S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Người & Rác

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Đồng chí Tổng Bí Thư nói nếu nhìn một phụ nữ đẩy xe bò mà lòng không xúc động thì không còn là người cộng sản nữa.” Bùi Ngọc Tấn – Chuyện Kể Năm 2000

Tôi “nhặt” được câu danh ngôn (thượng dẫn) trong Chuyện Kể Năm 2000, tập II, của Bùi Ngọc Tấn. Chỉ có điều đáng tiếc là tác giả quên ghi rõ là đồng chí TBT nào đã phát biểu một câu nói “đắt giá” tới cỡ đó. Mãi đến khi cùng cụng ly với tác giả ở California (ông chơi một ly sinh tố to đùng, ngó mà ớn chè đậu) tôi mới có dịp nêu thắc mắc, và nhận được câu trả lời hóm hỉnh : “Thì ông TBT nào mà chả  nói thế.”

Ah! Thì ra thế. Tuy thế, mọi người đều biết rằng mấy ổng nói vậy thôi chớ hổng phải vậy đâu. Bởi vậy nên những phụ nữ đẩy xe bò hay xe rác lềnh khênh, khắp mọi nẻo đường, từ hơn hai phần ba thế kỷ qua mà chả thấy có đồng chí nào xúc động (hay xúc cảm) gì ráo trọi. Cuộc cách mạng vô sản ở Việt Nam chỉ mang lại một thay đổi duy nhất cho giới người này là họ được đổi tên từ “phu quét đường” thành “công nhân vệ sinh đường phố” thôi.

Làm phu quét rác thì vô tư nhưng khi đã trở thành công nhân (lực lượng tiên tiến và tiên phong của Đảng) thì lại được Mặt Trận Tổ Quốc giao thêm rất nhiều trọng trách : “là lực lượng quan trọng, là tai mắt đường phố, có thể góp phần giữ vững an ninh chính trị, phòng chống, phát hiện các đối tượng tệ nạn xã hội… được công an quận tập huấn một số kỹ năng như: hướng dẫn nắm bắt vụ việc, nhận diện hiện tượng, con người liên quan đến an ninh chính trị; về hoạt động băng nhóm hoặc nghi vấn đối tượng trộm cắp, cướp giật tài sản cũng như công tác bảo vệ hiện trường.”

Vừa thôi chớ!

Họ vừa phải đẩy xe rác làm vệ sinh đường phố, lại vừa kiêm nhiệm luôn công việc của ngành an ninh tình báo, và bảo vệ hiện trường nữa nên (lắm lúc) không tránh được tai nạn giao thông thảm khốc – theo tin loan của trang Tin Tức Việt Nam:

“Đêm 22/4/2019, trên địa bàn Hà Nội, một chiếc ô tô Hyundai từ phố Vĩnh Hồ đi về đường Láng, hướng Cầu Giấy đã đâm liên hoàn nhiều phương tiện khiến chị Lê Thị Thu Hà (42 tuổi, Đặng Văn Ngữ, Hà Nội) đang là công nhân quét rác thuộc Công ty TNHH MTV Môi trường đô thị Hà Nội – Chi nhánh Đống Đa tử vong…

Hoàn cảnh của chị Lê Thị Thu Hà rất đáng thương. Ly thân chồng, chị phải một mình nuôi hai con còn đang ăn học và mẹ già bị bệnh nặng. Gia đình bốn người sống trong căn nhà cấp 4 lụp xụp, lợp ngói dột nát, tường nhà toàn bộ bong tróc, nứt toác. Khi còn sống, chị Hà mong ước có thể sửa sang lại căn nhà cho mẹ và các con nhưng lại ngặt nỗi chẳng có tiền.

Tiền lương từ nghề vệ sinh môi trường không đủ để lo cho các con ăn học nên chị phải làm cả việc khác để kiếm thêm tiền. Hàng ngày, chị đi quét rác đến 2-3h sáng mới về. Chợp mắt được vài tiếng, chị gắng dậy, chạy xe ôm Grab…

Sự việc của chị Lê Thị Thu Hà như một hồi chuông cảnh báo xã hội cần quan tâm hơn nữa đến những công nhân vệ sinh môi trường. Để cho cuộc sống chúng ta sạch đẹp, họ phải đối mặt với nhiều nguy hiểm khi ngày ngày ra giữa đường phố quét rác. Chị Hà không phải người lao công đầu tiên gặp tai nạn giao thông.

Đã có rất nhiều trường hợp tương tự xảy ra khi các công nhân môi trường ra đường lao động để mang lại mỹ quan đô thị cho người dân. Đấy là chưa kể đến những mối tiềm tàng bệnh tật do hàng ngày đối mặt với rác thải độc hại.”

Úy Trời/Đất/Quỉ/Thần ơi! Cái xã hội này có ai dòm ngó gì đến đám phu quét đường bao giờ đâu mà nói “cần quan tâm hơn nữa đến những công nhân vệ sinh môi trường,” cha nội? Ngoài việc “đối mặt với rác thải độc hại” – hằng ngày – họ còn phải gánh chịu biết bao là nỗi tủi nhục và đắng cay khác nữa. Ngày 24 tháng 4 năm 2019, ký giả  Đào Thanh Tuy tường thuật:

“Có lần tận mắt chứng kiến một chiếc ô tô đẹp đi trong ngõ, ngang qua xe phu rác đang đẩy. Xe chậm lại, từ trong xe, một ả hạ kính rồi lẳng ngay chiếc bỉm vàng khè vào xe rác. Bởi xe không dừng hẳn nên cú ném ấy không trúng đích mà trúng đầu phu rác. Uất ức, phu rác chửi. Xe dừng, thằng chồng phi xuống vớ ngay cái xô rác ở gần đó vụt tới tấp vào đầu phu rác. Phu rác chỉ biết thụp xuống ôm mặt khóc.”

Hơn ba tuần sau, báo Pháp Luật (số ra ngày 20 tháng 5 năm 2019) loan tin:

“Một đoạn video xuất hiện trên mạng xã hội, được cho là quay tại Quảng Trị. Theo đó, khi chủ một shop quần áo vứt rác ra đường thì bị một công nhân vệ sinh nhắc nhở, sau đó chủ shop trên đã lao vào hành hung và mắng chửi người công nhân vệ sinh.”

Chả hiểu khi bị “hành hung và mắng chửi” hay bị ném “chiếc bỉm vàng khè vào đầu” (giữa phố đông người) đám phụ nữ đẩy xe rác có ai nghĩ đến lời khuyên của ông Bí Thư Thành Ủy Nguyễn Thiện Nhân không : “Những lúc khó, cực, lúc không hài lòng với công việc, hãy nghĩ tới Bác.”

Bác chính là vị Tổng Bí Thư đầu tiên của ĐCSVN và là tác giả Hồ Chí Minh Toàn Tập. Trong tác phẩm này (bản in lần thứ ba, do nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia tái bản năm 2011) nơi trang 12 có câu: “Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa.”

Đương kim TBT Nguyễn Phú Trọng lại vừa cập nhật “tình hình” (không mấy lạc quan) như sau : “Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa” nữa” Chuyện giải phóng phụ nữ ở VN, như thế, đành phải đợi đến … cuối thế kỷ sau vậy!

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Trường Chinh

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến

Tôi vừa được đọc một bài viết thú vị (“Kiêu Ngạo Nhận Vơ”) của blogger Hà Hiển, với câu kết khá bất ngờ:

“Từ năm 1954 đến 1975, đúng là ‘ta’ đã chiến thắng được ‘hai đế quốc to’ cùng với được hơn chục nước trên thế giới đã đi theo con đường mà Lê nin đã chọn, tức theo CNCS, từ đó các Cụ nhà mềnh thấy CNCS ‘oách’ quá, cứ đà này cả thế giới gần 200 nước sẽ theo CNCS hết sạch, dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng của chủ nghĩa Mác Lê nin sẽ đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác rồi tiến lên giải phóng cả Hoa Kỳ, Ý, Đức, Anh, Pháp… abc… thoát khỏi ách bóc lột của CNTB… Hu hu…!!!

Từ những nguyên nhân trên các Cụ lớn nhà mềnh mới sinh ra thói ‘Kiêu ngạo cộng sản’ tuy không tốt nhưng có cái để …kiêu ngạo, nhưng các cụ nối ngôi sau này chẳng có cái gì lận lưng để mà ‘kiêu ngạo’ cả. Chỉ là ăn theo thôi! Nên đúng là… ‘kiêu ngạo vì những cái không phải của mình’ hay còn gọi là ‘kiêu ngạo cộng sản!’ Sau Cụ Trường Chinh, nếu có thì chỉ là ‘kiêu ngạo nhận vơ!’ mà thôi!”

Nhận xét thượng dẫn về “Cụ Trường Chinh” khiến tôi chợt nhớ đến công trình biên soạn rất công phu (Bên Thắng Cuộc) của nhà báo Huy Đức. Tác giả đã dành nguyên một chương (chương 10, tập I) cho ông Trường Chinh, nhân vật được coi là đã đặt nền móng cho chính sách “đổi mới” và được mô tả như một vị thánh tử vì đạo:

“Trong những thời khắc khó khăn nhất của lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Trường Chinh đều đã có mặt: có khi là để lãnh đạo Việt Minh cướp chính quyền như hồi năm 1945, có khi đứng ra chịu trách nhiệm cá nhân về sai lầm của Đảng trong cải cách ruộng đất năm 1956, và trong thập niên 1980 là tự thức tỉnh và dẫn dắt Đảng thoát ra khỏi sự bế tắc bởi chính những đường lối của mình.”

Cách nhìn của những người ngoại đạo, hay đã bỏ đạo (cộng sản) lại hoàn toàn khác:

– Nguyễn Minh Cần: “Sau khi Lê Duẩn chết, Trường Chinh lên làm TBT. Ông vốn là một ‘lãnh tụ’ nổi tiếng ‘giáo điều.’ Ngay cái biệt hiệu của ông cũng nói lên đầu óc sùng bái họ Mao… Cũng trên cương vị TBTĐCSVN, hồi những năm 50, Trường Chinh đã lãnh đạo cuộc cải cách ruộng đất CCRĐ và chỉnh đốn tổ chức (CĐTC) Ở NÔNG THÔN MIỀN Bắc rập khuôn theo hình mẫu trung quốc đã đem lại vô vàn tai hoạ cho nhân dân.” (Nguyễn Minh Cần. Đảng Cộng Sản Việt Nam. Arlington, VA: Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ, 2016).

– Vũ Thư Hiên: “Về sau này, khoảng đầu thập niên 50, tôi tình cờ vớ được cuốn Chủ Nghĩa Mác Và Công Cuộc Phục Hưng Nền Văn Hóa Pháp (*) của Roger Garaudy. Đọc xong tôi mới ngã ngửa ra rằng ông Trường Chinh đáng kính của tôi đã làm một bản sao tuyệt vời của cuốn này trong trước tác Chủ Nghĩa Mác và Vấn Đề Văn Hóa Việt Nam, được ca tụng như một văn kiện có tính chất cương lĩnh. Bố cục cuốn sách gần như giữ nguyên, thậm chí Trường Chinh trích dẫn đúng những đoạn mà Roger Garaudy trích dẫn Mác, Engels, và cả Jean Fréville.

Tiếp đó là sự phát hiện đáng buồn của tôi về cuốn Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Định Thắng Lợi. Nó quá giống cuốn Trì Cửu Chiến Luận (Bàn về đánh lâu dài) của Mao Trạch-đông, trừ đoạn mở đầu rất đẹp, là một áng văn rất hay …” (Vũ Thư Hiên. Đêm Giữa Ban Ngày. 2sd ed. Westminster, CA: Văn Nghệ, 1997).

Riêng trong lãnh vực thi ca thì Trường Chinh hoàn toàn không bị tai tiếng gì ráo trọi. Ông sáng tác mình ên, không “mượn” câu chữ nào – nửa chữ cũng không – bất kể là của Tây hoặc của Tầu. Thơ của Trường Chinh, với bút hiệu Sóng Hồng, chỉ có chút khuynh hướng (và hơi hướng) Mạc Tư Khoa thôi:

Hỡi thi sĩ! Hãy vươn mình đứng dậy!
Thời rượu nồng, đệm gấm đã qua rồi.
Thôi thôi đừng khóc gió với than mây,
Hãy nhịp bước trên con đường tiến bộ.
Dùng thi khúc mà lạnh lùng soi tỏ
Những bệnh căn xã hội đã tràn đầy;
Cùng công nông vun xới cuộc tương lai
Đã chớm nở từ Liên-xô hùng vĩ.

(Ngoại thành Hà Nội, tháng 6-1942)

Hơn 40 năm sau, sau khi kêu gọi giới thi sĩ “cùng công nông vun xới cuộc tương lai,” đến năm 1986 (vào lúc cuối đời, chả hiểu sao) bỗng Anh Cả Trường Chinh đổi ý. Ông Tổng Bí Thư đến già mới chợt tỉnh, theo như cách nói của nhà báo Tống Văn Công:

“Hoàng Ước, thư ký của Trường Chinh bảo tôi là một hôm Trường Chinh nói với mấy người giúp việc rằng ta trả cho người lao động đồng lương bóc lột. Hoàng Ước bèn nói lương chúng tôi chỉ đủ sống mười ngày.

Trường Chinh cau mày khó tin – bóc lột thì có nhưng sao lại có thể ác nghiệt hơn cả đế quốc đến thế – nhưng hôm sau ông bảo Hoàng Ước: Tôi đã hỏi nhà tôi, nhà tôi nói không có chế độ cung cấp đặc biệt thì lương ông cũng chỉ đủ cho nhà này ăn mười ngày. Sau đó Trường Chinh đến nhà máy thuốc lá Thăng Long nói: Phải cứu giai cấp công nhân!” (Trần Đĩnh. Đèn Cù II. Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Tiếc rằng ông không “tỉnh” được lâu. Chỉ hai năm sau, năm 1988, Trường Chinh đột ngột từ trần. Thôi thế cũng xong. Cuối cùng, rồi ông cũng thoát. Thoát khỏi cái XHCN do chính ông đã dụng công xây đắp nhưng giai cấp công nhân thì không. Họ kẹt: kẹt lớn, kẹt lắm, và (chắc chắn) sẽ kẹt luôn – nếu chế độ hiện hành vẫn tiếp tục tồn tại.

Báo Vietnamnet ái ngại cho hay: “Lương tối thiểu mới đáp ứng hơn 1/3 nhu cầu tối thiểu.” Và đó là mức lương cơ sở cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, chớ giới công nhân thì còn tệ hơn thế nữa!

Thế họ sống làm sao?

Thưa họ “ăn thịt mình để sống” – như nguyên văn lời Phó Viện Trưởng Viện Dinh Dưỡng Quốc Gia, PGS-TS Lê Bạch Mai:

“Những khảo sát của viện năm đó cho thấy chất lượng bữa ăn của công nhân không khác gì hai chữ “tồi tệ” khi trong khẩu phần ăn chỉ có 12% protein (chất đạm), 16% chất béo…

“Khi năng lượng khẩu phần ăn không đủ thì (cơ thể) phải sử dụng nguồn năng lượng dự trữ của mình. Khi đó khối cơ của người lao động bị bào mòn, bị lấy đi hằng ngày… và họ rơi vào thực trạng ‘như ăn thịt mình …’ Họ chưa chết đói. Nhưng sẽ đói đến lúc chết”.

Bản thân ông Trường Chinh (đôi khi) cũng đói, theo như lời của trưởng nam Đặng Xuân Kỳ – nguyên Ủy Viên Ban Chấp Hành Trung Ương:

“Ông cụ tôi ra ngoài không dám ăn uống bất cứ thứ gì. Họp Bộ chính trị với Trung ương cũng uống nước của nhà mang theo và nếu không về nhà ăn trưa được thì ông cụ nhịn.” (T. Đĩnh, trang 208).

Chung cuộc, may thay, ông Trường Chinh cũng đã cứu được chính mình. Ông qua đời vì tai nạn chứ không phải vì bị đầu độc – như rất nhiều đồng chí khác.

Nghĩa tử là nghĩa tận. Tôi đang không rảnh (lắm) và cũng chả thấy có chút hứng thú gì khi phải đụng chạm gì đến một người… đã chết. Vấn đề, chả qua, vì chẳng đặng đừng – như “lời trăng trối” của triết gia (ngoại đạo) Trần Đức Thảo:

Ta chỉ có thể thanh toán những điều xấu của quá khứ bằng cách thẳng thắn lôi nó ra ánh sáng của hiện tại, để cùng nhau nhận diện nó, để vĩnh viễn không cho phép nó tái diễn. Mà quá khứ cách mạng của ta thì đã tích tụ quá nặng nề những di sản xấu ấy.

Nạn cộng sản sẽ qua, và sắp qua. Chúng ta khó mà có thể tái thiết đất nước và xây dựng một tương lai ổn định nếu không nhìn cho thật rõ về quá khứ.

– Tưởng Năng Tiến

_______________

(*) Vì thấy nhà văn Vũ Thư Hiên đánh dấu hỏi (?) sau chú thích về cuốn sách của Roger Garaudy nên chúng tôi tìm hiểu thêm, và được biết tên chính xác của tác phẩm là Le communisme et la renaissance de la culture française –Paris, Éditions sociales, 1945 – chứ không phải là Le Marxisme et la Renaissance de la culture Française. Trong cuốn Những Lời Trăng Trối (trang 309) Trần Đức Thảo cho biết là ông được giao trách nhiệm “dịch ngược” tác phẩm Đề Cương Văn Hoá Văn Nghệ Cách Mạng ra Pháp ngữ, và được chính Trường Chinh mời gặp để “bắt tay” cùng với lời cảm ơn.


 

DÂN NÀO THÌ CHÍNH QUYỀN ẤY!!!

DÂN NÀO THÌ CHÍNH QUYỀN ẤY

Sáng sớm, một bạn báo cho biết “Thanh Hóa đã thông báo tạm dừng xây dựng khu tượng đài trăm tỉ tại Sầm Sơn”. Vui vì tin này, dù biết là mới chỉ “tạm dừng” chứ không phải “hủy”. Tuy nhiên, trước mắt gần 300 tỉ đồng tiền dân và 32ha công thổ quý giá sẽ tạm thời chưa bị nướng mất vào một công trình có quá nhiều lý do để không nên hiện diện. Có mấy vấn đề muốn bàn rộng thêm xung quanh quyết định “tạm dừng” này của chính quyền Thanh Hóa.

  1. Dân nào thì chính quyền ấy.

Tôi đã nói quan điểm này nhiều lần, những quyết định của chính quyền sẽ chịu ảnh hưởng tùy vào mức độ nhận thức và thái độ của dân chúng. Nếu dân không lên tiếng một cách mạnh mẽ thì công trình sẽ vẫn được tiến hành xây dựng; và nếu chỉ có “chửi bới” thì chính quyền sẽ không những vẫn làm mà còn quy kết những cá nhân lên tiếng ấy là chống đối/chống phá. Phản đối cần lý lẽ và sự phân tích thấu lý để không ai có thể ngụy biện hoặc chụp mũ được nữa.

  1. Tượng đài này có thể vẫn sẽ bị tiến hành vào một thời điểm khác, bất chấp mong muốn của nhân dân trước những phi lý của nó. Tuy nhiên, dù thế, thì việc lên tiếng sẽ không bao giờ vô ích, vì nó chứng tỏ cho dân chúng thấy một chính quyền đang không đồng hành cùng nguyện vọng của họ; và nhất là giúp dân nhìn rõ hơn, sâu hơn vào bản chất của hệ thống công quyền.

Việc phân tích xác đáng là để bóc tách một cách thuyết phục những vô lý của một công trình, từ đó giúp dân chúng nâng cao hiểu biết, ý thức sâu sắc về quyền của mình, và “vỡ lẽ” về những dối lừa. Đây chính là một cách khai dân trí. Và nó đòi hỏi lòng kiên nhẫn, tâm thế trường viễn và sự bền bỉ trong hành trình khai phát các giá trị cho một cộng đồng còn nhiều rối loạn và mù mờ.

  1. Chính quyền chỉ thay đổi khi người dân thay đổi.

Nghĩa là từng người dân sẽ phải ý thức về trách nhiệm của mình trước các sự hành xử của chính quyền. Việc chạy theo sự kiện có thể sẽ là bất tận và chẳng mang lại một hiệu quả thật sự nào cả nếu nó chỉ thuần túy để xả cái ẩn ức bất bình hay tệ hơn, một thói quen.

Nhưng sẽ là hữu ích khi ta gắn việc lên tiếng về những sự kiện ấy một cách có ý thức với việc chỉ ra những sai lầm trong quản trị và đánh thức dân chúng. Nhìn ở góc độ này, việc “chạy theo sự kiện” sẽ trở thành một phương tiện, một cách thức hợp lý cho quá trình khai dân trí. Khi 1/3 dân số đã trưởng thành thì một cuộc thay đổi mới có thể diễn ra, và kết quả của nó mới bền vững và tươi sáng. Một dân chúng u mê làm “cách mạng” thì dân tộc ấy bất hạnh.

Tôi chỉ có một hi vọng rằng, những người đang mong muốn về một thay đổi triệt để cho tương lai hưng thịnh của đất nước và hạnh phúc ấm êm của dân Việt sẽ giữ được sự kiên trì và thường trực cái ý thức khai trí ấy.

Ngăn chính quyền làm bậy chỉ là phụ, nâng cao dân trí mới là chủ đạo. Xin đừng nói rằng, họ (dân) biết cả đấy, vấn đề là họ chỉ biết rồi để đó chứ không hành động, nên nói lắm cũng bằng thừa. Xin thưa, không có mấy người thật sự “biết” một cách đúng nghĩa đâu, có chăng phần lớn là những bất mãn mơ hồ được nuôi lớn trong một cực đoan do thiếu nền tảng văn hóa.

Nguồn: Thái Hạo

ĐỐT SÁCH – Nguyễn Ngọc Chính

Anh TranTao Hoang

Nguyễn Ngọc Chính

“Nơi nào người ta đốt sách thì họ sẽ kết thúc bằng việc đốt sinh mạng con người”.

Theo Sử ký Tư Mã Thiên, sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, thừa tướng Lý Tư đã đề nghị dẹp bỏ tự do ngôn luận để thống nhất chính kiến và tư tưởng. Lý Tư chỉ trích giới trí thức dùng ‘sự dối trá’ qua sách vở để tạo phản trong quần chúng.

Chủ trương Đốt sách, Chôn nho (Phần thư, Khanh nho) của Tần Thủy Hoàng được thực hiện từ năm 213 trước Công nguyên. Qua đó, tất cả những kinh điển từ thời Chư tử Bách gia (trừ sách Pháp gia, trường phái của Lý Tư) đều bị đốt sạch. Lý Tư còn đề nghị đốt tất cả thi, thư, sách vở, trừ những quyển được viết vào thời nhà Tần. Sách trong lĩnh vực triết lý và thi ca, trừ những sách của Bác sĩ (cố vấn nhà vua) đều bị đốt. Những nho sinh dùng sử sách để chỉ trích chính quyền đều bị hành hình. Những ai dựa vào chế độ cũ để phê phán chế độ mới sẽ bị xử tội chém ngang lưng.

Lý Tư tấu: “Thần xin rằng sử sách không phải do Tần ghi chép đều bị đem đốt. Ngoại trừ quan chức không phải là tiến sĩ thì trong thiên hạ không ai được phép cất giữ Thi, Thư, sách của Bách gia, tất cả đều phải đem đốt. Nếu dám dùng những lời ngụ ngôn trong Thi, Thư thì chém bêu đầu ở chợ. Lấy xưa mà chê nay thì giết cả họ. Quan lại thấy mà không tố cáo sẽ bị coi là đồng phạm. Nay lệnh trong ba mươi ngày mà không đem đốt, sẽ bị xăm mặt và bắt đi xây dựng trường thành”.

Năm 212 TCN, Tần Thuỷ Hoàng phát hiện ở Hàm Dương có một số nho sinh đã từng bình phẩm về mình liền hạ lệnh bắt để thẩm vấn. Các nho sinh không chịu nổi tra khảo, lại khai ra thêm một loạt người khác. Tần Thuỷ Hoàng hạ lệnh đem tất cả trên 460 nho sinh đó chôn sống ngoài thành Hàm Dương. Đốt sách, chôn Nho là hành vi được người đời sau coi là tàn bạo nhất của Tần Thủy Hoàng. Đó cũng là tội danh hàng ngàn năm sau vẫn còn ghi nhớ. Không riêng gì người Hán mà cả nhân loại lên án.

Trong thâm tâm, Tần Thủy Hoàng cũng như Lý Tư đều biết rất rõ, lệnh đốt sách không thể nào xóa sạch những tư tưởng trong đầu óc dân chúng, những cuốn sách ‘khó đốt’ nhất là nằm trong tinh thần con người. Như vậy, việc đốt sách thực tế chỉ là một thủ đoạn chứ không tạo được tác dụng triệt để trong việc xóa sạch vết tích văn hóa-chính trị như mong muốn.

***

Việt Nam vốn tự hào là quốc gia có hơn 4000 năm văn hiến, nhưng sách vở của người xưa để lại thì rất ít. Nguyên nhân chính là vì quân nhà Minh bên Tàu đã ra lệnh hủy hết sách vở ngay trong những ngày đầu đô hộ nước ta để dễ bề cai trị. Sau này, cuộc Cách mạng Văn hóa tại Trung Hoa từ năm 1953 đến 1966 cũng đã gây nhiều ảnh hưởng đến miền Bắc. Do đó, xét về mặt lịch sử, Việt Nam đã trải qua rất nhiều thời kỳ sách vở bị tiêu hủy cho phù hợp với những thay đổi qua các giai đoạn chính trị.

Trên thực tế, tại miền Bắc, ngay sau khi tiếp quản Hà Nội, việc kiểm duyệt sách báo, bài viết trước khi đem phổ biến ra công chúng đã được thực hiện ngay từ năm 1954. Đối với các loại sách báo đã in ra từ trước 1954 dưới thời Pháp thuộc cũng đã bị đốt. Thế cho nên, việc đốt sách tại miền Nam năm 1975 chỉ là rập khuôn của chính sách cũ năm 1954.

Hồi ký của Một người Hà Nội ghi lại sự kiện đốt sách năm 1954 khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản miền Bắc: “Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số ‘lớp Chín hậu phương’, năm sau sẽ sáp nhập thành ‘hệ mười năm’. Số học sinh ‘lớp Chín’ này vào lớp không phải để học, mà là ‘tổ chức Hiệu đoàn’, nhận ‘chỉ thị của Thành đoàn’ rồi ‘phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!’. Họ truy lùng… đốt sách!

Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn ‘kiểm tra’, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang ‘tập trung’ tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm ‘phấn khởi’, lời hô khẩu hiệu ‘quyết tâm’, và ‘phát biểu của bí thư Thành đoàn’: Tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn là… ‘cực kỳ phản động!’. Vào lớp học với những ‘phê bình, kiểm thảo… cảnh giác, lập trường”.

*

Tại miền Nam, trong thời điêu linh ngay sau ngày 30/4/1975, việc đốt sách được thể hiện qua chiến dịch Bài trừ Văn hóa Đồi trụy-Phản động. Tự bản thân khẩu hiệu trong chiến dịch đã nêu rõ 2 mục đích: (1) về chính trị, bài trừ các luồng tư tưởng phản động chống đối chế độ và (2) về văn hóa, xóa bỏ hình thức được coi là ‘đồi trụy theo hình thức tư bản’.

Một trong những việc làm cấp thiết của chính quyền mới khi miền Nam sụp đổ là niêm phong, tịch thu sách tại các thư viện. Những tác phẩm của nhà in, nhà xuất bản và nhà sách lớn tại Sài Gòn như Khai Trí, Sống Mới, Độc Lập, Đồng Nai, Nam Cường, Trí Đăng… đều bị niêm phong và cấm lưu hành.

Đội ngũ những người cầm bút miền Nam phải nói là rất đông và bao gồm nhiều lãnh vực. Về triết học phương Tây có Lê Tôn Nghiêm, Trần Văn Toàn, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung, Trần Bích Lan… Triết Đông có Nguyễn Đăng Thục, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Khắc Kham, Nghiêm Toản, Kim Định, Nhất Hạnh…

Phần biên khảo có Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi, Lê Ngọc Trụ, Lê Văn Đức, Lê Văn Lý, Trương Văn Chình, Đào Văn Tập, Phạm Thế Ngũ, Vương Hồng Sển, Thanh Lãng, Nguyễn Ngu Í, Nguyễn Văn Xuân, Lê Tuyên, Đoàn Thêm, Hoàng Văn Chí, Nguyễn Bạt Tụy, Phan Khoang, Phạm Văn Sơn, Nguyễn Thế Anh, Nguyễn Khắc Ngữ, Nguyễn Văn Sâm…

Về thi ca có Nguyên Sa, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Cung Trầm Tưởng, Tô Thùy Yên, Đinh Hùng, Bùi Giáng, Viên Linh, Hoàng Trúc Ly, Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Đức Sơn, Du Tử Lê…. Phê bình văn học có Tam Ích, Cao Huy Khanh, Lê Huy Oanh, Đỗ Long Vân, Đặng Tiến, Uyên Thao, Huỳnh Phan Anh…

Đông đảo nhất là văn chương với Võ Phiến, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Bình Nguyên Lộc, Mặc Thu, Mặc Đỗ, Thanh Nam, Nhật Tiến, Nguyễn Thị Vinh, Phan Du, Đỗ Tấn, Nguyễn Mạnh Côn, Sơn Nam, Võ Hồng, Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Minh Đức Hoài Trinh, Nguyễn Đình Toàn, Chu Tử, Viên Linh, Duyên Anh, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Vũ Hạnh, Y Uyên, Cung Tích Biền, Duy Lam, Thế Uyên, Lê Tất Điều, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang, Nguyễn Thụy Long, Phan Lạc Tiếp, Thế Nguyên, Thế Phong, Diễm Châu, Thảo Trường, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Ngô Thế Vinh…

Toàn bộ sách ấn hành tại miền Nam của những tác giả nêu trên (còn một số người nữa mà người viết bài này không thể nhớ hết) đều bị ‘đánh đồng’ là tàn dư Mỹ-Ngụy, văn hóa nô dịch, phản động và đồi trụy. Các cấp chính quyền từ phường, xã, quận, huyện, thành phố ra chỉ thị tập trung tất cả các loại sách vở, từ tiểu thuyết, biên khảo cho đến sách giáo khoa để hỏa thiêu.

Không có con số thống kê chính thức nhưng người ta ước đoán có đến vài trăm ngàn sách báo và băng, đĩa nhạc bị thiêu đốt trong chiến dịch truy quét văn hóa phẩm đồi trụy-phản động tại Sài Gòn. Sách báo trên kệ sách trong nhà của tư nhân bị các thanh niên đeo băng đỏ lôi ra hỏa thiêu không thương tiếc. Tại các cửa hàng kinh doanh, sách báo bị thu gom để thiêu hủy, coi như đốt cháy cả cơ nghiệp lẫn con người những cá nhân có liên quan. Tất nhiên, những người có sách bị đốt cũng có phản ứng quyết liệt. Trong hồi ký Viết trên gác bút, nhà văn Nguyễn Thụy Long ghi lại một diễn biến trong vụ đốt sách năm 1975:

“Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng đỏ xâm nhâp tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi một trái lựu đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương nhiên là có đổ máu, có kẻ mạng vong. Những chú nhỏ miệng còn hôi sữa, những cô bé chưa ráo máu đầu là nạn nhân vô tội. Trên cánh tay còn đeo tấm băng đỏ, quả thật súng đạn vô tình! Cả chủ tiệm cũng mạng vong”.

Nguyễn Thụy Long là cháu ruột nhà văn Nguyễn Bá Học nổi tiếng với câu “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Những tiểu thuyết của Nguyễn Thụy Long như Loan mắt nhung, Kinh nước đen cũng gian truân không kém cuộc đời của tác giả, chúng được xếp vào loại ‘văn hóa nô dịch’ nên phải lên giàn hỏa.

Năm 1975, Duyên Anh (Vũ Mộng Long) bị chính quyền mới coi như ‘một trong mười nhà văn nguy hiểm nhất của miền Nam’ với hơn 50 tác phẩm văn chương, trong đó nổi bật có Luật hè phố, Dzũng Đakao, Điệu ru nước mắt, Vẻ buồn tỉnh lỵ, Thằng Vũ, Thằng Côn, Con Thúy. Chế độ mới cấm ông viết lách và bắt giam không xét xử suốt sáu năm qua các nhà tù và trại tập trung.

Vượt biển sang Pháp, Duyên Anh tiếp tục viết và cho xuất bản gần hai mươi tác phẩm, trong đó có Un Russe à Saigon và La colline de Fanta do nhà Belfond xuất bản. Báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình Pháp viết nhiều, nói nhiều về ông. Sử gia Piere Chaunu, giáo sư Đại học Sorbonne, coi Duyên Anh là ‘nhà thơ lớn, vinh quang của quốc gia’.

Đầu năm 1997, Duyên Anh từ trần tại Pháp. Dù muốn dù không, nhiều người ngậm ngùi nghĩ đến tác giả của truyện ngắn đọc đến mủi lòng, có tựa đề là Con sáo của em tôi đăng trên Chỉ Đạo năm 1956. Những truyện ngắn, truyện dài thật trong sáng của tuổi ô mai như Dưới dàn hoa thiên lý hoặc du côn du đãng như Dzũng Dakao… Tất cả lần lượt được hóa kiếp bằng ngọn lửa.

Trong cuốn Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa – tư tưởng xuất bản sau năm 1975 có đoạn viết:

“… Một số người như Duyên Anh, Nhã Ca… chấp nhận chủ nghĩa chống Cộng với một thái độ hoàn toàn tự nguyện. Nhưng nếu xét gốc rễ thái độ thù địch của họ đối với cách mạng, thái độ đó có nguyên nhân ở sự tác động của chủ nghĩa thực dân mới. Họ vừa là kẻ thù của cách mạng, của nhân dân. Nhưng nếu xét đến cùng họ cũng vừa là một nạn nhân của đường lối xâm lược tinh vi, xảo quyệt của Mỹ.

Dù xét dưới tác động nào, hoạt động chống Cộng bằng văn nghệ của đội ngũ những cây bút này cũng là những hoạt động có ý thức. Ý thức đó biểu hiệu trước hết trong thái độ chấp nhận trật tự xã hội thực dân mới, chống lại một cách điên cuồng chủ nghĩa Cộng Sản…

Họ cho văn nghệ là sự chọn lựa một phạm vi hoạt động, một phương tiện để đạt mục đích và tự nguyện dùng ngòi bút của mình phục vụ cho chế độ. Thái độ tự nguyện của họ cũng đã có nhiều người tự nói ra. Vũ Hoàng Chương tự ví mình là ‘viên gạch để xây bức tường thành ngăn sóng đỏ’, Doãn Quốc Sĩ coi mình như một ‘viên kim cương, răng Cộng Sản không sao nhá được’…”

Trong vụ án được mệnh danh là Những tên Biệt kích Cầm bút năm 1986, một số nhà văn ra tòa tại Sài Gòn với tội ‘gián điệp’. Chính quyền mới muốn dựng một vụ án điển hình để đe dọa các nhà văn miền Nam nhưng bất thành vì áp lực từ bên ngoài. Theo kịch bản được dàn dựng, họ muốn xử Doãn Quốc Sĩ mức án tử hình hay chung thân, Hoàng Hải Thủy (từ chung thân đến 20 năm), Dương Hùng Cường (18 năm), Lý Thụy Ý (15 năm), Nguyễn Thị Nhạn (12 năm), Hiếu Chân Nguyễn Hoạt (10 năm) và Khuất Duy Trác cùng Trần Ngọc Tự (8 năm).

Tính ra Hoàng Hải Thủy (còn có bút danh Công tử Hà Đông, Con trai bà Cả Đọi…) ngồi tù ngót nghét 10 năm sau đó tìm đường vượt biên sang Mỹ. Tác phẩm của ông gồm đủ thể loại: tiểu thuyết đăng nhiều kỳ trên các báo, truyện phóng tác, bình luận, phiếm luận… Bây giờ tuy đã già nhưng vẫn còn viết rất hăng ở Rừng Phong.

Những nhà văn như Hoàng Hải Thủy, Duyên Anh, Nguyễn Thụy Long thường sinh sống bằng nghề viết báo bên cạnh việc viết văn. Trong lãnh vực báo chí, Sài Gòn vẫn được coi là trung tâm của báo chí với những nhật báo lớn đã xuất hiện từ lâu như tờ Thần Chung (sau đổi thành Tiếng Chuông của Đinh Văn Khai), Sài Gòn Mới của bà Bút Trà… Khi người Bắc di cư vào Nam có thêm tờ Tự Do, tiếp đến là Ngôn Luận. Đó là những nhật báo lớn có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng. Hoạt động báo chí ở Saigòn càng ngày càng phát triển, theo Vũ Bằng, đến tháng 12/1963, ở Sài Gòn có tới 44 tờ báo ra hàng ngày.

Một đặc điểm của văn học miền Nam là việc hình thành các nhóm văn học. Nhóm Quan Điểm do Vũ Khắc Khoan thành lập với Nghiêm Xuân Hồng, Mặc Đỗ. Quan Điểm (cũng là tên nhà xuất bản do Mặc Đỗ điều hành) được người đương thời gọi là nhóm ‘trí thức tiểu tư sản’, bởi tác phẩm của họ, trong những ngày đầu chia cắt đất nước sau hiệp định Genève, thường có những nhân vật mang nỗi hoang mang, trăn trở của người trí thức tiểu tư sản trước ngã ba đường: theo bên này, bên kia, hay đứng ngoài thời cuộc?

Theo Trần Thanh Hiệp, nhóm Sáng Tạo là một nhóm sinh viên hoạt động trong Tổng hội sinh viên Hà Nội, trước 1954, gồm bốn người: Nguyễn Sĩ Tế, Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền và Trần Thanh Hiệp. Di cư vào Sài Gòn, họ tiếp tục hoạt động văn nghệ với tuần báo Dân Chủ (do Trần Thanh Hiệp và Thanh Tâm Tuyền phụ trách), rồi tờ Người Việt (tiền thân của tờ Sáng Tạo). Sau đó Mai Thảo gia nhập nhóm với truyện ngắn Đêm giã từ Hà Nội, rồi đến Lữ Hồ, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Quách Thoại.

Trên tạp chí Sáng Tạo, ngoài những tên tuổi kể trên người ta còn thấy Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Dương Nghiễm Mậu, họa sĩ Thái Tuấn. Sáng Tạo số đầu ra tháng 10/1956 và tạm ngưng ở số 27 (tháng 12/58). Sáng Tạo bộ mới chỉ đến số 7 (tháng 3/62).

Nhóm Bách Khoa ra đời tháng 1/1957 và sống đến ngày Sài Gòn sụp đổ. Bách Khoa là nguyệt san văn học nghệ thuật có tuổi thọ dài nhất với 426 số. Bách Khoa do Huỳnh Văn Lang điều hành trong những năm đầu. Đến 1963, khi Ngô Đình Diệm đổ, Huỳnh Văn Lang bị bắt, bị tù, nên giao hẳn cho Lê Ngộ Châu.

Bách Khoa quy tụ được nhiều tầng lớp nhà văn khác nhau thuộc mọi lứa tuổi. Những cây bút nổi tiếng cộng tác thường xuyên với Bách Khoa là Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, Nguyễn Ngu Ý, Vũ Hạnh, Võ Hồng, Đoàn Thêm, Nguyễn Văn Xuân, Bình Nguyên Lộc…. Theo Võ Phiến, trong thời kỳ cực thịnh, tức là khoảng 1959-1963, mỗi số Bách Khoa bán được 4500 đến 5000 bản.

Đắt khách nhất là tạp chí Văn của Nguyễn Đình Vượng, ra đời ngày 1/1964 và sống đến 1975. Văn do Trần Phong Giao trông nom trong 10 năm đầu, đến 1974 chuyển lại cho Mai Thảo. Văn cũng quy tụ được nhiều nhà văn ở nhiều lứa tuổi thuộc nhiều khuynh hướng, từ Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền đến Thế Uyên, Nguyễn Mạnh Côn, Bình Nguyên Lộc… Văn đặc biệt quan tâm đến việc dịch thuật và giới thiệu văn học nước ngoài. Trần Phong Giao cũng là một dịch giả nổi tiếng, còn có thêm Trần Thiện Đạo, sống ở Paris, dịch và viết về những phong trào văn học đang thịnh hành ở Pháp.

Tạp chí Văn hoá Ngày nay của Nhất Linh ra đời ngày 17/6/1958, được 11 số thì đình bản. Nguyễn Thị Vinh tiếp tục chủ trương tiếp các tờ Tân Phong, Đông Phương, theo chiều hướng Văn hoá Ngày nay.

Tạp chí Đại học, tờ báo của Viện đại học Huế do Linh mục Cao Văn Luận, viện trưởng, làm chủ nhiệm, ra đời năm 1958 ở Huế, và sống đến năm 1964. Trên Đại học, xuất hiện những bài đầu tiên của Nguyễn Văn Trung, người sau này có ảnh hưởng lớn đến thế hệ sinh viên và trí thức.

Về các nhóm, Viên Linh trong cuốn Chiêu niệm văn chương, cho biết: “Các nhà văn xuất hiện thường xuyên, trên nhật báo, qua các nhà xuất bản, nhất là trên các báo định kỳ, và thành từng nhóm. Lý lịch văn chương và sắc thái địa phương của họ rất tương đồng, tùy theo nhóm tạp chí trên đó họ góp mặt”.

Đa số các nhà văn miền Nam qui tụ trên các tờ tuần báo Đời Mới, Nhân Loại, và nhật báo như Tiếng Chuông, Sàigon Mới (Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Kiên Giang, Lưu Nghi, Thẩm Thệ Hà, Trang Thế Hy…). Các nhà văn gốc miền Trung xuất hiện trên tờ Văn Nghệ Mới, Bách Khoa (Võ Thu Tịnh, Nguyễn Văn Xuân, Võ Phiến, Đỗ Tấn, Vũ Hạnh, Bùi Giáng, Võ Hồng, Nguyễn Thị Hoàng); các nhà văn ‘di cư’ có mặt trên các tờ Đất Đứng, Sáng Tạo, và trên các nhật báo như Tự Do, Ngôn Luận (Đỗ Thúc Vịnh, Nguyễn Hoạt, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Sỹ Tế, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền) hay Văn Nghệ (Lý Hoàng Phong, Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh, Nguyễn Đức Sơn), Hiện Đại (Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nhã Ca). Tờ Chỉ Đạo, Phụng Sự, Tiền Tuyến quy tụ các nhà văn quân đội hay quân nhân đồng hoá như Nguyễn Mạnh Côn, Mặc Thu, Thanh Nam, Phan Nhật Nam, Thảo Trường…

Khuynh hướng Phật giáo có các tờ Tư Tưởng, Vạn Hạnh với Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nguyễn Hữu Hiệu; khuynh hướng Thiên chúa giáo La mã có Hành Trình, Đối Diện với Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Diễm Châu, Thế Nguyên. Mặc dù khi đó đảng Cộng Sản bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, song các nhà văn theo Cộng Sản như Nguyễn Ngọc Lương, Minh Quân, Vũ Hạnh vẫn tạo được diễn đàn riêng trên Tin Văn hay hiện diện trong tổ chức Văn Bút dưới thời linh mục Thanh Lãng làm chủ tịch.

Những tờ như Văn, Phổ Thông, Văn Học, qui tụ các nhà văn không có lập trường chính trị rõ rệt, họ thuần túy làm văn thơ cổ điển như Đông Hồ, Mộng Tuyết, Nguyễn Vỹ, Bùi Khánh Đản, hay văn nghệ thời đại, sinh hoạt thành phố như Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Túy Hồng. Những tờ về nghệ thuật hay về phụ nữ quy tụ các nhà văn như Tùng Long, An Khê, Lê Xuyên, Nguyễn Thụy Long, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang…

Về giới cầm bút sau 1963, Nguyễn Văn Trung viết: “Giới cầm bút sau 1963, họ là những người hồi 1954 trên dưới mười tuổi theo gia đình vào Nam hoặc sinh trưởng và lớn lên ở miền Nam hầu hết có tú tài và tốt nghiệp đại học. Số lượng giới trẻ cầm bút này càng ngày càng đông đảo theo đà thành lập các đại học ở các tỉnh Huế, Đà Lạt, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Long Xuyên, Tây Ninh và các đại học tư ở Sàigòn như Vạn Hạnh, Minh Đức…”

Những nhà văn trẻ đã trưởng thành về tuổi đời và nhận thức sau 1963, trong hoàn cảnh nhiều xáo trộn chính trị-xã hội, chiến tranh mở rộng với sự can thiệp ồ ạt của quân đội nước ngoài. Thời cuộc và chính trị ảnh hưởng trực tiếp đến họ vì bị động viên hay quân dịch… Do đó, họ có lối nhìn thời cuộc đất nước và nghệ thuật văn học khác hẳn với lối nhìn của những đàn anh viết từ trước 1963… Thơ văn giới trẻ viết sau 1963 thường theo một xu hướng chung, phản ánh vũ trụ Kafka, như tên đặt cho một số đặc biệt về thơ văn của Hành Trình, hoặc phản ánh thân phận những nhân vật Việt Nam tương tự những nhân vật trong tiểu thuyết Giờ thứ hai mươi lăm của Gheorghiu.

Nhờ hệ thống báo chí phát triển, quần chúng độc giả bao gồm nhiều thành phần trong khi các nhà văn nổi tiếng như Mai Thảo, Bình Nguyên Lộc, Túy Hồng, Nhã Ca, Duyên Anh, Chu Tử, Thanh Nam… đều sống bằng ngòi bút một cách dư giả. Họ là những người viết chuyên nghiệp, thậm chí nhiều nhà văn có nhà xuất bản riêng.

Nguyễn Hiến Lê trong 30 năm biên khảo và dịch thuật đã viết được 100 quyển sách trước 1975, và 20 cuốn thời gian sau đó. Nguyễn Văn Trung, ngoài lượng sách về triết học, văn học, in trước 1975, trong những công trình sau 1975, có bộ Lục Châu Học, nghiên cứu về văn học miền Lục tỉnh Nam Kỳ. Những nhà văn như Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo… cũng đều có những số lượng tiểu thuyết trên dưới 30 cuốn. Về sáng tác, số lượng tỷ lệ nghịch với chất lượng và đó là cái giá mà nhà văn phải trả.

Về đối tượng độc giả, có thể nói, lớp trẻ ‘bụi đời’ thích đọc Duyên Anh, lớp sống vũ bão thích Chu Tử. Phụ nữ thích Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca vì họ phản ảnh đời sống người phụ nữ tân tiến. Lớp trí thức thích cách đặt vấn đề của Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng. Lớp trẻ lãng mạn giao thời thích đọc Mai Thảo. Tuy nhiên, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu là những tác giả đòi hỏi người đọc một trình độ trí thức cao. Quần chúng bình dân thích Lê Xuyên, Tùng Long… Học sinh trường Tây đọc văn chương ngoại quốc qua tiếng Pháp, tiếng Anh. Học sinh trường Việt đọc các tác phẩm ngoại quốc qua bản dịch hoặc phóng tác.

Bộ sách Văn Học Việt Nam Nơi Miền Đất Mới của Nguyễn Q. Thắng xuất bản sau năm 1975 có đề cập tới 53 ‘văn gia’ của VNCH, mỗi người được tác giả gắn cho một nhãn hiệu. Chẳng hạn, Nguyễn Văn Trung là ‘nhà văn nhập cuộc’, Cao Xuân Hạo ‘nhà lập thuyết ngữ học’, Nguyễn Ngọc Lan ‘nhà văn Công giáo, nhà báo dấn thân’, Thanh Việt Thanh (?) ‘nhà văn cần cù’, Thế Uyên ‘nhà văn nhập cuộc’, Viên Linh ‘hoàng đế’, ‘nhà độc tài’ văn học’ (!?), Hồ Trường An ‘dược sĩ (?), nhà văn’…

Những nhà văn nữ như Nguyễn Thị Thụy Vũ được khoác cho cái nhãn ‘nhà văn nữ giầu tình dục’, Túy Hồng ‘nữ văn sĩ giầu tính nhục cảm’, Nguyễn Thị Hoàng ‘nhà văn trẻ của tình lụy’, Thu Vân (?) ‘nhà văn dùng tính dục để giải quyết vấn đề’…

Một điều không ai có thể phủ nhận là miền Nam trước khi có chiến dịch đốt sách năm 1975 rất phong phú về sách báo, từ sáng tác đến dịch thuật, từ chính luận đến phiếm luận. Điều chắc chắn là trong số các tác phẩm đó ‘có vàng’ nhưng cũng ‘có thau’. Người đọc đủ sáng suốt để lọc ra những gì với họ là tinh túy để giữ lại, hoặc dấu nếu cần.

Khi người Bắc di cư vào Nam năm 1954, họ rất ngạc nhiên khi thấy những người đạp xe xích lô đến buổi trưa, tìm chỗ mát nghỉ ngơi. Họ ngồi gác chân đọc nhật trình. Người bình dân miền Nam có truyền thống đọc sách báo mà ở ngoài Bắc không có. Ngay từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 miền Nam đã là vùng đất của tiểu thuyết và báo chí trong khi ngoài Bắc, sách vở, báo chí phần lớn chỉ dành cho người có học.

Miền Nam vào những thập niên 60-70 lại có hiện tượng giao thoa giữa hai nền văn hóa Pháp và Mỹ với sự du nhập ồ ạt của các loại sách Livre de poche của Pháp và các loại sách soft cover của Mỹ. Giá sách nói chung tương đối rẻ vì mục đích chính là phổ biến văn hóa, thương mại chỉ là phụ.

Người đọc có thể tìm loại sách IC (Information & Culture) dưới hình thức sách bỏ túi (Livre de Poche) của Pháp bày bán tại các nhà sách Sài Gòn trước 1975 một cách dễ dàng. Nếu có chút vốn liếng về tiếng Pháp, người ta có thể tìm đọc những tác phẩm cổ điển của Platon, Homère hoặc các tác phẩm đương đại của Albert Camus, Jean-Paul Sartre, Saint Exupéry, Francoise Sagan…

Quân đội Mỹ ào ạt đổ bộ vào miền Nam, nhưng văn hoá Mỹ có vai trò áp đảo hay không? Theo giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, “Thời chiến tranh lạnh, với thế lưỡng cực trên thế giới, miền Nam nằm trong vùng ảnh hưởng Mỹ, và như vậy là có thêm tác nhân mới. Tuy nhiên, văn hoá Mỹ, theo gót đoàn quân viễn chinh, cũng chưa thể gọi là có ảnh hưởng gì sâu đậm. Ở lối sống, ở những giai tầng thấp thì có thể gọi là có ảnh hưởng một cách xô bồ, nhưng ở thượng tầng thì chưa”.

Hoa Kỳ thành lập cơ quan thông tin-văn hóa JUSPAO (Joint United States Public Affairs Office) và tạp chí Thế giới Tự do được phát hành miễn phí cho mục đích tuyên truyền. Đây là báo ảnh, được in ấn bằng phương tiện tối tân nên rất hấp dẫn người đọc.

Cũng có một nguồn cung cấp sách tiếng Anh hoàn toàn miễn phí nhưng rất ít người biết để đem về kệ sách riêng của mình. Đó là sách của Asia Foundation (Cơ quan Viện trợ Văn hóa Á Châu) một tổ chức phi mậu dịch, tặng không cho người đọc là quân nhân, công chức với số lượng hạn chế mỗi lần 5 quyển cách nhau 3 tháng.

Tôi là ‘khách hàng’ thường xuyên của Asia Foundation. Sách của Asia Foundation là loại sách viện trợ thuộc đủ mọi lĩnh vực, trên sách có đóng dấu bằng 2 thứ tiếng “Not for sale” và “Xin đừng bán”. Nếu gặp may, bạn có thể gặp những sách thuộc loại ‘quý, hiếm’.

Tôi còn giữ được một bộ 2 cuốn World Masterpieces (dày khoảng 3000 trang in lại những kiệt tác văn chương của thế giới qua các thời kỳ như Iliad của Homer, Don Quixote của Miguel de Cervantes, Hamlet của William Shakespeare, Thoughts (Les Pensées) của Blaise Pascal, Faust của Von Goethe, The Death of Iván Ilyich của Leo Tolstoy, Theseus (Thésée) của Andre Gide, Remembrance of Things Past của Marcel Proust, No Exit của Jean-Paul Sartre…

Một số sách xuất bản ở miền Nam trước 1975 nay đã được in lại, và càng ngày càng có một nhu cầu muốn tìm hiểu và phục hồi lại nền văn học đã mai một này. Hơn nữa, tên tuổi và tác phẩm của những nhà văn nổi tiếng ở miền Nam đã xuất hiện khá nhiều trên Internet. Sau 1975, Từ điển văn học bộ mới cũng được phép in một số mục từ về Bình Nguyên Lộc, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng…

Chỉ tiếc một điều là một số sách báo xưa đã biến mất sau đại họa 1975 và chỉ còn lưu giữ rất hạn chế tại các thư viện tại hải ngoại dưới hình thức microfilm. Rồi người ta cũng quên đi ‘bữa tiệc BBQ’ nhưng vấn đề là những thế hệ sau này sẽ mất hẳn sợi dây liên lạc bằng sách báo với quá khứ.

Kết thúc bài viết này, tác giả xin mượn ý thơ của Vũ Đình Liên than thở cho thân phận ông đồ trước cảnh tàn lụi của nền nho học:

Năm nay đào lại nở

Không thấy sách báo xưa

Ngọn lửa nào năm cũ

Lạc về đâu bây giờ?

Việt Minh nay nó không ác lắm?

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả:  Nguyễn Thị Cỏ May

Kỹ sư Trần Bang ra tòa

«Hôm 12/05/23, Ông Trần văn Bang 62 tuổi, kỹ sư, quê quán Hải Dương, vì hoạt động xã hội dân sự ở Việt Nam, bị kết án 8 năm tù giam về tội “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, theo điều 117 bộ của luật Hình sự năm 2015. Trước đây một năm, ông đã nhiều lần bị công an hăm dọa, khủng bố, đánh đập mang thương  tích nặng cũng chỉ vì những  hoạt động  xã hội của ông.

Phiên Tòa xử tội hoạt động xã hội của ông được thông  báo là công khai nhưng lại không cho người nhà của ông tham dự. Bà mẹ của ông, 92 tuổi, nhờ 2 cô em của ông xốc nách đưa bà lướt đại vào. Nhờ đó Bà trông thấy được con .

Trước cảnh con trai bị án tù 8 năm, Bà không xúc động . Trái lại, rất bình tỉnh và yên lòng . Không phải vì Bà hiểu ý nghĩa việc làm của con trai và bản án tù của chế độ . Thật vậy, từ hôm anh Bang bị bắt, Bà lo buồn lắm, bà không nói ra thôi, chỉ biết cầu Trời, khấn Phật. Nay thấy con trai còn sống, Bà mừng lắm. Bà bảo, tao cứ nghĩ thằng Bang không còn sống đâu, mà có sống cũng thành tật . Nay nhìn thấy nó vẫn còn sống, còn nguyên vẹn, đi đứng ngay ngắn, tao mừng lắm . Bà chẳng để ý bản án nặng nhẹ ra sao, con bà làm gì bị tù, mà thấy con của mình còn sống là Bà yên tâm .

Rồi Bà kể, cái giống Việt Minh nó ác lắm, vào tay nó không chết thì cũng tàn tật. Ngày hội tề ấy, có ông Lý cựu, mù hai mắt, tai điếc, ông nói to lắm, ông hỏi tối qua Việt Minh về họp bàn cái gì?… Thế thôi mà họ về giết ông ấy. Họ giết để được thành tích, báo cáo lên trên là đã diệt được một tên việt gian, phản động…

Rồi cải cách ruộng đất, nó bắt mấy người giàu có trong làng đem giam cầm, đấu tố… Người bị bắn chết, người còn sống, thì thân tàn ma dại… Nay thằng Bang bị bọn nó bắt, giam cầm hơn một năm mà còn sống nguyên lành. Coi như trước khi chết, mẹ được thấy nó lần cuối là mừng rồi !» (Mạc văn Trang, DCV, 26/05/23 – Lời chị Bích kể) .

Cái hạnh phúc của Bà Cụ 92 tuổi ở Việt nam ngày nay thật đơn giản khi thấy con trai của mình bị Việt  Minh bắt giam cầm cả năm mà nay hãy còn sống, lành lặn, còn tới được trước Tòa lảnh án 8 năm tù ở. Bà hoàn toàn không thắc mắc điều gì khác hơn là tạ ơn Trời Phật .

Và chắc Bà thầm nghĩ con của Bà còn sống phải chăng vì nayViệt Minh nó không còn ác lắm như trước kia? Và vì cái lão Hồ Chí Minh đã chết lâu rồi!

Việt Minh và Hồ Chí Minh

Khi nói Việt Minh và Hồ Chí Minh, có lẽ nên nhắc lại tại sao có « Mặt Trận Việt  Minh » và cái tên « Hồ Chí Minh » đi liền theo từ đó ? Và đừng  quên cái thảm hại của đất nước Việt nam cho tới ngày nay cũng bắt đầu từ đó .

« Ngô Thị Khôn Nghi là ái nữ của nhà yêu nước Ngô Quảng. Ông Ngô Quảng là một hổ tướng của lực lựợng chống Tây do Phan Đình Phùng lãnh đạo . Sau này ông là đồng chí của nhà ái quốc Phan Bội Châu trong phong trào Đông Du . Bà Ngô Thị Khôn Nghi sau này là đồng chí và là vợ của ông Hồ Học Lãm .

Hồ Học Lãm từng là sinh viên xuất sắc khi học tại trường Chấn Võ ở Nhật Bản. Hồ Học Lãm từng kết bạn với nhà cách mạng Trung Hoa Tưởng Giới Thạch khi cả hai cùng ở bên Nhật. Hồ Học Lãm cũng từng là sinh viên sĩ quan ưu tú ở trường Võ Bị Bảo Định tại Trung Hoa, và sau này từng là sĩ quan cao cấp trong quân đội Trung Hoa của Tôn Trung Sơn và Tưởng Giới Thạch .

Hồ Học Lãm về sau được các đoàn thể tranh đấu Việt Nam bầu lên làm Chủ Nhiệm « Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội ». Khi nắm vai trò lãnh đạo hội này, ông Hồ Học Lãm đổi tên  là « Hồ Chí Minh » .

Khi “Hồ Chí Minh thật” qua đời, thì sau đó, Lý Thuỵ lấy tên “Hồ Chí Minh”, tức tên Nguyễn Sinh Cung hay Nguyễn Tất Thành chôm tên Hồ Chí Minh làm tên của mình .

Vào giữa tháng 9 năm 1945, bà “Hồ Chí Minh thật” (tức bà Ngô thị Khôn Nghi) biết rõ Lý Thuỵ lấy tên chồng mình và còn tự nhận là người sáng lập ra « Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội », Bà quyết vạch mặt Lý Thuỵ, nhưng các tướng Tàu tìm đủ cách ngăn cản bà nói ra sự thật. Chính thời gian đó, ông Lê Khang, tức Lê Ninh, một nhà lãnh đạo VNQDĐ, anh ruột của Lê Hưng, muốn giúp bà, nhưng “tứ bề thọ địch”, nên cuối cùng ông Lê Khang chỉ còn cách gửi gắm bà vào ở nhà một thương gia người Tàu . Sau đó tông tích bà bị lộ, đảng viên cộng sản tên Hoàng Đạo, không phải nhà văn Hoàng Đạo của Tự Lực Văn Đoàn, muốn hại bà, nhưng được tướng Nguyễn Sơn che chở. Cho đến khi tướng Nguyễn Sơn bị cách chức .Và sau đấy, bà “Hồ Chí Minh thật” bị chết thảm bới bọn “Hồ Chí Minh giả” đã cướp đoạt tổ hức có tên «Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội».

Sau khi cướp được tổ chức này, bọn chúng bỏ tên “Hội”, và thay vào đó “Mặt Trận”, trở thành « Mặt Trận Việt Nam Độc lập Đồng Minh”, gọi tắt là «Việt Minh (*) » .

Việt Minh có từ đó. (Tài liệu VNQDĐ – Lê Thành Nhân ghi lại qua thư của cố đồng chí Lê Hưng).

Việt Minh, chính cái lão Hồ Chí Minh

Tháng 9/1945, ông Tạ Thu Thâu từ Hà nội trở về, ghé qua Huế để chờ nghe ngóng tình hình để liệu về Nam gấp. Ông vô cùng nôn nóng phải về Nam càng sớm càng tốt vì tình hình Việt Nam rất khẩn trương khi Pháp điều đình để trở lại. Ông chờ có xe lửa đi Nam, ông liền đi. Tới Quảng Ngãi, ông bị Việt Minh nhận ra và bắt đem đi nhốt chờ xét xử.

Nói về cái chết của nhà ái quốc Tạ Thu Thâu, có nhiều nguồn tin, nhưng  có lẽ Ông Đỗ Bá Thế, nhà báo, nhà làm Điện Ảnh ở Sài gòn, trong  truyện Thím Bảy Giỏi (**) đăng hàng  ngày trên nhựt báo Quyết Tiến xuất bản ở Sài gòn trong thập niên 60 của thế kỳ trước là rõ ràng vì ông là người theo sát ông Tạ Thu Thâu cho tới ngày cuối .

Trước khi giết ông Tạ Thu Thâu, Tư Ty, công an Huyện ở Quảng Ngãi, nhưng là người thân tín và làm việc trực tiếp với Trung ương ở Hà nội, nhờ gốc vô lại, cho trinh sát dẫn ông TạThuThâu tới để xét xử. Ông bị trói gô lại.

Ông  mặc chiếc áo cẩm tự phai màu, trở thành vàng  sậm, rách và nhầu nát. Cặp mắt kiếng mất một tròng. Vẻ mệt mỏi hiện rõ chắc vì nhiều đêm không ngủ được, phải thức để trả lời những câu hỏi của công an việt minh.

Tại phiên xử, ông nói rất nhiều để giải thích cho bọn Tư Ty và mọi người cùng nghe.  Ông nhấn mạnh từng lời như muốn nhét vào đầu bọn việt minh u mê Tư Ty đang buộc tội ông  là việt gian, phản quốc.  Ông nói rất nhiều dường như ông muốn nói để bọn Tư Ty ghi lại và báo cáo về Hà nội. Ông dõng dạc bảo Tư Ty hảy rút lại mấy lời trong bản cáo trạng  buộc tội ông là việt gian, phản quốc, phản cách mạng.

Cuối cùng, ông nói « May là Việt nam còn giữ được cái xác của Tạ Thu Thâu » .

Phiên xử tuyên án tử hình nhưng không trinh sát nào dám thi hành. Bọn Tư Ty cuối gục mặt xuống, không tên nào dám hó hé. Dân chúng bị kêu gọi đi dự phiên xét xử, ai cũng môi mím lại, lặng nhìn Tư Ty căm hờn như muốn ăn tươi nuốt sống nó . Tư Ty ngồi yên một chặp. Như có chút gợn lòng nhưng hắn lo sợ dân chúng bất thần phản ứng nên đứng dậy, quắc mắt nhìn mọi người rồi như con thú dữ, rút khẩu 7, 35 bên hông, tiến tới, nhắm ông Thâu nổ hai phát liên tiếp.

Tiếng  súng nổ, ông Thâu ngã khuỵu xuống. Mọi người, và cả bọn trinh sát và cán bộ của Tư Ty rú lên, làm cho hắn tức giận:

-Đồ quân hèn nhát. Không giết nổi một tên Việt gian thì làm sao chống nổi quân thù?

Hiền nói với bà Nghĩa Lợi, chủ nhà ngủ « Tôi uất quá mà khóc chớ không phải hèn nhác mà khóc đâu bà chủ à. Ông  Thâu là thầy dạy tôi học ở trường Huỳnh Khương Ninh. Thầy suốt đời gian khổ tù tội nhưng vẫn quyết một lòng bồi đắp, gây mầm cách mạng chống đế quốc để cho nước Việt nam được Tự do, Độc lập ấm no. Đời Thây chỉ mong có ngày cách mạng thành công. Thấy yêu nước hơn bản thân, và đức độ vô song đến giặc pháp còn không dám coi thường.

Bà Nghĩa Lợi, chủ khách sạn, đột ngột nói:

-Có phải thằng Tư Ty giết ông Thâu đâu? Chính bọn Việt Minh, chính cái lão Hồ Chí Minh đã giết ông Thâu đó (Thím Bảy Giỏi, trg 610 – 620).

Nguyễn thị Cỏ May

——————————–

(*) Xin đừng lầm với «Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội » (gọi tắt là Việt Cách), mà người lãnh đạo là cụ Trương Bội Công và sau này là cụ Nguyễn Hải Thần.

(**) Đỗ Bá Thế, « Thím Bảy Giỏi », Paris, 9/2016 do gia đình xuất bản, số lượng ít, không bán, dành cho Thư viện và bạn bè

LHQ yêu cầu Việt Nam giải trình về cáo buộc đàn áp hai tín đồ Tin lành ở Tây Nguyên

RFA
2023.06.29

Các đại biểu dự SEAFORB 2019 ở Bangkok, Thái Lan

LHQ yêu cầu Việt Nam giải trình về cáo buộc đàn áp hai tín đồ Tin lành ở Tây Nguyên

00:00/06:13

Phần âm thanh 

Văn phòng Cao uỷ Nhân quyền Liên Hiệp quốc (LHQ) đã công bố thư chung của bốn Báo cáo viên đặc biệt thuộc cơ chế nhân quyền của Hội đồng Nhân quyền LHQ về cáo buộc lực lượng chức năng Việt Nam đàn áp hai tín đồ Tin lành ở Tây Nguyên trong năm 2022.

Bức thư chung đề ngày 28/4/2023 của Báo cáo viên đặc biệt về tự do tôn giáo hay niềm tin, Báo cáo viên Đặc biệt về tình trạng của người bảo vệ nhân quyền, Báo cáo viên về các vấn đề người thiểu số, và Nhóm Công tác về bắt giữ tuỳ tiện được công bố ngày 28/6 sau khi Chính phủ Việt Nam không trả lời trong thời gian 60 ngày.

Thư chung này đề cập đến việc lực lượng an ninh Việt Nam đã dừng xuất cảnh, bắt giữ, thẩm vấn và đánh đập hai thành viên Y Si Eban và Y Khiu Niê của nhóm tôn giáo độc lập Hội thánh Tin lành Đấng Christ Tây Nguyên khi hai người này trên đường đi dự Hội nghị về Tự do Tôn giáo và Niềm tin Đông Nam Á (SEAFORB) tổ chức ở Bali (Indonesia) vào đầu tháng 11/2022.

Theo đó, ông Y Khiu Niê bị an ninh Sân bay Tân Sơn Nhất từ chối cho xuất cảnh vào ngày 06/11 và trên đường về nhà ở huyện Krong Buk, ông bị an ninh tỉnh Đắk Lắk bắt giữ mà không có lệnh bắt của Viện Kiểm sát. Trong thời gian bị giam giữ trong trụ sở của Công an tỉnh từ chiều cùng ngày đến tối ngày hôm sau, ông bị tra hỏi liên tục trong nhiều giờ mà không có sự hiện diện của luật sư.

Ông bị công an đe doạ bỏ tù, và bắt ký biên bản cam kết không liên lạc với các tổ chức nhân quyền quốc tế và không gửi báo cáo vi phạm nhân quyền cho LHQ và chính phủ các quốc gia phương Tây. Công an còn quay video clip trong đó ông bị buộc nói rằng nhiều tổ chức dân sự chống chính quyền Việt Nam.

Đối với trường hợp ông Y Si Eban, ông bị an ninh Sân bay Tân Sơn Nhất bắt giữ khi đang làm thủ tục xuất cảnh sang Bali cùng ngày 06/11. Ông bị Công an tỉnh Đắk Lắk đưa về giam giữ trong cùng ngày, bị tịch thu mọi giấy tờ, điện thoại và cả tiền mà không có lệnh bắt của Viện Kiểm sát.

Trong thời gian bị giam giữ ở Công an tỉnh Đắk Lắk hai ngày một đêm, ông Y Si Eban bị tra khảo về mục đích tham dự hội nghị. Ông còn bị cáo buộc thực hiện tội chính trị mà công an không giải thích thêm.

Công an nói rằng sẽ không cho ông xuất cảnh, buộc ông không được truyền bá Kinh thánh, và không được tham dự các nghi lễ của hội thánh cũng như liên lạc với các tổ chức xã hội dân sự.

Sau đó, ông bị ép tuyên bố rời Hội thánh Tin lành Đấng Christ Tây Nguyên, không tham dự các lớp học trực tuyến về xã hội dân sự cũng như liên hệ với các tổ chức nhân quyền quốc tế.

Trong quá trình thẩm vấn, ông bị đánh với nhiều vết thương trên mặt và đầu.

Mục sư Aga, người sáng lập Hội thánh Tin lành Đấng Christ Tây Nguyên và hiện đang sống lưu vong ở North Carolina (Hoa Kỳ), xác nhận với Đài Á Châu Tự Do (RFA) trong ngày 29/6 về việc ông Y Si Eban bị đàn áp. Ông nói:

Rõ ràng là Việt Nam đã vi phạm rất trầm trọng đối với ông Y Si Eban về vấn đề tự do tôn giáo và nhân quyền, đặc biệt khi Việt Nam đã ký kết rất nhiều công ước quốc tế về nhân quyền.

Họ vẫn bất chấp vấn đề đó, vẫn tra tấn vẫn đánh đập và vẫn bắt ép từ bỏ hội thánh, niềm tin tôn giáo của họ mặc dù chúng tôi làm theo đúng luật pháp Việt Nam cũng như luật quốc tế mà chính quyền đã ký kết.

Họ bắt ép chúng tôi phải từ bỏ hội thánh của mình và gia nhập Hội thánh Tin lành Miền Nam Việt Nam, một hội thánh nhà nước quản lý, đó là hội thánh quốc doanh.”

Mục sư Aga cho biết tình hình ở Đắk Lắk và một số tỉnh lân cận rất nóng sau vụ tấn công vào hai trụ sở Uỷ ban nhân dân xã ở huyện Cư Kuin ngày 11/6. Chính quyền địa phương không cho các tín đồ của Hội thánh Tin lành Đấng Christ Tây Nguyên tụ tập để cầu nguyện, thậm chí họ cũng không được ngồi với nhau để uống nước và nói chuyện.

Dường như chính quyền Việt Nam muốn lợi dụng sự kiện bạo lực đó để triệt phá nhóm tôn giáo do ông sáng lập. Ông nói.

Họ đã thành công xoá sổ đạo Hà Mòn, xoá sổ Hội thánh Tin lành Đega, thì bây giờ lại tiếp tục muốn triệt phá Hội thánh Tin lành Đấng Christ Tây Nguyên. Chính quyền cộng sản Việt Nam không bao giờ muốn cho người đồng bào bản địa chúng tôi có niềm tin tôn giáo riêng của mình.”

Phóng viên đã gọi điện cho Công an tỉnh Đắk Lắk để hỏi về việc bắt giữ và tra khảo hai ông Y Si Eban và Y Khiu Nie. Người trực máy nói không trả lời qua điện thoại mà yêu cầu phóng viên đến trụ sở của cơ quan này để được cung cấp thông tin.

Trong thư chung, các Báo cáo viên đặc biệt đã bày tỏ sự quan ngại đặc biệt về việc hành xử đối với hai ông Y Si Eban và Y Khiu Nie.

“… Chúng tôi muốn bày tỏ mối quan ngại sâu sắc của chúng tôi về việc bắt giữ tùy tiện, đe dọa, quấy rối, hạn chế đi lại, giám sát và hành vi bạo lực đối với hai ông Y Khiu Niê và Y Sĩ Êban, dường như có liên quan đến việc thực hành ôn hoà các quyền được ghi trong Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và chính trị (ICCPR) mà Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã phê chuẩn vào ngày 24//9/1982, bao gồm quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo (điều 18), tự do biểu đạt (điều 19), quyền bình đẳng trước pháp luật và được bảo vệ bình đẳng (điều 26) và quyền của các thành viên thuộc một nhóm thiểu số tôn giáo được tuyên xưng hoặc thực hành tôn giáo của họ với các thành viên khác trong nhóm của họ (điều 27).”

Các chuyên gia nhân quyền của LHQ cũng nhắc lại rằng Việt Nam bị nêu trong nhiều báo cáo gửi Tổng Thư ký LHQ về hành vi đe dọa và trả đũa đối với việc hợp tác với LHQ trong lĩnh vực nhân quyền, bao gồm cả các báo cáo liên quan đến việc bắt giữ tùy tiện, đe dọa, giám sát và hạn chế đi lại quá mức đối với những người muốn tham gia vào các hoạt động nhân quyền, trong đó có hội nghị thường niên SEAFORB.

Chúng tôi lo ngại rằng những cáo buộc này dường như minh họa cho một mô hình đe dọa và trả thù đang nổi lên đối với những cá nhân hợp tác hoặc tìm cách hợp tác với các tổ chức xã hội dân sự, các tổ chức hoặc cơ chế nhân quyền của LHQ hoặc các đại diện ngoại giao nước ngoài,” thư chung nói.

Các báo cáo viên đề nghị Chính phủ Việt Nam giải thích việc cấm xuất cảnh, bắt giữ và tra khảo đối với hai ông Y Khiu Nie và Y Si Eban cũng như các hành vi tương tự đối với nhiều nhà hoạt động về tự do tôn giáo tham gia SEAFORB trong thời gian 2015-2022 và những người cộng tác với LHQ.

Họ đề nghị Hà Nội có các biện pháp cụ thể để chấm dứt tình trạng đàn áp này và bảo vệ các cộng đồng tôn giáo nhỏ, trong đó có các nhóm Tin lành của người Thượng.

Phóng viên gửi email cho Bộ Ngoại giao Việt Nam để đề nghị bình luận về Thư chung của bốn Báo cáo viên đặc biệt của LHQ, nhưng chưa nhận được phản hồi.

Ninh Thuận: Một người dân bị bắt vì “nói xấu” Đảng Cộng sản VN trên mạng xã hội

RFA

2023.06.28

Ông Lê Thạch Giang làm việc với công an

Công An via PLO

Cơ quan Cảnh sát Điều tra (Công an TP Phan Rang – Tháp Chàm), tỉnh Ninh Thuận hôm 28/6 tống đạt quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam một người dân ở TP Phan Rang với cáo buộc “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước” theo Điều 331 Bộ luật Hình sự.

Báo Nhà nước dẫn nguồn tin từ Công an TP Phan Rang vào cùng ngày cho biết, người bị bắt là ông Lê Thạch Giang (66 tuổi).

Ông Giang bị công an cáo buộc lập tài khoản trên mạng xã hội có tên “Bọn cường quyền” từ tháng 8/2022 để livestream và đăng cá bài viết có liên quan đến cưỡng chế, thu hồi đất của các cơ quan chức năng.

Ngoài ra, ông Giang còn bị công an cáo buộc kêu gọi người dân xem các trang mạng xấu, độc, chia sẻ những thông tin chưa kiểm chứng, xuyên tạc, nói xấu Đảng.

Chính quyền Việt Nam thường dùng Điều 331 Bộ luật Hình sự để kết tội những người lên tiếng chỉ trích chính quyền ôn hòa. Đây là điều luật đã bị quốc tế chỉ trích là mù mờ và đề nghị Việt Nam xóa bỏ.

Từ đầu năm đến nay, Việt Nam đã bắt giữ ít nhất 10 người với cáo buộc vi phạm Điều 331, theo số liệu thống kê của Đài Á Châu Tự Do.

Sài Gòn ngập nặng 2 ngày liên tiếp do mưa lớn, cống nghẹt

Sài Gòn ngập nặng 2 ngày liên tiếp do mưa lớn, cống nghẹt

Báo Nguoi-viet

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Sài Gòn hôm 29 Tháng Sáu có ngày thứ hai liên tiếp ngập nặng, nhiều tuyến đường biến thành sông, do “mưa lớn” và cống tắc nghẽn trầm trọng.

Theo ghi nhận của báo VNExpress, nước ngập gần lút bánh xe gắn máy trên các tuyến đường Lê Văn Việt, Đinh Bộ Lĩnh, Hồ Học Lãm…

Ngườ dân trên đường Hồ Ngọc Lãm (quận Bình Tân) dùng 2 máy bơm đê bơm nước từ trong nhà ra ngoài. Ảnh: Văn Điệp

Một căn nhà trên đường Hồ Học Lãm, quận Bình Tân, Sài Gòn, phải dùng hai máy bơm để hút nước ngập từ trong nhà ra ngoài. (Hình: VNExpress)

Mỗi khi có xe hơi chạy qua tạo thành sóng nước, đẩy người đi đường chao đảo trên biển nước. Tài xế nhiều xe hơi bị ngập nước phải thuê xe cẩu để đi sửa chữa.

Trên đoạn đường Ung Văn Khiêm, quận Bình Thạnh, xảy ra kẹt xe nghiêm trọng. Hàng ngàn xe gắn máy, xe hơi phải nhích từng chút một để về nhà.

Cùng thời điểm, báo Dân Trí cho hay cơn mưa như trút nước vào chiều 29 Tháng Sáu khiến nhiều tuyến đường ở quận Gò Vấp ngập sâu. Nhiều người phải đứng chờ hơn một giờ vẫn chưa được về nhà.

Tình cảnh tương tự diễn ra một ngày trước tại Sài Gòn cũng vì “mưa lớn.”

Theo báo Zing, mưa dông lớn trong chiều 28 Tháng Sáu khiến 65 chuyến bay bị ảnh hưởng khi đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất.

Bản tin cho biết thêm, Tháng Sáu và Tháng Bảy hằng năm là thời kỳ phát triển của gió mùa mùa Hè, với sự khơi sâu của áp thấp nóng Ấn Độ-Miến Điện và mở rộng phạm vi hoạt động về phía Đông, chi phối thời tiết trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

Theo Trung Tâm Dự Báo Khí Tượng Thủy Văn Quốc Gia, trong hai ngày 29 và 30 Tháng Sáu, tùy khu vực Nam Bộ mà có mưa rào và dông rải rác, mưa vừa, mưa to với lượng mưa 20-40 mm, có nơi trên 60 mm. Thời gian xảy ra mưa dông tập trung vào chiều và tối.

Biển nước trên đường Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, Sài Gòn, hôm 29 Tháng Sáu. (Hình: VNExpress)

Hồi tuần trước, báo VTC News cho hay “siêu dự án” chống ngập do triều cường khu vực Sài Gòn, có mức đầu tư 10,000 tỷ đồng ($424.2 triệu), khởi công từ hồi năm 2016 nhưng đến nay vẫn “chưa thể đưa vào sử dụng.”

Bản tin cho biết, theo kế hoạch ban đầu, lẽ ra dự án chống ngập phải vận hành trong năm nay nhưng hiện tại, tất cả các hạng mục vẫn đang “án binh bất động.”

Công ty Trungnam Group, chủ đầu tư dự án, cho biết họ đang chờ Ngân Hàng Nhà Nước và ngân hàng BIDV cấp vốn và giải ngân thì dự án “ngay lập tức được tái khởi động, hoàn thành đúng tiến độ.” (N.H.K)

Một ông ở Lâm Đồng nghi treo cổ 3 con rồi tự sát

Báo Nguoi-viet

June 28, 2023

LÂM ĐỒNG, Việt Nam (NV) – Đi làm về nhà ở xã N’Thol Hạ, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, bà Cil Ju Ka Tuyên hốt hoảng khi thấy chồng cùng ba con nhỏ chết trong tư thế treo cổ.

Báo Thanh Niên dẫn tin từ ông Nông Văn Hợi, chủ tịch xã N’Thol Hạ, huyện Đức Trọng, cho biết sự việc xảy ra vào khoảng 3 giờ chiều 27 Tháng Sáu. Những người chết gồm ông Lương Đức Chiến, 33 tuổi; cháu Cil Ju Ha M., 8 tuổi; Lương Đức T., 4 tuổi; và Lương Đức Th., 6 tuổi, trong đó cháu Cil Ju Ha M. là con riêng của bà Cil Ju Ka Tuyên với chồng trước.

Lối vào nhà bà Ka Tuyên ở xã N’Thol Hạ, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, nơi xảy ra sự việc. (Hình: N.X/VietNamNet)

“Vụ việc quá thương tâm và đau lòng xảy ra lúc trời đang mưa to. Khi chúng tôi đến hiện trường, người nhà đã đưa bốn nạn nhân xuống đất,” ông Hợi cho biết thêm.

Kể với báo Thanh Niên, chị Cil Ju Ka Th., người nhà bà Ka Tuyên, cho biết bà Ka Tuyên có ba đứa con với chồng trước gồm một gái và hai trai. Sau khi chồng trước bị tai nạn giao thông qua đời, bà Ka Tuyên lấy ông Chiến và sinh được hai đứa con trai là cháu Th. và cháu T.

Nhà bà Ka Tuyên ngay sát nhà cha mẹ đẻ, do được họ cho đất, hỗ trợ xây nhà. Bà Tuyên hằng ngày đi làm thuê cho họ hàng, bà con trong xã, còn ông Chiến làm thợ xây.

Sự việc xảy ra khi bà Ka Tuyên đang đi làm, còn bé gái và bé trai, con riêng của bà Ka Tuyên, đang đi chăn bò.

Chiều 27 Tháng Sáu, khi bé gái đi chăn bò về phát hiện sự việc nên báo cho mẹ biết.

Chị Th. cho biết thêm: “Gia đình hết sức bất ngờ khi nghe tin anh Chiến và ba cháu nhỏ tử vong. Thực sự gia đình không biết lý do gì dẫn đến vụ việc đau lòng như vậy. Cách đây khoảng ba ngày, hai vợ chồng anh Chiến và chị Ka Tuyên có chuyện xích mích nhưng đã giảng hòa rồi.”

Nói với báo Công An TP.HCM, bà Ka Tuyên cho biết cách đây ít ngày, hai vợ chồng có tranh luận về chuyện con cái. Ngoài ra, vợ chồng bà còn nợ khoảng vài chục triệu đồng của người quen khi xây nhà nhưng không bị áp lực, vì người này đã nói khi nào có thì trả nợ cũng được.

Chuyện tưởng như chẳng có gì và sáng 27 Tháng Sáu, bà Ka Tuyên đi làm bình thường, còn ông Chiến nói với vợ sẽ đi làm sau. Tuy nhiên, không ngờ lại xảy ra sự việc đau lòng trên.

Đám tang các nạn nhân. (Hình: Lâm Viên/Thanh Niên)

Đến trưa 28 Tháng Sáu, việc giảo nghiệm tử thi, khám nghiệm hiện trường của các cơ quan hữu trách kết thúc.

Hiện Công An Tỉnh Lâm Đồng đang điều tra nguyên nhân. Bước đầu nhận định ông Chiến sát hại ba con rồi tự tử. (Tr.N)

Ba con dê bị mất từ một nền giáo dục trộm cắp

Báo Tiếng Dân

Blog RFA

VietTuSaiGon

28-6-2023

Những năm sinh viên, tôi và bạn bè gốc quê của mình đi làm thuê, thường thì đi theo nhóm, một nhóm chừng năm đứa, rủ nhau đi làm, có nhóm đi dạy thêm, có nhóm đi làm bồi bàn, có nhóm đi làm thêm những việc có tính chất “thợ đụng”, ai kêu gì làm nấy.

Nhóm tôi ngoài việc đi dạy thêm còn đi làm bồi bàn trong những ngày cuối tuần mới đủ tiền thuê trọ, tiền ăn. Thời gian đi làm thêm cũng là khi tôi nhận ra sự khủng khiếp của thế hệ tôi từ nền giáo dục, một sự khủng khiếp tôi còn mơ hồ khi ở giảng đường và nó hiển hiện rất rõ khi đi làm. Càng về sau, tôi càng thấy rằng với nền giáo dục này, sẽ cho ra những con người trộm cắp toàn diện, ai may mắn lắm mới thoát được nó nhờ vào giáo dục gia đình.

Tôi còn nhớ như in, hình ảnh một thằng bạn chuyên ăn cắp vặt trong lúc bưng thức ăn, khi bưng dĩa chả chiên hoặc món ăn gì đó có thể bốc được, ngang qua đoạn không có ai quan sát, hắn lén bốc một cục bỏ vào mồm, sau đó, miệng thì nhai nhanh, tay thì sửa cho dĩa thức ăn tròn, đều trở lại, hắn làm trong tích tắc.

Nhưng, chuyện ăn cắp thức ăn vì quá đói, dần thành thói quen vẫn chưa có gì đáng kể. Trong một lần nói chuyện với nhau, sau khi nghe một tay giám đốc ngân hàng trò chuyện trên bàn rượu, rằng ông ta tuyển nhân viên toàn nữ, phải đẹp mới tuyển, khi phỏng vấn để nhận người, ông ta chỉ hỏi đúng một câu “em uống được mấy chai?”, nếu trả lời không biết uống và không biết hát karaoke thì ông sẽ không nhận.

Những đứa sinh viên giàu mộng mơ như tụi tôi sẽ rất sốc khi nghe chuyện, nhưng có vài đứa không những không sốc mà lại nhìn thấy cơ hội của mình. Tôi nhớ một đứa bạn đố tôi “giả sử sếp của mi hỏi năm cộng năm bằng mười một đúng hay sai, mi trả lời sao?”. Tôi nói: “Theo toán học thì rõ ràng sai!”. Nó bảo “Mi ngu quá, như vậy là mất việc đó con, mi phải nói lại là nếu sếp nói đúng, thì đó là đúng”. Mấy đứa còn lại vỗ tay khen thằng đó khôn, thông minh. Riêng tôi lúc ấy chỉ thấy ớn lạnh và chán nản, bởi mọi thứ tôi chưa bao giờ hình dung nó tệ mạt như vậy.

Nhưng rồi, khi đi làm việc, tiếp xúc với đủ hạng người, tôi lại thấy thằng kia khôn và đúng, chí ít là nó khôn với tình thế xã hội nó sống và nó đúng cho tương lai của nó, còn mình thì quá ngu, mình luôn tâm đắc với quan niệm “ghét thì nói ghét, thương thì nói thương, đúng sai rõ ràng” nên mình đụng đâu cũng thấy khó, đụng đâu cũng thấy thất bại, đụng đâu cũng gặp toàn oan khiên gai độc. Như vậy là tôi sai sao? Như vậy thì xã hội này trở thành cái nồi lẩu lộn xộn, chẳng còn đúng sai, chẳng còn công lý hay thiên lương sao?

Tôi nghĩ không đến nỗi như vậy, chí ít, vẫn còn rất nhiều người từng thụ đắc một nền giáo dục tốt, và cả những người tuy sống trong lòng chế độ xã hội chủ nghĩa nhưng bản thân họ được thụ đắc nền giáo dục gia đình chỉn chu, họ may mắn học được những làn gió tư tưởng cởi mở, họ biết tự trọng và tin vào sự chân thành, sự thật… Họ vẫn tồn tại đâu đó, không phải ít trong xã hội này. Nhưng tiếng nói của họ trở nên nhỏ nhoi hoặc họ không buồn nói ra tiếng lòng của mình, bởi giữa cái xã hội hổ lốn, họ biết có nói ra cũng bằng thừa, bởi đó là sự hỏng hóc từ kiến trúc thượng tầng, sự hỏng hóc từ nền giáo dục, thì họ nói ra để mà làm gì?!

Một nền giáo dục mà ngay từ nhỏ, cả nhà trường và học sinh đều phải gồng lưng để vừa chạy đua vừa nuốt những chương trình vô bổ, những giáo án , giáo trình vừa xa rời thực tế vừa vặn vẹo dối trá, một mặt ca ngợi chiến công hiển hách cũng như sự lãnh đạo thiên tài của đảng cầm quyền, mặt khác chì chiết, bêu riếu với giọng điệu đầy thù hận đối với bên thua cuộc. Với một nền giáo dục mà khởi sự là một thái độ phi khoa học, phi nhân đạo như vậy, tâm hồn của học trò không thể khai mở một cách bình thường, nếu không muốn nói là tổn thương, méo mó và dị dạng.

Một nền giáo dục mà ở đó, cuộc chạy đua về thành tích gần như bất tận, chạ mẹ phải vã mồ hôi để chạy đua với thành tích của con, còn con thì lao đầu như thiêu thân vào việc học, từ học chính khóa đến học thêm, học kèm và các loại phấn đấu, nỗ lực để có giấy khen, có khen thưởng từ thành tích học tập cũng như thành tích sinh hoạt đội, đoàn, thành tích noi gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Tất cả những thứ vớ vẩn ấy chi phối toàn bộ thời gian và khiến cho bất kì gia đình cha mẹ học sinh nào đều phải xoắn chân, vắt chân mà chạy theo. Nếu chạy theo bằng đường chính không kịp thì chạy theo bằng đường băng. Tức cố gắng cho con học thêm, học kèm, học bồi dưỡng… mà con vẫn chưa đạt được thành tích mong muốn thì mua thành tích. Thời đại thành tích là sản phẩm đặc trưng của nhà trường nên với sản phẩm, người ta mua được nó bằng mọi giá, nếu mua bằng nhiều tiền không được thì mua bằng thật nhiều tiền.

Ngay cả những tấm bằng đại học, cao học của các quan chức lãnh đạo, những thứ mà phải trầy vi tróc vảy mài đũng quần suốt mười hai năm học để thì vào đại học, thì đậu đại học rồi lại mài đũng quần suốt gần năm năm dài để lại thức khuya dậy sớm mà luyện, ôn, thi mới có nó… nhưng người ta có thể dễ dàng nhấc một cuộc điện thoại, chuyển một dãy số trong tài khoản hoặc giả chuyển một cái phong bì thì có tất tần tật, hàng thật, từ chữ ký Hiệu trưởng cho đến con dấu đỏ, có hết. Trong một bầu khí quyển giáo dục mang tính chợ búa và mua bán như vậy, thì lòng thật thà có còn không?

Một khi lòng thật thà không còn, giá thành hàng hóa ngày càng đắt đỏ, người không mua nổi sẽ nghĩ đến chuyện ăn cắp. Bởi bản thân những người làm giáo dục cũng đang ăn cắp, từ ăn cắp lương tâm đến ăn cắp danh dự, ăn cắp sản phẩm giáo dục, ăn cắp thành tích, ăn cắp tài sản quốc gia… thì câu chuyện ăn cắp đâu chỉ dừng ở những người làm công tác giáo dục. Sự ăn cắp nhanh chóng chuyển sang những đứa học trò, những đứa có khả năng học và tiếp thu rất nhanh so với người lớn, chúng có thể phát huy, người lớn biết ăn cắp một thì chúng biết ăn cắp mười.

Chúng không những ăn cắp cây viết của bạn bè, ăn cắp cuốn tập, ăn cắp trái bắp, trái dưa mà chúng sẽ nuôi mộng ăn cắp rừng, ăn cắp biển, ăn cắp khoáng sản, ăn cắp luôn cả thành tựu, thánh tích của người khác, thậm chí ăn cắp cả ý nghĩ của người khác nếu có thể. Bởi ăn cắp đã trở thành sinh quyển của chúng, luật chơi của xã hội và là đường hướng đi đến tương lai.

Trong một xã hội đầy rẫy kẻ cắp, từ nhà trường đã nuôi ý chí ăn cắp, khi đi làm việc, nếu là thầy thuốc, chúng sẽ ăn cắp từng viên thuốc, từng chút dụng cụ, vật tư y tế, nếu làm nhà giáo, chúng sẽ ăn cắp thời gian của học trò bằng cách ém nhẹm, kéo dài bài vở để dạy thêm, dạy kèm, thậm chí toa rập để chạy đua thành tích, đó là chưa nói đến việc ăn cắp giờ giấc để hẹn hò, ngoại tình khi đã có gia đình, nếu làm quan, làm cán bộ thì chúng sẽ ăn cắp tài sản quốc gia, ăn cắp tài nguyên đất nước… Có cả một ngàn lẻ một đường để chúng ăn cắp.

Và hệ lụy của việc ăn cắp đồng loạt này là các quan chức giàu nứt đố đổ vách, công chức giàu sụ, viên chức giàu kếch xù và tất cả đều lấy của ăn cắp để nuôi tham vọng. Tài nguyên quốc gia ngày càng cạn kiệt, kể cả tài nguyên con người. Tài sản quốc dân bị bòn rút đến tận cùng, xã hội trở nên rối ren và đầy rẫy trộm cắp.

***

Chuyện ba công an viên vừa bị bắt ở Hà Nội do bắn trộm dê của dân, làm dấy động dư luận hai ngày nay, thiết nghĩ đó chỉ là chuyện hổ ngươi và đen đủi trong thói quen trộm cắp của công an mà thôi. Bởi công an cũng từng là học sinh xã hội chủ nghĩa, công an cũng là công chức nhà nước, công an cũng là công dân xã hội chủ nghĩa, cũng đều chung một nền giáo dục và thiên hướng chính trị cũng như khuynh hướng tính cách.

Ảnh: Ba cán bộ Công an Thị trấn Đại Nghĩa, huyện Mỹ Đức, Hà Nội bắn trộm dê của dân. Nguồn: Báo Tuổi Trẻ

Thử hỏi: Nếu tất cả cán bộ Việt Nam sống một cách lương thiện, không có thói quen trộm cắp, thì tiền lương của họ có đủ để xa hoa, sa đọa như đang thấy? Và giả sử họ giỏi kinh doanh, thì với những đồng tiền chảy mồ hôi, sôi nước mắt do kinh doanh mà có được, những đồng tiền sạch, họ có dám vứt qua cửa sổ sau một đêm ăn chơi?

Chỉ có tiền ăn cắp, chỉ có thứ tiền có được bởi “một đêm ăn trộm bằng ba năm làm” mới giúp cho cán bộ, công chức, viên chức sẵn sàng vứt nó qua cửa sổ, ăn chơi sa đọa, bất chấp như vậy mà thôi!

Đừng ngạc nhiên khi nghe tin công an hay cán bộ ăn cắp, bởi hằng ngày, họ vẫn công khai ăn chặn, ăn trấn lột bằng hình thức “giữ trật tự an toàn giao thông” với áo vàng, trang phục ngành và lực lượng hỗ trợ, họ vẫn nói năng với dân giống như quân cướp, hỗn hào, vô lễ, mất dạy… Họ có tất! Hằng ngày, họ vẫn ăn cắp, buôn lậu, buôn hàng quốc cấm qua cửa khẩu một cách ngang nhiên, thậm chí rạch vali của hành khách mà lấy trộm đồ đó thôi, họ là những người ưu tú của chế độ đấy!

Đừng ngạc nhiên khi cán bộ ăn cắp, bởi lúc này, việc thụt két nhà nước đã khó hơn rồi, nên chuyện họ sổng ra ngoài, ăn cắp một thứ gì đó của dân mà bị bắt, là do họ xui rủi. Còn ngay từ nền giáo dục, ngay từ tấm bé, họ đã sống trong bầu khí quyển trộm cắp, bởi vậy: đừng ngạc nhiên!