Tinh thần trách nhiệm của vị Thống Đốc sau cùng Ngân Hàng Quốc Gia VNCH

VOA

Ông Thống Đốc đã giữ đúng công tâm của một người công chức của khu vực công và đó là niềm hãnh diện cho VNCH, không bỏ chạy (tinh thần trách nhiệm) và rất trung thực, và bảo vệ tài sản quốc gia đến cùng không rơi vào tay kẻ cướp mà bàn giao vào tay kẻ có trách nhiệm. (Hình minh hoạ)

Đinh Xuân Quân

Nhân dịp tưởng niệm 49 ngày mất của ông Lê Quang Uyển, cựu Thống Đốc Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam, chúng tôi xin có bài viết sau đây để nêu lên tinh thần trách nhiệm của một vị công chức cao cấp khi quốc gia lâm vào cơn nguy biến.

Ông Lê Quang Uyển là Thống Đốc cuối cùng của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, sinh tháng 9 năm 1937, đã qua đời ngày 26 tháng 1 năm 2018 tại Chiang Mai, Thái Lan, thọ 81 tuổi. Cho đến ngày miền Nam mất vào tay cộng sản năm 1975 trong giới kinh tế tài chính ai cũng biết đến ông Lê Quang Uyển, Thống đốc trẻ tuổi (nhậm chức năm 36 tuổi) của Ngân Hàng Quốc Gia, với những tư duy và hành động đầy trách nhiệm trong vai trò của mình. Trước hết xin phép nhắc đến vài nét tiểu sử của ông, và sau đó tường trình một số hoạt động của ông trong tư cách Thống đốc Ngân hàng Quốc gia.

Sau khi tốt nghiệp HEC (Hautes Etudes Commerciales) tại Paris, một trường danh tiếng về tài chính ngân hàng vào năm 1960, ông Lê Quang Uyển đã về VN phục vụ. Trong một thời gian ngắn ông đã làm cho Ngân hàng Pháp Á (BFA – Banque Francaise de l’Asie). Sau đó ông Lê Quang Uyển cũng như nhiều chuyên viên trẻ khác ở VNCH cũng bị động viên vào quân đội vì lệnh tổng động viên, để chống trả với cuộc xâm nhập của miền Bắc. Ông đã lên đến cấp đại úy.

Sau một thời gian, từ quân đội ông được chuyển sang ngạch “chuyên viên Phủ Tổng thống,” một ngạch công vụ của VNCH dành cho các chuyên viên trẻ, có học thức và nhiều tương lai. Họ được đào tạo để trở thành các lãnh đạo trong tương lai của nghành kinh tế, tài chính, giáo dục, các công ty của chính phủ như nhà đèn, công ty đường, Air VN, vv. Các chuyên viên Phủ Tổng thống sau này có thể được giao những trách nhiệm cao cấp trong ngành hành pháp của VNCH. Ngạch này được thành lập từ thời Tổng thống Ngô Đình Diệm để lôi kéo các chuyên viên giỏi phục vụ cho khu vực công (service public) hay là trong chính phủ VNCH.

Trong cương vị này ông đã tham gia nhiều chuyến đi công cán của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, trong đó có chuyên viếng thăm Manilla. Vì có nhiều đóng góp tích cực trong ngành tài chính, ông đã được đề nghị vào giữ ghế Thống đốc Ngân hàng Quốc gia, một chức vụ có trách nhiệm giữ tài sản của VNCH và điều động – kiểm soát hệ thống ngân hàng thương mại của VNCH cùng việc tham gia vào chính sách tiền tệ – giữ tỷ lệ của đồng bạc VN, nhất là trong tình thế chiến tranh. Người ta nhớ nhiều nhất về Thống Đốc Uyển qua những vụ sau đây :

Vụ Tín Nghĩa Ngân hàng (TNNH hay Ngân hàng Con Gà Đẻ Trứng Vàng), một si-căn-đan thời VNCH. Tín Nghĩa Ngân hàng là một trong những ngân hàng có tiếng tại VN, có nhiều chi nhánh tại Sài Gòn, Chợ Lớn và tại các tỉnh. Ngân hàng này có tỷ lệ tín dụng cao và làm ăn phát đạt.

Vì có nhiệm vụ kiểm soát hệ thống ngân hàng thương mại VN, ban thanh tra ngân hàng của Ngân hàng Quốc gia có trách nhiệm theo dõi các nghiệp vụ cho vay của mọi ngân hàng có mặt tại VN, kể cả các ngân hàng ngoại quốc như CitiBank, BFA, BOA, v.v. Một thanh tra có báo cáo lên Thống Đốc ‘sơ hở’ trong quy trình cho vay tín dụng của Tín Nghĩa Ngân Hàng và việc này đã trở thành “si-căn-đan tài chính” tại VN. Ông chủ tịch Tổng Giám đốc Tín Nghĩa Ngân hàng, một người có nhiều ảnh hưởng trong giới kinh doanh tài chính đã dùng một số người thân tín trong gia đình để vay các tín dụng. Ông quên rằng những việc làm này cũng khó mà qua mắt các thanh tra của Ngân hàng Quốc gia. Các người được hưởng tín dụng của TNNH có tài sản quá thấp làm sao có thể thế chấp để đi vay một số tín dụng khổng lồ của TNNH. Thật ra thì ông Nguyễn Tấn Đời đã sử dụng những người này đứng tên vay tiền để cho cá nhân ông sử dụng các số tiền tín dụng này để đầu tư riêng.

Hồi thời đó tất cả các quy trình cho vay hay tín dụng đều phải làm bằng tay, chưa có tin học hay computer cho nên muốn kiểm tra phải tới tận nơi và xem xét trực tiếp các hồ sơ cho vay (Các sổ sách và tính toán làm bằng tay hay bằng máy NCR). Thống đốc Uyển đã trình Hội đồng Kinh tế Tài chính dưới sự chủ tọa của TT Thiệu và thảo luận với ngành cảnh sát hình sự để giúp Ngân Hàng Quốc Gia điều tra và đánh giá các hồ sơ cho vay của TNNH.

Nhân cơ hội ông Nguyễn Tấn Đời đi nghỉ mát ở Đà Lạt, Thống đốc Lê Quang Uyển đã gởi các thanh tra ngân hàng và cảnh sát hình sự đến làm cuộc điều tra các hồ sơ tín dụng gian lận của TNNH. Các thanh tra với sự yểm trợ của cảnh sát đã chặn các cửa của Tín Nghĩa Ngân Hàng ở bến Chương Dương để không cho một hồ sơ nào có thể thoát ra ngoài. Trụ sở Tín Nghĩa Ngân hàng cùng ở bến Chương Dương, không xa Ngân Hàng Quốc Gia. Qua việc kiểm tra này các thanh tra đã tìm thấy các hồ sơ tín dụng ‘dởm’. Lúc đó ông Nguyễn Tấn Đời là một Tổng Giám Đốc ngân hàng rất mạnh, có nhiều người che chở và việc kiểm tra sổ sách của TNNH là một kỳ công – đã phải được tổ chức như một chiến dịch quân sự.

Qua việc thanh tra và điều tra này của chuyên viên ngân hàng và cảnh sát, ông Nguyễn Tấn Đời đã bị đưa ra tòa. Ông bị tòa tuyên án và phải vào khám Chí Hòa. Trong trường hợp này Thống đốc Lê Quang Uyển đã làm đúng trách nhiệm của NHQG, là thanh tra hệ thống ngân hàng thương mại dưới quyền ông. Qua vụ này ông đã ngăn chặn được các lạm dụng trong ngành tài chính và đã bảo vệ cho các thân chủ gởi tiền tại TNNH.

Giữ tài sản quốc gia – 16 tấn vàng của VN

Trong những ngày chót của VNCH, một trong những vấn đề đặt ra là làm sao giữ tài sản quốc gia? Làm sao giữ 16 tấn vàng cho VN?

Hoa Kỳ muốn VNCH đưa 16 tấn vàng gởi dự trữ tại Ngân hàng Trung ương FED tại New York (một việc làm bình thường vì đa số các nước kể cả NHQG VN đều có trương mục tại ngân hàng FED New York). Sau khi bàn bạc, TĐ Lê Quang Uyển đã quyết định gởi các thoi vàng đi Thụy Sĩ, tại Ngân Hàng Bank for International Settlements – BIS tại Base.

Theo kinh nghiệm thế giới, nhiều chính phủ Âu châu trước đây bị CS xâm chiếm đã gởi dự trữ vàng của họ tại đây để tránh chiến tranh và sau này giữ được tài sản quốc gia. Một kế hoạch đã được đưa ra để chở 16 tấn vàng sang Thụy Sĩ và NHQG đã cho mướn một chuyến máy bay để chở vàng này đi Thụy Sĩ.

Trong lúc hỗn loạn của những ngày miền Nam sắp mất, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích và máy bay được mướn chở vàng đi Basel – Thụy Sĩ đã không thể đáp xuống TSN và kế hoạch gởi vàng qua Thụy Sĩ không thành.

Vào các ngày chót một số nhân viên ngân hàng từ cấp cao đều được cấp Walkie Talkie để dễ liên lạc với nhau hầu bảo vệ tài sản của quốc gia VN. Thống đốc Lê Quang Uyển tử thủ trong NHQG. Khi tiến vào Sài Gòn, quân đội CS đã mang xe tăng dọa bắn phá NHQG. Khi đó Thống Đốc mới cho mở cửa NHQG cho ban quân quản của CS vào.

Khi Cộng sản vào Sài Gòn họ cho phao tin (fake news) là cựu TT Nguyễn Văn Thiệu đã mang 16 tấn vàng đi nước ngoài trong khi nhiều người không có công trong việc này cũng kể công (nhận vơ) về việc giữ số vàng này. Sự thật ra sao? Báo “Tuổi Trẻ” đã đăng bài sau đây, nói về số vàng tại NHQG :

Bài viết trên tờ Tuổi Trẻ trích đoạn như sau:

“…Những ngày đầu tháng 5-1975, tôi vào trình diện tại Ngân hàng Quốc gia ở 17 Bến Chương Dương, thủ đô Sài Gòn cùng các đồng nghiệp khác, chỉ thiếu vắng một vài người. Chúng tôi được lệnh của Ban Quân quản Ngân hàng Quốc gia là chờ phân công tác.Trong khi chờ đợi, mỗi ngày mọi người đều phải có mặt tại cơ quan.

Lần kiểm kê cuối cùng. “ … Việc kiểm kê kho tiền và vàng là việc chúng tôi làm thường xuyên hằng tháng, hằng năm nên cảm thấy không có gì đặc biệt.Chỉ có một điều là tôi biết lần kiểm kê này chắc chắn là lần kiểm kê cuối cùng đối với tôi, kho tiền và vàng sẽ được bàn giao cho chính quyền mới. Tôi không lo âu gì cả vì biết chắc rằng số tiền và vàng nằm trong kho sẽ khớp đúng với sổ sách.

Trong những ngày hỗn loạn, các hầm bạc của Ngân hàng Quốc gia vẫn được chúng tôi quản lý một cách tuyệt đối an toàn. Cần nói thêm là các hầm bạc được xây rất kiên cố với hai lớp tường dày, mỗi lớp gần nửa thước, các cửa hầm bằng thép có hai ổ khóa và mật mã riêng, được thay đổi định kỳ, mỗi cửa nặng trên 1 tấn.

Đại diện Ban Quân quản là một cán bộ đứng tuổi, khoảng 50. Cùng tham gia với ông trong suốt quá trình kiểm kê là một anh bộ đội còn rất trẻ, trắng trẻo, đẹp trai và rất thân thiện. Anh hay nắm tay tôi khi trò chuyện. Sau này tôi mới biết tên anh là Hoàng Minh Duyệt – chỉ huy phó đơn vị tiếp quản Ngân hàng Quốc gia.

Số vàng đúc lưu giữ tại kho của Ngân hàng Quốc gia vào thời điểm đó gồm vàng thoi và các loại tiền vàng nguyên chất. Có ba loại vàng thoi: vàng thoi mua của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED); vàng thoi mua của một công ty đúc vàng ở Nam Phi – Công ty Montagu; và vàng thoi được đúc tại Việt Nam, do tiệm vàng Kim Thành đúc từ số vàng do quan thuế tịch thu từ những người buôn lậu qua biên giới, phần lớn từ Lào.

Tất cả những thoi vàng đều là vàng nguyên chất, mỗi thoi nặng 12-14kg, trên mỗi thoi đều có khắc số hiệu và tuổi vàng (thường là 9997, 9998). Các thoi vàng được cất trong những tủ sắt có hai lớp khóa và được đặt trên những kệ bằng thép, mỗi kệ được xếp khoảng năm, sáu thoi vàng. Nhưng qua năm tháng, bị nặng trĩu trước sức nặng của vàng, các kệ thép cũng bị vênh đi.

Các đồng tiền vàng được giữ trong những hộp gỗ đặt trong tủ sắt. Đó là những đồng tiền vàng cổ có nhiều loại, được đúc và phát hành từ thế kỷ 18, 19 bởi nhiều quốc gia khác nhau… Ngoài giá trị của vàng nguyên chất, các đồng tiền này còn được tính theo giá trị tiền cổ, gấp nhiều lần giá trị vàng nội tại của nó. Tất cả số vàng thoi và tiền vàng cổ đều được theo dõi chi tiết từng đơn vị, số hiệu, tuổi vàng, số lượng ghi trong một sổ kiểm kê do bộ phận điện toán (computer) của ngân hàng theo dõi định kỳ hằng tháng và hằng năm, hoặc bất cứ khi nào có thay đổi xuất nhập tồn kho. Kết thúc, ai nấy đều vui vẻ thấy số lượng tiền và vàng kiểm kê đều khớp với sổ sách điện toán từng chi tiết nhỏ. Tôi ký vào biên bản kiểm kê, lòng cảm thấy nhẹ nhõm. Việc bàn giao tài sản quốc gia cho chính quyền mới đã hoàn tất. Sau chiến tranh, ít nhất đất nước cũng còn lại một chút gì, dù khiêm tốn, để bắt đầu xây dựng lại. Về phía chúng tôi, điều này cũng chứng minh một cung cách quản lý nghiêm túc của những người đã từng làm việc tại Ngân hàng Quốc gia…”

Tác giả Huỳnh Bửu Sơn cũng liệt kê từng tủ và từng Hầm kho tàng. Và cuối bài viết, ông ghi: “Tổng cộng: 1.234 thoi vàng.”

Việc giữ và bảo tồn tài sản quốc gia, cho thấy là các công chức của NHQG mà đứng đầu là Thống đốc Lê Quang Uyển đã làm việc một cách nghiêm chỉnh, với tinh thần trách nhiệm rất cao. Ông Thống Đốc đã giữ đúng công tâm của một người công chức của khu vực công và đó là niềm hãnh diện cho VNCH, không bỏ chạy (tinh thần trách nhiệm) và rất trung thực, và bảo vệ tài sản quốc gia đến cùng không rơi vào tay kẻ cướp mà bàn giao vào tay kẻ có trách nhiệm. Thống đốc Lê Quang Uyển là một gương cho thế hệ trẻ – cho tinh thần trách nhiệm của công chức miền Nam.

Việc giúp đào tạo các chuyên gia khối kinh tế tài chính

Một khó khăn của VNCH trong những năm 1970 là thiếu ngân sách và khó tuyển mộ chuyên viên trẻ vì lương thấp. Hơn nữa, cơ quan viện trợ Hoa kỳ USAID đã dần rút các chuyên gia và tài trợ của họ ra khỏi các cơ quan kinh tế, tài chính của VN.

Trong việc quản lý vĩ mô kinh tế, chính phủ thường cho bán một số “công khố phiếu” ra cho công chúng, nợ công chúng để đắp vào thâm hụt ngân sách quốc gia.

Ngân Hàng Quốc Gia cũng tham gia vào các chính sách tiền tệ và cũng mua một số công khố phiều của chính phủ. Tiền lời của công khố phiếu được bỏ vào một quỹ của Ngân Hàng Quốc Gia và của Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín, được Thống Đốc Uyển quyết định dùng để trả lương cho nhân viên kinh tế tài chính và chia thưởng cho nhân viên của Ngân Hàng Quốc Gia. Lúc đó VNCH rất thiếu chuyên viên kinh tế ngân hàng và nhờ những biện pháp đó, NHQG đã giúp cho guồng máy kinh tế tài chính làm việc một cách bình thường. Qua việc này, Thống Đốc giúp bồi đắp vào các chỗ hổng trả lương cho chuyên viên mà trước đây cơ quan USAID tài trợ nhưng các ngân khoản viện trợ ngày càng giảm. Nhờ vậy một số chuyên viên trẻ đã được gởi đi làm tại các bộ như Tài Chính, Nha Thuế Vụ hay bộ Kế Hoạch, nói chung mọi nơi trong nghành kinh tế tài chính cần chuyên gia.

Để đầu tư cho hậu chiến, ông cũng có chương trình kéo các chuyên viên tài chính ngân hàng trẻ gia nhập Ngân Hàng Quốc Gia gây dựng nhân sự cho tương lai của ngành ngân hàng VN. Một số được tuyển mộ vào làm trong Văn Phòng Thống Đốc của Ngân Hàng Quốc Gia.

Thống Đốc cũng dùng Quỹ Phát Triển (QPT) Kinh tế Quốc Gia mà ông làm chủ tịch Hội Đồng Quản Trị gởi các chuyên viên của QPT đi giúp các bộ. QPT là một chi nhánh – thành phần của NHQG nhận được vốn của Hoa Kỳ (USAID) và được Trung Hoa Dân Quốc giúp vốn. Ngoài việc tái tài trợ các ngân hàng phát triển VN (Ngân Hàng Phát Triển Kỹ Nghệ, Ngân Hàng Phát Triển Nông nghiệp, SOFIDIV,vv.) Quỹ Phát Triển Kinh tế Quốc Gia có một số chuyên viên trẻ được gởi đi trợ giúp các Bộ Kế Hoạch, bộ Tài Chính qua việc tham gia vào công tác xây dựng Kế Hoạch Phát Triển Hậu chiến, nhất là sau khi ký kết Hiệp Định Paris.

Ngoài việc này, Thống Đốc Lê Quang Uyển cũng cố vấn cho TT Thiệu chọn người trong khối Kinh tế Tài Chính, trong đó ông có giới thiệu TS Nguyễn Văn Hảo làm “Tổng Giám Đốc” Quỹ Phát Triển và sau này trở thành phó Thủ Tướng đặc trách về Kinh tế Tài chính.

Thống Đốc Lê Quang Uyển và tù cải tạo

Ông Lê Quang Uyển, cũng như bao nhiêu nhân viên chính quyền và sĩ quan khác, đã phải đi trình diện cải tạo. Khác với Phó Thống Đốc Ngân Hàng Quốc Gia, ông Nguyễn Văn Dõng, cũng tốt nghiệp HEC, ông không trình diện khi CS kêu gọi thành phần nội các ra trình diện (Thống Đốc Ngân Hàng Quốc Gia có hàm bộ trưởng). Ông Phó Thống Đốc Nguyễn Văn Dõng đã ra trình diện và được đưa ra trại tù Thanh Cẩm, Thanh Hóa. Tại đây ông Dõng đã ở cùng buồng và nằm ngay bên cạnh một người bạn thân của tác giả bài này. Ông đã qua đời vào khoảng năm 1978 vì thiếu dinh dưỡng.

Ông Lê Quang Uyển đã ra trình diện bên thắng trận với cấp bậc đại úy của quân Lực VNCH. Ông bị đi cải tạo 3 năm. Ông Uyển đã đi Pháp cùng vợ, bà Geneviève LyLap, một công dân Pháp và là nhân viên Tòa Đại sứ Pháp tại Sài Gòn. Trước khi rời đất nước ông được Thường vụ Bộ chính trị Cộng Sản mời ở lại cộng tác với chính quyền Việt Nam, nhưng ông từ chối. Có thể ông đã nhìn thấy khả năng chuyên môn cao và nhân cách là những ưu tiên thấp -có thể rất thấp- trong guồng máy chính quyền cộng sản nên ông đã cương quyết ra đi.

Năm 1981 ông Uyển tham gia làm việc với ngân hàng Banque Indosuez. Ông làm giám đốc chi nhánh tại Saudi Arabia cho đến năm 1990. Sau đó ông đứng đầu “Al BankAl Saudi Al Fransi” (Saudi French Bank), ngân hàng duy nhất của Pháp tại Arập Saoudi với hơn hai ngàn nhân viên. Và ông cũng được phái đi làm cho nhiều chi nhánh của ngân hàng Indosuez tại nhiều nước khác nhau.

Ông Lê Quang Uyển đã về hưu tại Chiang Mai, Thái Lan. Ông là hình ảnh một công chức VNCH có tư cách xứng đáng đại diện cho hình ảnh khu vực công của miền Nam, có tinh thần trách nhiệm rất cao.

Nhân dịp 49 ngày ông qua đời tôi viết bài này để đề cao tinh thần trách nhiệm và tinh thần phục vụ cao độ của một công chức cao cấp VNCH, cựu Thống Đốc Lê Quang Uyển.

TS Đinh Xuân Quân

* TS Đinh Xuân Quân là cựu nhân viên Quỹ Phát Triển trực thuộc NHQG, đồng thời là cựu GS Đại Học Luật Khoa, ban Kinh tế, Đại Học Saigon (khóa 1974-1975). Hiện nay ông là chuyên gia cố vấn kinh tế cho Liên Hiệp Quốc (UNDP+World Bank) và đã tham gia USAID làm việc tại nhiều nước như Afghanistan, Iraq, Indonesia, Liberia, vv. kể cả Việt Nam. (qdinh2@yahoo.com)

Sâu mọt và giòi bọ- Tạ Duy Anh

Sâu mọt và giòi bọ

Tạ Duy Anh

Sáng nay đọc báo mới biết vụ giải cứu mang tên “Ngạo nghễ Việt Nam” đã khiến 54 quan chức phải ra tòa. Tôi nghĩ số người bị tòa lương tâm giày vò (giả định họ còn có lương tâm) cao hơn nhiều. Nhưng kể cả chấp nhận con số 54, cùng với số tiền họ móc từ túi những đồng bào lâm vào cảnh cùng đường (số thực chắc ngạo nghễ hơn nhiều!), cũng đủ thấy ghê rợn.

Họ là ai?

Họ đều là đảng viên, không phải đảng viên làm sao chui được vào những chỗ béo bở như vậy.

Họ hầu hết đều có bằng Lý luận cao cấp chính trị.

Nhiều người trong số đó từng “thành kính và trang nghiêm” sụt sịt thề cống hiến cho dân cho nước.

Họ chắc chắn đều có huân, huy chương, bằng khen, giấy khen các loại.

Nhưng rốt cuộc thì họ là ai?

Họ thua xa bất cứ con giòi bọ nào.

Xin đăng lại bài viết và in báo đã gần 20 năm, nhân sự kiện nói ở trên.

***

Chuyện như đùa nhưng lại là sự thật trăm phần trăm.

Một tờ báo nọ có đăng bài nhàn đàm về tham nhũng của tôi, bằng thứ giọng có phần châm biếm. Sau khi báo ra, Tổng biên tập liền nhận được thư và điện thoại của một vài người, đều giấu tung tích, trước thì dọa nạt, sau nhũn nhặn xin góp ý về những cặp từ cần thay trong bài viết vừa kể.

Cuối cùng thì mọi ý kiến “đóng góp” đều toát lên ý sau đây: Ông tác giả nên cân nhắc để có lời cải chính. Gọi bọn tham nhũng là sâu mọt thì được chứ ví họ như giòi bọ là quá lời! Giòi bọ chuyên rúc ráy những nơi bẩn thỉu, xú uế. Rằng thì dù sao, dù có xấu xa, nhơ bẩn mấy đi nữa thì họ, những kẻ bị chỉ đích danh là tham nhũng ấy vẫn cứ… là người!

Nghe thấy cũng có phần thống thiết, chân thành, đáng thương.

Sâu mọt hay giòi bọ thì cũng cùng đục khoét, ăn bám, phá hoại, làm nhũng nhiễu thân chủ mà thôi. Nhưng sâu mọt nghe không tởm, không bẩn bằng giòi bọ. Tham nhũng mà cũng vẫn còn biết tự ái kia đấy! Nhưng bình tâm để suy xét thì thấy rằng, thực ra lũ giặc nội xâm này cũng có lý khi đòi được đối xử nhẹ tay. Bởi vì:

– Thứ nhất: Chúng là những kẻ đạo mạo, ăn mặc vào loại tươm tất, nhiều kẻ không thiếu những từ văn hoa khi nói với người khác.

– Thứ hai: Tuy tham nhũng nhưng chúng luôn luôn cho mọi người cảm giác đang cống hiến hết mình bao gồm cả sức lực lẫn trí tuệ, lẫn hạnh phúc riêng cho sự nghiệp chung.

– Thứ ba: Chúng toàn chén những thứ thơm tho, béo bổ, quý hiếm… thuộc hàng cao lương mỹ vị, kèm những chai rượu mà đám giàu có châu Âu, châu Úc cũng phải ngần ngại khi nhấc từ trên kệ xuống. Tham nhũng mà phải ăn cơm bụi, cơm bình dân, uống nước vối loãng thì có họa điên!

– Thứ tư: Chúng chỉ gặm, khoét những chỗ mọt mục, những chỗ sơ hở…

– Cuối cùng là chúng không bao giờ làm cho kho công quỹ hết nhẵn mà thường bớt lại cái vỏ rỗng bên ngoài để mọi người cứ yên trí mà cống nạp tiếp!

Với năm đặc tính nổi trội và khác biệt trên, lẽ nào lại ví chúng như giòi bọ, là loại chỉ đục, gặm những xác chết.

Sau khi suy nghĩ, tôi bèn nói với ngài Tổng biên tập là tôi đồng ý với đề nghị của tầng lớp tham nhũng và bài viết nên sửa theo ý tránh từ giòi bọ.

Nào ngờ ý kiến của tôi vừa được nêu ra thì một con ruồi xanh óng ánh như viên minh châu đáp xuống trước mặt, dùng chân chặn ngòi bút, không cho viết tiếp. Tôi hất ra, nó lại xông vào, ghì chặt lấy. Tôi dọa di nát, nó cũng nhất định không buông, tức là chấp nhận chết, kể cả không toàn thây. Lạ nhỉ, dù chết cũng không sợ, thì vấn đề phải kinh hoàng lắm.

Đêm về vừa nằm xuống, tay đặt lên trán nghĩ ngợi, thì tôi rơi vào trạng thái nửa thức nửa ngủ. Đúng lúc ấy con ruồi xanh mẹ xuất hiện. Nó đanh đá mắng tôi xa xả và nói rằng nó không muốn con nó bị ô danh khi bị đem ra ví với bọn tham nhũng. Giòi bọ là giòi bọ chứ không thể “như” tham nhũng được. Giòi bọ dù sao vẫn có ích… chẳng hạn làm sạch môi trường, hoặc có thể dùng làm mồi câu cá… chứ tham nhũng thì chỉ thuần túy phá hoại và bôi bẩn.

Tôi nhớ là trong mơ mình hét lên: Vậy mày nghĩ giúp tao cái tên để gọi bọn tham nhũng! GIÒI BỌ cũng không được, thì biết gọi chúng bằng cái tên gì bây giờ?

L.T.

Nguồn: FB Lao Ta

Mất bao lâu để Việt Nam bắt kịp thế giới?

Oanh Vy Lý

Mất bao lâu để Việt Nam bắt kịp thế giới?

GDP đầu người hiện tại của Việt Nam là $3,600 và mức tăng trưởng là 7%. Vậy mất bao lâu để có thế bắt kịp các nước khác?

– Thái Lan, GDP $7,200. Việt Nam cần 11 năm.

– Malaysia, GDP $11,000. Việt Nam cần 17 năm.

– Hàn Quốc, GDP $31,000. Việt Nam cần 32 năm.

– Đài Loan, GDP $33,000. Việt Nam cần 33 năm.

– Nhật Bản, GDP $39,000. Việt Nam cần 36 năm.

– Pháp, GDP $43,000. Việt Nam cần 37 năm.

– Đức, GDP $50,000. Việt Nam cần 39 năm.

– Mỹ, GDP $69,000. Việt Nam cần 44 năm.

– Singapore, GDP $72,000. Việt Nam cần 45 năm.

– Luxembourg, GDP $135,000. Việt Nam cần 54 năm.

Với điều kiện là các nước khác không tăng trưởng, không phát triển gì thêm và dặm chân tại chỗ. Nếu họ phát triển ở mức 1-3% thì Việt Nam phải mất 100 năm để bắt kịp Hàn Quốc và 200 năm để theo kịp Singapore.

Tất cả số liệu đều công khai trên các tổ chức như Ngân Hàng Thế Giới, IMF và CIA.

Ngày xuất bản bài viết này là 24/12/2022. Mong năm 2023 sẽ khác.

Tổng hợp nhiều nguồn

FB.Peter Nguyenthanh

 

 


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Vũ Quang Thuận

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

 

“Một đêm Vũ Thư Hiên ngủ ở nhà tôi. Sáng hôm sau, tung chăn dậy, nhìn ra cửa sổ, nghe tiếng loa từ Ngã Sáu vọng vào, Hiên nhíu mày bảo:

– Hình như tao đã gặp buổi sáng như thế này ở đâu rồi.

Đúng là tiếng loa đã có từ lâu lắm rồi. Nó đã ngấm vào máu thịt, như là tiền kiếp vậy. Bao nhiêu năm chúng tôi đã nghe những bản nhạc hiệu ấy, những giọng nói đanh thép mở đầu ấy và cả những giọng điệu trong nội dung người viết người đọc nữa. Nó đã biến thành một phần của chúng tôi.” (Bùi Ngọc Tấn. Viết Về Bè Bạn. Hà Nội: Nhã Nam & NXB Hội Nhà Văn, 2012).

Cứ nghe ra rả cả ngày lẫn đêm (đảng ta, nhà nước ta, xã hội ta, nhân dân ta, quốc hội ta, bộ đội ta, sứ quán ta, người phát ngôn của bộ ngoại giao ta…) suốt “bao nhiêu năm” nên “nó biến thành một phần của chúng tôi” là… phải. Tất nhiên, đây không phải là chuyện ngẫu nhiên hoặc tình cờ – theo nhận xét của nhà bình luận La Thành:

“Trải qua nhiều chục năm thực hành và thực hành rất thành công, ngành tuyên truyền của Đảng Cộng sản đã đạt đến trình độ chuyên nghiệp và tinh vi vượt xa mọi lĩnh vực còn lại của thực tiễn cầm quyền. Để thí dụ, trong khi đã cân nhắc loại bỏ đi các thuật ngữ ‘ngụy quyền’, ‘ngụy quân’ trong sách giáo khoa lịch sử, các sử gia của chế độ vẫn tiếp tục sử dụng các thuật ngữ ‘Đảng ta’, ‘Nhà nước ta’, ‘quân và dân ta’, v.v. với dụng ý đánh đồng các thành phần trong hệ thống chính trị của Đảng Cộng sản với toàn thể quốc dân và xã hội – một phép nguỵ biện về lô-gích và một sự trâng tráo về hành xử.”

Tuy “trâng tráo” nhưng hiệu quả. Nạn nhân của cách tuyên truyền lì lợm và thô bạo này, với thời gian, có thể biến thành… thủ phạm (dễ) như chơi. Thử nghe đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, trưởng nam của thi sĩ Thế Lữ, nói về bằng hữu của thân phụ ông (trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn) nha:

– Ta ngặt lắm… Khái Hưng là ta… thịt mà. Bác Tam không trốn kịp thì cũng bị.” (Trần Đĩnh. Đèn Cù II. Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Cũng trong tác phẩm thượng dẫn, chương 44, tác giả viết tiếp:

“Báo Nhân Dân năm nay đặc biệt kỷ niệm báo ra hàng ngày nên tổ chức một buổi riêng ôn lại thành tích tuyên truyền chiến tranh chống Mỹ… Nguyễn Sinh, xưa phóng viên thường trú Vĩnh Linh, Vĩnh Mốc lên nói… anh đã chứng kiến những người ở phía bên Nam kia bị ta bắt sang chôn sống kêu rất lâu dưới huyệt, tôi lại thấy mọi người lạnh mặt lại.”

Ta thịt người này, ta chôn sống kẻ khác… nhưng chả ai áy náy hay phải chịu trách nhiệm gì ráo trọi về những việc làm tàn bạo đến độ vô nhân tính như thế vì đây là sự tàn ác của cả tập thể mà. Vô số người dân Việt đã vô tình dùng chung căn cước với Đảng CSVN (cái tập đoàn hiếu sát, hiếu chiến, bất nhân, tham lam, ác độc, giảo hoạt …) một cách hết sức hồn nhiên và vô tư: Đảng ta, nhà nước ta, quốc hội ta, bộ đội ta, sứ quán ta, người phát ngôn của bộ ngoại giao ta … Cũng không ít kẻ hễ mở miệng ra là cũng ba hoa (“ta/ta”) cứ y như loa đài của Nhà Nước vậy.

Dù vậy, Nhà Nước vẫn chưa yên tâm nên cả hệ thống truyền thông – gần trăm năm qua – luôn luôn nhắc nhở cho mọi người nhớ “con đường mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã chọn!” Kiểu đánh đồng rất mất dậy và vô cùng trắng trợn này, tuy thế, hầu như đã không gặp phải bất cứ một sự chống đối công khai nào ráo.

Mãi cho đến đầu thế kỷ XXI, vào hôm 24 tháng 7 năm 2016, mới có một công dân Việt Nam – Trần Thị Thảo – đứng giữa phố phường, nói rõ (và nói to, to hơn cả tiếng loa phường) rằng mình hoàn toàn và tuyệt đối không có liên hệ chi với với tập đoàn lãnh đạo của chế độ hiện hành: “Tiên sư cha chúng mày chứ! Lịch sử sẽ lên án chúng mày, cả một chế độ thối nát, từ trên xuống dưới!

Vài tuần sau nữa, vào ngày 17 tháng 9, trong một cuộc phỏng vấn dành cho biên tập viên Mặc Lâm (RFA) giáo sư Tương Lai cho biết thêm là cái “chế độ thối nát” mà bà Trần Thị Thảo vừa đề cập đến (theo thứ tự từ dưới lên trên) gồm những “thằng” sau:

“Từ ông thôn ông ấy bảo thằng xã nó ăn được thì tại sao tao không ăn được? Thằng xã bảo thằng huyện nó ăn được thì tại sao tao không ăn được? Thằng huyện bảo thằng tỉnh nó ăn được thì tại sao tao không ăn được? Thằng tỉnh bảo Bộ chính trị nó còn ăn, thằng Tổng bí thư nó còn ăn tại sao tao không ăn…”

Giáo sư Tương Lai thản nhiên gọi TBT của Đảng Cộng Sản Việt Nam Quang Vinh bằng “thằng” khiến không ít người phải lấy làm ái ngại. Họ quan ngại rằng (cũng như bà Trần Thị Thảo) ông đã đi hơi xa trong việc biện biệt giữa “chúng ta” và “chúng nó.”

Nỗi lo ngại chính đáng này (bỗng) trở thành viển vông khi một công dân Việt Nam khác, ông Vũ Quang Thuận, đột nhiên xuất hiện như một “dàn đại bác” – theo lời tiên tri của blogger Bà Đầm Xoè:

Với tôi, dù Vũ Quang Thuận là ai thì sự lên tiếng của anh có giá trị khai sáng rất cao cho dân trí Việt Nam. Nó đã như một dàn đại bác liên tục nả vào đầu giới chóp bu cộng sản Việt Nam không trừ một ai, kể cả “linh hồn bất khả xâm phạm” Hồ Chí Minh. Với tôi, những gì Vũ Quang Thuận đã “bắn ra” đã đưa anh vào thế anh có thể biến mất bất kỳ lúc nào trước họng súng của chế độ CSVN đã bủa vây anh từ bốn phía.”

Quả nhiên, Vũ Quang Thuận và thân hữu của ông trong Phong Trào Chấn Hưng Nước Việt đã bị bắt giam vào hôm 3 tháng 3 năm 2017.

Theo blogger Huỳnh Ngọc Chênh thì “việc bắt giữ hai công dân Vũ Quang Thuận và Nguyễn Văn Điển là vi phạm nhân quyền, là dùng biện pháp bạo lực để dập tắt và chà đạp lên quyền tự do ngôn luận của công dân.” Ông bạn đồng nghiệp của tôi nói không sai nhưng e chỉ đúng phân nửa mà thôi.

Quả thực là nhà đương cuộc Hà Nội đã “dùng bạo lực chà đạp lên quyền tự do ngôn luận của công dân” nhưng “dập tắt” được công luận thì vô phương, hay nói chính xác hơn là vô vọng. Trên mặt trận truyền thông, ĐCSVN đang phải đối mặt với một cuộc chiến tranh nhân dân mà Vũ Quang Thuận (và Nguyễn Văn Điển) chỉ là hai cảm tử quân ở tuyến đầu thôi!

TNT – 2017


 

Bàn về CHỮ TÍN

Văn Hóa Việt

Bàn về CHỮ TÍN

Qua chuyện ông Nguyễn Thiện Nhân nói rằng: tôi nói giọng Bắc nhưng là người miền Nam, tôi sẽ không gạt bà con đâu.

Với tôi, những người CS dù nam hay bắc thì cũng chẳng bao giờ tôi tin. Ví như ông Nguyễn Đức Chung người Bắc, giọng Bắc. Nhưng qua vụ Đồng Tâm ông nuốt lời hứa như thế nào? Rồi ông Nguyễn Tấn Dũng người Nam, giọng Nam. Nhưng trước quốc hội ông thề không chống được tham nhũng thì ông sẽ từ chức ngay. Nhưng ông có từ đâu? Bởi vậy, chữ Tín đối với những người cs rất xa xỉ, bất kể người Nam hay người Bắc, người trước hay người sau. Đã là cộng sản thì miền nào cũng thế, thời nào cũng thế! Tôi kể chuyện này để mọi người hiểu thêm về chữ tín của cs nè:

* Chiều 30 tết năm Mậu Thân, anh rễ tôi mang balo, súng đạn về nhà tôi ăn tết. Mẹ thấy anh về ngạc nhiên hỏi:

– Con trốn đơn vị về à?

– Dạ không đâu mẹ! Tết này 2 bên cam kết đình chiến 72 giờ để binh sĩ 2 bên nghỉ ngơi đón xuân. Con được đơn vị cho nghỉ 12 giờ, sáng mai con lên lại cho anh em khác về.

Giao thừa, mẹ tôi bày biện mâm cúng gia tiên, chưa kịp thắp nhang thì nghe súng nổ vang trời, hỏa châu sáng rực. Cả nhà tôi vừa kịp chui xuống hầm ngoài bờ tre, thì nhà tôi lãnh nguyên 1 quả đại bác. Tan tành!

* Đầu năm 1973 anh họ tôi được đơn vị cho về phép cưới vợ. Anh bàn với chị sau khi hòa bình anh sẽ mở một cửa hiệu sửa xe, lúc đó chị phụ anh buôn bán phụ tùng cho khỏi vất vả. Chị hỏi:

– Biết đến bao giờ mới được hòa bình hả anh?

– Sắp rồi em! 2 bên đã ký hiệp định ở Paris. Theo hiệp định này thì quân cs Bắc Việt phải rút hết khỏi miền nam em à.

Khoảng hơn một tháng sau đó, chiếc xe GMC đưa anh về trong chiếc quan tài có quốc kỳ phủ kín. Hàng xóm cạy nắp quan tài để gia đình nhìn mặt lần cuối, vợ anh ngất lịm.

* Sau 30.4.75 cán bộ lâm thời đến nhà Dì tôi bảo:

Bà chuẩn bị 10 ngày ăn để ông ấy đi học tập cải tạo.

– Dạ, học tập bao lâu mà chỉ đem lương thực có 10 ngày vậy chú?

– Giác ngộ tốt thì 5-7 bữa được về, còn ngoan cố thì học đúng 10 ngày.

Thế rồi, 10 ngày trôi qua rồi đến 10 tháng rồi tiếp 10 năm…. Dì tôi không còn đủ sức để chờ nữa….

Đây là kinh nghiệm của tôi được rút ra từ năm lên 10 tuổi. Và từ đó cho đến nay tôi vẫn không thể nào tin được người cộng sản.

Nguồn : Ngô Trường An-Cre: Mily Kim


 

Biệt phủ Hà Tĩnh: Khi giai cấp vô sản lại ‘vô vàn sản’ – BBC

BBC News Tiếng Việt 

Căn biệt phủ phong cách kiến trúc châu Âu đã làm dậy sóng dư luận vì mức độ hoành tráng sau một buổi tiệc ăn mừng thăng chức hồi đầu tháng Sáu.

Ông Phạm Bá Hiền được thăng cấp từ đại tá lên thiếu tướng hồi tháng Năm. Ông giữ chức Tư lệnh Binh đoàn 16, một đơn vị kinh tế thuộc Bộ Quốc phòng.

Ước tính trị giá lên đến hàng trăm tỷ đồng, căn biệt phủ nằm trên khu vực rộng khoảng 5.000 mét vuông tại thôn Đông Thắng, xã Mai Phụ, huyện Lộc Hà, một địa phương khó khăn tại Hà Tĩnh. Căn biệt phủ đứng tên người mẹ của Thiếu tướng Phạm Bá Hiền.

Biệt phủ của nhà Thiếu tướng Phạm Bá Hiền khiến dư luận nhắc lại những căn biệt phủ hoành tráng khác của quan chức Việt Nam được loan tin rộng rãi trên báo chí nhà nước những năm qua.

BBC.COM

Biệt phủ Hà Tĩnh: Khi giai cấp vô sản lại ‘vô vàn sản’ – BBC News Tiếng Việt

CHUYỆN CƯỜI RA NƯỚC MẮT CUỐI TUẦN: CHẤT XÁM VIỆT

Tuấn Mai SG is feeling funny.

Hai Tiến sỹ toán từ Sài Gòn đáp máy bay ra Hà Nội dự Hội nghị Toán học toàn quốc.

“Xe Bus hàng không” đưa họ từ sân bay Nội bài về số 1 Quang Trung, gần Bờ Hồ. Họ phải về Viện Toán ở Nghĩa Đô, nhưng tiền không rủng rỉnh lắm, họ bàn nhau đi chung một xe ôm.

Họ nói tiếng Anh cốt giấu dân xung quanh chuyện thiếu tiền đi taxi.

Hai vị đang phân vân vì đường khá xa, tiền còn ít thì một bác xe ôm công nghệ gầy guộc tiến lại hỏi:

– Thưa, hai vị về đâu ạ?.

– Dạ, về Viện Toán, ở Nghĩa Đô. Bác lấy bao nhiêu ạ?.

– Em xin hai bác một trăm rưỡi thôi.

Hai Tiến sỹ chung một xe đến Viện Toán. Bác xe ôm chỉ lấy 5 chục, đưa lại 100k, nói:

– Biết các bác là dân khoa học chẳng rủng rỉnh gì, em gửi lại 100k các bác uống nước.

– Cảm ơn bác! Bác tốt bụng quá! Sao bác biết tụi tôi dân khoa học?

– Thưa, lúc nãy ở Bờ Hồ, em nghe các bác bàn nhau.

– Bác cũng nghe được tiếng Anh ư?.

– Vâng! Em cũng Tiến sỹ Toán. Sáng mai em có tham luận mở đầu Hội nghị đấy. Hẹn gặp lại ạ, em tranh thủ kiếm cuốc nữa.

HAHAHAHAHA

Từ fb Bui The Tam


 

Một bà ở Bắc Ninh bị bắt vì giết cha chồng, làm chồng bị thương

Báo Nguoi-viet

July 7, 2023

BẮC NINH, Việt Nam (NV) – Nghi can Nguyễn Thị Viên, 55 tuổi, ở huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, vừa bị bắt, khởi tố với cáo buộc dùng búa đánh chồng bị thương nặng và đoạt mạng cha chồng.

Theo báo VNExpress hôm 7 Tháng Bảy, bà Viên và chồng, ông Lê Duy Hợi, thường xuyên cãi nhau do bà này nghi ngờ chồng giấu tiền riêng đi đánh bạc.

Dao và búa bị cho là của nghi can Nguyễn Thị Viên dùng để tấn công chồng và cha chồng. (Hình: VNExpress)

Khi ông Lê Duy Mộc, 91 tuổi, cha chồng bà Viên, can ngăn, bà này ấm ức.

Ngày 25 Tháng Sáu, bà Viên dùng búa đánh vào đầu ông Hợi khi ông đang ngủ.

Khi ông chồng vùng dậy bỏ chạy, nghi can cầm búa đuổi theo đến đầu cổng thì dừng lại. Khóa cổng, bà Viên quay lại nhà tiếp tục dùng búa và dao bầu tấn công cha chồng.

Sau đó, nghi can Nguyễn Thị Viên uống thuốc sâu và tự đâm dao vào mạn sườn bên trái với ý định tự sát nhưng được đưa đi cấp cứu kịp thời nên bà này giữ được mạng sống.

Hai cha con ông Lê Duy Mộc bị thương nặng. Hai ngày sau, ông Mộc thiệt mạng tại bệnh viện.

Trong một vụ án mạng khác liên quan cha chồng, con dâu, báo Lao Động hồi Tháng Hai năm ngoái cho biết, nghi can Nguyễn Đình Thắng, 62 tuổi, ở huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn, dùng súng tự chế bắn chết bà LTX, con dâu, 27 tuổi, rồi tự sát.

Vụ án mạng xảy ra sau khi con dâu mới xây nhà ở cạnh nhà ông Thắng. Thời điểm xảy ra án mạng, con trai ông này đang đi làm tại xã khác trong huyện.

Giới chức xã Thanh Vận cho biết thêm, hai ngày trước khi nổ súng, ông Thắng uống rượu, có xô xát với con dâu và cháu nội 3 tuổi. Sau đó, ông này bị công an xã triệu tập.

Giới chức xã cũng cho rằng nghi can Nguyễn Đình Thắng “thường xuyên uống rượu trong thời gian dài khiến thần kinh bị ảnh hưởng.”

Nghi can Nguyễn Thị Viên khi bị bắt. (Hình: VNExpress)

Liên quan vụ án mạng này, báo Công An Nhân Dân cho biết thêm, tại tỉnh Bắc Kạn, hầu như năm nào cũng có vụ dùng súng tự chế bắn người thân hoặc hàng xóm làm chết người.

Trong vòng 10 năm gần đây, trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn đã xảy ra hơn 20 vụ dùng súng tự chế để giết người, tự sát hoặc “bắn nhầm” làm chết và bị thương nhiều người.

Theo nhà chức trách địa phương, hầu hết những vụ án mạng bằng súng tại tỉnh Bắc Kạn đều có nguyên nhân từ mâu thuẫn trong gia đình hoặc giữa hàng xóm với nhau. (N.H.K)

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Biệt tăm biệt tích

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Hôm 25 tháng 5 năm 2016, Pearl Pinson (một nữ sinh 15 tuổi) bị bắt cóc khi đang trên đường đến trường và biệt tích luôn kể từ ngày đó. Tuy hơn 7 năm đã qua nhưng thân nhân của em vẫn cứ nuôi hy vọng là sẽ có ngày đoàn tụ, nhân viên điều tra vẫn không ngưng việc kiếm tìm, và báo giới (hàng năm) vẫn không ngừng nhắc nhớ đến câu chuyện buồn lòng này:

  • CBS: Family of Vallejo teen Pearl Pinson holds out hope 6 years after disappearance
  • NBC: Investigation ongoing in 2016 abduction of Pearl Pinson in Vallejo, California
  • The Mercury News: Bay Area community continues to search for kidnapped teen Pearl Pinson
  • Daily Republic: The fight to find Pearl Pinson remains strong 7 years after the teen was kidnapped

Thành phố Vallejo (nói riêng) hay California (nói chung) là một vùng đất phú túc nên tình người nơi đây cũng sâu đậm hơn hẳn nhiều nơi khác chăng?

Không nhất thiết thế đâu!

Hôm 10 tháng 6 vừa qua, mọi cơ quan truyền thông trên toàn thế giới đều hớn hở loan tin đã tìm thấy bốn trẻ em thất lạc, sau tai nạn khiến chiếc phi cơ Cessna 206 bị hỏng máy bất ngờ và rơi giữa xuống rừng sâu:

  • CBS NEWS:4 children lost in Colombian jungle found alive after being missing for 40 days
  • NBC NEWS: 4 children found alive 40 days after plane crashed in Amazon jungle
  • PBS NEWS: 4 Indigenous children found alive 40 days after plane crash in Amazon rainforest
  • The New York Times: 4 Missing Children Found Alive After 40 Days in Colombian Jungle

Lòng yêu thương và sự sự tận tụy của người dân Colombia (một xứ sở nghèo nàn) dành cho những công dân bản địa nhỏ bé của họ thật thiết tha,  và rất đáng trân trọng:

Các em nhỏ, tất cả đều thuộc bộ tộc bản địa Huitoto, đã bị mất tích kể từ khi một chiếc bay hạng nhẹ lao xuống rừng Amazon vào buổi sớm ngày 01/05. Thảm kịch đã khiến người mẹ qua đời, và ba đứa con, 13, chín, bốn và một tuổi, bị lạc trong một khu vực đầy rắn, báo đốm và muỗi.

Nhân viên cứu hộ ban đầu e sợ điều tồi tệ nhất sẽ xảy đến, nhưng những dấu chân, trái cây trong rừng bị ăn dở, và những tín hiệu khác sớm mang đến cho họ một hy vọng là các em có thể còn sống sót sau khi rời khỏi nơi chiếc máy bay rơi để tìm kiếm sự giúp đỡ…

Giới chức đã rải 10.000 tờ rơi với những lời khuyên về sinh tồn được viết bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng bản địa của bộ tộc Huitoto, và các trực thăng của quân đội phát đi thông điệp của bà các em nhỏ qua loa, để trấn an các em là công cuộc tìm kiếm vẫn đang tiếp diễn. (Matt Murphy. “Colombia: Làm Cách Nào Bốn Em Bé Có Thể Sống Sót Trong Rừng Thiêng Nước Độc?” BBC – 06/12/ 2003)

Câu chuyện cảm động về những đứa trẻ bị thất lạc, từ một quốc gia xa xôi, khiến tôi không khỏi mủi lòng khi liên tưởng đến những đồng bào biệt tăm/biệt tích của mình. Suốt mấy thập niên qua, hết thế hệ này đến thế hệ khác, họ cũng đã lần lượt và âm thầm biến mất khỏi cõi đời này nhưng không hề nhận được sự quan tâm của bất cứ ai – ngoài mấy người thân, nếu có!

Hơn 10 năm trước, vào hôm 12 tháng 11 năm 2009, Việt Báo (California) đã phổ biến một mẩu nhắn tin ngăn ngắn (“Cha Xin Giúp Tìm Con Gái Lạc 25 Năm Trước Ở Biển Thái Lan”) khiến không ít độc giả phải cảm thấy nặng lòng:

Bé Bích Hằng bị thất lạc từ năm 1984, 14 tuổi, cho đến nay… Đã xa gia đình và cha mẹ hơn 25 năm qua… Mong rằng Bích Hằng sẽ được đoàn tụ với gia đình trước khi ngày cha mẹ qua đời. Muôn ngàn đa tạ và mang ơn các bạn.  Email: chatimcon@gmail.comtangbaocan@gmail.com. Mobile Number: 714 487 4241. Other: 714 839 1587.” Xin cầu nguyện và chúc lành.

Gần nửa thế kỷ đã qua, Bích Hằng vẫn biệt vô âm tín. Trang sử thuyền nhân đã đóng nhưng dân Việt vẫn tiếp tục thất tung, và mỗi lúc một thêm nhiều. Hôm 24 tháng 5 vừa rồi, trang FB Hung Tran có ghi lại một status ngắn:

Nhạn Ơi! Em Ở Đâu Về Với Gia Đình.

Em gái tôi là Nguyễn Thị Nhạn, sinh năm 1982. Quê quán xã Thiệu Quang, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Lúc nhỏ do gia đình khó khăn, em đã phải nghỉ học nhường cho tôi được đến trường, rồi e phải đi lao động kiếm sống xa gia đình từ 13 tuổi…

Đến khi tôi học Sư phạm e phụ giúp nuôi tôi ăn học, phụ giúp bố mẹ chi tiêu. Trong gđ so với e tôi là người may mắn hơn. Em cứng rắn, nghị lực hơn tôi. Cuối năm 2003 e viết cho mẹ một lá thư : “Mẹ đọc được lá thư này mẹ đừng khóc, con tặng mẹ 1 chỉ vàng làm kỉ niệm, hẹn một con giáp con sẽ về.”

Bố mẹ cứ đợi và hi vong nhưng đã 16 năm trôi qua em vẫn không về. E đang ở đâu ? Bố nhớ thương e chỉ biết ngậm ngùi nuốt nước mắt vào trong, còn mẹ cũng lặn lội khắp nơi để tìm em. Bố mẹ đã già, cạn nước mắt vì các anh, vì em. Chỉ mong những năm còn lại trên cuộc đời em sớm quay về để gd đoàn tụ. Cho dù e có là ai, thành công hay thất bại, dù giàu có hay bần hàn thì e mãi là e của chị. Thương và nhớ em rất nhiều ! Nhờ cộng động mạng bạn bè chia sẻ giúp. Gđ tôi xin cảm ơn. Xin liên hệ :0967315570. 0965708529.

Đã có bao nhiêu Nguyễn Thị Nhạn “phải đi lao động kiếm sống xa gia đình” rồi không bao giờ về nữa? Con số hẳn không nhỏ, theo như những bản tin đọc được hàng ngày qua báo chí:

Tuy số nạn nhân đã lên đến mức báo động và dân Việt “biến mất” khắp mọi nơi nhưng nhà đương cuộc Hà Nội hoàn toàn không hề quan tâm chi đến thảm trạng này, dù chính họ vẫn “dỗ ngon dỗ ngọt” để người dân rời nhà bằng mọi cách – kể cả những lời dối gạt:

Báo Vietnamnet đăng tin:

“Bộ mặt làng quê thay đổi với những ngôi nhà cao tầng mọc lên san sát, ô tô đỗ trước ngõ… từ nguồn tiền các em gửi về… Một cán bộ thôn ở xã Thạch Kim (huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh) cho biết: ‘Thôn có 463 người đang lao động ở nước ngoài, nhiều nhất xã, chủ yếu đi theo con đường không chính thống… Một số em vào đại học sau đó lại bỏ ngang, có em đã sở hữu tấm bằng cử nhân nhưng không tìm việc làm ở quê nhà mà sang Mỹ, Canada, Anh, Hàn Quốc… làm việc.”

Báo Dân Trí cho biết: “Phần lớn thanh niên trai tráng sang Lào làm thuê, dù chưa giàu nhưng thu nhập ổn định, đổi đời sau một thời gian làm việc… Nhờ đó, bộ mặt làng quê thay đổi hẳn. Đường bê tông được xây dựng. Nhiều người đi Lào đứng ra đóng góp tiền làm đường, kéo điện thắp sáng, góp sức đưa thôn 5 đạt đủ 19 tiêu chí nông thôn mới…”

Tuyệt nhiên không thấy một tờ báo, một ban ngành hay một giới chức lãnh đạo nào nhắc nhở chi đến những kẻ đã biệt tăm/biệt tích nơi đất lạ xứ người. Cứ như thể là họ chưa bao giờ có mặt trên cuộc đời này cả. So với với những người dân bản địa ở rừng mưa Amazon (Nam Mỹ) thì mạng sống của người Việt hiện nay, xem chừng, hơi rẻ.

Blogger Lê Anh Hùng nói ông bị ‘cưỡng bức điều trị tâm thần’ và ‘đầu độc’

Báo Tiếng Dân

VOA

6-7-2023

Bạn bè đến thăm ông Lê Anh Hùng (áo xanh, thứ ba, bên trái) ngày 5/7/2023. Photo Facebook Đặng Bích Phượng.

Blogger Lê Anh Hùng, cộng tác viên của VOA, hôm 5/7 mãn án tù 5 năm vì bị cáo buộc “lợi dụng các quyền tự do dân chủ”. Ông Hùng nói với VOA rằng ông bị chính quyền “cưỡng bức” điều trị tâm thần một cách “lén lút” mà không có sự đồng ý của ông, và họ cũng không thông báo cho gia đình và luật sư.

Nhà báo độc lập Lê Anh Hùng bị bắt vào ngày 5/7/2018 với cáo buộc “Lợi dụng quyền tự do dân chủ, xâm phạm lợi ích của nhà nước…” theo Điều 331 của Bộ luật Hình sự. Nhưng mãi đến ngày 30/8/2022, ông mới được đưa ra xét xử, sau hai lần nhập viện tâm thần với thời gian điều trị hơn ba năm.

Ông Hùng nói với VOA ngay sau khi từ trại giam Ba Sao ở Hà Nam về nhà ở Hà Nội ngày 5/7.

“Ngay sau khi tôi bị bắt một thời gian ngắn họ cưỡng bức tôi đưa đi giám định tâm thần, giám định tâm thần hai lần. Việc đưa đi giám định họ cũng lén lút, không thông báo cho luật sư và gia đình tôi”.

Ông Hùng cho biết ông và gia đình phản đối việc ông bị cưỡng bức điều trị tâm thần, cho rằng đó là hành vi “đầu độc” người chưa được xét xử khi bị giam giữ ở trại Hỏa Lò ở Hà Nội:

“Việc họ cưỡng bức tôi đi giám định và cưỡng bức điều trị bắt buộc… tôi, gia đình và bạn bè và dư luận đều phản đối việc đó. Đã làm đơn này nọ nhưng đều không có tác dụng gì cả. Tôi vẫn bị cưỡng bức điều trị bắt buộc. Tôi phản đối dùng thuốc vì tiêm thuốc tâm thần rất độc hại vào người.

“Suốt thời gian hơn ba năm tôi sống trong tình cảnh bị đầu độc như thế”.

Ông Hùng nêu nhận định về lý do ông bị bắt và quy trình tố tụng trong vụ án của ông:

“Việc tôi bị bắt xuất phát từ hành vi ngày 23/5/2018 khi tôi treo biểu ngữ có nội dung tố cáo ông Hoàng Trung Hải, lúc bấy giờ là Bí thư Thành ủy Hà Nội, phạm tội gián điệp, theo Điều 110 BLHS, và tố cáo ông Nguyễn Phú Trọng, phạm tội phản quốc, theo Điều 108 BLHS…Nhưng họ không cho tôi cơ hội đưa ra bằng chứng, lý lẽ để bảo vệ lời tố cáo của mình, họ lại khởi tố vụ án và bắt tạm giam tôi ngay”.

“Đó là sự vi phạm pháp luật rất nghiêm trọng”, ông Hùng nhấn mạnh.

“Sau khi bị kết án ngày 30/8/2022, tôi có viết đơn đề nghị xem xét lại vụ án của tôi theo tình tự giám đốc thẩm. Đơn đã gửi ngày 25/2, cho đến nay đã hơn 4 tháng mà họ chưa trả lời tôi. Đây là sự vi phạm rất trắng trợn”.

“Bản án 5 năm tù của tôi, tôi nghĩ khi dấn thân vào con đường này thì tôi nhận thức rằng việc bị bắt bớ tù đày là một phần của cuộc đấu tranh này, nên tôi cũng không bất ngờ và đã sẵn sàng cho việc đấy”.

VOA đã liên lạc Bộ Ngoại giao Việt Nam, Công an thành phố Hà Nội, Tòa án Nhân dân cấp cao tại Hà Nội và đề nghị họ cho ý kiến về các phát biểu của ông Hùng, nhưng chưa được phản hồi.

Nhà hoạt động Nguyễn Vũ Bình, một người bạn của ông Hùng ở Hà Nội, chia sẻ ý kiến cá nhân của ông với VOA: “Tôi cũng như nhiều bạn bè của Hùng, rất vui mừng vì Hùng đã được trả tự do, kết thúc giai đoạn tù đày, nhất là giai đoạn trong bệnh viện Pháp Y tâm thần trung ương. Một người bình thường ở trong bệnh viện tâm thần hơn 3 năm, bị tiêm và uống thuốc tâm thần là điều ít ai tưởng tượng nổi. Hùng đã vượt qua, có thể nói là địa ngục trần gian để trở về với gia đình và bạn bè”.

Ông Hùng là một blogger khá nổi tiếng vì lên tiếng chỉ trích chính quyền Việt Nam và từng là cộng tác viên của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA).

“Chúng tôi rất vui vì ông Lê Anh Hùng đã được trả tự do,” một phát ngôn viên của VOA cho biết vào cuối ngày 5/7. “Chúng tôi rất mong được liên lạc với ông ấy.”

Trong một tuyên bố trước đây, Cơ quan Truyền thông Toàn cầu (USAGM), cơ quan chủ quản của VOA, kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do ngay lập tức cho các cộng tác viên của các đơn vị truyền thông trực thuộc, trong đó có ông Hùng, gọi đây là hành động nhằm bịt miệng những tiếng nói chỉ trích chính phủ.

“Việc bắt bớ nhằm bịt miệng những tiếng nói chỉ trích là điều đáng phê phán, và điều đó cần phải thay đổi ngược lại. Cuộc trấn áp tự do ngôn luận trên diện rộng ở Việt Nam là một cuộc tấn công trắng trợn vào quyền con người của công dân Việt Nam và tự do báo chí”, thông cáo của USAGM viết.

Ngoài blogger Lê Anh Hùng, còn có blogger Phạm Chí Dũng, một cộng tác viên khác của VOA, cũng bị chính quyền Việt Nam giam cầm. Các cộng tác viên khác của USAGM đang bị chính quyền giam cầm bao gồm blogger Nguyễn Văn Hoá, blogger Nguyễn Tường Thuỵ, blogger Trương Duy Nhất, là những người cộng tác với Đài Á châu Tự do (RFA), cơ quan truyền thông trực thuộc USAGM.

Chính quyền Việt Nam từ trước đến nay bác bỏ các cáo buộc vi phạm tự do báo chí, hay đàn áp tự do ngôn luận, cho rằng họ chỉ bắt giam và xét xử những ai “vi phạm pháp luật”.