S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Báo chí cách mạng

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

 

Bác sỹ Tom Dooley qua đời năm 1961. Mãi đến vài chục năm sau, tôi mới biết đến tác phẩm đầu tay của ông (Deliver Us from Evil) do Farrar, Straus & Cudahy xuất bản từ 1956. Đây là một tập bút ký, có hình ảnh minh hoạ đính kèm, về cuộc di cư ồ ạt (vào giữa thế kỷ trước) của hằng triệu người dân Việt. Họ ra đi chỉ với hành trang duy nhất là niềm tin vào tình người, và không khí tự do, ở bên kia vỹ tuyến.

Rồi họ đã được tiếp đón, hoà nhập và sinh sống ra sao nơi miền đất mới? Câu trả lời có thể tìm được – phần nào – qua một tác phẩm khác (Sài Gòn – Chuyện Đời Của Phố) của Phạm Công Luận, do Hội Nhà Văn xuất bản năm 2013. Xin trích dẫn đôi ba đoạn ngắn:

“Những người trong giới trí thức, nghệ sĩ miền Bắc chuyển vào Sài Gòn ấp ủ bao nhiêu hoài bão để thực hiện ở quê hương mới. Tuy nhiên, dù có nổi tiếng thì họ cũng phải đối diện với bao khó khăn để hòa nhập vào đô thị mà họ sẽ sống lâu dài này. Báo Đời Mới năm 1954 đã làm một chuỗi phóng sự hồi mới vào của các văn nghệ sĩ, có nhiều chuyện cảm động đáng suy gẫm về những gì họ đã gặp.

Nhà văn Thượng Sỹ, một nhà văn nổi danh từ thời tiền chiến mà trong cuốn Bốn mươi năm nói láo, nhà văn Vũ Bằng thường nhắc tới. Gia đình ông vào Sài Gòn định cư chỉ có bốn người, gồm hai vợ chồng, đứa con nhỏ và chị giữ em. Tuy nhẹ gánh gia đình, tên tuổi từng nổi tiếng là nhà phê bình văn chương, cả nhà ông cũng gặp những khó khăn ban đầu…

 Một bữa, ra chợ mua đồ, bà vợ ông gặp một chị không quen, hỏi thăm qua lại thế nào mà chị nói ngay: ‘Thôi, chị cứ theo tôi về nhà ba má tôi. Chị nhận là bạn cũ của tôi, thế nào ông bà cũng cho ở đậu’. Cả nhà lại đến đó ở, một căn nhà lá rộng rãi ở đường Quang Trung, Gò Vấp. Ông bà chủ nhà đã lớn tuổi, còn làm việc được, chuyên nghề đúc ống cống xi măng.

Ông bà nói ngay với khách lạ :‘Thầy cô cứ ở đây với tôi, khỏi phải mua giường chiếu, mùng mền, đồ bếp, tôi có sẵn cả. Tôi để thầy cô dùng chung. Gạo củi, mắm muối, cứ tự nhiên nấu cơm mà ăn!’ Bà chủ còn nói là bà không lấy một xu nhỏ.

Gia đình Thượng Sỹ ở đó, không muốn lạm dụng lòng tốt của ông bà chủ nhà nên bà Thượng Sỹ xin tự lo ăn uống, chỉ ở nhờ thôi. Ông chủ nhà nói lên điều xuất phát từ đáy lòng : ‘Cô Hai chớ nề hà. Con gái tôi nói cho tôi hay thầy Hai làm báo, nên tôi quý thầy lắm. Vì bấy lâu nay đọc báo, tôi thấy các ông nhà báo luôn bênh vực anh em lao động chúng tôi. Tôi có phải nhịn ăn mà giúp thầy cô, tôi cũng vui lòng!”

Sau này, nhà văn Thượng Sỹ nói với tác giả bài tường thuật thượng dẫn : ‘Tôi cứ tưởng sảy nhà ra thất nghiệp… nào ngờ tôi lại hai lần ‘sa’ vào hai cảnh gia đình lao động. Ấy cũng là tôi hái quả của một cây mà các anh vun bón cho tươi tốt…”

“Các anh” trong câu văn thượng dẫn – tất nhiên – là những nhà báo miền Nam, những người mà độc giả dù có phải “nhịn ăn mà giúp” vẫn cảm thấy “vui lòng” vì họ luôn đứng về phía những người cô thế. Miền Bắc cũng không thiếu những người cầm bút với quan niệm tương tự:

Tam Lang viết Tôi Kéo Xe năm 1932, Ngô Tất Tố sáng tác Tắt Đèn năm 1937, Nguyên Hồng xuất bản Bỉ Vỏ năm1938. Tác phẩm Con Trâu của Trần Tiêu đăng từng kỳ trên báo “Ngày Nay” từ số 140 (ra ngày 10/12/1938) trước khi được in thành sách, vào năm 1940.

“Ngày 14-12-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ‘Sắc lệnh về chế độ báo chí’, buộc người dân ra báo phải xin phép, chấm dứt trên miền Bắc thời kỳ ai muốn làm báo chỉ cần đăng ký mà người dân An Nam được hưởng gần một thế kỷ dưới thời thực dân Pháp.” (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập II. OsinBook, Westminster, CA: 2013). Bắt đầu từ đây thì sách báo hoàn toàn nằm trong tay Nhà Nước, và những người cầm bút buộc phải đứng cùng phe với những kẻ cầm quyền.

Ngày 21 tháng 1 năm 1960, hai công dân Việt Nam (Nguyễn Hữu Đang và Thụy An) bị kết án 15 năm tù vì tội “phá hoại chính trị” và “làm gián điệp” bởi Toà Án Nhân Dân Hà Nội. Vì đây là một phiên “toà kín” nên không ai biết hai nhân vật này đã “phá hoại chính trị” ra sao, và đã “làm gián điệp” cho “thế lực thù địch” nào – ngoài những người làm báo:

  • Báo Thời Mới(21/01/1960): Năm tên gián điệp phản cách mạng, phá hoại hiện hành cúi đầu nhận tội …Nguyễn Hữu Đang và Thụy An, đầu sỏ chủ mưu, bị phạt giam 15 năm và mất quyền công dân 5 năm sau khi hết hạn giam”.
  • Báo Nhân dân (21/01/1960): Trước tòa án, với những bằng chứng đầy đủ, bọn gián điệp nói trên đã nhận hết tội lỗi của chúng.
  • Báo Thủ đô Hà Nội ( 21/01/1960): Tên Nguyễn Hữu Đang thú nhận: “Báo Nhân văn có tính chất chính trị ngay từ số 1. Mục đích của tờ báo là khích động quần chúng cùng với chúng tôi chống lại lãnh đạo”.
  • Báo Văn học (05/02/1960): Nguyễn Hữu Đang thú nhận: “Tư tưởng của chúng tôi là phản động nên chúng tôi ra tờ báo Nhân văn để chống đối lãnh đạo, kích động quần chúng làm áp lực đấu tranh”. Ngoài báo Nhân văn, Nguyễn Hữu Đang còn dùng nhà xuất bản Minh Đức làm một công cụ để chống cách mạng. Y cung khai:“Tôi đã biến nhà xuất bản Minh Đức thành một công cụ chống lãnh đạo.”

 

Không phải là vô cớ mà nhà văn Võ Thị Hảo kết luận : “Cấm báo chí tư nhân là tội ác.” Sự “ác độc” này được duy trì và nuôi dưỡng xuyên suốt gần hai phần ba thế kỷ qua :

  • Ngày 29/11/2006, T.T. Nguyễn Tấn Dũng ban hành chỉ thị 37/2006 kiên quyết không để tư nhân hóa báo chí dưới mọi hình thức.
  • Ngày 3/4/2019, T.T. Nguyễn Xuân Phúc đã ký Quyết định 362/QĐ quy định báo chí là phương tiện thông tin, quan trọng đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.

Cái cách mà Đảng và Nhà Nước xử dụng “công cụ tuyên truyền, vũ khí tư tưởng” từ hơn nửa thế kỷ qua, xem ra, đã trở thành thảm họa :

  • S. Tuấn Khanh: “Cũng cần có lúc, các nhà nghiên cứu về lịch sử nên đặt lại câu hỏi, vì sao ngày 21-6 hàng năm, được gọi là ngày Báo chí Việt Nam, chứ không phải gọi đúng tên là ngày báo chí của đảng Cộng sản Việt Nam?
  • FB Huynh Ngoc Chenh: “Người cộng sản rất tự hào mình là cộng sản tại sao nền báo chí của đảng không mang đúng tên lại phải lấp liếm qua thành báo chí cách mạng?”
  • Nhà báo Phan Anh: “Báo chí nước ta nó đã băng hoại tới mức độ không thể cứu vãn nổi, và nhiều kẻ điều hành nó cũng như những kẻ tham gia đóng góp cho nó đa phần là một lũ vừa ngu dốt vừa vô liêm sỉ đến cùng cực…”

Ông có nói quá chăng?

Câu trả ‘lời’ có thể tìm được qua tiêu đề của dăm/bẩy bản tin, xuất hiện trên “làng báo  cách mạng” vào những ngày tháng gần đây :

Tuổi Trẻ & Thanh Niên sa đọa tới cỡ đó lận sao? Cái được mệnh danh là những “nhà báo cách mạng”, hiện nay, chả lẽ chỉ rặt là một phường vô lại?



 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Chim hót ngoài lồng

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Trong ký ức thơ ấu của tôi, Đà Lạt không phải là nơi có nhiều chim chóc. Ngoài những bầy sẻ ríu rít đón chào nắng sớm trên mái ngói, và những đàn én bay lượn khắp nơi vào lúc hoàng hôn – thỉnh thoảng – tôi mới nhìn thấy vài chú sáo lò cò giữa sân trường vắng, hay một con chàng làng lẻ loi (và trầm ngâm) trên cọc hàng rào.

Chào mào tuy hơi nhiều nhưng chỉ ồn ào tụ họp, giữa những cành lá rậm ri, khi đã vào hè và trái mai (anh đào) cũng đà chín mọng. Họa hoằn mới thấy được thấy đôi ba con chim lạ, đỏ/vàng rực rỡ (chả biết tên chi) xa tít trên những cành cây cao ngất, giữa đồi thông vi vút.

Ở California thì chim chóc nhiều hơn, và cũng dạn dĩ hơn. Tiếc vì vốn liếng tiếng Anh giới hạn (và cơ hội tiếp xúc với thiên nhiên cũng thế) nên tôi chỉ gọi tên được dăm ba loại chim thôi: robin, blue bird, hummingbird, mockingbirdhouse sparrow – sẻ nhà. Nơi đâu có người là có chim se sẻ, tiếng kêu gần gũi thân quen của chúng vào lúc chiều tàn – ở bất cứ phương nao – cũng đều khiến cho tôi cảm thấy được an ủi (phần nào) trong suốt những tháng ngày lưu lạc.

Mãi cho đến những năm gần đây (khi không còn phải bận bịu với chuyện áo cơm) tôi mới có dịp tìm biết thêm ít/nhiều về thế giới của loài chim, qua những tập phim tài liệu, và qua ống kính của giới birder (hay con gọi là birdwathcher) chuyên nghiệp tự quê nhà.

Hôm đầu năm nay, người ngắm chim Huynh Ngoc Chenh mới trình làng một chú Sơn Ca (trông) rất bảnh.

Bên dưới bức ảnh là lời bình của FB Nghiem Vietanh:

“Sơn ca có nhiều tên gọi khác nhau, tuỳ theo địa phương, như chiền chiện; Huế gọi là Cà lơi; Quảng Nam, Quảng Ngãi gọi là Chà chiện, ở bãi sông Hồng còn một loại nữa cũng giống sơn ca nhưng nhỏ hơn và không biết hót, à con sẻ mía. Con của ông Chênh, bắc cờ kêu chiền chiện, con này cũng hót nhưng chỉ hót khi chúng bay trên không trung, nuôi trong lồng chúng không hót …”

Tôi nghe tên Sơn Ca từ khi còn thơ ấu nhưng mãi đến nay mới được thấy hình, và được biết thêm đôi điều lạ lẫm: “Bắc cờ kêu chiền chiện, con này cũng hót nhưng chỉ hót khi chúng bay trên không trung, nuôi trong lồng chúng không hót …”

Hay nhỉ?

Hoá ra có những con chim không hót trong lồng! Chi tiết thú vị này khiến tôi nhớ đến những dòng chữ của Huy Đức trong Bên Thắng Cuộc:

Ngày 14-12-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký “Sắc lệnh về chế độ báo chí”, buộc người dân ra báo phải xin phép, chấm dứt trên miền Bắc thời kỳ ai muốn làm báo chỉ cần đăng ký mà người dân An Nam được hưởng gần một thế kỷ dưới thời thực dân Pháp… Ngày 5-6-1958, dưới sự chủ trì của Tố Hữu, “800 văn nghệ sỹ” đã ký vào một nghị quyết “hoan nghênh kết quả thắng lợi của cuộc đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm”. Ngày 7-7-1958 Ban Chấp hành Hội Nhà văn ra thông báo “kỷ luật nhóm Nhân Văn” ….

Lê Đạt gọi thời kỳ “hậu Nhân Văn” là những ngày “khôn ngoan không dám làm người”. Phần lớn các nạn nhân, vốn là những văn nhân tài hoa, đều phải cúi đầu, tự mình viết bài xỉ vả mình. Họ được ở lại Hà Nội và sau một thời gian lao động phần lớn được trở lại hành nghề. Cũng có những nhà văn, nhà thơ bỏ về rừng như Hữu Loan, Nguyên Hồng. Nhưng, cái giá mà họ và gia đình họ phải trả là vô cùng đau đớn.

Tôi có đọc “Lời Tự Thuật Của Hữu Loan” nên cũng biết qua về “cái giá” mà nhà thơ và cả gia đình phải trả cho quyết định “về rừng” của ông. Kể thì “đau đớn” và khốn nạn thật nhưng vẫn chưa đến nỗi nào, nếu so với tình cảnh của nhiều người cầm cầm bút độc lập hiện nay. Xin ghi lại đôi ba trường hợp.

Trương Duy Nhất sinh năm 1964, bắt đầu viết báo từ năm1987. Đến năm 2011, ông đột nhiên tuyên bố “nghỉ báo viết blog để viết theo lẽ phải!” Nói cách khác, và nói theo cách riêng của TDN, là ông ngang nhiên ra khỏi cái “Hợp Tác Xã Tư Tưởng” của Đảng và Nhà Nước VN.

Tôi không hiểu –  vào thế kỷ trước, ở miền Bắc – khi một nông dân bỏ Hợp Tác Xã Nông Nghiệp thì sẽ bị trừng phạt ra sao nhưng thấy cái giá mà TDN phải trả hiện nay thì cay nghiệt quá, “một đòn thù chính trị đê hèn”: hai cái án tù, tổng cộng là 12 năm chẵn. Cả hai vụ án này – chắc chắn – đã không xẩy ra, nếu bạn Nhất vẫn chịu hót… trong lồng!

Trường hợp chia tay với làng báo quốc doanh của Đoan Trang thì hơi khác, nhẹ nhàng và kín đáo hơn. Nhân vật này lặng lẽ rời bỏ cái Hợp Tác Xã Tư Tưởng VN không một lời tuyên bố hay tuyên ngôn gì ráo. Tuy thế, cái giá mà ĐT phải trả – xem ra – cũng không rẻ lắm. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho RFA, vào hôm 5 tháng 3 năm 2020, cô cho biết:

“Từ khi tôi trở về nước vào năm 2015, về được 3 tháng thì tôi bị công an tấn công trong một cuộc tuần hành cây xanh, chấn thương 2 chân. Sau liveshow ca sĩ Nguyễn Tín năm 2018 thì tôi bị chấn thương ở tay. Sức khỏe của tôi gần như xuống dốc không phanh nên tôi không biết còn chịu được bao lâu.”

Nói tóm lại và nói cho chính xác là ĐT chỉ bị truy sát và truy lùng thôi chứ chưa mất mạng và (cuối cùng) thì chỉ bị tù thôi .

Phạm Chí Dũng, Chủ Tịch Hội Nhà Báo Độc Lập, cũng thế!

Năm 2012 ông bị bắt khẩn cấp vì bị tình nghi biên soạn tài liệu “nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.” Qua năm 2019, ông lại bị khởi tố và bắt giam lần nữa với cáo buộc là đã “đăng 63 bài báo xuyên tạc sự thật, kích động các cá nhân trỗi dậy và lật đổ chính quyền nhân dân, kích động hận thù và cực đoan, đánh lừa mọi người về tình hình kinh tế xã hội nhằm mục đích gây lo lắng công cộng và bất ổn xã hội.”

Tuy không rành rẽ về bói toán hay lý số, tôi vẫn có thể đoán (chắc) được rằng lòng bàn tay của ông Chủ Tịch Hội Nhà Báo Độc Lập có đường tù ngục vì đường này cũng có thể thấy ngay được qua cái chức vụ của ông. Cái gì chứ Độc Lập với Tự Do là “hai món” mà đám cầm quyền ở VN hiện nay tối kỵ (họ nuốt không trôi) nên PCD vướng vòng lao lý là chuyện tất nhiên.

Sau P.C.D đến lượt Phạm Thành, nguyên Phó Trưởng Phòng Đài Phát Thanh Tiếng Nói Việt Nam, vừa bị “tó” tại nhà, với cáo buộc là đã vi phạm Điều 117 Bộ Luật Hình Sự. Điều này có khoản ghi rõ như sau:

“Người phạm tội có hành vi làm ra, tạo ra, xác lập thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân … tạo ra hình ảnh méo mó, phản cảm, sai lệch về việc làm, hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị…”

BBC, nghe được vào hôm 22 tháng 5 năm 2020 ái ngại loan tin:

Blogger ‘Bà Đầm Xòe’, cây bút chỉ trích TBT Nguyễn Phú Trọng bị bắt Cuốn sách “Nguyễn Phú Trọng: Thế thiên hành đạo hay Đại nghịch bất đạo” do ông tự xuất bản năm 2019 đã gây xôn xao dư luận. Nội dung chính cuốn sách “ngoài luồng” này tập trung vào thái độ và hành động của ông Nguyễn Phú Trọng trước Trung Quốc… Trước đó, ông từng tự xuất bản một số cuốn sách khác như “Hậu Chí Phèo”, “Nền Kinh tế Thị trường Định hướng XHCN Xuống hố cả lũ.”

Phen này Phạm Thành chắc chết, chết chắc, với Đảng và Nhà Nước ta chứ chả phải bỡn đâu!

Lê Đạt gọi thời kỳ “hậu Nhân Văn” là những ngày “khôn ngoan không dám làm người.” Xét ra thì thời kỳ “hậu đổi mới” còn ti tiện và tàn tệ hơn nhiều. Dân Việt, tuy thế, vẫn chưa bao giờ thiếu vắng những nhân vật cầm bút vẫn nhất định làm người. Xin chân thành cảm ơn qúi vị.

NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC:-“Giá chúng ta giữ Tây Nguyên như một Bhutan”

Đức Tâm (TBKTSG Online)

Sáng ngày 17-9, nhà văn Nguyên Ngọc có buổi nói chuyện cùng các bạn trẻ TPHCM về Tây Nguyên, mảnh đất mà ông đã gắn bó hơn nửa cuộc đời. Câu chuyện nói về Tây Nguyên nhưng cũng đặt ra nhiều vấn đề xã hội đáng quan tâm trong bối cảnh hôm nay. TBKTSG Online lược ghi.

Tôi lên Tây Nguyên lần đầu năm 1950 và đến nay đã trải qua 66 năm gắn bó với mảnh đất này. Nơi đây không chỉ cứu sống và nuôi dưỡng tôi qua hai cuộc kháng chiến mà còn dạy tôi nhiều điều về minh triết trong cuộc sống.

Tây Nguyên rất đặc biệt, nhưng cũng rất đáng lo. Tôi mong mọi người hãy nghĩ, hãy đến Tây Nguyên và làm gì đó để cứu mảnh đất này.

Nói đến Tây Nguyên là nói đến rừng và làng. UNESCO đã rất tinh tế nhận ra khi công nhận di sản văn hóa thế giới của Tây Nguyên, không phải là cồng chiêng, cũng không phải là âm nhạc cồng chiêng, mà là không gian văn hóa cồng chiêng, tức không gian làng, với rừng của làng. Rừng và làng chính là không gian văn hóa của Tây Nguyên. Không còn hai yêu tố này, sẽ không còn văn hóa Tây Nguyên, hoặc nếu có, cũng không còn là văn hóa thật.

Tây Nguyên - YouTube

Thế nhưng vấn đề quan trọng nhất hiện nay ở Tây Nguyên là sự đổ vỡ của các làng và rừng thì bị tàn phá.

Rừng tự nhiên đến nay đã không còn nữa. Một số bị thay thế bởi cây công nghiệp như cà phê, cao su. Người ta gọi những mảnh đất rộng trồng cao su là rừng cao su. Nhưng nói đến rừng là nói đến tính đa tầng, độ che phủ; là nói đến yếu tố giữ nước. Cao su, rễ cọc, không giữ nước được nên hiểu theo nghĩa tự nhiên, cao su không được gọi là rừng. Rừng tạp mất đi, độ che phủ không còn và rồi Tây Nguyên sẽ mọc lên những rừng gai thấp lúp xúp. Chúng ta sẽ để lại cho con cháu những rừng gai lúp xúp? Chúng ta có muốn như vậy không?

Để khôi phục rừng Tây Nguyên, chúng ta phải trồng lại rừng, tạo rừng đa tạp. Có người hỏi tôi mất bao lâu? Tôi cho rằng chúng ta phải thực hiện trong 100 năm. Gì mà nhiều vậy? Thử nghĩ xem, 41 năm qua, mình đã khai thác rừng cạn kiệt mà. Giờ phải kiên trì trồng lại, cắn răng mà làm và 100 năm là không nhiều. Nếu không có rừng thì không còn Tây Nguyên đâu.

Chúng ta cần phải cứu Tây Nguyên. Đây là một tấm gương về nông nghiệp sinh thái, phụng dưỡng đất đai. Tôi bảo người Tây Nguyên là những nông dân Mansanobu Fukuoka. Họ làm nông nghiệp giống hệt như người cha đẻ của “Cuộc cách mạng một cọng rơm”, không hóa chất, không thuốc trừ sâu với phương pháp chọc tỉa. Người chồng đi trước, dùng cây gậy chọc xuống đất, người vợ theo sau, tỉa hạt rồi dùng chân lấp đất lại. Họ rất tin đất đủ sức mạnh nuôi cây trồng. Họ không làm lười đất bằng phân bón.

Trước đây, dân số Tây Nguyên không nhiều. Với đất nước, họ là dân tộc thiểu số nhưng trên mảnh đất Tây Nguyên, họ chính là đa số tuyệt đối. Mỗi gia đình có 10-20 rẫy. Mỗi rẫy họ trồng 3-4 năm, đất bạc màu thì chuyển qua rẫy khác. Lúc đầu chúng tôi gọi là luân canh, nhưng luân canh dễ gây hiểu nhầm rằng trồng cây này rồi chuyển sang cây khác. Do vậy, sau, chúng tôi gọi là luân khoảnh. Lưu ý, họ luân khoảnh chứ không du canh du cư như ta từng nghĩ.

Trong tư duy người Tây Nguyên, đất chính là rừng và rừng chính là đất. Đất rẫy là khoảnh đất mà con người ở đây mượn của rừng, làm rẫy, rồi trả lại cho rừng. Rừng mạnh lắm, sẽ lấn lại ngay. Người Kinh thấy rừng là gỗ, còn người dân tộc thấy rừng là Mẹ, là cội nguồn sự sống, là tôn trọng, là phụng dưỡng. Đây cũng chính là bài học tôn trọng tự nhiên và sống khiêm nhường giữa trời đất.

Sau năm 1975, chúng ta thực hiện một cuộc đại di dân và dân số Tây Nguyên tăng gấp 5,5 lần, đến nay người Kinh chiếm 80% dân số tại đây và người dân tộc, từ tuyệt đại đa số, trở thành thiểu số trên chính mảnh đất xưa nay họ sinh sống. Đi kèm với di dân là chính sách quốc hữu hóa đất đai. Người dân tộc mất đất, trước họ có 10-20 rẫy, nay còn một, làm một thời gian, bạc màu, đâu còn đất để luân khoảnh, họ bán rẻ lại cho người Kinh, thậm chí cho không qua một cuộc rượu. Người dân tộc mất đất, bị đẩy sâu vào rừng, rồi sinh ra phá rừng và bắt đầu du canh du cư. Cấu trúc làng xã bị phá vỡ. Rừng bị tàn phá.

Các tộc người Tây Nguyên cũng rất văn minh. Với họ, loạn luân được xem là tội nặng nhất vì làm ô uế tinh thần của làng. Họ đặt tinh thần cao hơn vật chất trong đời sống của họ. Như vậy không văn minh sao?

Họ có một nền văn minh rất đặc biệt mà người Kinh nên tôn trọng, học tập. Ngay từ năm 1937, hai anh em Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi, qua tác phẩm Mọi Kontum đã viết, “Người Bahnar có những điều tốt hơn hơn chúng ta rất nhiều”.

Xin nói qua từ mọi. Lâu nay chúng ta hiểu sai từ mọi và càng sai khi dùng từ mọi rợ theo nghĩa khinh miệt để chỉ các tộc người Tây Nguyên.

Thật ra, từ mọi vốn ban đầu không hề có ý nghĩa xấu. Nó bắt nguồn từ từ tơmoi trong tiếng Bahnar, có nghĩa là khách đến thăm nhà mình; hoặc khách mời từ một làng khác đến; hoặc kẻ thù hoặc người ngoại quốc theo từ điển Bahnar – Pháp của Guilleminet. Những người phương Tây đầu tiên lên Tây Nguyên là các linh mục Thiên chúa giáo. Họ đến được vùng người Bahnar ở Kon Tum, lập xứ đạo Kon Tum, là xứ đạo Thiên chúa giáo đầu tiên tại đây, đến nay vẫn là xứ đạo Thiên chúa lớn nhất và quan trọng nhất ở Tây Nguyên. Bấy giờ những người Bahanr Kon Tum đến gặp các nhà truyền giáo thường xưng là tơmoi, là khách. Các nhà truyền giáo lại hiểu rằng đấy là họ tự giới thiệu tên tộc người của họ. Về sau dần dần tiền tố tơ bị rớt đi, còn lại moi, moi nghiễm nhiên trở thành tên gọi người bản địa. Người Pháp gọi là moi, người Việt gọi là mọi, hoàn toàn là một danh xưng.

Nói tiếp chuyện văn minh. Tôi lấy ví dụ về nghệ thuật. Trong nghệ thuật Tây Nguyên, tượng nhà mồ Tây Nguyên là những tác phẩm đẹp tuyệt vời. Họ làm rồi bỏ hoang và để mưa gió tàn phá.

Tôi từng thấy một bức tượng gỗ tuyệt đẹp. Hỏi dò thì biết một thanh niên kia làm. Trong chờ bữa rượu, tôi hỏi chàng thanh niên đó xem ở nhà còn bức tượng tương tự nào không. Đột nhiên anh ta nổi giận: “Nói tầm bậy”. Và những thanh niên trong xung quanh cũng bày tỏ thái độ như vậy.

Sau, tôi được anh Núp, một người bạn của tôi ở Tây Nguyên giải thích rằng với họ, làm nghệ thuật không phải để ngắm hay để bán mà làm vì có cái gì đó thôi thúc trong lòng, cần làm để bày tỏ lòng ngưỡng mộ với thần linh. Họ thăng hoa trong quá trình làm ra tác phẩm chứ không phải lúc tác phẩm hoàn thành.

Tôi chia sẻ điều này với một người bạn học nghệ thuật ở Frankfurt – Đức và cô rất ngạc nhiên bởi nó giống như quan điểm của nghệ thuật đương đại, tức nghệ thuật là con đường chứ không phải đích đến. Cô bạn lên Tây Nguyên khám phá rồi mời vị giáo sư của mình bên Đức sang. Vị giáo sư sang xong rồi lại dẫn cả lớp của ông ấy sang.

Sau năm 1975, giá như chúng ta dũng cảm giữ Tây Nguyên như một Bhutan thì thật tốt. Chúng ta sẽ có một tấm gương để học cách sống sao cho có hạnh phúc, sống thế nào để khiêm nhường với trời đất.

Emerging Ethnobiologists: Forest of Bhutan I. The biodiversity of the ...

Ngày xưa người nông dân không dám làm điều ác, họ sợ thất đức. Ngày ngay, xã hội không còn khái niệm về thất đức nữa. Người nông dân, những người bình thường nhất, đã không còn sợ cái ác, không còn sợ làm điều ác. Và đây là điều đáng sợ nhất. Con người, ở giữa đất trời, sống vô thần và không biết đến trời đất thì nguy hiểm quá.

Nay tôi đã 84 tuổi, tính tuổi ta thì 85. Những năm cuối đời, tôi sẽ viết để kể với mọi người về một nền văn minh ở Tây Nguyên, rằng chúng ta có một nền văn minh như thế. Tôi sẵn lòng đi chia sẻ để nói tất cả mọi điều về Tây Nguyên. Tôi  mong khơi gợi trong các bạn lòng ham muốn hiểu về Tây Nguyên và tìm được người kế tục để sau cùng có thể cùng chung sức cứu được Tây Nguyên.

Ảnh: NV Nguyên Ngọc và Anh hùng Núp.

 From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen


 

NHÀ VĂN TRẦN ĐĨNH – Người Tiết Lộ Những Chuyện “Động Trời”

Tuấn Khanh

Giới văn chương không chịu sự kiểm soát của Nhà nước, đã công khai bày tỏ sự thương tiếc với tin nhà văn Trần Đĩnh từ trần ngày 12 tháng năm năm 2022 tại nhà riêng ở Sài Gòn, hưởng thọ 93 tuổi. Trên các trang cá nhân, nhiều người đã viết những dòng kính trọng với một nhà báo, nhà văn suốt đời lận đận vì sự thật. Không thấy có dòng nào đưa tin về sự ra đi của ông trên báo chí nhà nước.

Tác phẩm gây sốc dư luận của nhà văn Trần Đĩnh, là bộ sách Đèn Cù. Trong một lần trò chuyện tại Sài Gòn, ông cho biết đã ôm ấp ý tưởng viết bộ ký lịch sử này, và thực hiện trong hơn 10 năm. Năm 1991, ông tạo những phác thảo đầu tiên và đến năm 2014, khi dàn khoan HD981 của Trung Cộng xuất hiện ở vùng biển thuộc chủ quyền kinh tế thuộc Việt Nam, ông quyết định gửi đi tại Mỹ (nhà xuất bản Người Việt Books). Tức thì cuốn sách gây rúng động với những câu chuyện kể đời làm báo của ông, và những điều mắt thấy tai nghe liên quan đến nhiều nhân vật quan trọng của Đảng Lao Động và Đảng Cộng sản Việt Nam.

Giải thích việc gửi ra nước ngoài in sách, ông Trần Đĩnh nói rằng “Tôi muốn nói rõ một điểm: tôi gửi in ở ngoài vì ở trong nước không ai in và phát hành cho tôi, không phải tại vì sách có nhiều bí mật. Hai lý do khác nhau.”

Cuộc đời của nhà văn Trần Đĩnh, người cầm bút hơn 70 năm, bắt đầu với công việc ký giả cho tờ Sự Thật – một tờ báo chủ đích tuyên truyền do Trường Chinh làm Tổng biên tập. Nhà văn Trần Đĩnh sinh năm 1930. Năm 16 tuổi ông tham gia Việt Minh theo lời kêu gọi yêu nước, chống Pháp. Do làm việc trong một cơ quan báo chí cao nhất của Đảng, ông có cơ hội gặp gỡ hầu hết các khuôn mặt của chế độ từ Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, tới Lê Đức Thọ, Hoàng Tùng, Đỗ Mười… và những quan hệ này – như theo ông tâm tình trên BBC – đã giúp ông sớm nhận ra khuôn mặt thật của giới lãnh đạo cộng sản.

Trần Đĩnh thuộc lớp đảng viên tiên phong gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1948. Ông là người được tin cậy để được trao nhiệm vụ chấp bút tiểu sử của ông Hồ Chí Minh, chấp bút những tự truyện của nhiều nhân vật như Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Bùi Lâm, Nguyễn Đức Thuận… nên những gì ông kể trong bản văn Đèn Cù, là có thể tin cậy được.

Khi Đảng Cộng sản Việt Nam đưa vấn đề chọn lựa tư tưởng Mao để chống xét lại, tức là chống lại chủ trương sống chung hoà bình do Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô lúc bấy giờ là Nikita Khrushchev đưa ra, theo Trần Đĩnh, ông đã ủng hộ lập trường của Khrushchev và chống tư tưởng Mao, nên bị ghép vào tội “chống đảng”. Mặc dù không bị bắt như anh ruột ông là Trần Châu, hay như những người khác như Hoàng Minh Chính, Vũ Thư Hiên, hoặc phải sống lưu vong như Nguyễn Minh Cần…, nhưng ông bị đày đi cải tạo lao động. Sau đó, tuy ông được xét làm báo trở lại nhưng với điều kiện: Không được ký tên Trần Đĩnh, chỉ viết về nông nghiệp, và không được viết anh hùng, chiến sĩ thi đua và cấp ủy cao. Cuối cùng là không được ở gần thanh niên, bởi sẽ gây tiêm nhiễm tư tưởng phản động cho thế hệ trẻ. Sau khi đất nước thống nhất, năm 1976 Trần Đĩnh bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam.

Bộ sách 600 trang của ông Trần Đĩnh đã tiết lộ nhiều chuyện “động trời”, trong đó, một trong những chuyện được nhiều người Việt trong và ngoài nước đọc qua, đã bàn tán không ngớt như chuyện ông Hồ Chí Minh và Trường Chinh cải trang đến tham dự buổi đấu tố cụ bà Nguyễn Thị Năm (Cát Hanh Long): “Cụ Hồ bịt râu đến dự một buổi và Trường Chinh thì đeo kính râm suốt.” (trang 84).

Đã có lần trong một cuộc phỏng vấn, khi được hỏi là những điều ông kể có chứng cứ không, ông Trần Đĩnh đã bật cười nói “Nó là cuộc đời tôi, diễn ra chung quanh tôi. Rất nhiều người cùng thời với tôi chứng kiến nay đã chết, họ đã mang những chứng cứ đó xuồng mồ, nên tôi phải viết lại”.

Câu trả lời thú vị nhất của ông, là khi được hỏi ông viết cuốn hồi ký với nhiều chi tiết gây sốc này, với mục đích gì. “Đèn Cù là tiếng kêu đau của tôi”, nhà văn Trần Đĩnh nói. Ông mô tả rằng người ta làm và sống với những điều tự nhiên, như đau thì phải kêu, và thấy sự thật, phải kể lại. “Đến lúc tôi phải viết xuống vì không thể để ai bịa đặt hay muốn nói như thế nào cũng được”, nhà văn Trần Đĩnh nói.

Lúc sinh thời, trong thời gian sống và làm việc tự do ở Sài Gòn, nhà văn Trần Đĩnh còn là dịch giả của nhiều tác phẩm văn học, như Linh Sơn của Cao Hành Kiện, Ngầm của Murakami Haruki.

Sau khi sách Đèn Cù trở thành một cú chấn động trong đời sống của người đọc sách, người quan tâm chính trị, báo chí nước ngoài gọi điện thăm hỏi rằng ông có bị khó dễ gì vì bộ sách này hay không, ông trả lời “Tôi đã đến tuổi không còn thấy điều gì làm khó được mình”.

Tuấn Khanh
Ng: Anh Huy.

From: Tu-Phung


 

Việt Nam Hôm Nay – Đỗ Duy Ngọc

Nhóm Thân Hữu NNHN

“Đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào.

Đánh cho chết mẹ đồng bào miền Nam…”

– Bùi Giáng (?)

  1. Chơi  thể thao

Nhiều bữa không ngủ được, nằm nghĩ toàn mấy chuyện tào lao.  Ví dụ như những năm sau 1975, cơm không có mà ăn; ăn toàn bo bo với khoai mì, thức ăn toàn cá ươn và rau héo. Lúc đó chỉ mong có bát cơm trắng, bữa cơm có thịt. Giải trí thì chỉ quanh quẩn mấy bài ca cách mạng; thể thao thì chỉ loanh quanh bóng đá, bóng chuyền.

Thời mở cửa, tiền bạc khá hơn, đời sống được nâng cao, bắt đầu xuất hiện phong trào chơi “Tennis.” Thật ra trước 75, ở miền Nam, “Tennis” cũng là bộ môn có khá nhiều người chơi, nhưng toàn là tướng tá, nhà giàu, công chức cấp cao vì sân “Tennis” không nhiều mà dụng cụ thì giá rất đắt.

Từ cuối thập niên 80, phong trào chơi “Tennis” nở rộ; sân “Tennis” mở ra nhiều; Vợt, banh, giày, vớ, áo quần được nhập về; và “Tennis” lúc đó là thú chơi của người có tiền, nhất là cán bộ. Ra đường mà mặc bộ đồ đánh “Tennis” trắng, giày hiệu Adidas, Nike… với vợt hiệu Wilson, Head… chính hãng là quý tộc rồi.

Vẫn biết đó là môn thể thao để mang lại sức khoẻ. Thế nhưng lắm người đến với bộ môn này để khoe khoang. Thời đó là thú chơi trưởng giả, có “đẳng cấp” cao trong xã hội.

Ngồi đâu cũng nghe bàn về “Tennis,” thể hiện đẳng cấp.  Dần dà, khi phong trào “Golf” du nhập vào, nhiều sân “Golf “xây lên, 18, 36 lỗ đều có đủ. Người ta lấy luôn đất sân bay làm sân “Golf.” Từ đó “Tennis” thành trò chơi bình dân, ít vốn, không còn được nhắc đến nhiều nữa.

Từ đấy “Golf” mới là quý tộc, là đẳng cấp, là dân chơi thứ thiệt.  Đi vào thế giới của trưởng giả, của trọc phú, của doanh nhân, của cán bộ đều bàn chuyện “Golf”; và giá cả của các món đồ phục vụ thú chơi này với giá cao ngất ngưỡng.

Tennis” xuống giá. “Golf” lên giá.

Giá trị của “đẳng cấp” đã thay đổi.

  1. Chuyện ăn chay / ăn thịt

Một thời người ta mong có miếng thịt mỡ để có chất béo, để rán, để chiên. Mong có miếng thịt nạc để có thêm chất đạm.

Đến khi mở cửa, thức ăn tràn trề, thích gì có đấy, chỉ sợ không có tiền thì lại rộ lên phong trào ăn chay.

Doanh nhân bạc tỷ cũng ăn chay; nghệ sĩ, người mẫu cũng ăn chay; tu cũng chay mà không tu cũng chay.  Tiệm cơm chay mở ra tràn ngập, bình dân có, sang chảnh có. Đi đâu cũng nghe bàn chuyện ăn rau cỏ. Vào nhà hàng sang trọng, giá cả trên trời cũng chỉ gọi món rau trộn. Ăn chay trở thành phong trào, trở thành mốt thời thượng.

Ngược với ăn chay lại có một xu hướng kiếm ăn thịt thú rừng.  Thú càng hiếm càng quý, càng được săn đuổi. Thưởng thức thịt rừng là một thú vui quý tộc. Ăn những món ăn bình thường là tầm thường, phải tay gấu, óc khỉ, mật rắn, chồn hương, tê tê…  rồi sừng tê, mật gấu, cao hổ, nhung hươu mới là dân chơi thứ thiệt.

Chay hay mặn…  Cán bộ ta toàn là dân chơi thứ thiệt!

  1. Chuyện cúng bái / mê muội

Từ chuyện ăn chay lại dẫn đến chuyện tu hành.  Xã hội càng tàn bạo, khát máu, bạo lực, lừa lọc, dối trá, láo toét thì người nói chuyện tu hành, kinh kệ càng nhiều.  Chùa chiền mọc lên như nấm.

Thằng du đãng giết người cướp của, bà cho vay nặng lãi, chứa gái, buôn ma tuý, cán bộ tham nhũng, cướp đất của dân ngày rằm, mồng một, lễ, vía… đều mang tiền, dâng hương, vàng mã cúng lạy Phật.  Họ cầu chức, cầu tiền, làm ăn phát đạt. Họ cầu giàu càng giàu thêm, ghế càng cao thêm, chức tước bổng lộc càng nhiều hơn.

Bởi có chức là có tiền, có nhà to, có đô la, hột xoàn, vàng ký.

  1. Chuyện tu theo phong trào

Chưa bao giờ mà câu “A-Di-Đà-Phật” lại xuất hiện nhiều trên cửa miệng dân gian nhiều đến thế.  Nó tràn đầy trong các mạng xã hội, đầy dẫy trong các “comment.”  Tự hỏi họ có hiểu câu ấy muốn nói điều gì, ẩn chứa tư tưởng gì, chắc hẳn chẳng mấy người hiểu.

Họ bắt con chim đang sống tự do trên trời, con cá đang sống hạnh phúc dưới nước nhốt vào lồng, vào chậu, giam đói, chết khát rồi đúng giờ, đúng ngày đem thả ra gọi là phóng sinh.  Sát sinh chứ phóng sinh nỗi gì?

Tu theo phong trào, đọc kinh ê a theo phong trào, dạy người khác đạo lý, tín điều cũng theo phong trào.  Trở thành một xã hội cuồng tín và mê muội.  Một thời loạn tăng, loạn pháp…

Một số không ít thầy tu thuyết pháp toàn nói chuyện vớ vẩn, phản khoa học, công kích, nói xấu các tôn giáo khác.  Xu nịnh người giàu, coi thường kẻ nghèo, cứ bước vào chùa là thấy rõ. Chùa thành doanh nghiệp,  thầy tu thành doanh nhân,  loạn xà ngầu cả lên.

  1. Phong trào từ thiện

Bản chất của việc từ thiện là sự chia sẻ, là chuyện tốt, Nhưng làm từ thiện mà khoe khoang cho tất thảy mọi người, mà tự hào xem đó là công trạng thì chưa hiểu hết nghĩa bố thí của nhà Phật.

Vật để cho là mối liên kết giữa người cho và kẻ nhận. Vật này trước tiên hết phải thuộc về người cho sở hữu, nghĩa là nó là vật của người cho (chứ không phải là lấy của người, hay của công rồi đem cho!).

Cho một vật không phải của mình thời không thành nghĩa bố thí được. Sau khi cho, vật ấy trở thành vật của người nhận, và người cho không còn quyền hạn gì đối với vật ấy nữa.  Cho như thế có nghĩa là “xả bỏ” các sở hữu của mình, “xả bỏ” những gì mà mình có.

Còn cho rồi mà vẫn cầu ân, kể lể thì đó chỉ là làm cho cái tôi của mình chứ chẳng phải vì tha nhân.

  1. Chuyện chơi lan, chơi “Bonsai” đột biến

Chơi lan, chơi “bonsai là thú vui tao nhã.  Nhưng rồi người ta không dừng lại đó, đưa tới chuyện phá rừng, cưa cây đem về trưng bày trong vườn nhà.

Cây trăm năm trong rừng già biến thành chậu “bonsai” cho lớp người nhà giàu mới. Cây lan biến hoá thành đột biến giá cả trăm tỷ đồng.

Những thú chơi thanh lịch ngàn năm biến thành những trò cờ bạc, lọc lừa.

  1. Phong trào lạ – Mặc quân phục lính Mỹ, lính VNCH và hát nhạc lính miền Nam.

Có một hiện tượng khó mà cắt nghĩa được là hiện nay ở miền Bắc có phong trào mặc quân phục lính Mỹ, lính Việt Nam Cộng Hoà, hát nhạc lính miền Nam rất rầm rộ.

Họ tụ tập thành hội đoàn rất đông, có tổ chức đàng hoàng dù ngày xưa chửi Mỹ, hô hào “Đánh cho Mỹ cút, Nguỵ nhào!” Nam thanh, nữ tú đủ cả.  Mỗi lần họ tập họp nhìn y như cả tiểu đoàn quân đội VNCH đang chuẩn bị hành quân diệt cộng!

Nhìn mặt họ hân hoan, sung sướng, tự hào, thoả mãn mới chết người!

Thế là sao nhỉ?

  1. Chuyện Phản quốc (?)

Cũng một thời, người ta toàn nói chuyện yêu nước thương dân, lòng ái quốc, nghĩa đồng bào.  Những gia đình vượt biên bị niêm phong với dấu đỏ lòm là phản quốc.

Giờ thì ngồi đâu cũng nói chuyện Mỹ, chuyện Pháp, chuyện Anh.  Người Việt ngày xưa trốn chạy, vượt biên giờ trở thành “khúc ruột ngàn dặm.

Con cán bộ từ cấp trung đến cấp cao đều du học Mỹ. Nhiều cán bộ chưa về hưu đã có thẻ xanh lận túi, chờ đến giờ là vọt qua Mỹ.

Thế mới thấy trên đời này mọi giá trị chẳng có chi là vĩnh cửu.

  1. Chuyện giàu sang

Trong tiếng Việt chữ giàu đi với chữ sang.

Nhưng thời nay, giàu tiền thì nhiều nhưng mà sang thì không có mấy.  Đốt đuốc cũng khó tìm ra.  Bởi sang nằm trong cốt cách, trong cách ứng xử, trong trí tuệ, trong ngôn ngữ thể hiện, trong điệu đi, cách nói, kiểu cười.

Chẳng phải chơi “Golf” mà sang. Cũng chẳng phải có cây hoa quý đắt tiền mà sang. Cũng chẳng phải tiền muôn, bạc tỷ mà sang.

Chẳng phải có chút sắc đẹp, có chút địa vị xã hội, có hột xoàn cả ký, có nhiều người xu nịnh tiền hô hậu ủng mà sang…

Hết biết!

Đỗ Duy Ngọc

Trần Văn Giang (ghi lại)

NHỮNG ĐIỀU LẠ LÙNG TRONG VỤ ÁN BÁC SĨ NGUYỄN MINH QUÂN

Chau Trieu 

Mọi người còn nhớ: Tháng 11/2021, vụ bác sĩ Nguyễn Minh Quân, GĐ BV Thủ Đức bị bắt, đã làm ồn áo dư luận, làm tốn rất nhiều giấy mực của báo chí một thời gian.

Ngày nay, việc một tay bác sĩ GĐBV bị bắt, nhiều nhung nhúc như dòi trong đống phân lâu ngày, có gì đáng quan tâm. Nhưng riêng ở vụ án này có rất nhiều điều lạ lùng, về số lượng bị can, về thành phần tham gia chạy án, về số tiền chạy án cực khủng, là tổng cộng hơn 3,7 triệu USD.v.v..

https://nld.com.vn/…/cuu-giam-doc-bv-thu-duc-lap-4-cong

Thứ nhất:

Các đối tượng tham gia chạy án:Một ê kíp tham gia chạy án gồm: Hai cán bộ CA trong Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu; là luật sư Bùi Thị Hồng Giang; là tổng GĐ công ty truyền thông Du lịch Việt Trần Văn Long. Cuối cùng là thượng tọa Thích Đồng Huệ.

Thứ hai:

Thủ đoạn lập sân sau của Nguyễn Minh Quân: Tất cả những ngón nghề này Quân đều được “học tập và làm theo tấm gương” mụ phù thủy Nguyễn Thị Kim Tiến. Mụ Tiến kim tiêm chẳng những lập sân sau, mà trắng trợn và liều lĩnh hơn là bảo kê cho tập đoàn Vn Pharma buôn thuốc ung thư giả, làm chết hàng trăm bệnh nhân nghèo.

Trước tội trạng động trời như thế, nhưng cuối cùng mụ Tiến chẳng bị rụng một cọng lông nào. Sau gần 2 nhiệm kỳ ngồi chót vót trên ghế quyền lực để vơ vét, khi bị dư lận phản ứng dữ dội, thì mụ Tiến được ưu ái nhảy sang làm trưởng ban bảo vệ sức khỏe TƯ, chiếc ghế đầy quyền lực, lại tha hồ vơ vét.

Thứ ba:

Thầy chùa cũng tham gia chạy án. Trong vụ án này, có một nhân vật mà khi nghe tên làm dư luận hết sức ngỡ ngàng. Đó là thượng tọa Thích Đồng Huệ, tên thật là Nguyễn Ngọc Triệu.

Nhà sư này với đống chức vị khủng khiếp, mà khi bạch hóa ra không khỏi làm người ta choáng ngợp: Là Ủy viên Hội đồng Trị sự TƯ GHPGVN, Phó ban Phật giáo Quốc tế TƯ, Phó ban Thường trực Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Hà Giang, Hội trưởng Hội Phật giáo Việt Nam tại Angola, Hội trưởng Hội Phật giáo Việt Nam tại Mozambique, trụ trì chùa Nôm (tỉnh Hưng Yên) và chùa Quan Âm (tỉnh Hà Giang), đại biểu HĐND tỉnh Hà Giang nhiệm kỳ 2021 – 2026.v.v.

Điều buồn cười là vị tu sĩ Phật giáo quốc doanh này đã kịp thời trút bỏ áo cà sa 2 ngày trước khi bị bắt, với lý do bị bệnh hiểm nghèo.

Thế mới biết sư sãi quốc doanh ngày nay kiêm nhiệm nhiều nghề tay trái. Như chùa Phúc Khánh của nhà sư Thích Thanh Quyết, hoạt động dâng sao giải hạn, đón hàng nghìn người đến giải hạn sao La Hầu, ngồi bót kín các lối đi. Như chùa Ba Vàng (Quảng Ninh),với ngón nghề bịp bợm “vong báo oán”, “giải nghiệp”,mỗi năm thu hàng trăm tỉ đồng.

Như chùa giác ngộ của Thích Nhật Từ, ngoài việc rao giảng nghệ thuật phòng the, cách làm tình sao cho đạt cực khoái.v.v. Trần Ngọc Thảo còn kiêm nghề thầy kiện, vu khống, kiên quyết đẩy cụ Lê Tùng Vân, đáng tuổi ông nội của Từ vào tù bằng mọi giá.

Nay thêm Thích Đồng Huệ không biết có lo việc Phật sự cho tín đồ hay không, nhưng kiêm nhiệm nghề chạy án là thu bộn tiền.

“Theo lời khai của Tuấn, sau khi nhận 1 triệu USD từ Nguyễn Minh Quân, Tuấn đã 6 lần mang đến Chùa Nôm đưa 970 nghìn USD Thượng toạ Thích Đồng Huệ”.

Thứ tư là:

“Trong vụ này, ông Quân được đánh giá là chủ động khai báo trước khi bị phát giác nên được miễn trách nhiệm hình sự”. Làm gì có chuyện tên kẻ cắp khi chưa bị phát hiện, mà tự giác đi thú nhận tội lỗi mình ăn cắp bao giờ? Hay là cái này đã được quy đổi thành tiền?

Thứ năm:

Mất bò mới lo làm chuồng: “Cơ quan CSĐT Bộ Công an kiến nghị nâng cao “kiểm soát quyền lực” của người đứng đầu bệnh viện sau loạt vụ án liên quan đến đấu thầu mua sắm thiết bị y tế”.(VTC NEWS ngày 17/6/2023).

Hóa ra mấy chực năm nay, vì BCA chưa khuyến cáo, chưa kiến nghị nâng cao “kiểm soát quyền lực” , nên bọn quan tham tha hồ lộng hành?

Câu hỏi đặt ra là: Nếu vụ án này trót lọt thì hơn 3,7 triệu USD do Nguyễn Minh Quân chạy án(Vn Express ngày 8/9/2022), sẽ chui vào túi ai. Và còn bao nhiêu vụ chạy án khủng khiếp đã “trót lọt chui qua lỗ Kim” mà không bị phanh phui?

tn 17/6 – Thao Ngoc

Nhân bi kịch ở Đăk Lăk, nhắc lại đôi điều “ôn cố tri tân”

Báo Tiếng Dân

Lê Nguyễn

18-6-2023

Tổng thống Ngô Đình Diệm (ngồi) và anh trai là Giám mục Ngô Đình Thục (áo đen) trong một buổi lễ đón năm mới ở Tây Nguyên năm 1957. Ảnh: John Dominis/LIFE

Tôi muốn gọi những biến động vừa xảy ra ở Daklak (xưa viết là Darlac) là một bi kịch, bi kịch trong mối quan hệ giữa những tộc người đã chung sống với nhau hàng ngàn năm qua, từ khi “nước sông không phạm nước giếng” đến những năm dài chan hòa cuộc sống, và gần đây là những trận đụng độ kinh hoàng.

Lịch sử ghi chép rằng, cho đến thời các chúa Nguyễn, nơi sinh sống của các tộc người trên Tây Nguyên ngày nay vẫn được gọi là “nước”. Năm 1751, đời chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, (trích) “Thủy Xá, Hỏa Xá vào cống. Hai nước ở phía trên nước Nam Bàn (khi Lê Thánh Tông đánh được Chiêm Thành, dòng dõi nước ấy làm vua nước Nam Bàn, cắt cho đất từ núi Thạch Bi về phía Tây), thôn lạc có hơn năm chục, giữa có núi Bà Nam rất cao, vua Thủy Xá ở phía Đông núi, vua Hỏa Xá ở phía Tây núi. Buổi quốc sơ, vì cớ họ giáp giới với Phú Yên, cứ 5 năm một lần sai người đến các nước ấy cho quà (áo gấm, mũ, nồi đồng, chảo sắt và chén đĩa bằng sứ). Vua hai nước ấy nhận được vật cho, tức thì sắm sửa phẩm vật địa phương (kỳ nam, sáp ong, nhung hươu, mật gấu, voi đực) để hiến. Tới đây, sai sứ sang cống. Chúa hậu tứ rồi cho về”. (Hết trích) – (Đại Nam thực lục – Tập một – NXB Giáo Dục 2002, trang 157).

Xem như thế, thấy rằng thời các chúa Nguyễn, chúa chủ động thể hiện tình lân bang bằng cách cho mang quà tặng hảo trước cho những sắc tộc sống ở Tây Nguyên ngày nay. Đó là cách thu phục chính danh nhất của kẻ bề trên, khiến người dưới chiếu cảm kích mà tuân phục. Năm 1794, dù cho cuộc chiến với nhà Tây Sơn đang hồi gay cấn, song khi vua Thủy Xá ở Tây Nguyên lên ngôi, chúa Nguyễn Ánh vẫn không quên ban phẩm vật cho, và vị vua này đã “sai man thuộc đến thông hiếu ở thượng đạo Phú Yên, xin làm phiên thuộc và xin ban ơn cho” (Đại Nam thực lục – sđd, trang 311).

Năm 1803, khi vua Gia Long đã thống nhất đất nước, vua hai nước Thủy Xá, Hỏa Xá lại sai sứ đến quy phục tại Phú Yên, vua lại sai ban phẩm vật cho (ĐNTL, sđd, trang 556). Mối quan hệ hữu hảo đó kéo dài cho đến khi Việt Nam hoàn toàn nằm dưới ách đô hộ của người Pháp.

Về phần người Pháp, có lẽ do còn phải đối phó với nhiều biến động dưới đồng bằng nên gần như trong suốt thế kỷ XIX, họ không quan tâm lắm đến vùng gọi là Tây Nguyên ngày nay. Song các giáo sĩ phương Tây thì không thế. Ngay vào năm 1848, nghĩa là hơn 10 năm trước khi Pháp áp đặt chế độ thuộc địa cho Việt Nam, một số giáo sĩ Pháp như Combes, Fontaine đã lặn lội lên vùng này, cất chòi sống chung đụng với người Bahnar để thực hiện sứ mạng truyền đạo do Giáo hội La Mã giao phó.

Sự chung đụng gợi ra nhiều nghi kỵ cho người bản địa, song sau một trận dịch đậu mùa, các giáo sĩ tiêm chủng cho họ và cứu mạng nhiều người, mối quan hệ giữa hai bên dần tốt đẹp lên. Việc giảng đạo đạt kết quả, các giáo sĩ dạy cho người bản địa cách cày bừa, trồng lúa và trở thành cố vấn cho họ về nhiều mặt của đời sống. Năm 1854, có 4 giáo sĩ Pháp bị triều đình Huế truy sát, họ lang thang trong rừng nhiều ngày, sau được người Bahnar cứu thoát (Lê Nguyễn – Cuộc phiêu lưu của Marie Đệ nhất, quốc vương xứ Sedang – NXB Tổng hợp TPHCM 2019, từ trang 49).

Cho đến những thập niên cuối thế kỷ XIX, mối quan hệ giữa người Kinh và các sắc tộc thiểu số vẫn diễn ra tốt đẹp. An Khê, khu vực địa đầu của tỉnh Bình Định, trở thành một trung tâm thương mại nhỏ, nơi người Việt dưới đồng bằng mang hàng hóa, thực phẩm lên để đổi lấy thổ sản vùng cao. Ca dao thời ấy có câu:

Ai về nhắn với nậu nguồn,

Măng le gùi xuống, cá chuồn chở lên.

Người miền xuôi (người Kinh) mang lên muối, các loại hải sản (cá, tôm, cua..), kim loại (thiếc, đồng…) đổi lấy thổ sản miền ngược (Tây Nguyên ngày nay) như gạo, thuốc lá, sáp ong, mật ong, sừng tê giác… Chuyện mua bán, đổi chác giữa hai tộc người hầu như không thấy gì bất ổn xảy ra.

Về phần thực dân Pháp, có thể nói trong suốt thế kỷ XIX, họ không bận tâm đến vùng Tây Nguyên. Trừ một trường hợp vào năm 1888, khi Toàn quyền Đông Dương Constans nhận được tin một đoàn khảo sát người Đức đang tiếp xúc với chính quyền Xiêm (Thái Lan) và Ai Lao (Lào) về nhiều điều chưa được biết rõ. Ông ta lo ngại là những người Âu này sẽ dòm ngó vùng Tây Nguyên và khống chế hay chiếm hữu nó, vì thế, đã nhờ một tay viết báo thích phiêu lưu mạo hiểm tên David de Mayréna lên Tây Nguyên, kết hợp các bộ tộc chính như Bahnar, Djarai, Sedang… đặt dưới sự quản lý hay ít ra cũng dưới sự chi phối của chính quyền Pháp.

Nhờ tài ứng biến, sự lanh lợi và may mắn, De Mayréna hoàn thành mỹ mãn sứ mạng được giao phó, song sang đến viên Toàn quyền kế nhiệm Constans là Richaud, có lẽ vì thấy sự lo ngại của Constans đã không xảy ra, phần khác, do De Mayréna làm nhiều việc không bình thường trên cái gọi là “vương quốc Sedang” mà đang từ kẻ có công lớn, De Mayréna trở thành kẻ tội đồ.

Mãi đến những năm đầu thập niên 1890, sau khi nhà bác học Yersin tìm ra cao nguyên Langbian (Lâm Viên), căn cứ vào tình trạng khí hậu và thổ nhưỡng tốt của vùng đất này, chính quyền Pháp quyết định biến nơi đây thành nơi nghỉ dưỡng của bọn thực dân da trắng.

Năm 1904, một biến động lớn xảy ra. Người bản địa dưới quyền hai quốc vương Thủy Xá và Hỏa Xá phản ứng lại chính sách trực trị của người Pháp đang manh nha trên lãnh thổ họ. Họ mời viên công sứ Odend’han đến ăn yến rồi mai phục hạ sát ông này cùng 7 người giúp việc (Đại Nam thực lục chính biên – Đệ lục kỷ phụ biên – NXB Văn hóa-Văn nghệ 2011, trang 419, cùng một bài viết của tiến sĩ Nguyễn Văn Huy). Từ đó, thực dân Pháp xóa sổ hai vương quốc Thủy Xá và Hỏa Xá.

Nhiều người trong chúng ta biết rằng, vào thời Pháp thuộc, người Kinh gọi người sống ở vùng Tây Nguyên ngày nay là “Mọi”. Lớp người sinh trưởng tại miền Nam vào thập niên 1940 trở về trước thường nghe cụm từ “mọi cà răng căng tai” dùng để chỉ người miền Thượng, vì nhiều tộc người cà cho hàm răng của họ ngắn lại, đeo những chiếc vòng nặng trĩu trên tai, khiến dái tai họ to ra và trĩu xuống.

Từ cách gọi của người Kinh, người Pháp cũng gọi họ là Moi hay Mois.

Từ “mọi” gợi ra một cái gì đó thấp kém, lạc hậu và dã man nữa. Thời Đệ nhất Cộng hòa, chính quyền Ngô Đình Diệm cấm chỉ gọi họ là “mọi”, mà gọi là “người Thượng”, thậm chí là “đồng bào Thượng”. Từ “đồng bào” có lẽ được sử dụng với một nghĩa bao quát hơn, chỉ những tộc người sống thành một cộng đồng rộng lớn bên dưới đại lục Trung Hoa. Từ đó, khẩu hiệu “Kinh-Thượng một nhà” rất phổ biến trên các biểu ngữ, các phương tiện truyền thông.

Song song với hai từ Kinh-Thượng, về mặt lãnh thổ lúc bấy giờ, miền Trung được chia thành hai vùng rõ rệt là vùng “cao nguyên Trung Phần”, tức khu vực của người Thượng và “duyên hải Trung Phần” của người Kinh, từ Qui Nhơn-Bình Định trở về hướng biển.

Cuối những năm 1950, có lẽ do bận rộn với việc định cư và cung ứng các điều kiện sinh sống của gần một triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam mà chính quyền Ngô Đình Diệm có những sơ hở về mặt quản lý các đồng bào sắc tộc. Năm 1958, một tổ chức có chủ trương chống chính quyền ra đời có tên BaJaRaKa, với sự kết hợp của bốn sắc tộc khác nhau là Bahnar, Jarai (hay Djarai), Radhés, Kaho đã gửi thư đến các sứ quán Pháp, Mỹ và đại diện Liên Hiệp Quốc, tố cáo những hành vi phân biệt sắc tộc của chính quyền Đệ nhất Cộng Hòa và yêu cầu các cường quốc can thiệp để người Thượng được độc lập trong khối Liên hiệp Pháp hoặc dưới sự lãnh đạo của Hoa Kỳ.

Đầu những năm 1960, quan hệ giữa VNCH và chính quyền Cambodge (Campuchia) gặp nhiều rắc rối, đi đến chỗ bế tắc, hai bên rút Đại sứ về và chỉ quan hệ với nhau ở cấp thấp hơn (Đại lý Đại sứ). Năm 1964, với sự hỗ trợ tinh thần của quốc vương Campuchia Sihanouk, các tổ chức bất đồng với chính quyền VNCH liên kết lại thành một tổ chức thống nhất, lấy tên Pháp là Front unifié pour la Libération des Races Opprimées (Mặt trận thống nhất giải phóng các sắc tộc bị áp bức), viết tắt là FULRO.

Sau thời điểm này, chính sách của chính quyền VNCH đối với người thiểu số vùng cao đã có những cải tiến rõ rệt, về lượng cũng như về chất. Thông thường ở vùng đồng bằng, cơ cấu chính quyền cấp tỉnh có hai Phó Tỉnh trưởng là Phó Tỉnh trưởng Hành chánh và Phó Tỉnh trưởng Nội An (chức vụ sau bị bãi bỏ từ năm 1966). Tại các tỉnh cao nguyên Trung Phần, chính phủ VNCH đặt thêm chức Phó Tỉnh trưởng Thượng vụ, phụ trách các vấn đề liên quan đến đời sống của đồng bào Thượng. Phó Tỉnh trưởng Thượng vụ tỉnh Kontum đầu tiên là ông Paul Nưr, một thành viên trong các tổ chức chống đối trước đây. Dưới cấp tỉnh, ở cấp Quận, cũng có những ban sắc tộc do các công chức hay quân nhân người gốc Thượng đảm trách.

Không chỉ về mặt quản lý hành chánh, về mặt luật pháp, chính quyền VNCH cũng quan tâm đến việc giải quyết những vấn đề phát sinh trong cộng đồng người thiểu số có lý tới phong tục, tập quán của họ. Ngay từ năm 1929, thực dân Pháp đã cho thành lập các “Tòa án tập quán” ở các cấp Tỉnh, Quận, Xã nhằm để cho người Thượng xét xử người Thượng, xét xử căn cứ vào tín ngưỡng của các bộ tộc.

Sang thời VNCH, năm 1965, chính phủ cho thiết lập các “Tòa án phong tục” trên cao nguyên Trung phần, hoạt động như các Tòa án tập quán thời Pháp, chỉ có khác là Tòa án tập quán là một tổ chức hành chánh, còn tòa án phong tục là một tổ chức tư pháp hẳn hoi (Nguyễn Trắc Dĩ – Đồng bào các sắc tộc thiểu số Việt Nam (nguồn gốc và phong tục) – Sài Gòn 1972, trang 155-160)

Những cải tiến về các chính sách nêu trên giúp nhiều người Thượng có học vấn tham gia thiết thực vào việc điều hành công vụ của chính quyền VNCH. Tiêu biểu là ông Touneh Hàn Thọ, cựu sinh viên Học viện Quốc gia Hành chánh, vào những năm 1969-1970, từng được cử vào học trường Cao đẳng Quốc phòng, chung với nhiều sĩ quan cao cấp trong quân đội, thông thường ở cấp Đại tá. Năm 1970, ông Touneh Hàn Thọ ra trường Cao đẳng Quốc phòng với luận văn nhan đề “Quan niệm về sở hữu đất đai và thực trạng sinh kế của các sắc dân Thượng”.

Vào nửa đầu thập niên 1970, ông Hàn Thọ được cử giữ chức vụ Tổng Thư ký Bộ Phát triển sắc tộc, một cơ quan quan trọng được thành lập ngay vào năm đầu tiên của nền Đệ Nhị Cộng hòa (1967). Đến lúc đó, sự tham gia của đồng bào Thượng vào chính quyền đương nhiệm là một việc làm có thực chất, không mang màu sắc tuyên truyền hay mị dân. Có những người được bầu vào Quốc Hội, vào bộ máy chính quyền, tiêu biểu là Bộ Phát triển sắc tộc. Người đầu tiên lãnh đạo bộ này chính là ông Paul Nưr, nguyên Phó Tỉnh trưởng Thượng vụ tỉnh Kontum.

Năm 1975, khi trở thành tù cải tạo, người viết bài này từng sống chung nhà, chung đội với nhiều đồng bào Thượng từng là dân biểu, viên chức cao cấp của Bộ Phát triển sắc tộc. Họ rất hiền hòa, sống chan hòa với các bạn tù người Kinh, đến bây giờ, tôi vẫn còn thấy nhớ người bạn tù hiền lành Touneh Yơh, một con người luôn vui vẻ, cười đùa với mọi người và cư xử với bạn tù một cách chân tình nhất.

Ngay sau tháng 4.1975, chính quyền mới của những người thắng cuộc đã đưa nhiều đồng bào miền Bắc đến Lâm Đồng (tên cũ là tỉnh Tuyên Đức) để lập nghiệp. Chính sách di dân là hệ quả tất yếu của sự phát triển dân số, khiến vùng này có mật độ dân cư quá cao, dẫn đến nhiều hậu quả bất lợi về xã hội, vùng khác mật số dân số thấp, đất đai, rừng núi chưa được khai thác đúng mức.

Tuy nhiên, chính sách di dân hay giãn dân nếu không được thực hiện xuyên suốt, có quan tâm đến quyền lợi, đời sống văn hóa, xã hội của người bản địa, sẽ dễ trở thành chính sách tàm thực (tằm ăn dâu) và dẫn đến nhiều hậu quả khó lường. Điều lo lắng này không phải là không có cơ sở, cùng là đồng bào, đồng chủng với nhau, chung một tổ tiên, nòi giống, mà sau gần 50 năm, giữa người thắng cuộc và kẻ thua cuộc vẫn còn những khoảng cách nhất định, về mặt tâm thức cũng như quan điểm chính trị, thì nói gì đến mối quan hệ giữa chính quyền với đồng bào thiểu số Tây nguyên từng vùng lên tranh đấu dưới thời VNCH.

Chính sách di dân theo kiểu “tằm ăn dâu” khiến người các sắc tộc thiểu số dễ có cảm giác đất đai của tổ tiên họ ngày bị thu hẹp dần, nhiều quyền lợi căn cơ có nguy cơ bị tước đoạt, đời sống không được cải thiện theo đúng xu thế một đất nước đã thống nhất gần 50 năm trời…

Trong trường hợp đó, nếu chính quyền địa phương cai trị thiếu sự chân tình hay có nhiều sơ hở trong các biện pháp quản lý xã hội thì cái ngòi nổ trong quả bom bất mãn dễ dàng bị kích nổ. Khi người thiểu số sống trong một tâm trạng như thế thì dù có “thế lực thù địch” đứng đàng sau hay không, những hậu quả bất lợi cũng dễ dàng xảy đến.

Trong những ngày qua, đọc tin về việc đồng bào Nghệ An, Thanh Hóa… vây bắt được nhiều người dính líu tới bi kịch vừa xảy ra, không ít người trên mạng xã hội bày tỏ sự… bất ngờ. Bất ngờ vì sự tham gia, chủ động của những cư dân từ phương xa đến lập nghiệp trên vùng đất Tây nguyên.

Từ sự bất ngờ đó, họ dễ dàng suy diễn đến nhiều tình huống khác. Việc xây dựng đường dây điện Bắc-Nam, đường Hồ Chí Minh, với những lợi ích nhãn tiền hẳn nhiên là dễ dàng thuyết phục người thiểu số Tây Nguyên, mất bao nhiêu đất họ cũng dễ dàng hứng chịu. Song còn sự hiện diện quá nhiều người từ các địa phương khác đến, liệu tác động thế nào đến người bản địa? Điều đó, có ai thực hiện những cuộc điều tra tỉ mỉ và khả tín, để có thể giúp đưa ra những quyết sách có tình, có lý, hợp với tính nhân bản vẫn là cốt cách của dân tộc này?

Trở lại chuyện cách nay hơn 50 năm, sau những rối loạn ở Tây Nguyên vào nửa sau thập niên 1950 và nửa đầu thập niên 1960, chính quyền VNCH đã có những cải tiến rõ rệt trong chính sách đối với đồng bào thiểu số, tiêu biểu là các tòa án phong tục, các định chế quốc gia có sự tham gia của người Thượng, một cách tích cực và có thực chất, thì liệu chính quyền hiện nay có cần quan tâm hơn nữa đến tâm tư nguyện vọng và quyền lợi chính đáng của họ hay không?

Trong lịch sử hiện đại, một anh hùng Núp chỉ có công lớn với người thắng cuộc, trong công cuộc “chống Mỹ cứu nước”. Song anh hùng cũng năm bảy kiểu anh hùng, sau 1975, đồng bào Tây Nguyên cần có thêm nhiều anh hùng khác, góp phần thiết thực, mang lại cơm no áo ấm cho họ, kéo họ lên khỏi đáy vực của u mê, tăm tối, bảo tồn cho họ di sản đất đai, văn hóa do tổ tiên họ để lại. Có như thế, họ mới sẽ dễ dàng hợp tác với chính quyền, không một “thế lực thù địch” nào dám bén mảng đến gần họ.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Phiên bản tình yêu

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

Tôi mới lần ra danh sách bộ chính trị đảng CSVN từ 1951-1960. Đó là Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Hoàng Quốc Việt, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Thọ, Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Duy Trinh, Phạm Hùng, Lê Thanh Nghị, và Lê Văn Lương. Phạm Văn Đồng chỉ là nhân vật hàng thứ sáu, chỉ bậc trung thôi… Án chung không thể tội riêng, một mình Phạm Văn Đồng mà dám qua mặt chủ tịch Hồ Chí Minh a? Dám qua mặt đảng Cộng Sản a?

Vũ Điện Biền

Tôi (trộm) nghe nói rằng quân tử ba ngày mà không đọc sách thì diện mạo dơ dáng, và trò chuyện khó nghe. Tôi vốn bẩm sinh mặt mũi không mấy dễ coi, và chuyện trò vô cùng nhạt nhẽo nên (lắm khi) đến vài ba năm cũng chả nhìn đến một cuốn sách nào mà vẫn cứ sống phây phây – chả có (trăng) sao gì ráo trọi.

Tháng trước, tôi được nhà xuất bản Tiếng Quê Hương gửi cho một bộ sách to đùng, dầy hơn ngàn trang (thấy mà ớn chè đậu) tựa là Phiên Bản Tình Yêu (*). Bìa trước và bìa sau đều có hình của hai phụ nữ khỏa thân, và trông (hơi) gợi dục!

Tên tác giả (Vũ Biện Điền) lại hoàn toàn xa lạ. Trong tình yêu, cũng như tình dục, tôi rất ngại chuyện “phiêu lưu” nên lẳng lặng đẩy luôn cái “của nợ” trông rất “ướt át” này vào một góc! Tuần rồi, chả may, giáp mặt người tặng sách – nhà báo Uyên Thao:

– Cậu nghĩ sao về cuốn Phiên Bản Tình Yêu của Vũ Biện Điền?

Tôi đỏ mặt, ấp úng:

– Dạ, em chưa đọc chữ nào.

Dù không nghe nhưng tôi cảm được một tiếng thở dài (cố nén) của người đối diện. Với đôi chút áy náy, ngay tối hôm ấy, tôi đọc hơn bốn trăm trang sách. Sáng hôm sau, cáo bệnh, nằm nhà “chơi” luôn hơn bẩy trăm trang nữa với rất nhiều ngạc nhiên và thích thú.

Mấy thế hệ người Việt liên tiếp vừa qua, ít nhiều, đều là nạn nhân của thời cuộc hay của chế độ hiện hành nhưng chắc chưa có ai ngồi cặm cụi (nhiều năm trời) để ghi lại những nhận xét tỉ mỉ và chính xác của mình về “những loại nhà nước” hiện nay – như Vũ Biện Điền:

Trong số đó đáng kể hơn cả là nhà nước Đảng, còn gọi là nhà nước Quỷ hoặc Siêu Chính Phủ vì nó biến hóa như một cái bóng ma khổng lồ tác nghiệp lên tất cả các nhà nước khác. Ở trung ương, đứng đầu nhà nước này có tổng bí thư, nội các cơ mật là bộ chính trị. Ở địa phương, đứng đầu nhà nước này có bí thư tỉnh ủy, nội các cơ mật là ban thường vụ… Nó là đầu mối của mọi nhũng nhiễu, tai họa và tội ác nhưng rất có tài bẻm mép phủi tay

Tiếp theo là nhà nước Hành Chánh, còn gọi là nhà nước Hành Dân vì bộ nào của nhà nước này cũng có chức năng làm dân khổ cực do đặc tính cửa quyền, nó vâng lệnh đảng như một thứ đầu sai quản lý đất đai và điều hành nô lệ cho chủ nhân, thu gom vô tội vạ tài sản trong nhân dân, sau khi trích nạp cho chủ, nó được quyền chi tiêu xả láng. Ở trung ương, đứng đầu nhà nước này có một chủ tịch không thực quyền, nội các cơ mật là thủ tướng và các bộ trưởng. Ở địa phương, đứng đầu nhà nước này có chủ tịch, nội các cơ mật là ban thường trực và các giám đốc sở…

Thứ ba là nhà nước Quốc Hội, còn gọi là nhà nước Phường Chèo hoặc nhà nước Kỳ Nhông vì đặc tính hát ca véo von theo cách dàn dựng của đảng, nhanh nhạy thay vai đổi màu tùy từng vị trí – ở trung ương nó là lập pháp, ở tỉnh nó là hành pháp, ở tòa án nó là tư pháp. Hình thái nhà nước Quốc Hội về đến địa phương gọi là Hội Đồng Nhân Dân, đặc tính véo von và đổi màu vẫn lưu cửu.….

Thứ bốn là nhà nước Mặt Trận Tổ Quốc, còn gọi là nhà nước Chịu Trận, vì nó là một thứ bung xung vỹ đại hứng đòn – phản đòn – đỡ đòn cho các nhà nước kia. Nhà nước này còn có một chức năng định kỳ như một lò hộ sinh, phù phép hiệp thương ba lên bốn xuống trong mỗi mùa bầu cử, cho ra những đứa con đúng kiểu mẫu đặt hàng của đảng… Quá trình vận động, thành tích cao nhất của Mặt Trận Tổ Quốc là tạo ra Mặt Trận Việt Minh trước trước 1954, và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam trước 1975 – hai lá bài này khá ăn khách, nhưng tới hồi lật tẩy thì vô cùng bỉ ổi!

Thứ năm là nhà nước Quân Đội, còn gọi là nhà nước Vũ Trang… nhà nước này làm bằng sức người và của nả của nhân dân nhưng chỉ trung với đảng. Nên chi nó khu trú ở đâu là lãnh thổ riêng ở đó, từa tựa như một quốc gia trong một quốc gia. Khi cần, nó mạo danh quốc phòng, đưa quân chiếm hữu đất đai, rồi đặt ra định chế tự cấp tự quản… Ở trung ương, đứng đầu nhà nước này có quân ủy, hội đồng cơ mật bao gồm các tổng cục chuyên ngành… Nhà nước này hội đủ tính chất phong kiến trung cổ La Mã, sỹ quan là giai cấp đảng viên gọi là cán bộ, bổng lộc hậu hĩ – hạ sỹ quan và lính (con em nhân dân thi hành nghĩa vụ), gọi là chiến sỹ, chỉ được hưởng sinh hoạt phí vừa đủ cầm hơi tới ngày phục viên…

Thứ sáu là nhà nước Công An, còn gọi là nhà nước Tam Đại vì mỗi thành viên phải có lý lịch ba đời bần cố… vừa nghèo vừa ngu từ đời ông đến đời cháu. Đây là nhà nước bán vũ trang, thừa quan thiếu lính, quyền hành vô giới hạn, bổng lộc vô bờ bến. Không những nhân dân kinh sợ mà một số viên chức các nhà nước khác cũng chùn bước trước những đặc quyền đặc lợi của các ấm tử viên tôn. Lịch sử nhân loại từ xưa đến nay, chỉ dưới thời phát xít Đức-Ý-Nhật và các nước xã hội chủ nghĩa mới có thứ nhà nước kỳ lạ này. Nó đồng hóa mình với đảng chuyên chính, tự quyết tất cả và không chịu một quyền lực nào ràng buộc, một tổ chức nào kiểm soát.

Nguồn phóng ảnh: http://www.bacaytruc.com

Vũ Biện Điền cũng “tính sổ” rành mạch từng vụ một, cùng với tên tuổi rõ ràng của những tên chính phạm. Xin đơn cử vài vụ tiêu biểu:

Công Hàm 1958:

“Tôi mới lần ra danh sách bộ chính trị đảng CSVN từ 1951-1960. Đó là Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Hoàng Quốc Việt, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Thọ, Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Duy Trinh, Phạm Hùng, Lê Thanh Nghị, và Lê Văn Lương. Phạm Văn Đồng chỉ là nhân vật hàng thứ sáu, chỉ bậc trung thôi… Án chung không thể tội riêng, một mình Phạm Văn Đồng mà dám qua mặt chủ tịch Hồ Chí Minh a? Dám qua mặt đảng Cộng Sản a?”

Thảm sát Mậu Thân 1968:

“Tôi đào được danh sách của bộ chính trị nhiệm kỳ ba của đảng Cộng Sản Việt Nam 1960 -1976. Nhìn chung, chẳng ai xa lạ, Hồ Chí Minh chủ tịch, Lê Duẩn bí thư thứ nhất, Trường Chinh chủ tịch quốc hội, Phạm Văn Đồng thủ tướng, Phạm Hùng phó thủ tướng, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp phó thủ tướng kiêm bộ trưởng quốc phòng, Nguyễn Chí Thanh mất năm 1967, Nguyễn Duy Trinh phó thủ tướng, Lê Thanh Nghị phó thủ tướng, Hoàng Văn Hoan phó chủ tịch quốc hội, Trần Quốc Hoàn và Văn Tiến dũng, hai thành viên này được bổ sung từ năm 1972.”

Cách nhìn của Vũ Biện Điền về những người đồng thời với mình – qua lời những nhân vật của ông – cũng khá khắt khe, và rất có thể gây ra tranh cãi gắt gao:

“Nhưng người Hà Nội đến lạ! Họ biết Xã Hội Chủ Nghĩa là cái bánh vẽ cực kỳ thối tha mà cứ hớn hở ngồi vào lột lá bóc ăn và xơn xớt khen ngon khen ngọt đến nỗi người ngoài nhìn vào phát thèm. Họ biết Hồ Chí Minh gian manh xảo trá mà cứ ngoác miệng ngợi ca lúc ông ta còn sống và khóc khô nước mắt khi ông chết. Họ biết bè lũ kế thừa đang đi tiếp con đường của ác quỉ mà vẫn tranh nhau làm tôi mọi, cúc cung tận tụy. Họ biết lịch sử đang rao giảng là thứ cực kỳ giả dối nhưng học thuộc vanh vách, nếu có ai mạnh dạn đính chính thì phồng mang trợn mắt, cãi cối cãi chầy như sợ mất đi độc quyền làm thân sáo vẹt. Họ nhận quá nhiều đau khổ do độc tài đảng trị nhưng không dám đối mặt với kẻ thù cứ ươn hèn đổ vạ cho phong kiến, cho tư sản, cho địa chủ, cho Mỹ Ngụy, xua con em vào chết ở miền Nam mà không biết đang hiến máu cho hung thần và đang hy sinh cho một thiên đường mù… Ngoại trừ một số rất ít sớm thức tỉnh như Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Trần Xuân Bách, Phạm Quế Dương, Nguyễn Thanh Giang, Dương Thu Hương, Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc… tôi chưa thấy một tổ chức nào bi phẫn, chưa thấy một đoàn thể nào muốn nắm tay nhau liên kết xuống đường biểu tình, họp mít-tinh vạch mặt chỉ tên bè lũ tay sai Nga – Hoa, tập đoàn phi nhân bản, phản nhân quyền, bọn bán nước cầu vinh…”

Một tác phẩm mang đậm mầu sắc chính trị như thế sao lại có cái tựa trữ tình và ướt át là Phiên Bản Tình Yêu? Trong phần lời tựa nhà văn Trần Phong Vũ đã giải thích (phần nào) như sau:

“Như nhan sách, Phiên Bản Tình Yêu là một chuyện tình – mà là một chuyện tình xuyên thế hệ, mang nhiều kịch tính với những tình tiết éo le, ngang trái, chuyển biến bất ngờ. Nhưng Tình Yêu ở đây chỉ là lớp vỏ, là mặt nổi của một tảng băng sơn giữa đại dương mờ mịt… Cuộc tình xuyên thế hệ ở đây có thể được hiểu như một thứ ‘thang’ để dẫn ‘thuốc’, một chất xúc tác, tạo hấp lực lôi cuốn người đọc đi sâu vào những âm mưu, những màn đấu đá, những trò lường gạt, thay bậc đổi ngôi trong một xã hội người ta nhân danh đủ thứ với những mặt nạ khóc cười, hỉ nộ đã được mã hóa khi thực chất chứa đầy tâm thái tham lam, ích kỷ, độc ác, chỉ vụ thỏa mãn những lợi ích cá nhân, bè nhóm, bất chấp sự an nguy của tiền đồ quốc gia dân tộc. Và trong chừng mực nào đó, với tư cách người chứng, tác giả đã đạt được mục đích của ông.

Tôi cũng tin là Vũ Biện Điền hoàn toàn đạt được mục đích của mình nhưng e rằng ông không thành công (lắm) khi dùng hình thức tiểu thuyết như “một chất xúc tác, tạo hấp lực lôi cuốn người đọc đi sâu” vào “chuyện tình xuyên thế hệ” này. Những nhân vật trong Phiên Bản Tình Yêu (e) hơi quá nhiều kịch tính, nhất là qua những mẫu đối thoại rất dài và (rất) trí tuệ nhưng cũng rất xa lạ với đời thường hay đời thật.

Tất nhiên, đây chỉ là suy nghĩ hoàn toàn chủ quan (và có thể là hoàn toàn sai lạc) của một thường dân mà trình độ thưởng ngoạn nghệ thuật còn nhiều giới hạn. Mong được đón nhận những nhận định khác, từ những người đọc khác, về công trình tâm huyết và đồ sộ này của Vũ Biện Điền.

Con cháu của anh hùng Núp, không… núp nữa!

Báo Tiếng Dân

BM B’krông

17-6-2023

Như chúng ta đều biết, Việt Nam hiện nay là một quốc gia có hình chữ S, với diện tích hơn 300,000 km2, chia làm 3 miền Bắc Trung Nam, có 64 tỉnh thành, dân số khoảng 100 triệu người, bao gồm 54 dân tộc khác nhau. Trong đó, người Kinh, tức người Việt, chiếm khoảng 86%, còn 14% là các dân tộc thiểu số, gọi chung là người Thượng, sinh sống rải rác ở miền núi, cao nguyên.

Trong đất nước này, có một vùng lãnh thổ vô cùng đặc biệt là Tây Nguyên. Đây là nơi mà những người Thượng đã định cư hàng ngàn năm, như người da đỏ Indian định cư ở châu Mỹ. Nếu người da đỏ được coi là người bản địa của châu Mỹ, thì người Thượng ở Tây Nguyên cũng phải được coi là người bản địa của vùng lãnh thổ này. Vùng đất này tiếp giáp với biên giới Campuchia và Lào, là hai quốc gia hiện rất thân thiện với Trung Quốc.

Người Thượng ở Tây Nguyên bao gồm nhiều dân tộc thiểu số khác nhau như người Jarai, Ede, Raglai, Churu, Bahnar, Sedang, Hre, Koho, Mnong, Brau, Rmam, Stieng, Bru-Van Kieu, Katu, Gietrieng, Taoi, Ma, Cor, Chrau… Và một thực tế không thể chối cãi là, những người dân thiểu số hoàn toàn khác biệt với người Kinh, tức người Việt, về mọi mặt như ngôn ngữ, truyền thống, tôn giáo, luật lệ, y phục, văn hoá, tính cách, lối sống… Tương tự như thổ dân da đỏ ở châu Mỹ, hoàn toàn khác biệt với người da trắng từ châu Âu đến xâm chiếm lục địa của họ từ sau thế kỷ 17.

Sau khi cộng sản Việt Nam thống nhất đất nước bằng vũ lực hồi tháng 4-1975, vùng Tây Nguyên mặc nhiên bị sát nhập vào lãnh thổ Việt Nam và trở thành một bộ phận của quốc gia này. Đồng thời, người dân Tây Nguyên mặc nhiên bị đặt dưới sự cai trị của đảng Cộng sản Việt Nam một cách miễn cưỡng. Họ, người Thượng Tây Nguyên, có muốn vậy không? Tất nhiên là không.

Đừng chỉ nhìn Tây Nguyên với con mắt của “khách du lịch”

Trong chiến tranh Việt Nam giữa hai quốc gia Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ở miền Bắc) và Việt Nam Cộng hòa (ở miền Nam), một số người Thượng đã tích cực tham gia vào lực lượng cộng sản Bắc Việt, chiến đấu chống lại Việt Nam Cộng hòa, không phải vì họ ủng hộ và muốn đưa dân tộc mình đi theo chế độ cộng sản, mà bởi vì họ được giới lãnh đạo cộng sản hứa hẹn rằng, sau khi tiêu diệt được Việt Nam Cộng hòa, nhà nước cộng sản sẽ để cho vùng Tây Nguyên trở thành khu vực tự trị. Tuy nhiên, nhà nước cộng sản đã không bao giờ thực hiện lời hứa đó.

Sau khi thống nhất được đất nước, nhà nước cộng sản không bao giờ cho người Thượng quyền tự trị vùng Tây Nguyên, trái lại, họ nhanh chóng áp đặt quyền cai trị độc đoán lên các dân tộc thiểu số này, bất chấp sự khác biệt sâu sắc về chủng tộc, ngôn ngữ, văn hoá, tôn giáo, luật lệ, lối sống… Và mọi sự bất bình, phản kháng của người Thượng đều bị cộng sản dập tắt bằng bạo lực.

Vậy là, sau nhiều thập niên nhiệt tình hăng hái giúp sức cho “đối tác” cộng sản Bắc Việt tiêu diệt Việt Nam Cộng hòa, cuối cùng, người Thượng bị “đối tác” trở mặt, xâm lược luôn lãnh thổ của mình, biến dân tộc mình thành nô lệ.

Thế lực thù địch xuyên tạc về tình hình ở Tây Nguyên

Nhưng đó mới chỉ là bước khởi đầu, bước tiếp theo mới thật sự kinh hoàng. Trong suốt nhiều thập niên sau khi chiến tranh kết thúc, nhà nước cộng sản Bắc Việt không ngừng thực hiện âm mưu đồng hoá người Thượng Tây Nguyên, xóa bỏ bản sắc dân tộc của họ, bằng nhiều chính sách hiểm độc. Đáng kể nhất là họ liên tục đưa người Kinh (tức người Việt) tới định cư ở vùng Tây Nguyên, chiếm đoạt một cách thô bạo và có hệ thống đất đai canh tác của người Thượng bằng các thủ đoạn nham hiểm, cũng như bằng cái luật đất đai “biến thái” nhất hành tinh, quy định là “đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước quản lý”. Nói một cách thực tế, nghĩa là “toàn bộ đất đai vùng Tây Nguyên đều thuộc quyền sở hữu của đảng Cộng sản Việt Nam”!

Vậy là kết cục đã rõ, vùng đất Tây Nguyên màu mỡ mà tổ tiên người Thượng dày công khai phá hàng ngàn năm qua, rừng núi Tây Nguyên mênh mông trù phú đã nuôi sống nhiều thế hệ người Thượng từ bao đời nay, cuối cùng đã bị đảng cộng sản “sở hữu”! Nhà nước cộng sản tự cho mình quyền “sở hữu” toàn bộ đất đai ở Tây Nguyên, cũng như trên lãnh thổ Việt Nam, với sức mạnh bạo lực trong tay, đã dễ dàng chiếm đất, chiếm rừng của người Thượng ở bất cứ nơi nào họ muốn, bằng thuật ngữ “quy hoạch”.

Nhà nước Cộng sản Việt Nam cho rằng, chiếm đất là cách làm kinh tế hiệu quả vô cùng. Ví dụ, họ chiếm một khu đất A của người Thượng, đền cho người chủ đất 100 ngàn đồng/m2, một cái giá chỉ bằng hai tô phở, để đuổi người ta đi. Sau đó, họ làm dự án nhà ở thương mại hoặc khu dân cư cao cấp gì đó, hoặc chỉ đơn giản là phân lô bán nền cho khách hàng người Việt với giá hàng triệu đồng/m2. Thế là họ kiếm lãi gấp hàng chục, thậm chí hàng trăm lần, so với số tiền bỏ ra “đền bù”, thử hỏi trên thế giới có mô hình kinh doanh nào tạo ra lợi nhuận siêu khủng như vậy không? Thế mà các “thế lực thù địch” cứ chỉ trích nhà nước cộng sản chỉ giỏi chiến tranh, bắn giết, không biết làm kinh tế!

Người Thượng Tây nguyên đã từng chạy sang tỉnh Ratanakiri để lánh nạn cách nay một thập niên

Người Thượng Tây nguyên đã từng chạy sang tỉnh Ratanakiri để lánh nạn cách nay một thập niên

Người Thượng Tây Nguyên bàng hoàng, phẫn nộ và bất mãn. Nhiều lần họ đứng lên phản đối, tranh đấu ôn hòa bằng lý lẽ, quyết bảo vệ đất đai canh tác quý giá mà ông cha để lại, nhưng chỉ dẫn đến một kết cục: Nhà nước cộng sản cho công an hoặc cảnh sát cơ động đàn áp họ bằng bạo lực, chứ không có lý lẽ phải trái gì cả. Người Thượng đã thực sự rơi vào tình thế rất tuyệt vọng. Họ không những không bảo vệ được đất đai, mà còn bị đánh đập, bắt bớ, tra tấn, bỏ tù, sát hại một cách tàn bạo như nô lệ da đen ở nước Mỹ thời xưa. Ngay cả niềm tin tôn giáo của họ cũng liên tục bị nhà nước cộng sản cấm đoán và xoá bỏ một cách quyết liệt. Trong bối cảnh bất lực và cùng quẫn ấy, một số người Thượng đã chọn cách bỏ chạy sang các quốc gia khác xin tị nạn.

Tổ quốc của họ thực sự không còn, nó đã bị giặc ngoại bang xâm lược.

Ước mơ tự trị của người Tây Nguyên như ngọn lửa chưa bao giờ lụi tắt, nhưng bàn tay sắt máu tàn bạo của nhà nước cộng sản đã bóp lấy ngọn lửa ấy và cứ siết chặt dần. Cho đến hôm nay, ước mơ ấy chỉ còn là một bệnh nhân thoi thóp những hơi thở sau cùng trước khi sự sống hoàn toàn tắt lịm.

Vậy trong trái tim của người Thượng Tây Nguyên có cái gì? Sự sợ hãi! Đúng, một nỗi sợ giống hệt nỗi sợ của người nô lệ da đen dành cho các chủ nhân da trắng tàn bạo của mình bên nước Mỹ thuở xưa. Ngoài nỗi sợ ra, họ còn gì nữa không? Còn. Lòng căm thù!

Đúng, một lòng căm thù vĩnh viễn không thể gỡ bỏ, dành cho nhà nước cộng sản, những kẻ xâm lược, những tên “chủ nô” da vàng còn tàn bạo và độc ác hơn đám chủ nô da trắng bên xứ Mỹ thời xưa.

Nếu có một cây đèn thần như trong truyện cổ tích “Nghìn Lẻ Một Đêm”, cho phép họ đưa ra ba điều ước, thì người Thượng sẽ ước gì? Ồ, họ thật sự không cần đến ba điều ước, họ chỉ cần một điều thời. Chắc chắn họ sẽ ước rằng, tất cả bọn cộng sản người Kinh và các đồng chủng da vàng của chúng hãy cút xéo ra khỏi vùng Tây Nguyên ngay lập tức, trả lại quyền tự trị cho người Thượng. Hãy biến đi, và đừng bao giờ quay trở lại với các luật lệ tàn ác xấu xa của mình như điều 331 và 117. Chỉ thế thời.

Với vụ đột kích táo bạo vào hai trụ sở nhà nước cộng sản ở Đăk Lăk ngày 11 tháng 6, giết nhiều công an và cán bộ cộng sản đang tụ tập ăn nhậu và xem bóng đá, được thực hiện bởi một lực lượng vũ trang rằn ri người Thượng, họ đã đưa ra một thông điệp mạnh mẽ và dứt khoát: Đó là họ muốn lấy lại vùng Tây Nguyên, để thành lập quốc gia riêng biệt của mình, như Campuchia và Lào, tách biệt khỏi lãnh thổ Việt Nam, là nước đang bị Đảng Cộng sản cai trị từ 1975.

Ngọn lửa Tây Nguyên có thể chỉ loé sáng một lần rồi vụt tắt trước bàn tay tàn bạo ngày càng bóp chặt hơn của nhà nước cộng sản, với hàng loạt vụ truy lùng bắt bớ người Thượng vô tội vạ sau sự việc, kiểu như “cứ thấy mặc đồ rằn ri là bắt trước đã, rồi tính sau” thậm chí, ai bán đồ rằn ri cũng bị xử phạt, không cần căn cứ theo điều luật, quy định nào cả. Nhưng trong trái tim của người Thượng Tây Nguyên, trong tận cùng sâu thẳm của tâm hồn họ, ngọn lửa ấy không thể nào bị dập tắt được, cũng như niềm tin, niềm hy vọng rằng, một ngày kia họ sẽ tìm thấy cây đèn thần như trong truyện cổ tích “Nghìn Lẻ Một Đêm”, để biến điều ước thiêng liêng duy nhất của dân tộc mình thành sự thật.

Bắt một trong những kẻ cầm đầu vụ dùng súng tấn công trụ sở UBND xã ở Đắk Lắk - Ảnh 1.

Dù kết cuộc có bi thảm hay đẫm máu thế nào, khi dám đứng lên đương đầu với nhà nước cộng sản tàn bạo, cũng xin nghiêng mình kính cẩn trước 40 chiến binh rằn ri, những đứa con của núi rừng bất khuất. Các anh không phải là bọn khủng bố. Đứng lên chống giặc ngoại xâm, sao lại gọi là khủng bố?

Ngọn lửa các anh đốt lên hôm nay sẽ sáng mãi trong tim người Tây Nguyên, sẽ đi vào lịch sử hào hùng của vùng đất huyền thoại này. Vinh quang thay 40 chiến binh vệ quốc, những hậu duệ phi thường của anh hùng Núp năm xưa, các anh đã quyết định không… núp nữa!


 

ĐI CẢ THẾ GIỚI, CHỈ CÓ MỘT ĐỒI CÙ

Kim Dao Lam

Nên nhớ, Đồi Cù là CÔNG VIÊN, CÔNG THỔ !!!

Nay ai dám chiếm làm của riêng và phá hoại !?!?!?!?

Cả một lũ lộng quyền vô pháp vô thiên !!!

***

[ RỪNG KHÓC]

——- ——

ĐI CẢ THẾ GIỚI, CHỈ CÓ MỘT ĐỒI CÙ

– Trịnh Sơn –

Tui đã đến Tam Đảo, tui đã lội Bà Nà. Tam Đảo với Bà Nà khá tương đồng về cảnh quan. Vài năm gần đây 2 nơi này rộn lên du lịch do Mặt Trời Group gọt núi đầu tư. Ồn có ồn đó, tuy nhiên nói đến 2 cái tên này thì Làm Sao So Bì cho lại địa danh Đà Lạt được. Nói cái tên Đà Lạt hầu như toàn dân đều biết.

Trong Đà Lạt có cái mảng xanh Đồi Cù bên bờ Hồ Xuân Hương. Biết Đà Lạt là biết Đồi Cù-biết Đồi Cù là biết Đà Lạt.

Đồi Cù diện tích tầm 72 hécta. 1kilomet đường xe hơi. Nay nó trên 100 năm tuổi. 1920 ông Bảo Đại kí duyệt làm lên nó, 1922 xong. Nay 101 năm rồi. Nhớ thời 1990 từ viện Đại Học Đà Lạt, tui có thể lon ton đi bộ xuyên Đồi Cù lội tới Hồ Xuân Hương vì thời đó không có rào. Thời đó nó đúng là của toàn dân Đà Lạt. Giờ nó của 1 thằng mặt L ất ơ nào đó!

Nói đến Đồi Cù cả nước/cả thế giới chỉ có 1 Đồi Cù. Nói đến trung tâm thương mại cả nước này nghìn nghìn trung tâm thương mại, và chả mấy ai cần biết tên hết chi.

Trung tâm thương mại chỉ là nơi đến để mua sắm rồi về. Xây ở đâu cũng được & mua ở đâu cũng dễ. Đồi Cù chỉ có một, mất rồi nghìn năm sau không có đẻ ra lại được.

Vậy mà người ta vẫn kí phê duyệt cho xoá sổ Đồi Cù đi. Chủ đầu tư vô tâm, vô cảm, khốn nạn… đã đành, nhưng kệ cụ nó. Cái đứa kí phê duyệt, kí làm chi?

Trung tâm thương mại chắc là tầm vài nghìn mét vuông! Rồi vài trăm nghìn mét vuông còn lại nào là biệt thự, nhà hàng, quán bar, khu phức hợp nghỉ dưỡng vui chơi…phân lô bán nền chứ chạy đi đâu.

.

Bạn nói bạn yêu Đà Lạt hãy cùng tôi góp lời đi.

Cái trung tâm thương mại Vin Mark ở Đà Lạt đã ế dẹp tiệm lâu rồi. Giờ mọc thêm trung tâm thương mại chi nữa mà mọc ngay cái vị trí siêu kim cương như thế? Muốn vô trung tâm thương mại, tỉnh nào cũng có rồi mà.

.

Làm ơn, tui lạy các ngài hãy trả Đồi Cù, lại là 1 Đồi Cù xanh ngút ngát đi!

Trả Đồi Cù lại là 1 công viên Công Thổ giữa lòng Đà Lạt cho toàn dân đi!

Tui lạy, nếu trả lại hứa sẽ đọc kinh thánh cầu nguyện+đọc kinh Phật nguyện cầu cho gia đình các vị bình an. Còn vẫn cứ phá, đây xin lỗi tui sẽ trùuuu cho gia tộc các người lọt mịa hết xuống….

 

(Đà Lạt, còn thấy đau là còn thương.)

St.

LeVanQuy share từ FB Canh Le

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Quà sinh nhật muộn

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

“Không Có Gì Quý Hơn Độc Lập Tự Do” là tên của một bài thơ mà Nguyễn Chí Thiện viết từ năm 1968. Tuy hơn nửa thế kỷ đã qua, tác phẩm này vẫn được nhiều người trích dẫn (đều đều) vì tâm đắc hay yêu thích:

Tôi biết nó, thằng nói câu nói đó

Tôi biết nó, đồng bào miền Bắc này biết nó

Việc nó làm, tội ác nó ra sao

Tác giả, và độc giả mến mộ những câu thơ thượng dẫn – xem ra – đều hơi quá lạc quan khi tin rằng “đồng bào miền Bắc” đều biết” rõ “việc làm”, và “tội ác” của ông Hồ Chí Minh (HCM) người đã từng là Chủ Tịch Nước kiêm Chủ Tịch Đảng CSVN suốt hai mươi bốn năm dài (1945 – 1969) gần một phần tư thế kỷ.

Tuy cũng sinh cùng nơi, và sống cùng thời, với nhà thơ Nguyễn Chí Thiện nhưng cái nhìn của nhà văn Lê Phú Khải lại khác: “Độc lập và dân chủ là hai phạm trù lớn nhất, được cả dân tộc nhắc đến nhiều nhất trong thế kỷ qua. Độc lập thì Hồ Chí Minh là hình tượng…”

G.S Tương Lai cũng thế. Ông tuyên bố: “Dứt bỏ mọi liên hệ với đảng Nguyễn Phú Trọng thao túng, để tiếp tục chiến đấu với tư cách đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam, đảng của Hồ Chí Minh.”

Nhà văn Dương Thu Hương cũng dành cho nhân vật lịch sử này không ít thiện cảm cùng nhiều lời ưu ái:“Đó cũng là nguời sáng suốt nhất giữa đám nguời cầm quyền Việt Nam cùng thời đại.”

Theo bác Hà Sĩ Phu thì đây là chuyện: “… không lạ, vì nhiều trí thức trong nước hiện nay, dù là đảng viên trung thành hay trí thức phản biện, cũng có cùng quan điểm như Dương Thu Hương (phê phán Cộng sản nhưng tôn vinh Hồ Chí Minh), trong khi Hà Sĩ Phu và nhiều người khác thì lại có những ý kiến có phần khác biệt. Vấn đề khó, không dễ nhất trí ngay, xin cứ lưu lại tất cả để cùng suy ngẫm.”

Với ít nhiều chủ quan, tôi thì tin rằng vấn đề chả có “khó khăn” gì ráo trọi và cũng không có chi để mà “suy gẫm” nữa. Ngoại trừ một số ít quý vị nhân sỹ vẫn còn tiếc nuối cái Thời Đại Hồ Chí Minh Quang Vinh (“Thời Đại Rực Rỡ Nhất Trong Lịch Sử Dân Việt”) dù “nó” đã đi rất xa, và rất sâu, vào tận trong lòng của quần chúng mất rồi:

  • Đả đảo Thiệu, Kỳ cái gì cũng có/ Hoan hô Hồ Chí Minh cái đinh cũng phải xếp hàng.
  • Chiều chiều trên bến Ninh Kiều/ Dưới chân tượng bác đĩ nhiều hơn dân.

Nói chi ngay tại bến Ninh Kiều, ở tuốt luốt dưới miệt Năm Căn mà lắm người cũng “biết,” và cũng căm (“nó”) lắm:

 Vừa có thông báo lăng Ba Đình sẽ được dùng làm nhà xí công cộng một thời gian, trước khi đập bỏ, ông Tư Ngộ (ở Năm Căn) vội vã bay ra Hà Nội. Ông định xin  ở trọ nhà một người quen vài hôm để có dịp vào thăm lăng Bác cho thoả ước nguyện ấp ủ cả đời người. Đến nơi, chủ nhà rẫy nẩy: Sao ở vài ngày mà xong được. Thiên hạ đã đăng ký và xếp hàng dài ra tới tận đèo Cù Mông rồi. Ông cứ về lại Năm Căn đi, chờ vài năm nữa rồi ra lại đây vẫn chưa muộn.

 Chờ “vài tháng” thì ok chớ chờ “vài năm” thì sợ muộn vì cái lăng này đã bị nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh canh me (và lăm le, hoặc hăm he) từ lâu:

“Tôi đề nghị một phương pháp xử lý lăng Hồ Chí Minh như vầy: chôn ông ta thật sâu dưới lòng đất, ngay nơi xác ông ta đang quàn, rồi dán lên bên trong, bên ngoài của tất cả những bức tường, trần và các lối đi trong lăng những đầu lâu của những nạn nhân, ưu tiên là những nạn nhân trong cải cách ruộng đất, và đổi tên thành: LĂNG NHỮNG NẠN NHÂN CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN VIỆT NAM.”

Đề nghị “bất nhơn” của ông thi sỹ khiến tôi thoáng nhớ đến cái ý niệm “tri thức tập thể” (collective consciousness) của Émile Durkheim. Đây có lẽ chính là “túi khôn của loài người,” hay “vốn sống” của một giống nòi – nếu chỉ xét ở mức độ quốc gia.

Khi vô thức tập thể (collective unconsciousness) của một dân tộc đã trồi lên đến bình diện ý thức, và đã được chuyển hóa thành hò vè/ ngạn ngữ/tục ngữ/ca dao/chuyện hài … về một sự kiện (hay nhân vật) nào đó thì dân gian … rất ít khi sai:

  • Dối như Cuội
  • Láo như Vẹm
  • Mất mùa là tại thiên tai/Được mùa là bởi thiên tài đảng ta!
  • Một năm hai thước vải thô/Làm sao che nổi cụ Hồ hỡi em?

Che chắn không được, bênh vực cũng xong vì thời thời gian không đứng về phía Bác và thời thế cũng đã hoàn toàn đã khác. Cái nhìn của giới trẻ hiện nay về Người trần trụi và tỉnh rụi hà:

– Phạm Chí Dũng:

“Tôi tôn trọng quan điểm của giáo sư Tương Lai, nhưng tôi thấy khó chia sẻ suy nghĩ trở về đảng Hồ Chí Minh của ông.”

– Phạm Thanh Nghiên:

“Chẳng có đảng nào là đảng ‘của ông Hồ’ hay ‘của ông Trọng’ đâu ông Tương Lai ạ. Nó đích thị chỉ là một, tên gọi của nó là đảng cộng sản Việt Nam, thủ phạm gây ra mọi tội ác với nhân dân Việt Nam trong suốt mấy chục năm kể từ ngày ra đời 3-2-1930 đến nay. Hồ, Duẩn, Linh, Mười, Mạnh, Trọng… chỉ là những kẻ luân phiên nhau cầm đầu cái đảng ấy để làm khổ người dân VN thôi ông ạ.”

– Phạm Hồng Sơn:

“Ai là người có thẩm quyền chính trị cao nhất đã để cho đất tư từ hàng ngàn năm biến hết thành đất ‘sở hữu toàn dân’, đã tiến hành cuộc ‘cách mạng long trời lở đất’ ở nông thôn cách đây hơn nửa thế kỷ mà vẫn khiến lòng người hôm nay bấn loạn, hãi hùng, rồi cũng chính người ấy lại đưa tay chấm nước mắt tiếc thương nhưng vẫn giữ trọn ngai vàng cho tới lúc chết?

“Ai là người vừa là Chủ tịch nước kiêm Chủ tịch đảng cầm quyền trong lúc ông Thủ tướng Phạm Văn Đồng hạ bút ký một công hàm công nhận lãnh hải Trung Quốc bao phủ cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa? Chắc chắn 54 năm chưa phải là thời gian quá lâu để mọi người quên mất người đó là Hồ Chí Minh …”

Đó là tôi mới điểm qua (theo thứ thự alpha) vài vị thức giả thuộc dòng họ Phạm thôi đó nha, chớ nếu ghi lại ý kiến của cả trăm dân muôn họ thì chắc phải ngồi gõ bàn phím cho tới Tết (hoặc dám tới chết) luôn nữa – không chừng!

Chuyện đề HCM, tuy thế, chưa thể chấm dứt ngang đây. Trong một bài tiểu luận khác (“Bỏ Đảng Vì E Tội Cõng Rắn”) bác Hà Sĩ Phu lại đặt ra tiền đề sau: “… muốn Thoát Trung phải Thoát Cộng, muốn Thoát Cộng phải Thoát Hồ.”

Cũng như tuyệt đại đa số người Việt, tôi tin chắc là chúng ta đã “Thoát Hồ” rồi. Chuyện “Thoát Cộng” thì vẫn còn phải đợi, và chắc là phải đợi hơi lâu.

Tức nước vỡ bờ!

Nước chưa đủ tức? Ý thức và ý chí của kẻ bị trị chưa đủ mạnh? Hay đơn giản có thể chỉ vì vận mệnh của dân tộc này vẫn còn đen đủi lắm?

Thường dân như tôi, tất nhiên, không đủ tư cách để bàn đến những chuyện lớn lao cỡ đó. Còn những chuyện lặt vặt (cỡ “nó”) thì dễ ợt nên tôi nào có ngại chi đôi câu … thanh nghị: Chúng ta đã bị thế giới loài người bỏ lại phía sau xa lắc, xa lơ rồi. Xin đừng tiếp tục phí thì giờ cho một con chó chết nữa. Quên “nó” đi!