Đoạn trường “Hát Ô”- Phạm Hồng Ân

Đoạn trường “Hát Ô”

Hồ sơ tỵ nạn người Việt thuộc chế độ VNCH trên bàn làm việc của nhân viên Sở di trú Hoa Kỳ tại Sài Gòn, thập niên 1990 (ảnh: Peter Charlesworth/LightRocket via Getty Images)

Sau sáu năm tù phờ phạc ở trại Xuyên Mộc, tôi thất thểu trở về làm phó thường dân nơi một xã hẻo lánh vùng Bến Tre – chỗ chôn nhau cắt rốn của mụ vợ thân yêu. Nói phó thường dân cho oai, chứ thật sự chỉ là thằng tù giam lỏng, đi đâu cũng có kẻ rình người rập bất kể ngày hay đêm.

Mỗi tuần, theo chỉ thị, tôi còn phải cuốc bộ gần năm cây số đường vườn để tới công an xã, khệ nệ trình cuốn sổ tay dày cộm có ghi rõ từng chi tiết sinh hoạt hàng giờ, để báo cáo với tên công an trưởng (dường như chưa một lần cắp sách tới trường).

Ở ấp, tôi vâng lệnh chi bộ ấp như vâng lệnh ông vua, lao động xã hội chủ nghĩa mút mùa, vì sợ phải trở lại trại tù nhai tới nhai lui nắm mì lát chua như bã rượu. Làm nhiều ăn ít, riết rồi tôi co lại như một con tép riu, lom khom như tên tiều phu già nua trước tuổi. Vì vậy, khi có chương trình Hát Ô (Humanitarian Operation – HO) ban ra, tôi vội vã lên tỉnh, hồi hộp dò la ở những nơi chốn có bạn tù. Hồi hộp, dò la là điều tất nhiên ở một xã hội theo chế độ cộng sản. Họ thường nói một đàng, nhưng làm một nẻo.

Họ bảo các thành phần chế độ cũ trình diện “học tập cải tạo” một tháng, thì sau khi “gom bi”, các thành phần đó ở tù mút chỉ cà tha. Họ bảo lao động là vinh quang, xây dựng xã hội ấm no – thì sau một thời gian cuốc đất trồng khoai, nhân dân chỉ còn trơ lại cái quần tà lỏn. Khi HO một chuẩn bị lên đường, chúng tôi mới tin đây là một chính sách đúng đắn, do áp lực từ Mỹ.

Lúc đó, Sở Công an tỉnh Bến Tre, ngày nào như ngày nấy, đầy nhóc những người chế độ cũ chen chân nhau để mua hồ sơ xuất cảnh. Hồ sơ xuất cảnh được các tay công an “kinh doanh” một cách tận tình. Giá của một bộ hồ sơ quá đắt, so với túi tiền còm cõi của một tên tù lưu đày vừa mãn hạn. Vậy mà, chúng tôi cố chạy chọt khắp nơi, vay mượn đầu này đầu kia để mong sao sớm thoát khỏi cái chế độ “thầy chạy” này.

Điền đơn, viết hồ sơ… đó là nghề của tôi, dễ ợt như ăn cơm bữa. Nhưng chứng thực hồ sơ mới là chuyện khó. Khó đến nỗi tôi luôn nhớ suốt đời, như vết thương để lại trên thịt da một vết sẹo hằn sâu. Hồ sơ được luân chuyển đến tay các “đại ca” từ: Ấp, đến huyện, rồi qua tỉnh, về thành phố, ngược xuôi ra Bắc…, lao đao trôi nổi, lận đận trăm chiều. Hồ sơ đi tới đâu, tôi phải thiết tha khẩn cầu, ỉ ôi năn nỉ. Nhưng rốt cuộc rồi cũng chẳng qua “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn”.

Tôi muốn bắt đầu câu chuyện từ ấp – Ấp Phú Ninh, nơi tôi dung thân sau những năm tháng mãn tù. Sau 1975, ấp này có nhiều tay cách mạng ba mươi ra nắm chính quyền. Cách mạng ba mươi là thành phần làm ăn sinh sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, nhưng sau ba mươi Tháng Tư, lúc cộng sản cưỡng chiếm miền Nam, thành phần này bỗng trở cờ, ra thờ ma, làm việc cho cộng sản. Trưởng ấp Phú Ninh thuộc thành phần này. Lúc trước, hắn chỉ là một cậu học sinh tầm thường, nương cậy vào nhà chùa để trốn quân dịch. Sau này, vì bọn Việt Cộng quá dốt nát, một chữ lận lưng cũng không có, nên mới đề cử tên này ra đảm nhận chức ấp trưởng.

Vừa thấy tôi cầm xấp hồ sơ lấp ló trước cửa, hắn thao thao lên lớp ngay.

-Giờ này mà anh chưa chịu từ bỏ, dứt khoát với tư tưởng cũ. Anh vẫn tin vào bọn đế quốc Mỹ. Tôi cho anh biết, anh qua bên đó chỉ làm cu-li cho bọn chúng mà thôi. Sức mấy mà cái lon sĩ quan của anh được chúng phục hồi?

Tôi nhẹ nhàng giúi vào tay hắn cây thuốc ba số 5 mà tôi phải vác mía mướn đến “bá thở” mới mua được.

-Luyến tiếc gì nữa ba cái lon lá cà chớn ngày trước làm chi anh. Tôi muốn qua Mỹ vì tương lai thằng con. Qua bển, học hành thành tài, nó trở về phục vụ cho đất nước. Quê hương mình, làm sao bỏ được anh?

Hắn lấy tay xoa xoa hộp thuốc, đổi giọng, cười khì khì:

-Anh nói nghe chí lí, tôi phục đó nha! Thôi, đưa hồ sơ tôi chứng cho. Nhưng nhớ, trước khi lên máy bay, cho anh em chúng tôi một chầu rượu nhe!

-Chuyện nhỏ. Anh giúp tôi, làm sao quên ơn anh được?

Cái cửa đầu tiên trót lọt, tôi vừa mừng thầm, vừa chưởi thề nho nhỏ. Ngày mai, đem hồ sơ lên huyện, tôi phải đạp xe gần 20 cây số tiểu lộ. Nói tiểu lộ để phân biệt với các con lộ có đá, tráng nhựa. Nó chỉ là một con đường đất gập ghềnh.

Trời nắng, gặp chiếc Honda nào rồ máy chạy ngang, tôi đành tấp vào lề, hít đống bụi bặm đang bay loạn xà ngầu trước mặt. Còn trời mưa, xe đạp không còn cõng mình, mà mình phải cõng xe đạp, lò dò từng bước trên con đường sình lầy trơn trợt như thoa mỡ bò. Nhưng dù gian nan cách mấy, sáng sớm, tôi phải quyết định đi. Người ta nói, nếu cái cột đèn biết đi, nó cũng bỏ nước ra đi trong thời gian này kia mà! Tôi sắm sẵn một sợi dây lòng thòng, phòng hờ trời mưa, tôi sẽ quàng xe đạp lên vai, an toàn trở về.

Sài Gòn, 1983 (ảnh: Alex Bowie/Getty Images)

Huyện Châu Thành nằm trên con lộ độc đạo, dẫn vô thị xã Bến Tre. Huyện đang xây dựng dở dang. Gạch đá ngổn ngang. Công trình dường như qui mô, lớn rộng. Bên cạnh đó, một dãy nhà dân lụp xụp nghèo nàn, tương phản nhau một cách kỳ cục. Căn nhà lá khang trang dựng lên, kế bên công trình, tạm thời làm ban trị sự của huyện. Tôi chuẩn bị sẵn thuốc lá, gói ghém cẩn thận để khi cần, lót tay một cách nhẹ nhàng.

Nhưng tôi vỡ mộng, người tiếp tôi hôm đó là một thiếu nữ tuổi độ tròn trăng. Cô bé có vóc dáng của cô học trò thùy mị. Vóc dáng này, hình ảnh này, trong quá khứ, đối với tôi – rất dễ thuyết phục. Nhưng, tôi lại vỡ mộng thêm lần nữa, khi nghe giọng nói sành đời của cô cứng rắn thốt lên:

-Ông về đi. Cứ để hồ sơ ở đây. Tháng sau tới… sẽ biết tin.

Tôi luống cuống, mân mê hộp thuốc lá cứu tinh, giờ đây đã trở thành vô dụng.

-Xin cô vui lòng chứng sớm dùm. Tháng sau… lâu quá!

Cô bé bỏ viết xuống, nhìn tôi đăm đăm, dường như có hận thù với tôi từ kiếp nào. Xong, cô lạnh lùng nói:

-Lâu hả? Nhiều người còn lâu hơn ông kìa. Có khi họ phải đợi một năm, hai năm… vẫn chưa xong đó!

Tôi thất vọng, nhưng ráng cố gắng trì hoãn, xuống nước:

-Cô làm ơn giúp dùm. Nhà tôi ở xa, đi lên đi xuống rất khó khăn. Cô bé bực dọc, hầm hầm đẩy hồ sơ tôi sang một bên:

-Khó khăn quá thì ông cầm hồ sơ về đi. Tôi không có thì giờ.

Tôi tiu nghỉu trở về. Nằm chờ tháng sau, khăn gói lên huyện thêm lần nữa. Lần này, tôi chuẩn bị một phong thư tiền, cẩn thận gói ghém kín đáo. Người ra tiếp tôi, hôm nay, cũng vẫn cô bé tròn trăng, vóc dáng quê mùa. Chưa kịp chào hỏi, cô bé đã gầm gầm:

-Hồ sơ ông chưa xong. Chủ tịch huyện bận công tác. Tháng sau tới gặp.

Tôi chán nản, định xổ một tràng cho bớt tức tối. Nhưng tôi kịp nén lại, nở nụ cười duyên gượng gạo với cô bé.

-Tôi có chút quà tặng cô. Xin cô vui lòng nhận và giúp dùm.

Phong thư đặt nhẹ nhàng lên bàn, và nhẹ nhàng hơn nữa là ngăn tủ được kéo ra cho phong thư rớt xuống một cách êm đềm. Hành động này rất nhanh nhẹn và điêu luyện, chứng tỏ người nhận rất quen thuộc với trường hợp này.

-Được rồi. Ông ngồi chờ chút. Tôi lên gặp phó chủ tịch, xem hồ sơ của ông đã ký xong chưa?

Tôi đặt đít xuống ghế, nhấp nha nhấp nhổm gần cả tiếng đồng hồ, mới thấy cô bé yểu điệu bước ra.

-Ông hên lắm! Hồ sơ đã ký rồi. Lên tỉnh ngày hôm nay đi. Nộp luôn cho xong.

Thế là hồ sơ xuất cảnh của tôi được lên tỉnh. Và không biết nó chu du nơi nào mà cả một năm sau… vẫn bặt vô âm tín. Buồn tình, tôi đi tìm các bạn tù hỏi ý kiến. Thì ra các HO phải lên Sài Gòn mướn dịch vụ xuất cảnh, cũng do công an Việt Cộng quản lý và kinh doanh. Tôi chạy ngược chạy xuôi vay mượn thêm hai chỉ vàng, vội vã lên Sài Gòn tìm kiếm dịch vụ.

Dịch vụ nằm trong một ngôi nhà to lớn, thênh thang những hàng ghế lớn nhỏ dành cho khách ngồi đợi. Tôi chen vào đám đông, định tiến tới phía trước tìm người hỏi thăm, thì có một bàn tay nắm vai tôi kéo ngược lại. Tôi ngó xuống bàn tay. Cánh tay liễu yếu đào tơ của một cô gái có chút nhan sắc.

-Anh ra ngoài này, em có chuyện muốn nói với anh.

-Chuyện gì? Tôi phải vào lo dịch vụ. Còn về Bến Tre nữa, kẻo trễ xe.

Cô gái nũng nịu:

-Ít phút thôi! Làm ơn giúp em!

Tôi ra ngoài với cô gái. Ánh nắng ban trưa nhấp nha làm đôi má cô gái hồng lên, một cách gợi cảm.

-Em muốn ghép hồ sơ với anh. Qua Mỹ, chúng mình sẽ thanh toán sòng phẳng. Tôi ngắm cô gái từ đầu đến chân, rồi cuối cùng chối từ, nhưng trong lòng thật tình rất tiếc.

-Xin lỗi, tôi còn vợ con. Vô phương giúp cô được.

Nhờ hai chỉ vàng, hồ sơ xuất cảnh của tôi được hoàn tất một cách nhanh chóng. Gia đình tôi thuộc HO 20 và khoảng tháng sau sẽ có “Hộ Chiếu”.

Tôi trở về căn chòi xiêu vẹo, nằm mơ tưởng đến tương lai diệu vợi. Rồi đây vợ tôi sẽ không còn cảnh lội ruộng, móc mương. Con tôi sẽ ung dung cắp sách đến trường, miệt mài cho đến khi thành đạt. Tôi sẽ an hưởng thanh nhàn, bù lại những năm tháng tuổi trẻ bất hạnh trong chiến tranh và lao tù. Nhưng khi cầm sổ “hộ chiếu” trên tay, tôi lại phải đối đầu với những gian nan gai góc khác.

Muốn định cư ở Mỹ, gia đình HO phải trải qua hai giai đoạn: Sơ vấn và phỏng vấn. Giai đoạn sơ vấn là giai đoạn gặp công an Việt Cộng để khai báo quá khứ và thiết lập hồ sơ, xong rồi, đưa qua phái đoàn Mỹ phỏng vấn. Khi gặp phái đoàn Mỹ, số phận HO mới được định đoạt.

Ngày sơ vấn, tôi đeo xe đò lên Sài Gòn trước một ngày, để hôm sau đi thẳng đến chỗ xuất cảnh sớm nhất. Như lần trước, tôi chuẩn bị một số phong thư. Thằng em út của tôi nhìn thấy, liền kề tai nói nho nhỏ:

-Tụi công an ăn hối lộ nhiều quá, tai tiếng tùm lum. Nên lúc này, cấp trên tụi nó ra lệnh thi hành chính sách trong-sạch-hóa. Anh coi chừng việc đi Mỹ của anh có thể bị trở ngại, vì tụi nó đang thi hành chính sách này một cách nghiêm chỉnh.

Quả đúng như lời thằng em nói, chỗ xuất cảnh thênh thang, bốn bức tường chung quanh đều treo đỏ các khẩu hiệu bề thế, đại loại như: Chống hối lộ, trong sạch hàng ngũ, đạo đức cách mạng, noi gương bác Hồ…

Tôi xé vội các phong thư, rồi xếp hàng nghiêm chỉnh, đàng hoàng như các khẩu hiệu treo trên tường. Ngồi chờ từ sáng sớm đến gần xế chiều, tên tôi vẫn chưa nghe gọi lên. Ồ! Thật lạ quá! Tôi là người ghi danh đầu tiên kia mà. Sáng tờ mờ, tôi đã đến đây trước, lúc cánh cổng chỗ xuất cảnh chưa mở kia mà.

Nóng lòng, tôi đi tới đi lui, đi xuôi đi ngược. Cuối cùng, tôi chạy vội đến tên công an ngồi ghi danh trước cổng:

-Anh ơi! Tôi là người đến đây đầu tiên, sao mãi tới bây giờ vẫn chưa được gọi tên?

Tên công an cộc lốc:

-Cứ ngồi chờ đi.

Có một người bạn tù thấy vậy, khều tôi ra ngoài hành lang:

-Anh “lót tay” cho tụi nó chưa?

-Hả? Anh không thấy những khẩu hiệu to bề bề trên tường sao?

Người bạn tù lắc đầu:

-Anh ngây thơ quá! Nó nói vậy mà không phải vậy. Anh phải hiểu ngược lại chứ!

Tôi chạy vội vào nhà vệ sinh, sau khi xin người bạn tù tốt bụng vài mảnh phong bì. Rồi, tôi lại chạy vội về phía tên công an gác cổng. Vài phút sau, tên tôi được gọi lên ngay. Cuộc sơ vấn cũng vậy, y chang như những lần gặp gỡ trước. Cũng phong bì đặt nhẹ nhàng trên bàn. Cũng ngăn tủ được kéo ra, phong bì thong dong rớt xuống.

Cuộc phỏng vấn của phái đoàn Mỹ thì khỏi cần lo, vì gia đình tôi có đủ giấy tờ chứng minh một cách hợp lệ. Được phái đoàn Mỹ chấp thuận, gia đình tôi rất mừng, mừng đến rưng rưng nước mắt. Nhưng công an Việt Cộng vẫn chưa chịu tha, họ bắt chúng tôi xác nhận một số giấy tờ, và lại tiếp tục đi lòng vòng để xin chữ ký từng người.

Sài Gòn, thập niên 1980 (ảnh: Christopher Pillitz/Getty Images)

Trước khi rời Việt Nam, gia đình tôi phải hoàn tất cấp tốc các đơn từ khôi hài như sau:

Đơn xin xác nhận không thiếu nợ của nhân dân ở địa phương; chứng chỉ hợp lệ tình trạng thuế vụ; chứng nhận về nhà ở của người đi “nước ngoài”; giấy xác nhận không thiếu nợ ngân hàng thuộc chế độ cũ trong phạm vi tỉnh Bến Tre; giấy xác nhận đã trả thuế đất và thuế nhà năm 1973…

Năm 1982, khi thả ra từ trại tù Xuyên Mộc, tôi về quê vợ đốn cây sua đũa làm cột kèo, chẻ tre và cau làm nẹp, dựng tạm một căn chòi cho gia đình tôi dung thân. Buồn cười thay, lúc được phái đoàn Mỹ chấp thuận, căn chòi này đã xiêu vẹo mục nát, sắp sửa đổ lăn ra. Tôi có làm đơn xin dỡ chòi, nhưng chính quyền địa phương không cho phép, họ bảo phải định giá căn chòi để đóng thuế nhà. Và muốn hợp pháp, tôi phải làm đơn xin tặng căn chòi mục nát cho ông anh vợ, trước khi ra đi.

10 năm ở quê vợ, tôi đã miệt mài biến những mảnh đất hoang vu đầy lùm bụi thành những miếng vườn phì nhiêu, cây trái xum xuê. Cảm tạ công lao đó, ông anh vợ đã đền bồi cho gia đình tôi ba cây vàng làm vốn về xứ người. Ngày ra đi, tôi trích 5 chỉ để trả tiền dịch vụ sắp xếp chuyến bay, và sắm một số hành lý cho vợ và con. Còn lại, tôi gói ghém tất cả cho vào túi xách tay, mang theo bên người.

Từ Phú Ninh (quê vợ), gia đình tôi phải đi nhiều chặng đường mới lên tới Sài Gòn. Bôn ba qua vài ải, từ tàu đò, đến xe đò, rồi xe lam… Khi đặt chân tới Tân Định, mới hay túi xách tay bị kẻ gian rọc rách, và cuỗm mất toàn bộ tài sản của tôi! Đau quá, tôi định đi báo công an, nhưng nghĩ lại, sáng mai lên máy bay rồi. Đành nuốt lệ, tự an ủi: Của mất thay người vậy.

Vào đến phi trường, ngồi ngay cổng để chờ giờ lên máy bay, gia đình tôi cũng vẫn chưa yên ổn. Tên công an lảng vảng phía sau, theo tôi bén gót. Hắn ngoắc tôi ra ngoài hành lang, lạnh lùng nói:

-Này, còn bao nhiêu tiền móc hết ra đi. Qua Mỹ rồi, tiền Việt Nam chỉ có nước vứt đi.

Tôi gom mớ tiền tống khứ cho hắn, như tống khứ tất cả vận xui ra khỏi cuộc đời mình.

Cám ơn Thượng Đế. Cám ơn cuộc đời. Cám ơn tấm lòng nhân hậu của các vị hảo tâm. 17 năm qua, nơi xứ người, từ bàn tay trắng lao lung, gia đình tôi đã có nghề nghiệp vững chắc. Những đứa cháu nội xinh đẹp, khôn ngoan lần lượt ra đời. Những niềm vui tràn trề xuất hiện xua tan đi những nỗi đau thống thiết của quá khứ bất hạnh.

HO chỉ là danh sách, chỉ là ngôn từ được đặt ra để nói đến diện tù nhân chính trị. Nhưng HO là nhân chứng, một biến động lịch sử to lớn xảy ra năm 1975. Có HO, dùng danh từ HO, người ta mới phân biệt được tù nhân chính trị thuộc giai đoạn nào trong lịch sử. Từ đó, về sau, khi lật lại từng trang sử Việt, thế giới và hậu duệ chúng ta mới xác nhận được ngày 30 Tháng Tư 1975 chính là ngày quốc hận của Việt Nam Cộng Hòa.

CÁI LẠNH CHẾT NGƯỜI!-CHUYỂN TRẠI-LM Nguyễn Hữu Lễ

LM Nguyễn Hữu Lễ

Các bạn thân mến,

Nước New Zealand ( Tân Tây Lan) nơi tôi đang sống là một quốc gia hải đảo ở vùng Nam Bán Cầu, rất gần với Nam Cực. Mùa Đông ở đây bắt đầu từ tháng 6 cho tới tháng 10. Vì ở gần Nam Cực nên mùa đông xứ này rất lạnh. Đặc biệt năm nay thời tiết bất thường, mới vào mùa đông mà đã có những ngày rất lạnh như hôm nay.

Tự nhiên tôi hồi tưởng lại “CÁI LẠNH CHẾT NGƯỜI” ở trại Cổng Trời năm xưa và ghi ra đây để chia sẻ với các bạn. ( Phần này tôi có viết trong Chương 9 : “Trại Cổng Trời”của Bút ký TÔI PHẢI SỐNG)

Thân ái

Lm NHL

***

CHUYỂN TRẠI

Chiều tối ngày 24 tháng 12 năm 1977, nhóm 20 người tù chúng tôi từ trại Nam Hà bị còng tay từng đôi một và tống lên chiếc xe khách tồi tàn cũ kỹ. Trên xe có một cán bộ cấp thiếu uý và 4 cán bộ mang súng dài theo áp tải. Chúng tôi qua cầu Long Biên ở Hà Nội lúc nữa đêm Lễ Chúa Giáng Sinh 1977.

Sau khi băng rừng leo núi suốt một ngày một đêm, cuối cùng chiếc xe dừng lại trong sân một trại tù xa lạ. Lúc ấy có lẽ đã qua nửa đêm, hoặc đã 1, 2 giờ sáng ngày 27 tháng 12 năm 1977. Trời lạnh như cắt da cắt thịt. Ngồi trong xe nhìn ra màn đêm bên ngoài bị sương mù phủ mờ những cảnh tượng chung quanh làm tôi chẳng thấy được gì nhiều.

Lúc nãy, khi xe chạy qua khu nhà cán bộ và dừng lại một chập, sau đó chạy vào qua cổng trại thì tôi biết đã tới nơi. Bên ngoài, tôi thấy có quãng 5, 6 cán bộ đứng gần bên xe. Họ mặc áo bông, đầu đội mũ có che tai và cột lại dưới cằm giống như lính Liên Xô, họ mang bao tay và cầm đèn bấm, có người cầm quyển sổ. Một lúc sau nhóm tù chúng tôi được lệnh xuống xe, tay vẫn còn bị cùm dính nhau từng đôi một.

Vừa bước ra khỏi xe, tôi chạm ngay với cái lạnh khủng khiếp! Lúc còn trên xe nhìn ra thấy cách ăn mặc của các cán bộ và nhất là khi thấy hơi khói ở miệng thoát ra ngùn ngụt mỗi khi họ nói, tôi biết là bên ngoài trời rất lạnh nên đã cẩn thận cài khuy áo, quấn thêm lên cổ chiếc khăn lông, nhưng đầu và chân vẫn để trần vì lúc đó tôi không có mũ và giày, chỉ mang đôi dép râu do trại Nam Hà phát.

Cái lạnh làm tôi nghe choáng váng và có cảm tưởng như bị một cú đấm thẳng vào mặt làm tôi bật ngược về phía sau.Tôi chưa kịp hoàn hồn để nhận biết hết tính cách kinh khủng của cái lạnh, bỗng chốc tôi cảm thấy mình như đang trần truồng! Ô, kìa! Sao lạ kỳ thế này? Tôi nhớ là mình có mặc áo quần cẩn thận, có mặc thêm cái áo vệ sinh bên ngoài bộ đồ xanh của trại phát, có khăn lông quấn cổ nữa, nhưng tự nhiên các thứ vải vóc trên thân thể tôi biến đi đâu hết để tôi đứng trần truồng giữa cái lạnh khủng khiếp này? Nhìn lại, tôi vẫn thấy còn quần áo dính trên người, nhưng lạ một điều là trong khoảnh khắc toàn thân tôi trở nên tê dại, không còn cảm giác nữa. Áo quần còn trên cơ thể, nhưng dường như không còn, chỉ nhìn thấy nó còn đó.

Trong lúc đó tôi cố mở miệng ra định nói vài câu với người bạn đang bị còng chung, nhưng hàm tôi cứng lại như bị khóa! Hai đầu gối tôi tự nhiên biến đi đâu để đôi chân tôi cứng lại như hai khúc gỗ thẳng tắp. Thì ra cái lạnh không được đề phòng trước đã đánh tôi ngã gục, đã làm tê dại hết các tế bào xúc giác và làm hệ thần kinh tôi hoạt động bấn loạn. Ngày xưa khi đọc sách báo, tôi có thấy nói đến “cái lạnh chết người”, nhưng lúc đó tôi không hiểu, chỉ nghĩ đó là cách nói trong văn chương chữ nghĩa. Nhưng chỉ trong mấy phút vừa qua, tôi đã hiểu và có lẽ tôi còn hiểu rõ ràng hơn tác giả đã viết lên câu “cái lạnh chết người”!

Lúc rời trại Nam Hà ra đi thời tiết ở đó cũng đã khá lạnh nên tôi lấy cái áo vệ sinh do trại phát mặc thêm bên ngoài bộ đồ xanh của trại. Mặc như thế cũng đủ với cái lạnh vào quãng 8 độ C của mùa đông dất Bắc ở vùng núi đá vôi Nam Hà.

Trong suốt 24 giờ qua, chúng tôi vật vã lăn lộn trên chiếc xe già nua bò lết leo lên những dốc núi cao. Có lúc xe chạy giữa vách đá cheo leo, một bên là núi, bên kia là thung lũng sâu, nhìn xuống phát chóng mặt. Trên đường đi, vì bị dằn vật nhiều quá nên tôi cảm thấy nóng và có lần đã phải cởi áo vệ sinh ra cho dễ chịu, nhưng khi xe lên tới độ cao và nhất là càng về chiều càng lạnh, nên tôi mặc áo ngoài cẩn thận.

Lúc trời về khuya, cơn lạnh dữ dội ập đến, tôi chỉ còn biết co ro ngồi dựa vào những gì có thể, để tìm chút hơi ấm. Dĩ nhiên lúc đó tất cả cửa gió trên xe đều đóng lại. Hơn nữa, nhờ có đông người, 20 người tù và 5 cán bộ áp tải, nên hơi người cũng làm tôi cảm thấy ấm hơn đôi chút. Lúc ở trên xe, ai có muốn mặc thêm quần áo cũng không có, vì đi đường mỗi người chỉ có một túi xách nhỏ, còn tất cả “nội vụ” đều cho vào bao bị chất đống trong xe, khi tới nơi mới lấy ra được.

Thì ra cái lạnh của trại Nam Hà không thấm vào đâu so với cái lạnh khủng khiếp nơi tôi vừa đặt chân tới, mà tôi đoán là dưới 0 độ khá xa. Lúc đó tôi chẳng biết mình đang ở đâu và trại mà chúng tôi vừa tới tên là gì.

ÐÊM GIÁ BĂNG

Lúc này trời đã quá muộn về sáng, vả lại thời tiết lạnh khủng khiếp nên vừa xuống xe là chúng tôi được tháo còng ngay và nhận lại “nội vụ”, sau đó được đưa vào một buồng kế bên nghỉ qua đêm. Mặc dù mới đứng trong sân chừng 15 phút nhưng mặt tôi cứng như tảng nước đá, đầu nhức như muốn vỡ đôi ra, hai tai đang dính vào đầu cứng như hai miếng bánh đa mỏng giòn, tôi nghĩ nếu dùng tay búng mạnh sẽ bị vỡ tan và rơi xuống đất. Ðôi chân cứng đờ và thẳng tắp không còn bước đi được nên một anh bạn trẻ phải giúp dìu tôi vào buồng.

Ðó là một buồng giam nhỏ và rất tồi tàn, có lối đi ở giữa và hai bên có sàn ván để nằm, có tầng bên trên. Vào buồng xong việc đầu tiên là chúng tôi xổ hết bao bị ra tìm thứ gì có thể mặc được thì mặc và quấn hết vào người. Ðêm đó tôi không tài nào ngủ được vì quá lạnh, mặc dù sau một ngày đường lăn lộn mệt nhọc. Tôi cố thu người lại càng nhỏ càng tốt, nhưng nằm co thế nào đi nữa vẫn thấy da thịt mình còn quá nhiều chỗ phải đụng chạm với khí lạnh bên ngoài. Lúc nằm yên tôi hình dung ra “con rét” là một loài côn trùng bé tí ti nhưng có răng thật sắc, đang bò trong cơ thể tôi, chui vào các lỗ chân lông, đi vào hơi thở, chui vào các mạch máu và đang gặm nhắm từng tế bào bên trong cơ thể tê dại của tôi đang cuộn tròn như con sâu.

Lúc đó tôi mới nhớ lại là các cán bộ ở đây ai cũng mặc áo bông dày cộm, đầu đội mũ có rèm che tai gần kín mặt, tay mang găng len hoặc da. Với cái lạnh khủng khiếp này, các loại quần áo bằng vải hoặc bằng len, cho dù có mặc bao nhiêu lớp trên người cũng không hề thấm vào đâu. Phải mặc đồ bông mới chống lạnh được. Nằm một chập, không ai chịu thấu cái lạnh bất ngờ này, nên cả đám chúng tôi tự động ôm nhau, người này rúc đầu vào người kia như lứa chó con con nằm trong ổ. Nếu biết trước, ít ra chúng tôi cũng đã chuẩn bị thứ gì đó để chống lạnh trong hoàn cảnh có thể chuẩn bị được.

Sáng hôm sau, cả đám chúng tôi trỗi dậy trong trạng thái mệt nhọc rã rời. Một phần vì bao nhiêu nhiệt lượng trong người đã được đưa ra để chống lại cái lạnh khủng khiếp bên ngoài, phần nữa lại vừa mất ngủ sau một ngày bị dằn xốc suốt 24 tiếng đồng hồ trên xe. Lúc này, bên ngoài sương mù đã phủ dày đặc, nên chúng tôi không nhìn thấy gì, chỉ loáng thoáng thấy có bức tường bao bọc trước sân, có cánh cổng mở vào sân và một nóc nhà lợp lá thật bệ rạc nằm phía sau. Sáng ngày tôi cảm thấy bớt lạnh, có lẽ nhờ số chăn màn và hơi ấm thân thể của 20 con người trong phòng đóng kín đêm qua. Mãi một lúc rất lâu mới nghe có tiếng động bên ngoài làm chúng tôi giật mình nhìn ra, nhưng chưa thấy ai.

Thình lình trong màn sương hiện ra một người bước rất nhanh vào sân. Người mới xuất hiện này vóc dáng to cao, mặc áo bông che kín cả cổ, đội mũ có vải che tai như kiểu của quân đội Liên Xô, mang găng tay và cầm một chùm chìa khóa khá to có đến mấy chục chiếc. Người này tới bên cửa sổ nhìn vào, hai tay đang xoa vào nhau làm chùm chìa khóa kêu rổn rảng. Người lạ mặt này có thân hình đã to, lại mặc áo quần dày cộm trên người, càng làm cho con người ấy to như một anh khổng lồ.

TRẠI QUYẾT TIẾN “CỔNG TRỜI’!”

Khi người đó đứng bên ngoài nhìn vào, chúng tôi bên trong cửa sổ lên tiếng:

-Chào cán bộ.

Người bên ngoài lên tiếng đáp lại:

-Tôi không phải là cán bộ, tôi là “Trật Tự”!

Khi nói, miệng anh nhả khói um tùm như người đang hút thuốc lá. Ðó là lần đầu tiên tôi nghe hai tiếng “Trật Tự”, vì ở trại Nam Hà không có anh tù làm ‘trật tự’ như ở đây. Khi biết anh cũng là tù, chúng tôi dạn dĩ hơn nên bắt đầu tìm hiểu những điều chúng tôi thắc mắc suốt đêm qua. Chúng tôi thay nhau hỏi, nhưng câu hỏi đầu tiên mà hình như ai cũng nói ra cùng lúc là:

-Trại này là trại gì, ở tỉnh nào?.

Anh tù Trật Tự này mặc dù không phải là con người vui vẻ, nhưng tỏ ra là một người dễ chịu, anh đáp nhanh:

– Các anh đang ở trại “Quyết Tiến Cổng Trời” trong tỉnh Hà Tuyên.

Vì chúng tôi là người miền Nam chưa biết vị trí các tỉnh miền Bắc nên có anh hỏi:

– Vậy tỉnh Hà Tuyên nằm ở đâu hả anh?

– Nằm giáp ranh Trung Quốc và trại này cách biên giới Trung Quốc 10 cây số!

Lúc đó 20 người chúng tôi bu quanh cửa sổ và thi nhau đặt câu hỏi hỏi làm anh Trật Tự bên ngoài không biết trả lời ai. Tôi hỏi to:

– Thế trại này có tù chính trị miền Nam không anh?

Anh chưa kịp trả lời thì có một số cán bộ bước vào sân và anh ta làm thinh. Tôi nhận ra trong số cán bộ vừa bước vào có Thiếu úy Lạc ở trại Nam Hà, người có mặt trên xe áp tải chúng tôi. Sau khi đứng ngoài sân nói gì với nhau một lúc, anh Trật Tự tới mở cửa buồng, một cán bộ cấp thiếu úy, người khá nhỏ bước vào buồng ra lệnh cho chúng tôi mang hết “nội vụ” ra sân để khám xét. Việc kiểm tra này là thủ tục thông thường khi tù nhân chuyển tới một trại mới.

Chúng tôi khệ nệ tay xách nách mang tất cả những gì mình có và theo một hành lang hẹp dẫn ra sân trại trong làn sương mù dày đặc. Thời tiết bên ngoài lạnh hơn tôi tưởng. Tôi bước đi vừa rét vừa run, mặc dù tôi đã mặc vào người thêm mấy lớp quần áo, nhưng với cái lạnh ở đây, quần áo vải chẳng thấm vào đâu. Ra tới nơi mới thấy bày sẵn một bàn nhỏ và một số khá đông cán bộ đang chờ sẵn. Tất cả đều mặc áo bông và đội mũ “Liên Xô”. Cuộc khám xét bắt đầu.

Theo quy luật trại, tiền bạc và các đồ quý giá đều phải gửi lưu ký. Riêng áo quần có thể gửi lưu ký hoặc giữ lại dùng trong trại tùy ý, nhưng nếu giữ lại đưa vào trại phải bị đóng dấu “CẢI TẠO” bằng hắc ín thật to sau lưng áo và trên ống quần. Ðóng dấu như vậy coi như bộ đồ ấy đã bỏ đi, nên nhiều người tiếc rẻ và muốn gửi lưu ký để khi ra về có đồ mới mà mặc.

ÐỘNG LÒNG TRẮC ẨN

Trong lúc đang kiểm tra và có mấy anh định gửi lưu ký quần áo, Cán bộ Lạc bước tới gần nói nhỏ, giọng khá xúc động: “Ở đây rét lắm, các anh giữ lại quần áo mà dùng, đừng gửi lưu ký làm gì!” Một lúc sau, khi đã khám xét và bàn giao xong, anh ta tiến lại nhóm chúng tôi nói nhỏ, không để cho cán bộ trại Quyết Tiến nghe thấy: “Ở trại Nam Hà sướng như thế mà các anh không chịu, bây giờ phải lên đây, tôi chẳng biết nói sao!? Thôi các anh ở lại, cố gắng cải tạo và nhớ giữ gìn sức khỏe”. Nói xong anh quay đi thật nhanh.

Tôi rất cảm động khi nghe Cán bộ Lạc nói những lời đó. Sau 2 năm ở tù, đó là lần đầu tiên tôi nhận thấy được lòng nhân nơi một người cán bộ. Anh cảm thấy ái ngại cho số phận chúng tôi, những con người mà anh biết là đang đi vào cõi chết. Qua câu nói bảo đừng gửi lưu ký áo quần, người cán bộ có ý nhắn là không bao giờ có dịp nhận lại nữa, và câu nói sau cùng trước lúc chia tay đã cho chúng tôi biết phần nào về số phận của mình. Sau khi khám xét xong, nhóm 20 người chúng tôi được chia ra làm hai, 14 người nhập vào đội lao động và 6 người bị lên khu kiên giam, trong đó có tôi.

KHU KIÊN GIAM TRẠI CỔNG TRỜI

Khu kiên giam là một nhà dài bằng đá tối om, có hành lang nhỏ ở giữa, chia ra mỗi bên 5 buồng hẹp, mỗi buồng khoảng 3 thước bề ngang và có sạp nằm bằng ván hai bên cho 2 người. Trong góc phòng có cầu tiêu và phía ngoài có cửa sổ nhỏ trông ra đường. Hằng ngày có anh tù đến gánh phân nơi hầm nhà cầu thông ra phía ngoài. Lúc tôi tới đó đã có sẵn mấy người trong khu kiên giam.

Mấy ngày sau nhờ liên lạc hỏi thăm anh em các buồng bên cạnh và hỏi chuyện anh tù gánh phân, chúng tôi được biết thêm về trại này.Trại Quyết Tiến nằm sát ngay biên giới Trung Quốc, thuộc huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Tuyên, tức là hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang gọi nhập lại. Trại này có biệt danh là trại “Cổng Trời” vì 2 lý do. Thứ nhất theo nghĩa đen, đây là trại tù nằm ở cao độ 2,500 thước trên mặt biển, (cao gần đụng trời!) Lý do thứ hai, vì đây là trại trừng giới dành cho các tù chính trị thuộc diện bất trị, lên đây một thời gian rồi sẽ về… trời! Do đó, trại này được coi như một phòng chờ đợi trước khi bước qua bên kia thế giới.

Trong trại cũng có một số tù hình sự có án nặng như tử hình giảm xuống chung thân, hoặc nhẹ hơn thì 20 năm, 18 năm, 15 năm v.v… Những người bị kêu án dưới 10 năm không phải lên đây. Số tù hình sự còn có hy vọng được tha sau khi mãn án, nhưng không mấy người sống sót vì sự khắc nghiệt của thiên nhiên và sự ác độc của con người trong trại trừng giới này. Cuối cùng rồi phần đông họ cũng đã bỏ xác ở đây trước khi mãn án.

Khi chúng tôi tới, trong trại đang có khoảng 350 tù hình sự với một số tù Biệt Kích và 5 người tù miền Nam từ các trại khác mới đưa lên, đó là các anh Ðặng Văn Tiếp, một cựu Dân biểu từ trại Hà Tây đưa lên trước chúng tôi 1 tháng cùng với các anh Nguyễn Thái Quân và Hoàng Trọng Hanh. Hai anh Nguyễn Văn Phước và Nguyễn Văn Trình là sĩ quan cấp Tá từ đảo Guam trở về trên chuyến tàu Việt Nam Thương Tín, về tới Việt Nam tất cả bị đưa thẳng vô

tù.

Anh tù làm Trật Tự mà chúng tôi gặp trong ngày đầu tên là Tuấn, nguyên là bộ đội. Anh là một người hiền từ, ít nói. Sau khi nhóm Nam Hà chúng tôi lên một thời gian, có một số tù chính trị từ các trại khác lần lượt tới đây, trong đó có 7 linh mục, nâng tổng số lên 48 người, mà về sau này chúng tôi gọi là “Nhóm 48 Quyết Tiến”. Theo cách hiểu lúc bấy giờ, đây là những người bị liệt vào đội trừng giới và bị kết án tử hình, được lựa ra từ nhiều trại khác nhau ở miền Bắc. Trong thực tế số người này có xứng đáng chịu số phận đó hay không, và sự lựa chọn có đúng “tiêu chuẩn” hoặc chính xác tới mức nào còn là vấn đề khác.

CƠN ĐÓI TRONG CẢNH RÉT

Lúc ở kiên giam, chúng tôi bị nhốt rong buồng cả ngày lẫn đêm nhưng không bị cùm như ở khu kỷ luật. Hai thứ ĐÓI và RÉT là hai tên hung thần hành hạ chúng tôi nặng nhất. Nhà kiên giam xây bằng đá, về đêm hơi lạnh của đá tỏa ra biến buồng giam thành một tủ lạnh và tù nhân phải nằm co ro trong cái “tủ lạnh” đó cả ngày lẫn đêm.

Tệ hại hơn nữa, cái lạnh hành hạ chưa đủ, lại còn thêm cái đói. Ở đây không có gì để ăn cho tạm gọi là no. Ðói và Rét như cặp bài trùng của bộ máy tiêu diệt con người. Khi hai yếu tố Ðói và Rét gặp nhau và hỗ trợ cho nhau thì sức tàn phá được nhân lên gấp bội. Thân thể con người càng đói thì càng rét; và hễ càng rét lại càng đói. Trong khu nhà kiên giam của trại “Cổng Trời” này, hai tên hung thần Đói và Rét đó cứ mải mê tranh tài “ai thắng ai” ngay trên da thịt xanh xao như tàu lá chuối và trong dạ dày xẹp lép của đám tù khốn khổ chúng tôi!

Mỗi ngày, tù ở khu kiên giam được cho ăn 2 lần, trưa và chiều, mỗi lần một chiếc bánh mì nướng to bằng cổ tay và dài chừng một gang. Trong khi các đội bên ngoài có thêm bữa ăn sáng vì phải đi lao động. Với hai chiếc bánh mì nướng khiêm tốn đó mà tôi nghiệm được câu nói trong tù: “Không ăn thì đói; ăn vào đói hơn!” Mà thật đúng như vậy, sau khi “nuốt” cái bánh mì từ 5 giờ chiều hôm trước, tôi nằm đắp chăn chịu trận cái rét dưới độ âm và chờ tới 17 tiếng đồng hồ nữa mới có cái gì cho vào dạ dày. Suốt thời gian dài đằng đẵng đó, tôi thường lịm đi hoặc nằm yên bất động như con sóc trong mùa đông.

Cữ ăn 10 giờ sáng hôm sau quấy động dạ dày thức giấc. Nó cồn cào và đòi hỏi thức ăn một cách dữ dội! Nó đòi ăn thêm để khỏa lấp chỗ trống còn rộng thênh thang của dạ dầy, nhưng nào có được! Sau khi ăn xong, tôi chỉ còn biết nằm im lìm chờ đợi, lắng tai nghe và mong tiếng động then gài cổng bên ngoài báo hiệu lúc anh Trật Tự lên cho ăn chiều.

Auckland. New Zealand

Ngày 27 tháng 6 năm 2023

Linh mục NGUYỄN HỮU LỄ

CÁI GÌ RỒI CŨNG QUEN ĐI!-LM Nguyễn Hữu Lễ

LM Nguyễn Hữu Lễ

Các bạn thân mến,

Tôi xin chia sẻ với các bạn một kinh nghiệm “không đẹp cho lắm!” trong một giai đoạn cuộc đời tôi. Dù vậy, khả năng thích ứng của con người rất lạ lùng. Câu chuyện “CÁI GÌ RỒI CŨNG QUEN ĐI!”dưới đây chứng minh cho khả năng thích nghi đó của con người.

Mời các bạn dành ra vài phút theo dõi nhé.

Thân ái

Lm NHL

***

CHUYỂN TRẠI

Ngày 19 tháng 2 năm 1977, từ trại Phan Đăng Lưu ở Gia Định, tôi bị đưa lên trại Gia Ray trong tỉnh Long Khánh, còn gọi là trại Z 30D, nhìn ra núi Chứa Chan cao to sừng sững, cách ngã ba Ông Đồn không xa. Trại tù nằm trên một đồi cao, có cái tên khá thơ mộng là “Đồi Phượng Vĩ”. Thời chế độ Việt Nam Cộng Hoà, trại này là hậu cứ của Trung đoàn 54.

Vì là một trại lính và nay biến thành nhà tù, nên nó không có một thứ gì cả, ngoài mấy dãy nhà tôn vách ván, cất trên nền đất đỏ đầy bụi bặm và hang chuột dọc ngang. Khi chúng tôi chuyển tới đây thì trong trại đã có sẵn khoảng một ngàn người. Chừng vài tuần lễ sau, có một số tù quân đội từ trại Cà Tum, Tỉnh Tây Ninh chuyển về nữa, nâng tổng số tù lên 1.200 người.

Trại không có nước máy, cũng không có giếng hoặc suối để lấy nước. Hàng ngày xe bồn chở nước tới cung cấp cho cơ quan, cho nhà bếp và hơn một ngàn tù nhân. Vì lượng nước cung cấp rất hạn chế nên nước trở thành hiếm và dĩ nhiên cái gì hiếm thì quý. Các tù nhân chỉ được chia tiêu chuẩn nước uống mỗi ngày hai lon Guigoz trong hai bữa ăn trưa và chiều. Lon Guigoz là lon nhôm của hãng sửa bột Hoà Lan Guigoz có sức chứa 750 ml nước.

Vì phần nước quá ít so với nhu cầu nên hầu như không có ngày nào là không có cãi nhau về “việc nước”. Có nhiều trận đánh nhau bưu đầu sứt trán “vì nước”. Có mấy lần, hàng trăm tù nhân hè nhau tấn công nhà bếp để… “cướp nước”! Những lúc đó thôi thì gậy gộc, gạch đá, có khi cả dao mác đều được dùng để ẩu đả nhau“vì nước!”

Khi vừa tới, chúng tôi được phân tán vào các đội và ở các buồng khác nhau, mỗi buồng chứa khảng 60 người. Hai ngày đầu bị nhốt cả ngày lẫn đêm. Buồng giam trống trơn từ đầu tới cuối, ở giữa là lối đi, hai bên có hai dãy sàn nằm bằng gỗ. Trong buồng không có cầu tiêu, nhưng thay vào đó là 3 cái ống vỏ đạn pháo binh 155 ly, được dựng trong phòng nhỏ ở góc phía trong cùng. Tất cả mọi nhu cầu vệ sinh của chừng ấy con người trong buồng được giải quyết gọn trong ba cái vỏ đạn đó, sáng ngày mới được mang đi đổ ở hố cầu tiêu công cộng.

Tuy tôi chỉ ở trại này thời gian ngắn, nhưng có mấy việc gây ấn tượng mạnh làm tôi không sao quên được. Trước hết là chuyện về cái hố cầu tiêu công cộng, cũng được coi là “vương quốc” của ruồi xanh.

VƯƠNG QUỐC “RUỒI XANH”

Qua ngày thứ ba chúng tôi được mở cửa ra ngoài. Tôi còn nhớ mãi buổi sáng đầu tiên được ra ngoài, tôi có nhu cầu ra cầu tiêu công cộng. Muốn tới đó phải đi qua vài ba dãy nhà, kể cả khu vực nhà bếp, rồi từ đó theo con đường nhỏ đi giữa hai hàng rào kẽm gai dọc theo đường cống lộ thiên rộng chừng 1 thước, dẫn ra hàng rào kẽm gai bao bọc. Khu vực cầu tiêu công cộng nằm kế bên nhà bếp và sát bờ rào trại.

Khi vừa tới gần nhà bếp, tôi đã “đánh mùi” được cái nơi tôi cần tới, đồng thời cũng nghe âm thanh ồn ào của bầy ruồi xanh đang bận rộn với hàng đống cải muối dưa được trải phơi trên mái tôn của nhà bếp.

Trời ơi, ruồi xanh ở đâu ra mà lắm thế! Thì ra mùi dưa cải muối chua, mùi thức ăn của nhà bếp, mùi thối của đường cống lộ thiên, cộng với mùi xú uế từ cầu tiêu công cộng cách đó không xa đã lôi cuốn không biết cơ man nào là ruồi xanh. Chúng bay thành từng đàn, từng mảng trên nền trời đông như giải trấu. Một số đông đang giành ăn cấu xé nhau trên đám cải chua trên nóc nhà bếp. Số khác bay lượn vo ve trên miệng đường cống, đậu vào những nơi nào có thể đậu được trong khu nhà bếp và tạo nên một cảnh tượng ồn ào náo nhiệt khác thường.

Ðây là lần đầu tiên trong đời tôi được thấy ruồi xanh nhiều như thế. Con nào con nấy to bằng đầu đủa. Nhìn cảnh đó tôi thầm nghĩ, có lẽ toàn thể ruồi xanh trên thế giới hôm nay tập trung về Tỉnh Xuân Lộc này để họp bạn; hoặc có một “Đại Hội Ruồi Xanh Thế Giới” được tổ chức ngay trong trại tù Gia Ray!

Khi tới nhà bếp tôi phải dừng lại, ráp vào hàng, vì đã có chừng vài ba chục người đang đứng xếp hàng trên lối đi, trên tay mỗi người cầm một tờ giấy. Phía sau có độ mươi anh tù khác cũng đang lục đục kéo ra và hàng người càng lúc càng dài hơn. Những người tù bất đắc dĩ phải đứng xếp hàng đó, đa số còn xa lạ nên tôi cũng chẳng nói chuyện với ai. Có người mặt nhăn mày nhó trông rất khổ sở, mà tôi đoán là họ đang bị “đuổi” rất gấp, như thế còn tâm trí đâu để mà chuyện với trò?

Nhìn về phía xa trước mặt, tôi thấy cái hố hình chữ nhật chiều dài phải có tới 15 thước, chiều ngang khoảng chừng 10 thước. Trên mặt hố được dựng tạm bợ một dãy cầu tiêu chừng 15 hay 20 cái dính liền nhau, cái nọ cách cái kia bằng một tấm phên nứa cao chừng 40 cm. Trong mỗi cái ô nho nhỏ đó có một con người đang ngồi giống như một hàng nhộng nằm trong tổ ong ló đầu ra ngoài. Dãy cầu tiêu nằm cách bờ đất chừng 2 thước và trước mỗi ô có một miếng ván bìa bắt từ mép bờ đi ra.

Trên nóc cầu tiêu có tấm cót che mưa che nắng một cách sơ sài. Phía trước có tấm chắn bằng nứa, cao chừng một gang tay. Tấm chắn này chỉ che được những nơi “cần che” của con người đang ngồi chồm hổm phía sau, đối diện với một người đang đứng dàn hàng ngang trên bờ. Những người đứng hàng ngang này thuộc diện ưu tiên, trong khi những người ra muộn như tôi, phải đứng thành hàng dọc trên lối đi.

ÐỢI CHỜ TRONG ĐAU KHỔ!

Một lúc sau tôi mới chợt để ý là hầu hết những người đang xếp hàng đều cởi trần chỉ mặc mỗi chiếc quần đùi. Ðiều này làm tôi ngạc nhiên vì lúc đó là tiết xuân, sáng sớm trời khá lạnh, tại sao họ lại cởi trần, mặc quần đùi, trong khi tôi lại ‘diện’ khá chỉnh tề. Lúc đó tôi nghĩ bụng: “Mấy tướng này đã ở đây lâu nên quen chịu rét, còn mình làm gì dám cởi trần buổi sáng sớm lạnh cóng thế này!” Tôi quay lại phía sau, thấy có vài anh cũng ăn mặc chững chạc như tôi, coi lại toàn là đám lính mới trong nhóm mới nhập trại 2 ngày qua.

Hàng người nhích bước tới rất chậm, chẳng khác gì cảnh kẹt xe trên đường Hai Bà Trưng vào giờ tan sở. Có mấy tay đứng cạnh tôi, chắc là trong tình trạng rất “khẩn trương”, đang đứng khoanh tay, mặt mày nhăn nhó, bứt rứt trông rất thảm hại. Cặp mắt lúc nào cũng đăm đăm nhìn cái hàng “nhộng” đang ngồi yên bất động, giương mắt lờ đờ nhìn ra, trong trạng thái “đê mê” nhẹ nhàng thoải mái.

Có một anh chàng đứng sau lưng tôi có vẻ đang bị “Tào Tháo” đuổi gấp, nhưng lại gặp đèn đỏ phía trước nên tức khí quát to: “ Ðụ Mẹ! Ỉa cái đéo gì mà lâu thế mấy cha nội? Bộ muốn ngủ trong đó à? Mau ra cho bà con nhờ với chớ!” Cả đám cười ồ sau câu nói của anh chàng lỗ mãng vui tính này. Vài người phụ họa pha trò thêm vài câu gì đó để quên cảnh khổ lúc bấy giờ đang hành hạ từng người. Chẳng ai buồn trả lời, nhưng một lúc sau có tiếng nói của một trong những “con nhộng” đùa trả lại. Nghe cách nói, tôi biết là chỗ bạn bè thân thiết: “Cái thằng ăn nói vô duyên, chuyện gì chớ chuyện này thì nhanh cái chó gì được? Ngồi đây thối bỏ mẹ, có sướng ích gì đâu mà mầy ở đó la với hét?” Cả bọn chúng tôi lại được một trận cười cho quên cảnh “sầu trong bụng” được giây lát.

Có mấy anh xong việc, kéo quần đứng lên, bước vội ra như bị ma đuổi. Mỗi lần như vậy chúng tôi nhích thêm được vài bước. Chợt có một anh bạn đi ngược chiều, khi ngang qua chỗ tôi, dừng lại nói: “Cậu Bảy, cởi đồ dài ra, mặc quần cụt thôi!” Tôi ngạc niên hỏi: “Sao vậy?” Anh ta trả lời: “ Trời ơi! Vô đó nó thối không thể chịu nổi. Cậu mặc quần áo dài, mùi thối ám vô mấy ngày còn chưa hết mùi. Ở đây làm gì có nước mà giặt. Cậu cởi quần áo dài ra đi, con mang về buồng cho!”

Thì ra tôi mới hiểu tại sao gần như tất cả đều cởi trần mặc quần đùi, chỉ có bọn lính mới chúng tôi là ngây thơ trong việc này. Sau khi cởi trần tôi bắt đầu rét run, nhưng dù sao tôi cũng phải bám trụ ở đây, không thể nào rời bỏ vị trí được.

Kẻ ra người vào, rốt cùng tôi cũng trở thành dạng ưu tiên, đứng đối diện với một người xa lạ đang ngồi chồm hổm bên trong “tổ ong”. Hai người chúng tôi, một đứng một ngồi, cách nhau chừng hai thước, nhưng hai người tránh ánh mắt của nhau, vì đây là một cuộc “hội kiến” hoàn toàn bất đắc dĩ.

Lúc đứng chờ, tôi nhìn xuống hố phân và cảnh tượng ở đây thật là kinh khủng! Cái hố sâu chừng quá đầu người. Bên dưới mỗi ô nhà cầu có một thùng chứa phân bằng sắt, trước kia là thùng phuy 200 lít chứa dầu xăng, được cắt đôi ra làm thùng chứa phân, có 2 quai bằng dây sắt. Nhưng vì thùng thì nhỏ mà người dùng thì quá đông, nên phân tràn be bét ra ngoài, lấp đầy gần một phần ba cái hố. Các thùng chứa phân này là “tài sản” của đội rau xanh, mỗi ngày có mấy anh tù vào khiêng ra, bón cho vườn rau cải của trại. Vườn rau cải này là nguồn cung cấp thức ăn chính cho hơn ngàn tù nhân trong trại.

Lúc đó, mùi hôi thối xông lên làm tôi gần ngạt thở. Ðám ruồi nhặng ở đây còn nhiều gấp mấy lần hơn nhóm ở nhà bếp. Chúng đông như trấu và đang quần thảo, cào cấu, nhào lộn, đẩy con này, hất con kia, đạp con nọ, bay lên, đáp xuống, ẩu đả nhau giành ăn trên mặt hố. Tiếng bay của chúng tạo thành âm thanh “ù… ù…” như tiếng máy bay trực thăng đến từ xa! Trên lớp mặt nhầy nhụa, từng mảng dòi bọ lúc nhúc đang lăn lộn, uốn éo, bò lết, trườn đạp lên nhau không khoan nhượng!

Tôi không dám nhìn cảnh này lâu và ngước nhìn lên cái chòi gác khá cao nằm ở một góc cách đó không xa. Có một anh công an ngồi gác trên chòi, anh ta đang yên lặng nhìn chòng chọc xuống đám tù nhân đang nối đuôi nhau làm cái công việc thuộc bản năng. Tự nhiên tôi đâm ra thương hại cho anh ta và nghĩ thầm:“Mình mới đứng ở đây một chốc đã muốn điên người, còn anh ta ngồi đó hàng giờ làm sao chịu cho thấu!” Nhưng tôi lại nghĩ, cái gì cũng vậy, mãi rồi nó cũng quen đi.

Một lúc sau, tới lượt tôi bước vào cái “tổ ong” để làm “con nhộng” và một người bạn tù khác đứng đối diện chờ tôi. Chúng tôi cách nhau chừng 2 thước, ngồi bên trong liếc nhìn ra tôi thấy cặp mắt anh ta lúc nào cũng hướng về phương trời xa xăm!

CÁI GÌ RỒI CŨNG QUEN ĐI

Về sau này mỗi buổi sáng tôi lại phải đến đây, dĩ nhiên là cởi trần mặc quần đùi, lại đứng xếp hàng dọc, lúc sau lại dàn hàng ngang đối diện với hai người bạn tù nào đó, một người tôi đứng chờ, và sau đó một người khác đứng chờ tôi! Một anh công an vẫn ngồi trên chòi gác, mắt vẫn đăm đăm nhìn xuống đám tù xếp hàng đi là công việc thuộc bản năng. Cái hố vẫn là cái hố cũ, vẫn là “vương quốc” ồn ào của ruồi xanh với tất cả sự nhơ nhớp và thối tha kinh khủng của nó, nhưng tôi không cảm thấy kinh tởm gớm ghê như lần đầu tôi phải tới đây. Lúc đó tôi tự nhũ: “Cái gì cũng vậy, mãi rồi nó cũng quen đi.”

Có những ngày mưa gió tơi bời làm cho việc giải quyết nhu cầu tự nhiên của cơ thể trở nên khổ nhọc hơn. Đám tù nhân phải xếp hàng dưới cơn mưa và cái hố kia ngập nước trở nên lõng bõng nhầy nhụa. Ðám giòi bọ bị ngập lụt, trôi lều bều. Chúng giãy giụa như hành khách bị chìm tàu đang vẫy vùng quơ quào kêu cứu! Nhưng trời mưa lại giúp bầu khí đỡ hôi thối và đàn ruồi xanh cũng hoạt động bớt hăng say, có lẽ chúng sợ bị ướt cánh.

Những ngày tháng về sau, tôi vẫn phải tới nơi này và tự nói với mình: “Đây là một phần trong giai đoạn mới của cuộc đời tôi!”

Auckland. New Zealand

Ngày 24 tháng 6 năm 2023

Linh mục NGUYỄN HỮU LỄ

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Về Ngoại

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Người ta bảo sông có khúc, người có lúc. Thế mà, khúc đời nào của Việt Kiều Cambodia cũng nhiêu khê. Thời nào của họ cũng là thời mạt vận.

NgyThanh

Thông tín viên Võ Thành Nhân (SBTN) vừa buồn bã loan tin: nhà báo Lê Văn Phúc đã từ trần vào hôm 7 tháng 8 năm 2020, tại Reston – Virginia. Tác phẩm (Tôi Làm Tôi Mất Nước) đầu tay của ông do Văn Hữu xuất bản năm 1985, và Thế Giới Ấn Quán tái bản – lần thứ 5 – vào năm 1989. Với thị trường sách báo hải ngoại thì đây là một hiện tượng hiếm hoi.

Lê Văn Phúc được nhiều người tìm đọc vì không ít độc giả đã cùng chia sẻ với ông cái cái tâm cảm, hay mặc cảm (mất nước) bàng bạc trong cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản từ nhiều thập niên qua. Gần đây, tác giả Thụy Khuê vừa gửi đến mọi người một cách tư duy khác, mới mẻ và khoáng đạt hơn, qua tập bút ký (Quê Hương Ngày Trở Lại) xuất bản vào tháng 6 năm 2019:

“Khi miền Nam thua trận năm 1975, nhiều người Việt phải bỏ nước ra đi, không ít người kêu than ‘mất nước’. Kêu như thế là chưa hiểu gì về đất nước: đất nước ta là một tập hợp sông núi, con người, văn hoá và lịch sử ngàn năm, nó có cái vinh quang cũng có cái ô nhục, bởi nó là tổ tiên ta, ta phải gánh tất cả, bởi nó đã ở trong ta, trong dòng máu.

Sinh con, ta tưởng nó là của ta, nhưng không, con ta là của nó. Duy chỉ có đứng trên đất nước, chỗ nào, ta cũng cảm thấy đó là của mình, đất nước là cái sở hữu duy nhất mà con người có được. Đi du lịch, biết bao nhiêu cảnh đẹp thế gian bầy ra trước mắt, nhưng cảnh đó không phải của ta, nó là của người Tầu, của người Pháp, của người Nhật… chỉ có nước Việt là của ta, của mình, miên viễn là của mình, xuyên qua các thể chế, thắng bại, được thua…

Vì thế, nước không bao giờ mất, chỉ thay đổi chế độ. Nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn không phải là chủ đất nước, họ là những người cai trị đất nước trong một thời đại. Nhìn như thế, ta sẽ thấy lòng an nhiên tự tại, một niềm hãnh diện mở ra tới vô cùng, bóp chết những thương đau, thù hận.”

Nỗi lòng “anh nhiên tự tại” của một vị nữ sỹ (e) khó có thể được chia sẻ bởi tất cả mọi người, nhất là những kẻ đang lâm vào bước đường cùng trong kiếp tha hương.  Lịch sử của một triều đại, hay một chế độ, có thể kéo cả hàng thế kỷ mà kiếp người  thì chỉ tính bằng năm. Không ít những mảnh đời tuy rất ngắn ngủi nhưng đã bị bầm dập đến te tua thì quê cha, hay đất tổ, chỉ là một khái niệm rất mơ hồ và vô cùng mù mịt. Xin ghi lại một:

“Năm 1993, Yến chết thảm ở tuổi 21. Đám tang của Yến diễn ra trong một ngày mùa đông buồn thảm. Cái buồn thảm không giống những nỗi buồn tôi từng chứng kiến trong các đám tang khác khi còn ở Việt Nam.

Lần cuối cùng người ta thấy Yến đi với một gã người Campuchia khoảng một tuần trước. Khách đã thỏa thuận và chi tiền trước với chủ chứa để ‘bao’ Yến trong hai ngày. Nhưng ba, rồi bốn ngày vẫn không thấy Yến về.

Linh tính có điều gì chẳng lành xảy ra với cô nên hai người chị kết nghĩa là Hương và Trầm bỏ tiền nhờ người đi tìm. Để có thêm tiền chi trả việc tìm bạn, tất nhiên Hương và Trầm phải ‘làm thêm’, tức là tiếp khách nhiều hơn ngày thường.

Người ta tìm thấy xác của Yến (khi ấy đã không còn nguyên vẹn do thương tích, do côn trùng bâu kín thân thể) bị vứt ở chân núi Mô Păng. Vì chủ chứa – một mụ đàn bà người Việt có nước da bợt như xác chết, không cho làm tang ở đấy, thành ra mấy người thợ mộc hàng xóm phải đi kiếm gỗ, dựng tạm cho cái chòi tại khu đất trống để có chỗ kê quan tài. Đám tang lèo tèo vài ba người hàng xóm thất nghiệp trong đó có tôi, ngồi dự cho đỡ tủi. Yến có thằng con trai lên bốn tuổi, tên là Hên. Thấy mẹ chết, nó gào khóc, tiếng khóc tôi chưa từng nghe thấy bao giờ:

  • Ụ má mày, mày xí gạt Mày hứa đưa tao về quại mà mày hổng đưa. Mày bỏ tao mày đi. Choi me hặn…hặn tau na… cùm ngợp. (Đù má mày…mày đi đâu… đừng chết.) … Dậy đưa tao về quại!” (Phạm Thanh Nghiên. Chuyện Kể Của Chồng) .

Bà Yến từ trần vào năm 1993 khi Hên mới vừa lên 4. Tính đến năm nay thì cậu bé này đã trở thành một thanh niên ở tuổi ba mươi. Tôi băn khoăn tự hỏi: chả hiểu người người đồng hương trẻ tuổi của mình, nếu vẫn còn sống sót, có còn muốn về quê ngoại?  Và “lỡ” muốn thì đường về liệu có còn lối hay không?

Báo Công An Nhân Dân vừa, số ra ngày 31 tháng 7 năm 2020, vừa đăng tải một bản tin (ngắn ngủi) đọc mà muốn nát lòng:

“Lúc 6h30’ cùng ngày, Tổ công tác của Trạm kiểm soát thuộc Đồn Biên phòng Cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương phối hợp với Chi cục Hải Quan Cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương phát hiện hàng chục đối tượng (gồm người lớn và trẻ em), di chuyển từ phía Campuchia qua tuyến biên giới tỉnh An Giang, trên 8 thuyền máy.

Tổ công tác tiến hành dừng phương tiện, dẫn giải người, phương tiện về Trạm kiểm soát Biên phòng cửa khẩu quốc tế xác minh, điều tra, làm rõ.

Qua lấy lời khai, được biết có 7 hộ gia đình với 41 khẩu (20 người lớn, 21 trẻ em) sống tại tỉnh Siem Reap và tỉnh Pur Sát (Campuchia). Do hoàn cảnh sống khó khăn nên có ý định trốn về Việt Nam sinh sống tại tỉnh Đồng Tháp và Tây Ninh. Tất cả đều không có giấy tờ hợp pháp, không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc Việt Nam.

Đồn Biên phòng Cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương đã tiến hành lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xuất, nhập cảnh trái phép bằng hình thức cảnh cáo đối với 14 đối tượng là chủ hộ gia đình, cho làm cam kết không tái phạm.”

Hoá ra đất nước chỉ “miên viễn là của mình, xuyên qua các thể chế, thắng bại, được thua…”, nếu kẻ tha hương vẫn có một nơi anh lành (nào khác) để tạm cư và có thể về thăm chơi – đôi ngày – bất cứ lúc nào với passport cùng một mớ ngoại tệ bên mình. Chứ với những kẻ lâm vào bước đường cùng (không có một đồng xu dính túi) thì đất nước và quê hương không có chỗ dành cho họ.

Mất nước – rõ ràng – là thực tại phũ phàng đối với nhiều người, chứ chả phải là chuyện nói theo giọng cường điệu hay nói cho vui miệng thôi đâu.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Phan Thắng Toán

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Giới yêu nhạc Việt, có lẽ, đều đã từng nghe bản nhạc “Tình Lỡ” của Thanh Bình (“Thôi rồi còn đâu chi anh ơi/ Có còn lại chăng dư âm thôi/ Trong cơn thương đau men đắng môi…) nhưng e không nhiều người biết đến tác phẩm “Lá Thư Về Làng” do Lúa Mới phát hành hồi 1956:

Từ miền Nam, viết thư về thăm xóm làng
Sắt son gửi trong mấy hàng
Thăm bà con dãi dầu năm tháng
Từ Tiền giang thương qua đèo Cả thương sang
Đêm đêm nhìn vầng trăng sáng

Thương những già hôm sớm lang thang

Em thơ ơi có còn học hành sớm tối
Áo nâu tươi gái làng còn che môi cười
Và đàn bò còn nghe chim hót lưng đồi
Nhớ nhung rồi, thương quá lắm bé thơ ơi…

Đám “bé thơ” mà Thanh Bình “nhớ nhung” (hồi giữa thế kỷ trước) nay đều đã trở thành những công dân lão hạng, nếu mà sống sót. Còn tác giả thì qua đời từ lâu, sau một thời gian “hôm sớm lang thang” ngay tại Sài Gòn – một thành phố đã mất tên – nơi mà ông đã tìm đến để lánh nạn khi còn là một thanh niên.

FB Lâm Ái cho biết:

“Ở cái tuổi 80, ít ai tin rằng một nghệ sĩ nổi tiếng nhưng không nhà không cửa, lang thang xin ăn ở chợ, bến xe. Các anh công an đưa ông về trại dưỡng lão thì phát hiện ra là nhạc sĩ Thanh Bình và đưa ông về ở với cháu gái (con gái của chị ruột).

Vợ chồng cháu gái làm công nhân, làm thuê đời sống hết sức khó khăn. Đầu năm nay ca sĩ Ánh Tuyết đã tổ chức đêm nhạc cho ông, chị cũng đã làm được 2 sổ tiết kiệm. Nhưng vì ông đột ngột mất, con gái đang đi tù nên không thể rút được tiền làm đám tang.

Ca sĩ Ánh Tuyết lại là người bên ông, lo cho đám tang của ông. Điều đáng buồn, dù ca sĩ Ánh Tuyết có kêu gọi hỗ trợ nhưng dường như số tiền vẫn không đủ để lo cho đám tang, đành xin quan tài lục giác của chùa để an nghỉ.”

Thôi thế cũng xong!

Cuối cùng, Thanh Bình cũng đã có nơi “an nghỉ” – dù hơi cô quạnh! Bạn đồng nghiệp và đồng thời với ông, lắm kẻ – tiếc thay – đã không có được chút may mắn đó:

“Trúc Phương là một trong những nhạc sĩ gốc miền Nam được yêu mến nhất, từng được mệnh danh là ông vua của thể điệu Bolero tha thiết trữ tình… Tháng 4 năm 1975, Trúc Phương bị kẹt lại. Năm 1979, ông vượt biên nhưng bị bắt và bị tù.

Sau khi được thả, cuộc sống của ông trở nên vô cùng thê thảm về thể xác vật chất cũng như tinh thần… Vào một buổi sáng năm 1995, Trúc Phương không bao giờ thức dậy nữa. Ông đã vĩnh viễn ra đi. Tất cả gia tài để lại chỉ là một đôi dép nhựa dưới chân.” (Hoài Nam. “Bẩy Mươi Năm Tình Ca Trong Tân Nhạc Việt Nam 1930 – 2000”).

Sao lại đến nông nỗi thế nhỉ? Chả lẽ chỉ vì Trúc Phương “lỡ dại vượt biên”, và vì Thanh Bình “lỡ chân vượt tuyến” nên mới ra cớ sự chăng?

Không hẳn thế đâu!

Có những kẻ luôn sống ở miền Bắc, không hề di cư hay di tản (lần nào cả) nhưng vẫn phải trải qua một kiếp nhân sinh còn bầm dập/te tua và tơi tả hơn thế nữa. Ông tên là Phan Thắng Toán – biệt danh Toán Xồm –  sinh năm 1932, bị bắt giam từ năm 1968 (vì tội “tuyên truyền văn hóa đồi trụy của chủ nghĩa đế quốc”) và đã lìa đời từ lâu.

Bi kịch của cuộc đời Phan Thắng Toán có thể hiểu được – phần nào – qua vài câu đối thoại (hơi hài) do nhạc sỹ Tô Hải ghi lại, trong một phiên tòa tại Hà Nội, vào hôm 12/ 01/1971:

Chánh án: Anh có nhận là đã đánh nhạc của tư sản, là đồi truỵ không?

Toán xồm: Dạ! Thưa quý toà, con chỉ đánh những gì in trên đĩa của Liên Xô, của Tiệp Khắc, của Cộng Hoà Dân Chủ Đức thôi ạ!

Chánh án: Anh nói láo! Thế Paloma, Santa Lucia là của ai?

Toán Xồm: Dạ! Paloma là của nước bạn Cu Ba ạ! Còn Santa Lucia là dân ca Ý ạ! Nhà xuất Bản của nhà nước đã in và sân khấu nhà nước đã có nhiều ca sỹ biểu diễn ạ!

Chánh án: Vậy anh có biết cha cha cha là cái gì không?

Toán Xồm: Dạ! Có ạ!! Đây là một nhịp điệu xuất xứ cũng tại nước bạn Cu Ba ạ!

Chánh án: Thế còn Tango bleu chắc anh cũng đổ cho Cu Ba hết hả?

Toán xồm: Dạ không! Tango là một điệu nhảy Ác-giăng-tin nhưng đã được quốc tế hoá. Vừa giờ Đoàn xiếc Tiệp Khắc sang ta và các nước XHCN đều xử dụng cả ạ!

Chánh án: Nhưng người ta đánh khác, còn anh đánh khác. Đừng có ngụy biện!

Toán Xồm: Dạ! Đánh y hệt ạ! Chỉ có thua họ về nhạc cụ họ tốt hơn… chứ nếu chúng con có đầy đủ nhạc cụ như họ thì chúng con chẳng thua gì họ cả ạ!

Chánh án: Anh hãy im miệng! Đồ ngoan cố!Và cứ như vậy, suốt phiên tòa Chánh án chỉ sử dụng câu “Im miệng! Đồ ngoan cố” để cắt lời người bị buộc tội. Không hề có ai bào chữa.

Cuối cùng, toà luận án và tuyên án: “Việc làm của bọn này đã gây ảnh hưởng xấu cho phong trào trật tự trị an, phá hoại việc thực hiện một số chính sách của Nhà nước, nhất là chính sách lao động sản xuất, chính sách nghĩa vụ quân sự… xâm phạm nghiêm trọng đến hạnh phúc, phẩm giá của phụ nữ, đến đạo đức và đời sống của nhiều người, và tuyên truyền xuyên tạc lại chế độ xã hội chủ nghĩa trong lúc cả nước đang chiến đấu chống Mỹ xâm lược.”

“Do tính chất nghiêm trọng của vụ án nói trên, toà quyết định xử phạt Phan Thắng Toán 15 năm tù giam và 5 năm bị tước quyền công dân; Nguyễn Văn Đắc, 12 năm tù giam và 5 năm bị tước quyền công dân; Nguyễn Văn Lộc 10 năm tù giam và 4 năm bị tước quyền công dân …” (“Phan Thắng Toán và Đồng Bọn Đã Bị Xét Xử” – báo Hà Nội Mới 12/ 01/1971).

Chơi nhạc Tango, Rumba, Cha Cha Cha … thì có gì mà “nghiêm trọng” đến độ phải ngồi tù lâu dữ vậy, hả Trời?

Mãn hạn tù lại bắt đầu một bi kịch khác:

“Nhà tôi có 5 người chen chúc trong cái phòng 09 m2, thêm anh Toán Xồm nữa là sáu. Thế nên anh cũng không thể tá túc mãi ở chỗ tôi. Anh có mỗi bà chị ruột thì đã di cư vào Sài Gòn trước 1954, ở Hà Nội không còn ai thân thích. Anh Toán Xồm cứ lang thang ‘lãng tử’ nay đây mai đó, lúc màn trời khi chiếu đất.

Cho đến ngày 30/04/1994 … sáng đó là kỷ niệm ngày thống nhất đất nước nên công an phường đi dẹp đường. Họ bắt gặp anh Toán Xồm vạ vật và hấp hối trên vỉa hè, liền cho người báo tin. Nhưng anh chẳng còn ai trong giờ phút lâm chung, chỉ có cái vỉa hè … chứng kiến.”  [Kim Dung – Kỳ Duyên. Cung Đàn Số Phận (Hồi Ký Lộc Vàng). Hội Nhà Văn: Hà Nội, 2018].

Qua năm sau (1995) thì Trúc Phương qua đời tại Sài Gòn, cũng không có ai “chứng kiến” ngoài … “đôi dép nhựa dưới chân.” Tuy kẻ Bắc/người Nam nhưng số phận của cả ba ông, tưởng chừng, chả khác gì nhau?

Tưởng vậy thôi, chớ không phải vậy đâu.

Họ khác chớ và khác lắm!

Tuy sinh cùng thời (và cùng nơi) với Phan Thắng Toán nhưng nhờ di cư vào Nam nên Thanh Bình đã có cơ hội viết được nhiều bản nhạc bất hủ, trước khi cuộc cách mạng vô sản biến ông thành một kẻ trắng tay (rồi) một lão … ăn mày! Trúc Phương cũng thế, ông cũng kịp “để lại cho chúng ta một di sản vô giá” (theo nhận định của nhà phê bình âm nhạc Hoài Nam) rồi mới nằm chết cong queo ngoài bến xe đò.

Còn ở giữa lòng Hà Nội (nơi được mệnh danh là “Thủ Đô Của Lương Tâm & Phẩm Giá Con Người”) thì Toán Xồm chả hề có được chút cơ hội hay cơ may nào sất, và dường như ông không có chi để lại cho đời – dù chỉ là một “đôi dép nhựa”!

Quy hoạch kém, Đà Lạt lại ngập nặng sau cơn mưa

Báo Nguoi-viet

June 23, 2023

LÂM ĐỒNG, Việt Nam (NV) – Nhiều đoạn đường tại khu trung tâm thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, được ghi nhận ngập khoảng nửa mét trong trận mưa kéo dài chỉ một giờ vào hôm 23 Tháng Sáu.

Theo tường thuật của báo Tuổi Trẻ, những con đường bị ngập nặng, cây cối ngả la liệt là Trần Quốc Toản, Phan Đình Phùng, Mạc Đĩnh Chi…

Nhiều con đường ở khu trung tâm thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, ngập nửa mét sau cơn mưa chiều 23 Tháng Sáu. (Hình: Tuổi Trẻ)

Thậm chí đoạn đường Trần Quốc Toản đi qua Đồi Cù ngập lênh láng. Nước từ sân golf Đồi Cù chảy ra đường đỏ quạch, biến con đường thành một bờ tràn dẫn nước ra hồ Xuân Hương.

Đáng nói, trong số các con đường bị ngập nặng, có một số tuyến được nhà chức trách dùng tiền thuế dân để nâng cấp cống rãnh, tiến hành các biện pháp chống ngập chưa được bao lâu.

Do vậy mà một số người dân thành phố này “tỏ vẻ bất bình, vừa khóc vừa tát nước ra khỏi nhà.”

Bà Nguyễn Thị Mừng, một người dân địa phương, cho hay: “Tình trạng ngập ở đường Phan Đình Phùng chỉ mới xảy ra trong hai năm gần đây. Trước khi sửa đường Phan Đình Phùng, tuyến đường này không bị ngập dù mưa to trong thời gian dài, thậm chí cả ngày.”

Vụ mưa ngập ở Đà Lạt khiến người ta nhớ lại lần ngập lụt tương tự diễn ra vào đầu Tháng Chín năm ngoái.

Thời điểm đó, các khu dân cư, nhà vườn nằm dọc suối Phan Đình Phùng, suối Cam Ly bỗng nhiên trở thành sông, khiến nhiều đồ đạc, vườn rau bị thiệt hại nặng nề.

Sau đó, không có bất kỳ giới chức nào của Ủy Ban Nhân Dân Đà Lạt đứng ra nhận trách nhiệm về tình trạng quy hoạch kém và nạn phá rừng khiến thành phố cao nguyên bây giờ cứ mưa to chỉ một giờ là ngập nặng.

Nhà chức trách dọn dẹp cây đổ trên nhiều con đường sau cơn mưa. (Hình: Lâm Đồng)

Theo giới quan sát, dường như giới lãnh đạo ở Đà Lạt cũng như tỉnh Lâm Đồng không quan tâm nhiều đến các vấn đề dân sinh mà chỉ lo “làm ăn,” kiếm chác nhờ chiếc ghế béo bở.

Theo tờ Thanh Niên hồi Tháng Mười Một năm ngoái, cùng lúc cả hai ông Trần Duy Hùng, bí thư Thành Ủy Đà Lạt, và Nguyễn Văn Triệu, bí thư Thành Ủy Bảo Lộc, đều làm đơn “xin nghỉ hưu trước tuổi.”

Trước đó, hai ông Hùng, Triệu đều bị khiển trách, nhưng sai phạm của họ chỉ được ghi lấp liếm trên mặt báo là “thiếu tu dưỡng, rèn luyện, vi phạm quy định của đảng, vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm và trách nhiệm nêu gương, nhất là vai trò người đứng đầu đảng bộ, gây dư luận xấu, bất bình trong xã hội, làm ảnh hưởng uy tín cá nhân, tập thể…” (N.H.K)

Đảng & Dân– Tưởng Năng Tiến

Đảng & Dân

Thỉnh thoảng, báo chí quốc doanh vẫn có mấy mẩu tin ngăn ngắn về Lễ Trao Huy Hiệu Tuổi Đảng cho đồng chí này hay đồng chí nọ. Ngoài Việt Nam, dường như, không đâu có cái thứ “lễ lạt” nhạt nhẽo và chán phèo như thế cả. Xứ sở này, không chừng, cũng dám là nơi duy nhất mà danh tính của một cá nhân luôn kèm theo tuổi … đảng:

  • Nguyễn Thị Bình 75
  • Lê Khả Phiêu 73
  • Lê Đình Kình 58 …

Trong một chế độ đảng trị thì thâm niên tuổi đảng quả là một thành tích đáng kể nhưng đó không phải là một thứ “kim bài miễn tử” (hay miễn tù hoặc miễn bị sách nhiễu/bạo hành) nếu đảng viên đi … trật đường rầy!

RFA cho biết: “Cho đến khi bị Cảnh sát cơ động Hà Nội bắn chết vào ngày 9-1-2020, thủ lĩnh tinh thần của người dân Đồng Tâm, cụ Lê Đình Kình vẫn còn là một đảng viên đảng Cộng sản có hơn 55 năm tuổi đảng.”

Cách đó chưa lâu, vào hôm 15 tháng 4 năm 2017, ông Lê Đình Kình (LĐK) cũng đã bị “hành hung” đến trọng thương và phải nằm nhà thương gần đến chục ngày.

Ủa! Chớ ổng đã phạm phải lỗi lầm gì mà Đảng xuống tay (và nặng tay) dữ vậy cà?

Chuyện cũng hơi dài dòng nhưng không có chi là khó hiểu. Tuy là một đảng viên lão thành nhưng LĐK không “nhất trí” với đường lối và chủ trương (“Đất đai tuy thuộc sở hữu toàn dân nhưng do Nhà nước quản lý) của Đảng. Đã thế, sau khi bị hành hung đến độ phải nhập viện vì cái quan niệm (“trật lất”) của mình, ông vẫn thản nhiên tuyên bố: “Các anh có đưa máy chém chém ngay đầu tôi đi chăng nữa, thì tôi vẫn giữ quan điểm đây là đất nông nghiệp của xã Đồng Tâm.”

Nói năng linh tinh như thế, dưới chế độ hiện hành, là một cách vời họa vào thân. Họa vốn “vô đơn chí” nên chả phải tìm kiếm đâu xa mà ngay chính người dân địa phương đã vô tình đón (và đưa) ông LĐK vào … cửa tử.

Báo Tuổi Trẻ đi tin: “Sau 10 ngày điều trị tại Bệnh viện Việt Đức do bị gãy xương đùi, chiều 2-5, cụ Lê Đình Kình đã được đưa về với gia đình tại thôn Hoành, xã Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội… rất đông người dân Đồng Tâm đã xếp hàng dài từ ngoài đường làng đến trước cổng nhà cụ Lê Đình Kình để chào đón cụ Kình trở về.”

Nếu đám đông đừng “mừng đến rơi nước mắt” khi LĐK được xuất viện, và đừng tôn vinh nhân vật này là “thủ lãnh tinh thần” thì chưa chắc lão nông phu chân chất của xã Đồng Tâm đã bị thảm sát, và thảm họa cũng đã không xẩy ra cho cả gia tộc của ông.

Tại Việt Nam, “các đồng chí ở trên” không chỉ toàn quyền trong chuyện lãnh đạo mà họ còn độc quyền làm lãnh tụ nữa cơ. Với chủ trương toàn trị, họ không thể dung thứ cho bất cứ một loại “thủ lãnh tinh thần” nào sất. Cỡ chủ tịch xã nghỉ hưu mà được đám đông dân chúng công kênh, hoan hô (vì thái độ bất tuân) thì buộc phải bị loại thôi. Ông bị sát hại bằng súng tại nhà vào hôm 9 tháng 1 năm 2020.

Cái chết của ông khiến cho không ít kẻ bàng hoàng, và lắm người đã rơi nước mắt. Nhà thơ Bùi Chí Vinh cảm thán:

Tru di ta viết một bài hành

Chuyện xưa giờ tái hiện sử xanh

Đồng Tâm có cụ Kình giữ đất

Chẳng ai ngờ bụng rạch, thây phanh

Hai con án chết đầy oan khốc

Một cháu chung thân xử rành rành …

Vụ bà Lê Thị Dung, một đảng viên khác (Bí Thư Chi Bộ Trung Tâm Giáo Dục Huyện Hưng Nguyên) thì hơi khác. Báo Tuổi Trẻ, đọc được hôm 13 tháng 6 năm 2023, cho hay:

Sau hai ngày xét xử, chiều 13-6 hội đồng xét xử phúc thẩm TAND tỉnh Nghệ An đã tuyên phạt bị cáo Lê Thị Dung mức án 15 tháng tù về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ…   

HĐXX nhận định tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo Dung mức án 5 năm tù là quá nghiêm khắc, do số tiền bị cáo hưởng lợi (gần 45 triệu đồng) là không lớn, nhân thân bị cáo tốt, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Việc cấp sơ thẩm chưa xem xét hết các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo Dung là áp dụng thiếu sót, cần rút kinh nghiệm.

HĐXX đã tuyên phạt bị cáo Dung 15 tháng tù, tính từ ngày bị bắt giam 28-3-2022 về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành công vụ. Như vậy, cuối tháng 6-2023, bà Dung sẽ chấp hành xong án phạt. Trước đó, trong phiên tòa sơ thẩm, cô Lê Thị Dung bị tuyên mức án 5 năm tù.”

Tuy HĐXX đã “rút kinh nghiệm” và cũng hết sức quan tâm đến “các tình tiết giảm nhẹ” nhưng bản án 15 tháng tù – xem chừng – vẫn cứ khiến cho lòng người sôi sục:

  • Ngô Trường An : “Không được! Tòa phải tuyên vô tội thả ngay cô Dung tại tòa, xin lỗi và bồi thường.”
  • Nguyễn Vũ Bình: “Đây là một trường hợp vô cùng thú vị để nghiên cứu về một hệ thống khuyết tật bao gồm những con người khuyết tật hãm hại một người trung thực, thẳng thắn và không có bất kỳ một tỳ vết gì.”
  • Đoàn Bảo Châu : “Tôi tin rằng phiên toà phúc thẩm vừa diễn ra là một phiên toà RÁCH NÁT. Muốn xoa xuýt dư luận, hạ nhiệt bức xúc nhưng không đủ dũng cảm và phục thiện để tuyên bố vô tội.”
  • Thái Hạo: Tôi tin, không một người có lương tri nào có thể kìm được nước mắt vì sự phẫn nộ, đau xót, bất lực của mình khi nghe những gì cả một bộ máy đã làm với một người vô tội.
  • Chu Vĩnh Hải: Cô giáo Lê Thị Dung ở Nghệ An vô tội! Công lý là công minh chứ không phải để ban phát!
  • Vũ Tuân: “Từ 60 tháng tù giảm xuống 15 tháng. Công Lý là tên hề nổi tiếng.”
  • Trần Thị Thảo: “Mặc dù giảm xuống còn 15 tháng nhưng vẫn thấy rừng rú thế nào ấy.”
  • Nguyễn Thông: “Vụ xử sơ thẩm và phúc thẩm đối với cô Dung chả khác gì trò đùa, với đủ trò mưu mẹo dấm dúi và trắng trợn. Pháp luật trong tay kẻ tiểu nhân cai trị chỉ là trò đùa dai của vở diễn hài nhân danh công lý.”
  • Nguyễn Khanh: “Chán nhỉ!”

Tôi thì trộm nghĩ khác (“khó nhỉ!”) nhưng chỉ dám nghĩ thầm thế thôi vì sợ gạch đá tứ phương. Nói gần nói xa, chả qua nói thực thì được vậy cũng “tử tế” lắm rồi. “Pháp luật đang trong tay những kẻ tiểu nhân” mà từ sơ thẩm đến chung thẩm bản án đã giảm được tới ba phần tư rồi, chớ đâu phải ít.

Dù cũng chả hả hê chi về phiên toà thượng dẫn nhưng đi tính lại tôi bỗng bật tiếng cười (vui) khi nhớ đến đôi lời đàm tiếu, nghe được ngay sau khi Việt Nam vừa được vào W.T.O:

  • Blogger Ôsin: “Thật nực cười khi, chỉ khi chịu sức ép của ‘các nước tư bản’, ‘đảng của giai cấp công nhân’ mới (có thể) thừa nhận các quyền căn bản của công nhân.”
  • Blogger Nguyễn Vạn Phú: “Điều mỉa mai là Việt Nam phải trông chờ vào một hiệp định ký với các nước tư bản để các nước tư bản này gây sức ép buộc Việt Nam phải bảo vệ công nhân của mình, không để giới chủ bóc lột quá đáng!”

Còn điều “nực cười” và “mỉa mai” trong vụ án vừa qua là nếu không có sức ép của đồng bào thì các đồng chí ở Nghệ An đã “xử đẹp” bà Bí Thư Chi Bộ (Trung Tâm Giáo Dục Huyện Hưng Nguyên) rồi. Tuy không đến nỗi bị phanh thây, xẻ ngực và lãnh án chu di tam tộc như trường hợp của ông Lê Đình Kình nhưng bà Lê Thị Dung cũng rũ tù – dù vô tội.

Tình đồng chí của đảng CSVN, rõ ràng, không chỉ đáng kinh mà còn đáng tởm nữa. Từ trung ương đến địa phương chúng đều bất nhân, bất nghĩa, bất tín như thế cả. Sự tàn ác của Đảng, xem ra, chả từ bất cứ ai – kể cả cái đám đảng viên lau nhau của nó.

Đôi khi, tôi băn khoăn tự hỏi: Sao hà khắc, bạo ngược (và trơ tráo) đến vậy mà cái Đảng ôn dịch CS vẫn tiếp tục cầm quyền ở Việt Nam gần cả thế kỷ qua? Chả lẽ vì dân tộc này đã quá quen với bạo ngược và hà khắc của chế độ hiện hành nên không còn mấy ai quan tâm gì đến công bằng, công đạo, công lý tâm, và công tâm nữa?

TNT

– Tưởng Năng Tiến

Khúc cây của một ông tìm được dưới ruộng bị tỉnh Kon Tum chiếm đoạt

Báo Nguoi-viet

June 22, 2023

KON TUM, Việt Nam (NV)  Sau hơn một năm được ông Lê Quang Nam, ở thị trấn Sa Thầy, huyện Sa Thầy, tìm thấy dưới lòng đất, khúc cây “nổi tiếng bậc nhất của tỉnh Kon Tum” đã bị giới hữu trách tỉnh này xác lập “sở hữu toàn dân,” tức của nhà nước.

Theo báo Người Lao Động, hôm 22 Tháng Sáu, ông Nguyễn Ngọc Sâm, phó chủ tịch tỉnh Kon Tum, đã ký quyết định “xác lập quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản vùi lấp được tìm thấy.”

Số gỗ bị Công An Huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, tạm giữ hơn một năm qua. (Hình: Trần Hướng/Tuổi Trẻ)

Theo đó, “căn cứ các quy định của pháp luật,” Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Kon Tum “xác lập sở hữu toàn dân đối với bốn tấm gỗ tổng cộng hơn 4.2 khối và sáu tấm bìa đã mục nát” được ông Nam, 44 tuổi, ở thị trấn Sa Thầy, xẻ ra từ một khúc cây đào lên từ dưới ruộng.

“Ủy Ban Nhân Dân huyện Sa Thầy phải chỉ đạo Phòng Tài Chính-Kế Hoạch phối hợp với Công An Huyện Sa Thầy và các đơn vị có liên quan thực hiện bảo quản tài sản trong thời gian chờ cấp có thẩm quyền quyết định phê duyệt phương án xử lý tài sản theo quy định,” nội dung quyết định nêu.

Theo báo Pháp Luật TP.HCM, trước đó hôm 23 Tháng Ba, 2022, trong lúc được thuê làm đất ruộng cho ông A Khái ở xã Sa Sơn, cùng huyện, ông Nam phát hiện một khúc cây dài khoảng 12 mét, đường kính khoảng 0.7 mét và đã bị vỡ nát phần gốc bị vùi lấp dưới lòng đất. Ông Khái thỏa thuận để ông Nam lấy khúc cây này thay cho tiền công san lấp.

Cuối Tháng Ba, ông Nam đến Ủy Ban Nhân Dân xã Sa Sơn, huyện Sa Thầy, trình báo sự việc và xin phép được đào khúc cây trên để về làm đồ gia dụng.

Ủy ban xã đã tổ chức đến hiện trường xác minh. Qua đó, giới chức xã này đã lập biên bản xác định nơi phát giác khúc cây trên “không phải đất rừng” và cây gỗ này “không xác định được thời gian, khối lượng cũng như nguồn gốc.”

Trong biên bản ghi rõ, ông Nam sau khi đào lên hoàn thành thì báo về xã để cử lực lượng hữu trách xuống kiểm tra cụ thể, phúc trình cấp có thẩm quyền giải quyết theo quy định.

Được sự cho phép của xã, ông Nam huy động nhiều phương tiện, nhân công để đào khúc cây mang về với chi phí khoảng 90 triệu đồng ($3,879).

Đến hôm 8 Tháng Tư, 2022, sau khi đào xong, ông Nam có báo cho ủy ban xã Sa Sơn. Đến ngày 20 Tháng Năm, 2022, không thấy cơ quan hữu trách đến, nghĩ rằng khúc cây không có giá trị nên ông Nam cho vận chuyển về xưởng đồ gỗ, nội thất Đoàn Đức Đạt để xẻ gỗ gia công làm đồ gia dụng.

Ông Lê Quang Nam và lệnh xử phạt vi phạm hành chính. (Hình: Pháp Luật TP.HCM)

Thế nhưng sau đó, Công An huyện Sa Thầy bất ngờ ập tới lập biên bản, tạm giữ, với lý do số gỗ trên “có hồ sơ, nguồn gốc lâm sản không đầy đủ, chưa rõ ràng.” Số gỗ đã cưa xẻ liền được đưa về trụ sở Công An Huyện Sa Thầy, đồng thời cán bộ công an ra quyết định “tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính…” và xử phạt hành chính 4 triệu đồng ($170) với cáo buộc “chiếm giữ tài sản của người khác.”

Nói với báo Thanh Niên, ông Nam kêu oan cho rằng mình đã bỏ rất nhiều công sức, chi phí để đào khúc gỗ. Nếu số gỗ trên bị tịch thu, xử phạt thì ông chịu thiệt hại rất lớn. Thế nhưng công an nói “không oan” vì ông “cố chiếm đoạt số gỗ đã phát hiện mà không đợi xử lý.” (Tr.N)


 

Hơn 30 năm nhìn lại, nhân dân và đất nước Việt Nam vẫn là nạn nhân của “giải pháp tạm bợ” của đảng CSVN

Báo Tiếng Dân

Trương Nhân Tuấn

23-6-2023

“Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là giải pháp tạm bợ đưa ra để cứu đảng trong nhứt thời, trong hoàn cảnh thế giới XHCN sụp đổ. Bởi vì “kinh tế thị trường” thì không ai có thể “định hướng” được hết cả.

“Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” là giải pháp tạm bợ, là phương tiện để Việt Nam hội nhập cộng đồng quốc tế. Tạm chấp nhận “Nhà nước pháp quyền” mang nội hàm của “Etat de Droit”, thì “Etat de Droit” chỉ có thể xây dựng trên một xã hội dân sự, dân chủ tự do (chớ không thể xây dựng trên nền tảng XHCN).

Phỏng vấn Dân Oan LÊ THỊ KIM-THU – VẤN NẠN DÂN OAN – Đài Phát Thanh Đáp ...

Vấn đề là đảng CSVN đã lấy cái tạm bợ để làm cái vĩnh cửu.

“Chính sách ngoại giao cây tre” hay “quốc phòng bốn không” của Việt Nam thể hiện cụ thể cho chính sách (ngoại giao và quốc phòng) tạm bợ đó.

“Đưa người cửa trước rước người cửa sau”. Đây không phải là cái cách hành xử của một quốc gia có uy tín trên quốc tế. Nếu Việt Nam là quốc gia độc lập có chủ quyền thì việc tiếp đón hàng không mẫu hạm Mỹ ở Đà nẵng là chuyện của Việt Nam. Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng thời gian (tàu Mỹ cặp bến Việt Nam) lại công du qua Trung Quốc.

Không hề có loại ngoại giao “quan hệ trên nhiều chân kiềng”! Khi nói “chân kiềng” là người ta nghĩ đến những gì chắc chắn, vĩnh cửu. Có gì vĩnh cửu khi lợi ích của các quốc gia luôn biến hóa?

Cá chết, ngư dân ít ra khơi, tàu Trung Quốc xâm phạm lãnh hải

Tàu cá Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam với sự trợ lực của Hải Cảnh TQ

Về nội trị, giải pháp tạm bợ đã trở thành “chủ nghĩa tạm bợ”. Cán bộ lãnh đạo vì vậy không có trách nhiệm về bất cứ cái gì. Ba mươi năm qua, tài sản của quốc dân, thể hiện qua các xí nghiệp nhà nước (xí nghiệp quốc doanh), do hệ quả của “chủ nghĩa tạm bợ” lần hồi trở thành tài sản của tài phiệt đỏ, hoặc phục vụ cho lợi ích của tài phiệt đỏ.

Nếu có “tầm nhìn” thì đã không để xảy ra hiện tượng thiếu năng lượng (khiến các xí nghiệp nước ngoài bỏ Việt Nam qua các nước khác).

Nếu có tầm nhìn, làm cái gì cũng lâu dài, thì làm gì có vụ thanh niên, sinh viên Việt Nam bỏ học đi làm nhân công nước ngoài?

xuat-khau-lao-dong-nhat-ban-kho-sang-de-ve - Luật Minh Bạch

Vốn quí của quốc gia là “con người” chớ không phải là mỏ dầu, mỏ titan nọ kia.

Đi hết, người tài giỏi bỏ nước ra sống nước ngoài hết, thì lấy ai xây dựng đất nước?

Hệ quả của “giải pháp tạm bợ” thiệt là kinh khủng. Vấn đề là giải pháp này có lợi cho giai cấp cầm quyền. Kẻ có quyền thì có tiền.

Không biết tài sản quốc gia nay còn lại cái gì?

Họa sĩ biếm triển lãm tranh biếm họa về phòng, chống tham nhũng


 

4 dầm cầu cao tốc Bắc-Nam qua tỉnh Nghệ An đang xây bị đổ sập

Báo Nguoi-viet

June 21, 2023

NGHỆ AN, Việt Nam (NV) – Bốn dầm cầu của dự án cao tốc Bắc-Nam đoạn qua tỉnh Nghệ An đang thi công đã bất ngờ đổ sập, báo trong nước loan tin.

Hôm 20 Tháng Sáu, trên mạng xã hội chia sẻ hình ảnh các dầm cầu thuộc “Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc-Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020,” đoạn Diễn Châu-Bãi Vọt, tỉnh Nghệ An, đang bắc lên thì có tới hai dầm đổ sập, gãy làm đôi.

Các dầm cầu bị sập tại dự án đoạn Diễn Châu-Bãi Vọt, tỉnh Nghệ An, lan truyền trên mạng những ngày qua. (Hình: HT/VietNamNet)

Theo báo VOV, hình ảnh toàn bộ 4/7 phiến dầm trên nhịp từ trụ T3-T4 nghiêng gãy đổ làm đôi, nhanh chóng thu hút sự quan tâm của công luận, phần lớn mọi người đều tỏ ra thắc mắc trước phẩm chất thi công của công trình trọng điểm này.

Liên quan đến sự việc, hôm 21 Tháng Sáu, đại diện doanh nghiệp thi công dự án là công ty Cổ Phần Đầu Tư Phúc Thành Hưng cho biết nguyên nhân là do lỗi kỹ thuật trong lúc thi công cẩu, lắp dầm Super T tại cầu Nghi Mỹ, từ sơ suất của công nhân vận hành cần cẩu “thao tác không nhịp nhàng dẫn tới va chạm giữa các phiến dầm đang gác cuối cùng của nhịp T3-T4 với các phiến dầm đã gác.”

Theo đó, khoảng 1 giờ 30 phút hôm 19 Tháng Sáu, trong lúc đang cẩu lắp phiến dầm nối tiếp thì xảy ra va chạm giữa phiến dầm đang cẩu lắp với phiến dầm đã lắp, ở cùng trong nhịp số 4. Từ đó, dẫn đến hiện tượng một số phiến dầm bị nghiêng theo hướng về bên phải của cầu theo hướng tuyến.

Sau khi xảy ra sự việc, các bên đã đánh giá thiệt hại “do sơ suất trong thao tác kỹ thuật của thợ lái máy cẩu, làm hư hại bốn phiến dầm, không có thiệt hại về người và nhà thầu cam kết sẽ chịu mọi chi phí phát sinh.”

“Tại thời điểm xảy ra sự việc, do thời tiết khu vực tỉnh Nghệ An nắng nóng kéo dài với nền nhiệt cao khoảng 40 độ C, công nhân lái máy cẩu và người lao động làm việc ngoài trời với thời gian tương đối dài dẫn đến thiếu tập trung, gây sơ suất trong lúc thao tác cẩu lắp phiến dầm,” đại diện công ty Phúc Thành Hưng giãi bày.

Những dầm cầu cao tốc Bắc-Nam bị gãy đổ. (Hình: HT/VietNamNet)

“Việc xảy ra là sơ suất nằm ngoài mong muốn của nhà thầu. Nhà thầu cam kết tự bỏ kinh phí để khắc phục, đúc lại các phiến dầm đã hỏng (mỗi phiến dầm trị giá khoảng 300 triệu đồng ($12,760),” đại diện Phúc Thành Hưng cho biết thêm.

Đoạn Diễn Châu-Bãi Vọt là một trong ba dự án thuộc dự án xây dựng cao tốc tuyến Bắc-Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020, có tổng chiều dài khoảng 49 km, đi qua hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, với tổng vốn đầu tư khoảng 11,157 tỷ đồng ($474.5), trong đó có ngân sách nhà nước hơn 6,067 tỷ đồng ($258 triệu), được đầu tư theo phương thức BOT (đối tác công-tư), có thời gian bảo hành trong suốt thời gian thi công và khai thác vận hành là 21 năm. (Tr.N)