Nước khoáng ở Tân Sơn Nhất lấy từ… toa lét?

Nước khoáng ở Tân Sơn Nhất lấy từ… toa lét?
July 22, 2014

Nguoi-viet.com
SÀI GÒN (NV) Sáng ngày 21 tháng 7, 2014, xuất hiện trên mạng hình chụp một nhân viên chuyền nước từ vòi ở phòng vệ sinh nam vào bình nước khoáng tinh khiết, tại phi trường Tân Sơn Nhất.

Tấm hình được một hành khách chụp được, sau đó tung lên mạng, đã gây chấn động dư luận. Nhiều người phẫn nộ cho rằng, Công Ty Dịch Vụ tại Tân Sơn Nhất làm ăn tắc trách khi cho một nam nhân viên, làm việc tại khu vực quốc nội của phi trường, chuyền nước từ vòi trong nhà vệ sinh nam vào bình nước khoáng.


Ảnh chụp nhân viên Dịch Vụ Sân Bay Tân Sơn Nhất chuyền nước vào bình nước khoáng từ vòi trong phòng vệ sinh nam của phi trường. (Hình: báo Zing)

Cách đó chưa đầy một tuần lễ, đáp ứng lời kêu gọi của Cục Hàng Không Việt Nam, đại diện Cảng Hàng Không Tân Sơn Nhất khoe sẽ lắp ngay hai trụ cung cấp nước uống miễn phí cho hành khách ra, vào phi trường Tân Sơn Nhất. Báo Dân Trí dẫn lời đại diện Cảng Hàng Không Tân Sơn Nhất cho biết, hai trụ nước uống sẽ được đặt tại khu vực cách ly của nhà ga quốc tế và quốc nội để phục vụ hành khách đến và đi từ sân bay.

Ðây là một trong một số biện pháp được cho là “cải cách” để phục vụ hành khách của Cảng Hàng Không Tân Sơn Nhất. Biện pháp được áp dụng đồng thời với sự kiện này là việc giảm giá thức ăn, nước uống giải khát bán tại các cửa hàng ở Tân Sơn Nhất kể từ ngày 15 tháng 7, 2014.

Một bức ảnh khác còn cho thấy có 5 bình nước khoáng đã được đong đầy, đặt trên xe đẩy có lẽ chờ mang ra ngoài lắp vào trụ cung cấp nước uống miễn phí của sân bay.

Theo báo mạng Tri Thức, một cán bộ đại diện trung tâm thương mại dịch vụ SASCO của sân bay xác nhận, bức ảnh trên chụp được hôm 21 tháng 7 tại nhà vệ sinh nam của nhà ga quốc nội. Tuy nhiên, ông này biện minh rằng, nhân viên của ông lấy nước đựng trong bình nước khoáng, mang đến khu vực đang sửa chữa nhà ga quốc nội để… rửa sàn, chứ không phải để dùng làm nước uống cho khách hàng tại sân bay. Ông này cho hay, đã chỉ thị nhân viên của công ty dùng sô để đựng nước lau rửa sàn, thay vì đựng trong bình nước khoáng, để tránh bị hiểu lầm.

Lời giải thích nói trên của cán bộ có trách nhiệm thực hiện các dịch vụ phục vụ khách hàng tại Tân Sơn Nhất càng làm dư luận hoang mang, vì không mấy người tin đó là sự thật.

Trước đó, người dân phản đối mạnh khiến một số công ty đã phải giảm khoảng 15% giá một số món ăn, thức uống bán tại khu vực cách ly của phi trường Tân Sơn Nhất, trong đó có SASCO. Giá một tô phở từ 65,000 đồng, tương đương 3 đô la, giảm xuống còn 55,000 đồng, tương đương 2.2 đô la, cho phù hợp với túi tiền của phần đông khách hàng Việt Nam. (PL)

 

Chuyện cảnh sát giao thông và người dân

Chuyện cảnh sát giao thông và người dân

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2014-07-21

07212014-traffic-poli-n-peop.mp3

Cảnh sát giao thông, bạn dân. Ảnh minh họa

Cảnh sát giao thông, bạn dân. Ảnh minh họa

Photo soha.vn

Với một quốc gia bất kì và bình thường nào nhất, cảnh sát là lực lượng bảo an của nhân dân và là biểu tượng về an ninh của xã hội, đặc biệt, lực lượng cảnh sát giao thông luôn là tiêu điểm để hướng đến một trật tự chung nhằm duy trì an toàn trong lưu thông.

Nhưng, ở Việt Nam, trong thời Cộng sản xã hội chủ nghĩa, lực lượng cảnh sát nói chung và cảnh sát giao thông nói riêng chưa bao giờ nắm giữ đúng vai trò và chức năng này. Với người dân, lực lượng cảnh sát giao thông luôn là nỗi ám ảnh và khi bóng áo vàng xuất hiện trên đường, sự rối loạn cũng xuất hiện đồng thời.

Người dân luôn lo sợ bởi cảnh sát

Một cư dân quận 7, Sài Gòn, tên Phúc, chia sẻ: Không riêng gì cảnh sát giao thông mà mọi thứ công cụ cảnh sát khác đều khiến dân sợ hãi hết. Dân họ cúi đầu lặng lẽ sống để được yên ổn. Trong cách sống người Việt Nam mình vậy thôi, người ta khinh bỉ và sợ hãi nhưng yên lặng để sống yên ổn. Một khi nó thổi thì không lỗi thì cũng thành có lỗi!

Theo ông Phúc, nếu như những năm trước 1975 ở Sài Gòn, hình ảnh người quân cảnh luôn làm cho người dân yên tâm mỗi khi ra đường. Đặc biệt, nếu gặp cướp, chỉ cần la to hai chữ “quân cảnh” thì nhất định tên cướp có ăn gan trời cũng phải chùng tay trong phút chốc để quan sát. Hoặc nếu lúc đó có quân cảnh ở gần đó thì bằng mọi giá, lực lượng quân cảnh cũng truy lùng cho được tên cướp để đưa về bốt. Còn Sài Gòn những năm sau 1975 thì hoàn toàn khác, mọi sự rối loạn nhen nhóm hình thành và cuối cùng là bùng phát dữ dội.

Hiện tại, nếu ra đường gặp cướp, dù có đang bị cướp ở vị trí rất gần đồn công an thì người dân cũng chỉ bằng mọi giá giữ lấy sinh mạng và tài sản nếu được, chuyện hô to kêu cứu chỉ có giá trị nếu gặp một vài cảnh sát chìm nào đó còn lương tri, họ sẽ truy đuổi, nếu không gặp những cảnh sát chìm như thế, chuyện mất mát là đương nhiên. Mà Sài Gòn hiện tại, lực lượng cảnh sát chìm có mặt trên mọi nẻo đường nhưng họ có mặt không phải để duy trì an ninh cho nhân dân mà là để đề phòng và phát hiện những cuộc biểu tình chống Trung Quốc bành trướng. Chính vì thế, khi có một cuộc biểu tình nhỏ vừa diễn ra thì ngay lập tức có công an bao vây và dập tắt. Số lượng công an chìm nổi nhiều vô kể.

Cảnh sát giao thông trên đường di sản Hà-Nội. RFA

Cảnh sát giao thông trên đường di sản Hà-Nội. RFA

” Không riêng gì cảnh sát giao thông mà mọi thứ công cụ cảnh sát khác đều khiến dân sợ hãi hết. Dân họ cúi đầu lặng lẽ sống để được yên ổn. Trong cách sống người Việt Nam mình vậy thôi, người ta khinh bỉ và sợ hãi nhưng yên lặng để sống yên ổn. Một khi nó thổi thì không lỗi thì cũng thành có lỗi!

Một cư dân quận 7″

Nếu so sánh giữa mức độ kêu cứu khi gặp cướp và mức độ hô hào biểu tình của một nhóm nhỏ, bao giờ mức độ kêu cứu cũng có cường độ âm thanh to và khẩn cấp hơn nhiều. Thế nhưng tiếng kêu cứu bị bỏ ngoài tai công an, cảnh sát nhưng tiếng hô của người biểu tình sẽ được phát hiện ngay tức khắc, thậm chí không hô, chỉ trương khẩu hiệu, biểu ngữ vẫn bị phát hiện như thường. Đó là trường hợp ngành công an nói chung, nếu xét riêng ngành công an giao thông thì mức độ gây sợ của họ đối với người dân còn cao hơn nhiều.

Bất kì con đường nào đang có xe cộ lưu thông một cách bình thường, nhịp nhàng, chỉ cần những áo vàng xuất hiện cộng thêm vài áo xanh của cảnh sát cơ động thì mọi chuyện trở nên phức tạp, người đi đường trở nên bất an, nháo nhào và dáo dác…
Trong một số trường hợp, cảnh sát giao thông chơi trò núp lùm, ngồi trong các bụi cây để bắn tốc độ hoặc ngồi phục kích ở những vị trí khuất tầm mắt, đợi cho các cô nữ chạy xe ngang qua thì nhảy xổ ra thổi còi một phát nghe đinh tai nhức óc và chỉ thẳng gậy vào mặt đối phương, làm cho đối phương bị bất ngờ, khủng hoảng tâm lý trong giây lát và dừng xe, không hiểu chuyện gì. Sau đó là hàng loạt cáo buộc của cảnh sát đối với người đi đường mà nếu người đi đường biết điều nhét cho cảnh sát vài trăm ngàn thì mọi chuyện sẽ êm xuôi, chuyến đi được tiếp diễn.

Và cứ như thế, nạn mãi lộ đối với cảnh sát giao thông trở thành một hoạt động thường nhật ở Việt Nam, nơi nào có cảnh sát giao thông, tất nhiên nơi đó có mãi lộ, việc mãi lộ đã ăn sâu vào tiềm thức và lâu ngày, trở thành một loại văn hóa của dân tộc. Hay nói cách khác, sợ cảnh sát giao thông khi ra đường đã trở thành một loại tâm lý tập thể của người Việt.

” Ai cũng mong được đứng đường. Việc đứng đường của cảnh sát giao thông là một cơ hội ăn nên làm ra, nó cũng giống như một cô gái điếm thì phải ra đường đứng vẫy khách, một công an giao thông phải ra đường, phải chỉ gậy mới có thể kiếm ăn, mới ăn nên làm ra, có của dư của để”

Đầu tư để được đứng đường

Một cựu nhân viên ngành công an giao thông, yêu cầu giấu tên, chia sẻ: Mãi lộ cũng là thứ tham nhũng nhỏ nhỏ thôi chứ gì đâu. Đại khái là thứ tham nhũng nhỏ nhỏ đó nó đã tràn ngập xã hội rồi. Không phải nghĩa là có cảnh sát giao thông lả an toàn mà không có thì không an toàn. Người đi đường mà ý thức thì không có cảnh sát giao thông cũng tốt thôi! Cảnh sát nó núp trong lùm cây nó bắn tốc độ, đâu cần ở xa, ngay ở Sài Gòn, cảnh sát đầy đường đầy sá mà trộm cắp, cướp giật như rươi vậy thôi!

Theo ông này, tuy cảnh sát giao thông phải núp lùm, phải đứng đường và đại đa số là tạo ra hình ảnh xấu trong mắt nhân dân và có thể bị nhân dân phản ứng, đánh đập hoặc đánh đập nhân dân bất kỳ giờ nào nhưng đã là cảnh sát giao thông, ai cũng mong được đứng đường. Việc đứng đường của cảnh sát giao thông là một cơ hội ăn nên làm ra, nó cũng giống như một cô gái điếm thì phải ra đường đứng vẫy khách, một công an giao thông phải ra đường, phải chỉ gậy mới có thể kiếm ăn, mới ăn nên làm ra, có của dư của để.

” Chỉ cần được đứng ở các trạm này, mỗi đêm, thu nhập của mỗi cảnh sát thấp nhất cũng được năm triệu đồng, nếu trúng thì con số lên mười triệu, thậm chí vài chục triệu nếu bắt trúng những xe chở hàng lậu hoặc động vật quí hiếm. Cứ chia ca với nhau, mỗi người đứng từ một đến ba đêm và ba ngày mỗi tuần”

Chính vì vậy mà phần đông các cảnh sát giao thông có đạo đức trong ngành hoặc cô thế, bị trù dập đều phải ngồi văn phòng đến mòn ghế và ăn lương chay ba đồng ba cọc, khó có cơ hội mà phất lên được. Còn những cảnh sát giao thông biết ăn chia, biết liều lĩnh và biết ép phạt đều tìm cách để được đứng đường. Thậm chí có những trạm đứng đường như trạm Hàng Xanh, trạm số 2 Thủ Đức là những trạm mà muốn được đứng đó, các cảnh sát phải tự đấu giá ngầm với nhau, phải chung chi tiền tỉ mỗi năm để được đứng đường.

Chỉ cần được đứng ở các trạm này, mỗi đêm, thu nhập của mỗi cảnh sát thấp nhất cũng được năm triệu đồng, nếu trúng thì con số lên mười triệu, thậm chí vài chục triệu nếu bắt trúng những xe chở hàng lậu hoặc động vật quí hiếm. Cứ chia ca với nhau, mỗi người đứng từ một đến ba đêm và ba ngày mỗi tuần. Có thể nói con số thu nhập của các cảnh sát này là con số khủng. Bởi chỉ cần một chiếc xe tải bình thường đi qua trạm, nếu có chở hàng thì cách gì cũng dừng lại để chung từ hai trăm đến năm trăm ngàn đồng. Mà lưu lượng xe trung bình trên đường phải là con số hàng ngàn chiếc, cứ như vậy nhân lên sẽ thấy ngay thu nhập của các cảnh sát đứng đường.

Đó là chưa nói đến những vụ tai nạn giao thông được dàn xếp “công bằng” bởi cảnh sát giao thông, họ cũng được hưởng đậm trong các vụ tai nạn. Và sở dĩ ngành cảnh sát giao thông có thể ăn tàn bạo mà không nói được gì là vì trên một tuyến xe, tất cả mọi trạm đều có chung chi cho cảnh sát giao thông, vì phải chung chi, người chủ xe buộc phải độn thêm hàng cho quá trọng tải cho phép mới bù được khoản chung chi này, mà một khi đã độn thì cái lỗi đã đeo trước ngực nên không chung không được. Ngược lại, nếu không độn quá tải thì sẽ bị hạch họe đủ thứ, từ cái còi cho đến cái đèn, gương chiếu hậu và giấy phép lái xe, cảnh sát sẽ hạch họe bao giờ lòi ra lỗi mới thôi.

Chính vì thế, với người dân, cảnh sát giao thông nói riêng và công an nói chung là một thứ gì đó đáng kinh sợ và luôn gây rối loạn, bất an trên đường đi cũng như trên đường đời.
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

 

HD-981 : Việt Nam không nên sập bẫy ‘song phương’ và ‘không kiện’ Trung Quốc

HD-981 : Việt Nam không nên sập bẫy ‘song phương’ và ‘không kiện’ Trung Quốc

Nghe (20:24)

RFI

Dàn khoan Hải Dương HD-981 (DR)

Dàn khoan Hải Dương HD-981 (DR)

Trọng Nghĩa

Sau hơn hai tháng cho giàn khoan HD-981 vào hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ngoài Biển Đông, khuấy động quan hệ giữa Bắc Kinh và Hà Nội, ngày 15/07/2014 vừa qua, Trung Quốc đã di chuyển giàn khoan về hướng đảo Hải Nam. Quyết định – được Bắc Kinh loan báo một hôm sau đó – đã làm cho tình hình bớt căng thẳng – nhưng cũng làm dấy lên nhiều câu hỏi về dụng tâm thực sự của Trung Quốc.

Giới chuyên gia đều ghi nhận là việc Bắc Kinh « cho rút » giàn khoan diễn ra ít lâu sau khi Thượng viện Mỹ, trong một cử chỉ hiếm thấy, đã bỏ phiếu nhất trí thông qua một Nghị quyết lên án hành vi khiêu khích của Trung Quốc, và yêu cầu Bắc Kinh trả lại hiện trạng cho khu vực, và sau một cuộc điện đàm giữa Tổng thống Mỹ Barack Obama và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.

Quyết định rút sớm hơn thời hạn dự trù ban đầu cũng được đưa ra một tháng trước Hội nghị Ngoại trưởng thường niên của Khối ASEAN và các đối tác tại Miến Điện, đặc biệt là hội nghị thường niên của Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN (ARF), trong bối cảnh có tin là Mỹ sẽ nêu bật các hành động của Trung Quốc.

Còn đối với Việt Nam, việc Trung Quốc hạ nhiệt căng thẳng cũng diễn ra vào lúc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chuẩn bị hội nghị bàn về Biển Đông và cân nhắc khả năng kiện Trung Quốc ra trước quốc tế.

Trong những ngày qua, đã có rất nhiều chuyên gia phân tích về động thái hạ nhiệt của Trung Quốc ngoài Biển Đông. Hôm nay, RFI xin giới thiệu nhận định của Giáo sư Ngô Vĩnh Long, một nhà nghiên cứu kỳ cựu về Biển Đông tại trường Đại Học Maine, Hoa Kỳ.

Đối với Giáo sư Long, tham vọng khống chế toàn bộ Biển Đông của Trung Quốc không thay đổi, và Việt Nam vẫn là đối tượng cần tấn công để thực hiện ý đồ đó. Theo Giáo sư Long, quyết định rút giàn khoan còn nằm trong một âm mưu lôi kéo Việt Nam vào con đường đàm phán song phương để giải quyết căng thẳng do chính Bắc Kinh tạo ra, đồng thời thúc giục Việt Nam từ bỏ ý định kiện Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế về vấn đề Biển Đông.

Đó là những cái bẫy mà Việt Nam không nên rơi vào nếu muốn bảo vệ lợi ích dân tộc.

Mời quý vị nghe toàn văn bài phỏng vấn Giáo sư Ngô Vĩnh Long.

Giáo sư Ngô Vĩnh Long – Đại học Maine (Hoa Kỳ)

 

21/07/2014
by Trọng Nghĩa

 

Nghe (19:59)

 

 

 

Giàn khoan đến và đi đều nhằm mục tiêu chính trị : Uy hiếp Việt Nam

Ngay từ đầu khi Trung Quốc cắm giàn khoan cách đảo Tri Tôn khoảng 18 dặm, và nói rằng nó hoạt động trong vùng biển “không có tranh chấp” của quần đảo Hoàng Sa “của Trung Quốc”, lý do chính là lý do chính trị : Uy hiếp Việt Nam, đặc biệt là chính quyền Việt Nam, cũng như để dò xét phản ứng của các nước trong khu vực và trên thế giới.

Động thái dịch chuyển giàn khoan hiện nay của Trung Quốc cũng là để thử xem phản ứng của Việt Nam và của các nước khác trên thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ, để Trung Quốc quyết định các bước tiếp theo.

Nếu Trung Quốc thực sự rút giàn khoan về đảo Hải Nam, đó cũng là để chứng minh rằng Trung Quốc đã hoặc đang hạ nhiệt, do đó Việt Nam không nên kiện Trung Quốc nữa mà nên đàm phán tay đôi với Trung Quốc.

Hạ nhiệt để “dụ dỗ” Việt Nam đàm phán tay đôi và không kiện Trung Quốc

Tôi nghĩ rằng đây là việc dẫn dụ, dụ dỗ Việt Nam, và tôi cũng hơi lo là vì ngày 16/07, ông Lê Hải Bình, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết là Việt Nam mong muốn thông qua đàm phán hữu nghị để giải quyết các vấn đề tranh chấp, bất đồng ở Biển Đông với Trung Quốc – lẽ dĩ nhiên là trên cơ sở luật pháp quốc tế – và cũng yêu cầu Trung Quốc không đưa giàn khoan HD-981 quay trở lại.

Nhưng nếu Trung Quốc không đưa HD-981 mà đưa bốn, năm cái giàn khoan nhỏ trở lại thì lúc đó Việt Nam làm gì ? Cho nên tôi nghĩ đây là vấn đề Trung Quốc muốn thử xem Việt Nam phản ứng như thế nào.

Nếu Việt Nam đàm phán song phương với Trung Quốc, việc này sẽ giúp cho Trung Quốc biện hộ rằng tranh chấp ở Biển Đông chỉ liên quan đến hai nước Việt Nam và Trung Quốc mà thôi, và không một nước nào khác được can dự vào.

Trung Quốc đã nhiều lần nói công khai với Mỹ là không được xía vào công việc nội bộ của các nước trong khu vực. Cho nên, nếu Việt Nam cho thế giới biết, hay là thế giới nghĩ lầm Việt Nam muốn thông qua đàm phán song phương để giải quyết vấn đề, thì việc đó sẽ làm hỏng cẳng Mỹ và đồng minh, đặc biệt trong vấn đề họ muốn đưa căng thẳng ở Biển Đông ra Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN (ARF), vào tháng tới ở Miến Điện.

Mưu đồ của Trung Quốc : Làm Mỹ hụt chân

Ngoài việc muốn làm hụt cẳng Mỹ tại Diễn đàn ARF vào tháng tới, Trung Quốc cũng muốn làm cho Việt Nam mất đi sự ủng hộ của các nước khác ở trong khu vực nếu đi đàm phán song phương với Trung Quốc, đặc biệt là chia rẽ quan hệ giữa Việt Nam và Philippines.

Ngoài ra, vừa qua, Thượng viện Mỹ đã bỏ phiếu hoàn toàn nhất trí nói rằng Trung Quốc không nên tiếp tục gây hấn và hy vọng rằng Trung Quốc đưa mọi việc trở về vị trí cũ, tức là trước ngày 02/05. Thì Trung Quốc di chuyển giàn khoan như để nói với Thượng viện Mỹ rằng « tôi đã hạ nhiệt rồi, thì các anh không nên tiếp tục làm áp lực trên tôi »….

Nếu Thượng viện Mỹ thấy rằng không cần phải làm áp lực trên Trung Quốc nữa, có thể là chính quyền Obama cũng không làm áp lực trên Trung Quốc nữa. Mà áp lực của Mỹ là quan trọng nhất, Mỹ mà nới tay thì Trung Quốc thấy rằng họ có cớ lấn tới thêm, không những đối với Việt Nam, mà cả đối với Mỹ.

Bài học cho Việt Nam : Trung Quốc mềm nắm rắn buông

Bài học đầu tiên là Trung Quốc thường “mềm nắn rắn buông”. Trung Quốc hiện tỏ thái độ « buông » trước hết là vì phản ứng của người dân Việt Nam. Tôi nghĩ là Trung Quốc biết phản ứng của các lãnh đạo Việt Nam như thế nào, nhưng họ không ngờ rằng phản ứng của người dân Việt Nam mạnh như thế.

Thành ra lúc này Trung Quốc hạ nhiệt chút xíu để cho giới lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là thành phần thiên về Trung Quốc – đang trong thế yếu – có tiếng nói mạnh hơn.

Ngoài ra, Việt Nam sắp có Hội nghị Trung ương để bàn riêng về tình hình Biển Đông và về việc có nên kiện Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế hay không. Trung Quốc hạ nhiệt để chính quyền Việt Nam và Hội nghị Trung ương thôi không bàn đến chuyện kiện Trung Quốc nữa, và như vậy, Trung Quốc có thể tiếp tục ép Việt Nam.

Bài học là Việt Nam mà yên lặng hơn, thì Trung Quốc sẽ đẩy tới hơn. Và nếu chính phủ Mỹ, Quốc hội Mỹ và các nước khác Nhật, Úc cũng thấy là vấn đề đã tạm yên rồi thì họ có thể cứ để cho yên và Trung Quốc trước sau gì cũng sẽ quay trở lại, và lần sau sẽ làm mạnh hơn một chút.

Xu hướng thân Bắc Kinh trong giới lãnh đạo Việt Nam

Việc cắm giàn khoan trong thềm lục địa Việt Nam là một chính sách uy hiếp giới lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam.

Bộ Chính trị chia thành ba nhóm, số đông thân Trung Quốc, số « trung lập » không biết nghiêng về ai, và số ít hơn thì muốn kiện Trung Quốc. Cho nên khi cắm giàn khoan, Trung Quốc muốn thử xem phản ứng của Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam như thế nào…

Phản ứng của Việt Nam cho thấy là Bộ Chính trị chưa có một chính sách đàng hoàng để kiện Trung Quốc.

Đó là trong lúc tình hình đang căng thẳng. Còn bây giờ Trung Quốc hạ nhiệt và làm giảm sự căng thẳng đi, thì có thể là Việt Nam sẽ không quyết định kiện Trung Quốc ra tòa án trọng tài theo phụ lục 7 của UNCLOS, chung với Philippines hay là riêng rẽ.

Nguy cơ mất đi hậu thuẫn của người dân Việt Nam và của quốc tế

Nếu như vậy, Chính quyền Việt Nam không những mất đi sự ủng hộ của dân chúng trong nước, mà cũng sẽ mất sự ủng hộ của các nước trong khu vực và của nhân dân trên thế giới. Việc đó sẽ làm suy yếu các lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, và Nhà nước Việt Nam nói chung.

Và nếu như vậy thì Trung Quốc đã kéo thêm được Việt Nam sâu thêm vào quỹ đạo của Trung Quốc, và nếu mọi người đều nghĩ rằng Việt Nam đã bị  kéo sâu thêm vào trong quỹ đạo của Trung Quốc, thì có thể là họ sẽ từ bỏ Việt Nam và đi đêm với Trung Quốc…

Vấn đề kiện Trung Quốc không phải là vấn đề thắng hay là thua, mà là vấn đề vận động chính trị. Nếu Việt Nam không kiện Trung Quốc, tức là Việt Nam đã chứng minh cho thế giới là Việt Nam chịu thua Trung Quốc, và nếu như vậy thì những nước khác sẽ suy nghĩ lại và có chính sách riêng của họ…

 

Đi cùng Thánh Giá sang phía Tự Do – Kỷ Niệm 60 Năm Di Cư

Đi cùng Thánh Giá sang phía Tự Do – Kỷ Niệm 60 Năm Di Cư

Hà Giang (tổng hợp)

Ngày 21 Tháng Bảy, 1954, nhật báo The Los Angeles Times đi tin lớn: “Armistice signed ending fighting in Indo-China, Vietnam to be split in 2 Zones” (Hiệp định đình chiến được ký kết, chấm dứt chiến tranh Ðông Dương, Việt Nam bị chia đôi).

Trang đầu nhật báo The Los Angeles Times số ra ngày 21 Tháng Bảy, 1954, với bản tin lớn nhất có tựa đề: “Armistice signed ending fighting in Indo-China, Vietnam to be split in 2 Zones.” (Hình: Hà Giang/Người Việt)

Nhật báo The New York Times cũng đi tin lớn: “Indochina armistice is signed; Vietnam split at 17th parallel; US finds it can “respect” pact” (Hiệp Ðịnh Ðình Chiến đã được ký kết, Việt Nam chia đôi ở vĩ tuyến 17, Hoa Kỳ tôn trọng thỏa thuận.)

Tại Pháp, đài phát thanh Hirondelle của quân đội Pháp vang lên lời loan báo: “Hiệp Ðịnh Ðình Chiến đã được ký kết.” Tờ báo của quân đội Pháp cũng đăng nguyên câu ấy trên trang nhất bằng chữ lớn.

Mọi người bàng hoàng dù biết trước thế nào việc này cũng sẽ đến.

Thôi, thế là không còn gì để phải băn khoăn về tình hình đất nước!

Giờ đây, điều khẩn cấp nhất mà nhiều người cần quyết định là ở lại đất Bắc hay đưa gia đình vào Nam. Và nếu đi, thì phải làm gì cho kịp thời hạn. Hà Nội có 80 ngày, Hải Dương có 100 ngày, còn Hải Phòng thì có 300 ngày cho mọi người di tản.

Người muốn di cư vào Nam thường là vì lý do chính trị, kinh tế, hay những kinh nghiệm đau thương từng có với Việt Minh – tức Cộng Sản. Họ thuộc nhiều thành phần khác nhau trong xã hội.

Hãm hại người Công Giáo muốn ra đi

Giới tư sản lo gia tài của họ có nguy cơ bị tịch thu. Thành phần trí thức không thích Chủ Nghĩa Cộng Sản. Người theo đạo Công Giáo thấy rằng không thể tiếp tục sống nơi họ không được thờ phượng Chúa.

Cũng có người từng là nạn nhân trực tiếp, hay có người thân bị đấu tố, tài sản bị tước hết trong cuộc cải cách ruộng đất từ năm 1953. Cả những đồng bào Thượng ở vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, trước đây theo quân đội Pháp chống Việt Minh cũng tràn về Hà Nội để tìm đường vào Nam lánh nạn.

Ký giả Gertrude Samuels, trong bài “Passage to Freedom in Vietnam,” đăng trên ấn bản Tháng Sáu, 1955 của The National Geographic, viết về trường hợp của ông Ngô Văn Hội, một người mà ông mô tả là “còm cõi trong chiếc áo rách nát và quần cụt đen,” như sau: “Gia đình tôi có nhiều người bị giết, cả vì bom của Pháp lẫn vì bị Việt Minh sát hại. Chúng tôi còn bị cộng sản cấm đi nhà thờ.”

Và kết luận: “Ðó là lý do tại sao ông Hộ mang vợ và 7 con đến nhà thờ Hưng Yên, nơi ông cùng nhiều người khác trong cùng xứ đạo, bắt đầu cuộc hành trình hơn 1,600 cây số đi tìm tự do.”

Theo ghi chép của ông Ðức Khương, trong tài liệu “Người Công Giáo di cư, khúc quanh lịch sử,” Giáo Phận Thái Bình có 80,000 giáo dân cùng hơn 60 linh mục đi theo làn sóng di cư.

Trong khi đó, cũng trong tài liệu này, sổ tay của ông ÐÐK, một người Công Giáo Thái Bình, sau này định cư tại Hố Nai, ghi lại: “Sáng ngày 27 Tháng Bảy 1954, cha Chánh Xứ Ðaminh Ðỗ Ðức Thụ cùng toàn thể dân xứ hiệp dâng Thánh lễ cuối cùng tại nhà thờ nhà xứ Lai Ổn để xin ơn bình an cho cuộc lữ hành. Sau Thánh lễ, cha xứ bùi ngùi lên tiếng từ giã thầy xứ và những giáo dân ở lại, từ giã ngôi thánh đường thân yêu, giã từ quê hương yêu dấu là nơi tổ tiên đang an nghỉ, làm nhiều người mủi lòng và khóc nức nở.”

“Ðúng 13 giờ cùng ngày, cha xứ dẫn đoàn chiên lên đường, đoàn người lũ lượt theo nhau, tay xách, nách mang ra đi trong thinh lặng buồn bã. Họ bỏ lại sau lưng tất cả nhà cửa, trâu bò, ruộng vườn, mồ mả tổ tiên. Hành trang quý nhất họ mang theo là một “niềm tin.” Thỉnh thoảng, người ta ngoảnh đầu lại ngắm nhìn làng xã thân yêu mỗi lúc một xa dần, rồi mất hút. Sau ba cây số, qua sông Luộc rồi họ nghỉ đêm tại Phụ Dực. Sáng ngày, một đoàn xe đến chở dân xứ sang An Thổ, nghỉ lại đây một đêm, cha xứ cho giết con ngựa quý của mình đãi giáo dân một bữa tiệc.”

“Ngày hôm sau, đoàn xe lại đến chở dân xứ ra Xuân Sơn (Kiến An), nghỉ lại đây 25 ngày tại giáo xứ Liễu Dinh để chờ đón những người trong xứ đi sau. Ở đây, tất cả mọi người đều được chích ngừa và chủng đậu. Ngày thứ 25, xe lại đến chuyển dân xứ ra Hải Phòng tá túc qua đêm. Sáng sớm hôm sau, dưới cơn mưa dầm, đoàn xe tiếp tục chuyển bánh ra bờ biển, sau đó mọi người được hướng dẫn xuống tàu ‘há mồm.'”

Ký giả Gertrude Samuels, theo sát cuộc di cư kéo dài gần một năm, cho biết, ở nhiều nơi, cả làng kéo nhau đi, và câu hỏi chung của ông với nhiều người “tại sao lại bỏ hết để đi vào Nam,” đã được đáp lại bằng những câu trả lời tương tự:

“Vì chúng tôi muốn sống tự do.”

“Vì chúng tôi sợ chủ nghĩa Cộng Sản!”

“Vì muốn con cái chúng tôi được tự do theo Ðạo.”

“Vì chúng tôi bị bắt phải bỏ Ðạo.”

Nhiều tài liệu, tuy đưa ra những con số khác nhau, đều cho rằng việc cấm Ðạo là nguyên nhân khiến phần lớn người Bắc di cư vào Nam là tín đồ Công Giáo.

Trang đầu nhật báo The New York Times số ra ngày 21 Tháng Bảy, 1954 nói về Hiệp Ðịnh Geneva: “Indochina armistice is signed; Vietnam split at 17th parallel; US finds it can “respect” pact.” (Hình: Hà Giang/Người Việt)

Bác Sĩ Tom Dooley, viết về thời gian phục vụ trên chiến hạm USS Montague trong công tác đưa người di cư vào Nam trong cuốn “Deliver Us From Evil” (Xin Cứu Chúng Con Khỏi Mọi Sự Dữ), xuất bản năm 1961, kể lại một chuyện đàn áp tôn giáo hãi hùng. Ông viết: “Một hôm người ta đưa đến trại tị nạn (ở Hải Phòng) bảy em trai bị thương ở hai tai, máu chảy lênh láng, và một người đàn ông miệng bê bết máu đã ngất xỉu, để xin cấp cứu.”

“Tôi đã dùng thuốc trụ sinh, và mọi phương tiện khó khăn lúc đó, để cứu sống những nạn nhân này, nhưng họ vẫn bị tàn tật suốt đời.”

“Một người được chứng kiến câu chuyện, sau đó kể cho chúng tôi biết là, hôm đó Việt Minh kéo vào làng, họ đến ngôi trường mà một thầy giáo bị tố cáo là đã lén lút tổ chức những lớp học giáo lý vào buổi tối.”

“Bảy học sinh và thầy giáo bị lôi ra khỏi lớp. Tất cả bị bắt ngồi xuống đất và hai tay bị trói ra đằng sau.”

“Hai người công an đi đến từng đứa trẻ. Một người dùng hai tay nắm chặt lấy đầu đứa bé. Người kia lấy một chiếc đũa bằng tre chọc mạnh sâu vào cả hai đôi tai, máu các em chảy ròng ròng, và cả làng có thể nghe thấy tiếng kêu hét kinh hoàng của những nạn nhân khốn khổ.”

“Sau khi đã phải chứng kiến cảnh từng học trò của mình bị chọc hỏng tai, thầy giáo bị trừng phạt bằng một hình phạt nặng nề hơn. Một công an nắm chặt đầu ông, còn người kia banh miệng ông ra, dùng kéo cắt đi chiếc lưỡi đã dám rao giảng những giáo điều đi ngược với chính sách của đảng. Những em học trò này từ nay không thể nghe được lời rao giảng nào nữa, và thầy giáo bị câm thì không còn bao giờ nói được những điều bị cấm.”

Bác Sĩ Tom Dooley tâm sự: “Lúc đó tôi mới chỉ là một bác sĩ giải phẫu còn non tay nghề, nhưng đã phải đối phó với nhiều trường hợp mà sách vở nhà trường chưa bao giờ nói đến: chẳng hạn phải làm gì cho trẻ em đã bị chọc đũa vào lỗ tai, cho các bà cụ mà xương cổ vốn đã xốp còn bị đập giập vì báng súng, và cho một linh mục bị đóng đinh vào đầu, vì bị Việt Minh chế nhạo việc chúa Giê Su bị đội vòng gai trên đầu khi chịu chết trên Thánh Giá.”

Lập thành trì chống Cộng tại miền Nam

Có nhiều con số khác nhau liên quan đến số người Công Giáo di cư từ Bắc vào Nam.

Theo bản tường trình 14 trang về tình hình người tị nạn ở Bắc Việt của Giám Mục Phạm Ngọc Chi (địa phận Bùi Chu), gửi Bộ Truyền Giáo Roma, tháng 10, 1955, thì trong tổng số 860,206 người di cư vào Nam, có 676,348 giáo dân.

Tác giả Jean Marvier trong cuốn “Les combattants de Dieu” cho rằng 100% người di cư là người Công Giáo.

Theo tác giả Piero Ghedo, trong cuốn “Catholiques et bouddhistes au VietNam,” xuất bản năm 1970, thì thống kê của Giám Ðốc Ủy Ban Tị Nạn Sài Gòn cho rằng có tổng số 928,152 người di cư, trong đó 794, 876 là người Công Giáo.

Tác giả Chester Cooper trong “The lost crusade, America in VietNam,” đưa ra con số 85% người Bắc di cư là người Công Giáo.

Hai tác giả J. Buttinger trong “VietNam, a dragon embattled,” và Bernard Fall trong “Les deux VietNam,” cùng đưa ra con số là 65% hay khoảng 650,000 trong 1 triệu người di cư là người Công Giáo.

Dù con số là bao nhiêu, 65%, 78% hay 85%, không ai có thể phủ nhận vai trò quan trọng của người Công Giáo trong cuộc di cư của gần 1 triệu người Bắc vào Nam cách đây 60 năm.

Và khẳng định mạnh mẽ nhất vai trò then chốt này của người Công Giáo trong việc di cư, không ai khác hơn, lại chính là Việt Minh, thông qua thực tế là họ tìm đủ mọi cách ngăn cản người Công Giáo đồng loạt theo nhau vào Nam vào thời gian ấy.

Tập tài liệu lưu trữ tại Bộ Ngoại Giao Ba Lan, có tên “Tường trình về hoạt động của phái đoàn Công Giáo tại Việt Nam từ ngày 13 Tháng Tư đến ngày 30 Tháng Năm, 1955, Hà Nội,” mang chữ ký của Wojciech Ketrzynski, cho chúng ta thêm nhiều chứng cớ về tầm quan trọng của việc người Công Giáo di cư, đối với Việt Minh.

Tập tài liệu nói trên do Tiến Sĩ Trần Thị Liên, tiến sĩ sử học tại Pháp, dịch và phổ biến năm 2005. Ngay từ đầu, tài liệu đã hé lộ cho thấy ngay sau khi Hiệp Ðịnh Genève được ký kết, nước Cộng Hòa Nhân Dân Ba Lan đã được phía Việt Minh yêu cầu giúp giải quyết vấn đề người Công Giáo ồ ạt di cư vào Nam.

Là một thành viên phái đoàn Công Giáo Ba Lan được Việt Nam mời qua thăm vào mùa Xuân 1955, ông Wojciech Ketrzynski kết luận bản tường trình nói trên bằng câu: “Trong tổng thể các vấn đề chính trị của Việt Nam, yếu tố Công Giáo tuy không giữ vai trò quan yếu nhất, nhưng vì là nhóm tôn giáo có tổ chức, thuần nhất và lớn mạnh nhất, Công Giáo có một trọng lượng nhất định trong cán cân quyền lực chung.”

Trước cuộc di cư, dân số miền Bắc khoảng 12 triệu người, so với dân số khoảng 11 triệu người ở miền Nam. Con số 1 triệu người di cư vào Nam, với Việt Minh, vừa là một sự mất mặt, vừa là một đe dọa lớn.

Một mặt họ đàn áp người Công Giáo, vì chống đối họ, mặt khác lại tìm đủ mọi cách để đe dọa, ngăn cản, thậm chí hãm hại người Công Giáo tìm cách di cư vào Nam, vì không thể đứng yên nhìn cán cân quyền lực nghiêng về phía đối phương.

Người Công Giáo di cư còn đóng vai trò lớn vì họ không chỉ đi từng người, từng nhà, mà là đi từng làng một. Việc họ đi theo các vị linh mục, lãnh đạo tinh thần, và chăm lo cho cả đời sống xã hội của họ, là một điều hết sức tự nhiên. Thái độ tôn kính và vâng lời gần như tuyệt đối của con chiên với các cha, các giám mục của cộng đồng người Công Giáo miền Bắc cũng gây một ảnh hưởng lớn trong việc tái định cư và hòa nhập của người Bắc di cư vào xã hội miền Nam.

Nhiều thống kê cho thấy, ngoại trừ Hà Nội là một trong 2 điểm tập trung cho quá trình di cư, giáo phận nào có giám mục chọn ra đi thì số linh mục và giáo dân cũng ra đi đông đảo; ngược lại giáo phận nào mà giám mục chọn ở lại thì số ra đi cũng ít hơn.

Khi đã vào Nam rồi, người Công Giáo lại tiếp tục sống quây quần sinh hoạt với nhau trong những giáo xứ, giáo phận, tạo thành một cộng đồng có bản sắc riêng, và tạo nên những thành trì chống Cộng vững chắc cho miền Nam. (H.G.)

VN khó cấm bán rượu bia sau 10 giờ tối?

VN khó cấm bán rượu bia sau 10 giờ tối?

Thứ hai, 21 tháng 7, 2014

Những cảnh này rất thường gặp ở khắp nơi ở Việt Nam

Đề xuất cấm bán bia rượu sau 10h tối ở Việt Nam hiện đang nhận được nhiều ý kiến trái chiều, trong đó phần đông cho rằng lệnh cấm này sẽ không khả thi.

Một nhà xã hội học trong nước nói với BBC rằng chính quyền nên thúc đẩy việc tuyên truyền nhằm thay đổi ý thức của người dân hơn là cấm đoán.

Theo báo chí trong nước thì mới đây Bộ Y tế đang soạn thảo một dự luật về phòng chống tác hại của việc lạm dụng rượu bia trong đó có quy định các nơi phải dừng việc bán rượu bia sau 10h tối.

‘Có thể làm được’

Nói với BBC, Tiến sỹ Nguyễn Đức Truyền thuộc Viện Xã hội học, Đại học Khoa học Xã hội nhân văn Hà Nội, tỏ vẻ nghi ngờ tính khả thi của điều luật này ở Việt Nam mặc dù ông cho rằng ‘vẫn có thể làm được’.

“Người dân cũng có thể dễ chấp nhận như cấm đốt pháo chẳng hạn,” ông nói, “Dù là truyền thống lâu đời nhưng vẫn cấm được.”

“Tuy nhiên đốt pháo chỉ tập trung trong vòng mấy ngày Tết,” ông nói thêm.

“Ở những chỗ tập trung đông người thì dễ làm (cấm bán rượu bia), còn những chỗ khác không kiểm soát được thì khó.”

“Có thể họ vẫn cứ bán như thường nhưng có thể che đậy bề ngoài đi,” ông giải thích.

Theo Tiến sỹ Truyền thì việc ăn uống là sinh hoạt ‘cũng mang tính chất cộng đồng của người Việt Nam’.

“Nếu không ngồi được với nhau, không uống được chén rượu cốc bia với nhau thì quan hệ sẽ hời hợt lắm.”

Tiến sỹ Nguyễn Đức Truyền, Viện Xã hội học VIệt Nam

“Nếu không ngồi được với nhau, không uống được chén rượu cốc bia với nhau thì quan hệ sẽ hời hợt lắm,” ông nói.

Ông Truyền nhận định mặc dù việc bia rượu là phổ biến ở nhiều nước trên thế giới nhưng ở Việt Nam tình trạng bia rượu có phần vượt xa các nước khác là do hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam.

“Ở đất nước chưa trải qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa, tổ chức xã hội chưa mang tính chất định chế hóa mà chỉ dựa trên phong tục tập quán hay sinh hoạt cộng đồng,” ông giải thích.

“Ở các nước văn minh họ phát triển rồi nên định chế hóa bằng những ràng buộc.”

Tuy nhiên, trong điều kiện Việt Nam, theo ông Truyền, để hạn chế tác hại của rượu bia mấu chốt không phải là ban hành lệnh cấm mà ‘phải tuyên truyền’.

“Khi người hiểu được thì không cần phải cấm,” ông nói và cho biết bản thân ông ủng hộ điều luật mà Bộ Y tế đang cân nhắc để ‘tránh xảy ra sự quá đà’.

Không khả thi?

Trên diễn đàn của BBC Việt ngữ, một số bạn đọc đã bày tỏ sự ủng hộ đối với lệnh cấm này.

“Đồng ý với quyết định cấm bán bia sau 10h tối. Còn ai muốn uống cho đã thì về nhà uống. Để xã hội bớt tệ nạn vì rượu bia. Cái gì mà vui cũng nhậu đã đành, mà buồn cũng nhậu, đủ lý do để nhậu,” Nguyễn Văn Toàn viết.

Một bạn khác có tên là Thùy Dương Vũ bình luận: “Ủng hộ nhiệt tình. Vì rượu bia mà bao nhiêu thảm cảnh đã xảy ra.”

““Cấm được mới sợ,” ”

Ngọc Thụ Lâm Phong viết trên Facebook của BBC Việt ngữ

Tuy nhiên, rất nhiều độc giả BBC cho rằng lệnh cấm này sẽ không thể đi vào đời sống được.

“Biết là tốt, nhưng nhưng đối với một quốc gia luôn lấy hai chữ ‘xã giao’ lên hàng đầu thì dự luật này coi vẻ xem ra không khả thi lắm,” Võ Điện chia sẻ.

“Cấm được mới sợ,” Ngọc Thụ Lâm Phong nghi ngờ.

Còn bạn Sakura Suri thì yêu cầu ‘phải có chế tài nghiêm chỉnh may ra dẹp được chứ đừng thực hiện nửa vời’.

Cũng có người chỉ trích ý tưởng này một cách thẳng thừng.

“Ngày làm vất vả tối xả stress thì lại cấm. Không hợp lý hợp tình,” một bạn có tên là Hien Phuong PT viết.

“Những người hay uống đồ cồn họ có thể mua trước 10h rồi uống sau. Có chăng luật này ra để những cửa hàng nào chưa nắm được luật thì bị phạt hoặc hối lộ cho lực lượng chức năng địa phương thôi. Rõ là trò trẻ con, bắt cóc bỏ đĩa,” Truy Mộng chỉ trích.

Sơn La liên tục động đất, đại thảm họa lơ lửng bên trên Hà Nội

Sơn La liên tục động đất, đại thảm họa lơ lửng bên trên Hà Nội
Sunday, July 20, 2014

Nguoi-viet.com


HÀ NỘI 20-7 (NV) –
Ba  trận động đất liên tiếp xảy ra trong đêm 19 Tháng Bảy ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La, khiến người ta nhớ đến cảnh báo về đại thảm họa cho Hà Nội cách nay khoảng 15 năm.

Vị trí tâm chấm động đất ở huyện Mường La, Sơn La, nơi có đập thủy điện lớn nhất Đông Nam Á. (Hình: Viện Vật Lý Địa Cầu)

Trận động đất đầu tiên ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La xảy ra vào lúc 19 giờ 14 phút 57 giây tối 19 Tháng Bảy, với cường độ 4.3 độ richter. Trận động đất thứ hai xảy ra vào lúc 20 giờ 23 phút 46 giây, với cường độ 3.2 độ richter. Đến  21 giờ 42 phút 16 giây lại cóthêm một trận trận động đất nữa với cường độ 3.5 độ richter.

Trò chuyện với tờ Tuổi Trẻ, ông Nguyễn Hồng Phương – Phó Giám đốc Trung tâm Báo tin động đất và Cảnh báo sóng thần của Viện Vật lý địa cầu Việt Nam xác nhận, trận động đất đầu tiên gây rung động cấp ba đến khu vực nội thành Hà Nội và cả ba trận động đất đều xảy ra trong đới đứt gãy Mường La – Bắc Yên đang hoạt động.

Từ năm 1999, sau khi Tập đoàn Điện lực Việt Nam có dự định xây dựng thủy điện Sơn La, giới khoa học trong và ngoài nước đã liên tục cảnh báo về “đại thảm họa” do dự định này tạo ra, tác động nghiêm trọng tới kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như tương lai Việt Nam và kêu gọi chế độ Hà Nội gạt bỏ dự định đó.

Thủy điện Sơn La là một phần trong hệ thống thủy điện bậc thang trên sông Ðà. Trước nữa, chính quyền Việt Nam từng cho chặn đoạn giữa của sông Ðà làm thủy điện Hòa Bình. Với dự án thủy điện Sơn La, sông Ðà sẽ tiếp tục bị chặn ở đoạn phía trên thủy điện Hòa Bình để lập nhà máy thủy điện Sơn La.

Về quy mô, thủy điện Sơn La được xem là nhà máy thủy điện lớn nhất Ðông Nam Á (hồ chứa nước có diện tích 224 km2, dung tích 9.26 tỉ khối nước, công suất 2400 MW, sản lượng điện 9.429 tỉ kWh/năm, tổng vốn đầu tư khoảng 2.5 tỉ Mỹ kim). Ðể thực hiện công trình khổng lồ đó, có khoảng 20,000 gia đình, với trên 100,000 dân, cư trú tại ba tỉnh Sơn La, Lai Châu, Ðiện Biên (đa số là người thiểu số) bị buộc phải chuyển đi nơi khác.

Dù được quảng bá rằng sẽ tăng thêm nguồn điện, giảm lũ trong mùa mưa, cấp thêm nước cho đồng bằng sông Hồng trong mùa khô nhưng dự án xây dựng công trình thủy điện Sơn La tạo ra nhiều âu lo hơn là sự vui mừng.

Bản vẽ phối cảnh đập thuỷ điện Sơn La. Công trình được dự báo là một “đại thảm hoạ” đang lơ lửng trên đầu dân chúng đồng bằng sông Hồng.(Hình: VNCold)

Theo giới chuyên viên, hồ chứa nước của thủy điện Sơn La sẽ tạo ra vô số tác động bất lợi đến môi trường (thay đổi về vi khí hậu, hệ động vật, hệ thực vật, đất bị trượt, vận tải chất rắn, suy giảm chất lượng nước, cuộc sống, sinh hoạt của hàng trăm ngàn người sẽ bị xáo trộn hoàn toàn).

Họ còn cảnh báo rằng, vì những trung tâm đông dân cư ở vùng châu thổ sông Hồng đều nằm dưới mực nước lũ, do rừng đã mất, biến đổi khí hậu khiến mưa bão càng ngày càng nhiều và càng lớn, Sơn La lại là vùng có động đất thường xuyên và mạnh nhất Việt Nam (trên khu vực có bán kính 200 cây số quanh công trình thủy điện Sơn La đã xảy ra 1,089 vụ động đất), nên đập thủy điện Sơn La rất dễ vỡ.

Nếu đập thủy điện Sơn La vỡ, đập thủy điện Hòa Bình cũng sẽ vỡ theo và như thế hồ chứa nước của thủy điện Sơn La thực sự là một “đại thảm họa”, treo lơ lửng trên đầu châu thổ sông Hồng. Trên báo chí Việt Nam, người ta đã từng công bố những tính toán, theo đó: “Nếu đập Sơn La vỡ, sau 30 phút, toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ sẽ bị chìm sâu dưới mực nước từ 4m đến… 60m và sẽ có khoảng 15 triệu người thiệt mạng”.

Tuy nhiên chế độ Hà Nội đã phớt lờ tất cả. Dự án xây dựng thủy điện Sơn La vẫn được tiến hành.

Hồi tháng 9 năm 2008, người ta đã phát hiện vết nứt trên thân đập chính, đến tháng 2 năm 2009, người ta lại phát giác thêm một số vết nứt nữa chạy dọc các đập không tràn ở cả hai bên phải và trái (trong thủy điện, có hai loại đập quan trọng: đập chính để giữ nước, đập không tràn để dẫn nước vào hầm ngầm giúp chạy máy phát điện, các đập không tràn được ví như “trái tim của nhà máy phát điện”) của thủy điện Sơn La. Một số vết nứt trên đập không tràn dài gần 100m, sâu 6m.

Lúc đó, Hội đồng nghiệm thu các công trình xây dựng có tầm vóc quốc gia cho biết, đã thành lập một tổ chuyên gia để thẩm tra báo cáo của chủ đầu tư (Tập Ðoàn Ðiện Lực Việt Nam) về việc xử lý những vết nứt tại đập chính thủy điện Sơn La nhưng kết quả thế nào thì từ đó đến nay vẫn chưa được công bố. (G.Đ.)

 

Danh tính nạn nhân người Việt trên MH17

Danh tính nạn nhân người Việt trên MH17

BBC

Đại sứ quán Việt Nam tại Malaysia được Cục hàng không dân dụng Malaysia thông báo có ba người Việt đi trên chuyến bay xấu số của Malaysia Airlines, tin ngày 19/7 của TTXVN cho biết.

Trong cùng ngày, báo điện tử VnExpress dẫn nguồn tin từ Cục lãnh sự Bộ Ngoại giao Việt Nam nói các nạn nhân mang cả quốc tịch Việt Nam và Hà Lan

Danh tính của ba nạn nhân là:

Nguyễn Ngọc Minh, sinh ngày 15/9/1977

Đặng Minh Châu, sinh ngày 23/5/1997

Đặng Quốc Huy, sinh ngày 1/3/2001

VnExpress cho biết bà Minh cùng hai con đã trên đường quá cảnh tại Kuala Lumpur, Malaysia trước khi về Hà Nội.

Gia đình bà sống ở thị trấn Delft cách thủ đô Amsterdam, Hà Lan, 60km. Chồng của bà, ông Đặng Quốc Thắng, chỉ vừa mất hồi năm ngoái.

Vì ba nạn nhân mang cả hai quốc tịch nên Việt Nam sẽ phối hợp với chính phủ Hà Lan thực hiện việc bảo hộ công dân, theo VnExpress.

Sáng 19/7, đại diện Cục Lãnh sự đã đến chia buồn cùng gia đình bà Minh tại Hà Nội. Gia đình bà đã bày tỏ nguyện vọng muốn đưa thi thể các nạn nhân về Việt Nam, đồng thời cung cấp mẫu DNA để giúp hỗ trợ công tác nhận dạng các thi thể, báo này cho biết thêm.

Xem thêm:

MH 17 : Có 3 người Việt quốc tịch Hà Lan trên chuyến bay định mệnh (RFI)

“Tiên trách kỷ, hậu trách nhân” khi làm ăn với TQ

“Tiên trách kỷ, hậu trách nhân” khi làm ăn với TQ

Vũ Hoàng, phóng viên RFA
2014-07-17

vuhoang07172014.mp3

dien-luc-305.jpg

Nhân viên công ty điện lực EVN đang sửa chữa điện tại Hà Nội, ảnh minh họa chụp trước đây.

Courtesy EVN

Chuyện Việt Nam thường bị bất lợi khi làm ăn với Trung Quốc đã được giới chuyên gia trong nước đề cập đến nhiều, thế nhưng, vì sao hiện tượng thua thiệt ấy vẫn tái diễn, phải chăng “tiên trách kỷ hậu trách nhân” vì chính bản thân giới tiểu thương Việt thì hám lợi, còn chính sách quản lý của Nhà nước thì lỏng lẻo và cả vấn đề “lợi ích nhóm” hay tham nhũng vẫn còn nan giải.

Yếu thế trong quan hệ hợp đồng

Một trong những sự kiện đang được báo chí trong nước mổ xẻ là vụ việc Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) “hào phóng” mua điện từ Trung Quốc với giá cao gấp 3 lần mức mua điện từ các nhà sản xuất điện trong nước. Mặc dù EVN giải thích là vì hợp đồng được ký từ 2005 và chính thức mua điện từ TQ vào 2009, nhưng để tình trạng kéo dài, gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế và cho cả các nhà máy điện nội địa là điều không thể chấp nhận, trách nhiệm thuộc về EVN và Bộ Công thương, đồng thời nó cũng đặt ra nhiều câu hỏi về “lợi ích nhóm.” Nội dung trên được GS TS Đặng Đình Đào – nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội nêu quan điểm trước thực tế Việt Nam đang mua điện của Trung Quốc giá quá cao, quá thua thiệt và yếu thế trong quan hệ hợp đồng với Trung Quốc.

Lâu nay, giới chuyên gia kinh tế Việt Nam vẫn lên tiếng phân tích Việt Nam chịu nhiều thiệt thòi khi làm ăn buôn bán hay nhận đầu tư trực tiếp từ Hoa Lục. Những câu chuyện như Trung Quốc trúng thầu đến 90% các dự án trọn gói, rồi thao túng dìm giá, đẩy giá các dự án, hay việc Trung Quốc đưa tràn lao động phổ thông sang làm nhiễu loạn đời sống người dân Việt ở các vùng có nhà máy của họ sản xuất…đã được đề cập rất nhiều. Không chỉ thế, báo giới còn phanh phui nhiều trường hợp Việt Nam có nguy cơ là “bãi rác thải công nghệ” cho Trung Quốc hay “vì sao Việt Nam bán rẻ, nhận độc từ Trung Quốc” thậm chí “tại sao thương lái Trung Quốc chỉ “lừa” Việt Nam” mà không phải là Thái Lan, Campuchia…? Câu hỏi khiến nhiều người suy ngẫm: Tại sao Việt Nam biết mà vẫn làm?

Họ tìm cách mua chuộc không phải là tìm cách bỏ phong bì cho các người đó có tiền mà làm bằng mọi cách để người đó thấy rằng họ có giá trị hoặc là khi ký hợp đồng với TQ họ được đối xử tử tế.
-Nguyễn Văn Huy

Câu trả lời trước nhất có lẽ là “tiên trách kỷ hậu trách nhân” bởi theo quy luật thị trường “thuận mua vừa bán” Trung Quốc không thể nào ép buộc Việt Nam phải cho họ trúng thầu, nhưng giới doanh gia Trung Quốc lại thấm nhuần câu nói “họ ăn không chừa một thứ gì…” khi đề cập đến nạn tham nhũng tràn lan tại Việt Nam. Vì lẽ đó, người Trung Quốc với “nghệ thuật” hối lộ đỉnh cao thậm chí “văn hóa phong bì” còn được coi là một “vũ khí thương mại” hiệu quả để tấn công vào “yếu huyệt” của giới chức có thẩm quyền Việt Nam. Mới tuần rồi, khi trả lời phỏng vấn truyền thông trong nước, T.S Lê Đăng Doanh từng đồng tình với quan điểm cho rằng “Trung Quốc là bậc thầy đút lót” và “ắt phải có bậc thầy nhận hối lộ” khi bàn về tình trạng này của doanh nghiệp TQ  khi làm ăn với Việt Nam. Ông thậm chí còn lấy thí dụ phía TQ sẵn sàng “lại quả” tối thiểu 30% bằng “tiền tươi” cho các trường hợp thắng thầu tại Việt Nam.

Nhận xét tương đồng về hành động trên, ông Nguyễn Văn Huy, một nhà nghiên cứu về TQ từng trả lời phỏng vấn chúng tôi cho biết:

“Người Trung Quốc thì ngược lại họ đi thẳng đến những người lãnh đạo, những người quyết định, chính vì vậy tôi thấy rằng những cuộc đấu thầu ở các địa phương gần sát biên giới với Trung Quốc hoặc những vùng chiến lược của Việt Nam mình, thường thường thì các cán bộ địa phương bị Trung Quốc mua chuộc hết, họ tìm cách mua chuộc không phải là tìm cách bỏ phong bì cho các người đó có tiền mà làm bằng mọi cách để người đó thấy rằng họ có giá trị hoặc là khi ký hợp đồng với Trung Quốc họ được đối xử tử tế, ưu đãi hơn so với người khác. Chính vì vậy, tôi thấy khác với các nước phương Tây, họ dùng đồng tiền, uy tín và tình cảm mua chuộc các người cán bộ.”

Quản lý bất cập

000_Hkg4636044-250.jpg

Nhân viên công ty điện lực đang sửa chữa điện ở Hà Nội hôm 01/03/2011. AFP PHOTO.

Nhưng nếu xét đến gốc gác vấn đề thì chắc hẳn người ta hiểu rằng một chính sách quản lý bất cập sẽ là nguyên nhân để những hiện tượng chia chác, tham nhũng trên có đất lộng hành. Không những thế, cũng bởi một chính sách quản lý và giám sát lỏng lẻo, nhiều kẽ hở mà mỗi năm có đến hàng trăm ngàn tấn rau quả, trái cây độc hại từ TQ dễ dàng thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Mới tháng 6 vừa qua, người ta phát hiện có đến 280 tấn rau quả tồn dư thuốc bảo vệ thực vật vượt mức cho phép từ Trung Quốc đã được tiêu thụ hết ở VN, và khi trả lời báo chí, người đứng đầu cục Bảo vệ thực vật thoải mái trả lời họ hoàn toàn vô can. Chỉ tội cho những người tiêu dùng họ vẫn cứ vô tư ăn uống trái cây Trung Quốc mà không biết rằng mình đang bị “đầu độc” một cách “có hệ thống.”

Xin không bình luận mà chỉ trích một số tít báo vẫn hàng ngày, hàng giờ xuất hiện khắp các trang mạng: “bàng hoàng về độ độc hại của đồ điện tử TQ” “hoa quả TQ nghi chứa chất gây chất vô sinh” “hoa quả TQ có hóa chất phá hủy nội tạng” hay “hoa quả khô Trung Quốc chờ tết hại người VN” thế nhưng Việt Nam dường như không có một biện pháp ứng phó hiệu quả, dù nhiều bài học nhãn tiền từng xảy ra.

Thực ra nếu như phía Việt Nam mà không có ai đó đứng ra giúp cho người ta làm thì có lẽ cũng khó lòng người Trung Quốc có thể mở rộng mạng lưới của họ ở Việt Nam theo kiểu đó.
-Phạm Chi Lan

Còn nhớ cách đây không lâu, khi muốn hạ thấp uy tín một số mặt hàng chiến lược của Việt Nam như gạo hay trà xanh trên thị trường quốc tế mà Trung Quốc đã ngấm ngầm yêu cầu người nông dân hãy trộn các sản phẩm loại hai vào sản phẩm loại một, rồi họ mua đồng đều theo giá loại một. Hám lợi trước mắt, người nông dân VN làm theo, nhưng khi mang về nước, người TQ rêu rao chất lượng gạo, chất lượng trà của Việt Nam là hàng kém, người Việt Nam gian lận… Bài học xương máu trên một lần nữa cho thấy “tiên trách kỷ, hậu trách nhân” của những người làm ăn có tâm lý tiểu nông tại Việt Nam và thậm chí là cả những thương nhân Việt muốn kiếm tiền bất chính mà không thấy được ý đồ thâm nho mà TQ đang rắp tâm thực hiện.

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan không khỏi bức xúc khi nhận xét về hiện tượng trên:

“Ở đây thì cũng lại là vì lòng tham của một số người Việt Nam, kể cả những người tham gia vào thương mại với Trung Quốc theo cái cách đó. Thực ra nếu như phía Việt Nam mà không có ai đó đứng ra giúp cho người ta làm thì có lẽ cũng khó lòng người Trung Quốc có thể mở rộng mạng lưới của họ ở Việt Nam theo kiểu đó. Tại lòng tham của những người liên quan khác, ví dụ như những người nông dân khi bán hàng cho họ.”

Có thể vì lòng tham, cái lợi trước mắt mà những người Việt Nam đang hại chính đồng bào mình bằng cách tiếp tay thông thương cho hàng hóa, thực phẩm, trái cây độc hại của TQ tràn ngập Việt Nam. Cũng bởi làm ăn quá lâu với thương lái TQ, được nuôi dưỡng trong một môi trường dễ dãi mà nhiều doanh nghiệp Việt hài lòng, ỷ lại, thiếu sức cạnh tranh… Cũng bởi giao dịch với một nền kinh tế “lấy phong bì làm trọng” mà những cấp quản lý VN đang tự đánh mất mình. Nhưng nói gì đi chăng nữa, trước khi kết luận người Việt thường thua thiệt khi làm ăn với TQ, thì hãy tự soi lại mình trước khi đổ lỗi, câu nói “tiên trách kỷ, hậu trách nhân” hẳn vẫn còn đúng đến tận hôm nay.

‘Người đẹp hình thể’ tố ban tổ chức bán giải

‘Người đẹp hình thể’ tố ban tổ chức bán giải
Wednesday, July 16, 2014

Nguoi-viet.com
HÀ NỘI (NV)Buổi chung kết cuộc thi “Nữ Hoàng Sắc Ðẹp Việt Nam năm 2014” diễn ra tại Hà Nội đêm 13 tháng 7, 2014, tiếp tục gây xôn xao dư luận những ngày qua.

Báo Pháp Luật Sài Gòn cho biết, ông Tô Văn Ðộng, giám đốc Sở Văn Hóa-Thể Thao-Du Lịch Hà Nội xác nhận tin đã mời ông Phạm Tuân, trưởng ban tổ chức cuộc thi nói trên đến làm việc. Tuy nhiên, theo ông này, mặc dù xét thấy “có dấu hiệu lừa dối, sai trái, nhưng ngành văn hóa không đủ khả năng xử lý.” Vì vậy, ông Tô Văn Ðộng cho hay, đã chuyển nội vụ đến cơ quan công an thụ lý.



Trần Ngọc Bích, người đoạt danh hiệu “Người Ðẹp Hình Thể” đã vất dải băng danh hiệu vào thùng rác sau đó. (Hình: báo Pháp Luật Sài Gòn)

Ðây là vụ tai tiếng thứ hai trong lĩnh vực tuyển chọn các “nữ hoàng sắc đẹp” ở Việt Nam, sau vụ cô Triệu Thị Hà, người đoạt chức hoa hậu cuộc thi “Nữ Hoàng Các Dân Tộc Việt Nam năm 2011” trả lại vương miện hồi đầu năm 2014 vừa qua. Lần này, người đoạt danh hiệu “Người Ðẹp Hình Thể” tại cuộc thi “Nữ Hoàng Sắc Ðẹp Việt Nam năm 2014” là cô Trần Ngọc Bích không ngần ngại ném dải băng danh hiệu vào thùng rác sau đêm chung kết. Không chỉ vậy, cô Ngọc Bích còn cho hay, sẽ công khai hóa toàn bộ tin nhắn nội dung cuộc đối thoại giữa cô và ông Phạm Tuân, trưởng ban tổ chức cuộc thi.

Theo cô Trần Ngọc Bích, ông Phạm Tuân đã gạ gẫm cô tham dự cuộc thi “Nữ Hoàng Sắc Ðẹp Việt Nam năm 2014” tại Hà Nội. Một cô gái khác cũng lên tiếng tố cáo ông Phạm Tuân gạ bán giải nhất cho cô với giá 350 triệu đồng, tương đương 17,500 đô la.

Báo mạng VNExpress dẫn lời cô gái, xin được giấu tên, nói rằng cô còn giữ bản cam kết về thỏa thuận mua bán giải hoa hậu. Cô cho biết, ông Phạm Tuân đã nhận của cô 10 triệu đồng, tương đương 500 đô tiền cọc. Sau đó, nghe nhiều bạn bè khuyên không nên tham dự cuộc thi có quá nhiều tai tiếng trước đó, cô này rút hồ sơ và đòi lại tiền. Cô chỉ được trả một nửa, còn nửa kia còn lại cho đến nay, coi như khoản nợ khó đòi vì cô không bao giờ liên lạc được với ông Phạm Tuân.

Cô Ngọc Bích cũng cho biết, ông Phạm Tuân trước đó đã hứa hẹn sẽ đưa cô và một nữ thí sinh khác tên Huyền My lọt vào top 5 cuộc thi “Nữ Hoàng Sắc Ðẹp Việt Nam năm 2014.” Cuộc thi này do tạp chí thời trang B-Beauties.com tổ chức. Người đại diện tạp chí thú nhận rằng đây là cuộc thi “không bình thường vì ban tổ chức chỉ thông qua buổi xuất hiện duy nhất để chọn thí sinh vào chung kết,” nhanh đến nỗi không nhớ tên thí sinh.

Cũng theo báo mạng VNExpress, cuộc thi “Nữ Hoàng Sắc Ðẹp Việt Nam năm 2014” được tổ chức từ ngày 23 tháng 5 đến 13 tháng 7, 2014 là kết thúc. Trước đó, đây là cuộc thi ảnh người đẹp. Năm nay, vòng chung kết được tổ chức tại Hà Nội với sự tham dự của 31 thí sinh. (PL)

 

Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương 981 về đảo Hải Nam

Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương 981 về đảo Hải Nam

Trung Quốc quyết định rời giàn khoan Hải Dương 981 về bờ biển gần đảo Hải Nam (DR)

Trung Quốc quyết định rời giàn khoan Hải Dương 981 về bờ biển gần đảo Hải Nam (DR)

Anh Vũ

Tân Hoa Xã hôm nay 16/07/2014, loan tin Bắc Kinh đã quyết định rời giàn khoan Hải Dương 981, được kéo vào hạ đặt trong vùng biển Việt Nam từ đầu tháng Năm, về bờ biển gần đảo Hải Nam. Hà Nội ngay lập tức phản ứng yêu cầu Trung Quốc không được tái diễn việc đưa giàn khoan dầu vào vùng biển Việt Nam.

Theo Tân Hoa Xã giàn khoan đã hoàn thành xong nhiệm vụ khoan thăm dò dầu khí như mục tiêu đã định. Tập đoàn dầu khí Trung Quốc National Petroleum Corp (CNPC) từ giờ chuyển qua giai đoạn nghiên cứu các mẫu thu được trong thời gian hoạt động vừa rồi để có thể quyết định những hoạt động tiếp theo. Cơ quan thông tấn chính thức Trung Quốc cho biết thêm chi tiết là giàn khoan HD-981 sẽ trở lại vùng biển gần đảo Hải Nam.

Việc giàn khoan Hải Dương 981 dịch chuyển ra khỏi vùng biển Việt Nam đã được lực lượng cảnh sát biển theo dõi sát và báo chí tại Việt Nam dẫn lời Phó tư lệnh lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam, ông Dương Ngọc Thu cho biết : « Từ tối qua (15/07/2014), Trung Quốc đã di chuyển giàn khoan về hướng đảo Hải Nam và đến sáng nay, giàn khoan 981 cùng tàu hộ tống bảo vệ đã ra khỏi vùng biển của Việt Nam».

Ngay lập tức hôm nay, Hà Nội đã lên tiếng yêu cầu Bắc Kinh không đưa giàn khoan Hải Dương 981 trở lại hoặc đưa bất cứ giàn khoan nào khác vào vùng biển của Việt Nam. Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình tuyên bố : “Một lần nữa, VN khẳng định khu vực hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981 từ đầu tháng Năm đến nay thuộc vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam. Hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981 và các tàu hộ tống của Trung Quốc trong hơn hai tháng qua là hoàn toàn bất hợp pháp, vi phạm các quy định của luật pháp quốc tế”.

Thông tin về việc Trung Quốc rút giàn khoan dầu ra khỏi vùng biển Việt Nam cũng là chủ đề nóng của một phiên họp của chính phủ Việt Nam hôm nay. Theo trang tin VietnamNet, sau khi nghe báo cáo về tình hình giàn khoan di rời khỏi vùng biển Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã « yêu cầu Trung Quốc không tái diễn hành vi hạ đặt trái phép giàn khoan những như những hành vi vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trên vùng biển Việt Nam ».

Việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan dầu Hải Dương 981 vào sâu trong vùng thềm lục địa của Việt Nam 130 hải lý từ hôm 2/5/2014 đã làm dấy lên một làn sóng phẫn nộ trong mọi tầng lớp người dân tại Việt Nam. Một số lãnh đạo cao cấp Việt Nam cũng đã có những phản ứng gay gắt trước hành động Trung Quốc xâm phạm chủ quyền Việt Nam.

 

Hiểm họa tiềm ẩn từ các dự án đầu tư Trung quốc

Hiểm họa tiềm ẩn từ các dự án đầu tư Trung quốc

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2014-07-15

07152014-poten-thre-fr-cn.mp3

Một công trình trong khu vực dự án Formosa có gần cả ngàn lao động người Trung Quốc làm việc.

Một công trình trong khu vực dự án Formosa được rào kín chung quanh có gần cả ngàn lao động người Trung Quốc làm việc.

Source nld.com

Việc các nhà đầu tư TQ trúng thầu quá nhiều các công trình trong lúc công tác quản lý về phía VN đã có quá nhiều sơ hở, điều đó không chỉ dẫn đến tình trạng làm cho kinh tế VN phụ thuộc vào kinh tế TQ, mà còn có thể tạo nên những nguy cơ về an ninh quốc phòng . Anh Vũ có  thêm chi tiết.

Việt Nam – Trung quốc là hai quốc gia láng giềng có chung đường biên giới, do các đặc điểm địa chính trị mang tính đặc thù đã khiến cho hai quốc gia có các quan hệ về kinh tế chính trị khá mật thiết.

Cảnh báo các gói thầu lớn đều vào tay TQ

Hiện tượng hầu hết các gói thầu lớn của Việt Nam đều rơi vào tay các nhà thầu Trung Quốc là biểu hiện hết sức đáng lo ngại. Đáng chú ý, các doanh nghiệp Trung Quốc được ưu đãi đến mức độ biệt đãi, không còn gì để ưu đãi hơn. Một hiện trạng đang bị báo chí trong nước nêu ra là trong khi người Việt thiếu công ăn việc làm, thì các doanh nghiệp Trung Quốc đã không sử dụng lao động VN mà lén lút đưa rất nhiều lao động phổ thông từ nước họ sang.

Đánh giá về thực trạng đầu tư của TQ vào VN hiện nay, T.S Ngô Trí Long thấy rằng sở dĩ nhà thầu TQ trúng thầu nhiều, lý do chính là do phía VN thiếu vốn nên phải vay từ nguồn quỹ vốn xuất khẩu từ phía TQ. Nhưng hầu hết các dự án đều thi công chậm tiến độ, rất nhiều công trình chậm đến 2 – 3 năm, chất lượng thiết bị không đồng đều, một số phải thay thế. Một điểm đáng chú ý là các nhà thầu TQ thường dùng thủ đoạn đút lót các doanh nghiệp VN để trúng thầu.

Từ Hà nội, T.S Ngô Trí Long cho biết:

“Đầu tư trực tiếp và gián tiếp của TQ vào VN  không nhiều, đặc biệt, họ hay đưa công nghệ lạc hậu vào VN. Thường thường họ bỏ thầu giá thấp, mà VN  trong giai đoạn đầu lại chủ yếu coi trọng về giá, hơn nữa thủ đoạn của TQ làm ăn, theo cách hối lộ, mua chuộc “có nghề” của họ. Thường thường tiền lệ của nhà thầu TQ đối với VN là: bỏ giá thấp, thi công chậm trễ, kéo dài, rồi yêu cầu đội vốn lên, đưa công nghệ lạc hậu vào, đưa lao động phổ thông vào nhiều, gây bất lợi cho VN.”

Đầu tư trực tiếp và gián tiếp của TQ vào VN không nhiều, đặc biệt, họ hay đưa công nghệ lạc hậu vào VN. Thường thường họ bỏ thầu giá thấp, mà VN trong giai đoạn đầu lại chủ yếu coi trọng về giá, hơn nữa thủ đoạn của TQ làm ăn, theo cách hối lộ, mua chuộc “có nghề” của họ

T.S Ngô Trí Long

Điều đó đã dẫn đến việc các ngành cơ khí, dệt may và ngay cả ngành hàng nông sản xuất khẩu… cũng đang phải gánh chịu hậu quả do phụ thuộc quá nhiều vào TQ. Không chỉ thế, việc đầu tư kinh tế của TQ cũng được dư luận cho là hình thức núp bóng để phục vụ cho các mục tiêu quân sự và quốc phòng đối với VN.

Thậm chí người Trung Quốc còn đặt nhiều tên đường VN bằng tiếng Hoa. Ảnh: đường Dong Fang, được tập đoàn điện khí Dong Fang Trung Quốc, trúng thầu xây dựng nhà máy nhiệt điện Hải Phòng, đặt tên. Ở công trình này, tên các con đường nội bộ đều do nhà thầu T

Thậm chí người Trung Quốc còn đặt nhiều tên đường VN bằng tiếng Hoa. Ảnh: đường Dong Fang, được tập đoàn điện khí Dong Fang Trung Quốc, trúng thầu xây dựng nhà máy nhiệt điện Hải Phòng, đặt tên. Ở công trình này, tên các con đường nội bộ đều do nhà thầu Trung Quốc đặt.

Theo truyền thông của nhà nước cho hay, trung tướng Đồng Sỹ Nguyên một quan chức cao cấp đã từng đặt câu hỏi, vì sao các doanh nghiệp TQ lại chọn thuê đất và đầu tư chủ yếu ở các tỉnh khu vực biên giới phía Bắc, hoặc các vị trí chiến lược trọng điểm như Tây nguyên, Cam ranh… Đặc biệt ở khu vực Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, nơi có trục đường 7, đường 8 sang Lào, đường đi lên Tây Nguyên và họ đưa công nhân của họ vào với số lượng rất lớn?

Những lãnh địa riêng của Trung Quốc trên đất Việt

Cụ thể hàng loạt các cơ sở kinh tế lớn cùng hàng trăm kho bãi của các công ty Trung Quốc chạy dọc bờ sông Ka Long – Móng Cái, một địa điểm quan trọng cho an ninh quốc phòng vùng Đông Bắc. Hay Đặc khu kinh tế Vũng Áng được thuê trong 70 năm, hiện tại Trung Quốc đang biến nó thành một lãnh địa riêng, khi xây tường bao xung quanh, người Việt không thể vào được. Điều đó đã tạo ra một tiền lệ nguy hiểm rằng, ở chỗ nào người Trung Quốc đầu tư, thì người Việt không được vào.

Đáng chú ý, khu vực Vũng Áng nằm đối diện và cách đảo Hải Nam -Trung Quốc chỉ khoảng vài trăm km. Về phía tây, từ cảng Vũng Áng đi qua Lào chỉ có 50km, đây là khu vực có con đường chiến lược do Trung Quốc xây dựng, đồng thời di dân sang ở và phục vụ làm đường. Kết nối con đường này với Vũng Áng và căn cứ quân sự Tam Á trên đảo Hải nam là rất nguy hiểm.

Tôi cũng không hiểu tại làm sao mà trên lãnh thổ Việt Nam lại có các đơn vị Trung Quốc kinh doanh đóng kín, mà như người dân ở đấy nói lại, như ở Hà Tĩnh công an vào họ cũng không cho vào

TS. Lê Đăng Doanh

Bình luận về vấn đề này, TS. Lê Đăng Doanh nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế TW bày tỏ sự lo ngại và thấy rằng đây là một mưu đồ có tính toán rất nguy hiểm, đồng thời là hiểm họa rất lớn về lâu dài của TQ. Điều này nếu không được giải quyết sẽ dẫn đến việc bảo vệ kiều dân như trường hợp đã xảy ra ở Ukraina vừa qua.

TS. Lê Đăng Doanh nói:

“Tôi cũng không hiểu tại làm sao mà trên lãnh thổ Việt Nam lại có các đơn vị Trung Quốc kinh doanh đóng kín, mà như người dân ở đấy nói lại, như ở Hà Tĩnh công an vào họ cũng không cho vào. Họ xây một khu riêng và dựng hàng rào lên kín mít và trong đó người dân không biết trong đấy họ làm cái gì và đấy là công nhân hay là lính hay là họ định chuẩn bị cái gì đây.  Nếu như vậy ở đấy đã thành ra lãnh địa của Trung Quốc rồi chứ còn gì nữa!”

Nói về thực trạng và các nguyên nhân chủ quan dẫn đến tình trạng trên, bà Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ cho rằng phía VN đã rất mất cảnh giác. Theo bà công tác quản lý địa bàn của các cơ quan chức năng địa phương hiện rất lỏng lẻo, để mặc người Trung Quốc vào đầu tư hoặc làm việc tại các địa bàn trọng yếu mà không có giấy phép. Điển hình trong số này là vụ việc dân Trung Quốc nuôi tôm rất nhiều năm ở sát cảng Cam Ranh 300m, mà trong một thời gian dài các cơ quan chức năng thành phố này không hề biết.

Bà Phạm Chi Lan nói:

“Thực tế có nhiều doanh nghiệp hoặc cá nhân Trung Quốc vào làm ăn ở Việt Nam theo kiểu không có phép tắc gì cả và gây ra những nhiễu loạn trong xã hội cũng như gây thiệt hại cho người Việt Nam rất nhiều. Như chuyện họ đi nuôi tôm, nuôi cá ở vùng biển Khánh Hòa, hoặc đi thuê người dân trồng khoai lang ở Vĩnh Long hoặc là đi thu mua các loại rễ cây, sừng móng trâu bò v..v.. Những câu chuyện gần như là những câu chuyện thường kỳ trên báo chí rồi.”

Trong bài “Ai nguy hiểm hơn ai ?”, tác giả Nguyễn Hưng Quốc đã cảnh báo hiểm họa không thể lường hết được của lực lượng lao động chui người TQ đang có mặt rất đông từ Bắc chí Nam ở VN và cho rằng : “Đáng nói hơn nữa là những người Trung Quốc này làm gì ở Việt Nam? Nếu họ chỉ làm lậu không thì về phương diện kinh tế và xã hội, hậu quả đã rất đáng lo ngại. Còn nếu họ làm thêm việc gì khác nữa thì hậu quả thật không thể lường hết được. Nhất là khi tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc không còn kìm giữ được nữa. Trong trường hợp ấy, rõ ràng là Trung Quốc đã có sẵn một lực lượng nằm vùng khổng lồ”.

Cảnh báo của giới chuyên gia như vừa nêu được đưa ra lâu nay; thế nhưng rồi các nhà thẩu Trung Quốc vẫn nhận được dự án tại Việt Nam. Mới đây là dự án đường cao tốc Đà Nẵng- Quảng Ngãi. Nhiều người thắc mắc tại sao chính quyền Hà Nội vẫn tiếp tục mất cảnh giác đến như thế!

 

Ông Bill Clinton trở lại Việt Nam

Ông Bill Clinton trở lại Việt Nam

Thứ ba, 15 tháng 7, 2014

Cựu tổng thống Mỹ Bill Clinton quan tâm đến châu Á

Cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton dự kiến trở lại Việt Nam tuần này trong một phần chuyến thăm châu Á với chủ đề phòng chống HIV/AIDS.

Trong chuyến thăm một ngày, ông Clinton sẽ thăm một trại trẻ mồ côi ở ngoài Hà Nội hôm 18/7 để chứng kiến chương trình ngăn ngừa bệnh lao ở trẻ em nhiễm HIV.

Quỹ Clinton của cựu tổng thống quan tâm nhiều đến châu Á – Thái Bình Dương trong các lĩnh vực như y tế, thay đổi khí hậu.

Chuyến thăm châu Á của ông Clinton bắt đầu từ hôm 16/7 với việc thăm một bếp ăn ở Jaipur, Ấn Độ, cung cấp đồ ăn trưa cho học sinh.

Ông cũng sẽ thăm Indonesia, Papua New Guinea và kết thúc bằng bài phát biểu tại một hội nghị về AIDS ở Úc ngày 23/7.

Quỹ Clinton cho biết ông đã thăm châu Á – Thái Bình Dương 14 lần, trong đó có 11 lần trong tư cách tổng thống.

Năm 2000, ông Bill Clinton là tổng thống Mỹ đầu tiên đến thăm Việt Nam kể từ năm 1975.

Ông cũng là tổng thống Mỹ loan báo việc phục hồi quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào tháng Bảy 1995.