Hương Sài Gòn

Nuong M Lam

Em trót sinh ra sau ngày “giải phóng”

Và lớn lên khi đất nước “thanh bình”

Nhưng cuộc đời sao vất vả điêu linh

Mẹ buôn gánh bán bưng nuôi con dại

Em đi học, qua đồng khô cỏ cháy

Trời quê hương bàng bạc áng mây buồn

Đường chiều về leo lét ánh tà buông:

“Con đói quá, mẹ ơi trời sắp tối !”

Sáng đi học bụng em còn thấy đói

Cô dạy em phải yêu kính “bác” Hồ

Em hỏi:bác là ai vậy, hở Cô?

Cô bảo:Nhờ bác, đảng ta CHIẾN THẮNG!

Em không hiểu, nhưng cúi đầu im lặng

Mà trong lòng thắc mắc mãi không thôi

“CHIẾN THẮNG” gì? Sao khổ qúa đời tôi

Nhà, họ lấy, phải đi vùng kinh tế!

Bao nhiêu năm, lớn lên đời vẫn thế

Trời quê hương còn đó áng mây buồn

Vẫn từng ngày, vẫn kiếp sống đau thương

Em thay mẹ: Đời bán bưng buôn gánh !

Em tự hỏi nếu đảng không “CHIẾN THẮNG”

Nước Việt Nam có chậm tiến thế nầy?

Người dân hiền đâu ngậm đắng nuốt cay

Bị “xuất khẩu” sang xứ người lao dịch !

Em thầm hỏi: Ai đây là kẻ địch?

Mỹ, Ngụy, bác Hồ, hay cộng đảng ta?

Ngụy bây giờ là “khúc ruột phương xa”

Mỹ là thầy, là ân nhân kinh tế !

Nước Việt thụt lùi bao thế hệ

Từ môi sinh cho đến đạo làm người:

Chính phủ chỉ là một lũ đười ươi

Bọn ích kỷ, phường buôn dân bán nước!

Xã hội xuống dốc nhanh không tưởng được

Quan bạo tàn, tham nhũng đến vô lương

Chuyên hối lộ, cướp nhà, chiếm hết ruộng nương

Dân thấp cổ kêu trời cao chẳng thấu !

Đảng của “bác” biến nước ta lạc hậu

Dân Việt Nam nghèo nhất cõi năm châu

Những huy hoàng ngày cũ nay còn đâu

Phụ nữ Việt bán thân ngoài muôn dặm !

Ôi tổ quốc, ôi quê hương nhung gấm

Hỡi địa linh, nhân kiệt hãy vùng lên !

Giành TỰ DO, DÂN CHỦ với NHÂN QUYỀN

Quyết đập đổ NỘI THÙ: phường cộng sản

Hết cộng nô, trời Việt Nam lại sáng

Đàn con Hồng cháu Lạc đứng cao lên

Xây đấp non sông, bờ cõi vững bền

Đó là lúc toàn dân ta CHIẾN THẮNG !

https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=200516006987717&id=100010879569530&pnref=story

Liên tiếp 2 vụ chồng đánh, tạt axit vợ ở Đồng Tháp, Thanh Hóa

Báo Nguoi-viet

July 30, 2023

ĐỒNG THÁP, Việt Nam (NV) – Nghi can Trần Văn Ung, 54 tuổi, ở huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp, vừa bị bắt với cáo buộc đánh chết vợ do nghi ngờ bà này ngoại tình.

Theo báo Dân Trí hôm 30 Tháng Bảy, vào lúc nửa đêm, Công An Huyện Lấp Vò nhận được tin báo nghi can Ung đang đánh vợ, bà HTX, 52 tuổi, tại tư gia.

Nghi can Trần Văn Ung và hai thanh gỗ dùng để đánh chết vợ ở tỉnh Đồng Tháp. (Hình: Dân Trí)

Khi công an xuất hiện tại hiện trường thì bà X. đã nằm bất động trên sàn nhà, vùng đầu và mặt bê bết máu. Lúc này, nghi can vẫn đang cầm hai thanh gỗ dài khoảng 40 cm là công cụ gây án.

Nghi can Ung lập tức bị bắt trong lúc nạn nhân thiệt mạng do vết thương quá nặng.

Tại đồn công an, nghi can Ung khai rằng mình đánh vợ do nghi ngờ bà này ngoại tình.

Trong một vụ khác, theo báo Người Lao Động hôm 29 Tháng Bảy, nghi can Bùi Duy Khánh, 34 tuổi, ở huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa, bị bắt với cáo buộc tạt axit vào mặt vợ, bà QTM, khiến nạn nhân tổn thương nặng cả hai mắt.

Điều tra sơ bộ của nhà chức trách cho hay đêm 26 Tháng Bảy, bố bà M. báo công an về chuyện con gái mình bị nghi can Khánh giam giữ ở nhà không cho ra ngoài. Công an xã đến nhà triệu tập hai vợ chồng nghi can Khánh về đồn.

Trong lúc bà M. đang dắt xe gắn máy ra cổng thì Khánh đi vào buồng, lấy một lọ đựng axit rồi tạt thẳng vào mặt vợ làm nạn nhân bị thương ở vùng mặt và hai mắt.

Tại bệnh viện, các bác sĩ xác nhận bà M có nguy cơ bị mù vĩnh viễn.

Trước khi xảy ra sự việc, hai vợ chồng nghi can Khánh bị cho là có mâu thuẫn tình cảm và nhà chức trách đã tiến hành hòa giải nhưng bất thành.

Thời gian qua, các báo ở Việt Nam liên tiếp đưa tin về các vụ chồng đánh, giết vợ xảy ra do mâu thuẫn, ghen tuông.

Trong một vụ xảy ra gần đầy, theo báo Tiền Phong hôm 28 Tháng Bảy, ông LVC, 32 tuổi, ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, bị xử phạt hành chính 15 triệu đồng ($633) về hành vi dùng đồ hốt rác để đánh vợ, khiến bà này bị thương.

Nghi can Bùi Duy Khánh ở tỉnh Thanh Hóa. (Hình: Người Lao Động)

Giới chức địa phương xác nhận ông C. “thường xuyên uống rượu và có hành vi bạo lực với vợ, bị chính quyền nhiều lần nhắc nhở nhưng không sửa đổi.”

Sở dĩ ông C. chỉ bị phạt tiền mà không bị bắt là do Công An Tỉnh Nghệ An kết luận rằng vụ này “chưa đủ cơ sở để xử lý trách nhiệm hình sự.” (N.H.K)

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ăn cướp

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

30/07/2023

Từ xứ Thái trở về, blogger Phạm Hồng Phong có mang theo một câu chuyện làm quà mà chỉ cần nghe qua cũng muốn ứa nước mắt:

Bay chuyến cuối cùng trong ngày, từ Don Muang về Tân Sơn Nhất. Gặp một nhóm hơn chục người đi tay không, quần áo nhàu nhĩ áo phông trắng thì thành cháo lòng, áo màu thì cáu bẩn, người đi tông, người đi chân đất, ồn ào, nhốn nháo lên máy bay tìm ghế ngồi. Tất cả đều rất trẻ, tuổi từ 20, đến 31.

Khá ngạc nhiên, hỏi ra mới biết anh em ngư dân Sông Đốc – Cà Mau bị cảnh sát biển Thái Lan bắt khi đang câu mực ở Vịnh Thái Lan, tịch thu thuyền, tài sản, án tù 3 tháng. Gia đình vay tiền chạy chọt, ngồi tù được 55 ngày, hôm nay được thả về.
Cầm vé trên tay nhưng không biết ghế của mình chỗ nào. Mình cùng mấy cô tiếp viên Air Asia hướng dẫn từng chỗ ngồi vì anh em đều lần đầu bị đi bằng máy bay.

Ngồi hỏi chuyện và nghe kể mới biết sự cơ cực từ ngày bị bắt đến khi được tha. Để được thả, gia đình phải tự tìm cò, qua Thái, liên hệ Đại sứ quán VN ở Bangkok, xuống Songkhla gặp cảnh sát, cai tù…Rổ giá để được tự do:

  • Thuyền viên 12 -20 triệu/người
  • Tài công 80 -120 triệu/người tùy tội nặng nhẹ, tùy hứng của cò và cảnh sát.

Tiền vé máy bay riêng, nghe anh em nói là mỗi người 8 triệu nộp cho đại sứ quán mua và làm thủ tục cho cả nhóm, ngồi xe tù, cảnh sát chở tuột ra sân bay, gọi tên từng thằng phát cho cuống vé. (Giá bình thường mua cận ngày thì tối đa cũng chỉ 150$~ 3 triệu ông cụ). Mình bảo anh em, có thể do tiền cò, lệ phí giấy thông hành ĐSQ cấp và xăng xe tù, xe áp tải của cảnh sát Thái nên mới hết 8 triệu, chứ vé mình mua trước đây 5 ngày có 1800 Bath ~ 1,2 triệu…

Câu chuyện làm quà của Phạm Hồng Phong khiến tôi nhớ đến bài viết (“Tình Đồng Hương Của Dũng Việt Nam”) của phóng viên Đình Dân, trên Tuổi Trẻ Online:

Ở Philippines ngư dân ta đi biển gặp nạn được Dũng giúp đỡ rất nhiều’, ‘Không chỉ những người Việt đi biển gặp nạn ở Philippines biết tới Dũng, mà thậm chí nhiều thân nhân của họ đang sống ở quê cũng lưu trong điện thoại cầm tay cái tên Dũng Việt Nam’…

Đó là những thông tin mà tôi nghe được từ nhiều người dân ở đảo Phú Quý. Và tôi đã có cơ hội gặp gỡ ‘Dũng Việt Nam’ nhân chuyến đi Philippines viết về vụ 122 ngư dân bị giam giữ tại đây…”

“Chiều 23-8, trời Palawan vẫn mưa suốt. Sáng mai là ngày diễn ra phiên tòa xét xử 122 ngư dân nên chiều hôm đó những người từ Việt Nam qua ai cũng bận rộn lo giấy tờ, thủ tục chuẩn bị hầu tòa. Anh Dũng cũng cuống cuồng vừa chạy xe vừa điện thoại liên tục để hẹn các luật sư ở Philippines nhằm thiết kế các buổi gặp gỡ với các luật sư từ Việt Nam qua.

Vừa gặp luật sư xong, anh Dũng lại cùng anh Thoại – chủ DNTN Long Hải Long – vào nhà tù để mang thuốc tây và một ít tiền bà con ở đảo Phú Quý gửi cho người nhà của họ trong trại giam. Mưa to ướt hết áo, anh Dũng phải mượn áo một thuyền trưởng mặc vào để chạy tiếp…

 Ngày diễn ra phiên điều trần, từ sáng sớm anh Dũng đã ngồi trong chiếc xe ba bánh chờ dưới đường. Anh bảo chờ đi cùng 115 ngư dân từ nhà tù ra tòa án. Nhìn những ánh mắt âu lo qua song sắt của chiếc xe màu vàng bóp chặt khóa, anh Dũng ngậm ngùi: ‘Đồng hương mình cả. Mà toàn là ngư dân chân chất. Vợ con họ ở nhà mà thấy hình ảnh này chắc không cầm lòng được…’

Một số ngư dân ở Quảng Ngãi và Bình Thuận kể rằng từ năm 2004 đến nay, anh Dũng đã giúp đỡ khoảng 30 nhóm ngư dân Việt Nam bị mắc nạn và trôi dạt vào vùng biển của nước bạn…  Anh Dũng nói có một câu chuyện mà anh sẽ chẳng bao giờ quên.

Đó là vào đầu tháng 8 vừa rồi. ‘Hôm đó đã 22g đêm. Trời mưa to gió lớn. Tôi đang cho mấy đứa con đi ngủ thì nhận được điện thoại từ Việt Nam. Người đầu dây là anh Sơn – một chủ ghe ở tỉnh Quảng Ngãi: Dũng ơi, làm ơn cứu nạn cứu khổ giùm.

12 ngư dân của tôi đang đánh bắt ở vùng biển nước mình thì bị bão đánh chìm ghe. Họ điện về nói đã trôi dạt mấy ngày nay theo hướng nam về vùng biển Philippines. Họ đang cố đu bám vào thuyền thúng trôi dạt giữa biển. Anh nhờ người ở đó cứu giùm, không để đến sáng mai lạnh quá họ chết hết. Ngay trong đêm, bằng tất cả mọi mối quen biết, anh Dũng xác định lại chính xác tọa độ nơi 12 ngư dân bị nạn rồi lập tức cầu cứu hải quân Philippines…

Ủa, cái ông Dũng này là ai mà sao rảnh rỗi và “bao la” dữ vậy cà? Xin hãy nán đọc thêm một đoạn ngắn nữa, về người đàn ông Việt Nam vô cùng nhân ái và tháo vát này:

Một lần khi anh Dũng đang mải miết phiên dịch cho các ngư dân ở tòa án đến nỗi quên đi đón vợ, thế là vợ anh tự thuê xe chở cả bao dép bán dở đến tòa án tỉnh để tìm. Lúc này tôi mới biết người đàn ông thông thạo ba thứ tiếng Việt, Anh, Philippines này là một người bán giày dép trên hè phố…

Coi: một người dân Việt lam lũ, vợ dại con thơ, đang lưu lạc nơi đất lạ xứ người mà chăm lo cho những đồng hương của mình từ A tới Z (cung cấp toạ độ nơi ngư dân bị bão đánh chìm thuyền cho hải quân Phi, tham vấn với luật sư bản sứ, làm cầu nối giữa những ngư dân bị nạn và chính quyền địa phương, vào tù thăm non tiếp tế cho đồng bào đang bị giam dữ, rồi cùng đi với họ ra toà …) như vậy thì các Toà Tổng Lãnh Sự và Đại Sứ Quán VN làm gì ?

Làm… tiền!

Chớ họ còn có lựa chọn nào khác nữa đâu, theo như nhận xét của blogger Hương Vũ: “Sống và làm việc cách công chính như nhân viên sứ quán các nước khác, nhân viên sứ quán VN chỉ còn cách cắn dép gặm không khí qua ngày.”

Có thực mới vực được đạo chớ, “phong cách và đạo đức cách mạng” mà. Đại Sứ Trần Việt Thái đã “khai” như thế, trước tòa, vào hôm 12/07 vừa qua: “Việc chi bồi dưỡng cho cán bộ Đại sứ quán là việc phổ biến ở Malaysia, nếu không chi thì không huy động được người đi làm việc.”

Ở đâu mà không vậy, chớ có riêng chi cái đám cán bộ ngoại giao ở Mã Lai. Không cho ăn thì ai mà làm. Vấn đề chỉ là các vị quan sứ ăn quá bẩn (và quá dầy) nên mắc nghẹn thôi:

Tưởng là nhiều lắm chớ chỉ có mười một tỷ thì nào có là bao, và đây chỉ là cơ hội ngàn năm một thuở của các ông bà quan sứ ở nước ngoài thôi. Ở một xứ sở mà “một quả trứng chịu 14 loại phí, một con lợn cõng 51 thuế phí” thì dân làng Ba Đình đã ăn bao nhiêu tỷ bạc mỗi ngày, và ăn ròng rã như thế từ bao thập niên qua ?

DÒNG NƯỚC DIỆU KỲ

Kim Dao Lam

Fb Lê Hạnh

DÒNG NƯỚC DIỆU KỲ

Nước chát mặn

Nhưng không là nước biển

Nước trong veo

Nhưng chẳng tự khe nguồn

Chảy thành dòng

Mà đâu phải mưa tuôn

Rơi thành giọt

Nhưng nào do sương đọng

Ấy là

Nước chắt từ lòng cuộc sống

Khi vui, buồn, xúc động tự trào tuôn

Dòng nước khơi

Từ cửa sổ tâm hồn

Chỉ duy nhất loài người thụ hưởng

Một giọt nước đủ chất đầy rung cảm

Một dòng rơi cũng thấu tận tim người

Ai chẳng từng qua sướng, khổ, buồn, vui

Ai chẳng thấm những giọt đời đậm nhạt

Cuộc đời chẳng bao giờ vơi nước mắt

Chẳng bao giờ héo quắt tựa cành khô

Chỉ khi nào nằm ” yên giấc ngàn thu ”

Khi khép mắt không bao giờ mở lại

Dòng nước ấy mới cạn khô mãi mãi

Mới hoà vào hoang dại của vô tri…

Dòng nước siêu nhiên

Dòng nước diệu kỳ.

30_07_2023

*******

Hình admin chôm trên mạng:

Một trong số 300 công nhân thu gom rác bị nợ lương từ tháng 8 đến tháng 12/2020 ở Hà Nội

Về Hoàng Phủ Ngọc Tường… (1937 – 2023)

Báo Tiếng Dân

Trương Nhân Tuấn

26-7-2023

Bút ký của Bác Sĩ Alje Vannema, người gốc Hòa Lan, có mặt tại Huế trong dịp Tết Mậu Thân 1968, sau 50 năm đã trở thành “tài liệu lịch sử”, nếu không nói là “bằng chứng lịch sử”. Thông lệ giới hàn lâm học thuật, cũng như qui ước quốc tế về những “hồ sơ mật quốc gia”, thời gian công bố các các hồ sơ xếp vào diện “mật” là 30 năm và 50 năm cho các hồ sơ ”tối mật”. Tức là, trên “nguyên tắc”, các “bí mật” về cuộc “tấn công và nổi dậy” tết Mậu Thân 1968 đã được phải “bạch hóa”.

Bác sĩ Alje Vannema không phải là “sử gia” thông thường, tức là những người chỉ viết lại (và phân tích) những sự kiện đã qua. Bác sĩ Alje Vannema vừa là nhân chứng trực tiếp, vừa là “sử gia” ghi chép lại (một cách tường tận và tỉ mỉ) chi tiết các vụ thảm sát Mậu Thân tại Huế. Tài liệu vì vậy có tầm quan trọng, ngoài giá trị “lịch sử”, nó còn có giá trị của “bằng chứng”.

Tài liệu này được Vintage Press, New York công bố năm 1976, sau đó được báo chí Việt ngữ tại Mỹ trích dịch đăng lại dưới tựa đề: Thảm sát Huế Tết Mậu Thân.

Tài liệu ghi lại, hố chôn tập thể (được phát hiện cho tới thời điểm viết bút ký) gồm có 19 vùng. Căn cước một số nạn nhân, (những người còn nhận diện được), như tên tuổi, xuất xứ… được tác giả ghi chép tỉ mỉ. Đặc biệt tài liệu ghi tên 4 nhân vật có can dự vào cuộc thảm sát, gồm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh (tài liệu viết là Nguyễn Thị Đoan) và Nguyễn Đọc. Riêng hai ông Tường và Xuân, tác giả Alje Vannema khẳng định là mình “biết rõ”.

Theo bác sĩ Alje Vannema, Hoàng Phủ Ngọc Tường phụ trách “tòa án” khu vực Tiểu chủng viện. Nguyễn Đắc Xuân phụ trách các “tòa án” khu Gia Hội:

“Tòa án ở Tiểu chủng viện do Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ trì. Anh này tốt nghiệp đại học Huế và là cựu lãnh tụ sinh viên trong Ủy Ban Phật Giáo chống chính quyền trước đây.”

Như vậy Hoàng Phủ Ngọc Tường có trách nhiệm ở hố chôn tập thể thứ tư, như đã viết trong tài liệu: “Vùng chôn thật sự thứ tư nằm sau Tiểu chủng viện, nơi dựng tòa án nhân dân. Hai hầm chứa xác ba người Việt làm việc cho tòa đại sứ Hoa Kỳ, hai xác người Mỹ: ông Miller và ông Gompertz, nhân viên USOM; và xác một giáo sư trung học người Pháp bị giết vì lầm là người Mỹ. Tất cả đều bị trói tay. Xác tìm thấy và liệm ngày 09.02. Xác hai người Mỹ và người Pháp được đưa về Đà Nẵng”.

Về Nguyễn Đắc Xuân, tài liệu viết: “Cầm đầu ở Gia Hội là Nguyễn Đắc Xuân, trước kia là một liên lạc viên cộng sản nay đột nhiên lại xuất hiện”.

Theo tài liệu của bác sĩ A. Vannema, hố chôn tập thể khu Gia Hội được khám phá đầu tiên:

“Mồ tập thể được khám phá đầu tiên ở trường trung học quận Gia Hội, nằm bên cạnh khu dân cư. Sở dĩ cư dân gần đó biết được là vì họ nghe tiếng súng và biết ở đó có mở tòa án nhân dân. Một số người sau khi tham dự phiên tòa đầu tiên đã liều trốn và may mắn thoát. Một số khác nhờ bơi qua sông. Trước ngôi trường có tất cả 14 hố gồm 101 tử thi. Sau ba ngày tìm kiếm, người ta khám phá thêm một số hố rải rác trước, sau và bên hông trường, nâng tổng số tử thi lên 203, gồm xác thanh niên, người già và phụ nữ”.

Nếu chỉ ngừng ở các chi tiết này, Nguyễn Đắc Xuân chịu trách nhiệm giết 203 người Việt, gồm “thanh niên, người già và phụ nữ”, trong đó có 18 sinh viên.

Tài liệu cũng ghi các Tòa án trong thành do hai sinh viên Nguyễn Đọc và Nguyễn Thị Đoan điều khiển. Nhưng theo tài liệu của các học giả người Việt, như các ông Liên Thành hay Lữ Giang, tất cả các phiên tòa trong nội thành đều do hai ông Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân đảm trách.

Tài liệu của ông Liên Thành đặc biệt có giá trị. Vì ông cũng là một “nhân chứng quan trọng”. Ông nguyên là Thiếu tá, giám đốc Ty Cảnh sát Huế thời đó. Tức là, ông Liên Thành là một người không chỉ “biết”, mà còn là người “trong cuộc”.

Theo tác giả A Vannema: “Các phiên tòa vang lên những lời đe dọa với khẩu hiệu tuyên truyền, kết tội, qui chụp. Hầu hết những người bị lôi ra tòa chẳng biết lý do mình bị bắt. Nhưng tất cả đều bị kết tội, một số bị tử hình tức khắc”.

Theo tài liệu của nhân chứng, bác sĩ A. Vannema, Hoàng Phủ Ngọc Tường chịu trách nhiệm, ngoài cái chết những người Việt Nam, còn có (ít nhứt) cái chết của hai người Mỹ và một người Pháp, tại “tòa án” khu vực Tiểu chủng viện.

Ngày 9 tháng 2 năm 2018, Hoàng Phủ Ngọc Tường có công bố lá thơ “sám hối”, tựa đề “Lời cuối cho câu chuyện quá buồn”, qua trang facebook nhà văn Nguyễn Quang Lập.

Theo lá thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường khẳng định “Mậu Thân 1968 tôi không về Huế”.

Điều ghi nhận đầu tiên, 50 năm sau, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn nhận thảm sát Huế “là có thật”. Dẫn: “Với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng” (Hết dẫn).

Việc này hết sức cần thiết, và là “điểm son” cho ông Tường. Lịch sử được minh oan: Cuộc “Thảm sát Tết Mậu Thân 1968” là có thật và tác giả vụ thảm sát này là “quân nổi dậy”.

Ông Tường “lên án” vụ thảm sát “là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng”.

Lời thú tội của ông Tường đã xóa bỏ tất cả những gì mà các thế hệ VN lớn lên sau này học ở học đường xã hội chủ nghĩa. Tội ác Mậu Thân 1968 là do “quân nổi dậy” gây ra, chớ không phải do Mỹ, Ngụy, như trường học thầy giáo lâu nay giảng dạy.

“Quân nổi dậy” ở đây là những ai? Ai chỉ huy đạo quân “nổi dậy” này?

Ta sẽ tìm ra câu trả lời trong Bút ký của Bác Sĩ Alje Vannema, Vintage Press, New York công bố năm 1976, sau đó được báo chí Việt ngữ tại Mỹ trích dịch đăng lại dưới tựa đề: Thảm sát Huế Tết Mậu Thân.

Chuyện khác, trong lá thư tháng 2 năm 2018 “Lời cuối cho câu chuyện quá buồn”, ông Hoàng Phủ Ngọc Tường có “nói hết sự thật” hay không?

Về vụ “thảm sát Huế”: Nếu ta có đọc các tài liệu chính thức của đảng CSVN đã công bố, hay những nhân chứng thuộc “phe thắng cuộc”. Không ngoại lệ, tất cả đều cho rằng vụ thảm sát Huế 1968 là có thật. Tất cả đều biểu lộ sự hối tiếc, đồng thời qui trách nhiệm cho chính sách của “trung ương”.

Ta thấy là ông Tường, trong lá thư, chỉ nói “sự thật” ở cái mà mọi người đều biết: Thảm sát Mậu Thân là do phe “cách mạng” gây ra (chớ không phải do “Mỹ Ngụy” gây ra).

Trong lá thư tháng 2 năm 2018, ông Tường không đưa ra được bằng chứng nào để chứng minh rằng ông “không có mặt tại Huế” vào thời điểm cuộc thảm sát xảy ra.

Trong thơ, ông có nhắc lại vụ máy bay Mỹ bỏ bom ”thảm sát bịnh viện nhỏ ở Đông Ba”.

Dẫn: “Đặc biệt, khi kể chuyện máy bay Mỹ đã thảm sát bệnh viên nhỏ ở Đông Ba chết 200 người, tôi đã nói: ‘Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu… Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra…’. Chi tiết đó không sai, sai ở chỗ người chứng kiến chi tiết đó không phải là tôi, mà là tôi nghe những người bạn kể lại. Ở đây tôi là kẻ mạo nhận, một việc rất đáng xấu hổ, từ bé đến giờ chưa bao giờ xảy ra đối với tôi” (Hết dẫn).

Khi thú nhận, “tôi là kẻ mạo nhận”, “một sự việc đáng xấu hổ”, ông Tường đã nhìn nhận mình “nói láo” với dư luận từ 1981 đến nay.

Năm 1981, ông khẳng định qua bài phỏng vấn truyền hình của đạo diễn Burchett rằng, “chúng tôi”, tức gồm có ông Tường, có mặt ở Huế.

Lá thơ gọi là “lời cuối” của ông Tường thú thận rằng “chúng tôi” đó chỉ là “mạo nhận”. Dẫn: “Ở đây tôi là kẻ mạo nhận, một việc rất đáng xấu hổ, từ bé đến giờ chưa bao giờ xảy ra đối với tôi”. Mục đích việc thú nhận nhằm chứng minh ông ta không có mặt tại Huế.

Vấn đề là, chi tiết “bịnh viện nhỏ ở Đông Ba” được ông Tường nhắc lại. Bịnh viện này không hề hiện hữu. Vậy thì làm gì có việc “máy bay Mỹ đã thảm sát bệnh viên nhỏ ở Đông Ba, chết 200 người”?

Vụ Mỹ thảm sát 200 người ở bịnh viện Đông Ba, vụ này không khác vụ Mỹ Lai, lớn lao ở tầm “tội ác diệt chủng”, tại sao không có tài liệu, báo chí nào ở nước ngoài đề cập tới?

Qua lá thơ “lời cuối”, ông Tường vẫn không điều chỉnh lại những gì ông đã nói sai trước kia (trong cuộc phỏng vấn 1981). Ông tiếp tục khẳng định những sự kiện không có thật.

Làm gì có vụ Mỹ bỏ bom chết 200 người tại bịnh viện nhỏ ở Đông Ba?

Làm gì có chuyện “đường hẻm lầy lội toàn là máu”?

Ông Tường, qua lá thơ “lời cuối”, lại tiếp tục nói dối…

***

Bút ký “The Vietcong Massacre at Hue” của bác sĩ Alje Vannema, người gốc Hòa Lan, có mặt tại Huế trong dịp Tết Mậu Thân 1968, một nguồn chứng cớ quan trọng vụ thảm sát Mậu Thân tại Huế.

Xin phép tác giả và dịch giả được đăng lại, vì sự cần thiết “cung cấp” bằng chứng cho giới “trí thức Việt Nam”, những người tin vào sự “vô tội” Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hy vọng những người này sẽ đọc tài liệu này, để thấy rằng, thảm sát Mậu Thân 1968 là chuyện “có thật”. Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân là hai “đồ tể xứ Huế” là chuyện có thật. Thảm sát Mậu Thân 1968 đã diễn ra tại Huế ra sao, ai chịu trách nhiệm?

Bút ký:

Sớm tinh sương đã thấy quân Mặt Trận (Giải Phóng Miền Nam) hiện diện trong thành phố. Họ là những người lo mặt chính trị trong cuộc chiếm cứ. Ngày hôm trước, họ vào sổ gần hết mọi người, ghi tên, tuổi, phái tính. Họ quan tâm đặc biệt đối với phái nam, chia những người này ra thành nhiều nhóm: công chức, những người có liên hệ với quân đội cộng hòa, và những kẻ khác. Nhiều trường hợp họ ghi chú đầy đủ cả gia đình, cả tên con cái nữa. Mỗi nhóm họ chỉ định một người đại diện, mang trách nhiệm mọi mặt về tất cả thành viên trong nhóm. Nếu có người thoát thì người đại diện phải lãnh đủ. Dân chúng được lệnh không tụ họp đông người, trừ khi được kêu đi dự mít tinh, không được nghe đài, không được phao tin đồn đãi…

Ngày hôm sau, du kích và nằm vùng địa phương tỏa ra đi tìm những người có tên trong danh sách viết tay nguệch ngoạc. Họ được đưa về Tiểu chủng viện, nơi dựng tòa án nhân dân. Một anh cựu sinh viên chủ tọa phiên tòa với sự hiện diện của một người Bắc Việt và hai sinh viên khác. Hai sinh viên này chúng tôi biết…

Các phiên tòa nhân dân mấy ngày trước đã chấm dứt. Dân chúng hiện diện khá đông tại các phiên tòa ở Tiểu chủng viện, ở Gia Hội bên kia cầu và ở trong thành. Tòa án ở Tiểu chủng viện do Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ trì. Anh này tốt nghiệp đại học Huế và là cựu lãnh tụ sinh viên trong Ủy Ban Phật Giáo chống chính quyền trước đây. Cầm đầu ở Gia Hội là Nguyễn Đắc Xuân, trước kia là một liên lạc viên cộng sản nay đột nhiên lại xuất hiện. Tòa trong thành do hai sinh viên Nguyễn Đọc và Nguyễn Thị Đoan điều khiển. Các phiên tòa vang lên những lời đe dọa với khẩu hiệu tuyên truyền, kết tội, qui chụp. Hầu hết những người bị lôi ra tòa chẳng biết lý do mình bị bắt. Nhưng tất cả đều bị kết tội, một số bị tử hình tức khắc.

Sau hai ngày phiên tòa kết thúc, nhường chỗ cho những công tác khủng bố dân chúng khác. Một người trộm mở nghe đài (radio) bị bắn giữa thanh thiên bạch nhật để làm gương. Một anh sinh viên không tới dự lớp học tập cũng bị bắn công khai. Nguyễn Đọc bắn nhiều người trong đó có người bạn thân đồng lớp là Mu Ty, chỉ vì bạn không chịu hợp tác với y. Bước vào ngày thứ hai bắt đầu kiểm soát lương thực, thực phẩm.Ngày thứ bốn, vì không tuân hành lệnh cách mạng, một gia đình bị xử. Người chủ gia đình bị bắn tức khắc. Dưới áp lực khủng bố gia tăng nhiều người bỏ trốn, nhưng ít kẻ thoát. Vùng Gia Hội có nhiều người thoát hơn nhờ ban đêm chèo bè qua sông sang làng Đập Đá. Thường bị bắn theo nhưng cố chèo.

Những người nằm vùng xuất đầu lộ diện, ra tay truy lùng nạn nhân. Bộ đội Bắc Việt và quân chính quy Mặt Trận lo chuyện quân sự và chiến lược. Nằm vùng địa phương lo việc chính trị, hành chính, bình định, tuyên truyền, và tiêu diệt kẻ thù. Đám này bắt và giết người bất kể, nhiều khi chỉ vì hiềm thù cá nhân. Cán bộ miền Bắc có mặt ở tòa án nhân dân xem ra ít nắm vững chuyện chính trị và đóng vai trò ít quan trọng trong các bản án. Địa phương quyết định mọi chuyện. Trước khi lên danh sách, thường đám nằm vùng đã quyết định bắt ai rồi. Chỉ còn việc ra lệnh thanh toán những ai họ nhắm nữa mà thôi. Có lẽ họ lý luận rằng, thà giết lầm hơn bỏ sót, vì bỏ sót thì sau này mình sẽ bị nhận diện. Một cách hệ thống, công chức, quân nhân, sinh viên có tinh thần quốc gia, có khả năng lãnh đạo và có thể gây trở ngại cho cách mạng, chính trị gia đối lập, tất thảy đều được đoái hoài. Danh sách bất tận.

Dân chúng tập trung ở nhà thờ chính tòa được lệnh vào bên trong, không ai được đứng bên ngoài. Phụ nữ và trẻ con được lệnh ngồi xuống. Đàn ông và thiếu niên từ 15 tuổi trở lên đứng. Ở bệnh viện, trò tương tự cũng đã diễn ra. Dân quanh vùng, đặc biệt là vùng quanh căn cứ Mỹ, được lệnh tập trung vào bệnh viện vì cộng sản sợ giao tranh có thể xảy ra ở đó. Dân lúc này còn sợ súng máy và hỏa tiễn trực thăng hơn quân chiếm đóng nên ngoan ngoãn làm theo lệnh. Sau ba ngày, đàn bà con nít được lệnh ngồi, đàn ông đứng dậy để hai tên nằm vùng nhận diện, trước mặt hai cán bộ miền Bắc và hai bộ đội Mặt Trận. Hai người nằm vùng này mới được xổ tù khi Việt cộng chiếm thành phố. Cả hai đều là thành viên kỳ cựu của Mặt Trận. Một số người, trẻ có, già có, được cấp thẻ và dẫn về nhà thờ chính tòa.

Bên trong nhà thờ đàn ông và thiếu niên được lệnh sắp thành hàng rồi bước ra ngoài với cán bộ hộ tống. Từ nhà thờ họ băng qua các đường Phủ Cam lên Chùa Từ Đàm. Bị giữ ở đấy một ngày rồi lại tiếp tục đi về phía Nam, hướng Nam Giao. Đàn bà trẻ con nhao lên nhưng được trấn an rằng cha, chồng, con họ phải ra phục dịch bên ngoài thành. Một số bà đi theo xa xa, nhưng rồi bị chặn lại. Trong số người ra đi có anh lính trẻ cộng hòa và Lương (nhân vật kể lại câu chuyện này). Ngày kế tiếp, cuộc hành trình kéo dài suốt chiều tới tối, thoạt tiên rời Từ Đàm đi về hướng Nam rồi bẻ hướng Đông Nam. Sáu cây số đường đi mà Lương nghĩ là một cuộc trường chinh. Không ai nói với ai. Chỉ một lần yên lặng bị cắt đứt bởi một câu hỏi của ai đó “Ta đi mô đây”. Có tiếng phụ họa “Lên núi hay tới chỗ chết?”.

Bộ đội Mặt Trận nói là họ được đưa đi học tập. Không ai biết mình đi đâu nhưng tự thâm tâm nhiều người tin rằng có lẽ đời mình sắp kết thúc. Ông già đi bên cạnh Lương bổng ngã quỵ. Cho tới lúc đó anh không biết có ông già đi bên mình. “Bắt gió cho ông ta” tiếng ai đó vang lên… Lương ôm lấy ông cho tới khi người canh gác tới.

Mắt ông già hé mở trong chiều xẩm tối. Tiếng nói lạc giọng thều thào. “Xin để tui đi, để tui ở lại đây”, ông van xin, bàn tay xương xẩu níu lấy cánh tay người gác. “Tui không đi xa hơn được nữa”.

“Đứng dậy”.

Ông già gượng dậy, cố thẳng người thêm được vài bước rồi lại ngã. Người gác đoàn lúc này hết kiên nhẫn, đạp ông ra lề đường rồi bỏ đi. Vài phút sau, một phát súng xé không khí cùng với một tiếng kêu yếu ớt vang lên. Làm thế để chắc ăn, không ai chứng kiến. Xác ông được dập vào một hố gần đó, hai tù nhân được lệnh lấp đất. Một tháng sau xác ông được đồng bào khám phá.

Vô vọng, đoàn người bước đi càng lúc càng chậm, câm lặng uất nén. Người gác càng hối thúc. Rồi có tiếng hô “Dừng lại”. Lương thấy đám người phía trước được lệnh bỏ túi xách xuống và ngồi xuống. Họ đã tới đích. Đám canh gác phía sau miệng hét thúc kẻ này đi nhanh, chân đá vào sườn kẻ khác…

Sau này, Lương nhớ lại mình đã đi qua thôn Tu Tay. Theo anh, chừng 18 người đã bị kêu lên phía trước và bị quân Mặt Trận tố có tội ác với nhân dân. Các nạn nhân bị lôi đi ngay. Chả ai biết gì về số phận họ vì chẳng bao giờ gặp lại họ nữa. Những người khác được lệnh đi về phía lăng Đồng Khánh.

Sau một giờ đi họ lại được lệnh dừng, chia thành hai nhóm nhỏ và bắt đầu được lệnh đào hầm rãnh. Họ đào mồ cho lớp người tới sau, chứ chính họ thì chỉ vài mạng phải nằm ở đây mà thôi. Như một ác mộng kinh hoàng thăm viếng địa cầu, nhưng ác mộng không do quỷ ma nào cả mà do chính con người tạo ra.

Thoạt tiên, Lương nghĩ chắc mình sẽ không qua khỏi. Dù vậy, anh và người lính trẻ vẫn cố tìm cách thoát thân, trong một hoàn cảnh có thể nói là tuyệt vọng. Hai người thất thần nhìn nhau, mắt mở lớn. Chung quanh Lương, đám người đói, lạnh, có kẻ đau, không ai dám quay về nhìn thành phố thân yêu đổ nát đang chìm trong bóng tối sau lưng họ. Họ đào đã hai, ba tiếng, ai nấy im lặng gặm nhấm suy nghĩ của mình. Hố đào là để trú ẩn và làm mương dẫn nước, người ta nói thế. Một tiếng nổ kèm với tiếng la vang lên. Thần chết vây bủa không gian. Tại sao mình ở đây? Đa số họ là công giáo, chả ai quan tâm tới chính trị, một số do hoàn cảnh lịch sử phải bước vào lính như bao nhiêu thanh niên Việt Nam và trên khắp thế giới đến tuổi khác.

Sau khi đào xong một hố rãnh, đám đông được lệnh đi tới một đụn cát để nghỉ đêm. Vài người bị dẫn đi. Một số la thét lên vì sợ. Lương thấy người bạn ở cùng phố mà anh quen từ mấy năm nay bật khóc nức nở. Một người hoảng lên chạy quẩn để rồi bị bắt giữ lại. Lương hoảng hốt. Chân anh như điện giật. Anh nghĩ phải liều ngay. Chung quanh cán bộ gác đầy dẫy, nhưng nếu lao vào được bóng tối thì có cơ thoát. Ác mộng tiếp tục. Người la. Kẻ bị đánh. Người rú lên cười kinh hoàng. Lương ở trong một đám khá đông đang bước đi. Đám người khập khễnh lê lết xuyên qua một đám cây rậm đi xuống đụn cát phía Nam. Khi họ xuống đồi, Lương lách người lao vào bóng tối. Một viên đạn rít bên tai. Anh phóng qua đám rừng, tai vẫn nghe tiếng đạn và tiếng la hét. Chỉ vài phút anh tới một con suối và chạy theo dòng nước hướng về phía Đông. Anh đi suốt đêm, thỉnh thoảng bị khuất động bởi trái sáng thả từ máy bay và tiếng đại bác. Sáng ra thấy mình băng qua một con đường sắt. Từ đó tiếp tục đi tới quốc lộ, lòng mong ngóng sớm thoát được vùng tử địa. Xế chiều anh tới con đường phía Nam cách Phú Bài mấy dặm. Mãi tới ngày 16 tháng 2 Lương mới về lại được thành và kể cho chị Kim những gì đã xảy ra…

Người ta đoán rằng đám nạn nhân từ Phú Cam tiếp tục đi nhiều ngày nữa về hướng Nam, xuyên qua một vùng cây cối khó đi. Mải tới trung tuần tháng 9.69 người ta mới tìm thấy xác họ trong một con suối nhỏ, khe Đá Mài, con suối chảy ra khe Đại đổ vào sông Hương… Trong số 428 bộ cốt tìm được ở đó, rất ít được nhận diện. Vì không tìm thấy ở đâu khác, gia đình họ Nguyễn (thân nhân người lính trẻ) tin rằng con mình đã chấm dứt cuộc đời nơi khe suối này…

Mồ Tập Thể

Mồ tập thể được khám phá đầu tiên ở trường trung học quận Gia Hội, nằm bên cạnh khu dân cư. Sở dĩ cư dân gần đó biết được là vì họ nghe tiếng súng và biết ở đó có mở tòa án nhân dân. Một số người sau khi tham dự phiên tòa đầu tiên đã liều trốn và may mắn thoát. Một số khác nhờ bơi qua sông. Trước ngôi trường có tất cả 14 hố gồm 101 tử thi. Sau ba ngày tìm kiếm, người ta khám phá thêm một số hố rải rác trước, sau và bên hông trường, nâng tổng số tử thi lên 203, gồm xác thanh niên, người già và phụ nữ.

Trong số xác trẻ có 18 sinh viên. Một số trong bọn họ là những sinh viên đã bỏ vô bưng theo Mặt Trận sau vụ đấu tranh chống chính quyền, nay trở về bắt các sinh viên khác theo họ. Khi Mặt Trận chuẩn bị rút, các sinh viên được phép chọn hoặc vô bưng hoặc ở lại thành. Kẻ chọn ở lại bị giết và chôn tại trường. Những sinh viên khác của Gia Hội không theo Mặt Trận cũng chịu chung số phận. Có hố vừa chôn được hai hoặc ba tuần; số còn lại rất mới. Những xác đầu tiên được lính Thủy Quân Lục Chiến Cộng Hòa khám phá ngày 26.02.1968.

Trong số nạn nhân có cô Hoàng Thị Tam Tuy (các tên riêng và địa danh nào không đoán được sẽ ghi lại đúng như tác giả đã ghi – Người dịch), 26 tuổi, rất xinh, bán hàng ở chợ, nhà tại đường Tô Hiến Thành, Gia Hội. Bị quân Mặt Trận, theo lời kể của chị/em gái (sister) cô, vào nhà bắt đi đưa vào trường điều tra ngày 22 tháng 2, rồi chẳng thấy trở về. Xác cô chân tay bị trói, miệng nhét đầy giẻ; mình mẩy không thấy một vết thương nào. Xác cô nằm chung với bốn nạn nhân khác, mà hai trong số đó có bà con với chị/em dâu cô. Trong số các nạn nhân khác có bà góa Dương Thi Co, 55 tuổi, nghề bán guốc, 4 con. Bị bắt tại nhà ngày 22.02, đưa vào trường Gia Hội và bắn chết. Xác bà được các con nhận diện ngày 26.02. Người thứ ba là Lê Văn Thắng, 21 tuổi sinh viên ở Gia Hội. Anh bị bắt đi tham dự lớp huấn luyện ngày 14.02. Xác được gia đình phát hiện và nhận diện ngày 16.03, chung hố với hai nạn nhân khác trong khuôn viên trường.

Người thứ tư là Trần Đình Trọng, sinh viên kỹ thuật và mới lập gia đình. Bị bắt ngày 06.02, tìm thấy xác ngày 26.02. Người thứ năm Nguyễn Văn Dong, cảnh sát 42 tuổi, bị bắt ngày 17.02 ở nhà một người quen và bị chôn sống, tay trói tại trường Gia Hội. Tìm thấy xác ngày 26.02. Người thứ sáu là Lê Văn Phú, 47 tuổi, cảnh sát. Bị bắt tại gia ngày 08.02. Vợ con van xin Mặt Trận cho phép chồng ở lại nhà, nhưng tối hôm đó bị hành quyết, bị bắn vào đầu, xác tìm thấy ngày 26.02, ở khuôn viên trường. Người thứ bảy, bà Nguyễn Thi Lao, buôn thúng bán bưng, 48 tuổi. Bị bắt trên đường lộ. Xác tìm thấy ở trường học, tay bị trói, miệng nhét đầy giẻ; mình mẩy không bị một vết thương nào. Có lẽ bà bị chôn sống. Những xác khác tìm thấy gồm một đại úy cộng hòa, hai trung úy, ba trung sĩ và mấy viên chức hành chánh. Bốn xác người của Mặt Trận.Vùng mồ lớn thứ hai được khám phá gồm 12 hố với 43 tử thi ở Chùa Theravada, thường gọi là Tăng Quang Tự.

Vùng thứ ba tại Bãi Dâu với 3 hố, 26 xác. Trong số nạn nhân ở Chùa có ông Phan Ban Soan, 60 tuổi, sinh tại Phú Vang, Thừa Thiên, nhà ở đường Tô Hiến Thành, có gia đình, 5 con. Ông Soan làm nghề thợ may, trước có tham gia vụ Phật giáo chống tổng thống Diệm. Năm 1961 bị bắt vì chống chính quyền, được thả năm 1967. Bị Việt cộng bắt đi tối 12.02 trên đường Chi Lăng, Gia Hội. Cộng sản phân công ông chôn xác chết và phân phối gạo. Xác ông tay bị trói, bị bắn xuyên đầu, dập cùng hố với 7 người khác.

Một người khác tìm thấy ở Chùa là ông Đặng Cơ, 46 tuổi, nghề thầu khoán, bị bắt tại gia ngày 06.02, tìm thấy xác ngày 26.02. Một người khác nữa là ông Ngô Thông, 66 tuổi, nhân viên hành chánh hồi hưu, bị bắt ngày 08.02, xác dập chung với 10 người khác. Một số tử thi có vết thương, một số tay bị trói giật cánh khỉ bằng dây thép gai, và một số miệng bị nhét giẻ.

Lần đầu tiên nói chuyện với đồng bào trong vùng tôi tưởng chỉ có 16 xác ở Chùa và 3 xác khác ở Bãi Dâu. Nhưng bên hông và sau Bãi Dâu có nhiều hố chôn. Tất cả ở đây chết vì bị trả thù. Một vài người là thành viên Mặt Trận nhưng bị giết vì muốn ở lại thành. Họ đều là dân Gia Hội. Bốn tháng sau, tháng 08.68, tôi trở lại đây để tìm hiểu thêm uẩn khúc của những cái chết. Thân nhân các nạn nhân lẫn dân địa phương đều xác nhận những điểm trên.Tiết lộ về “mồ chôn tập thể” đầu tiên của chính quyền miền Nam là vào ngày 28.02.1968, khi phát ngôn nhân chính phủ cho biết về một hầm “ghê gớm ở Cồn Hến gồm 100 xác công chức và quân nhân bị bắt khoảng đầu tháng”. Cũng theo phát ngôn viên, “các nạn nhân bị Việt cộng giết, thân xác họ không được lành lặn”. Cồn Hến nằm giữa sông Hương. Lúc đầu Mặt Trận không màng chiếm Cồn. Nhưng sau nó trở thành một vị trí chiến lược cho việc tiến quân và rút quân từ Gia Hội ra vùng cát Đông Nam, vùng họ chiếm từ nhiều năm nay. Chính quyền xác nhận có 101 xác trong hầm. Theo đồng bào chạy thoát từ Cồn thì trong số nạn nhân có nhiều người nam mang quân phục, một vài người bận đồ kaki của Mặt Trận, một số khác bận áo dòng ngắn, một vài người mang quân phục lính cộng hòa và một vài người bận thường phục. Tôi hỏi nhân viên chính quyền địa phương về tên tuổi các nạn nhân thì được trả lời là các tử thi không được nhận diện đầy đủ; họ xác nhận là không thể nào quả quyết tất cả đều bị hành quyết; một vài nạn nhân có thể đã chết trong khi giao tranh và vài xác khác, cũng theo họ, là của quân thù.

Vùng chôn thật sự thứ tư nằm sau Tiểu chủng viện, nơi dựng tòa án nhân dân. Hai hầm chứa xác ba người Việt làm việc cho tòa đại sứ Hoa Kỳ, hai xác người Mỹ: ông Miller và ông Gompertz, nhân viên USOM; và xác một giáo sư trung học người Pháp bị giết vì lầm là người Mỹ. Tất cả đều bị trói tay. Xác tìm thấy và liệm ngày 09.02. Xác hai người Mỹ và người Pháp được đưa về Đà Nẵng.

Quận Tả Ngạn, vùng thứ năm, do một quân nhân người Úc khám phá ngày 10.03.1968. Ba hầm rãnh với 21 tử thi, tất cả đều nam giới, tay bị trói, đạn bắn xuyên đầu và cổ. Một hầm khác, vùng thứ sáu, nằm cách Huế 5 dặm về hướng Đông, được khám phá ngày 14.03.1968 do một cố vấn quân sự Mỹ cùng toán lính Việt đi kèm. Hai lăm xác, tất cả đều bị bắn vào đầu, tay trói giật cánh khủyu. Nhờ một cánh tay của một nạn nhân nhô ra khỏi mặt đất mà hầm được khám phá.

Phía Nam Huế qua hoàng thành ở Nam Giao là nơi mộ phần của vua Tự Đức và Đồng Khánh. Nơi đây là vùng chôn tập thể thứ bảy. Đây đó trên dưới hai chục hầm, có cái giữa đất bằng, có cái dưới bụi cây, có cái bên bờ suối. Bên cạnh hầm lớn, có những hố nhỏ chứa một, hai hoặc ba xác. Hầm đầu tiên được khai quật ngày 19.03.1968, nhưng mãi cho tới tháng 6.69 vẫn còn xác được tiếp tục phát hiện. Ban đầu còn dễ nhận dạng, vài xác mang quân phục, ngoài ra còn lại thường phục. Đặc biệt ở đây không có xác phụ nữ và trẻ con. Càng về sau việc nhận diện trở nên khó khăn. Dù vậy, cuối hè 1969, người ta cũng nhận diện được xác bố của ông thôn trưởng thôn Than Duong. Vì con trai vắng mặt nên cụ già bị bắt thay con. Về sau con đi tìm cha mãi không gặp. Xác cha, đạn xuyên đầu và ót, được tìm thấy tháng 6.1969.

Cũng trên đường hướng Nam đó là Tu viện Thiên An, nơi xảy ra trận chiến ác liệt trong thời gian cộng sản tấn công. Khi buộc phải triệt thoái, cánh quân chiếm đóng phía Nam thành phố rút lên núi và chiếm giữ ngôi Tu viện xây cách đây 26 năm, cách Huế 6 cây số hướng Nam, vào ngày 21.02. Lúc đó Tu viện đang là nơi lánh nạn cho hơn 3.000 người. Mặc cho các cha dòng van xin, cộng sản đã cho thần hỏa thiêu rụi tòa nhà chính trong vòng hai ngày. Các tòa nhà bên là chỗ sinh kế của nhà dòng cũng bị lửa đạn thiêu hủy. Thư viện gồm những pho thư khố và thủ bút quý thời vua chúa cũng chung số phận.Cha Dom Romain Guillaume, một trong những linh mục của dòng, bị một lính Việt cộng bắn vào vai lúc rời khỏi tòa nhà cháy sau khi đã di tản hầu hết dân tỵ nạn. Một linh mục người Việt bị bắn vào chân. Khi rút khỏi đống gạch vụn Tu viện ngày 25.02, Cộng quân mang theo trên 200 người, trong đó 2 linh mục người Pháp, cha Urbain, 52 tuổi, và cha Guy, 48 tuổi và một số tu sĩ linh mục, tập sinh và người giúp việc. Những người này bị lọc bắt trong thời gian cộng quân chiếm Nhà dòng và được dẫn đi về hướng Nam. Đa số bọn họ kết liễu cuộc đời gần chỗ lăng các vua. Tới tháng 6.1969, tổng cộng 203 xác được khai quật. Trong số nạn nhân ở lăng Tự Đức có Đoan Xuan Tong, 20 tuổi học sinh trung học, nhà ở làng Nguyệt Biểu, quận Hương Thủy. Em biến mất khỏi nhà ngày 06.02.1968. Xác em được thân nhân tìm thấy bên cạnh lăng vua ngày 19.03.1968, chôn chung với năm người khác cùng làng. Tại lăng Đồng Khánh có xác linh mục Urbain lấp cùng một hố với 10 người khác. Một người Việt khai quật xác cho tôi hay tay linh mục bị trói, mình không có một vết thương, chứng tỏ có lẽ bị chôn sống. Xác ông liệm ngày 23.03.68 và sau đó được một linh mục đồng dòng nhận diện. Vị linh mục này không thể xác nhận được là tay cha Urbain có bị trói hay không. Sự kiện không có xác đàn bà và con trẻ trong các hầm chứng tỏ các nạn nhân đã bị hành huyết dã man chứ không phải chết trong lúc giao chiến. Nếu bị pháo kích hoặc oanh tạc thì chắc chắn đã có người bị thương và sống sót, hoặc có người chết không toàn thây. Và chắc rằng họ không phải bị chôn tại chỗ, bởi theo phong tục người chết luôn được mang về nhà mình để hồn họ khỏi phải vất vưởng muôn kiếp. Vì thế nguyên tắc của đối phương là phải dấu nạn nhân thế nào để không bị khám phá, mà nếu có bị khám phá thì cũng không nhận diện được là ai.

Ngoài thi hài cha Urbain, thi hài cha Guy dòng Thiên An cũng được tìm thấy trong một hầm riêng ngày 27.03.1968 gần lăng Đồng Khánh, với vết đạn ở đầu và cổ.Vùng chôn thứ tám ở cầu An Ninh khám phá ngày 01.03 với 20 xác. Trong số tử thi có ông Trương Văn Triệu, trung sĩ lính Cộng hòa. Trung sĩ Triệu có vợ và 5 con. Du kích cộng sản địa phương bắt ông ở trường mẫu giáo Kim Long, nơi ông ẩn trốn. Bị trói và dẫn đi. Nhờ dân chúng gần đó cho hay Việt cộng có chôn xác người gần cầu nên vợ ông đã tìm được xác chồng sau đó.

Xác ông Tran Hy, thuộc lực lượng Nhân Dân Tự Vệ, có vợ 4 con, cũng được lấp cùng hầm với ông Trieu. Ông bị bắt ngày 20.02 khi đang trốn trong nhà một láng giềng. Tay bị trói cánh khuỷu, người không có vết thương nào.Vùng chôn thứ chín ở cửa Đông Ba, nơi xảy ra giao tranh lớn. Đây chỉ có một hầm 7 người bị bắt tại gia và giết sau đó. Trong đó có ông Ton That Quyen, 42 tuổi. Có gia đình với 10 người con, bị bắt và dẫn đi hôm 08.02.1968. Gia đình tìm được xác ông ngày 05.05.1968.

Địa điểm thứ mười là trường tiểu học An Ninh Hạ, một hầm 4 xác, trong đó có cảnh sát Tran Trieu Tuc, 52 tuổi, có vợ 7 con. Ông bị bắt tại nhà và mang đi ngày 05.02.68. Xác tìm được ngày 17.03.1968 ở trường, mang vết thương ở đầu và cổ. Ba xác còn lại: một sinh viên, một quân nhân và một cảnh sát.

Địa điểm thứ mười một là trường Van Chi, một hầm 8 xác. Trong đó có anh Le Van Loang, thợ máy, 35 tuổi, có vợ 6 con. Theo lời chị Loang, anh bị bắt đi dự lớp huấn luyện ngày 06.02. Khi bị dẫn đi, chị và các cháu chạy theo van xin nhưng vô hiệu. Họ ra lệnh mẹ con chị phải quay trở về. Xác anh được những gia đình đi tìm xác người thân tìm thấy ngày 10.03.1968 gần trường. Một vài xác bận quân phục, 4 xác chắc chắn là thường dân, trong đó có một sinh viên.

Địa điểm thứ mười hai ở chợ Thông, cách nội thành 2 cây số về hướng Tây. Tìm được 102 xác. Trong đó có ông Nguyen Ty, 44 tuổi, thợ xây gạch, có vợ 6 con. Bị bắt ngày 02.02.68 và có lẽ bị giết ở chợ cùng với nhiều nạn nhân khác. Tìm được xác ngày 01.03, tay bị trói, một viên đạn từ ót bung ra cửa miệng. Nhiều người khác cũng bị bắn, tay trói. Có nhiều xác đàn bà nhưng không có trẻ con.

Địa điểm thứ mười ba là vùng lăng Gia Long, ở Thiện Hàm bên bờ sông Hương, cách thành phố khoảng 16 cây số hướng Nam và cách Đàn Nam Giao cỡ 13 cây số Tây Nam. Gần 200 xác được tìm thấy dưới các đám cây và bụi rậm, gồm học sinh, sinh viên, nhân viên hành chính, quân nhân và nhiều phụ nữ. 27 người thuộc làng lân cận. Sau khi an ninh tạm vãn hồi, các bà đi tìm chồng đã khám phá ra địa điểm này. Lúc đầu, họ không dám đi quá xa. Nhưng hai ngày sau, 25.03.1968, họ đụng vào một miếng đất mới đào trên triền một trong nhiều thung lũng nhỏ trong vùng. Xác người thân họ nằm nơi đây, tay bị trói cánh khủy, đạn bắn từ sau cổ xuyên qua miệng. Có nhiều rãnh hầm nối nhau với nhiều xác. Một số nạn nhân từ nội thành, những người khác từ các làng lân cận. Một số là sinh viên từ Huế về nhà ăn tết.Địa điểm thứ mười bốn nằm ở giữa Chùa Tăng Quang và Tường Vân, 2,5 cây số Tây Nam Huế. Ở đó có xác 4 người Đức, 3 bác sĩ và một bà vợ, tìm thấy ngày 02.04.1968.

Địa điểm mười lăm ở Đông Gi, 16 cây số phía đông Huế trên đường ra bờ biển, tìm thấy ngày 01.04.1968. 101 xác, đa số bị trói và miệng nhét đầy giẻ. Tất cả đều nam giới,trong đó có15 sinh viên, nhiều quân nhân và nhân viên hành chính, già lẫn trẻ. Một vài xác không thể nhận diện được.

Tới tháng 05.68, tổng cộng có trên 900 xác người bị coi là mất tích đã được tìm thấy. Dĩ nhiên còn nhiều người chưa được tính… Đầu năm 1969 nhiều địa điểm khác được khám phá.

Điểm chôn thứ mười sáu: Đầu tiên ở làng Vinh Thái. Địa điểm thứ hai ở làng Phú Lương. Địa điểm thứ ba ở làng Phú Xuân, tất cả thuộc quận Phú Thứ. Tất cả được tìm thấy trong khoảng từ tháng 01 tới tháng 08.1969. Quận này với quận kế bên bị cộng sản chiếm nhiều năm và nơi đây xảy ra nhiều cuộc không tập kéo dài nhiều tháng. Mải tới đầu năm 1969 quân Cộng hòa mới tiến vào được vùng này…

Ba làng này cách thị xã Huế chừng 15 cây số về các hướng Đông và Đông Nam, cách bờ biển từ 3 tới 5 cây. Theo các viên chức địa phương trên 800 xác được tìm thấy trong các vùng trên trong vòng 6 tháng. Có hầm đào sâu, có hầm cạn. Nhiều xác chôn lâu rồi, quần áo đã mục… Trong số nạn nhân người ta nhận diện được 16 học sinh trung học, theo học ở Huế nhưng về quê ăn tết. Cả nhân viên hành chính, đàn ông, đàn bà, trẻ em, già lẫn trẻ. Một số tay bị trói, đa số đều chôn cùng một hố. Vùng làng Vinh Thái đào được 135 xác; làng Phú Lương 22; và làng Phú Xuân đợt đầu 230, đợt sau, khám phá vào cuối năm 69, 375 xác. Dù thời gian qua lâu, nhưng nhờ lượng muối cao của đất vùng này giữ, đa số tử thi hãy còn có thể nhận diện được. Nhiều nhân viên hành chính và quân nhân, bị bắn ở cổ và đầu. Đa số nạn nhân thuộc nam giới. Một vài phụ nữ và trẻ em và một vài người mang nhiều loại vết thương. Có các linh mục, tu sĩ và chủng sinh của các làng lân cận mất tích từ hơn 20 tháng kể từ biến cố tháng 02.68. Trong số 357 xác có cha Bửu Đồng, một cha sở quận Phú Vang và 2 chủng sinh. Cha Đồng dấu được trong túi sau bộ đồ ngủ đen trên người một hộp mắt kính trong đó có ba bức thư tiếng Việt. Một trong ba lá thư này, có bản chụp trưng bày ở nhà thờ chính tòa Huế, ông viết cho bổn đạo mình (thư tìm thấy trên thi thể ngày 8.11.69).

Các con cái yêu dấu: Đây là bút tích cuối cùng để nhắc cho các con ghi nhớ bài phúc âm thánh Phêrô trên thuyền bão táp… (3 chữ đọc không ra) đức tin. Lời cầu chúc của Cha ngày đầu xuân cho mọi công việc Tông đồ của Cha giữa chúng con, nhớ… (hai chữ đọc không ra) khi sự sống của Cha sắp kết liễu theo ý chúa.

Hãy mến Mẹ sốt sắng lần hột, tha mọi lỗi lầm của Cha, xin cám ơn Chúa với Cha, xin Chúa tha tội cho Cha và tận tình thương nhớ cầu nguyện cho Cha được sống trong tin tưởng, kiên nhẫn, trong khắc khổ để kiến tạo hòa bình của Chúa Kitô và phục vụ tinh thần Chúa và mọi người trong Mẹ Maria. Xin cầu nguyện cho Cha bình an sáng suốt và can đảm cùng mọi sự đau khổ tinh thần, thể xác và gởi mạng sống cho Chúa qua tay Đức Mẹ.

Hẹn ngày tái ngộ trên nước Trời.

Chúc lành cho chúng con.

(Chữ ký Cha Đồng)

***

Điểm chôn thứ mười bảy ở làng Thượng Hòa, quận Nam Hòa, bên bờ sông Tả Trạch, một phụ lưu sông Hương phía Nam lăng Gia Long. 11 xác được tìm thấy giữa các lùm cây trong tháng 07.69. Chỉ có ba xác nhận diện được là người của làng bên cạnh. Tất cả đều mang vết thương cổ và đầu, dấu chỉ của sự hành quyết.

Điểm thứ mười tám ở Thúy Thạnh, quận Hương Thủy, tìm thấy tháng 04.69, và ở làng Vinh Hưng, quận Vinh Lộc, tìm thấy tháng 07.69. Cả hai làng nằm trong vùng bị cộng sản chiếm từ lâu… Trên 70 xác, nhiều xác không còn nhận diện được nữa, đa số là đàn ông, vài đàn bà và trẻ con. Họ được nhận diện là người của các làng lân cận và vài người có thể bị chết vì chiến cuộc bởi mình họ mang nhiều vết thương và xác không toàn vẹn. Các nạn nhân khác bị bắn ở cổ và đầu.

Điểm thứ mười chín tìm thấy vào tháng 09.69 ở Khe Đá Mài, quận Nam Hòa, một con suối nhỏ chảy vào Khe Đại, phụ lưu sông Hương. Khe chứa đầy xương người, có xương đủ bộ, có chỗ xương nằm riêng, sọ nằm riêng; tất cả được nước suối mài trắng tinh. Dân đi cưa gỗ tìm thấy địa điểm này. Nạn nhân có lẽ đã được chôn bên bờ suối trong mùa mưa và nước suối đã dần soi mòn đất để lộ xác ra, cũng có thể là nạn nhân bị vứt xuống suối, chứng cớ là các mảnh quần áo được tìm thấy dọc bờ hoặc ngay dưới khe, thì việc chôn lấp nạn nhân có lẽ xảy ra trong các tháng mùa mưa (tháng hai, ba, tư). Và điều này có nghĩa là nạn nhân đã được dẫn thẳng tới đây hoặc được mang tới đây sau khi bị bắt một thời gian ngắn. Nếu chôn trong mùa suối khô, thì sự kiện xảy ra trong khoảng từ tháng 06 tới 10.Có lẽ để giữ bí mật khi rút lui Việt cộng đã thanh toán vội vàng các nạn nhân tại đây. Theo luật thông thường, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, kẻ thù thường chôn cất xác đồng đội đàng hoàng. Tuy nhiên cũng có thể đây là xương và sọ của lính Mặt Trận và Bắc Việt. Như vậy thì số phận nào cho những người Phú Cam bị mất tích?

Nghiên cứu các phúc trình quân sự Mỹ thì không thấy có một cuộc không tạc lớn hoặc của máy bay B52 nào ở vùng trên, ngoại trừ trận chiến gần Lộc Sơn vào hạ tuần tháng 04.68, một địa điểm cách xa nơi đó chừng 10 cây số. Vả lại lập luận mang người bị chết vì bom B52 băng qua vùng đất gập ghềnh để đưa về chôn ở suối này quả không vững. Đường lên núi dễ dàng hơn nhiều. Cũng vậy, nếu kẻ thù bị thiệt hại nặng ở trận Lộc Sơn và, theo thói quen sẵn có, đã mang xác 500 đồng đội đi thì hẳn lộ trình phải là hướng núi, gần và dễ di chuyển hơn nhiều, chứ làm sao mà chọn băng qua cánh rừng dày đặc khó xuyên qua được này.

Trong thời gian cuộc tấn công của cộng sản có xảy ra giao tranh lớn kéo dài từ Huế qua Bến Ngự, cầu Nam Giao tới gần và trong Nhà dòng Thiên An. Nhưng đã không có tiếp tục đánh nhau lớn về mạn Nam, khi quân thù chọn đường rút lui lên núi, hướng trái với Đá Mài. Khe Đá Mài nằm cách thành phố 40 cây số về hướng Nam, bên ngoài vùng lăng tẩm; nơi nầy được coi là vùng không người, chỉ có cộng quân lai vãng. Khe chứa 500 sọ. Địa thế cách trở, cách xa mọi văn minh bởi rừng đồi vách đá cho thấy người ta không muốn để số xác kia (xác của những người mang từ Huế ra) bị phát hiện, mà nếu có phát hiện thì cũng không nhận diện được. Nằm lẫn với xương là các mảnh quần áo thường, không phải kaki hay vải màu xanh bộ đội miền Bắc hoặc quân phục Mặt Trận. Các sọ vỡ xương trán, tất thảy cho thấy bị đánh bởi một vật gì nặng. Một số sọ khác không thấy vết tích gì ở xương, đây có thể là nạn nhân chết trong lúc giao tranh. Lần lượt tất cả hài cốt được chuyển về thành phố, nơi họ ra đi và tống táng trong an bình…

Sau khi Đá Mài được khám phá, vẫn còn vài trăm người mất tích. Trong số đó có một số sinh viên, điển hình là các anh Ngô Anh Vũ, Nguyễn Văn Bích. Cả hai bị bắt ở nhà thờ Phủ Cam. Những người khác, viên chức hành chánh, thành viên chính đảng, thanh niên công giáo, Phật giáo, tu sinh, giáo chức và quân nhân. Họ bị bắt đi, biệt tăm tin tức.Bên cạnh các hầm chôn tập thể, còn có các nạn nhân lẻ tẻ, bị giết tức tưởi. Có khi cả gia đình bị tiêu diệt như gia đình ông Nam Long, thợ buôn, bị bắn cùng vợ và 5 con tại nhà. Ông Ngô Bá Nhuận bị bắn dã man trước rạp chiếu bóng địa phương và ông Phan Văn Tường, lao công, bị giết ngoài nhà ông cùng với bốn đứa con…

Alje VannemaThe Vietcong Massacre at Hue. Vintage Press, New York, 1976.


 

Vụ Chuyến bay giải cứu: ‘Tôi mong không bao giờ có những bản án tương tự’

BBC

Nhật Ánh (nhân vật trong bài) và con gái trên chuyến bay về từ Washington về Nội Bài tháng 7/2020

  • Tác giả,Thương Lê
  • Vai trò, BBC News Tiếng Việt
  • 29 tháng 7 2023

Vậy là đại án chuyến bay giải cứu đã khép lại với 4 án tù chung thân, 10 án tù treo và 30 án tù từ 18 tháng đến 16 năm. Dư luận bất bình vì cả một đại án với số tiền hối lộ khổng lồ mà không có một án tử để làm gương.

Riêng tôi không bất ngờ về kết quả này, vì đã tham khảo ý kiến của các luật sư và chuyên gia trong quá trình phỏng vấn viết bài.

Nhưng trong lòng tôi vẫn có những vướng mắc chưa được giải đáp, khi chính tôi cũng là một người bay từ nước ngoài về Việt Nam trong thời dịch bệnh.

Số tiền mà các bị cáo nộp lại sẽ được sung công quỹ nhà nước, nhưng theo bản án, hồ sơ không có thông tin, tài liệu về những người đã mua vé của các doanh nghiệp tổ chức chuyến bay combo, chuyến bay giải cứu.

Điều đó đồng nghĩa là tôi và khoảng 200,000 hành khách đã trả giá cao trong thời điểm dịch bệnh khó khăn trên 772 chuyến bay hồi hương sẽ tiếp tục mờ tịt về việc có được bồi thường hay không.

Ăn cả tiền “giải cứu” tù nhân

Khi viết bài này, những ký ức trong tôi về một “chuyến bay giải cứu” cách đây hơn hai năm hiện ra rõ mồn một như vừa mới hôm qua.

Sáng 6/4/2021, tôi cùng hơn 250 người Việt Nam nằm trong danh sách lên chuyến bay hồi hương từ Bangkok về Đà Nẵng sau khi đăng ký và thanh toán thành công với một công ty du lịch được Đại sứ quán Việt Nam tại Thái Lan thông qua.

Đại án ‘chuyến bay giải cứu’: Hành khách có được bồi thường hay không?

Toà VN tuyên án vụ Chuyến bay giải cứu: ‘Không loại ai khỏi xã hội’

Tại sân bay quốc tế Suvarnabhumi ngày hôm đó, bên cạnh những gương mặt hân hoan vì sắp được về Việt Nam, nơi đang tự hào vì thành tựu kiềm chế số ca Covid, có những gương mặt mệt mỏi vì thiếu ngủ, chẳng ai lại muốn ngủ quên trước một chuyến bay quan trọng như vậy.

Đứng xếp hàng làm thủ tục có cô hoa hậu sang Thái đi thi rồi kẹt lại, có anh nhân viên văn phòng nghỉ việc không có thu nhập mấy tháng, có cô sinh viên đã tốt nghiệp muốn về xin việc… và có gần 100 người mãn hạn tù muốn trở về nước.

Họ xếp thành một hàng riêng để làm thủ tục cuối cùng, không ít người trong đó có giấy tờ không hợp lệ, mà họ hay gọi là họ chiếu chết.

Để hồi hương, mỗi người phải trả 28 triệu đồng cho vé máy bay và 14 ngày cách ly/ phòng đôi trong khách sạn tại Đà Nẵng, ai muốn ở một mình một phòng thì đóng thêm 8 triệu, tiền di chuyển đến Bangkok và xét nghiệm Covid tự lo.

Giá vé một chiều từ Thái Lan về Việt Nam ngày thường rơi vào khoảng trên dưới 2 triệu đồng, nhưng ai cũng cố gắng xoay sở đóng đủ số tiền cao hơn mười mấy lần để về nước.

Chúng tôi quyên góp cho những người mãn hạn tù bay từ Thái Lan về Việt Nam

Chuyến bay gần nhất trước đó là vào tháng 12/2020, bị kẹt lại đồng nghĩa với việc tốn thêm một vài tháng tiền nhà và sinh hoạt phí tại Thái Lan và mòn mỏi chờ thông báo từ Đại sứ quán.

Thời điểm dịch bệnh hầu như ai cũng khó khăn, chúng tôi chỉ có thể quyên góp ít tiền để mua chút đồ ăn cho những người tù mãn hạn. Có cô gái xung phong ở chung phòng cách ly với một chị có con nhỏ vì muốn giúp đỡ và cũng để nhận chút tiền bồi dưỡng.

“Xót lòng quá chị ơi, em làm cả năm không để được 28 triệu, phải kêu gia đình gửi tiền sang”, cô nói với tôi.

Tôi tự cảm thấy mình may mắn hơn họ và hơn nhiều người khi được công ty (khi đó tôi chưa làm việc cho BBC ở Bangkok) lúc đó ở Việt Nam hỗ trợ một phần tiền vé. Vì vậy, tôi không dám than vãn dù sau đó tôi thấy điều kiện cách ly không xứng đáng với số tiền bỏ ra.

Khách sạn ba sao mà tôi ở trong hai tuần cung cấp wifi “có cũng như không”, tôi phải bỏ tiền nhờ nhân viên mua giúp một chiếc sim 3G để có thể làm việc như bình thường, từ sáng đến tối là những âm thanh chát chúa từ những công trình đang xây dựng dọc bờ biển Đà Nẵng, và những tràng cười khả ố hay những câu nói đùa thô tục phát ra từ những cậu trai trong đoàn cách ly ở khách sạn đối diện bên đường mỗi lần tôi mở rèm để hứng chút ánh nắng và khí trời.

Đương nhiên, tôi vẫn thấy mình may mắn hơn rất nhiều người.

Đại án ‘Chuyến bay giải cứu’: Chi 2,65 triệu USD ‘chạy án’ không thành

Việc xét xử đại án ‘Chuyến bay giải cứu’ có tính chính trị?

Chuyến bay giải cứu là một kỷ niệm khó quên với nhiều người Việt Nam

“Sẽ là một câu chuyện đẹp nếu không có những người quá tham lam”

Một người bạn tôi, bay từ Mỹ về Việt Nam trên chuyến bay giải cứu, ban đầu cũng đắn đo không muốn tiết lộ danh tính, nhưng cuối cùng quyết định dùng tên thật nói ra cảm nghĩ của mình.

Từ TP HCM, Đặng Nhật Ánh kể lại với tôi cô và con gái nhỏ lên chuyến bay từ Washington về Việt Nam vào tháng 7/2020.

“Tôi nhớ đó là thời điểm những chuyến bay giải cứu đầu tiên từ Mỹ về Việt Nam. Để mua được vé, tôi phải trình bày với Lãnh sự Việt Nam tại Mỹ lý do vì sao cần về Việt Nam. Tôi đã liên lạc với họ nhiều lần bằng email và điện thoại, cũng như chờ đợi khoảng gần một tháng để tới lượt mình. Các chuyến bay đầu tiên có thể họ ưu tiên những người có bệnh nền, già yếu, trẻ em không có người thân…”, Nhật Ánh cho biết.

Cô nói thêm thời điểm đó thông tin rất mờ mịt, cô cũng kiểm tra các chuyến bay thương mại vì không thấy có thông tin chính thức nào là cấm nhập cảnh Việt Nam. Nhưng thực tế là không về được vì các hãng hàng không không thể bay đến các sân bay Việt Nam.

“Có lẽ cũng như tôi, phần lớn người Việt Nam lúc đó đều nghĩ rằng các chuyến bay giải cứu này là miễn phí. Nhưng tôi thấy đúng hơn đó là các chuyến bay hồi hương, chở người Việt về quê mà thôi. Những chuyến bay này xuất hiện là vì nước ta thời điểm đó cấm nhập cảnh kể cả với người Việt từ mọi nơi trên thế giới, điều mà tôi thấy rằng chỉ đôi ba quốc gia có chính sách này thôi”, Nhật Ánh nói.

Cô cho biết giá vé cho hai mẹ con, trong đó một vé cho em bé nhỏ là 6.000 USD bay một chiều từ Washington về Nội Bài, xe đưa về nơi cách ly là một cơ sở quân đội, 14 ngày ăn ở (phòng có máy lạnh). Ngoài ra, các hành khách tự túc vé máy bay từ bang khác đến Washington, vé bay từ Nội Bài về Tân Sơn Nhất, được Việt Nam Airlines giảm giá.

“Mức giá đó thời điểm đó tôi thấy khá cao so với khoảng chỉ hơn 1.000 đô la Mỹ là khứ hồi thông thường. Tuy nhiên tôi hiểu đây không phải là chuyến bay đơn giản mà tổ chức được. Do đó mặc dù cũng khó khăn xoay xở mua vé nhưng tôi cảm thấy cũng là hợp lý trong lúc dịch rất căng thẳng ở Mỹ”.

“Tôi không biết với những người khác ở các chuyến bay khác nhưng có người cách ly cùng tôi nói rằng đã trả 8.000 USD/ người, vì họ có gửi nhờ vả cơ quan Lãnh sự”.

NGUỒN HÌNH ẢNH,BỘ NGOẠI GIAO

Nhật Ánh và con gái nằm trong số 346 công dân Việt Nam từ Mỹ về Việt Nam trong chuyến bay tháng 7/2020

Dù trả một số tiền mà cô cho là xót lòng vì trong thời điểm dịch bệnh, doanh thu của công ty gần về không nhưng Nhật Ánh cho biết cô rất cảm kích những người Việt tham gia tổ chức chuyến bay, tiếp viên, bộ đội ở khu cách ly.

“Tôi thật lòng rất biết ơn họ. Tôi nhớ và thương những anh bộ đội mỗi ngày nuôi chúng tôi ăn uống cách ly 3 bữa, rất nhiệt tình và chu đáo”.

Tuy nhiên, cô chia sẻ rằng thấy tiếc cho một câu chuyện đẹp, tiếc cho những nỗ lực của rất nhiều con người trong đợt dịch.

“Tôi thấy buồn vì có lẽ không có quốc gia nào có câu chuyện những chuyến bay giải cứu như Việt Nam mình. Sự kiện mà rất nhiều người vay nóng, cầm cố, bán tài sản… để có được chuyến hồi hương trong khi một số người lại quá tham lam ngay đối với cả đồng bào”.

Nay án đã xử xong, nhưng những người trên chuyến bay của Nhật Ánh và của tôi có lẽ rất khó để nhận lại tiền.

“Nếu có một đơn chung để xin lại phần chênh lệch của vé đã mua tôi sẵn sàng tham gia. Số tiền nếu nhận được tôi sẽ gửi đến tổ chức thiện nguyện cộng đồng. Nếu có những ngôi trường được xây từ số tiền này thì chắc sẽ là một đoạn kết đỡ đau lòng”, Nhật Ánh nói.

Nhưng trên hết, Nhật Ánh mong một bản án thể hiện thượng tôn pháp luật, công bằng.

“Và tôi mong không bao giờ có những bản án tương tự ở đất nước mình!”

***Xem thêm:

Đại án ‘Chuyến bay giải cứu’ mới chỉ xử lý phần nổi của tảng băng chìm? (BBC)


 

Mỗi năm Việt Nam có 82,000 người chết vì ung thư

Báo Nguoi-viet

July 29, 2023

CẦN THƠ, Việt Nam (NV) – Tỷ lệ bị ung thư của Việt Nam cao thứ nhì thế giới, với 200,000 ca mới mỗi năm, trong lúc số người chết vì căn bệnh này lên đến 82,000.

Các con số nêu trên được báo VOV của Đài Tiếng Nói Việt Nam hôm 29 Tháng Bảy, dẫn lại từ cuộc hội thảo “Quản lý ung thư trong thời đại mới: Cập nhật những tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị ung thư ở Việt Nam và trên thế giới.”

Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM. (Hình: VietNamNet)

Sự kiện này được tổ chức tại bệnh viện Đại Học Nam Cần Thơ, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ.

Cũng tại buổi hội thảo, các chuyên gia cho hay tỷ lệ người chết do ung thư tại Việt Nam là 73.5%, trong khi của thế giới là 59.7%, còn tại các quốc gia đang phát triển là 67.9%. Như vậy, tỷ lệ chết do các bệnh ung thư tại Việt Nam “ở mức cao, thuộc tốp đầu thế giới.”

Bản tin cho biết thêm tại Việt Nam, hiện có hơn 300,000 người đang sống chung với bệnh ung thư.

VOV dẫn lời Bác Sĩ Đàm Văn Cương, giám đốc bệnh viện Đại Học Nam Cần Thơ: “Bệnh ung thư có thể được giảm thiểu và kiểm soát qua việc áp dụng các chiến lược phòng ngừa, phát hiện điều trị sớm ung thư. Nhiều bệnh ung thư có cơ hội chữa lành cao nếu chẩn đoán sớm và điều trị đúng cách.”

Theo báo VNExpress hôm 29 Tháng Bảy, ba loại ung thư thường gặp ở Việt Nam là phổi, gan, dạ dày, đều là bệnh có tỷ lệ chết cao.

Đối với những bệnh nhân phát giác các căn bệnh này ở giai đoạn muộn, bác sĩ không thể can thiệp, chỉ có thể điều trị giảm nhẹ. Do đó, việc tầm soát phát hiện sớm là cần thiết nhưng cần tránh việc lạm dụng.

Bác Sĩ Ngô Văn Tỵ, Khoa Ung Bướu, bệnh viện Đại Học Y Hà Nội, giải thích: “Việc chi số tiền lớn chụp chiếu hay làm xét nghiệm tất cả bộ phận trên cơ thể để tìm bệnh ung thư là không cần thiết. Mỗi loại ung thư có phương pháp và thời gian tầm soát khác nhau, thực hiện trên nam và nữ có khác biệt.”

Bên trong Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM. (Hình: Dân Việt)

Theo Bác Sĩ Tỵ, việc tầm soát ung thư thường được khuyến cáo với những nhóm nguy cơ cao như tiền sử gia đình có người mắc bệnh, độ tuổi, giới tính.

Tùy từng trường hợp mà bác sĩ có chỉ định tầm soát riêng. Ví dụ, gia đình có bà hoặc mẹ bị ung thư vú, con gái nên sàng lọc sớm từ 18 tuổi. (N.H.K)

Lạm bàn về tâm thế-Trân Văn

Báo Tiếng Dân

Blog VOA

Trân Văn

26-7-2023

Ảnh chụp màn hình bài đăng trên báo Thể Thao và Văn Hóa.

Trước đó một chút, sau khi Đội nữ Việt Nam thua Đội nữ Mỹ 0 – 3 ở vòng chung kết Giải Bóng đá nữ Thế giới của FIFA, tờ Thể Thao & Văn hóa khuấy động dư luận vì bài bình luận được đặt tựa là “Chơi kiên cường trước nhà vô địch World Cup, ĐT Việt Nam khiến nữ Thái Lan phải muối mặt”.

Chỉ trích của công chúng về cách đặt tựa cũng như nội dung tin, bài của các cơ quan truyền thông chính thức tại Việt Nam không chỉ càng ngày càng nhiều mà còn càng ngày càng gay gắt.

Mới nhất là chuyện tờ Nhịp Sống Thị trường giới thiệu bài viết “Việt Nam đón 70.000 tấn ‘vàng lỏng’, ghi dấu cột mốc lịch sử: Chính thức tiến vào lĩnh vực đang tạo ‘địa chấn’ toàn cầu” (1).

Nếu chịu khó đọc hết bài viết này người ta mới biết, “vàng lỏng” là cách mà người viết và tòa soạn tờ Nhịp Sống Thị trường… sáng tác để gọi khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) và việc “đón 70.000 tấn… vàng lỏng” chỉ là tiếp nhận 70.000 tấn LNG do Shell cung cấp và mới được vận chuyển từ Indonesia sang Việt Nam. Thiên hạ cũng chẳng hiểu vì sao nhiều nhà máy điện ở Cà Mau, Nhơn Trạch (Đồng Nai), Phú Mỹ (Bà Rịa – Vũng Tàu, Việt Nam),… của Việt Nam đã dùng LNG để sản xuất điện từ cuối thập niên 2000 mà tờ Nhịp Sống Thị trường lại cho rằng chuyện tiếp nhận 70.000 tấn LNG là… “ghi dấu cột mốc lịch sử”? Sử dụng LNG để phát điện đã trở thành hết sức bình thường, sao lại nâng lên thành… “chính thức tiến vào lĩnh vực đang tạo ‘địa chấn’ toàn cầu”?

Đáng lưu ý là bài viết vừa kể của Nhịp Sống Thị Trường đã được hàng chục cơ quan truyền thông chính thức… tái bản. Kiem Mai Ba gọi đó là… “cuồng ngôn” và nhắn báo giới: Không biết làm trong sáng thì đừng bôi bẩn tiếng Việt (2).

***

Trước đó một chút, sau khi Đội nữ Việt Nam thua Đội nữ Mỹ 0 – 3 ở vòng chung kết Giải Bóng đá nữ Thế giới của FIFA, tờ Thể Thao & Văn hóa khuấy động dư luận vì bài bình luận được đặt tựa là “Chơi kiên cường trước nhà vô địch World Cup, ĐT Việt Nam khiến nữ Thái Lan phải muối mặt”. Rất nhiều người Việt nổi giận khi Thể Thao & Văn hóa tự nâng Việt Nam lên và đạp Thái Lan xuống theo kiểu mà họ cho là… “hạ cấp” như vậy. Có người như Tiểu Vũ đã dẫn ý kiến của bà Nuanphan Lamsam – Thành viên Ban Huấn luyện Đội nữ Thái Lan (Chúng tôi chân thành cám ơn màn trình diễn của các bạn [Đội Bóng đá nữ Việt Nam]. Từ trái tim của những người yêu bóng đá nữ, chúng tôi cám ơn các bạn) trên báo Thái để so sánh tầm và tâm của báo Việt và báo Thái (2).

Có người như Thái Hạo nhắc – đại ý: Chúng ta là người Việt Nam sống trên đất Việt Nam nhưng đang đi chợ Thái, mua gạo Thái, trái cây Thái, bia – nước ngọt của Thái…, và đựng những thứ đó trong bao bì của Thái. Còn nhìn qua Thái thì khó mà so sánh. Bóng đá chỉ là chơi. Chính báo giới Việt Nam phải thừa nhận “Doanh nghiệp Thái Lan đã thống trị nhiều lĩnh vực trên thị trường Việt Nam, biến Việt Nam trở thành ‘sân nhà’ của họ” thì đừng ảo tưởng và tự hào vô lối, coi chừng phải muối toàn thân (3).

Phản ứng của công chúng đã khiến tờ Thể Thao & Văn hóa phải sửa tựa đã đề cập thành “Chơi kiên cường trước nhà vô địch World Cup, ĐT Việt Nam khiến nữ Thái Lan phải ghen tị” nhưng vẫn không ổn thành ra phải sửa thêm lần nữa “ĐT Việt Nam đã chơi kiên cường trước tuyển Mỹ, làm rạng danh bóng đá Đông Nam Á”. Phan Châu Thành xem việc lẳng lặng sửa hoài nhưng vẫn sai là bằng chứng của sự ti tiện – hả hê trước thất bại của người khác, không những không biết xấu hổ mà còn đầu độc xã hội (4)

***

Ngoa ngôn, loạn ngữ không chỉ xuất hiện trên báo chí cách mạng mà còn giăng đầy trên mạng xã hội và môi miệng viên chức. Nếu chịu khó quan sát có lẽ sẽ nhận ra, ngoa ngôn, loạn ngữ từ chỗ chỉ nhằm phục vụ mục tiêu: Xiển dương sự tự hào cả về quá khứ lẫn hiện tại của xứ sở, dân tộc, qua đó xây dựng lòng biết ơn và vun bồi sự thần phục đảng CSVN vô điều kiện… đã trở thành nếp nghĩ, lối hành xử của một nhóm không nhỏ, bào mòn và khiến cả dân trí lẫn dân khí trở thành lệch lạc tới mức “tự hào” được làm… nạn nhân.

Từ khi tấm màn che hậu trường hoạt động “giải cứu” những người Việt bị kẹt ở ngoại quốc khi COVID 19 trở thành đại dịch toàn cầu được vén lên, thỉnh thoảng thiên hạ lại nhắc đến facebooker Nguyễn Viết Sơn vì từng viết thế này:

Ngạo nghễ Việt Nam. Hãy nhìn trực diện chiếc máy bay Airbus 321 của Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam để thấy được sự ngạo nghễ ấy! Bay thẳng vào tâm dịch để đón 30 công dân của mình về nước chăm sóc! Chỉ có thể là Việt Nam! Trong tất cả các mối quan hệ, có lẽ chỉ có bậc làm cha, làm mẹ mới có thể lo lắng, cưu mang những đứa con đi làm ăn xa xứ của mình với tất cả tình cảm yêu thương, tinh thần trách nhiệm và sự hy sinh lớn lao đến như vậy. Tự hào chính phủ Việt Nam! Tự hào dân tộc Việt Nam! Tự hào tình người Việt Nam!… Lũ “dân chủ”, phản động vẫn thường rao giảng rằng: Đừng nghe những gì cộng sản nói. Hãy nhìn những gì cộng sản làm… hãy tự lấy tay chọc nát lỗ tai mình và mở to mắt ra mà chứng kiến sự ngạo nghễ đầy nhân văn của cả một dân tộc được lãnh đạo bởi đảng cộng sản (5).

Không rõ facebooker Nguyễn Viết Sơn viết như thế vì… “công vụ” hay đúng là đã cảm nhận như vậy. Nếu vì… “công vụ” thì nên xếp chính quyền tổ chức cổ vũ, dẫn dắt toàn bộ công dân xem hệ thống đang quản trị – điều hành quốc gia như… cha mẹ vào loại nào? Đến giờ, những xứ sở xem chính quyền như “phụ mẫu” đứng ở đâu trong bảng xếp hạng văn minh, mức độ phát triển của các quốc gia? Còn nếu vì… thật sự cảm nhận như vậy thì với những gì đã biết, cũng như đang “tận mục sở thị” từ phiên xử “giải cứu”, những người như facebooker Nguyễn Viết Sơn nên lắng nghe “lũ dân chủ phản động” để ngẫm nghĩ đúng – sai, phải – trái, hay tiếp tục tin yêu đảng, tiếp tục cho rằng “đất nước chưa bao giờ như thế này” là… “được” chứ không phải là… “bị”?

Chú thích

(1) https://markettimes.vn/viet-nam-don-70-000-tan-vang-long-ghi-dau-cot-moc-lich-su-chinh-thuc-tien-vao-linh-vuc-dang-tao-dia-chan-toan-cau-34798.html

(2) https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid036YvSR1p8mbPf7JBSshLpnQJ2cFbGkZv3xvpUFRY7buJMGkvqCNLc31RUPMGKSFhhl&id=100089087646024

(3) https://www.facebook.com/tieuvudlc/posts/pfbid031YXqY7yQEWVaixdiQYVn4GeGLi4Mq9fjQiiuTHHXkxcTzSzfgWLEzSE8cVF7W3L7l

(4) https://www.facebook.com/chau.t.phan/posts/pfbid0JwXWD1mWJdstJhMP7eTzQnt2aNB85uwZiZYR4MvLwm2nqB99u82jBZKp7n4anmGol

(5) https://www.facebook.com/khanhtuanng/posts/pfbid0CRLDZB7yMvq7gFuDZaAhhkfHiRw5YSs27BELdsDJVFLTi1gWVoYTrGJiKe2jEryKl

Ông Nguyễn Sơn Lộ, cựu Viện trưởng Viện Nghiên cứu Công nghệ và Phát triển, lãnh án 5 năm tù

Báo Tiếng Dân

BTV Tiếng Dân

26-7-2023

Ông Nguyễn Sơn Lộ, cựu Viện trưởng Viện SENA. Nguồn: Báo Thanh Niên

Hôm 26-7-2023, ông Nguyễn Sơn Lộ bị Tòa án ở TP Hà Nội tuyên án 5 năm tù, truyền thông nhà nước đưa tin. Ông Lộ, 75 tuổi, là tiến sĩ vật lý, từng giữ chức Viện trưởng Viện Nghiên cứu Công nghệ và Phát triển (SENA), trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA).

Ông Lộ bị hai án tù, gồm: Án ba năm tù về cái gọi là “lợi dụng các quyền tự do dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân“, theo Điều 331, Bộ Luật Hình sự Việt Nam; và án hai năm tù với cáo buộc, “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, theo Điều 356, Bộ Luật Hình sự. Tổng cộng hai án là năm năm tù.

Ngày 27-7-2022, ông Nguyễn Sơn Lộ bị khởi tố và khám xét chỗ ở và nơi làm việc, nhưng được cho tại ngoại, cấm đi khỏi nơi cư trú, với lý do ‘tuổi già sức yếu’, nhưng đến ngày 2/2/2023, ông bị bắt giam vì nhà chức trách cho rằng ông ngoan cố, “có dấu hiệu tiếp tục phạm tội”.

Trước đó, ngày 4/7/2022, cơ quan chủ quản của Viện SENA là Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), đã ra quyết định đình chỉ hoạt động Viện SENA, để giải thể viện này, vì cho rằng Viện SENA vi phạm quy định về thành lập, đăng ký hoạt động.

Tại phiên tòa ngày 26-7-2023, ông Lộ bị cáo buộc dùng danh nghĩa Viện trưởng Viện SENA để biên soạn, biên tập, in và phát tán qua đường bưu điện tổng cộng 6 tài liệu cho hàng trăm cá nhân, tổ chức, trong thời gian 10 năm (từ 2013-2023), theo truyền thông nhà nước.

Các tài liệu này bao gồm: “Cốt lõi thành công là trân trọng, liên kết, thống nhất sự khác biệt”; “Làm gì cho Tổ quốc Việt Nam”; “Chính thể mới, Kết nối mới, Việt Nam mới”; “Quốc gia trong kỷ nguyên kết nối văn hóa”; “Giấy mời dự Trà đàm – Đường lớn đến tương lai“, báo Dân Việt đưa tin.

Báo Dân Việt trích dẫn cáo trạng, cho biết, ông Lộ còn “lợi dụng quyền khiếu nại của công dân”, soạn “Đơn khiếu nại” ghi ngày 19/2/2022 và phát tán đơn này cho nhiều người.

Cơ quan tố tụng của Đảng và Nhà nước Việt Nam cho rằng, các hành vi nói trên của ông Lộ là “nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự và an toàn xã hội“, theo truyền thông trong nước.

Ngoài ra, ông Lộ còn bị cáo buộc rằng, từ năm 2005, ông đã tự ý cho các tổ chức nước ngoài thuê một phần trụ sở văn phòng của Viện SENA, thuộc sở hữu của Nhà nước, nhưng không nộp tiền cho thuê.

Ông Nguyễn Sơn Lộ đã từng ký tên trong một số thư ngỏ, trong đó có bức thư ngày 9/12/2015, “Gởi Đảng Cộng sản Việt Nam“. Ông là người thứ 30 ký với tên Minh Đường, gửi Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, đề nghị lãnh đạo ĐCS “đổi tên đảng (không gọi là Đảng Cộng sản); đổi tên nước (không gọi là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa); trả lại tự do cho những người khác chính kiến đang bị giam giữ; chấm dứt sự trấn áp và ngăn chặn nhân dân thực hiện quyền tự do dân chủ theo Hiến pháp“. Thư ngỏ này có 127 người ký tên, trong đó có nhiều nhân sĩ, trí thức đã công khai ký tên.

Một nhà hoạt động nói với Tiếng Dân, rằng ông Lộ bị bắt và bị kết án vì ông đã từng lên tiếng góp ý xây dựng Đảng, dù không được lắng nghe. Và ông cũng đã dám cất tiếng nói trái ý Đảng, nên ông bị Đảng trả thù qua bản án 5 năm tù.

_______

Mời đọc thêm: Hàng trăm nhân sĩ trí thức VN gửi thư ngỏ đòi từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin (VOA). – Kỳ vọng gì về lời kêu gọi từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lê (RFA). – Lại bàn về “thư ngỏ”! (CAND). – Cựu Viện trưởng Viện SENA Nguyễn Sơn Lộ bị tuyên án 5 năm tù (TN). – Cựu Viện trưởng SENA Nguyễn Sơn Lộ bị phạt 5 năm tù (DV).

Về tội trạng của Phạm Trung Kiên

Báo Tiếng Dân

Chu Mộng Long

25-7-2023

Sự quanh co nói lời đạo đức, nhân văn một cách dối trá, thậm chí còn có cảm hứng tuôn trào thơ lai láng trong lời tự bào chữa cuối cùng của quan chức phạm tội, chứng tỏ đám cẩu quan này không còn mang tính người. Sự bào chữa trí trá, đánh tráo ngôn từ, suy đoán lệch lạc của các luật sư bào chữa cũng cho thấy, không chỉ tình trạng thiếu hiểu biết pháp luật mà còn vô cảm tương đương như đám cẩu quan kia.

Trong khi dư luận đa số phẫn nộ với các hành vi phạm tội của đám cẩu quan này thì vẫn có một số trí thức tỏ ra khách quan, hiểu biết luật lại muốn xỏ mũi dư luận bằng những nhận xét cũng vô cảm đến đáng sợ. Theo họ, có thể áp dụng “nguyên tắc suy đoán vô tội” khi chưa đủ chứng cứ buộc tội các bị can. Trường hợp cho bị cáo Hoàng Văn Hưng chẳng hạn. Tôi hiểu họ muốn đẩy đến “thuyết âm mưu” đòi bắt đứa to hơn, nhưng vô tình họ đã mớm cho đám cẩu luật sư bào chữa cho cẩu quan có thêm lí lẽ để đòi giảm hoặc miễn tội cho các bị can.

Họ không nghĩ khi không còn là người, đám cẩu quan này có còn đáng sống không?

Đành rằng Tòa “trọng chứng hơn trọng cung”, nhưng đòi chứng minh quả tang số tiền nhận hối lộ thì tôi dám chắc, không chỉ trường hợp bị cáo Hưng mà các trường hợp khác cũng vậy. Hành vi đưa và nhận hối lộ chỉ có thể minh chứng bằng đối chiếu giữa các lời tố cáo, lời khai, lời tự thú và các dữ kiện trong hành vi phạm tội. Khó bắt quả tang, trừ phi gài bẫy, vì đưa và nhận hối lộ thường lén lút, nằm ngoài phạm vi giám sát, theo dõi.

Nếu áp dụng “nguyên tắc suy đoán vô tội” như luật sư trực tiếp trong phiên tòa hay một số trang mạng lên tiếng bào chữa gián tiếp, thì không chỉ bị cáo Hưng, mà tất cả mấy chục bị can trong vụ án này đều vô tội, vì không ai trong số đó bị bắt quả tang đưa và nhận tiền? Trong khi căn cứ phạm tội có đủ như tôi đã phân tích trong bài trước.

May mà đa số bị cáo đều nhận tội chứ tất cả đều chối tội, đòi đưa ra bằng chứng tiền mặt như bị cáo Hưng thì vụ án trở nên trớt quớt.

Thưa các bạn, tôi dám chắc, số tiền Viện Kiểm sát đưa ra có căn cứ để luận tội chỉ là một phần nhỏ so với thực tế số tiền mà đám cẩu quan đã trấn lột các nạn nhân trong cả đợt dịch. Viện Kiểm sát chẳng đã nói rõ là bỏ qua cả triệu đô la trong mỗi trường hợp bị cáo Hưng đó sao? Và cũng không ngẫu nhiên mà một bị cáo khác cho mình bị phát hiện và truy tố chỉ là vận đỏ đen, tức hên xui? Điều này cho thấy, tình trạng tham nhũng đã ngày một ranh ma xảo quyệt như trong một canh bạc có tên là “vận số quan trường”.

Trong một nhà nước dân chủ pháp quyền, không chỉ bị can, luật sư mà ai cũng có quyền tham gia bào chữa trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng phải tôn trọng pháp luật. Tương tác đa chiều làm cho Tòa cân nhắc để ra bản án khách quan, công minh chứ không phải diễn trò múa rối hoặc làm cho cán cân công lý trở nên méo mó, lệch lạc.

Đó là lý do, trong bài trước, để cho bản án thuyết phục nhân tâm, tôi đề nghị tách vụ án chạy án ra khỏi vụ án chung “Chuyến bay giải cứu”, trả hồ sơ cho cơ quan điều tra làm rõ thêm chứng cứ buộc tội Hoàng Văn Hưng.

Riêng bài này, tôi dành riêng cho bị cáo Phạm Trung Kiên. Coi như cho qua lời bào chữa méo mó, lệch lạc, trái pháp luật của luật sư, xem tiền hối lộ hơn 70 tỉ đồng chỉ là tiền “trả ơn” của đồng bào hải ngoại. Riêng lời bào chữa này cần cân nhắc. Tội nhận hối lộ phải là tội của người có chức vụ, quyền hạn. Ông Phạm Trung Kiên chỉ là Thư ký của Thứ trưởng, tức người thừa hành mệnh lệnh từ Đỗ Xuân Tuyên, có phải là “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” không?

Không thấy báo nào đăng trả lời của Viện Kiểm sát. Tôi trả lời thay vậy. Căn cứ khoản 2 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng 2018, quy định, “người có chức vụ quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó. Cụ thể bao gồm những chủ thể sau: Cán bộ, công chức, viên chức; Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, công nhân công an trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân...” (hết trích).

Khỏi cãi ông Kiên có chức vụ, quyền hạn hay không! Rõ ràng là có. Trong hệ thống thần thánh, yêu quái, dù là vật nuôi của thần thánh cũng có quyền tác oai tác quái! Tội nhận hối lộ áp cho Phạm Trung Kiên là xác đáng, đúng người đúng tội.

Nhưng điều luật sư nói, thư ký chỉ thừa hành mệnh lệnh của lãnh đạo là có lí. Hiển nhiên lãnh đạo trực tiếp của Phạm Trung Kiên là Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên. Trường hợp này tôi cũng đề nghị trả hồ sơ vụ án, cho cơ quan điều tra làm rõ: số tiền hơn 46 tỉ đồng Phạm Trung Kiên nhận hối lộ là do Phạm Trung Kiên tác oai tác quái để cản trở các chuyến bay, hay do Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên chỉ đạo?

Nếu Đỗ Xuân Tuyên chỉ đạo thì xử lý nghiêm khắc Đỗ Xuân Tuyên và giảm án cho Phạm Trung Kiên. Nếu Đỗ Xuân Tuyên không chỉ đạo thì Đỗ Xuân Tuyên cũng phải liên đới trách nhiệm vì đã nuôi yêu quái làm hại đồng bào. Nên nhớ, Đỗ Xuân Tuyên không là thần thánh như trong Tây Du kí, vô can với yêu quái do mình nuôi. Phải phạt tù chứ không phải chỉ kiểm điểm, vì diệt xong yêu quái này, anh ta lại nhân danh thần thánh nuôi yêu quái khác!

Tất nhiên, liên đới trách nhiệm trong vụ này, Đỗ Xuân Tuyên chưa phải là cao nhất, vì ông ta chỉ là Phó Ban chỉ đạo. Với tư cách là đảng viên trung thực, trước khi làm rõ, những kẻ chỉ đạo cao nhất nên tự thú hoặc tự tử đi, đừng để bị lôi ra tòa rồi mới bày trò “khắc phục hậu quả”. Nuốt không trôi rồi ợ ra trả lại chỉ có thể là cẩu tặc chứ không phải đảng viên trung thực.

Lâu nay Toà xử các vụ án tham nhũng vì bỏ lọt người lọt tội quá nhiều, nên mới có chuyện một bị cáo nói toạc giữa công đường, rằng mình bị vận đen, tức xui xẻo thôi!

Tôi đồng tình với Viện Kiểm sát khi cho hành vi của Phạm Trung Kiên và đồng bọn ở năm bộ ngành mắc tội to hơn là phản bội Đảng, phản bội nhân dân, phá hỏng công cuộc chống dịch và giải cứu nhân đạo của của Đảng và Nhà nước; đặc biệt phẫn nộ trước lời bào chữa vô cảm, trái pháp luật và luân thường đạo lý của các luật sư trước nỗi đau, mất mát to lớn của đồng bào ta.

______

Ảnh chụp màn hình các bài báo liên quan:

 


Việt Nam: “cường quốc” vé số

Một người bán vé số dạo ở Sài Gòn (ảnh: NLĐ)

Nền kinh tế có cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” đang chứng kiến đợt suy trầm nghiêm trọng nhất trong nhiều năm qua, khi số doanh nghiệp phá sản, đóng cửa trong sáu tháng đầu năm vượt hơn 100,000 doanh nghiệp và tăng trưởng GDP thấp hơn bất cứ dự đoán tiêu cực nào (3.72%).

Thế nhưng, đối nghịch với bức tranh màu xám đó, người ta lại ghi nhận mức tăng trưởng kỳ lạ của hai “ngành” kinh tế: Xổ số và thương mại tâm linh. Hai “ngành” này mang lại lợi nhuận béo bở hơn bất cứ ngành nghề nào hiện tại. Có lẽ đó là “đặc thù” của một nền kinh tế trong một quốc gia còn thiếu bệnh viện, trường học nhưng đâu đâu cũng chùa to, tượng lớn. Dường như cuộc sống càng khó khăn thì người Việt lại càng cầu may rủi và trông đợi “ơn trên” được ban phát bởi những sư thầy dắt “thẻ ngành” trong túi đãi (loại túi thường đựng kinh sách, vật dụng của sư).

Thật khó tin khi biết doanh thu của “công nghiệp vé số” lớn hơn cả doanh thu từ xuất khẩu dầu mỏ và than đá cộng lại. 

Với “đặc thù” là ngành siêu lợi nhuận, mức lương các sếp và nhân viên ngành này sánh ngang với các ngành đặc quyền đặc lợi như dầu khí, hải quan, tài nguyên môi trường, phòng cháy chữa cháy… Năm 2016, dư luận từng xôn xao khi biết mức lương giám đốc một công ty xổ số là 130 triệu/tháng, thậm chí lương bảo vệ công ty đó cũng gần 40 triệu/tháng. Hiện thời, mức lương các sếp những công ty xổ số trung bình là 200 triệu/tháng. Thật xót xa nếu so sánh với thu nhập bèo bọt không đủ sống của giáo viên và bác sĩ.

Về lý thuyết, nhà nước thu tiền từ công nghiệp vé số để xây dựng các công trình công ích xã hội. Có lẽ, người Pháp mang xổ số vào Việt Nam từ năm 1930. Khi đó, số lượng vé phát hành rất ít và cả năm cũng chỉ có một kỳ. Có một thời gian, xổ số kiến thiết bị ngừng phát hành. Tới thời đệ nhất VNCH, khi ngân sách cho xây dựng hạ tầng xã hội eo hẹp, Tổng thống Ngô Đình Diệm cho phép phát hành xổ số kiến thiết để lấy tiền xây dựng các công trình công ích. Tiền lời từ việc phát hành tám kỳ xổ số liên tiếp đủ để xây dựng Đại học Y khoa Huế. Thời đó, mỗi tháng chỉ có một kỳ phát hành với số lượng hạn chế. Giá mỗi tờ vé số theo qui định là 10 đồng.

…….

Sau 1975, ý nghĩa và mục đích của ngành xổ số kiến thiết dần bị “biến thái”. Không những số lượng công ty phát hành xổ số kiến thiết nhiều như “lá rụng mùa thu” mà mỗi tỉnh đều có công ty phát hành vé số riêng. Số kỳ và lượng vé phát hành có thể tăng gần như… vô hạn tùy theo mức độ “ăn nên làm ra” ở mỗi tỉnh thành. Mặc dù đem về doanh thu, lợi nhuận khủng nhưng nguồn lợi khổng lồ này được dùng chủ yếu để bù đắp cho thâm hụt ngân sách trung ương và chi cho hoạt động của bộ máy quan liêu địa phương, giống như một thứ “quĩ đen” mà hàng tháng người ta chia phần với nhau.

Xổ số cũng là một ngành sử dụng nguồn nhân lực lao động rất lớn mà không phải trả tiền lương, không phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động. Công ty phát hành vé số chỉ phải trích phần chiết khấu cho đại lý cấp 1, cấp 2. Các đại lý đầu lậu này sẽ phân chia phần chiết khấu với hàng chục ngàn người bán vé số dạo.

Không có thống kê xã hội nghề nghiệp nào khảo sát cho biết bao nhiêu người bán vé số dạo ở các tỉnh miền Nam. Chắc chắn là một con số cực lớn. Đằng sau sự giàu có của những doanh nghiệp xổ số, những mức lương hàng trăm triệu của những kẻ lãnh đạo là cả một thế giới cơ cực, trần ai, những góc khuất u ám mà nhà cầm quyền Việt Nam không bao giờ muốn bị phơi bày, trong đó là hình ảnh phổ biến là những bà cụ còng lưng, những em bé ở độ tuổi lên 9 lên 10, và thậm chí những người tàn tật.

Một cách tổng quát, lực lượng chính của đội quân bán vé số dạo là người cao tuổi, trẻ mồ côi, người nhập cư thất nghiệp trôi dạt lên đất Sài Gòn từ các tỉnh khắp Nam-Trung-Bắc, người mất sức lao động, không có tay nghề, không nơi nương tựa… Tất cả đều là những người yếu thế trong xã hội, dễ bị tổn thương và dễ bị bóc lột nhất. Hãy nhớ lại những người bán vé số bỗng trở nên “thất nghiệp” và sống khổ sở bi thảm như thế nào hồi xảy ra đại dịch.

Đội quân hàng trăm ngàn người này làm việc bất kể thời gian, bất kể nắng mưa. Họ là những nhân viên bán hàng cho doanh nghiệp mà không được nhận bất cứ trợ cấp hoặc chế độ an sinh xã hội nào ngoài phần chiết khấu theo số lượng vé số bán được mỗi ngày mà đại lý trả cho họ. Nếu nhỡ ốm đau, bệnh tật, tai nạn, nghỉ ngày nào thì đói ngày đó.

Tôi không thể nào quên hình ảnh những đứa bé còi cọc, lấm lem vừa đi vừa khóc, cầm trên tay tập vé số tới sát giờ vẫn còn nguyên, cầu van nài nỉ mọi người mua ủng hộ. Tôi không thể nào quên đôi mắt ầng ậc nước và tiếng nói lạc giọng của bà cụ mời tôi mua vé chiều hôm qua

Có hàng triệu kiếp người đọa đày như thế trên mảnh đất chữ S này. Họ đổi những vắt cơm bằng bát mồ hôi chan nước mắt. Họ làm gần như không công cho những doanh nghiệp Đỏ, làm giàu cho đám quan chức sống vương giả hàng ngày rao giảng tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Có thể nói đây là mảnh đất kinh doanh tàn nhẫn nơi người ta có thể dễ dàng bóc lột người lao động mà không phải chịu bất cứ trách nhiệm và ràng buộc luật pháp nào.

From: phó nhòm U-Minh, thợ vườn

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến –  Ký sinh & tầm gửi

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Họa sỹ Lê Huy Cầm cho biết: “Vừa dứt xong cái tranh cho cựu sinh viên Đại Học Dalat sẽ đấu giá kiếm tiền cho sinh viên nghèo trong ngày họp mặt 20 năm.” Bên dưới thông tin này là lời nhắn của FB Hue Chau (“Nếu dành cho cựu SV ĐH Dalat pre 75 thì trên tháp chuông nhà Nguyện Năng Tĩnh kg phải là cái…ngôi sao – Lê Huy” và hồi đáp của tác giả: “Sinh viên ra trường năm 2000 nên vẽ như vậy.” )

Tôi rời Viện Đại Học Đà Lạt đã lâu, ngay sau Mùa Hè Đỏ Lửa, vào năm 1972. Gần nửa thế kỷ đã vụt đi với không biết bao nhiêu là nước suối, nuớc sông (cùng với nước mưa/nước mắt) đã ào ạt qua cầu và qua cống. Nhìn lại hình ảnh trường xưa không khỏi có thoáng chút bồi hồi, và cũng thấy có hơi hụt hẫng.

Tuy thế, tôi hoàn toàn đồng ý với lời giải thích thượng dẫn của tác giả bức tranh. Thấy sao thì vẽ vậy thôi. Mà sao vàng và cờ đỏ thì được “gắn” vào tất cả những công trình kiến trúc ở VN (trường học Yersin, nhà ga Đà Lạt, bưu điện Sài Gòn, Toà Đô Chính, Dinh Gia Long, Dinh Độc Lập …) chớ có sót chỗ nào đâu.

Ngó riết rồi cũng quen mắt thôi mà!

Chỉ riêng có “chỗ” này thì phải công nhận là nhìn hơi quá chướng, theo nhận xét của một nhà văn miền Nam – lần đầu đặt chân đến Hà Nội – hồi năm 1989 :

“Ô nhưng cái gì thế kia? Trên đỉnh Tháp Rùa có một ngôi sao! Cái này ra ngoài dự kiến của tôi về cảnh trí ở đây. Tôi chợt hiểu và liên tưởng ngay đến các ngọn tháp chuông ở điện Cẩm Linh mà tôi thấy trên báo chí Liên Xô, trên mỗi tháp cũng có gắn một ngôi sao. Dấu hiệu của Cách Mạng.

Chỉ tiếc khi nhìn ngôi sao trên đỉnh tháp Rùa thì trí tưởng tượng của tôi về câu chuyện con rùa đòi thanh gươm của Lê Lợi không thể nào hoạt động được, nó tê cứng như con chuột bị con rắn thôi miên vậy.

Tôi tự hỏi có phải trong trường hợp nào cũng cần phải đem cái hiện tại đè lên trên cái cổ truyền như thế không. Thỏa mãn một nhu cầu nhất thời có khi lại làm hại một sự thành tựu đã lâu đời. Và nếu ‘ý chí’ muốn rằng cái nhất thời phải thành vĩnh viễn trong tương lai thì nên tạo ra một công trình mới, ở chỗ khác, chứ sao lại sống tầm gửi vào những gì đã thành lịch sử như thế.” (Phạm Xuân Đài. Hà Nội Trong Mắt Tôi. NXB Thế Kỷ: Westminster 1994).

Ah, thì ra thế! Thế ra là chủ trương “sống tầm gửi” có nguồn gốc tuốt bên Nga, quê hương cách mạng tháng mười, từ hồi đầu thế kỷ trước lận (và đã trở thành truyền thống chung của khối anh em vô sản trên toàn thế giới) chớ đâu có phải là chuyện tình cờ hay cá biệt! Tuy thế, khách quan mà nói, chính sách “tầm gửi” khi vào đến Việt Nam thì mới phát huy được thêm hai “mảng” mới tinh: đám thuyền nhân (boat people) và bọn công nhân xuất khẩu.

Những kẻ trôi sông lạc chợ này sinh sống gần như là một loài cá vậy, cá hồi. Họ được (hay bị) Đảng và Chính Phủ đẩy ra khỏi nước, tứ tán khắp nơi, tha phương cầu thực. Tất cả đều chăm chỉ cần mẫn mưu sinh, và cần kiệm từng đồng, để mỗi khi hồi hương thì có được một mớ đô la nặng túi. Đó là chưa kể số tiền gửi về hàng quí, hay hàng tháng, cứ như thể là đóng hụi (chết) vậy.

Theo tạp chí Thương Gia Online: “Việt Nam tiếp tục trong top 10 nước nhận kiều hối nhiều nhất thế giới. Kiều hối chuyển về năm nay ước đạt 16,7 tỷ USD … tăng nhẹ so với 16 tỷ USD của năm 2018.” Nếu không có những đồng tiền thấm đẫm mồ hôi (và nước mắt) của hàng triệu khúc ruột xa ngàn dặm thì cái  “chính phủ tầm gửi” hiện hành, chắc chắn, đã không thể nào tồn tại được tới ngày nay.

Trong cái đám dân bá vơ này (thảng hoặc) cũng có vài cá nhân nổi bật, được Nhà Nước VN đặc biệt quan tâm. Nghệ sỹ dương cầm Đặng Thái Sơn là một người như thế. Từ Nga, có lần, ông gửi thư về cho thân phụ (một nhân vật bất đồng chính kiến – nhà thơ Đặng Đình Hưng) với những dòng chữ nhạt nhoà nước mắt :

“Con bị ốm nặng bố ạ, có lẽ vì hành trình đi Vac-sa-va quá dài mà con đi bằng xe lửa. Sứ quán bác đơn xin tiền lộ phí của con để đi thi, họ cũng khước từ bảo hộ cho danh xưng của con trong cuộc thi. Nhưng con quyết định liều và giáo sư Na-ta-xon một lần nữa lại giúp con, ông ấy cho con tiền đi đường, tiền thuê dàn nhạc đệm và tiền trọ… Trong cơn sốt 39.5 độ, con đã chảy nước mắt ròng: Các nước tham dự cuộc thi đều được chào cờ và cử quốc ca của mình, mà Việt Nam thì không có – Con tham dự với tư cách thí sinh tự do… Nhưng cũng nhờ sự cay đắng đó mà con gặp đươc Chopin – Những nỗi đau giao thoa với nhau đã bật lên tiếng đàn của hồn ông…” (Thế Giang. “Cây Đắng Nở Hoa.” Thằng Người Có Đuôi. Nguời Việt: Westminster 1987).

Ngay sau khi “cây đắng nở hoa” thì … thánh đế hồi tâm. Đặng Thái Sơn được trao  danh hiệu Nghệ Sỹ Nhân Dân, cùng với nhiều lời tung hô thái quá (tung toé) trên khắp những trang báo quốc doanh:

  • Âm thanh thế kỷ 20 dưới tiếng đàn Đặng Thái Sơn
  • Huyền Thoại Dương Cầm Đặng Thái Sơn
  • Cánh chim tìm về tổ
  • Đặng Thái Sơn, tiếng đàn vọng lên từ những căn hầm trú ẩn
  • Đặng Thái Sơn, những nổi đau của một dân tộc đấu tranh đòi độc lập

Bên cạnh câu chuyện đắng cay này, có không ít những lời bình vô cùng cay đắng:

  • Đặng Chương Ngạn: “Tiền đi thi không cho, đến cả cái danh xưng thí sinh Việt Nam cũng không cho, nhưng sau khi đoạt giải lại nhận ông ấy là người Việt Nam.”
  • Lê Công Định: “Tôi nhớ ngày anh Đặng Thái Sơn đoạt giải về nước, cả hệ thống truyền thông bu lại ca ngợi đảng và nhà nước đã hun đúc tài năng của dân tộc!”
  • Hoàng Khởi Phong: “Cha anh, nhạc sĩ và nhà thơ Đặng Đình Hưng được nhìn thấy con ông như một con cá kình, quẫy thủng cái lưới mà thoát ra biển khơi.”
  • Nhat Vu Hong: “Chính vì sự bội bạc đó nên Đặng Thái Sơn không về VN mà định cư tại Canada.”
  • Son Nguyen & Bùi Phi Hùng: “Cũng giống như Ngô Bảo Châu, người Việt được chăm bón, vun trồng ở tận đẩu tận đâu rồi thành quả, về ‘báo công’ cho nhà nước hít hà, phả ra đầy khí quyển những lời hào sảng hết cỡ; đưa tất cả lên đỉnh, tưởng chừng như thế gian này chỉ còn có người Việt; người Việt sẽ làm cho TG thăng hoa…”

Trường hợp của G.S Ngô Bảo Châu thì tương đối vẫn còn mới mẻ, rất nhiều người biết nên cũng chả cần phải rườm lời, trừ sự kiện này: ông không phải là một con cừu nên không quen bám lề, và thỉnh thoảng lại đi “trật đường rầy” một khoảng (hơi) xa. Có lẽ xa nhất là lời bình luận của ông vào hôm 19 tháng 5 năm 2016, nhân ngày sinh nhật lần thứ 126 của Hồ Chí Minh: “Có quý‎ mến ai thì mong họ thoát khỏi vòng luân hồi, đừng bắt họ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta.”

Thế là Nhà Nước VN xùy chó ra cắn ngay :

  • Ngô Bảo Châu  tiếp tục cổ súy cho các hành động sai trái chống phá đất nước của những tên phản động như Lê Công Định, Nguyễn Đình Thục, Đặng Hữu Nam, Mẹ Nấm…
  • Ngô Bảo Châu một con trâu biết làm toán
  • Ngô bảo Châu đã tìm cho riêng mình một con đường khác, đi ngược lại con đường mà đảng, Bác Hồ cùng nhân dân đã chọn hơn 70 năm qua…
  • Ngô Bảo Châu trên con đường ngụy dân chủ phản bội dân tộc.

Ngó bộ thì lũ chó này chưa chắc đã cắn rách được gấu quần của nạn nhân nhưng tư cách của đám chủ thì ai cũng nhìn thấy rõ: đồ ăn hại và phường vô lại.