được những điều có thể tin được. Như về cha mẹ, ngày sanh, thơ từ cá nhơn, học bạ, …Nhưng sau thời Liên-xô, người ta có được tài liệu về Staline khá nhiều. Có thể tham khảo được. Những thứ bị xếp là bí mật thì ngày nay đươc phơi bày. Nhà suu tầm người Anh Simon Sebag Montefiore đã đi khắp 9 nước và 23 thành phố của khối cựu Liên-xô để điều tra về Staline. Ông tới Géorgie nơi cậu bé Iossif Djougachvili ra đời ngày 6 / 12 / 1878 (không phải 1879 như chánh thức ghi – Hồ Chí Minh chọn ngày sanh là 19/5/1890 và giử suốt đời). Tại Tbilissi, Staline học ở chủng viện, say mê thơ, tới Bakou xứ Azerbaidjan, Staline làm việc cho nhà máy Rothschild vừa «tập sự làm Cách mạng». .

Trong những chuyến đi này, sử gia Montefiore thâu thập được khá nhiều thông tin chưa hề tiết lộ về Staline. Ông cũng có dịp gặp vài nhơn chứng của thời Staline, nay còn sống sót và minh mẩn như bà chị dâu của Staline 109 tuổi. Nhờ sự khám phá này mà Montefiore đã phát họa được một Staline thời trẻ đầy đủ nhứt cho tới nay.

Con của một thợ giày say rượu (giống cha của Hồ Chí Minh), với biệt danh thông dụng là «Besso khùng», cho tới năm 1917, tên Sosso trở thành Staline. Bị đuổi khỏi chủng viện vì mê những chuyện tình dục, nhưng trong tiểu sử chánh thức, bị đuổi học vì tuyên truyền cách mạng (giống Nguyễn Sinh Sắc say ruọu và hun ác), Staline đi làm cho Đài Khí tượng của Tdilissi. Nhưng việc đi làm chỉ là bề ngoài để che dấu một con người thiệt vốn là một «trùm mafia». Chuyên môn của Staline là trấn lột, tống tiền, hàng nháy, bắt cóc. Ông có tay phụ tá đắc lực là Kamo luôn luôn sẳn sáng chém giết theo lệnh Staline. Mỗi lần bị tù hay bị đày qua Sibérie, Staline đều vượt ngục, nhờ cộng tác với mật vụ của Nga hoàng. Và cũng nhờ có hơn bốn mươi tên khác nhau, và nhứt là tài cải trang, giả làm phụ nữ mặc áo dài, đội tóc giả (HCM bịt râu, hóa trang, đi dự khán vụ hành quyết bà Năm, va ông cũng có hơn 200 tên khác nhau).

Tài ba đó đã không tránh khỏi sự chú ý của Lê-nin. Năm 1905, Lê-nin gặp Staline lần đầu. Đảng cộng sản đang cần tiền và Lê–nin thấy ngay con người mà đảng đang cần, đúng là Staline.

Lê-nin kết nạp ngay Staline và cú ngoạn mục, nổi tiếng khắp thế giới lúc bấy giờ là vụ Staline đánh cườp ngân hàng Nhà nước ở Tbilissi tháng 6-1907, làm nhiều người thiệt mạng nhưng hốt được một vố lớn tương đương 3 triệu euros ngày nay. Đó là lúc Staline được 28 tuổi (Le Jeune STaline de Simon Sebag Montefiore. Traduit de l’anglais par Jean-François Sené. Calmann-Lévy, 506 p., bản dịch, Calmann-Lévy, Paris).

Hồ Chí Minh, đệ tử chơn truyền của Staline

Hồ Chí Minh học Lê-nin làm cách mạng cướp chánh quyền nhưng chỉ cướp chánh quyền ở Thủ tướng Trần Trọng Kim trong tình trạng thực dân bị Nhựt đảo chánh, Đồng Minh chưa tới, Pháp cũng chưa trở lại. Nên nhớ đây là sự thật của Việt nam lúc đó. Và Việt nam lúc đó đã hoàn toàn độc lập trên thực tế và cả trên pháp lý quốc tế và thống nhứt do Hoàng Đế Bảo Đại đã nhận chánh quyền từ tay Nhựt và tuyên bố « Việt-nam độc lập », hủy bỏ tất cả các Hiệp ước bất bình đẳng với Pháp.

Giờ đây, thử nhìn lại coi đảng cộng sản do Hồ Chí Minh thành lập có phải là đúng đảng ăn cướp không ?

Sau 30-04-1975, trong một buổi cán bộ đảng viên học tập nghị quyết cải tạo Miền nam, Đỗ Mười, Trưởng ban, chủ trì lớp học tập, giải nghĩa rỏ cho cán bộ «Cải tạo tư sản, thực chất là ta cướp đoạt tất cả của cải, tài sản cũa dân tư sản miền nam, … » (Lời Ai điếu, Lê Phú Khải, 2017). Nhưng « Cải cách ruộng đất ở Miền Bắc » từ năm 1953, cũng nhơn danh làm cách mạng, là vụ ăn cướp sạch tài sản của nông dân.

Từ sau đó cho tới nay, dân miền nam lần lượt bị đảng cướp sạch, trở thành dân oan, không nhà không cửa, không của cải, sống vật vờ, lang thang khắp nơi ngay trên quê hương của chính mình. Những vụ nổi cộm còn đang nóng hổi tính thời sự là vụ Thủ thiêm và vụ Lộc Hưng mà hai tên cướp không ai khác hơn là 2 tên đầu xỏ đảng, Lê Thanh Hải và Nguyễn Thiện Nhân. Rồi vụ Đồng Tâm, chương trình huy hoạch đất đai,. ..

Nhưng đây cũng chỉ là sự nghiệp liên tục của đảng mà một trường hợp điển hình năm 1930 đáng nhắc lại như một dẩn chứng đảng cộng sản của Hồ Chí Minh lập ra là để ăn cướp.

Ngày 9 tháng 11 năm 1930, Việt nam Cộng sản đảng, viết thư tống tiền một ông Phủ, đòi 5000 đồng để trao đổi với mạng sống của đứa con trai nạn nhơn do đảng bắt cóc để đòi chuộc tiền (Vy Thanh, Ho Chi Minh, a documentary study, California 7/2019, p.250-253)***.

Bộ mặt thật của đảng cộng sản đang cai trị Việt nam đúng là đảng ăn cướp. Không thể gọi cách gì khác hơn được. Và Hồ Chí Minh cũng như Lê-nin, Staline, là đảng trưởng sáng lập. Nhơn dân, ở đâu, thời nào, vẫn là nạn nhơn của thứ đảng cách mạng ăn cướp này. Nhưng ăn cướp nghiêm trọng hơn hết, cũng  như Lê-nin, là Hồ Chí Minh ăn cướp sự thật lịch sử. Toàn dân việt nam tham gia kháng  chiến đánh thực dân pháp là để giành độc lập cho Việt nam chớ không phải để theo cộng sản. Sau năm 1954, Hồ Chí Minh thiết lập chế độ cộng sản là ăn cướp lòng yêu nước tinh ròng của nhơn dân. Dưới chế độ của Hồ Chí Minh cho tới ngày nay, người dân bị đảng cộng sản ăn cướp quyền sống của toàn dân. Cụ thể là quyền làm một con người.

Giải pháp sòng phẳng cho Việt nam ngày nay là trước hết đảng cộng sản trả lại cho toàn dân tài sản của họ là  nền độc lập dân tộc chính do họ giành được bằng  xương  máu của họ. Xong, đảng cộng sản hảy trở về với vị trí thiệt của mình là đảng ăn cướp.

Có như vậy đảng cộng sản ở Hà nội mới khả dĩ phục hồi lại danh dự của mình để được xếp ngang hàng xứng đáng với đảng của Chu Chồ Sển !

Nguyễn thị Cỏ May

(3/2/2023)

Trầm cảm, dìm chết 2 con trên sông, bà ở Nam Định bị bắt

Báo Nguoi-viet

March 9, 2023

NAM ĐỊNH, Việt Nam (NV) – Bà VTN, 32 tuổi, ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, vừa bị bắt với cáo buộc dìm chết hai con gái ruột 1 và 5 tuổi của mình xuống sông Ninh Cơ.

Theo báo Thanh Niên hôm 8 Tháng Ba, các nhân chứng sống gần khúc sông Ninh Cơ đoạn qua huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, cho biết khi phát giác sự việc, họ chạy đến đưa hai nạn nhân vào cấp cứu tại trạm y tế xã Nghĩa Sơn gần đó, nhưng hai cháu bé đã chết.

Sự việc xảy ra tại khúc sông Ninh Cơ đoạn qua huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. (Hình: Người Lao Động)

Ông Trần Ánh Dương, chủ tịch xã Nghĩa Sơn, được dẫn lời: “Bà N. từng là giáo viên dạy tiểu học, nghỉ dạy từ cuối năm 2022, có chồng làm ở công ty viễn thông. Tôi hỏi ‘tại sao lại dìm chết con?’ Bà ấy nói sợ sau này chúng lớn lên sẽ dễ mắc các tệ nạn xã hội.”

Công An tỉnh Nam Định đang điều tra vụ án.

Liên quan vụ việc, báo Kinh Tế và Đô Thị dẫn lời gia đình của bà N. cho biết, bà này “có dấu hiệu trầm cảm” nên đã xin nghỉ việc.

Bản tin cũng dẫn bình luận của Luật Sư Nguyễn Anh Thơm: “Trường hợp kết quả giám định xác định, người mẹ [bà VTN] bị mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi trước, trong và sau khi phạm tội thì cơ quan điều tra sẽ đình chỉ vụ án. Người mẹ sẽ phải bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.”

Trước vụ này, cứ vài tháng, các báo ở Việt Nam lại ghi nhận một vụ cha, mẹ trầm cảm giết hoặc tự sát cùng con ruột.

Báo Dân Việt hôm 4 Tháng Ba cho hay, bị cáo Nguyễn Văn Mạnh, 36 tuổi, ở tỉnh Thái Bình, vừa bị kết án tám năm tù, do bị cáo buộc dùng dao cứa cổ hai con ruột hồi đầu năm ngoái.

Theo cáo trạng vụ án, hôm 21 Tháng Giêng, 2022, tại nhà trọ, do nghĩ vợ coi thường mình và do vay mượn tiền của nhiều người nhưng việc kinh doanh không thuận lợi, nên bị cáo Mạnh nảy sinh ý định tự sát và giết chết hai đứa con 4 và 5 tuổi.

Sông Ninh Cơ. (Hình: Kinh Tế và Đô Thị)

Bị cáo Mạnh dùng con dao cứa vào cổ hai đứa con. May mắn là những người xung quanh phát giác và đưa hai cháu bé đi cấp cứu kịp thời.

Kết quả giám định hai con của bị cáo Mạnh bị thương với tỉ lệ 2 và 4%, không bị nguy hiểm đến tính mạng.

Trong vụ này, bị cáo Mạnh cũng dùng dao tự cứa vào cổ mình nhưng được đưa đi băng bó vết thương.

Kết luận giám định ghi nhận vào thời điểm cứa cổ con mình, bị cáo Nguyễn Văn Mạnh “đang bị bệnh trầm cảm vừa, hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.” (N.H.K) 

Hôm nay đọc TIN VIỆT NAM, chúng ta thấy gì ?

Lmdc Viet Nam

* Lãnh đạo CSVN thối nát khắp nơi, từ trên xuống dưới….

– Nguyên giám đốc Công an Hải Phòng Đỗ Hữu Ca khai có nhận chạy án 35 tỷ đồng = 1,4 triệu dollars US

– Công an điều tra sai phạm tại Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng

Số tiền “thụt két” trong vụ tham ô tại Trường Đại học Bách Khoa Đà Nẵng là 136 tỷ đồng = 5732 345 Dollar ( hơn năm triệu dollar US )

– Quảng Ngãi: mười gói thầu y tế có dấu hiệu thổi giá được chuyển cho Công an.

– Hàng chục lãnh đạo, cựu lãnh đạo ba tỉnh Thanh Hóa, Nam Định, Bình Dương bị kỷ luật vì tham nhũng đợt dịch COVID-19.

– Giám đốc Trung tâm Tài chính công Hà Tĩnh bị bắt vì sai phạm liên quan trang thiết bị giáo dục.

* Ngày nào cũng toàn các tin tham nhũng, tham ô, gây thất thoát ngân quỹ quốc gia tần ấy, thì đừng hỏi tại sao “dân thì khổ”, mà “các bác lãnh đạo CSVN thì giàu sụ…

TL RFA

RSF: Phạm Đoan Trang là một trong 73 nhà báo nữ phải đón 8/3 sau song sắt nhà tù

RFA

2023.03.08

Nhà báo Phạm Đoan Trang

ICJ

Nhà báo độc lập/nhà hoạt động Phạm Đoan Trang thuộc số 73 nữ phóng viên phải đón ngày 8/3 trong nhà tù. Tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) công bố như vừa nêu vào ngày 8/3/2023.

Thông cáo báo chí của RSF nêu rõ, tại Việt Nam tù nhân lương tâm Phạm Đoan Trang, người từng được tổ chức này trao giải Tác Động năm 2019, bị chuyển đến nhà tù cách gia đình bà chừng 1.000 km về phía nam. Đây là biện pháp của Chính phủ Hà Nội nhằm ém nhẹm tất cả mọi thông tin về tình hình sức khỏe của bà trong tù mà được nói nghiêm trọng.

Bà Phạm Đoan Trang được RSF đưa vào nhóm tù nhân nữ đang phải đối mặt với tình trạng ngược đãi, bị tước đoạt quyền được chăm sóc y tế, và đối mặt cái chết từ từ trong nơi giam cầm.

Hiện bà Phạm Đoan Trang đang phải thụ án chín năm tù tại trại giam An Phước, tỉnh Bình Dương theo cáo buộc “tuyên truyền chống Nhà nước”.

Vào tháng 10 năm ngoái, vợ của tù nhân lương tâm Nguyễn Tường Thụy, sau chuyến thăm chồng đến Trại An Phước về, cũng chia sẻ một số thông tin có được về Phạm Đoan Trang. Đó là sức khỏe của bà Trang không được ổn, chân sưng phù khi ra gặp gia đình phải có xe của trại chở ra.

Tù nhân lương tâm Phạm Đoan Trang, 45 tuổi, từng là phóng viên cộng tác cho một số tờ báo Nhà nước Việt Nam. Sau nghỉ làm việc tại các cơ quan này, bà trở thành nhà báo tự do, tham gia hoạt động cổ xúy cho quyền tự do ngôn luận. Bà là tác giả của một số cuốn sách như “Chính trị bình dân”, “Cẩm nang nuôi tù”, “Phản kháng phi bạo lực”. Bà cũng tham gia thực hiệm một số báo cáo song ngữ Việt-Anh về các vụ việc, trong đó có báo cáo về vụ mấy ngàn cảnh sát cơ động và lực lượng chức năng tấn công vào làng Đồng Tâm hồi tháng 1/2020.

Bà Phạm Đoan Trang đã được trao tặng nhiều giải thưởng quốc tế, trong đó có Giải Người Phụ nữ Can đảm 2022 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, giải Tự do Truyền thông (Media Freedom 2022) của hai chính phủ Anh và Canada, giải Homo Homini năm 2017 của People In Need (Cộng hoà Séc), Giải thưởng Tác Động năm 2019 của Phóng viên Không Biên giới (RFS), Giải thưởng Martin Ennals năm 2022, và giải Tự do Báo chí Quốc tế 2022 của Ủy ban Bảo vệ Ký giả (CPJ).

Nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế như Giám sát Nhân quyền (HRW), Ân xá Quốc tế (AI), Uỷ ban Bảo vệ Ký giả (CPJ), và Văn bút Hoa Kỳ (PEN America) đã kêu gọi Việt Nam trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho bà Trang.

Xấu hổ với đề xuất của trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh Hà Nội

Báo Tiếng Dân

Chu Mộng Long

6-3-2023

Bằng cấp là thang đo trình độ học vấn trong hệ thống giáo dục và đào tạo hiện đại. Sau bằng tốt nghiệp phổ thông, người học chuyên sâu một lĩnh vực học thuật, sẽ được cấp bằng cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ. Lưu ý, khái niệm “học thuật” chỉ toàn bộ những giá trị được học tập, nghiên cứu và khám phá trong một chuyên môn nào đó như thần học, toán học, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn…

Danh hiệu là tên gọi được phong tặng cho cá nhân hoặc tập thể có thành tích trong bất cứ hoạt động nào, không chỉ là hoạt động giáo dục, y tế, nghệ thuật… mà có thể cho một anh nông dân, anh chăn bò, chăn vịt, thậm chí quét rác, moi ống cống… Danh hiệu không liên quan đến học thuật.

Quan hệ giữa Tiến sĩ và Nghệ sĩ nhân dân được hình dung như sau:

Tiến sĩ là văn bằng ghi nhận một trình độ học thuật, còn gọi là học vị, do hệ thống giáo dục và đào tạo cấp. Có thể anh ta nghiên cứu về Sân khấu, Điện ảnh, tức giá trị học thuật. Còn danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú hay Nghệ sĩ nhân dân do Nhà nước phong tặng cá nhân có thành tích trong sáng tác hoặc biểu diễn. Danh hiệu này không liên quan đến hệ thống giáo dục và đào tạo, vì Nhà nước có thể cấp cho một anh hề chèo, một người hát xẩm, một nghệ nhân dân gian. Anh hề chèo, người hát xẩm hay nghệ nhân dân gian ấy có thể mù chữ.

Tiến sĩ phải có một luận án khoa học được Hội đồng khoa học đánh giá đạt chuẩn học thuật. Luật giáo dục đại học Việt Nam cũng quy định vậy, ai dám sửa hay xé luật?

Nay Trường Đại học sân khấu – điện ảnh Hà Nội đề xuất danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân tương đương với Tiến sĩ, khác nào đặt ngang hàng đứa mù chữ với người có trình độ học thuật? Chứng tỏ cả đội ngũ của trường này không có chút hiểu biết tối thiểu. Xấu hổ chết đi được!

Cách mạng trí thức hóa đứa không cần học đấy ư?

Lỗi nằm ở gốc của cuộc cách mạng đó thật. Chế Lan Viên từng tự hào khi viết: “Những kẻ quê mùa cũng thành trí thức”. Và đã đến lúc trí thức hóa tuốt!

Gốc thế này. Đúng tên phải là Trường Sân khấu – Điện ảnh, cũng như Trường Múa, Trường Âm nhạc, Trường Dạy võ, Trường Viết văn Nguyễn Du… Nôm na, đó là các “trường nghề”. Thay vì truyền nghề trong dân gian thì nhà nước mở trường lớp cho, đơn giản vậy. Những trường này chuyên đào tạo nghệ sĩ hoạt động trong lĩnh vực sáng tác và biểu diễn.

Còn khi gắn vào đó chữ “đại học” mà vẫn đào tạo nghệ sĩ chứ không phải đào tạo chuyên gia nghiên cứu với tư cách là trình độ học thuật về các lĩnh vực nghệ thuật này thì cái đứa nghĩ ra sự chuyển đổi này ắt có cái đầu củ chuối. Kẻ nào đã nghĩ ra sự đánh lận này? Khai mau!

Gốc là một sự đánh lận từ cách gọi tên trường. Cho nên bây giờ mới có chuyện cái trường mang tên “Đại học” ở đất thổ đu đòi đánh đồng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân với Tiến sĩ!

Thảo nào lâu nay nghe danh xưng Tiến sĩ Thả diều, Tiến sĩ Cầu lông, Tiến sĩ Cải lương, Tiến sĩ Chèo… thấy ngồ ngộ!

Thật là mạt vận cho giáo dục và đào tạo Việt Nam! Thảo nào ngài Bộ trưởng Bộ 4T nổ: “Ta đi trên con đường mà thế giới không thể bắt chước được!” Đi trên đường tiến hóa chứ chạy ngược thành tha hóa thì chỉ có heo mới thèm bắt chước!

Hàng ngàn ca sĩ, hàng ngàn anh hề mấy chục năm qua được trao danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân có lẽ đang ăn mừng, vì sau một đêm không cần học tập – nghiên cứu gì, bỗng trở thành Tiến sĩ! Nay mai một bà mẹ Việt Nam anh hùng, một anh chăn bò như Hồ Giáo hay một lao công dọn rác được trao Huân chương lao động, cũng đòi quy đổi thành Tiến sĩ?

CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ: CÓ LẼ BẠN CHƯA BIẾT?

Henry Ng

CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ: CÓ LẼ BẠN CHƯA BIẾT?

Có đến 90% khả năng là bạn chưa biết gì về câu chuyện lịch sử này. Bởi vì…những bậc trí thức, học giả, những nhà nghiên cứu và giảng dạy lịch sử ở VN cũng không biết khi trả lời câu hỏi:

“Trước thế kỷ 20, cuộc xâm lược cuối cùng của Trung Quốc vào Việt Nam là cuộc xâm lược nào? Trong sự kiện ấy, ai là tổng chỉ huy của quân đội Trung Quốc? Ai là người đánh bại đội quân xâm lược đó?

Hầu hết người được hỏi đều trả lời: Đó là cuộc xâm lược của Mãn Thanh thời Hoàng đế Càn Long vào năm 1789, chỉ huy đội quân xâm lược là Tôn Sỹ Nghị, người đánh bại đội quân xâm lược đó là Hoàng đế Quang Trung.

Chỉ có một học giả duy nhất trả lời đúng: Cuộc xâm lược cuối cùng là vào thế kỷ 19, thời Từ Hy thái hậu của Mãn Thanh, chỉ huy đội quân xâm lược là Phùng Tử Tài, còn người đánh bại cuộc xâm lược đó của Trung Quốc là… thực dân Pháp.

Tại sao hầu hết những người am tường sách vở ở Việt Nam mà tôi có dịp được hỏi lại hoàn toàn không nhớ gì về cuộc xâm lược trong thế kỷ 19 này của Trung Quốc?

Vì nó hoàn toàn bị xoá khỏi lịch sử. Nó không được dạy trong chương trình sử ở cả bậc đại học lẫn trung học.

Cuối thế kỷ 19, Việt Nam đối diện với hai siêu cường, Pháp và Mãn Thanh, một bên đến từ phương Tây, mang theo nền văn minh của chủ nghĩa tư bản, một bên là thiên triều ngàn năm vẫn đang chìm đắm trong ảo giác mình là trung tâm của thế giới.

Ngay sau khi Pháp lấy Nam Kỳ, Mãn Thanh cũng lập kế hoạch đánh chiếm miền Bắc.

Mãn Thanh quyết tâm đánh chiếm Bắc Kỳ vì Việt Nam đã suy yếu, và nhằm bảo vệ mô hình thiên triều – chư hầu ngàn năm. Pháp thì quyết lấy nốt phần còn lại. Hai bên tất yếu bước vào một cuộc đụng đầu lịch sử, dần dần đi đến chỗ đánh nhau ác liệt ngay trên lãnh thổ Việt Nam, qua một loạt trận đánh như Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Hóa, Tuyên Quang năm 1883.

Mãn Thanh đã quyết tâm đến mức dốc tổng lực đánh bại Pháp trên đất liền, chiếm toàn bộ vùng trung du phía Bắc, áp sát khu vực đồng bằng sông Hồng. Thủ tướng Pháp phải từ chức. Nhưng quân Pháp lật ngược thế cờ bằng cách mở ra chiến trường trên biển, đánh chiếm đảo Đài Loan và huỷ diệt Bắc Dương hạm đội của Mãn Thanh ở Phúc Châu.

Mãn Thanh ban đầu thấy chỉ khả thi khi đặt mục tiêu giữ lại vùng Bắc Kỳ, nhưng khi phải ký vào Hiệp ước Thiên Tân 1885, Mãn Thanh buộc chấp nhận mất toàn bộ chư hầu Việt Nam.

Hiệp ước Thiên Tân 1885 giữa Pháp và Mãn Thanh đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử cho cả Mãn Thanh và Việt Nam.

Nếu như việc phải nhượng địa Hong Kong cho nước Anh chỉ khiến Mãn Thanh thức tỉnh về khả năng kỹ thuật của phương Tây nhưng vẫn giữ vững niềm tin vào hệ thống thiên triều – chư hầu, thì đến khi mất chư hầu Việt Nam vào tay Pháp, ý thức hệ và cấu trúc thiên triều – chư hầu của họ bị đánh tận gốc rễ.

Việc Mãn Thanh không thể giữ Việt Nam trong cấu trúc thiên triều – chư hầu đã khiến Nhật Bản, lúc này đã trở thành một cường quốc, quyết định giành lấy một chư hầu khác của Mãn Thanh là Triều Tiên. Mãn Thanh tiếp tục mất Triều Tiên trong cuộc chiến Nhật Thanh 10 năm sau đó.

Từ đó, việc cấu trúc và ý thức hệ thiên triều – chư hầu bị sụp đổ toàn diện trong thế kỷ 19 trở thành một trong những nội dung chủ yếu của ý niệm “thế kỷ ô nhục” trong chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa hiện đại.

Còn ở Việt Nam, do cuộc chiến Pháp – Thanh ảnh hưởng quá lớn đến số phận Việt Nam, nên dù xoá cuộc chiến này khỏi sách giáo khoa sử cho học sinh phổ thông, ngày nay, các sử gia ở Hà Nội vẫn phải dạy học sinh về một số điều liên quan đến cuộc chiến ấy: đội quân Cờ Đen của tướng Mãn Thanh là Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Thiên Tân 1885.

Đó là sự kiện không thể không dạy. Quân đội Lưu Vĩnh Phúc của Mãn Thanh đã lập hai chiến công là giết hai chỉ huy của Pháp trong hai trận ở Cầu Giấy, còn Hiệp ước Pháp – Thanh 1885 thì mở ra trang sử mới của Việt Nam.

Nhưng, nói về Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Pháp – Thanh mà lại không nói gì về cuộc chiến tranh quyết định quyền kiểm soát Việt Nam của hai nước Pháp – Thanh này, các sử gia của chúng ta đã cho học sinh phổ thông học một bức tranh lịch sử cận đại theo kiểu… Pháp xâm lược Việt Nam, rồi đột nhiên Mãn Thanh xuất hiện ký một hiệp ước quyết định số phận chúng ta.

Lưu Vĩnh Phúc vốn là quân Thái Bình Thiên Quốc, bị triều đình Mãn Thanh đánh bại, chạy sang Việt Nam làm thổ phỉ, gây ra vô số tội ác cho dân chúng. Triều đình Huế không thể đánh dẹp, phải nhờ Mãn Thanh đánh giúp. Nhưng khi triều đình Mãn Thanh cử quân đội vào Việt Nam để đụng đầu với Pháp, quân đội triều đình Mãn Thanh đã thâu nạp luôn đội quân thổ phỉ Lưu Vĩnh Phúc, ban cho phẩm hàm triều đình, thay vì tiêu diệt nó.

Sách giáo khoa sử lớp 7 hiện nay ở Việt Nam dùng khái niệm “quân ta” để gọi Lưu Vĩnh Phúc. Lối giáo dục này bắt đầu từ hơn 70 năm trước, khi sử gia Trần Văn Giàu và Trần Huy Liệu ở Hà Nội bắt đầu xây dựng bức tranh “lịch sử cận đại”. Lưu Vĩnh Phúc có tờ Hịch kêu gọi binh lính của mình đánh Pháp, trong đó, đoạn đầu tiên, ông nói rõ mục đích của cuộc chiến: “Việt Nam là chư hầu của Mãn Thanh, nay Pháp sang chiếm mất chư hầu của ta, ta và Pháp là kẻ thù không đội trời chung”.

Sử gia Trần Văn Giàu làm gì khi trích dẫn bài Hịch này vào bộ sử “Bắc kỳ kháng Pháp”? Ông cắt bỏ đoạn mở đầu thể hiện rõ ý thức hệ và mục đích chiến tranh của họ Lưu đó đi. Nhờ thế, sử gia họ Trần dễ dàng gắn huân chương “tình hữu nghị chiến đấu của hai dân tộc Việt Trung” cho Lưu Vĩnh Phúc.

Xoá bỏ cuộc xâm lược của Mãn Thanh và cuộc chiến Pháp-Thanh vào thế kỷ 19, các sử gia miền Bắc xây dựng thế kỷ 19 theo mô hình phân đôi: một bên là thực dân Pháp xâm lược, nhà Nguyễn hèn nhát hàng giặc, một bên là “dân tộc” anh hùng kháng chiến chống ngoại xâm.

Trên cái nền bức tranh phân đôi con người làm hai tuyến, bên trái là “xâm lược phương Tây” và bên phải là “nhân dân anh hùng”, người ta lần lượt điêu khắc các nhân vật lịch sử sao cho “ăn khớp” với bức tranh ấy: Alexandre de Rhodes dĩ nhiên thuộc bên trái bức tranh, phong trào văn thân (vốn không có ý niệm về lòng ái quốc mà chỉ chống người theo đạo Thiên chúa để bảo vệ hệ thống phong kiến nơi họ có thể tìm thấy vị trí xã hội của mình) được xếp vào bên phải.

Vẽ bức tranh thế kỷ 19 theo cách ấy, các sử gia của Viện Sử học ở Hà Nội từ thập niên 1950 dễ dàng tiếp tục vẽ bức tranh của giai đoạn tiếp theo như cách chúng ta thấy trong các giáo trình “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam” ngày nay: “nhân dân” tuy anh hùng nhưng không có đường lối đấu tranh đúng đắn, liên tục thất bại cho đến khi Đảng Cộng sản ra đời, mang về Việt Nam vũ khí tối tân là con đường cách mạng vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân vật trung tâm của bức tranh. Lịch sử quốc gia thế kỷ 20 được đồng nhất với lịch sử Đảng.

Cách học ấy bắt đầu từ giữa thập niên 1950, đến nay đã kéo dài khoảng 4 thế hệ.

Trần Trọng Kim, người cha của sử học hiện đại Việt Nam, 1883-1953

Cuộc chiến Pháp -Thanh và sự thất bại của Việt Nam khi bị kẹt giữa hai siêu cường ấy đã được sử gia hiện đại đầu tiên của Việt Nam, Trần Trọng Kim, phân tích kỹ lưỡng trong “Việt Nam sử lược”, bộ sách giáo khoa lịch sử đầu tiên của nước Việt Nam, xuất bản vào 1919-1920. Cuốn sách này đã bị cấm ở miền Bắc sau 1954 và toàn quốc sau 1975. Nếu chấp nhận phục hồi ký ức về cuộc xâm lược của Mãn Thanh và cuộc chiến Pháp-Thanh thế kỷ 19, chúng ta sẽ phải chấp nhận bức tranh thế kỷ ấy như người cha của nền sử học Việt Nam đã khắc họa một cách khách quan: Đó là thế kỷ mà Việt Nam bị mắc kẹt vào hai gọng kìm Pháp-Thanh, bị giằng xé giữa hai mô hình “chư hầu của thiên triều phương Bắc” và “thuộc địa của thực dân phương Tây”, bị buộc phải lựa chọn giữa hai con đường “Tây phương hoá” hay “tiếp tục nằm trong vòng ảnh hưởng của vùng văn hoá chữ Hán”.

Điều đó có nghĩa là bức tranh lịch sử từ đầu thế kỷ 20 cũng cần được vẽ lại toàn bộ. Trong bức tranh này, vị trí của các lực lựợng chính trị, các phong trào xã hội, các vấn đề thuộc phạm vi tinh thần như lịch sử tư tưởng, văn hoá, văn học nghệ thuật… cũng sẽ được tái định vị một cách căn bản.

Năm 1987, sử gia Nhật Bản Tsuboi Yoshiharu xuất bản “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa”, phân tích thế kỷ 19, trọng tâm là thời Tự Đức, như là thời đại Việt Nam mắc kẹt giữa hai siêu cường. Cuốn sách được các học giả Nguyễn Đình Đầu, Bùi Trân Phượng, Tăng Văn Hỷ, Vũ Văn Kính dịch ra tiếng Việt và Trần Văn Giàu là người viết lời giới thiệu. Trần Văn Giàu đã đánh giá cách tiếp cận của Tsuboi là “mới mẻ” mà “quên” mất rằng, cách hiểu ấy về thế kỷ 19 đã ra đời ngay từ đầu thế kỷ 20, trước sử gia Nhật Bản ấy đến bảy thập niên, trong “Việt Nam sử lược”, cuốn sách mà chính các sử gia kiêm chính trị gia ở Hà Nội đã cấm đoán từ thập niên 1950 để độc quyền một cách kể chuyện lịch sử duy nhất.

Nhận thức về lịch sử (trả lời câu hỏi “chúng ta đến đây từ đâu và như thế nào?”) và lựa chọn chính trị (trả lời câu hỏi “chúng ta làm gì bây giờ?”) chỉ là hai mặt của một tờ giấy. Hiểu theo cách đó, như ta thấy qua câu chuyện phản đối đặt tên đường cho Alexandre de Rhodes nói trên, những lựa chọn của người Việt Nam hôm nay vẫn chìm đắm trong một màn sương mù của tư duy được đình hình từ giữa thế kỷ trước bởi Ban nghiên cứu Văn Sử Địa.

Lãng quên bài học thất bại khi đối diện yêu cầu lịch sử phải lựa chọn giữa Pháp – Thanh với tư cách là hai mô hình, hai thế giới, Việt Nam ngày nay tiếp tục đối diện câu hỏi ấy một lần nữa.

(Nguồn: Khôi Nguyễn, Đại học Oregon).

Dung Tran

KieuHuong

Có phải Phó Tổng Thanh tra Chính phủ Trần Văn Minh chết vì đột quỵ?

Báo Tiếng Dân

Phạm Vũ Hiệp

5-3-2023

Trưa ngày 4-3-2023, đồng loạt các báo quốc doanh đưa tin, ông Trần Văn Minh, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ, bị đột quỵ và tử vong.

Theo báo cáo của bác sĩ Lê Cao Phương Duy, Phó giám đốc Bệnh viện Nguyễn Tri Phương ở thành Hồ, cho biết, lúc 6h30 sáng 4-3-2023, nhận được tin báo từ gia đình, đơn vị cho xe đến nhà đưa ông Trần Văn Minh trong tình trạng “ngưng tim, ngưng thở” vào viện. Các bác sĩ nỗ lực cứu chữa ông Minh trong 3 giờ nhưng không thành công. Hồ sơ bệnh án tại bệnh viện ghi rõ “ngưng tim, ngưng thở” trước khi vào viện.

Chân dung Trần Văn Minh, Phó tổng Thanh tra Chính phủ. Nguồn: Báo Thanh tra

Thăng tiến và bê bối

Trần Văn Minh sinh năm 1967, quê xã Tịnh An, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Ông thi rớt đại học, sau đó học chuyên tu, lên tới học vị Tiến sĩ Kinh tế.

Năm 2007, Trần Văn Minh là Thanh tra viên của Thanh tra Chính phủ (TTCP) được Tổng TTCP Trần Văn Truyền bổ nhiệm chức Trưởng phòng Theo dõi chống tham nhũng. Đây là “phòng ma” vì không có trong biên chế, không có nhân viên.

Năm 2008, Trần Văn Minh được bổ nhiệm chức Phó Cục trưởng Cục Giải quyết khiếu nại tố cáo và thanh tra khu vực 3 – thuộc Thanh tra Chính phủ. Cũng thời gian này, Trần Văn Truyền cho “xoá sổ” Phòng Theo dõi Chống tham nhũng.

Ngày 14-7-2010, Trần Văn Minh được Trần Văn Truyền bổ nhiệm giữ chức “Hàm” Cục trưởng Cục 3. Điều lạ lùng là, thời điểm này Cục 3 đang có ông Võ Văn Đồng làm Cục trưởng. Ông Minh tráng men chức “Hàm” Cục trưởng được đúng 7 ngày thì vọt lên chức khác.

Ngày 21-7-2010, Tổng TTCP Trần Văn Truyền ký quyết định điều động Trần Văn Minh sang công tác tại Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Tại đây, ông Minh giữ chức Vụ trưởng Vụ Đơn thư – Tiếp đảng viên và công dân.

Trong “phi vụ”này, nội bộ đồn đoán rằng ông Truyền “ăn rất dày” để bán chức cho ông Minh. Bất bình trước vấn nạn chạy chức chạy quyền công khai của cặp Trần Văn Truyền – Trần Văn Minh, ông Lê Văn Tỵ, (tên thường gọi Năm Tỵ), hàm Phó Cục trưởng Cục Giải quyết khiếu nại, tố cáo và Thanh tra khu vực 3, đã gởi rất nhiều đơn Tố cáo đến Uỷ ban Kiểm tra Trung ươmg và Ban Tổ chức Trung ương, nhưng sự việc chìm xuồng.

Ngày 14-1-2019, chán nản và mất niềm tin, ông Lê Văn Tỵ làm đơn gởi cho Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, xin ra khỏi đảng. Năm Tỵ là sĩ quan công an cấp tá, từng được Mai Chí Thọ, cựu Bộ Trưởng Bộ Công an, tin tưởng giao cho nhiều nhiệm vụ đặc biệt. Sau vụ án Năm Cam, ông Tỵ được biệt phái sang Thanh tra Chính phủ.

Tháng 3-2014, Trần Văn Minh nằm trong danh sách 44 cán bộ được Bộ Chính trị luân chuyển, điều động về công tác tại các địa phương. Ông Minh được bổ nhiệm giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi.

Từ trái qua: Võ Văn Thưởng (lúc đó giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi), Trần Văn Minh (tân Phó bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi năm 2014) và Trần Văn Minh, Phó Ban Tổ chức Trung ương (cựu Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng). Ảnh: Báo TN

Tháng 1-2019, ông Trần Văn Minh được Thủ tướng bổ nhiệm làm Phó tổng thanh tra Chính phủ. Ông Minh được giao nhiệm vụ giúp Tổng Thanh tra Chính phủ chỉ đạo thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo khối văn hóa, xã hội; công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo khu vực 2 (gồm 18 tỉnh miền Trung – Tây Nguyên). Ông Minh cũng trực tiếp phụ trách Vụ III, Cục II, Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra, Trường cán bộ Thanh tra. Xem ra, quyền lực và bỗng lộc đến với ông Minh ngút trời.

Ảnh: Phó Thủ tướng Trương Hoà Bình trao QĐ bổ nhiệm Phó Tổng TTCP cho Trần Văn Minh ngày 23-1-2019. Nguồn: VPG

Treo cổ tự tử

Thông tin nội bộ cho hay, ông Trần Văn Minh đã treo cổ tự tử tại nhà riêng vào rạng sáng ngày 4-3-2023. Gia đình phát hiện nên cắt dây, hô hấp nhân tạo và gọi điện thoại cho bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Khi xe cấp cứu đến nơi, bác sĩ xác định ông Minh đã chết, trạng thái “ngưng tim, ngưng thở”, nhưng chìu theo ý gia đình, vẫn đưa vào bệnh viện để “còn nước, còn tát”.

Hiện nay cơ quan điều tra công an đang vào cuộc, theo hướng bịt miệng và dẫn dắt dư luận đi theo thông tin chính thống của đảng, là ông Trần Văn Minh tử vong do đột quỵ vì bệnh lý.

Tuy nhiên, thông tin rò rỉ cho hay, ông Minh đã nhận hàng chục tỷ đồng từ Tập đoàn Vạn Thịnh Phát và các quan chức tại các tỉnh thành. Vụ việc đang bị các cơ quan nội chính của đảng soi kỹ, nên ông Minh bị dồn đến đường cùng. Ông Trần Văn Minh cùng với ông Nguyễn Văn Hùng, đều là nhóm theo phe cựu chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc.

Trước đó, chiều ngày 21-11-2022, tại trụ sở Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, ông Nguyễn Văn Hùng, Ủy viên Trung ương Đảng khoá XIII, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, cũng đã nhảy lầu và tử vong tại chỗ. Cái chết của ông Hùng cũng được cho là bị các đồng chí của ông ta bức tử, vì liên đới đến tập đoàn Vạn Thịnh Phát.

Những năm gần đây, quan chức cấp cao của đảng và nhà nước đã thể hiện sự “dũng cảm và kiên trung” của họ. Khi bị thanh trừng vì bê bối tham nhũng, nguy cơ dẫn đến mất chức, mất quyền hoặc bị truy tố, các đảng viên cộng sản chọn cách đi về địa phủ theo Mác – Lê Nin, để không phải bị điều tra, truy tố, đối diện với án tù nhiều năm, lại còn mất sạch của cải. Họ chọn cái chết, vừa giữ được “thanh danh”, vừa giữ được của cải, để lại cho vợ, con.

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Dương Tường

Dương Tường

Tưởng Năng Tiến

Tôi có cái thói hễ thấy người sang là bắt quàng làm họ. Nhưng riêng chuyện tôi cũng (muốn) là bạn của ông Dương Tường thì không hẳn thế. Ông ấy (rõ ràng) trông dáng bộ cũng bệ rạc y như tôi thôi, chứ có sang trọng quái gì đâu. Theo như lời bè bạn:

Một lần Dương Tường đưa nhóm hoạ sĩ 5 người (Gang of Five) từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh mở triển lãm. Nguyễn Quân mời tất cả tới khách sạn chiêu đãi. Dương Tường đi xích lô, tay cầm tờ Vietnam News cẩn thận, bước vào khách sạn. Người gác cửa khách sạn to lớn, mặc sắc phục nắm chặt vai anh, đẩy ra vỉa hè: “Không được bán báo ở trong ấy! Đi ra ngoài kia mà bán!”

Một ngày giáp tết, nghe mấy họa sĩ trẻ rủ rê, Dương Tường đi chợ hoa với họ. Vào chợ, họ tản mát khắp nơi để chọn bằng được một cành hoa đào ưng ý. Lơ ngơ một mình giữa chợ, Tường mua đại một cành đào, vác ra ngoài cổng chợ đứng chờ. Đang cầm cành hoa mới mua, xo ro trong mưa dầm gió bấc, bỗng một bàn tay nắm lấy vai anh, đẩy vào trong chợ: “Không được bán hoa ở đây! Mang vào trong chợ mà bán!” Đó là người bảo vệ chợ. (Bùi Ngọc Tấn. “Tôi Là Bạn Của Ông Dương Tường”. Viết Về Bè Bạn. Hải Phòng: Nhã Nam, 2003).

Vẫn cứ theo như lời Bùi Ngọc Tấn thì Dương Tường nhỏ người. Đã là dân Việt mà lại nhỏ con thì phải hiểu là… nhỏ lắm. Tôi áng chừng ông ấy cao khoảng một thước năm mươi lăm đổ lại, và nặng cỡ bốn mươi lăm ký là hết sức.

Tôi thì khác. Tôi cao đến một thước tám mươi, và nặng gấp rưỡi Dương Tường. Chỉ có điều đáng tiếc là cái vóc dáng “cao cả” này đã không khiến cho tôi trông cao sang, và quí phái hơn ông ấy được bao nhiêu, nếu không muốn nói là ngược lại.

Tôi cũng thường bị “trông lầm” (nhiều lần) chỉ vì trông không được ngon lành, hay bảnh bao gì cho lắm. Mới hôm qua chứ đâu, tôi ngồi cú rũ (một đống) trên mấy bậc thềm – trước khu thương xá Phước Lộc Thọ – ở phố Bolsa. Tôi hay bị buồn (ngang) khi ngày sắp tắt, nhất là vào những buổi chiều tàn, ở California. Màu nắng vàng hanh, hay đỏ rực của ráng chiều, dễ làm cho kẻ tha hương chạnh lòng nghĩ về chốn cũ: “Chiều nay gửi đến quê xưa, bao là thương là nhớ cho vừa… ”

Tôi cứ ngồi hát nho nhỏ, chỉ đủ cho chính mình nghe như thế, mà thấy nẫu cả lòng. Hẳn là trông tôi phải thê thảm lắm nên có một bà đồng hương đi qua, đã cúi xuống, kín đáo dúi cho tôi một tờ giấy bạc. Cầm thì kỳ mà không cầm cũng kẹt nên tôi cầm (đại) và miệng lí nhí nói cảm ơn mà mặt đỏ bừng!

Cũng theo lời kể của Bùi Ngọc Tấn, vào những năm đầu thập niên 60, Dương Tường phải sinh sống bằng nghề… bán máu. Ông Tấn đã hơi bi thảm hoá vấn đề, khiến nhiều người nghe muốn rơi nước mắt, chứ ở đất nước tôi mà có máu để bán, và có người mua, lại không phải qua cò (vì ông Tường vốn quen biết lớn) thì sung sướng và hạnh phúc lắm rồi, còn than van gì nữa?

Sau 1975, đất nước thống nhất, “Nam/Bắc hoà lời ca”, tôi ca (hơi) trật nhịp nên bị túm đi học tập một thời gian. Ra khỏi trại tù, tôi sống lang thang vất vưởng ở nhiều nơi, trước khi trôi giạt về Rạch Giá. Thành phố này, vào mùa mưa, hay có những ngày biển động. Trời thấp, ẩm, lạnh, mây xám màu chì. Lòng buồn, bụng đói, dạ hoang mang, tôi bước đi không thấy phố, không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Tôi hay loanh quanh trong chợ Nhà Lồng của Rạch Giá, mắt láo liên nhìn quanh những bàn ăn, chỉ chờ thực khách buông đũa là nhào vào húp vội phần ăn còn lại. Chao ơi, giá lúc ấy mà có máu để bán và có người mua thì đỡ (khổ) biết chừng nào?

Những cảnh đời (không may) mà Dương Tường trải qua, tôi cũng đều đã nếm. Đồng cảnh tương lân. Kiếp sống lao đao của ông ấy khiến tôi sinh lòng ái ngại nên (thoáng) có ý muốn làm bạn cho vui, thế thôi.

Nhưng cuộc đời của Dương Tường không chỉ khốn khổ và khốn nạn như thế. Nó tệ hơn thế, đôi khi. Ông ấy còn bị bạn bè xa lánh, “bị công an thẩm vấn nhiều lần, mỗi bước đi đều bị giám sát chặt chẽ.” Cũng có những khi Dương Tường được ưu ái cho đi nước này nước nọ. “Anh được Cộng đồng Pháp ngữ mời sang Pháp. Anh sang Đức trong ‘Festival Gặp Việt Nam của Đức’”. (Bùi Ngọc Tấn, sđd. Tr. 42).

Lúc nào thì Dương Tường cũng nằng nặc… đứng về phe nước mắt, như ông đã tuyên bố như vậy, qua thơ. Ngày 28 tháng 5 năm 2004, tại viện Goethe, khi giới thiệu buổi đọc văn của một bạn đồng nghiệp, ông phát biểu:

Những gì chảy ra từ ngòi bút Bùi Ngọc Tấn khiến tôi nghĩ đến quan điểm của Albert Camus về nhà văn và nghề văn được bày tỏ trong diễn từ nhận giải Nobel Văn học tại Stockholm (Thụy Điển) ngày 10/12/1957: Theo định nghĩa, nhà văn giờ đây không thể phụng sự những người làm ra lịch sử, anh ta phục vụ những kẻ cam chịu lịch sử. Nếu không, anh ta sẽ cô đơn và mất nghệ thuật của mình. Tất cả những đạo quân của bạo cường với hàng triệu người cũng sẽ không cứu nổi anh ta ra khỏi sự cô đơn, ngay cả và nhất là nếu anh ta thuận tình đi đều bước với họ. Nhưng sự im lặng của một người tù không quen biết ở tận cùng thế giới, bị bỏ mặc trong nhục nhằn, cũng đủ kéo nhà văn ra khỏi trạng thái lưu đày ấy mỗi khi, giữa những đặc quyền đặc lợi của tự do, anh ta có thể vượt lên để không quên sự im lặng đó và làm cho nó vang lên bằng những phương tiện của nghệ thuật.

Nếu tính từ lúc Nguyễn Mạnh Tường đọc tham luận, góp ý với Đảng CSVN, trước phiên họp của Mặt Trận Tổ Quốc (vào ngày 30 tháng 10 năm 1956, rồi bị vùi dập cho đến chết) thì mãi đến nửa thế kỷ sau, người ta mới lại được nghe tiếng nói dõng dạc và thẳng thắn như thế, của luơng tri, qua miệng Dương Tường, giữa lòng Hà Nội.

Tôi trộm nghĩ (rất có thể) là Dương Tường đã tạo nền cho những bài tham luận nẩy lửa trước thềm Đại Hội Nhà Văn Việt Nam lần thứ VII. Sau nhiều năm nín lặng, những người cầm bút Việt Nam đã cùng lên tiếng (nói một cách “chẻ hoe” và “trắng phớ”) về hoàn cảnh tồi tệ và nghiệt ngã mà chế độ đã dành cho họ. Nếu những suy đoán chủ quan của tôi mà không trật thì Dương Tường (rõ ràng) quá bảnh. Ông ấy chỉ có cái dáng ngoài bệ rạc (như tôi) thôi chứ tư cách thì ngon lành hết biết. Tôi mới đụng chuyện với Đảng và Nhà nước CS đâu có vài năm (lẻ) đã ù té bỏ chạy, và chạy luôn tới bữa nay, tuyệt nhiên không dám quay đầu nhìn lại. Còn Dương Tường, và những kẻ đồng hội đồng thuyền, theo lời của Phạm Xuân Nguyên:

 Đã gánh cây thập ác đi trọn đường trần ai của mình.
Không vứt xuống
Không chạy trốn.
Không ngã gục.
Không dừng bước
Và dẫu không là Chúa, các ông đã được phục sinh
.

– Tưởng Năng Tiến

Chủ tịch nước mới của Việt Nam đưa tổng bí thư Trọng đến gần chế độ độc tài

Theo Nikkei Châu Á

TOMOYA ONISHI, biên tập viên

03/03/2023 02:55 JST

Tân Chủ tịch nước Việt Nam Võ Văn Trường, trái, là đồng minh thân cận của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng, phải. © TTXVN/Kyodo

HÀ NỘI –– Việc lựa chọn một đồng minh thân cận của Nguyễn Phú Trọng làm chủ tịch nước tiếp theo của Việt Nam càng củng cố quyền lực của tổng bí thư Đảng Cộng sản, làm dấy lên lo ngại về sự kiểm soát chặt chẽ hơn của đảng đối với nền kinh tế.

Tân Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, người giữ chức Bí thư Trung ương Đảng khóa thứ 5 từ năm 2021, nằm trong số những người có tuổi thọ cao trong đảng trong bối cảnh chiến dịch chống tham nhũng do ông Trọng đứng đầu đã hạ bệ các quan chức hàng đầu.

Chiến dịch chống tham nhũng của Trọng

Chiến dịch Đốt Lò, chống tham nhũng đã được so sánh với chiến dịch của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, người đã sử dụng một cuộc đàn áp tương tự để loại bỏ các đối thủ tiềm tàng khỏi hàng ngũ cấp cao nhất của đảng.

Trọng, người đứng đầu phe bảo thủ tập trung vào học thuyết của Đảng Cộng sản, “dường như đang củng cố quyền lực của mình bằng cách lật đổ các quan chức cấp cao được coi là thân phương Tây hơn và ủng hộ doanh nghiệp”, một phân tích của BBC cho biết.

Không còn sự quân bình trong đối ngoại ở Việt Nam

Mặc dù Việt Nam từ lâu đã gần gũi với Trung Quốc với tư cách là một quốc gia xã hội chủ nghĩa độc đảng, nhưng Việt Nam cũng đã củng cố mối quan hệ với phương Tây sau khi áp dụng nền kinh tế thị trường vào cuối những năm 1980. Hà Nội không có “thân Mỹ” rõ ràng hoặc phe “thân Trung Quốc”, nhưng các quan chức có thâm niên trong đảng thường nghiêng về phía Bắc Kinh trong khi những người có thời gian làm việc lâu hơn trong chính phủ lại có xu hướng hướng về phương Tây.

Trong những năm gần đây, sự lãnh đạo tập thể của chủ tịch nước, thủ tướng, chủ tịch quốc hội và tổng bí thư đã tạo ra sự cân bằng giữa hai bên. Mặc dù ông Trọng đã đến thăm Trung Quốc vào tháng 10, Chủ tịch nước tiền nhiệm Nguyễn Xuân Phúc đã thực hiện nhiều chuyến công du tới Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản để xây dựng mối quan hệ ở đó.

Nhiều quan chức bị lật đổ trong chiến dịch chống tham nhũng thuộc phe thân phương Tây. Điều đó bao gồm cả bản thân Phúc, người đã bị buộc thôi việc vào tháng Giêng. Phó Thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh và Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, những người đã có nhiều năm cầm quyền, cũng bị cách chức.

Các lựa chọn khác được xem xét ngoài chức vụ chủ tịch nước là lựa chọn để ông Trọng tự mình đảm nhận chức vụ tổng bí thư, hoặc đề bạt Bộ trưởng Công an Tô Lâm, người đã lãnh đạo chiến dịch chống tham nhũng. Các vấn đề về tuổi tác và sức khỏe của Trọng khiến lựa chọn này trở nên khó khăn, nhưng việc chọn một đồng minh thân cận sẽ giúp đảm bảo cho kế hoạch và mong muốn của ông được thực hiện (một cách trọn vẹn hơn).

Trọng ngã về phía Trung Quốc

Một số nhà quan sát nhận thấy Trọng đang rút ra từ vở kịch mà Tập đã sử dụng để củng cố chế độ độc tôn của mình ở Trung Quốc. Hai nhà lãnh đạo đã thể hiện mối quan hệ nồng ấm của họ bằng nụ cười và cái ôm trong cuộc gặp vào tháng 10, ngay sau khi ông Tập đắc cử nhiệm kỳ thứ ba.

Trung Quốc là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam và các công ty Trung Quốc đã tăng cường đầu tư vào đây. Bất chấp tình cảm chống Bắc Kinh sâu sắc trong công chúng Việt Nam, một phần do tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, các nước láng giềng đã không có xích mích ngoại giao lớn trong vài năm qua. Trọng có thể đưa Hà Nội xích lại gần Bắc Kinh hơn khi ông tập trung củng cố đảng.

Một số lo ngại rằng một Đảng Cộng sản mạnh hơn có thể thắt chặt kiểm soát nền kinh tế, cản trở những nỗ lực dưới thời Phúc nhằm mở cửa hơn nữa và khiến tăng trưởng gặp rủi ro.

Ảnh hưởng đến các mối quan hệ với phương Tây

Với xu hướng “friendshoring” của Hoa Kỳ – chuyển chuỗi cung ứng sang các nước đồng minh hoặc thân thiện – Việt Nam đã thu hút sự chú ý với tư cách là một trung tâm sản xuất của Đông Nam Á và các công ty như Intel đã tăng cường đầu tư. Việc Hà Nội nghiêng về phía Bắc Kinh nhiều hơn có thể buộc các đối tác phải suy nghĩ lại về những kế hoạch này.

Chính phủ Việt Nam và Đảng Cộng sản dường như sẵn sàng tiếp tục đàn áp các nhà lãnh đạo không chỉ của các doanh nghiệp nhà nước, mà cả các doanh nghiệp tư nhân, khiến các công ty nước ngoài có đối tác địa phương thêm đáng lo ngại. Các giám đốc điều hành hàng đầu của tập đoàn tập trung vào bất động sản Tập đoàn FLC và nhà phát triển Tập đoàn Vạn Thịnh Phát đã bị bắt vì tội lừa đảo vào năm ngoái.

Phan Sinh Trần 

Vì dân, do dân là vậy sao?-Đỗ Duy Ngọc

Báo Tiếng Dân

Đỗ Duy Ngọc

Theo các báo, Bệnh viện Chợ Rẫy có thể tạm ngưng hoạt động và có nguy cơ đóng cửa. Bệnh viện hiện gặp nhiều khó khăn trong việc mua sắm trang thiết bị, vật tư y tế, hóa chất, máy móc hư hỏng không thể sửa chữa buộc phải chuyển bệnh nhân đến cơ sở khác.

Bệnh viện Chợ Rẫy được xây dựng và hoạt động từ năm 1900 và từ 1971 đến tháng 6.1974, Bệnh viện Chợ Rẫy được tái xây dựng do chính phủ Nhật Bản tài trợ trên diện tích 53.000 m2, với tòa nhà 11 tầng, trở thành một trong những bệnh viện lớn nhất Đông Nam Á lúc bấy giờ.

Theo báo cáo của BV, số người bệnh nội trú trung bình/ngày là 2.544 người, người bệnh ngoại trú khám bệnh trung bình 3.500 người/ngày. Giờ đây, BV có nguy cơ đóng cửa, số bịnh nhân khổng lồ đó sẽ đi về đâu. Được biết, lý do từ chuyện đấu thầu và những quy định, cơ chế bất hợp lý nên BV không đủ hóa chất để xác định chẩn đoán và không đủ vật tư y tế tiêu hao để điều trị cho người bệnh nếu tiếp tục chờ 3 báo giá.

Ảnh chụp màn hình

Nếu BV ngưng hoạt động hay đóng cửa, các BV công khác trên cả nước cũng có nguy cơ đóng cửa đồng loạt vì cũng chịu những quy chế như thế. Nền y tế Việt Nam rồi sẽ đi về đâu? Hàng trăm ngàn bịnh nhân hàng ngày đành chờ chết hay sao? Những người lãnh đạo Bộ Y tế cũng như chính phủ phải chịu trách nhiệm chuyện này. Phải nhanh chóng, cấp bách có biện pháp sớm nhất để cứu dân. Viện Pasteur và các phòng xét nghiệm của nhà nước lâu nay cũng đã đóng cửa, người dân đành chấp nhận vào BV tư để xét nghiệm, chấp nhận giá cao. Giờ lại đến các bệnh viện.

Nếu các quan chức y tế không đủ khả năng để lãnh đạo và điều hành, đề nghị các vị từ chức ngay đi để người dân được sống. Ngay từ những năm tháng chiến tranh và khó khăn về kinh tế cũng không bao giờ có hiện tượng này. Thuốc men, máy móc, sinh phẩm y tế không thiếu. Các công ty dược phẩm, hoá chất y tế đổ xô vào thị trường Việt Nam, không thể gọi là không có hàng cung cấp được. Chẳng qua lâm vào bế tắc này là do những người đang điều hành, do những chính sách bất hợp lý. Bác sĩ không có thuốc men, BV không có hoá chất, sinh phẩm cũng như người lính ra trận mà không có vũ khí. Họ sẽ chiến đấu bằng cái gì?

Không thể để các BV đóng cửa, cũng như không thể để người dân phải chết vì bịnh mà không được chữa. Các người còn có lương tâm không? Các người còn có trách nhiệm không? Hay đồng tiền đã che mất rồi. Lương tâm đã bị chó tha mất rồi? Chỉ tội cho người dân nghèo, è cổ đóng thuế mà không được hưởng một chút gì của an sinh xã hội, lâm bịnh cũng không có BV để chữa trị. Vì dân, do dân là vậy sao?

27/02/2023