Thất nghiệp, sinh viên trường y xin nuôi bệnh thuê

Thất nghiệp, sinh viên trường y xin nuôi bệnh thuê

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2014-07-14

07142014-medc-stu-ask-patien-care.mp3

Ngồi vật vạ cùng người nhà bệnh nhân để chờ các khoa mở cửa vào chăm sóc bệnh nhân....

Ngồi vật vạ cùng người nhà bệnh nhân để chờ các khoa mở cửa vào chăm sóc bệnh nhân….

RFA

Mùa hè đến, đa phần sinh viên về quê nghỉ ngơi để chuẩn bị cho năm học mới. Thế nhưng ở các bệnh viện, đặc biệt là các bệnh viện vip, nơi có các quan chức và giới nhà giàu nằm dưỡng bệnh, một số sinh viên trường y đã chọn việc ở lại chăm sóc bệnh nhân để kiếm tiền phụ giúp gia đình, tích lũy cho năm học mới và dành dụm cho đến lúc ra trường có cái để bôi trơn những bộ hồ sơ xin việc. Ở bệnh viện C Đà Nẵng, nhóm các sinh viên trường Trung cấp Y Đà Nẵng đi chăm bệnh thuê có lúc lên đến vài chục người. Những ngày cao điểm, có thể con số này ngót nghét trăm người.

Nhờ vào những quan chức thiên tài

Một sinh viên tên Nguyên, đã tốt nghiệp hệ trung cấp y, nghĩa là trở thành một y tá điều dưỡng khi vào nghề nhưng cô đã thất nghiệp ba năm nay, chia sẻ:“Phòng em ở có 5 đứa cũng học ngành y giống em  nhưng chưa có đứa nào có việc cả. Ngày xưa em đi học thì đi làm thêm, em trông bà mẹ của một cô làm bên sở nhà đất, hai năm sau thì mẹ của cô này mất, cô có mấy người bạn nhờ trông nên nhờ trông vậy đó, xong rồi cứ thế biết biết rồi trông miết luôn. Tụi em cũng mong có một chỗ làm ổn định lắm chứ nhưng nộp hồ sơ miết mà họ không gọi.”

Theo Nguyên, vấn đề sinh viên tốt nghiệp, ra trường bị thất nghiệp là một vấn đề hết sức thời sự tại Việt Nam và đây cũng là căn bệnh vô phương cứu chữa. Muốn có việc làm, việc đầu tiên là tự hỏi tiền đâu. Khi trả lời được câu hỏi tiền đâu xong, lúc ấy hẳn vác đơn đi xin việc. Bởi vì các tấm bằng đại học còn thất nghiệp đầy rẫy ra đấy thì nghĩa lý gì tấm bằng trung cấp như Nguyên.

Nguyên lắc đầu chua chát nói thêm rằng tấm bằng đại học, cao đẳng và trung cấp ở Việt Nam chỉ có giá trị ngang với cái vé vào cổng bất kì cơ quan nào. Mà đã là vé thì ai có tiền nhiều, có quyền nhiều sẽ tự biết sẽ trang bị cho họ loại vé nào, vé gì. Và chỉ có ở Việt Nam mới có những cán bộ thiên tài, không có xứ nào có được những cán bộ thiên tài giống như Việt Nam.

” Phòng em ở có 5 đứa cũng học ngành y giống em nhưng chưa có đứa nào có việc cả. Ngày xưa em đi học thì đi làm thêm, em trông bà mẹ của một cô làm bên sở nhà đất, hai năm sau thì mẹ của cô này mất, cô có mấy người bạn nhờ trông nên nhờ trông vậy đó, xong rồi cứ thế biết biết rồi trông miết luôn

Một sinh viên tên Nguyên”

Để chứng mình thêm cho luận điểm về cán bộ thiên tài của mình, Nguyên đưa ra hàng loạt cái tên cán bộ cao cấp trong bộ máy cầm quyền từ cấp huyện đến cấp trung ương mà khi còn làm những chức vụ lẻ tẻ, có người chỉ mới học xong lớp sáu, lớp bảy, nhưng đùng một cái, khi lên làm quan cấp cao, họ học băng từ lớp bảy sang đại học và tốt nghiệp đại học chỉ trong vòng bốn hoặc năm năm. Trong khi đó, một người bình thường, không phải là thiên tài thì có thông minh cỡ nào cũng tốn trên mười năm để hoàn thành quá trình học tập này.

Bởi chính yếu tố thiên tài của các cán bộ, các quan chức quá nhiều, hay nói cách khác là cán bộ thiên tài quá đông trong bộ máy nhà nước, chiếm hầu hết các cơ quan sự nghiệp hành chính Việt Nam mà đáng sợ hơn là các quan chức thiên tài này lại sống lâu sống khỏe, có người tuy mặt mày già khụ nhưng lý lịch chỉ chưa đầy 50 tuổi nên còn lâu họ mới nghỉ hưu. Mà khi họ trụ quá lâu như thế thì cơ hội làm việc cho các trí thức trẻ, các sinh viên có bằng cấp e rằng nhỏ lắm, chẳng khác nào lạc đà chui qua lổ kim.

Đó là chưa muốn nhắc đến chuyện thế vị ở các cơ quan nhà nước, cứ theo đà cha truyền con nối, cha làm giám đốc, con có học dốt chăng nữa vẫn có vé vào ngồi ghế hội đồng quản trị hoặc đoàn chủ tịch, bàn giám hiệu gì đó trong các cơ quan. Mà một khi các quan chức thiên tài giữ vững truyền thống cha truyền con nối thì cơ hội cho Nguyên đi chăm sóc bệnh nhân kiếm tiền đắp đổi qua ngày là dài dài, mút mùa lệ thủy!

Kiếm cơm chật vật và những cuộc cạnh tranh đầy nước mắt

Một sinh viên tên Cẩm Tú, đang học năm thứ hai trường trung cấp y tế Đà Nẵng, thường tranh thủ những ngày cuối tuần đi chăm sóc bệnh nhân ở bệnh viện C Đà Nẵng, tâm sự: “Thì lúc đầu cũng hơi mặc cảm vì bạn mình có ai đi chăm đâu nhưng sau này cũng bình thường thôi! Ra trường thì khả năng xin việc khó.”

Cẩm Tú tiết lộ với chúng tôi rằng hiện tại, có một cuộc cạnh tranh ngấm ngầm và nhiều nước mắt giữa các thế hệ chăm sóc bệnh nhân thuê trong các bệnh viện Đà Nẵng. Đó là cuộc cạnh tranh giữa các sinh viên trường y với đầy đủ chuyên môn của một y tá trong tay, cộng thêm sức trẻ với những người nuôi bệnh thuê vốn không có nghề nghiệp, xuất thân nghèo khổ.

” Một cuộc cạnh tranh ngấm ngầm và nhiều nước mắt…Đó là cuộc cạnh tranh giữa các sinh viên trường y với đầy đủ chuyên môn của một y tá trong tay, cộng thêm sức trẻ với những người nuôi bệnh thuê vốn không có nghề nghiệp, xuất thân nghèo khổ”

Nếu như các sinh viên chăm sóc với giá 300 ngàn đồng mỗi ngày và liên tục được người nhà bệnh nhân yêu cầu chăm sóc thì những người chăm sóc bệnh nhân cao tuổi, không có nghề lại rất vất vả, chật vật đi tìm người để chăm sóc với giá từ 200 đến 250 ngàn đồng, đời sống trở nên bấp bênh, không ổn định trong lúc bản thân họ còn gánh nặng gia đình, con cái ăn học.

Theo nhận xét của Cẩm Tú thì tình trạng này đang ngày càng khốc liệt hơn, chính Cẩm Tú đôi khi cũng phải rơi nước mắt khi chịu khó suy nghĩ về cuộc cạnh tranh ngấm ngầm giữa các sinh viên với những người nghèo khổ mà câu chuyện cũng chỉ xoay quanh chén cơm manh áo. Nếu như Cẩm Tú và các bạn của cô phải chật vật kiếm tiền để lo lót công việc lâu dài thì những người mẹ, người chị làm công việc chăm sóc bệnh nhân thuê kia cũng chật vật kiếm tiền để lo cho con em của họ đến trường. Suy cho cùng, đều kiếm tiền để chung chi, nộp và tồn tại, chẳng có gì khác!

Trong lúc Cẩm Tú và những sinh viên trẻ trung, nhanh nhẹn khác được người nhà chú ý và chấp nhận bỏ ra ba trăm ngàn đồng trên mỗi ngày đêm để chăm sóc người thân bị bệnh, và nhóm của Tú phải đạp lên những ray rứt khi cạnh tranh để làm việc, đương nhiên là không phải hoàn toàn không trả giá cho cơ hội này.

Có những mức chung chi ngầm bằng cách này hoặc cách khác với một số y tá trong bệnh viện để họ chấp nhận cho nhóm vào chăm sóc bệnh nhân mà không làm khó. Và cũng không hiếm những bệnh nhân quờ quạng, có dấu hiệu dê sòm với các cô sinh viên trẻ. Hầu như công việc nào của các sinh viên sau khi ra trường đều phải trả giá không nhỏ về cả tiền bạc, lòng tự trọng và danh dự.

Hiện tượng thất nghiệp tràn lan của các sinh viên sau khi ra trường đang là căn bệnh của xã hội Việt Nam. Và không riêng gì bất kì ngành nghề nào, hầu như tất cả mọi ngành nghề đều vướng phải nạn thất nghiệp. Đặc biệt, trong lúc giàn khoan HD 981 trở thành đề tài nóng của thời sự, nạn thất nghiệp càng tăng dữ dội. Với đà này, chỉ một thời gian ngắn, người lao động Việt Nam sẽ gặp nhiều khốn đốn!

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

Không phải 6 mà có tới 13 ngư dân bị Trung Quốc bắt giữ

Không phải 6 mà có tới 13 ngư dân bị Trung Quốc bắt giữ
July 13, 2014

Nguoi-viet.com


HÀ NỘI 13-7 (NV) –
Bộ Ngoại Giao Việt Nam chỉ đề cập đến sáu ngư dân Quảng Ngãi bị Trung Quốc bắt hôm 3 Tháng Bảy, không đả động gì tới bảy ngư dân Quảng Bình bị bắt giữ trước đó hai tuần.

Mẹ thuyền trưởng Thành (trái) và vợ các ngư dân trên tàu QB 93256 không biết lúc nào thì con và chồng của họ được trả tự do. (Hình: Sài Gòn Giải Phóng)

Cuối tuần trước, Bộ Ngoại Giao loan báo Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc, đã cử đại diện tới thành phố Tam Á, tỉnh Hải Nam, để tiếp xúc với sáu ngư dân Quảng Ngãi, bị Trung Quốc bắt giữ trong vịnh Bắc Bộ.

Sáu ngư dân vừa kể làm việc trên tàu đánh cá mang số hiệu QNg 94912, bị Trung Quốc cáo buộc “xâm phạm hải phận Trung Quốc,” trong khi các nhân chứng là đồng nghiệp của họ trên những tàu đánh cá khác, cùng có mặt tại vịnh Bắc Bộ vào thời điểm họ bị cảnh sát biển Trung Quốc bắt giữ, khẳng định, Trung Quốc đã bắt giữ tàu QNg 94912 và sáu ngư dân khi họ đang hành nghề  trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Vụ Trung Quốc bắt giữ tàu QNg 94912 và sáu ngư dân Quảng Ngãi được báo chí Việt Nam đồng loạt loan tải, khi các nhân chứng báo tin cho gia đình của các nạn nhân và thân nhân của các nạn nhân kể với báo giới. Ngay sau đó, công chúng Việt Nam đòi chính quyền Việt Nam phải hành động.

Thực tế cho thấy, chính quyền Việt Nam đã giữ im lặng suốt từ ngày 20 Tháng 6 đến nay, không hề đả động hay thực hiện bất kỳ hành động nào để “tìm hiểu vụ việc” bảy ngư dân ở Quảng Bình cũng bị Trung Quốc bắt giữ từ hạ tuần Tháng Sáu.

Trên số mới nhất, tờ Sài Gòn Giải Phóng loan báo, hôm 20 Tháng sáu, tàu đánh cá mang số hiệu QB 93256, do ông Nguyễn Văn Thành, chủ tàu kiêm thuyền trưởng cùng với sáu ngư dân ngụ ở huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, đã bị cảnh sát biển Trung Quốc bắt giữ khi đang hành nghề tại vịnh Bắc Bộ.

Bà Nguyễn Thị Nghĩa, mẹ ông Nguyễn Văn Thành, kể với phóng viên tờ Sài Gòn Giải Phóng rằng, gia đình bà vay mượn khắp nơi để có 800 triệu mua tàu QB 93256 và con tàu này bị Trung Quốc bắt giữ ngay trong chuyến đi biển đầu tiên. Mười ngày sau khi tàu QB 93256 bị Trung Quốc bắt giữ bà mới biết tin. Ba tuần qua, con tàu và bảy ngư dân Việt Nam, trong đó có con trai bà đang bị giữ ở cảng Nam Hải.

Hôm 12 Tháng Bảy, Chi Cục Khai Thác và Bảo Vệ Nguồn Lợi Thủy Sản của tỉnh Quảng Bình xác nhận với tờ Sài Gòn Giải Phóng về việc bảy ngư dân bị Trung Quốc bắt giữ từ ba tuần trước. Đại diện cơ quan này nói thêm, theo một số nhân chứng, hôm 20 Tháng Sáu, phi cơ và một số tàu có vũ trang của Trung Quốc đã vờn đuổi một nhóm tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam và không may là tàu QB 93256 bị bắt giữ.

Theo chủ tịch xã Quảng Phú, ông chính là người báo tin tàu QB 93256 bị Trung Quốc bắt giữ cho gia đình ông Thành và gia đình sáu ngư dân khác. Lý do ông biết tin là vì “phía Trung Quốc báo tin qua kênh ngoại giao, tỉnh nhận tin, xác minh qua Đồn Biên Phòng Roòn, rồi báo lại cho xã để xã động viên gia đình các ngư dân.”

Chủ tịch huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, nói thêm là họ đang nhờ Cục Lãnh Sự của Bộ Ngoại Giao Việt Nam “hoạt động tích cực để đưa các ngư dân về sớm.” Tất cả những ý kiến vừa kể chỉ ra cho thấy, chính quyền Việt Nam đã biết tin bảy ngư dân Quảng Bình bị bắt từ lâu nhưng cho tới nay vẫn chưa phản ứng gì.

Giống như khu vực đang tranh chấp ở quần đảo Hoàng Sa, trong thời gian vừa qua, tình hình vịnh Bắc bộ không êm ả.

Hồi thượng tuần Tháng Sáu, tàu đánh cá mang số hiệu HP 90258 của ông Nguyễn Đức Quang, ngụ tại Hải Phòng đã bị tàu của Trung Quốc tấn công tại vịnh Bắc Bộ. Theo ông Quang, sáng 6 Tháng Sáu, khi đang thả neo để câu mực cách đảo Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh, khoảng 30 hải lý, thì tàu của ông bị một con tàu treo cờ Trung Quốc, mang số hiệu 45024, tấn công. Khoảng 20 người mặc quân phục trên tàu của Trung Quốc đã liệng vỏ chai vào tàu của ông Quang, dùng sào đập bể các bóng đèn cao áp, xịt vòi rồng vào tàu.

Khi ông Quang lái tàu chạy trốn, tàu của Trung Quốc đã rượt đuổi suốt hai tiếng, đâm vào tàu của ông Quang nhiều lần, khiến con tàu bị vỡ đuôi, bể mạn trái, vỡ toàn bộ kính và giàn đèn cao áp dùng để câu mực.

Đến nay, chính quyền Việt Nam vẫn chưa lên tiếng phản đối và đòi Trung Quốc điều tra về vụ tấn công tàu HP 90258. (G.Đ.)

 

VIỆT NAM LỌT VÀO TOP 5 NƯỚC CÓ TỶ LỆ PHÁ THAI CAO NHẤT THẾ GIỚI

VIỆT NAM LỌT VÀO TOP 5 NƯỚC
CÓ TỶ LỆ PHÁ THAI CAO NHẤT THẾ GIỚI

Trích EPHATA 618

Thống kê của Quỹ Dân Số Liên Hiệp Quốc công bố hôm 8.7.2014 tại Sàigòn xác nhận, Việt Nam là một trong 5 quốc gia có số vụ phá thai cao nhất thế giới.

Theo VNExpress, những con số được công bố tại cuộc mít tinh kỷ niệm Ngày Dân Số Thế Giới diễn ra ở Sàigòn ngày nói trên đã gây chấn động dư luận xã hội Việt Nam. Tài liệu này nói rằng tỉ lệ sinh con của người phụ nữ trong độ tuổi từ 15 đến 19 tuổi, chiếm tỉ lệ 4.6% trong tổng số các sản phụ tại Việt Nam. Không chỉ vậy, Sàigòn còn đứng đầu số vụ nạo thai ở Việt Nam và dẫn đầu các quốc gia Ðông Nam Á.

So với tỉ lệ phá thai ở tuổi vị thành niên của nữ giới Việt Nam cách nay 4 năm, con số này đã tăng từ 2% đến 4.6% số vụ phá thai, cao gấp hai lần, tính đến năm 2014. Quỹ Dân Số Liên Hiệp Quốc cho rằng, việc mang thai và phá thai ở phụ nữ vị thành niên sẽ để lại nhiều hậu quả nặng nề cho người trẻ về thể chất lẫn tinh thần.

Về nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, các chuyên gia ngành dân số thống kê đổ lỗi cho “một bộ phận không nhỏ vị thành niên còn hạn chế kiến thức và kỹ năng săn sóc sức khỏe sinh sản.” Ngành Dân Số Sàigòn cho rằng, cần phải “nâng cao kiến thức để thay đổi hành vi của giới trẻ, để hạ thấp tỉ lệ phá thai và sinh con của người Việt Nam trong độ tuổi vị thành niên”. ( Chú thích riêng của báo Ephata: Trong thực tế người ta nói phải thay đổi hành vi tính dục của giới trẻ cũng đơn thuần chỉ là bằng mọi cách tuyên truyền vận động để giới trẻ sử dụng… bao cao su ).

Trong khi đó, báo mạng VietNamNet dẫn lời bà Tô Thị Kim Hoa, phó giám đốc Sở Y Tế Sàigòn nói rằng, tỉ lệ nạo thai ở người vị thành niên tại Việt Nam chiếm đến 20% trong tổng cộng khoảng 300.000 trường hợp phá thai mỗi năm. Thống kê của Ủy Ban Quốc Gia Dân Số và Kế Hoạch Hóa Gia đình Việt Nam nói rằng, cứ một trẻ ra đời thì có một trẻ bị phá bỏ. Tính tổng cộng mỗi năm có khoảng 1.6 triệu bào thai bị giết chết khi còn trong bụng mẹ ( Chú thích riêng của báo Ephata: Con số 1,6 triệu ca phá thai một năm nêu trong bài báo này đã được chính Nhà Nước công bố từ năm 2006. Ngay từ khi ấy, người ta đã tỏ ra dè dặt cho biết đó chỉ là con số thống kê từ các cơ sở y tế công chứ không tính được cả số nạo phá thai tại các phòng khám tư, các điểm phá thai chui lủi, nhan nhản trong các thành phố lớn. Các bác sĩ BVSS cho biết con số ước tính phải lên đến 3 triệu ca mỗi năm ).

Cũng theo VietNamNet, nạo thai ở Việt Nam hiện nay đã trở thành hiện tượng công khai, với số cơ sở nhận làm “dịch vụ” này mọc như nấm tại nhiều thành phố lớn như Hà Nội, Sàigòn… Tại một số con đường, các cơ sở nạo thai hình thành san sát nhau, biến thành khu phố, khu “chợ nạo thai.”

Hậu quả trầm trọng đối với sức khỏe của người nạo thai, nhất là ở những người còn trong tuổi vị thành niên là không thể chối cãi được. Một trong các nạn nhân, bà TTL, cư dân quận 5, Sàigòn cho biết, sau ba lần nạo thai, bà lên cơn lạnh run cầm cập khi ngoài trời đổ mưa. Nạo thai nhiều lần, theo các chuyên viên y tế, người phụ nữ còn bị mắc nhiều di chứng nặng suốt đời, ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe thể chất trong quãng đời còn lại.

Theo báo NGƯỜI VIỆT, 9.7.2014

 

Thoát Trung”, “thoát Cộng” và “thoát Sợ”, cái “thoát” nào là nền tảng?

Thoát Trung”, “thoát Cộng” và “thoát Sợ”, cái “thoát” nào là nền tảng?

Nguyễn Chính Kết (Danlambao)“…Một trong những khẩu ngôn rất giá trị nói lên bí quyết để “thoát Cộng” là: “Đừng sợ những gì cộng sản làm, hãy làm những gì cộng sản sợ”. Khẩu ngôn này gồm hai vế “Đừng sợ” và “Hãy làm”. “Đừng sợ” là nội dung chính của cả bài này. Còn “Hãy làm” thì chúng ta cần xác định xem cộng sản sợ gì nhất. Thưa: điều cộng sản sợ nhất hiện nay, chính là sợ người dân không còn sợ khủng bố nữa, nghĩa là CSVN rất sợ chính sách khủng bố của mình bị vô hiệu hóa, không còn hữu hiệu hay tác dụng nữa. Cộng sản tồn tại được là nhờ người dân sợ khủng bố. Khi người dân không còn sợ khủng bố nữa, thì đó là lúc nỗi sợ hãi sẽ quay ngược trở lại để trở thành nỗi kinh hoàng cho chính kẻ khủng bố. Và đó là lúc chính thức báo hiệu “hết thời” cho cả một chế độ phi nhân tàn bạo…”

Chuyện “thoát Trung” là điều mà đảng CSVN cần thiết phải làm, có trách nhiệm phải làm và có thể làm được để đất nước thoát khỏi hiểm họa Bắc thuộc lần thứ năm đang có nguy cơ rất lớn trở thành hiện thực. Tuy nhiên, cho tới nay, nhà cầm quyền CSVN chưa hề tỏ một dấu hiệu nào đáng tin tưởng chứng tỏ thiện chí thật sự muốn “thoát Trung” để cứu nguy đất nước cả.

Hiện nay, qua việc bỏ tù những người chống Trung Cộng xâm lược như Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Việt Khang, Bùi Minh Hằng, Phương Uyên, Nguyên Kha, v.v… và qua việc đàn áp mạnh tay những người biểu tình chống Trung Cộng xâm lược, ta thấy rõ ràng rằng những người dân yêu nước, muốn bảo vệ lãnh thổ lãnh hải, chống Trung Cộng xâm lược… đều không chỉ bị Trung cộng mà ngay cả CSVN coi như kẻ thù cần phải tiêu diệt.

Hành động của Trung cộng xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam, bắn giết ngư dân Việt Nam, đặt nhiều giàn khoan dầu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, rõ ràng là hành động xâm lược Việt Nam cách nghiêm trọng, thế mà CSVN không hề có một hành động nào mạnh mẽ và hữu hiệu ngăn cản hành động xâm lược đó cả. Chính vì thế, hành động xâm lược của Trung cộng có điều kiện để càng ngày càng leo thang. Qua thái độ của CSVN đối với Trung Cộng và đối với người dân yêu nước, ta có thể đoán ngay được rằng CSVN vẫn sẵn sàng làm công cụ cho Trung cộng, tiếp tay với Trung cộng trong mưu đồ thôn tính Việt Nam.

Nếu tình trạng này cứ tiếp diễn, ắt hẳn đất nước Việt sẽ không thoát khỏi tình trạng bị Trung Cộng thôn tính. Đừng chờ khi Việt Nam đã trở thành một tỉnh của Trung cộng rồi, chúng ta mới dám xác định những điều vừa kể.

Ý thức được nguy cơ ấy, chẳng lẽ dân Việt lại phó thác số phận dân tộc mình cho đảng CSVN quyết định ra sao cũng được? Chẳng lẽ cả một dân tộc có lịch sử chống Tàu rất anh hùng lại phó mặc để CSVN dâng đất nước cho Tàu? Chẳng lẽ chúng ta lại sẵn sàng cúi đầu chấp nhận làm thân phận người dân thuộc địa của Trung cộng?

Trong hoàn cảnh này, người dân Việt Nam nếu không tự cứu mình thì chẳng ai có thể cứu mình được. Toàn dân chúng ta phải dành lại quyền quyết định số phận của mình chứ không thể phó thác quyền ấy cho đảng CSVN, vốn đã từng nhiều lần bán đất bán biển của tổ tiên cho kẻ thù dân tộc. Vì thế, vấn đề trước mắt của người dân Việt trong và ngoài nước hiện nay không phải là chuyện “thoát Trung”, mà là “thoát Cộng”. Nghĩa là phải thoát khỏi ách thống trị của chế độ CSVN, không để cho CSVN đè đầu cưỡi cổ và toàn quyền định đoạt số phận cho cả dân tộc nữa. Một khi đã “thoát Cộng” thì việc “thoát Trung” cũng trở nên rất dễ dàng.

Đối với nhà cầm quyền CSVN, “thoát Trung” vốn chỉ là cái ngọn, còn cái gốc của vấn đề này là CSVN có chấp nhận từ bỏ tham vọng muốn “muôn đời trường trị” trên dân tộc Việt Nam hay không, có sẵn sàng từ bỏ quyết tâm bám lấy quyền lực để cưỡi cổ đè đầu người dân Việt Nam hay không, có thật sự từ bỏ ý định làm công cụ cho tham vọng bành trướng của Trung Cộng hay không. Nếu không, việc “thoát Trung” chỉ là ảo tưởng!

Tương tự như vậy đối với người dân Việt Nam, “thoát Cộng” cũng chỉ là cái ngọn, còn cái gốc của vấn đề là người dân Việt có thoát được nỗi sợ hãi mà chế độ CSVN đã gieo vào lòng mỗi người dân từ nhiều thập niên qua hay không. Nếu không, việc “thoát Cộng” cũng chỉ là ảo tưởng! Nỗi sợ hãi này đã trở thành “cố hữu”, đã ngấm vào mạch máu của từng người dân Việt; vì ngay từ khi cướp được chính quyền năm 1945, CSVN đã áp dụng ngay chính sách khủng bố để giết hại, bỏ tù, xách nhiễu, đe dọa bất kỳ người dân nào dám nói hay dám làm điều gì bất lợi cho tham vọng “muôn đời trường trị” của họ. Vụ Nhân Văn Giai Phẩm là một điển hình. Nỗi sợ hãi đối với sự khủng bố của CSVN vẫn luôn luôn đè nặng trên tâm thức của rất nhiều người Việt, kể cả trong nước lẫn hải ngoại, khiến họ không dám làm những gì mà lương tâm, lòng yêu nước hay sự hợp lý đòi hỏi. Đây là thành công rất lớn của cộng sản, nhờ vậy mà chế độ CSVN vẫn tồn tại suốt gần 70 năm qua, dù đảng này từ rất lâu đã trở nên bất xứng trong việc lãnh đạo đất nước, dù đảng này đã làm đất nước tụt hậu hàng trăm năm so với những nước chung quanh, dù dân chúng từ lâu rất căm phẫn trước những hành vi vô cùng tàn bạo của đảng này đối với người dân…

Đừng nói gì đến nỗi sợ của người dân trong nước là những người đang trực tiếp sống dưới sự cai trị hà khắc của CSVN, mà ngay cả người Việt ở hải ngoại, dù sống trong những đất nước tự do, vẫn có rất nhiều người bị nỗi sợ ấy ám ảnh. Thật vậy, nhiều người ở hải ngoại không dám nói gì đụng chạm đến chế độ cộng sản dù điều nói đó là sự thật hay là điều cần thiết phải nói. Hoặc họ không dám công khai đi biểu tình để lên tiếng thay cho người dân trong nước đang bị CSVN bức hại cách bất công và bị bịt miệng không nói lên được nỗi uất ức của mình.

Ở những đất nước tự do như thế, tại sao họ lại sợ CSVN vốn cách xa có khi tới nửa vòng trái đất? họ sợ những gì? − Thưa: họ sợ không được toà đại sứ hay lãnh sự CSVN tại đất nước họ đang sống cấp giấy phép cho họ về Việt Nam; họ sợ khi về thăm quê hương sẽ bị công an CSVN mời làm việc, gây phiền nhiễu cho họ, vân vân và vân vân. Nếu người dân của một đất nước cứ chấp nhận “cúi đầu”, “khom lưng” như vậy, thì dân tộc ấy có bị những chế độ bất lương cưỡi lên đầu lên cổ mình hẳn nhiên không có gì là lạ?!

Nỗi sợ bị CSVN khủng bố khiến rất nhiều người dân không dám phản đối những tội ác của các cán bộ CSVN. Ngay cả những vị rao giảng những tôn giáo có chủ trương chống ác khuyến thiện, cũng vì sợ mà đành phải chấp nhận cái nguỵ biện này: “Từ bản chất, tôn giáo nào cũng có sứ mạng chống ác và khuyến thiện; tuy nhiên chống lại những tội ác do ai làm thì cũng đều tốt, đều nên làm và phải làm; nhưng chống lại tội ác do CSVN gây nên thì không được phép, vì chống ác trong trường hợp này là làm chính trị, mà tôn giáo thì không làm chính trị!” Nhiều vị hùng hồn rao giảng chủ trương “vô úy” hay khuyến khích hành vi “vô úy thí” của Phật, hay cổ võ lời khuyên “Đừng sợ những kẻ chỉ làm hại được thân xác mà không làm hại được linh hồn…!” của Đức Giêsu [1], nhưng chính bản thân họ lại rất sợ bị công an CSVN phiền nhiễu, đến độ không dám nói sự thật, không dám chống bất công, đành chấp nhận nói sai sự thật, sẵn sàng dung dưỡng bất công!

Nhưng rất may cho dân tộc ta là hiện nay xuất hiện càng ngày càng đông những người dân vượt thắng sợ hãi, không sợ khủng bố, nhất là giới trẻ. Họ dám mạnh mẽ lên tiếng tố cáo tội ác của CSVN, kể cả tội của những lãnh đạo cao cấp nhất chế độ, dù biết rằng sau đó họ có thể bị CSVN bỏ tù hoặc mưu hại. Trong số đó có nhiều người rất trẻ tuổi và là phái yếu như Công Nhân, Thanh Nghiên, Thục Vy, Hoàng Vy, Minh Hạnh, Phương Uyên, v.v… Bí quyết gì khiến họ dám “thoát Sợ”, dám lên tiếng cho sự thật, cho công lý, dám làm những hành động mà lòng yêu nước đòi hỏi?

Bí quyết để “thoát Sợ” chính là sẵn sàng chấp nhận chính những gì mà bản năng khiến mình sợ sẽ xảy ra. Thật vậy,

− Ai sẵn sàng chấp nhận chết sẽ không còn sợ chết nữa.

− Ai sẵn sàng chấp nhận vào tù sẽ không còn sợ tù nữa.

− Ai chấp nhận bị công an liên tục mời “làm việc”, bị công an bắt cóc giữa đường, bị công an hành hung… thì sẽ không còn sợ những thứ ấy nữa.

Hiện nay, biết bao người thuộc đủ mọi giới, mọi tầng lớp đã thoát được những nỗi sợ cố hữu ấy, lẽ nào người khác lại không? Nhất là những người tự hào có bản lãnh, những người đáng lẽ phải làm gương về điều này!?

Sống trong một chế độ phi nhân, chủ trương khủng bố như chế độ CSVN, những ai không chấp nhận bị đau, bị khổ, bị phiền nhiễu, bị bạc đãi, bị tù đày, thậm chí bị giết… thì luôn luôn phải triền miên sống trong sợ hãi. Trong đó, có những người rất khổ tâm, bị lương tâm thường xuyên cắn rứt, vì họ bị sợ hãi khống chế nên đã làm nhiều điều hèn nhát, trái với những gì lương tri hay lương tâm đòi hỏi.

Nói chung, do bản năng ham sống sợ khổ, chẳng ai tự nhiên lại chấp nhận cái chết, chấp nhận đau khổ, chấp nhận tù đày, chấp nhận bị phiền nhiễu cả… Người ta chỉ chấp nhận những thứ đáng sợ ấy khi người ta muốn đạt được những giá trị rất lớn, hoặc muốn tránh khỏi những tai họa đáng sợ hơn gấp bội, chỉ lúc ấy người ta mới sẵn sàng trả giá bằng cách chấp nhận những điều đáng sợ kia.

Xin lấy một minh họa cho dễ hiểu. Chẳng hạn, chẳng ai muốn mất tiền, mất của, mất nhà mất cửa cách phi lý, thậm chí mất như thế là một nỗi sợ. Nhiều người đã ngất xỉu khi bị mất một món tiền thật lớn. Nhưng nếu mất tiền để đạt được một điều gì có giá trị lớn gấp bội thì người ta sẵn sàng chấp nhận mất. Thậm chí họ còn vui mừng khi đã đạt được cái giá trị mà mình đã bằng lòng trả giá bằng sự mất mát kia. Người ta cũng sẵn sàng chấp nhận mất một món tiền rất lớn để khỏi mất đi một số tiền lớn hơn, hoặc để tránh được một tai hoạ nào đó.

Tương tự như thế, các nhà đấu tranh dân chủ trong nước sẵn sàng chấp nhận vào tù, chịu thiếu thốn, đau đớn, nhục nhã, thậm chí cả cái chết là để đạt được một giá trị lớn hơn gấp bội, đó là sự tự do và hạnh phúc của cả một dân tộc. Nếu không nhắm cái giá trị cao cả đó, không ai dại gì dấn thân vào con đường nguy hiểm ấy cả.

Chẳng hạn Kỹ sư Đỗ Nam Hải đã tuyên bố: “Tôi sẵn sàng bước vào một nhà tù nhỏ để dân tộc này sớm bước ra khỏi nhà tù lớn. Nhà tù lớn ấy hiện nay mang tên là Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam[2]. Hay như chị Bùi Thị Minh Hằng đã thét lên trong một cuộc biểu tình: “Chúng tôi nằm xuống để dân tộc này đứng lên; chúng tôi chết để dân tộc này được sống[3].

Hoặc có người sẵn sàng chịu đau khổ hay chết đi để các thế hệ con cháu mình được sống yên vui, thoải mái hơn mình, như một người biểu tình ở Bắc Phi đã nói: “Tôi sẵn sàng chết để ngày mai con tôi không phải sống như tôi[4]. Hay để công lý và sự thật được thực hiện, như tinh thần của một câu ví dụ trong một tự điển Pháp nọ: “Tôi không quan tâm chính quyền làm gì mình. Tôi sẵn sàng vào tù miễn là sự thật được phơi bày[5]. Hay để bảo vệ nhân quyền như Voltaire: “Tôi có thể không đồng ý những điều anh nói nhưng tôi sẵn sàng chết để bảo vệ quyền anh được nói những điều đó[6].

Tóm lại, muốn “thoát Trung” thì phải “thoát Cộng”. Muốn “thoát Cộng” thì phải “thoát Sợ”. Muốn “thoát Sợ” thì phải sẵn sàng chấp nhận những điều tệ hại có thể xảy ra. Muốn chấp nhận những điều tệ hại có thể xảy ra thì phải ý thức được một giá trị thật lớn, thật cao cả mà mình cần đạt tới, hay phải ý thức được một hiểm họa khủng khiếp mà mình phải tránh, xứng đáng để đánh đổi bằng cách chấp nhận những điều tệ hại kia xảy đến.

Trường hợp của dân tộc Việt Nam hiện nay, muốn được tự do, muốn thoát khỏi nguy cơ bị Trung cộng thôn tính, muốn cho con cháu mình mai hậu không phải làm thân trâu ngựa cho ngoại bang, người dân phải chấp nhận “tìm cái sống giữa cái chết”. Tương tự như những người vượt biên tìm tự do sau 1975.

Khi chấp nhận vượt biên tìm tự do, người ta đã phải chấp nhận những bất trắc mà họ biết có thể xảy đến hoặc chắc chắn phải xảy đến như:

− bỏ nhà bỏ cửa, bỏ người thân ở lại,

− gia đình bị ly tán,

− bị lường gạt mất vàng, mất của (do bị lừa đảo),

− bị công an bắt và bị tù,

− bị chết ngoài biển làm mồi cho cá, hay chết trong rừng làm mồi cho thú dữ,

− bị cướp biển, phụ nữ bị cướp hãm hiếp,

− phải sống thiếu thốn nhiều năm trong các trại tị nạn,

− v.v…

Những điều bất hạnh đó ai cũng sợ, nhưng những người vượt biên sẵn sàng chấp nhận tất cả chỉ vì mong đạt được một giá trị lớn hơn, đó là TỰ DO. Thật vậy, chỉ vì tự do, người ta sẵn sàng trả giá rất đắt, như tác giả Nam Lộc đã nói lên trong bản nhạc “Xin Đời Một Nụ Cười”:

“Tự do ơi tự do! tôi trả bằng nước mắt

“Tự do hỡi tự do! anh trao bằng máu xương

“Tự do ôi tự do! Em đổi bằng thân xác.

“Vì hai chữ tự do! Ta mang đời lưu vong.” [7]

Người Mỹ có câu nói nổi tiếng: “Freedom is not free” (tạm dịch “Tự do không phải là thứ cho không”). Muốn có tự do thì phải trả giá. Tự do rất xứng đáng được trả giá rất cao vì nó quý giá vô cùng: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đối với cá nhân cũng như đối với cả dân tộc. Nó là thứ quý nhất, không có gì quý hơn, kể cả mạng sống; vì sống mà không có tự do thì “thà chết sướng hơn!” (nhiều người nói như thế!).

Hiện nay, đa số người dân chưa ý thức được nỗi khổ của mình, của con cháu mình, của cả dân tộc mình khi đất nước bị Bắc thuộc lần nữa. Nếu họ ý thức được nỗi đau và nỗi nhục vô hạn mà người dân Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông đang phải chịu kể từ khi đất nước họ trở thành thuộc địa của Trung cộng, nếu người dân Việt ý thức được Trung cộng đã đối xử tàn bạo thế nào đối với các học viên Pháp Luân Công vốn cùng một giòng máu Hán tộc với họ, thì họ sẽ hiểu được nỗi đau và nỗi nhục của mình lớn thế nào khi đất nước mình lọt vào tay Trung cộng. Lúc đó, họ mới có cảm nghĩ và thái độ “không thể ngồi yên” như nhạc sĩ Việt Khang:

“Tôi không thể ngồi yên khi nước Việt Nam đang ngả nghiêng,

Dân tộc tôi sắp phải đắm chìm, một ngàn năm hay triền miên tăm tối!

“Tôi không thể ngồi yên, để đời sau cháu con tôi làm người!

Cội nguồn ở đâu, khi thế giới này đã không còn Việt Nam?”

Lúc ấy họ mới thấy tội ác của CSVN “tày trời” như thế nào khi hiện nay CSVN đang sẵn sàng làm công cụ cho Trung cộng, đồng lõa, tiếp tay giúp Trung cộng xâm lược và thôn tính Việt Nam.

Do đó, chuyện cần thiết phải làm cho kịp thời hiện nay là phải “thoát Sợ” để có thể “thoát Cộng” hầu có thể “thoát Trung”!

Một trong những khẩu ngôn rất giá trị nói lên bí quyết để “thoát Cộng” là: “Đừng sợ những gì cộng sản làm, hãy làm những gì cộng sản sợ”. Khẩu ngôn này gồm hai vế “Đừng sợ” và “Hãy làm”. “Đừng sợ” là nội dung chính của cả bài này. Còn “Hãy làm” thì chúng ta cần xác định xem cộng sản sợ gì nhất. Thưa: điều cộng sản sợ nhất hiện nay, chính là sợ người dân không còn sợ khủng bố nữa, nghĩa là CSVN rất sợ chính sách khủng bố của mình bị vô hiệu hóa, không còn hữu hiệu hay tác dụng nữa. Cộng sản tồn tại được là nhờ người dân sợ khủng bố. Khi người dân không còn sợ khủng bố nữa, thì đó là lúc nỗi sợ hãi sẽ quay ngược trở lại để trở thành nỗi kinh hoàng cho chính kẻ khủng bố. Và đó là lúc chính thức báo hiệu “hết thời” cho cả một chế độ phi nhân tàn bạo.

Houston, ngày 11-7-2014

Nguyễn Chính Kết

danlambaovn.blogspot.com

___________________________________

Chú thích:

[1] Xem Kinh thánh, Mátthêu 10,28.

[2] Xem bài “Phương Nam Ðỗ Nam Hải: Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách”:

(http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/PhuongNamDoNamHaiIAmReadyToGoToJail_Khanh-20070522.html)

[3] Xem bài “Cuộc biểu tình 2/6/2013: 5. Chúng tôi nằm xuống để dân tộc này đứng lên”

(http://nguyentuongthuy2012.wordpress.com/2013/06/06/cuoc-bieu-tinh-262013-5-chung-toi-nam-xuong-de-dan-toc-nay-dung-len-2/)

[4] Xem bài “Tầm vóc các cuộc nổi dậy của nhân dân Bắc Phi: chống tham nhũng, chống độc tài hay gì nữa?”

(http://boxitvn.blogspot.com/2011/03/tam-voc-cac-cuoc-noi-day-cua-nhan-dan.html)

[5] “Je me fichais de ce que les autorités allaient me faire. J’étais prêt à aller en prison le temps qu’il fallait pour faire reconnaître la vérité”

(http://en.glosbe.com/fr/en/aller%20en%20prison)

[6] Khi nghe Voltaire nói như thế, có người bèn dẫn một con sói đến trước mặt Voltaire và nói: “Thưa ông đây là một con cừu.” Voltaire lắc đầu nói: “Đó không phài là con cừu. Đó là con sói. Nhưng tôi sẵn sàng chết để bảo vệ quyền anh được nói rằng đó là một con cừu” (xem

http://daohieu.wordpress.com/2013/03/19/nhat-ky-dan-den/)

[7] Nghe và xem “Xin đời một nụ cười@

(https://www.youtube.com/watch?v=gOcDy4yeuFs; http://lyric.tkaraoke.com/23448/Xin_Doi_Mot_Nu_Cuoi.html)

 

Bà quả phụ hạm trưởng Ngụy Văn Thà nhận nhà mới

Bà quả phụ hạm trưởng Ngụy Văn Thà nhận nhà mới
July 11, 2014

Nguoi-viet.com

SÀI GÒN (NV) – Căn nhà số 05, lầu 5, cao ốc B, chung cư Nguyễn Kim, quận 10, Sài Gòn; từ hôm nay 11 tháng 7, 2014, chính thức trở thành tổ ấm mới của gia đình bà quả phụ Hải Quân Trung Tá VNCH Ngụy Văn Thà.

Thông tin từ chương trình Nhịp Cầu Hàng Sa cho biết, bà Huỳnh Thị Sinh, vợ của người anh hùng hải quân VNCH quá cố đã hoàn tất mọi thủ tục để làm chủ sở hữu căn hộ có diện tích 60m2, trong một cao ốc mới xây, thuộc khu phố cũ quen thuộc của gia đình bà, khu phố Nguyễn Văn Thoại – Nguyễn Kim  – Vĩnh Viễn trước năm  1975.

Bà quả phụ Ngụy Văn Thà và cô con gái út trước bàn thờ Hải Quân Trung Tá Ngụy Văn Thà khi nhận căn nhà mới. (Hình: T.T.D/Người Việt)

Sĩ quan hải quân VNCH Ngụy Văn Thà là hạm trưởng chiến hạm Nhật Tảo HQ 10. Ông đã chỉ huy thủy thủ đoàn và hy sinh cùng với 73 sĩ quan, binh sĩ khác trong trận hải chiến ngày 19 tháng Giêng năm 1974, trận hải chiến minh định ý chí bảo vệ  chủ quyền VNCH ở quần đảo Hoàng Sa và biển Đông chống giặc Trung Quốc xâm lược.

Gia đình sĩ quan Hải Quân Ngụy Văn Thà về sống ở chung cư Nguyễn Kim vào năm 1973. Năm 1974 ông hy sinh vì tổ quốc, bà Huỳnh Thị Sinh ở vậy thờ chồng nuôi ba cô con gái. Đến năm 2009, khu chung cư này bị giải tỏa. Bà Sinh có một xuất tái định cư, kèm theo khoản tiền hỗ trợ 546 triệu VND, nhưng  chờ  nhà suốt  5 năm  khu tái định cư cũng vẫn là dự án trên giấy.

Căn hộ mới của gia đình bà quả phụ Ngụy Văn Thà có giá bán (bao gồm cả thuế) lên tới 1,343,797,981/VND. Trong thời gian chờ nhà tái định cư, nhà nước đã chi một số tiền để bà Sinh thuê nhà, cho nên “khoản tiền hỗ trợ” 546 triệu VND bị trừ đi gần một nửa, còn 229,505,000/VNĐ. Nhịp Cầu Hoàng Sa đã chi trả toàn bộ số tiền còn lại là 1,114,292,981/VNĐ.

Nhịp Cầu Hoàng Sa là một chương trình được khởi xướng từ ngày 7 tháng Giêng năm 2014 bởi một nhóm các nhà báo:  Huy Đức (Osin), Vũ Kim Hạnh, Cựu TBT Tuổi Trẻ; Nguyễn Thế Thanh, Cựu TBT báo Phụ Nữ TP; TS Nguyễn Thị Hậu, kỹ sư Đỗ Thái Bình…  Sau hơn sáu tháng vận động, Chương trình đã nhận được sự ủng hộ bằng tiền, bằng hiện vật từ hơn 524 lượt đóng góp với tổng số tiền là 1,711,965,042/VND.

Theo Nhịp Cầu Hoàng Sa, bên cạnh những nghĩa cử trợ giúp gia đình các liệt sĩ và cựu bộ đội Gạc Ma, thời gian tới đây, chương trình Nhịp Cầu Hoàng Sa sẽ giữ đúng cam kết tiếp tục vận động để giúp đỡ gia đình sĩ quan Hải Quân Thiếu Tá VNCH Nguyễn Thành Trí cải thiện chỗ ở, cũng như các hoạt động có ý nghĩa khác hướng về biển Đông và chủ quyền dân tộc. (T.T.D)

 

 

Dân biểu Đảng Cộng hòa Mỹ cảnh báo về thảm cảnh ‘chết bằng tùng xẻo’ dưới tay Trung Quốc

Dân biểu Đảng Cộng hòa Mỹ cảnh báo về thảm cảnh ‘chết bằng tùng xẻo’ dưới tay Trung Quốc

David Brunnstrom

Trần Ngọc Cư dịch từ http://news.yahoo.com

WASHINGTON (Reuters) – Mỹ phải phản ứng mạnh mẽ hơn nữa đối với các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc tại châu Á, một nhân vật Cộng hòa Mỹ có thế lực tại Quốc Hội đã nói như vậy vào hôm thứ Năm, lên tiếng cảnh báo rằng nếu không làm như vậy thì sẽ mang lại thảm cảnh “chết bằng một ngàn nhát cắt.”

Mike Rogers, chủ tịch Ủy ban Tình báo Hạ viện Mỹ, nói rằng Washington không nên quá sợ mếch lòng Trung Quốc khi đối thoại với Bắc Kinh.

Dân biểu này đưa ra lời bình luận vào thời điểm Trung Quốc và Mỹ kết thúc hai ngày đối thọai tại Bắc Kinh với mục đích quản lý một quan hệ ngày càng phức tạp và đôi khi căng thẳng.

“Chúng ta cần phải thẳng thắn hơn; chúng ta cần phải có thái độ mạnh mẽ hơn,” ông nói tại một cuộc hội luận tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế, một trung tâm nghiên cứu chính sách tại Thủ đô Washington.

“Chúng ta cần giúp các nước bạn và đồng minh đủ sức đáp trả thẳng thắn và mạnh mẽ hơn nữa với Trung Quốc,” Dân biểu Rogers nói thêm trong lời bình luận của mình, phản ánh thái độ bức xúc của phía Cộng hòa trước đường lối dè dặt của Tổng thống Dân chủ Barack Obama, đối với Trung Quốc, một nước được coi vừa là đối thủ chiến lược vừa là đối tác kinh tế quan trọng của Hoa Kỳ.

Rogers cho rằng Trung Quốc đang lợi dụng những căng thẳng an ninh tại những khu vực khác trên thế giới [như tại Ukraina và Trung Đông, DG] để từng bước theo đuổi các đòi hỏi chủ quyền của mình bất chấp chủ quyền lãnh thổ của các nước láng giềng yếu thế hơn.

“Đây quả là thảm cảnh chết lăng trì… khi ta bắt đầu cộng lại từng miếng tùng xẻo đưa đến cái chết toàn bộ và chứng kiến những kẻ đang tạo ra những đám mây xung đột – tình hình càng ngày càng nghiêm trọng.”

Rogers lên án Trung Quốc về hành động “xâm lược trắng trợn và tham lam [gluttonous naked aggression]” trong việc theo đuổi các đòi hỏi chủ quyền. Ông bày tỏ kỳ vọng muốn thấy Hoa Kỳ phản ứng lại bằng cách “nghiêm chỉnh gia tăng khả năng nới rộng hợp tác” với các đồng minh và đối tác của Mỹ tại châu Á.

“Đây là cơ hội để chúng ta đẩy lùi sự xâm lấn, thay đổi các toan tính, và thay đổi hậu quả… đây là cơ hội để chúng ta cho Trung Quốc biết rằng họ không nên nghi ngờ quyết tâm của Mỹ trong việc bảo vệ quyền tự do thông thương, tự do mậu dịch và thương mại trên biển Hoa Nam [Biển Đông],” vị dân biểu Mỹ tuyên bố.

Những phương thức thực hiện điều này gồm có gia tăng việc chia sẻ tin tức tình báo và nới rộng hợp tác với các nước láng giềng của Trung Quốc, Rogers nói.

Đối thoại Chiến lược và Kinh tế giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, bước vào năm thứ năm, đã kết thúc vào hôm thứ Năm nhưng chưa có dấu hiệu tiến bộ cấp thời nào liên quan đến các vấn đề tranh chấp biển đảo tại châu Á hay các vấn đề gay cấn về tình báo mạng. Nhưng hai bên đã đồng ý tăng cường hợp tác trong các lãnh vực chống khủng bố, thi hành luật pháp quốc tế và các quan hệ giữa hai quân đội [military-to-military relations].

Washington tuyên bố không đứng về phe nào trong các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc, nhưng trong những tháng gần đây chính quyền này ngày càng mạnh mẽ chỉ trích hành vi của Trung Quốc.

Một nền báo chí ngớ ngẩn

Một nền báo chí ngớ ngẩn

Cánh Cò, viết từ Việt Nam
2014-07-08

Cận cảnh hiện trường chiếc trực thăng Mi-171 mang số hiệu 01 của Trung đoàn Không quân trực thăng 916, Sư đoàn Không quân 371, thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân bị rơi sáng 7/7.

Cận cảnh hiện trường chiếc trực thăng Mi-171 mang số hiệu 01 của Trung đoàn Không quân trực thăng 916, Sư đoàn Không quân 371, thuộc Quân chủng Phòng không – Không quân bị rơi sáng 7/7.

Source Zing.vn

Bản tin của mọi tờ báo hôm nay đều loan như nhau về một tai nạn trực thằng khiến cho 19 người trên phi cơ tử vong và hai người trong tình trạng nguy kịch.

“Vào lúc 7h53 ngày 7/7, máy bay Mi 171 số hiệu 01 của Trung đoàn Không quân 916, Sư đoàn Không quân 371 đã bị cháy động cơ, rơi tại thôn 11 (Thạch Hòa, huyện Thạch Thất, Hà Nội). Lúc máy bay gặp nạn có 21 người trên máy bay. Sau khi bị rơi, máy bay đã cháy dữ dội, được lực lượng cứu hỏa dập tắt lúc 8h20 cùng ngày.”

Dối trá bịp bợm là căn bệnh

Thông tin chứa đựng trong bản tin này ngắn đến kinh ngạc. Đáng ra, Bộ Quốc phòng là cơ quan chủ quản phải chủ động loan tin với những chi tiết chính xác nhất cho người dân, vốn có quyền được biết mọi thông tin từ chính phủ ngoại trừ có liên quan đến bí mật quốc phòng. Một phi cơ trực thăng rơi trong lúc huấn luyện là tin buồn, hoàn toàn do lỗi kỹ thuật không thể xem là bí mật khi nó rơi đúng vào khu dân cư Hà Nội. Thông tin mà Bộ quốc phòng đưa ra kịp thời có khả năng đánh tan mọi suy diễn có tính xuyên tạc làm hại đến uy tín của đơn vị phòng không, không quân Việt Nam.

Phi cơ dù sản xuất ở đâu nếu gặp tai nạn là chuyện bình thường. Không công bố chuyện bình thường ấy mới là điều bất thường. Hơn nữa nếu công bố với những thông tin do cảm tính và không liên quan gì tới tai nạn là việc làm tắc trách, thiếu chuyên nghiệp đôi khi đi dẫn tới chỗ dối trá với quần chúng.

Báo chí lấy lại tin từ Vietnam+ vẽ ra hình ảnh tuyệt vời của viên phi công trên chuyến bay định mệnh ấy với lời lẽ như sau:

“trước tai nạn thương tâm, người dân tại hiện trường đã nhìn thấy máy bay cháy trên không ở ngay trong khu dân cư đông người, nhưng phi công đã dũng cảm, cố điều khiển máy bay ra khu đất trống để máy bay không rơi vào khu nhà dân.

Người dân đã đánh giá rất cao tinh thần dũng cảm, sự hy sinh anh dũng của người lính phi công trong khi đối mặt với cái chết vẫn bình tĩnh điều khiển máy bay tránh được thương vong lớn cho người dân.” (1)

“Người dân nhìn thấy máy bay cháy trên không”là đúng, là những gì đã xảy ra và nhiều người chứng kiến. Thế nhưng:”phi công đã dũng cảm, cố điều khiển máy bay ra khu đất trống để máy bay không rơi vào khu nhà dân”là một cách vuốt đuôi nguy hiểm. Báo chí nếu tự viết câu này là vô lương tâm nghề nghiệp

Đọc bản tin này bất cứ ai có một nhận thức bình thường cũng thấy là cơ quan báo chí Việt Nam đang đánh lừa người dân bằng cách trích lời họ (mà không ai biết họ là nhân vật có thật hay chỉ là sản phẩm tưởng tượng của nhà báo). “Người dân nhìn thấy máy bay cháy trên không” là đúng, là những gì đã xảy ra và nhiều người chứng kiến. Thế nhưng: “phi công đã dũng cảm, cố điều khiển máy bay ra khu đất trống để máy bay không rơi vào khu nhà dân” là một cách vuốt đuôi nguy hiểm. Báo chí nếu tự viết câu này là vô lương tâm nghề nghiệp, nghe người dân nói mà không phân tích và cứ thế đưa lên là vô trách nhiệm.

Chiếc máy bay bị rơi là chiếc MI-171 sản xuất tại Liên Xô

Chiếc máy bay bị rơi là chiếc MI-171

Thông thường trong một tai nạn hàng không, người trách nhiệm sẽ không tuyên bố bất cứ điều gì vì đơn giản họ không ngồi trên máy bay và chứng kiến những gì đã xảy ra. Họ phải chờ tìm được chiếc hộp đen của máy bay gặp nạn, khai thác và phân tích dữ liệu trong đó mới biết được những gì đã làm cho động cơ hỏng hóc cũng như những báo cáo cuối cùng của phi hành đoàn trên chiếc phi cơ gặp nạn.

Thứ hai, chỉ có người ngồi gần phi công, chứng kiến và kể lại hành động của anh ta thì mới có thể tuyên dương hành động đó. Nếu không mọi đoán định đều mang cảm tính và thiếu bằng chứng thuyết phục.

Báo chí “ăn cơm dưới đất nói chuyện trên trời” khi dí vào mồm người dân bình thường diễn tả lại hành vi cực kỳ anh hùng của một tài xế máy bay chứ không phải phi công, cố lái ra xa không cho nó rơi xuống chỗ đông dân cư. Rất tiếc Vietnam+ là một cơ quan thông tấn chính thức của đất nước lại phao tin nhảm, thiếu logic về một sự việc thương tâm đang làm dư luận bức xúc.

Đã vậy, Trung tướng Võ Văn Tuấn – Phó Tổng tham mưu trưởng QĐND lại xác định thêm những điều mà báo chí vẽ ra bằng cái mà ông gọi là kinh nghiệm của một tướng lãnh. Trung tướng Võ Văn Tuấn nói: “Phi công là người có trách nhiệm với dân. Qua hiện trường và kinh nghiệm cá nhân, tôi đánh giá đây là hành động có trách nhiệm của phi công và phi hành đoàn. Họ đã cố gắng né tránh tối đa nhất việc có thể đâm vào nhà dân”.

” Phi công là người có trách nhiệm với dân. Qua hiện trường và kinh nghiệm cá nhân, tôi đánh giá đây là hành động có trách nhiệm của phi công và phi hành đoàn. Họ đã cố gắng né tránh tối đa nhất việc có thể đâm vào nhà dân

Trung tướng Võ Văn Tuấn”

Một đống sắt cháy vụn nói lên điều gì? Ông Tuấn tuyên bố không khác chút nào với những người hoàn toàn mù tịt về kinh nghiệm bay vì ông cũng ngồi dưới đất như họ, còn thua họ ở chỗ lúc ấy ông ngồi xa hiện trường không như những người dân tại nơi xảy ra tai nạn. Ông nói theo và ông nói leo.

Đối với quy định bay khi sự cố xảy ra việc đầu tiên là phi công báo cho đài kiểm lưu dưới đất nếu là dân sự và trung tâm hành quân của không quân nếu là quân đội. Cùng lúc ấy phải nghe theo chỉ dẫn của người trách nhiệm về cách xử lý máy móc, tai nạn. Nếu không thể làm được gì thì phản xạ của một phi công phải cố hết sức để chiếc máy bay giảm bớt độ rơi và dĩ nhiên có thể trong một khoảnh khắc nào đó khi không còn kiểm soát được nữa thì mới nảy ra ý tưởng tránh thiệt hại cho dưới đất. Phản xạ cuối cùng này khó mà biết trước bằng đôi mắt thường của một ông đứng dưới dất, nhất là ông ấy không thể phân biệt một trực thăng khác với một máy bay phản lực khi rơi như thế nào.

....Lúc 12h30, sau khi uống thuốc và ăn được một chút sữa, anh Hùng đã bình tâm hơn và bắt đầu ngủ được. Tuy nhiên, anh vẫn chưa nói được, giao tiếp với mọi người chỉ bằng cách gật hoặc lắc đầu ( báo Lao Động 7/7/2014)

.…Lúc 12h30, sau khi uống thuốc và ăn được một chút sữa, phi công Hùng đã bình tâm hơn và bắt đầu ngủ được. Tuy nhiên, anh vẫn chưa nói được, giao tiếp với mọi người chỉ bằng cách gật hoặc lắc đầu ( báo Lao Động 7/7/2014)

Thêm căn bệnh anh hùng

Câu chuyện về người phi công anh hùng xem ra để xoa dịu tâm lý gia đình nạn nhân và vuốt ve niềm tự hào của người bộ đội. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, gì thì gì cũng anh hùng, miễn cứ chết là anh hùng .

Lạ một điều xoa dịu cho người chết đã đành, báo chí cũng không tha cho người còn sống.

Bản tin trên tờ Lao Động tường trình một ông gần giống như anh hùng khác trong vụ nổ máy bay khiến người có tính cẩn thận khi đọc tin sẽ rơi vào bất ngờ. Thì ra có tới hai phi công trên chuyến bay định mệnh ấy chứ không phải một. Với cái title:

” Ở dưới đất chứng kiến cảnh máy bay nổ, anh Hùng (phi công Vương Tá Hùng) chạy lại khu vực hiện trường và tận mắt chứng kiến đồng đội bị cháy, bị thương. Không cầm lòng ….anh Hùng đã ngất xỉu và được người dân đưa vào Bệnh viện Quân y 105. Rất đông người thân đã vào động viên tinh thần anh Hùng. Quỹ Tấm lòng vàng Lao Động đã có mặt tại khoa Nội tâm thần kinh Bệnh viện 105, trao tặng 1 triệu đồng tới gia đình anh Hùng “

(Báo Lao Động ngày 7/7/2014))

“Máy bay trực thăng rơi: Gặp phi công thoát nạn hi hữu.”

Phóng viên kể lại những chi tiết mà khi đọc lên khó khăn lắm mới khỏi thở dài cho cách đặt vấn đề của tờ báo:

“Phi công Vương Tá Hùng, 30 tuổi, quê ở Phúc Thọ, Hà Nội là người duy nhất may mắn đã thoát khỏi chuyến bay gặp tai nạn kinh hoàng. Lý do là chuyến bay đã chốt danh sách 21 người và anh Hùng là người số 22. Khi máy bay bay lên độ cao khoảng 1000m thì đột ngột hạ thấp độ cao rồi phát nổ và bốc cháy.

Ở dưới đất chứng kiến cảnh máy bay nổ, anh Hùng chạy lại khu vực hiện trường và tận mắt chứng kiến đồng đội bị cháy, bị thương. Không cầm lòng được trước nỗi đau, nỗi mất mát quá lớn mà đơn vị và các đồng đội gặp phải, anh Hùng đã ngất xỉu và được người dân đưa vào Bệnh viện Quân y 105. Rất đông người thân đã vào động viên tinh thần anh Hùng. Quỹ Tấm lòng vàng Lao Động đã có mặt tại khoa Nội tâm thần kinh Bệnh viện 105, trao tặng 1 triệu đồng tới gia đình anh Hùng.” (2)

Huyền thoại tay không

Huyền thoại tay không quật ngã máy bay trực thăng UH-1 của Mỹ trên báo PhuNuToday

Câu chuyện của anh Vương Tá Hùng được trám vào cái khoảng trống thông tin nghèo nàn mà báo chí được phép loan đi từ một vụ nổ máy bay rất lớn. Câu chuyện của anh vừa nhạt, vừa khôi hài mà đáng ra báo chỉ cần đưa một dòng tin là đủ, chẳng hạn: “Trong tai nạn thương tâm này anh Vương Tá Hùng may mắn thoát chết nhờ không lên máy bay vào giờ chót. Cũng là một phi công, anh chứng kiến và bị shock nặng khi bạn bè đồng đội hy sinh trong chiếc phi cơ oan nghiệt ấy”.

“Huyền thoại tay không “quật ngã” máy bay trực thăng UH-1 của Mỹ…Nhìn người đàn ông tuổi ngoài lục tuần, thân hình nhỏ nhắn nhưng rắn chắc, khỏe mạnh, ít ai biết được rằng ông đã từng dùng đôi bàn tay ấy để ghì chặt một chiếc máy bay UH-1 của Mỹ xuống mặt đất.

tác già Hạ Nguyên/Phụ Nữ Today (2012)

Hình như căn bệnh anh hùng đã ăn rất sâu vào tư duy của cả hệ thống. Cứ “được chết” là anh hùng, bất kể logic câu chuyện có chứng minh được hai chữ anh hùng gán ghép một cách miễn cưỡng ấy hay không.

Ngày nay báo chí không có nhiều cơ hội để tạo người hùng cho xã hội vì ít ra họ đã phần nào hiểu rằng người đọc thế hệ @ không như vài năm trước, tuy biết là đơm đặt nhưng họ không buồn “phê bình chỉ điểm”. Người đọc tin bây giờ lướt qua và xem những mẩu tin dạng “ngồi dưới đất nói chuyện trên trời” là sản phầm của những cây viết cùn, chấm mực bằng cán và phe phẩy kiếm view.

Từ chiếc máy bay Mi 171 hôm nay của Liên xô, nhớ lại chiếc UH-1 của Mỹ.

Một phóng sự khác nói về người hùng máy bay trực thăng được đăng vào năm 2012 của tác già Hạ Nguyên viết về ông Bùi Minh Kiểm trên báo Phụ Nữ Today:

“Huyền thoại tay không “quật ngã” máy bay trực thăng UH-1 của Mỹ.

Nhìn người đàn ông tuổi ngoài lục tuần, thân hình nhỏ nhắn nhưng rắn chắc, khỏe mạnh, ít ai biết được rằng ông đã từng dùng đôi bàn tay ấy để ghì chặt một chiếc máy bay UH – 1 của Mỹ xuống mặt đất.

Giữa lúc “dầu sôi, lửa bỏng” ấy, đồng đội của ông Kiểm, tức ông Nguyễn Phú Thao đã đưa ra một cách đánh táo bạo. Khi chiếc UH – 1 rà tới chuẩn bị hạ thấp để bắn róc két thì ông Kiểm lao người lên dùng hai tay ghì càng máy bay xuống.

Đôi bàn tay thép như chiếc nam châm hút chiếc UH – 1 xuống gần sát mặt đất. Viên phi công bất ngờ, chưa kịp gạt cần súng máy thì đã bị anh Thao từ bên dưới bắn thốc lên, thẳng vào buồng lái. Chiếc máy bay mất thăng bằng loạng choạng lao xuống, nổ tan xác.”

Nhà báo Việt Nam hình như không biết có một thư viện mở rất thông dụng hiện nay là WikiPedia. Nếu chịu khó hỏi nó về thông số của chiếc trực thăng UH-1 thì anh ta sẽ không trở thành tên hề trước công chúng.

Theo WikiPedia cho biết trọng lượng rỗng của UH-1 là 2.365 Kg. Trọng lượng có tải là 4.100 kg. Trọng lượng cất cánh là 4.309 Kg. Như vậy ông anh hùng Bùi Minh Kiểm phải nặng hơn 4 tấn thì chiếc UH-1 mới không cất cánh được để đồng đội ông có dịp bắn nó.

Ngớ ngẩn đến mức ấy thì báo cáo nhân quyền trước Liên Hiệp Quốc của Việt Nam cũng phải chào thua mặc dù kỹ thuật nói dối của Việt Nam từng nhiều lần làm cho quốc tế mắt tròn mắt dẹp.

(1) http://www.vietnamplus.vn/

(2) http://laodong.com.vn/xa-hoi/may-bay-truc-thang-roi-gap-phi-cong-thoat-nan-hi-huu-222524.bld

Thượng Viện Mỹ thông qua nghị quyết kêu gọi TQ rút giàn khoan Hải Dương

Thượng Viện Mỹ thông qua nghị quyết kêu gọi TQ rút giàn khoan Hải Dương

Nghị quyết 412 do thượng nghị sĩ Robert Menendez đề xướng tái khẳng định sự ủng hộ của chính phủ Mỹ đối với quyền tự do hàng hải và việc sử dụng hải phận-không phận ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương theo đúng luật pháp quốc tế

Nghị quyết 412 do thượng nghị sĩ Robert Menendez đề xướng tái khẳng định sự ủng hộ của chính phủ Mỹ đối với quyền tự do hàng hải và việc sử dụng hải phận-không phận ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương theo đúng luật pháp quốc tế

Trà Mi-VOA

11.07.2014

Thượng Viện Hoa Kỳ tối 10/7 thông qua nghị quyết yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương 981 và lực lượng ra khỏi vị trí tranh cãi hiện nay ở Biển Đông.

Nghị quyết 412 do thượng nghị sĩ Robert Menendez đề xướng tái khẳng định sự ủng hộ của chính phủ Mỹ đối với quyền tự do hàng hải và việc sử dụng hải phận-không phận ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương theo đúng luật pháp quốc tế, đồng thời kêu gọi giải pháp ngoại giao ôn hòa cho các tranh chấp chủ quyền chồng chéo tại Biển Đông.

Nghị quyết cũng chỉ trích các hành động uy hiếp, dùng võ lực đe dọa nhằm thay đổi nguyên trạng hoặc gây bất ổn ở khu vực.

Nghị quyết đích danh kêu gọi Trung Quốc tránh các hoạt động hàng hải trái với Công ước về các Quy định quốc tế Ngăn ngừa Xung đột Trên biển và trả lại nguyên trạng Biển Đông như trước ngày 1/5, tức trước thời điểm giàn khoan 981 xuất hiện ở khu vực Hà Nội nói thuộc vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam.

Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng điều hành Ủy ban Cứu người Vượt biển BPSOS, nhà hoạt động người Mỹ gốc Việt khởi xướng cuộc tổng vận động ngày 16/7/14 cho nhân quyền-chủ quyền Việt Nam, nói việc thông qua Nghị quyết này có vai trò thiết yếu:

“Nghị quyết này rất quan trọng. Quốc hội Hoa Kỳ là nơi làm chính sách. Được thông qua ở Thượng viện là sự thể hiện chính sách của Hoa Kỳ đối với giàn khoan Hải Dương 981. Thông qua nghị quyết này sớm nhấn mạnh được rằng quốc tế đang áp lực Trung Quốc và phản đối việc Bắc Kinh đưa giàn khoan trái luật vào vùng biển của Việt Nam. Lên tiếng một cách chính thức như vậy từ Hoa Kỳ là điều hết sức quan trọng.”

Bấm vào nghe bài tường trình và phỏng vấn Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng

Một ngày trước khi Nghị quyết 412 được thông qua ở Thượng viện, tại Hạ viện Mỹ diễn ra buổi điều trần về vấn đề nhân quyền Việt Nam và Đông Nam Á mà qua đó thành tích nhân quyền Việt Nam đã một lần nữa bị chỉ trích mạnh mẽ.

 

Công an Hà Nội bắt cóc công dân Hoa Kỳ ngay trong khách sạn

Công an Hà Nội bắt cóc công dân Hoa Kỳ ngay trong khách sạn

Chuacuuthe.com

VRNs (11.07.2014)  Sài Gòn- Lúc 12h30 ngày 10/07/2014 cô Grace Bùi, một công dân Mỹ đang đi du lịch ở Hà Nội  thì công an Hà Nội đã tới bắt cóc cô khi cô đang ở trong khách sạn 55 Hàng Bè ngay tại trung tâm thủ đô Hà Nội.

Được biết cô Gace đến Hà Nôi từ vài ngày trước để tham quan và gặp gỡ và uống café một số bạn bè mà cô đã quen trên facebook, sáng ngay 10/07 cô đến thăm bà  Phùng Thị Trâm là bệnh nhân đang điều trị trong bệnh Y học Cổ truyền (28 Nguyễn Bỉnh Khiêm, HN).

Công an đã theo dõi cô qua facebook của cô và  một số bạn bè của cô chia sẻ hình ảnh về chuyện viếng thăm bệnh nhân và các buổi café rồi lên kế hoạch bắt cóc cô.

Cô cho biết, ở đồn công an cô đã bị công an chiếm đoạt điện thoại và công an kiểm soát luôn tài khoản facebook, cô lưu ý tới bạn bè là những gì diễn ra trên trang facebook của cô (Grace Bui) lúc này là không phải do cô thực hiện. Công an đã chất vấn cô thật nhiều về những người bạn mà cô đã quen trên facebook như: Ls Đài, A Chí, Anthony, Le Anh Hung, JB V, Thúy Nga….

Công an Hà Nội đòi trục xuất cô về Mỹ, Cô Grace phản ứng vì cô ấy đến du lịch ở Saigon trước đó nên hành lý và con chó của cô đang để ở Saigon, cô cần quay lại để nhận lại. Công an Hà Nội giả vờ chấp thuận để mang cô đi, cô không ngờ họ đã nói láo, và  họ đã đẩy cô lên máy bay rồi trục xuất qua Hàn Quốc, hiện tại cô đang ở Hàn Quốc.

Được biết cùng ngày công an Hà Nội cũng đã bắt cóc và trục xuất thêm một công dân Hoa Hỳ khác khi ông này đang tham gia làm từ thiện ở miền bắc Việt Nam.

Cô Grace đi thăm bà Trâm ở bệnh viện

Cô Grace đi thăm bà Trâm ở bệnh viện

Cô Jenifer ở giữa, cô Thúy Nga bên phải và cô Grace  bên trái

Cô Jenifer ở giữa, cô Thúy Nga bên phải và cô Grace bên trái

Pv.VRNs

 

Quan chức JTC bị buộc tội hối lộ VN

Quan chức JTC bị buộc tội hối lộ VN

Thứ sáu, 11 tháng 7, 2014

Công ty Tư vấn Giao thông Nhật Bản (JTC) cùng hai cựu lãnh đạo và một người còn đương nhiệm của công ty, bị buộc tội hối lộ các quan chức Việt Nam trong một dự án đường sắt theo truyền thông Nhật.

Văn phòng Công tố Tokyo buộc tội ông Tamio Kakinuma, 65 tuổi, cựu chủ tịch công ty; ông Tatsuro Wada, 66 tuổi, cựu giám đốc điều hành; và Koji Ikeda, 58 tuổi, hiện đang là thành viên hội đồng quản trị – vi phạm Luật Phòng chống Cạnh tranh bất bình đẳng của Nhật, theo Bấm Asahi Shimbun đưa tin hôm 11/07.

Thông báo của văn phòng Công tố và dựa trên các nguồn tin khác của Asahi Shimbun, ông Wada và ông Ikeda đã trả tổng cộng 69.9 triệu Yên (tương đương 690.360 USD) cho các quan chức ngành đường sắt Việt Nam trong giai đoạn từ 2009 tới tháng Hai 2014.

Ông Kakinuma bị cáo buộc đã phê duyệt 6 triệu Yên trong tổng số tiền nói trên.

Gói hợp đồng tư vấn mà JTC từng giành được bao gồm dự án xây dựng đường tàu ở Hà Nội do quỹ ODA hỗ trợ vốn.

“Lại quả”

Một lãnh đạo của JTC từng khai với cơ quan công tố Tokyo rằng đã hối lộ một quan chức Việt Nam 66 triệu Yên (tương đương 16 tỷ đồng) để giành dự án có sử dụng vốn ODA trị giá 4,2 tỷ Yên ở Việt Nam.

Theo tin đưa trên Bấm Japan Times hôm 11/07, JTC đã đưa tiền lại quả lên tới khoảng 168 triệu Yen (tương đương 1.58 triệu USD) ở Việt Nam, Indonesia và Uzbekistan.

Hồi tháng Sáu, Nhật Bản đã tạm ngừng viện trợ ODA sau nghi án hối lộ với quan chức đường sắt Việt Nam được phanh phui vào tháng Ba.

Hai quốc gia cũng đã có cuộc ‘họp kín chống tham nhũng’ hôm 24/06 nhằm tránh sự việc tương tự xảy ra ở Việt nam sau này.

Sáu quan chức của công ty Đường sắt Việt Nam cũng đã bị khởi tố, tạm giam để điều tra, bao gồm Phó Tổng giám đốc Trần Quốc Đông, hai Phó giám đốc Ban Quản lý các Dự án Đường sắt Phạm Quang Duy và Phạm Hải Bằng, Trưởng phòng dự án 3 Nguyễn Nam Thái, Giám đốc Ban quản lý dự án đường sắt (thuộc bộ Giao thông) Trần Văn Lục, cùng với Nguyễn Văn Hiếu, Giám đốc Ban quản lý dự án đường sắt (thuộc Công ty Đường sắt).

Các cán bộ cấp cao này bị cáo buộc các tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” và “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Tuy vậy, hiện chưa ai bị cáo buộc tội “nhận hối lộ”.

Luật phòng chống cạnh tranh bất bình đẳng của Nhật được đưa ra năm 1993 có quy định cấm đưa tiền hoặc các loại lợi ích khác cho công chức ở nước ngoài, với mức phạt tù có thể lên tới 5 năm và phí phạt khoảng 5 triệu Yên, cũng theo Japan Times.

 

Báo CSVN ca ngợi cách VNCH ‘thực thi chủ quyền biển đảo’

Báo CSVN ca ngợi cách VNCH ‘thực thi chủ quyền biển đảo’
July 10, 2014

Nguoi-viet.com


HÀ NỘI 10-7 (NV) –
Tờ Tiền Phong , báo của Trung Ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh hôm Thứ Năm có một bài nghiên cứu với tựa đề “Cách Việt Nam Cộng hòa thực thi chủ quyền biển đảo”.

Trang báo có bài nghiên cứu về “Cách Việt Nam Cộng hòa thực thi chủ quyền biển đảo” trên tờ Tiền Phong ngày 10-7-2014. (Hình: NV cắt lại từ báo mạng Tiền Phong)

Từ trước tới giờ và nhất là trước kia, CSVN vẫn dùng nhiều thứ từ ngữ sỉ nhục chính thể miền Nam Việt Nam “chỉ là tay sai đế quốc Mỹ, tiếp tay đế quốc Mỹ đẩy nhân dân miền Nam  vào vòng nô lệ, đói khổ lầm than.” Danh hiệu “Việt Nam Cộng Hòa” suốt nhiều chục năm trời là cái đại kỵ trên hệ thống truyền thông của chế độ.

Mãi tới thời gian rất gần đây, khi cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng gay gắt và khó khăn về tất cả mọi mặt, Hà Nội nới lỏng dần dần với cả cách gọi thể chế miền Nam.

Trong bài viết khảo cứu ngày 10 Tháng Bảy của tờ Tiền Phong, tác giả Trần Nguyễn Anh viết về ngư nghiệp, các nghiên cứu, khảo sát tiến đến khai dầu khí, và các quy định của chính phủ VNCH cho các vùng đặc quyền kinh tế trên biển, vấn đề chủ quyền gắn liền với an ninh, kinh tế biển, gồm cả khu vực các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Về ngư nghiệp của VNCH, tác giả bài viết thuật lời ông Nguyễn Hồng Cẩn so sánh sự phát đạt của ngư nghiệp ở miền nam trước 1975, xuất cảng số lượng lớn thủy sản trong khi ở miền Bắc dưới chế độ Cộng Sản gần như chẳng có gì đáng nói.

Tác giả viết rằng: “Không ai hiểu rõ ngành cá của VNCH hơn chính các đồng nghiệp ở miền Bắc. Nguyên thứ trưởng Bộ Thủy sản, ông Nguyễn Hồng Cẩn, người tiếp quản ngành thủy sản miền Nam sau khi đất nước thống nhất và là thứ trưởng phụ trách phía Nam. Ông kể với tôi rằng khi vào Nam ông thực sự bất ngờ vì hệ thống cơ sở hạ tầng như tàu thuyền, nhà máy, thị trường tại đây. Ông nói: ‘Trong kháng chiến ở miền Bắc chỉ mong ước một năm xuất được $100,000 thủy, hải sản nhưng không bao giờ được. Trong khi đó ở miền Nam năm 1960 họ đã xuất khẩu được $21 triệu rồi.’”

Ông Trần Nguyễn Anh dẫn ra tài liệu của VNCH viết rằng: “Năm 1970, miền Nam có 317,442 ngư dân và 85,000 tàu thuyền, trong đó 42,603 tàu có động cơ và 42,612 thuyền không động cơ. 269 thôn và 700 ấp chuyên về ngư nghiệp. 75 Hợp tác xã ngư nghiệp. 200 tàu hộ tống ngư dân. Xây dựng hệ thống hải cảng: Cảng Sài Gòn được đầu tư $11 triệu, Đà Nẵng $1 triệu, Cần Thơ $10 triệu. Xuất khẩu ngư nghiệp $300 triệu, trong khi các sản phẩm còn lại như trà, lạc, cùi dừa… chỉ $158 triệu.”

Đó là nhờ vào chính sách bảo vệ chủ quyền biển đảo của chính quyền VNCH. Tài liệu của chính quyền VNCH được tác giả bài viết trên Tiền Phong cho biết: “Năm 1959, hải quân Việt Nam đã bắt được 40 ghe đánh cá Trung Quốc đưa về Đà Nẵng lưu giữ 6 tháng,” đồng thời cho biết: “Hãng phân bón Việt Nam được thành lập và chính thức hoạt động từ Tháng Tư, 1959, khai thác được 20,000 tấn phốt phát tại Hoàng Sa, rồi bỏ dở từ năm 1960 do thời tiết và vận chuyển khó khăn.”

“Trong lĩnh vực đánh cá, ngày 26 Tháng Mười Hai, 1972, tổng thống VNCH ban hành sắc luật quy định lãnh hải Việt Nam về phương diện ngư nghiệp có một chiều rộng là 50 hải lý, tính từ hải phận quốc gia trở ra. Trong vùng này cấm các loại ghe tàu, thuyền bè ngoại quốc đến đánh cá, khai thác hoặc mua bán hải sản, trừ khi có giấy phép trước của chính phủ.”

Về vấn đề dầu khí, tác giả bài khảo cứu viết lại rằng: “Theo số liệu thì vào Tháng Tám, 1973 chính phủ VNCH đã cấp quyền đặc nhượng tìm kiếm trên 8 lô với tổng số diện tích là 57,223km2 cho 4 nhóm công ty Pecten, Mobil, Esso và Sunningdale. Trong đợt này các công ty đã trả cho chính phủ một số tiền hoa hồng chữ ký là $16.6 triệu và cam kết một số tiền đầu tư trong 5 năm tổng cộng là $59.25 triệu. Ngoài ra các công ty còn dành một số tiền tổng cộng $300,000 mỗi năm cho việc huấn luyện chuyên viên kỹ thuật ngành dầu hỏa.”

“Tháng Sáu, 1974, chính phủ VNCH lại cấp thêm 5 quyền đặc nhượng tìm kiếm dầu mỏ thêm 5 lô với tổng diện tích 24,380km2 cho 4 tổ hợp là Mobil, Pecten, Union và Marathon. Trong đợt này các công ty cũng trả cho chính phủ VNCH hoa hồng chữ ký là $29.1 triệu và cam kết đầu tư trong 5 năm là $44.5 triệu.”

“Các thông cáo cho thấy hoạt động đào giếng bắt đầu vào ngày 17 Tháng Tám, 1974 với giếng thăm dò Hồng I-X, giếng dầu đầu tiên được đào trong thềm lục địa Việt Nam do công ty Pecten thực hiện. “Kết quả đã tìm thấy dầu ở độ sâu 5,320 feet. Tiếp theo đó là việc đào giếng dầu Dừa I-X với sự phát hiện ra dầu và khí thiên nhiên.”

“Khảo sát các điều khoản trong hợp đồng đặc nhượng của VNCH, chúng ta thấy nó được dựa trên thông lệ quốc tế, tuy nhiên luôn nhấn mạnh đến lợi ích của Việt Nam cũng như quyền chủ động trong khai thác, vận hành.” (TN)

 

Thân phận ngư dân Việt Nam: trách nhiệm về ai?

Thân phận ngư dân Việt Nam: trách nhiệm về ai?

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2014-07-10

07102014-vn-fishm-spligh.mp3

Tàu Trung quốc ngang nhiên đâm chìm một tàu cá Việt Nam trước sự chứng kiến của nhiều ngư dân trên các tàu cá khác ngày 26 tháng 5, 2014.

Tàu Trung quốc ngang nhiên đâm chìm một tàu cá Việt Nam trước sự chứng kiến của nhiều ngư dân trên các tàu cá khác ngày 26 tháng 5, 2014.

Laodong.com.vn

Tàu cá QNg 94912 TS cùng 6 ngư dân Quảng Ngãi trên đó bị Trung Quốc bắt đi từ hôm 3 tháng 7 ngay tại Vịnh Bắc Bộ thuộc chủ quyền Việt Nam. Đến nay đúng một tuần lễ, nhưng tin tức về họ vẫn chưa được rõ.

Và đây là vụ bắt bớ mới nhất đối với ngư dân Việt hành nghề trên vùng biển của nước nhà. Suốt nhiều năm qua họ phải đối diện với thêm bao khó khăn khi đi đánh bắt trên biển; đặc biệt khi bị săn đuổi bởi phía Trung Quốc.

Nhìn nhận về tình cảnh của họ hiện nay ra sao?

Làm nghề khi ngư trường bị Trung Quốc vây hãm

Biển khơi bao la ngày càng trở nên nhỏ hẹp đối với ngư dân Việt Nam khi mà phía Trung Quốc không còn che giấu tham vọng độc chiếm khu vực Biển Đông. Kể từ năm 1999, Bắc Kinh hằng năm ban hành lệnh cấm đánh bắt cá tại khu vực Biển Đông từ trung tuần tháng 5 cho đến đầu tháng 8.

Tiếp đến sau khi Trung Quốc tiến hành xây dựng thành phố Tam Sa trên đảo Phú Lâm mà họ gọi là Vĩnh Hưng, thuộc quần đảo Hoàng Sa nơi mà họ cưỡng chiếm hồi năm 1974 đặt đó là đơn vị hành chính quản lý hết các đảo tại Biển Đông nằm trong đường lưỡi bò do họ vạch ra/ thì việc ngư dân Việt Nam đi vào vùng biển truyền thống ngày càng trở nên nguy hiểm.

Bắc Kinh còn thông qua chính quyền tỉnh Hải Nam hồi tháng 11 năm ngoái banh hàn lệnh buộc các tàu nước ngoài muốn đánh bắt tại 2/3 khu vực Biển Đông phải xin phép tỉnh này, nếu không họ sẽ đuổi đi hay tịch thu phương tiện và có thể áp dụng mức phạt gần 83 ngàn đô la Mỹ đối với tàu bị bắt.

Mới đây nhất từ đầu tháng 5 năm 2014, Trung Quốc cho hạ đặt giàn khoan khủng trong vùng thểm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, chỉ cách đảo Lý Sơn chưa đầy 120 hải lý. Sau đó, một tàu cá của ngư dân thành phố Đà Nẵng ĐNa 90152  bị tàu của Trung Quốc đâm chìm ngay trước sự chứng kiến của tàu cảnh sát biển Việt Nam.

Bắc Kinh còn thông qua chính quyền tỉnh Hải Nam hồi tháng 11 năm ngoái banh hành lệnh buộc các tàu nước ngoài muốn đánh bắt tại 2/3 khu vực Biển Đông phải xin phép tỉnh này, nếu không họ sẽ đuổi đi hay tịch thu phương tiện và có thể áp dụng mức phạt gần 83 ngàn đô la Mỹ đối với tàu bị bắt

Ngày 3 tháng 7 một tàu cá cùng 6 ngư dân tỉnh Quảng Ngãi bị phía Trung Quốc bắt giải về nước họ khi tàu này đang đánh bắt trong vùng biển của Việt Nam thuộc Vịnh Bắc Bộ. Một tàu khác của ngư dân Lý Sơn bị tàu chiến Trung Quốc rượt đuổi và đâm vào.

Nhân dịp hội thảo ‘Hoàng Sa- Trường Sa: Sự thật lịch sử’ diễn ra tại thành phố Đà Nẵng trong hai ngày 20 và 21 tháng 6, các học giả trong và ngoài nước được đưa đến xem chiếc tàu bị nạn và nói chuyện với người chủ thuyền cùng thuyền trưởng điều khiển chiếc tàu.

Tàu vỏ sắt giả danh tàu cá Trung Quốc (bên phải) đang truy đuổi tàu cá Việt Nam trên vùng biển Hoàng Sa. Ảnh: H.V.M

Tàu vỏ sắt giả danh tàu cá Trung Quốc (bên phải) đang truy đuổi tàu cá Việt Nam trên vùng biển Hoàng Sa. Ảnh: H.V.M

Ông Andre Menras, một người Pháp nhập quốc tịch Việt Nam với tên Hồ Cương Quyết, lâu nay rất quan tâm đến ngư dân Việt Nam và thực hiện cuốn phim nói về cảnh ngộ của những gia đình ngư dân tại đảo Lý Sơn ‘Hoàng Sa Việt Nam: Nỗi đau mất mát’, là một trong những người chứng kiến con tàu bị phía Trung Quốc đâm chìm và được kéo về âu thuyền Thọ Quang như là vật chứng cho hành động tấn công của phía Trung Quốc đối với tàu cá Việt Nam.

Ông nói:

Tôi vừa mới được gặp một số anh em ngư dân tại Đà Nẵng, đặc biệt các ngư dân bị tàu Trung Quốc đánh chìm trước mắt các tàu Cảnh sát Biển Việt Nam. Cảnh sát biển Việt Nam chứng kiến nhưng bất lực và chỉ biết cứu người sau đó.

Tôi vừa mới được gặp một số anh em ngư dân tại Đà Nẵng, đặc biệt các ngư dân bị tàu Trung Quốc đánh chìm trước mắt các tàu Cảnh sát Biển VN. Cảnh sát biển Việt Nam chứng kiến nhưng bất lực và chỉ biết cứu người sau đó

Ông Andre Menras

Trao đổi với họ tôi biết tình hình kinh tế hiện tại của thuyền trưởng và 9 thuyền viên đang gặp nhiều khó khăn. Lý do tàu của họ bị hư hỏng rất nặng, họ phải chịu cảnh thất nghiệp. Chủ tàu, bà Hoa, cũng rất buồn vì đã mất phương tiện kiếm sống của gia đỉnh.

Theo bà này thì các ngư dân khi đi đánh bắt cá xa bờ tại vùng Hoàng Sa ngày càng phải liều mạng sống của họ.

Chính bà Huỳnh thị Như Hoa cho biết tình cảnh khó khăn hiện nay của gia đình và các ngư dân đi trên tàu:

Andre Menras Hồ Cương Quyết chia sẻ về

Andre Menras Hồ Cương Quyết chia sẻ về "Hoàng Sa: Nỗi đau mất mát" bên lề hội thảo về Hoàng Sa – Trường sa: Sự thật lịch sử vừa diễn ra ở Đà Nẵng (ảnh BienDong.Net)

Trong năm nay không có công ăn việc làm, đói, không cò tiền để trang trải trong gia đình.

Ông Andre Menras Hồ Cương Quyết cho biết tại Hội thảo ở Đà Nẵng vừa qua, ông nêu ra một vấn đề đáng chú ý khác khi những ngư dân Việt Nam bị phía Trung Quốc bắt bớ, đâm tàu như thế:

Trong hội thảo vừa rồi tôi nhấn mạnh một điều ‘vấn đề ở đây không chỉ là vấn đề chủ quyền, vấn đề là một vấn đề nhân quyền. Không nên chờ đến lúc vấn đề chủ quyền được giải quyết mới tạo điều kiện cụ thể cho ngư dân được hành nghề an toàn. Nên thành lập ngay một UB Quốc tế Đòi Quyền Sống cho Ngư dân để kiện TQ

Ông Andre Menras

Trong hội thảo vừa rồi tôi nhấn mạnh một điều ‘vấn đề ở đây không chỉ là vấn đề chủ quyền, vấn đề là một vấn đề nhân quyền. Không nên chờ đến lúc vấn đề chủ quyền được giải quyết mới tạo điều kiện cụ thể cho ngư dân được hành nghề an toàn. Nên thành lập ngay một Ủy ban Quốc tế Đòi Quyền Sống cho Ngư dân để kiện Trung Quốc về các hành động vô nhân đạo của họ đối bới người lao động Việt Nam trên biển đó là bắn chết, đánh đập, bắt giữ trong điều kiện tồi tệ như tù binh, tịch thu tàu, phá các ngư cụ, ăn cướp hải sản, đòi tiền chuộc khổng lờ, đâm chìm tàu rồi bỏ đi mặc kệ sống chết ra sao… Bởi vì đó là một chính sách khũng bố đã có hệ thống của nhà cầm quyền Bắc Kinh.

Thông tin ngư dân gặp nạn khi đang đánh bắt trên biển từ trước đến nay thường chỉ được báo chí loan tải khi những con tàu may mắn thoát hiểm về đến đất liền. Do đó số liệu thống kê các vụ việc chưa nói lên hết được thực tế lâu nay.

Ông Andre Menras- Hồ Cương Quyết nói về thống kê mà ông thực hiện dựa trên tin tức được loan tải:

Tôi đã lập một vài thống kê về vấn đề này : từ năm 2002 đến nay có hơn 2000 ngư  dân Việt Nam là nạn nhân của tàu Trung Quốc ; 30 ngư dân chết hay ‘mất tích’ trên biển khi thời tiết không xấu, 120 ngư dân bị tàu đâm chìm và suýt chết, 500 ngư dân bị bắt giữ tại đảo Phú Lâm, 130 chiếc tàu bị tịch thu… Chưa kể đến các gia đình thất nghiệp và phá sản khi phải trả tiền vay để đóng tàu đi biển cho bà con và ngân hàng suốt đời của họ.

Cho dù các số liệu thống kế vừa nêu chưa đầy đủ bởi có thời gian việc đưa tin về vấn đề này còn bị xho là ‘nhạy cảm’.

Đề nghị hỗ trợ

Có thể nói người ngư dân ngoài kỹ năng đi biển họ không có thể tự vệ trước hành động tấn công của các tàu Trung Quốc. Họ cần sự bảo vệ hiệu quả từ các lực lượng chức năng của Việt Nam như đề nghị của ông Andre Menras như sau:

Đề nghị chủ yếu của ngư dân đối với chính quyền hiện nay là họ phải được bảo vệ thật sự, vì họ không thể tự bảo vệ được. Có vẻ như chính quyền đã đưa ra chính sách hỗ trợ vốn vay ưu đãi cho các ngư dân mua tàu vỏ thép và công suất lớn. Công tác đó nếu được thực hiệp kịp thời, nếu tiền của dân thật sự đi vào tay ngư dân, thì có thể giúp cho ngư dân đối phó với bão tố và các cuộc tấn công của tàu Trung Quốc- đó là tàu cá hay là tàu quân sự.

Vấn đề đóng tàu vỏ thép kiên cố có sức chịu đựng tốt hơn tàu gỗ mà ngư dân sử dụng lâu nay từng được triển khai. Thế nhưng cho đến lúc này chỉ mới có một vài chiếc tàu vỏ thép được đưa vào sử dụng. Những chiếc tàu này dù có những lợi thế hơn tàu gỗ; thế nhưng vẫn chưa thể đáp ứng được yêu cầu về mặt kỹ thuật để ngư dân đi đánh bắt xa bờ và lâu ngày.

Nhiều ngư dân không còn con đường sinh sống nào khác ngoài làm biển nên phải trụ bám, còn những ai có cách thì phải bỏ biển vì công việc làm ăn bấp bênh nhiều khi lỗ vốn; trong khi đó nguy cơ bị phía Trung Quốc bắt giữ, tịch thu hải sản, ngư cụ và thậm chí bị đâm chìm, bắn chết là quá lớn.