Súng nổ trên cao nguyên, vì đâu nên nỗi?

Báo Nguoi-viet

June 13, 2023

Hiếu Chân/Người Việt

Một số người Thượng nổ súng vào đồn công an hai xã Ea Tiêu và Ea Ktur, huyện Cư Kuin, gần thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, rạng sáng Chủ Nhật, 11 Tháng Sáu, giết chết bốn sĩ quan công an và hai lãnh đạo xã.

Công an gác tại các nẻo đường ở huyện Cư Kuin truy lùng người Thượng bị tình nghi tham gia bạo loạn. (Hình: VTC)

Ba ngày sau khi sự việc xảy ra, hầu như chỉ có nguồn thông tin duy nhất từ Bộ Công An Việt Nam phát cho báo chí chính thức, truyền thông độc lập chỉ có thể phỏng vấn từ xa một số nhân vật hoạt động ở trong nước, không trực tiếp đến nơi xảy ra sự việc để kiểm chứng trong khi mạng xã hội lan truyền rất nhiều thông tin và bình luận trái chiều, từ những lời kêu gọi bạo động đến những thuyết âm mưu khó tin nhất.

Báo Tuổi Trẻ dẫn lời Trung Tướng Tô Ân Xô, người phát ngôn Bộ Công An, cho biết đến tối 13 Tháng Sáu, công an đã bắt giữ 45 nghi can và tiếp tục truy tìm số còn lại. Tuy nhiên, nhà chức trách vẫn chưa cho biết diễn tiến và kết luận nguyên nhân xảy ra vụ tấn công ở Đắk Lắk đang làm rúng động cả nước.

Theo một số người quan sát, nguyên nhân trực tiếp của vụ bạo loạn có thể là do chính quyền địa phương cưỡng chế thu hồi đất đai của 64 hộ dân để xây đường Hồ Chí Minh phía Đông thành phố Buôn Ma Thuột và xây khu đô thị mới Trung Hòa, cũng như vụ đàn áp dã man cuộc biểu tình phản đối việc xả chất thải vào hồ chứa nước của dân hai ngày 20 và 21 Tháng Tư vừa qua làm bảy người dân bị thương nặng.

***

Nhưng sâu xa hơn, vụ bạo loạn có thể là phản ứng từ nỗi phẫn uất đã tích tụ nhiều năm trong các cộng đồng người Thượng đối với chính sách của nhà cầm quyền Hà Nội, tước đoạt quyền sở hữu đất đai, đàn áp tự do tôn giáo, và đồng hóa văn hóa lối sống của người sắc tộc thiểu số ở cao nguyên Trung Phần, hiện gọi là Tây Nguyên.

Tây Nguyên, gồm năm tỉnh từ Kontum ở phía Bắc đến Lâm Đồng ở phía Nam, được coi là “nóc nhà Đông Dương,” có vị trí chiến lược quan trọng đến mức thế lực nào làm chủ được Tây Nguyên sẽ khống chế được nước Việt ở vùng đồng bằng phía Đông lẫn Lào và Cambodia ở phía Tây dãy Trường Sơn. Vụ thất thủ Buôn Ma Thuột dẫn tới sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa 48 năm trước là một ví dụ.

Do vị trí đặc biệt quan trọng của Tây Nguyên nên sau khi chiếm được miền Nam năm 1975, Cộng Sản Việt Nam đã có chiến lược biến Tây Nguyên thành một “pháo đài,” một trung tâm kinh tế kết hợp quốc phòng, thực thi bằng nhiều chính sách quan trọng để xóa bỏ cơ sở kinh tế-văn hóa của người Thượng.

Chính sách đầu tiên là chính quyền quốc hữu hóa toàn bộ đất và rừng Tây Nguyên – ngàn đời nay là tài sản của các buôn, sóc – giao cho các “đơn vị quân đội làm kinh tế” như các binh đoàn 331, 332, 333, lập những nông trường, lâm trường kết hợp giữa quốc doanh và tư nhân khắp vùng. Người Thượng mất hết đất và rừng, bị biến thành kẻ làm thuê trên đất đai mà tổ tiên họ đã cư trú nhiều thế hệ. Mỗi gia đình chỉ còn một mảnh đất thổ cư làm nhà ở và một ít đất làm nương rẫy.

Chính sách quan trọng thứ hai là tổ chức một cuộc di dân khổng lồ từ châu thổ sông Hồng, sông Mã lên Tây Nguyên “đất rộng người thưa,” vừa để giải tỏa áp lực dân số vùng đồng bằng miền Bắc vừa củng cố biên giới. Những cuộc di dân “đi kinh tế mới” theo kế hoạch những năm đầu được tiếp nối bằng phong trào “di dân tự do” – các gia đình, vốn là bộ đội trong các binh đoàn, sau khi an vị được ở Tây Nguyên đã rủ rê, lôi kéo cả dòng tộc, cả làng vào, đến đâu phá rừng làm nương rẫy đến đó – chẳng mấy chốc đã đốn sạch cả rừng Tây Nguyên, biến thành những vườn cao su, rẫy cà phê. Theo số liệu không đầy đủ, đã có khoảng 5 triệu người từ miền Bắc và đồng bằng di cư lên Tây Nguyên sau năm 1975.

Theo nhà văn Nguyên Ngọc, người được coi là “già làng” am hiểu nhất về vùng Tây Nguyên, thì chính sách di dân của nhà nước Việt Nam đã làm đảo lộn cơ cấu kinh tế xã hội của toàn vùng. Người Thượng từ chỗ chiếm 95%, hiện chỉ còn 15-20% dân số. Bị chiếm đất, chiếm rừng, người Thượng hoặc bị đẩy sâu vào nơi thâm sơn cùng cốc, hoặc ở lại chốn cũ làm thuê làm mướn cho các chủ đất mới, lưu vong ngay trên chính quê hương bản quán của mình.

Ngoài việc đưa dân đồng bằng lên chiếm đất lập phố thị, nhà nước Cộng Sản còn lập ra hệ thống cai trị với các cấp chính quyền từ thôn lên xã huyện tỉnh như ở đồng bằng, xóa bỏ hệ thống tự trị của các buôn, sóc. Trong chính quyền, quân đội, an ninh… quyền lực nằm trong tay người Kinh, người Thượng chỉ là lớp người bị trị, bị khinh rẻ và phân biệt đối xử nặng nề. Thảng hoặc, người ta thấy có những người Thượng là đại biểu Quốc Hội, chủ tịch tỉnh hoặc giám đốc sở… nhưng đó chỉ là trò mị dân bằng các chức vụ bù nhìn, quyền hành thật sự nằm trong tay các bí thư đảng bộ là người miền xuôi, chủ yếu là người từ các tỉnh phía Bắc di cư vào theo sự phân công của đảng Cộng Sản.

Các tập tục truyền thống của họ như lễ đâm trâu, lễ bỏ mả, các phong tục cưới xin… đều bị coi là hủ tục mê tín, bị chê cười và cấm đoán. Các trường học chỉ dạy tiếng Việt phổ thông, ngôn ngữ của các sắc tộc bản địa bị chèn ép và tàn lụi dần. Những năm gần đây lại nóng lên vấn đề tôn giáo, khi người Thượng theo đạo Tin Lành liên tục bị sách nhiễu, bị đánh đập để buộc họ phải từ bỏ tín ngưỡng, hoặc ngăn cản không cho họ thực hành đức tin.

Bị tước đoạt đất đai, bị đàn áp về tôn giáo, bị khinh miệt về văn hóa, người Thượng đã vài lần biểu tình phản kháng trong các năm 2001, 2004. Nhà cầm quyền ở Hà Nội tổ chức đàn áp, săn đuổi, khiến hàng ngàn người phải bỏ nhà cửa lánh nạn sang Cambodia và Thái Lan. Một số người được đi tị nạn ở Hoa Kỳ và Canada. Nhưng nỗi phẫn uất của người Thượng vẫn âm ỉ, có cơ hội là bùng lên theo kiểu “con giun xéo mãi cũng quằn.”

Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa ở Hải Phòng, người có nhiều năm bị giam chung với những người Thượng Tây Nguyên sau các cuộc biểu tình ôn hòa đầu những năm 2000, nói với đài VOA Tiếng Việt: “Nếu nhà nước không cải thiện hành vi đối xử đối với người Tây Nguyên về đất đai, về tự do tôn giáo và tôn trọng nhân quyền, nhân phẩm của họ thì tôi nghĩ sẽ có rất nhiều vụ việc như thế sẽ xảy ra… và nhà nước này sẽ biến Tây Nguyên thành một thùng thuốc súng.”

Trong thùng thuốc súng đó, vụ tấn công trụ sở xã Ea Tiêu và xã Ea Ktur cuối tuần qua là hậu quả tất nhiên, có điều không ai biết trước được lúc nào và ở đâu bạo lực sẽ bùng phát.

***

Do không có thông tin đầy đủ và độc lập về vụ tấn công, trên các trang mạng xã hội đã lan truyền nhiều “giả thuyết” khó kiểm chứng được.

Một số người đối lập với nhà cầm quyền cho rằng, vụ việc đẫm máu này có thể là một sự kiện được nhà cầm quyền dàn dựng, công an cài người vào các nhóm người Thượng bất mãn, kích động và giao vũ khí cho họ gây ra vụ tấn công để nhà nước có cớ đẩy mạnh đàn áp, biện minh cho chính sách phi nhân của họ trước sự lên án liên tục của cộng đồng thế giới. Viện dẫn các chi tiết tương tự trong vụ đàn áp khốc liệt ở Đồng Tâm, Hà Nội, hoặc vụ án nhóm Hiến Pháp ở Sài Gòn, những người này cho rằng, vụ Tây Nguyên hiện nay đã được công an thực hiện theo một kịch bản có sẵn.

Những người đứng về phía chính quyền thì lật lại phong trào võ trang của Mặt Trận Thống Nhất Đấu Tranh của Các Sắc Tộc Bị Áp Bức (FULRO) tan rã nhiều năm trước để cho rằng các phần tử FULRO cũ, hiện định cư ở Hoa Kỳ và các nước phát triển, đang lợi dụng tâm lý bất mãn của người Thượng để gây rối. Các dư luận viên của tuyên giáo liên tục cáo giác vụ tấn công là hành động “khủng bố” dù chưa có chứng cứ xác đáng hoặc công khai nào cho thấy những người Thượng đó cố tình bắn giết dân thường hoặc những người không có phương tiện để tự vệ.

Một thuyết âm mưu khác nói vụ tấn công có bàn tay của tình báo Trung Quốc sau khi Bắc Kinh lôi kéo thành công hai nước láng giềng chung biên giới phía Tây của Việt Nam vào vòng chi phối của họ. Trung Quốc muốn gây bất ổn, muốn Việt Nam bị cả thế giới lên án, từ đó phá vỡ mối quan hệ đang có chiều hướng tốt lên giữa Việt Nam với Hoa Kỳ và phương Tây.

Đúng sai chưa rõ, nhưng hiện chính quyền đã huy động một lực lượng hùng hậu công an, cảnh sát, quân đội phong tỏa toàn huyện Cư Kuin, bắt giữ nhiều người chỉ vì họ mặc quần áo rằn ri – loại trang phục yêu thích của người Thượng. Hàng chục người bị bắt vô tội vạ ở khắp nơi, bị tra tấn dã man, ắt sẽ có những lời khai phù hợp với ý muốn của nhà cầm quyền.

Bạo lực không phải là giải pháp, từ phía người dân lẫn từ phía nhà cầm quyền. Một nhà nước “chuyên chính vô sản” chỉ biết dùng bạo lực trấn áp mà không có khả năng đối thoại hoặc thay đổi chính sách rất khó thành công trong công tác vận động người dân. Có vẻ như trật tự đang được vãn hồi ở Tây Nguyên. Tuy nhiên, điều này chỉ là tạm thời và không loại trừ nguy cơ bùng phát những sự việc tương tự trong tương lai. Trong hoàn cảnh tuyệt vọng mà người dân bị ép vào đường cùng, không được nhà nước quan tâm và giải quyết thấu đáo bằng việc thay đổi tận gốc chủ trương sai lầm và tàn bạo hiện nay, bạo lực chắc chắn sẽ tái diễn. [đ.d.]

Vụ án cô giáo Lê Thị Dung

Kim Dao Lam

Fb Xuân Ly

Tất cả đều mong cô Dung trắng án, tất nhiên. Nhưng đến mức cả nước dậy sóng suốt một thời gian dài và tập thể luật sư đã đấu tranh sắc bén, bền bỉ, thì bản án 15 tháng tù mới là một phản ánh chân thực cho bức tranh tư pháp hiện tại. Và như thế, nó có sức mạnh lay tỉnh nhiều hơn là một kết cục viên mãn nhưng cá biệt.

Chào mừng cô Dung về với gia đình, để tiếp tục con đường theo đòi công lý, bảo vệ danh dự và nhân phẩm thiêng liêng của mình.

Văn minh, đường tuy rất dài, nhưng nếu đi ắt sẽ tới.

*Một bức hình đẹp và nhiều ý nghĩa.

Thái Hạo

VỤ BẠO ĐỘNG Ở ĐẮK LẮK: NGƯỜI DÂN BẤT MÃN VÌ BỊ CÔNG AN BẮT NHẦM VÀ ĐÁNH ĐẬP

Kim Dao Lam

Fb Trần Kim Cường

[* Chú ý: Số nghi phạm bắt được ở các rẫy cà phê đã vượt số người tham gia gây án rồi! Bộ C.A kêu gọi nhân dân truy bắt…chậm chậm lại.]

Liên quan đến vụ một nhóm người dùng vũ khí tấn công trụ ở uỷ ban xã Ea Ktur và xã Ea Tiêu, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk vào rạng sáng 11 tháng 6 năm 2023 làm 10 người chết, một số người dân bày tỏ bất mãn vì người thân của họ đã bị công an bắt nhầm, và đánh đập.

Trên Facebook mang tên Tứ Thiên Dương cho biết, anh rất bất mãn vì anh của anh bị bắt nhầm, không liên quan đến vụ án trên nhưng những hình ảnh của ông bị loan truyền trên mạng như là nghi can làm dư luận hiểu nhầm. Bị bắt cùng với anh của Tứ Thiên Dương còn có một thanh niên khác.

Ngoài hai người dân này, thì các video trên mạng xã hội chia sẽ cho thấy, còn có những người dân khác đi làm rẫy về cũng bị bắt nhầm và bị đánh đập dã man. Nguyên nhân là họ mặc đồ rằn ri giống nhóm người bạo động.

Sự việc khiến nhiều Facebooker bày tỏ lo ngại vì họ cũng có đồ rằn ri, và công an Cộng sản dường như đang thực hiện chiến dịch “bắt nhầm còn hơn bỏ sót”.

Họ cho biết, đây là loại quần áo bán phổ biến trên thị trường với giá rẻ, được nhiều người lao động mặc đi làm vì nó bền, sạch, và nhất là với nông dân thì loại quần áo này ít bị dính bông cỏ vào. Vì vậy, nhiều người bày tỏ không nên mặc nó trong thời điểm nhạy cảm này.

Hiện tại, một số nơi ở Tây Nguyên như Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm Đồng cơ quan hữu trách đã thu giữ, phạt những người bán bộ đồ như trên. Liên quan đến vụ án trên, vào chiều 13 tháng 6, ông Tô Ân Xô, phát ngôn viên Bộ Công an Cộng sản cho biết, công an đã bắt được 45 người bị cho là nghi can của vụ án

(https://www.sbtn.tv/vu-bao-dong-o-dak-lak-nguoi-dan-bat…/)

Nhà cầm quyền CSVN rất sợ…

Lmdc Viet Nam

Chỉ sẻ thông tin vụ tấn công ở Đăk Lăk 1 người bị phạt hơn 5 triệu đồng

– Được biết 1 người đàn ông 38t thường trú tại thành phố Hội An, lúc 11h ngày 11/6 sau khi xem bài viết Truy bắt nhóm đối tượng dùng súng tấn công trụ sở công an xã tại Đăk Lăk trên mạng xã hội đã sử dụng Facebook cá nhân chia sẻ bài viết này đã bị phạt 5,5 triệu đồng với tội danh xúc phạm uy tín của cơ quan tổ chức.

Trước đó Ban Tuyên giáo đã ra chỉ đạo rằng báo chí phải “chấp hành TUYỆT ĐỐI kỷ luật thông tin, chỉ đăng theo tin chính thức của Bộ Công an; không mở rộng thông tin, kiểm soát chặt chẽ bình luận.”

Một nhà báo giấu tên từ Việt Nam nói với rằng, trong tình hình có những vụ việc chấn động như trên xảy ra, báo chí thay vì đóng vai trò phục vụ bạn đọc bằng cách tường thuật nhiều chiều thì phải chịu cảnh là cái loa phát ngôn của chính quyền:

“Chính quyền nào trong khủng hoảng cũng muốn kiểm soát dư luận, không ai muốn bung ra cho báo chí cả.

Nhưng ở các nước có nền báo chí tự do thì các nhà báo được quyền tiếp cận và đưa tin một cách độc lập, không chịu sự chỉ đạo của chính quyền.

Còn ở Việt Nam, bây giờ các tờ báo phải làm sao đưa thông tin một cách nhất quán, theo ý chí của nhà nước. Chân dung của thủ phạm là do chính quyền định đoạt, tính toán,” nhà báo này nói.

Vụ tấn công 2 trụ sở CA tại Đăk Lăk làm bộ CA nói riêng và chính quyền CSVN mất mặt và lo sợ dân xem gương đó làm theo …

Từ ngày hôm qua báo chí trong nước chỉ tung các tin như đã bắt được 39 đối tượng liên quan đến vụ tấn công nói trên theo chỉ thị của ban tuyên giáo và bộ CA.

Nhưng các tin đó có đúng sự thật hay không ? các đối tượng đó có phải thật sự là những người tấn công đồn CA hay không ?

Phải biết rằng CSVN lúc nào cũng dùng luật rừng, bắt lầm hơn tha lầm, không có tội đánh cho có tội…

TL BBC và VN express

Một lối văn hóa quái gở, chỉ có ở Việt Nam

Kim Dao Lam

Fb Cathy Tran

Ông không uống là không tôn trọng tôi – đây là kiểu ép rượu – một lối sống văn hóa quái gở.

Không hiểu ở đâu ra cái văn hóa cứ làm gì cũng phải đi nhậu nhẹt thì mới… dễ nói chuyện, nhân viên thì phải biết tiếp rượu sếp, sếp thì phải uống với đối tác, anh em bạn bè mời đến mà không uống là không tôn trọng, đàn ông mà không uống được rượu là hèn…

Tửu lượng không phải mức thang đo đạo đức hay giá trị con người. Nó không chứng tỏ độ giàu có, chịu chơi hay độ “men” của đấng mày râu. Nhưng vì một sức ép vô hình nào đó, nhiều người ngày nay đang gắng sức thể hiện bản lĩnh của mình trên bàn nhậu chứ không phải trong công việc hay cách đối nhân xử thế.

Ép rượu, nốc rượu hay chuốc rượu đều là hành động thể hiện sự thiếu văn hóa.

Đừng bao giờ dùng bất kì lời lẽ hoặc cách thức khiêu khích, dụ dỗ nào để người khác phải uống bia rượu vào người. Nếu người ta không muốn uống, bạn đừng cố ép. Người vì bạn mà uống vài lon bia có sẵn sàng “vào sinh ra tử” vì bạn không? Sẵn lòng uống với bạn, xỉn với bạn khác xa hoàn toàn với việc sống chết vì bạn.

Rượu vốn là thức uống mỹ vị. Chính vì thế, người thưởng rượu cũng phải là người tinh tế. Uống rượu có văn hóa là phải nhấp từng ngụm rất nhỏ để cho hương rượu ngấm vào đầu lưỡi, cảm nhận đến tận cùng cái vị cay nồng đặc trưng. Cứ thế mà thưởng từng chút một để thấy tinh thần phấn khởi, tâm hồn nhẹ nhàng bay bổng, dễ trò chuyện, chia sẻ tâm tình.

Đừng bao giờ để rượu bia làm bạn mất kiểm soát, điều này cực kì quan trọng! Đừng bao giờ để cho bản thân mình phải uống rượu vì người khác ép buộc.

Nếu bạn không muốn uống, hãy giữ chính kiến của mình. Những người bạn sẵn lòng bỏ rơi bạn, “tẩy chay” bạn, xem thường bạn, thậm chí đòi nghỉ chơi với bạn… chỉ vì bạn không uống với họ “vài ly” thì không thể nào là người bạn tốt được.

Đó chỉ là những người xem bạn như một trò đùa, một thứ để họ thử xem “tầm ảnh hưởng” của họ đến đâu mà thôi.

Hãy để việc uống rượu thành một nét đẹp có văn hóa của người Việt!

Mâu thuẫn vì hát karaoke ồn ào, ông Phú Quốc đâm chết bạn nhậu

Báo Người-việt

June 12, 2023

KIÊN GIANG, Việt Nam (NV)  Không ngủ được vì bị ông bạn nhậu mở loa kẹo kéo hát karaoke, một ông ở Phú Quốc đâm chết bạn nhậu khi người này hẹn ra giải quyết mâu thuẫn.

Theo báo Zing, khoảng 7 giờ sáng 11 Tháng Sáu, ông Trần Văn Thuận, 40 tuổi, ở phường Dương Đông, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, đến nhà bạn tại khu phố 6, phường Dương Đông, để nhậu.

Nghi can Trần Văn Thuận tại cơ quan điều tra. (Hình: Dương Đông/VNExpress)

Đến khoảng 9 giờ sáng thì ông Võ Văn Quí, 41 tuổi, ở thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long, gọi điện thoại hỏi ông Thuận đang ở đâu, ông Thuận báo địa điểm và rủ ông Quí đến nhậu cùng. Sau đó, ông Quí chở thêm thùng loa kẹo kéo để góp vui.

Khi ông Quí đến thì ông Thuận nói đã say rượu. Ông Thuận uống với ông Quí một ly rồi nằm ngủ tại chỗ nhậu.

Một lúc sau, ông Quí lấy thùng kẹo kéo ra hát karaoke và làm ông Thuận không ngủ được, dẫn đến mâu thuẫn.

Khoảng một tiếng sau, ông Thuận chở bạn là ông Danh Tài ở huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, đi nhậu tiếp.

Đến khoảng 6 giờ 15 phút tối cùng ngày, nghĩ đến chuyện lúc sáng, ông Quí bực tức gọi điện thoại hẹn ông Thuận đến phía trước khu vực tòa án thành phố Phú Quốc đánh nhau.

Nhận lời, ông Thuận lấy xe gắn máy chở ông Tài từ Hàm Ninh về Dương Đông để đánh nhau với ông Quí. Trên đường đi, ông Thuận ghé vào tiệm Bách Hóa Xanh mua hai cây dao mang theo.

Hiện trường vụ án. (Hình: Zing)

Khi đến điểm hẹn, ông Thuận đậu xe đối diện, hai tay cầm hai cây dao lao vào đánh nhau với ông Quí. Tương tự, ông Quí cũng cầm dao Thái Lan ứng chiến. Trong lúc xô xát, ông Thuận đâm chết bạn rồi đến công an trình diện.

Sáng 12 Tháng Sáu, nghi can Trần Văn Thuận, đã bị Công An Thành Phố Phú Quốc bắt giữ về tội “giết người.” (Tr.N)

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ba O Hà Tĩnh

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Cuối cùng, Miến Điện cũng đã mở cửa với thế giới bên ngoài. Họ hơi bị chậm nên thực đơn trong hàng quán ở đất nước này – phần lớn – vẫn chỉ cứ in những dòng chữ Miến (ngoằn nghoèo, bí hiểm) và tuyệt nhiên không hề có hình ảnh gì minh hoạ đi kèm ráo trọi.

Thực khách, bởi thế, thường rất cô đơn (và vô cùng hồi hộp) khi phải đối diện với những lựa chọn khó khăn. Gọi lầm thức ăn là chuyện tự nhiên, và cũng thường xuyên, y như… cơm bữa.

Dĩ thực vi tiên!

Và (chắc) vì vậy nên sân bay Mandalay và Yangon trông đìu hiu thấy rõ, so với sự tấp nập và ồn ào của phi trường Don Mueang hay Suvarnabhumi của Thái.

Thực phẩm của Thái Lan thì khó ai có thể phàn nàn, nhất là người Việt. Gừng, nghệ, sả, riềng, tiêu tỏi, ớt hành, mắm muối… đều là những gia vị thân thuộc đối với khẩu vị của cả hai dân tộc này. Nhiều tiệm ăn bình dân ở thủ đô Bangkok còn thuê người Việt nữa.

Loanh quanh Vọng Các, tôi thử óc quan sát (cùng trực giác) của mình nhiều lần, và rất ít khi bị trật:

– O là dân Hà Tĩnh, đúng không?

– Dạ!

Tiếng “dạ” rụt rè, với nụ cười hiền lành và niềm vui (không dấu) trên nét mặt người đối diện khiến cho kẻ tha hương chợt cảm thấy có cảm giác ấm lòng. Đôi khi, tôi cũng trật nhưng chưa bao giờ xa quá:

– Dạ không, con ở Diễn Châu mà.

Hoặc:

– Cháu người Quảng Bình, chú à.

Hay:

– Không phải mô, quê con ở Huế tề.

Theo Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Lan (Học Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á – The Institute of Southeast Asian Studies) có hơn năm trăm ngàn lao động Việt Nam ở nước ngoài, trong số này khoảng 50 ngàn người đang làm việc tại Thái Lan. Tất nhiên, chưa kể số người “làm chui” được gọi một cách lịch sự là những công nhân không có giấy tờ – undocumented workers.

Tuy là một lực lượng lao động đáng kể và cần thiết cho nước Thái, người Việt đến xứ sở này chưa bao giờ được đón nhận một cách đàng hoàng tử tế. Không những thế “nhiều kẻ còn bị bạc đãi bởi giới chủ nhân với đồng lương bóc lột, đến mức gần như phải làm việc trong môi trường nô lệ, và thường bị bắt bớ bởi giới chức có thẩm quyền” (many workers are underpaid, even to the point of almost slave labour conditions, mistreated by employers and often arrested by authorities) theo như nhận xét (“Vietnamese workers in Thailand: lesser known but valuable labour source”) của Christopher F. Bruton – Executive Director of Dataconsult Ltd – đọc được trên Bangkok Post hôm 21 tháng 7 năm 2016.

Ở ngoại ô Vọng Các, trong khu chợ Yong Charoen, có một cái quán (không biết tên CHI) mà cả ba cô giúp việc đều là người Hà Tĩnh nên tôi gọi là “Quán Ba O.” Chúng tôi hay đến đây vì gần chỗ trọ, vì giá cả vừa phải, và vì được “cố vấn” về những món nhậu (ngon rẻ) cùng với thái độ thân thiện của những o đồng hương rất hiền ngoan và vô cùng chân chất.

Cứ nhìn thấy Ba O Hà Tĩnh, cùng nụ cười rất tươi tuy hơi bẽn lẽn là tôi lại nhớ đến bốn câu thơ của Hồ Dzếnh:

Cô gái Việt Nam ơi
Nếu chữ hy sinh có ở đời
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi

Quán mở cửa từ 11 giờ sáng đến tận khuya. Nhiều đêm không làm việc được, tà tà ra quán uống vài ly, chúng tôi vẫn thấy “Ba O Hà Tĩnh” đang tất bật với những công việc chả nhẹ nhàng gì: lau dọn, rửa chén, chạy bàn… Hỏi thăm mới biết là dù làm việc đủ bẩy ngày một tuần, mỗi ngày trên 12 tiếng, hàng tháng cả ba chỉ được trả số tiền vô cùng khiêm tốn (200 Mỹ Kim) chỉ bằng nửa số lương tối thiểu – theo qui định hiện thời của Bộ Lao Động Thái.

Điều an ủi là chủ quán cho ở trọ không phải trả tiền nhà, và chuyện ăn uống tại chỗ – tất nhiên – cũng hoàn toàn miễn phí. Nhờ vậy, tiền công của cả ba o đều gửi hết về quê để nuôi mấy đứa em và bố mẹ già. Ở Hà Tĩnh, theo lời của họ: “Biết làm chi cho ra tiền được!”

Hà Tĩnh Không chỉ nổi tiếng về đói nghèo, và “hầu như năm nào chính quyền cũng than thở là phải ‘còng lưng’ xin gạo.” Địa phương này còn được cả thế giới biết đến “về sự cố môi trường biển” và là nơi chôn lấp chất phế thải của công ty Formosa.

Tuy thế, Báo Hà Tĩnh (số ra ngày 24 tháng 10 năm 2016) vẫn hớn hở cho hay:

“Các thành viên Chính phủ nhiệm kỳ mới, những nhân sự đứng đầu Bộ Y tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên & Môi trường, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam… đều là người Hà Tĩnh. Người Hà Tĩnh không chỉ vinh quang bởi các Bộ trưởng, tư lệnh ngành mà Hà Tĩnh còn được biết đến là tỉnh có nhiều ủy viên Trung ương nhất trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, với số lượng 16 người.”

Giới tinh hoa của Hà Tĩnh, rõ ràng, hơi đông. Số người dân lưu lạc của tỉnh này cũng thế, cũng đông hơn rất nhiều nơi khác. Dường như có tỉ lệ thuận giữa con số “bộ trưởng, tư lệnh ngành, và ủy viên Trung ương trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng” của Hà Tĩnh với đám con dân của địa phương này đang phải sống đời lưu lạc.

Thảo nào mà dịch giả Phạm Nguyên Trường đã rất cẩn thận với hạn từ “tinh hoa” khi chuyển ngữ:

Nghĩa của từ ELITE: the richest, most powerful, best-educated, or best-trained group in a society cho nên nếu luôn luôn dịch là TINH HOA thì e rằng không đúng. Ví dụ, người nước ngoài khi nói về giới viết lách ở VN có thể sẽ coi Đoàn Hương, Hữu Thỉnh, Hồng Thanh Quang, Tạ Bích Loan… là nhóm elite trong văn giới, hay Vũ Huy Hoàng, Đinh La Thăng là nhóm elite trong chính trị…, nhưng nếu mình dịch lại thì mình chỉ viết “thuộc giới ăn trên ngồi trốc” mà thôi.

Dịch thuật như thế e hơi thiếu phần “thanh lịch” nhưng thực khó mà gọi đám người hiện đang cầm quyền ở Việt Nam (nói chung) và mười mấy vị Ủy Viên Trung Ương Đảng của Hà Tĩnh (nói riêng) bằng một hạn từ khác được. Tiểu luận (“Những Cơ Hội & Thách Đố Cho Lao Động Di Dân Việt Nam Tại Thái Lan”) của Linh Mục Antôn Lê Ngọc Đức, SVD, còn cho thấy rằng họ không chỉ là “bọn ăn trên ngồi trốc” mà còn là “đám ăn không ngồi rồi” nữa:

“ … hầu hết đến từ các tỉnh miền bắc và miền trung, trong đó Hà Tĩnh và Nghệ An chiếm phần đa số. Ngoại trừ một số trường hợp, hầu hết xuất thân từ những gia đình nông thôn…

Tính chất của một số công việc mà các lao động di dân Việt Nam làm tại Thái Lan lệ thuộc phần nào về tuổi tác và giới tính. Những công việc như xây dựng (cọ xang), trông bãi xe (rắp rốt), tẩm quất trong phòng vệ sinh nam (nuad hong nám) chỉ dành cho lao động nam. Các công việc giúp việc nhà (mae ban), chăm sóc người già trẻ con trong gia đình chủ thuê, bán hoa hồng dạo… thường dành cho lao động nữ.

Ngoài ra những công việc như may quần áo (yep pha), bán dạo (kem, trái cây, nước giải khát), mở quầy hàng (áo quần, thức ăn, hoa quả…), bán hàng trong các cửa tiệm bán lẻ… thì cả lao động nam và nữ đều tham gia…

Đối với lao động từ các nước như Lào và Miến Điện được đăng ký hợp pháp, mỗi người được cấp một thẻ bảo hiểm sức khỏe để được điều trị tại bệnh viện chính phủ với những quyền lợi tương đương với công dân Thái. Tuy nhiên đối với công nhân Việt Nam thì mỗi khi lâm bệnh hoặc gặp tai nạn và đi điều trị tại bệnh viện thì phải tự túc hoàn toàn.”

Hà Tĩnh có nhân sự đứng đầu Bộ Y Tế, Bộ Kế Hoạch/ Đầu Tư, Bộ Tài Nguyên/ Môi Trường, Ngân Hàng Nhà nước và cả đống Ủy Viên Trung Ương Đảng mà năm nào cũng ngửa tay đi xin gạo, và con dân địa phương thì phải tha phương cầu thực khắp nơi (làm việc như nô lệ ở xứ người) để có tiền gửi về nhà cứu đói thì có hãnh diện chi mà khoe khoang về cái “bọn ăn trên ngồi trốc” và cái “đám ăn không ngồi rồi” này!

Sổ Tay Thượng Dân K’ Tien – Nước mắt Tây Nguyên

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Nhà báo Bùi Tín, khi vui, tâm sự: “Có người nói đùa một cách chua cay rằng trên báo Nhân dân chỉ có tin dự báo thời tiết là có thể tin cậy phần nào (vì vẫn có trường hợp dự báo sai), có thể tin tưởng được hoàn toàn là tin buồn, tin cáo phó.” (Bùi Tín, Hoa xuyên tuyết, 2nd ed. Turpin Press, 1994, 42)

Dù đã rào đón (trước) đây chỉ là một cách nói đùa, kiểu đùa cợt của ông – ngó bộ – hơi kỳ, và cũng hơi… quá đáng! Nói nào ngay, ngoài tin thời tiết và tin buồn, cơ quan ngôn luận (chính thức) của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam – đôi lúc – cũng loan những tin tức khác, với độ khả tín và khả xác rất cao. Xin đơn cử một thí dụ:

Về số lượng học sinh sắc tộc được tuyển chọn vào đại học, nhật báo Nhân dân (số ra ngày 9 tháng 12 năm 2000) đã ghi:“Các dân tộc Ba Na, Cà Dong, Chu Ru, Cà Tu, Hà Nhì, Xê Đăng, Thổ Chỉ có từ hai đến ba học sinh đạt tiêu chuẩn. Đáng chú ý, mỗi dân tộc: Cơ Lao, Xtiêng, Giáy, Cơ-ho, Lào, La Chí chỉ có một học sinh đủ tiêu chuẩn cử tuyển vào học các trường đại học, cao đẳng.”

Đã có lúc tôi cứ ngỡ đây là con số đại biểu quốc hội, của những nhóm đồng bào sắc tộc, chứ không phải là số lượng “học sinh đủ tiêu chuẩn cử tuyển vào các trường đại học”. Vì nghi ngại có sự “lầm lỗi của ấn công”, tôi đã gửi điện thư đến toasoan@nhandan.org.vn (nhiều lần) để xin xác minh về vấn đề này. Thư cứ đi nhưng tin không lại.

Mãi cho đến mấy hôm gần đây, sau khi đọc bài viết “Phát triển bền vững ở Tây Nguyên” của nhà văn Nguyên Ngọc (www.diendan.org, ngày 20 tháng 8 năm 2008), tôi mới biết chắc rằng tin tức mà báo Nhân dân đã loan là (vô cùng) chính xác. Chuyện tôi yêu cầu tòa soạn xác nhận, đính chính, cáo lỗi, hay thanh minh (thanh nga) là việc – rõ ràng, và hoàn toàn – vớ vẩn.

Theo như cách nói của người dân Tây Nguyên thì Nguyên Ngọc là một già làng – trong làng văn và làng báo Việt Nam – với tất cả những đức tính mẫu mực, đáng quý của một người cầm viết: tài năng, uyên bác, đức độ, dũng cảm, và khả tín.

Ông viết: “Người Châu ở trong thung lũng Mường Hon của núi Ngok Linh, chỉ có khoảng 80 người…” Thế mới biết các dân tộc Ba Na, Cà Dong, Chu Ru, Cà Tu, Hà Nhì, Xê Đăng, Thổ Chỉ, Cơ Lao, Xtiêng, Giáy, Cơ-ho, Lào, La Chí… còn may mắn chán. Dân số của họ chắc chắn phải còn hơn tám mươi người. Nếu không, làm sao còn có được một (hay hai) học sinh đủ tiêu chuẩn cử tuyển vào học các trường đại học!

Nếu có ai thắc mắc, sao giữa thời đại “bùng nổ nhân số”, nhân loại đẻ đái tùm lum mà ở Việt Nam lại có những sắc dân chỉ còn sót lại vài chục mạng (loe ngoe) như thế… thì xin thưa: đó lại là chuyện khác, dài dòng hơn chút đỉnh. Muốn biết thêm chi tiết, xin vui lòng đọc tiếp – vài đoạn trích dẫn (rút ngắn) từ bài viết rất thấu đáo và cô đọng, dài chừng 30 trang đánh máy khổ 8×11 – của nhà văn Nguyên Ngọc:
“Từ sau năm 1975, đối với Tây Nguyên chúng ta có hai chủ trương chiến lược:

  • Xây dựng Tây Nguyên thành một địa bàn vững chắc về an ninh và quốc phòng.
  • Xây dựng Tây Nguyên thành một vùng trọng điểm kinh tế của cả nước.

Để thực hiện chủ trương chiến lược đó, đã :

  • Tăng cường lực lượng lao động lớn cho Tây Nguyên bằng cách tiến hành một cuộc đại di dân chưa từng có, chủ yếu từ đồng bằng châu thổ sông Hồng và vùng duyên hải Nam Trung Bộ lên Tây Nguyên…
  • Tổ chức toàn bộ Tây Nguyên thành các đơn vị kinh tế lớn… Toàn bộ đất và rừng ở Tây Nguyên được quốc hữu hoá, được lấy giao cho các binh đoàn làm kinh tế, các LHXNLCN, các nông trường, lâm trường, và giao cho dân di cư từ đồng bằng lên. Người bản địa chỉ còn phần đất thổ cư và một ít đất làm rẫy.”

Hệ quả, hay nói đúng ra là hậu quả của “hai chủ trương chiến lược” này, vẫn theo nhận xét của Nguyên Ngọc – có những chữ in đậm, như nguyên bản – như sau:

  1. Dân số Tây Nguyên tăng nhanh, đột ngột, với cường độ lớn… Đầu thế kỷ XX, các dân tộc bản địa chiếm 95% dân số. Đến năm 1975, tỷ lệ này là 50%. Hiện nay người bản địa chỉ còn 15-20% trên toàn địa bàn…
  2. Sự tan vỡ của làng Tây Nguyên. Từ sau năm 1975, quyền sở hữu tập thể truyền thống của cộng đồng làng đối với đất và rừng nghiểm nhiên bị xoá bỏ, tất cả đất và rừng đều bị quốc hữu hoá. Như đã thấy ở trên, quyền sở hữu này chính là nền tảng vật chất, kinh tế của làng ; bị bứng mất đi nền tảng này, làng, tế bào cơ bản của xã hội Tây Nguyên, tất yếu tan vỡ…
  3. Môi trường bị tàn phá nghiêm trọng. Cho đến nay, trừ một vài vùng nhỏ như một ít khu vực quanh núi Ngok Linh, vùng Komplong…, có thể nói về cơ bản rừng Tây Nguyên đã bị phá sạch, hậu quả về nhiều mặt không thể lường.
  4. Người bản địa bị mất đất. Việc mất đất, không phải trong một xã hội bình thường mà là từ tay người dân tộc bản địa sang tay người nơi khác đến là người Việt, đã khiến vấn đề đất đai trở thành vấn đề dân tộc. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp của sự mất ổn định nghiêm trọng đã và đang diễn ra ở Tây Nguyên.
  5. Văn hoá Tây Nguyên bị mai một. Việc mất rừng, tan vỡ của làng, cơ cấu dân cư bị đảo lộn lớn và đột ngột, người bản địa bị mất đất và mất gốc rễ trở thành lang thang trên chính quê hương ngàn đời của mình… tất yếu đưa đến đổ vỡ về văn hoá.

Nhà văn Nguyên Ngọc cũng có đề cập đến những “lời cảnh báo sớm của một nhóm nghiên cứu về tình hình Tây Nguyên”, cùng với lời giới thiệu trang trọng:
“Năm 1997, một nhóm nghiên cứu thuộc Viện Dân tộc học Việt Nam gồm các tác giả Vũ Đình Lợi (nay đã mất), Bùi Minh Đạo và Vũ Thị Hồng đã hoàn thành một công trình có tên là Sở hữu và sử dụng đất đai ở Tây Nguyên, được giáo sư Đặng Nghiêm Vạn viết lời giới thiệu vào năm 1999, và ấn hành tại nhà xuất bản Khoa học Xã hội vào năm 2000. Sau khi đã trình bày các dữ liệu, phân tích toàn diện và tỉ mỉ tình hình đất và rừng ở Tây Nguyên từ sau năm 1975, các tác giả đã đưa ra lời cảnh báo mạnh mẽ như sau :

‘Sẽ là không quá sớm khi đưa ra lời cảnh báo rằng nếu không kịp thời có giải pháp khắc phục những khiếm khuyết của quá trình khai thác và sử dụng đất đai thì ‘vấn đề dân tộc’ sẽ rất có thể phát sinh trong thực tế nay mai ở Tây Nguyên, chí ít là mất ổn định, nghiêm trọng là máu lại đổ, với sự can thiệp vừa kín đáo, vừa trắng trợn của kẽ thù dưới chiêu bài bảo vệ người dân tộc, bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Một khi vấn đề dân tộc và tôn giáo quyện vào nhau thì nguy cơ tới thật khó lường.

Đây thật sự là một lời cảnh báo đầy trách nhiệm, trung thực, dũng cảm và đã được chứng tỏ là hoàn toàn chính xác. Rất tiếc là nó đã hoàn toàn bị bỏ ngoài tai, thậm chí cả sau khi những điều cảnh báo đã thành hiện thực!

Như vậy, sau hơn 30 năm triển khai, hai mục tiêu chiến lược được đề ra từ đầu đối với Tây Nguyên đã không thực hiện được. Tây Nguyên đã trở thành một vùng mất ổn định nhất trong cả nước; và việc xây dựng một vùng trọng điểm phát triển kinh tế trên một cơ sở mất ổn định như vậy chắc chắn không thể bền vững. Lãnh thổ tuy có được phát triển – cũng là một cách méo mó – nhưng chủ nhân của lãnh thổ thì bị bần cùng hoá và bế tắc. Tìm một con đường khắc phục những thực trạng đó hiện nay ở Tây Nguyên đã trở nên rất khó khăn.”

Ở góc nhìn của một kẻ hậu sinh (sinh trưởng nơi vùng cao nguyên Lâm Viên) tôi thành thực tin rằng chuyện “tìm một con đường khắc phục những thực trạng khó khăn ở Tây Nguyên” sẽ còn khó khăn hơn nữa, nếu vấn đề vẫn được nhìn theo nhãn quan của những nhà nghiên cứu thuộc Viện Dân Tộc Học – như nhà văn Nguyên Ngọc vừa trích dẫn: “Với sự can thiệp vừa kín đáo, vừa trắng trợn của kẽ thù dưới chiêu bài bảo vệ người dân tộc, bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Một khi vấn đề dân tộc và tôn giáo quyện vào nhau thì nguy cơ tới thật khó lường.”

Ủa, chớ quí vị nói đến “kẻ thù” nào vậy cà? Và “kẻ thù,” cũng như “nguy cơ, của ai mới được chớ? Của Đảng Cộng sản Việt Nam hay của những nguời dân cùng khổ, bất hạnh ở Tây Nguyên?

Coi: đất đai thì mất trắng, môi trường bị tàn phá, văn hoá bị hủy hoại, xóm làng xơ xác tiêu điều, ngơ ngác đói khát trên mảnh đất quê hương ngàn đời của chính mình, không còn lối thoát nào khác nên cuối cùng người dân Tây Nguyên phải nổi dậy. Sau đó, họ bị đàn áp, săn đuổi (và săn đuổi đến cùng) như thú vật giữa rừng hoang – theo như tường thuật của đặc phái viên Nguyễn Khanh, thuộc đài tiếng nói Á châu Tự do, nghe được hôm 4 tháng 5 năm 2004:

“Hiện có một số người Thượng đang lẩn trốn trong rừng sâu ở tỉnh Mondulkiri nằm sát biên giới với Việt Nam. Những người này từ Tây Nguyên băng rừng sang đến Xứ Chùa Tháp hơm 16 tháng trước, tức sau cuộc biểu tình đòi tự do tôn giáo ở Dak Lak và Gia Lai…

Ðiều không mấy ai biết là trước đó vài ngày, công an địa phương cũng đã bắt giữ một số người Thượng, cáo buộc họ hoạt động chính trị, âm mưu lật đổ nhà cầm quyền. Một vài người trong số này may mắn trốn ra khỏi tù và nhanh chân chạy được vào rừng sâu chạy sang Kampuchea…

Ðiều này được chính các viên chức địa phương Cambodia xác nhận, đồng thời nói thêm là phía Hà Nội treo giải thưởng, cứ mỗi người Thượng trao trả lại cho Việt Nam sẽ được thưởng 125 đô la Mỹ. Với phần đông dân chúng Kampuchea thì đây là một số tiền lớn và khoản tiền thưởng này chính là động lực thúc đẩy binh sĩ, cảnh sát Mondulkiri truy lùng những người Thượng đang lẩn trốn trong địa phương của họ.”

Kẻ ở lại thì bị bị “đấu tố” bằng cách ép buộc phải đứng nhận tội trước làng, và những quan chức địa phương, thề phải ngưng liên lạc với người ngoài, và từ bỏ tôn giáo của mình (Villagers who had participated in the February 2001 demonstrations were forced to stand up in front of their entire village and local authorities to admit their wrongdoing, pledge to cease any contacts with outside groups, and renounce their religion. – “Vietnam’s Repression of Montagnard”, Human Rights Watch Press, New York, April 23, 2002)

Không lẽ trên đời này còn có loại “kẻ thù” nào khác, tàn ác và đáng sợ hơn thế nữa, hay sao?

Và vì quí vị đã nhắc đến hai chữ “kẻ thù”, tôi cũng xin phép được nói luôn: sống với những người cộng sản Việt Nam thì có bao giờ mà thiếu… kẻ thù, bất kể vào thời bình hay thời chiến. Chỉ có điều khác biệt là vào thời chiến thì họ động viên toàn dân xáp vào để đánh, chỉ còn cái khố cũng (phải) đánh, nhưng đến thời bình thì Đảng và Nhà Nước lại dành độc quyền bắt tay làm hoà (và… làm tiền) với kẻ thù!

Tôi xin lỗi vì nóng giận (và mất bình tĩnh) nên đã đi hơi xa vấn đề cần bàn, chút xíu. Xin được trở lại với bài viết “Phát triển bền vững ở Tây Nguyên” của nhà văn Nguyên Ngọc. Nơi phần kết luận, ông đã trích dẫn một câu nói “ để đời” (của nhà dân tộc học Jacques Dournes) khi nghiên cứu về các dân tộc miền núi Nam Đông Dương: “Nếu phải hiểu để mà có thể yêu, thì lại phải yêu để mà có thể hiểu.” (*)

Chính Nguyên Ngọc cũng viết thêm đôi dòng chữ ưu ái và thân ái chí tình, về mảnh đất này: “Đối với Tây Nguyên, cần một sự hiểu biết và một tình yêu đầy sự tôn trọng thật sự, một sự tôn kính chân thành và đầy ưu tư đối với một vùng đất và một vùng văn hoá vào loại độc đáo nhất còn lại trên đất nước ta và trên thế giới ngày nay.”

Thương yêu, hiểu biết, tôn kính, chân thành, tận tụy… – theo như quan niệm nhân bản của Jacques Dournes hay Nguyên Ngọc – đều là những thứ tình cảm (vô cùng) xa xỉ, chưa bao giờ thấy được ở Tây Nguyên, kể từ khi vùng đất này “được hoàn toàn giải phóng.” Xin lược thuật một vài sự kiện chính, để thấy lòng dạ “chân thành” hay “tôn kính” của những quan chức cộng sản nơi vùng sơn cước, cũng như tâm tình (chán ngán) của người dân bản địa đối với Nhà nước – ra sao?

Ngày 6 tháng 9 năm 2002, hãng thông tấn AFP loan tin nhà đương cuộc Hà Nội đã bắt giữ khoảng 30 người Thượng – sau khi họ tham dự vào một cuộc biểu tình phản đối chính phủ tại làng Sao, huyện Madrak, thuộc tỉnh Dac Lak. Tuy nhiên, khi được hỏi về biến cố này, ông Nguyễn Văn Lạng – Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Dac Lak – đã lắc đầu quầy quậy:” Làm gì có biểu tình, bất ổn hay bắt bớ những người dân thiểu số trong thời gian gần đây. Không, tuyệt đối là không có…” (There have been no demonstration, unrest or arrest of any ethnic minorities in recent days. No, absolute, not… – theo như tường thuật của AFP, vào ngày 6 tháng 9 năm 2002, “Demonstrators Arrested in Vietnam’s Central Highlands”.)

Tưởng ai xa lạ, chớ ông Lạng thì tôi đã có lần nhìn thấy hình trên tờ Việt Mercury (trang 44, số phát hành ngày 23 tháng 3 năm 2001) khi ông ấy đang trả lời phỏng vấn, về những biến động xẩy ra ở Dac Lak – hồi tháng 2 năm 2001. Bữa đó ông Lạng cũng nhún vai, bầy tỏ một thái độ (thản nhiên) tương tự: “Ðấy chả qua chỉ là những vụ cãi vã giản dị về văn khế đất đai tại hai ngôi làng mà thôi… Con số của người biểu tình đã tăng lên là do sự thổi phồng của những tay cực đoan phản cách mạng!”

Cái được ông Nguyễn Văn Lạng mô tả là “những vụ cãi vã giản dị… giữa hai ngôi làng”, theo như những nguồn tin đáng tin cậy khác, gồm “nhiều ngàn nông dân đã xử dụng vũ khí – phần lớn là cuốc xẻng và dao rựa – để đấu tranh chống lại sự thối nát của của Ðảng Cộng sản và những chính sách của chính phủ về chuyện đất đai (Credible reports suggest that several thousand peasants took up arms – mostly shovels, hoes and machetes – to do battle over Communist Party corruption and government policies on land use, theo như tường thuật của Mark Mc Donald [từ Việt Nam] qua bài báo “Peasants Battling Hanoi Over Land In Central Highlands Fight Over Premier Coffee-Growing Region Taking On Political And Religious Overtones”, San Jose Mercury News, 26 Feb 2001, A10.)

Sau đó, ai cũng biết là Hà Nội phải huy động cả lực lượng công an cũng như bộ đội và đã xử dụng đến trực thăng để uy hiếp và truy lùng những kẻ đã tham dự vào “những vụ cãi vã giản dị” này. Hàng trăm người Thượng đã bị bắt giữ, hàng ngàn người khác đã bị truy nã. Họ đã chạy sang Cao Miên xin tị nạn.

Theo lời bà Phan Thúy Thanh, phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao, đọc được tên báo Nhân dân – số ra ngày 7 tháng 3 năm 2002 – đây là những kẻ “do bị kích động, lừa gạt nên đã vượt biên trái phép sang Cam-pu-chia”. Một tuần lễ sau, hôm 13 tháng 3 năm 2002, khi được hỏi về thái độ của chính phủ Việt Nam đối với những người này, bà Phan Thúy Thanh đã nói với phóng viên David Brunstrom của hãng thông tấn Reuters rằng “thật đáng tiếc là chỉ có 15 người dân thuộc sắc tộc thiểu số từ Cam Bốt đã được Cao uỷ Tị nạn giao trả lại cho Việt Nam, mặc dù hầu hết họ đều có ‘khát vọng nóng bỏng’ được hồi hương” (‘the burning desire’ of most of them to come back.).”

Bà Thanh, rõ ràng, nói láo! Sự thực, khi được cho phép định cư ở một quốc gia đệ tam, không một ai trong số 905 người Thượng tị nạn tại Cao Miên đã thực hiện “cái khát vọng nóng bỏng được hồi hương” – như bà Thanh đã bịa đặt ra như vậy. Tất cả đều đã xin tị nạn và đã được phép định cư ở Hoa Kỳ, từ tháng 6 năm 2002.

Mấy năm sau, vào ngày 10 tháng 4 năm 2004, một cuộc biểu tình vĩ đại khác diễn ra tại Tây Nguyên. Lại đàn áp, trốn chạy, thương tích, tử vong…, không khác gì lần trước. Và cũng như lần trước, khi bị chất vấn về con số thương vong của người thiểu số, ông Lê Dũng, phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao – người kế nhiệm bà Thanh – cũng đã lắc đầu nguây nguẩy là “hoàn toàn không có ai bị đánh chết ở Buôn Ma Thuột như tin của Human Rights Watch. Chúng tôi cực lực bác bỏ tin này.”

Theo truyền thống của Nhà nước CHXHCNVN thì (ta) cứ “cực lực bác bỏ” – nghĩa là chối ngay, chối bay, chối biến, chối phăng, chối phắt, chối nằng nặc, chối bai bải, chối đây đẩy, chối quầy quậy, chối tuốt luốt, chối hết – là kể như… xong chuyện, và hết chuyện! Truyền thống này, tiếc thay, hơi khó giữ vào thời đại thông tin.

Bởi vậy, mấy bữa sau, ngày 17 tháng 4 năm 2004, ông Phạm Thế Duyệt – Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc – đành phải miễn cưỡng nhận rằng: “Chỉ có hai người trong số những người cố ý gây rối trật tự công cộng bị chết do chính họ ném đá vào nhau. Ngoài ra, còn có vài chục người bị thương trong các cuộc ẩu đả lẫn nhau.”

Ý, giàng ơi! Sao khi khổng khi không cái hàng chục ngàn người Thượng, bỏ buôn làng, kéo vô thành phố, chia làm hai phe, dàn hàng ngang rồi “ném đá vào nhau” và “ẩu đả lẫn nhau” cho… tới chết luôn – như vậy, hả trời? Nói (đại) như vậy mà nói được sao, cha nội? Cũng như bà Thanh, và ông Dũng, thằng chả – rõ ràng – cũng nói láo như… ranh. Thiệt là thầy chạy!

Mà người dân miền núi thì không quen dối trá. Họ không thể tiếp tục sống mãi với những kẻ (cứ mở mồm ra là) nói láo xoen xoét như thế. Bởi thế, sau khi trốn thoát được đến Cao Miên, theo tường thuật của BBC, nghe được vào hôm 21 tháng 7 năm 2004, ông Ralampee – một người tị nạn từ Tây Nguyên – đã nói với phóng viên của hãng tin Reuters rằng: “Tôi thà chết ở đây, chứ không trở lại Việt Nam và chết ở nơi đó (I would be happy to die right here, rather than go back to Vietnam and die there).”

Ông Ralampee không phải là người đầu tiên, cũng không phải là kẻ cuối cùng (hay duy nhất) đã bầy tỏ một thái độ quyết liệt như vậy. Có hàng trăm ngàn người dân miền núi, và hàng triệu đồng bào của họ ở miền xuôi, cũng đã dùng đến sinh mạng của mình để bỏ phiếu (bằng chân hoặc bằng thuyền) theo phương cách tương tự.

Tai hoạ mà cộng sản mang lại đâu chỉ giới hạn ở Tây Nguyên. Hãy đọc lại, một lần nữa, những vấn đề mà nhà văn Nguyên Ngọc vừa nêu xem. Xin vẫn được in đậm, theo nguyên bản:

  1. Dân số Tây Nguyên tăng nhanh, đột ngột, với cường độ lớn;
  2. Sự tan vỡ của làng Tây Nguyên;
  3. Môi trường bị tàn phá nghiêm trọng;
  4. Người bản địa bị mất đất;
  5. Văn hoá Tây Nguyên bị mai một.

Chớ có cái làng quê nào ở miền Bắc mà không “tan vỡ”, sau Cải cách Ruộng đất? Có dòng sông nào, khu rừng nào – xuyên suốt cả hai miền đất nước – không bị ô nhiễm, tàn phá, hủy hoại chứ đâu có riêng chi môi trường ở Tây Nguyên?

Dù chính sách hợp tác xã nông nghiệp không được thực thi ở miền Nam, chủ trương xây dựng lâm trường và nông trường cũng khiến cho vô số người dân miền xuôi mất trắng đất hết đai. “Tiếng kêu giữa rừng U Minh Hạ” (được ghi lại bởi phóng viên Hoàng Trí Dũng, đọc được trên Tuổi trẻ Online, vào ngày 18 tháng 9 năm 2005) nghe cũng ai oán, và thảm thiết đâu có khác gì tiếng nấc của núi rừng ở Tây Nguyên:

Tôi đã đến nhiều miền quê nghèo khó vùng sông nước ĐBSCL, nhưng có lẽ chưa lần nào tơi bị ‘sốc’ như chuyến đi lần này. Nơi tôi đến là một vùng quê giáp ranh giữa hai tỉnh Kiên Giang – Cà Mau, cách không xa trung tâm hai thành phố Rạch Giá và Cà Mau, vậy mà đã 30 năm sau ngày đất nước thống nhất vùng quê ấy vẫn còn là bức tranh buồn thảm với nhiều nỗi bức xúc: không điện, đường, trường, không trạm xá, không hộ khẩu, không đất sản xuất…

Trái ngược với hình ảnh ấy là cơ ngơi của các quan chức địa phương – những người đang giành giật đất đai của dân. Đó là chuyện thật ở ngay một góc Lâm trường U Minh 2, ấp 4, xã Khánh Hịa, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.

[…]

Cách đây hai năm một cháu bé tên Hằng, 10 tuổi, con của hai vợ chồng trẻ không may bị bệnh viêm ruột thừa cấp tính, nhưng ở giữa rừng không có trạm y tế, mà lòng kênh trơ đáy khô queo, còn trên bờ thì không có đường đi rốt cuộc đành ngồi nhìn con chết mà bất lực vì không cách nào chuyển đi bệnh viện…”

Tương tự, “văn hóa bị mai một” hay suy đồi là “tình trạng chung của cả nước,” chớ đâu có riêng chi ở Tây Nguyên! Tôi cũng chả thấy có sự dị biệt nào giữa hai cuộc biểu tình của dân chúng ở Tây Nguyên, với những cuộc biểu tình ở các tỉnh đồng bằng: Thái Bình, Đông An, Nam Hà, Nghệ An, Trà Cổ… Tựu trung, đó chỉ là những phản ứng tự nhiên của những người dân chân chất – khi bị dồn đến chân tường, thế thôi.

Và tôi e rằng đa số người dân đã bị dồn đến chân tường rồi. Trước tình trạng này những đề nghị phát triển , hay “phát triển bền vững”, đều bất khả thi. Kinh nghiệm của nạn nhân cộng sản, ở những quốc gia khác, cho thấy là thể chế này chỉ có thể thay thế chứ không thể nào thay đổi được

Còn làm thế nào thay thế được nó thì (sorry) tôi không biết. Và đây, chắc chắn, cũng không phải là “chuyện riêng” của người dân miền núi chúng tôi. Tây Nguyên, nghĩ cho cùng, chỉ là hình ảnh của một Việt Nam thu nhỏ, với những nét khắc khốc liệt và tàn bạo hơn (đôi chút) thế thôi.

K’ Tien
10/2008

(*) Jacques Dournes còn có bút danh là Dam Bo, tác giả công trình nghiên cứu Các dân tộc miền núi Nam Đông Dương, được giới thiệu vào đầu năm 1950, trên Tạp chí Pháp – Á (France-Asie 49-50 Numero Special Consacre aux Populations Montagnardes du Sud-Indochinois: Saigon,1950) và đã được chuyển dịch là Miền đất huyền ảo, một cách hết sức gẫy gọn và tài hoa bởi nhà văn Nguyên Ngọc.


 

Ngày giỗ lần thứ 40 của anh Nguyễn Văn Hoàng

Tandaiviet.org

Ngày đất nước được Tự Do, thanh bình trở lại, Dân Tộc sẽ ghi công Anh Nguyễn Văn Hoàng và các liệt sĩ khác của Ðảng TÐV cùng tất cả các Tổ chức yêu nước khác đã hiên ngang nằm xuống vì Tự Do, Dân Chủ cho quê hương Việt Nam thân yêu. BBT

Lê Minh Nguyên

Hôm nay là ngày giỗ lần thứ 40 của anh Nguyễn Văn Hoàng, một người sếp kính quý của tôi ở Phòng Thuế Vụ Gò Vấp, một đồng chí can trường trong đảng Tân Đại Việt, một nhà ái quốc hiên ngang và dũng cảm.

Nguời chết chỉ thực sự chết đi khi không còn ai nhắc gì đến họ nữa. Trong ý nghĩa đó, anh vẫn sống cùng Anh Em và Dân Tộc.

Xin thắp một nén hương để tưởng nhớ anh – ngày anh bị CS sát hại 31/5/1983.

Tưởng Niệm Nhà Chí Sĩ Nguyễn Văn Hoàng
(18/10/1947 – 31/5/1983)

Anh Nguyễn Văn Hoàng tự Nguyễn Chính Nghĩa sinh tại Biên Hoà trong một gia đình nghèo có 8 anh em mà anh Hoàng là anh cả. Anh có một vợ ba con và cha mẹ già cần phụng dưỡng.

Khi còn học tiểu học, anh vừa đi học anh vừa đi bán quà vặt để giúp gia đình. Khi học trung học, anh là học sinh xuất sắc của trường Trung Học Ngô Quyền, Biên Hoà và được giải thưởng danh dự của Tổng Thống VNCH trao tặng. Khi xong tú tài toàn phần, anh học Đại Học Khoa Học Sài Gòn, đến năm thứ ba anh được học bổng chính phủ để đi học ngành hoá học ở Algeria. Nhưng vì có cha mẹ già cần phụng dưỡng, và các con trong gia đình cần cha dạy dỗ, nên anh bỏ dở chương trình du học này để thi vào Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Ban Tham Sự khoá 4. Trong khi học QGHC, anh còn học thêm tại Đại Học Luật Khoa Sài Gòn ban Tư Pháp. Anh tốt nghiệp QGHC năm 1969 và được bổ nhiệm làm việc ở Ty Thuế Vụ Quận I thuộc Tổng Nha Thuế Vụ.

Cuối năm 1969, thi hành lệnh động viên, anh nhập ngũ khoá 2/1969 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức và sau đó về làm việc ở Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH. Hai năm sau, anh được biệt phái về Tổng Nha Thuế Vụ và làm Trưởng Phòng Thuế Vụ Quận Gò Vấp – Lê Minh Nguyên biết anh ở đây khi về làm việc dưới quyền anh. Ban đêm anh đi làm bán thời gian trong vai trò giáo sư phụ khảo cho trường Cao Đẳng Thương Mãi Minh Trí. Chức vụ sau cùng của anh là Trung Uý Quân Lực VNCH được biệt phái về Tổng Nha Thuế Vụ và được bổ nhiệm làm Phó Ty Thuế Vụ Tỉnh Gia Định.

Trong thời gian anh làm Trưởng Phòng Thuế Vụ Quận Gò Vấp, Lê Minh Nguyên có mời anh và hai nhân viên khác tham gia Đảng Tân Đại Việt do GS Nguyễn Ngọc Huy lãnh đạo. Anh trực thuộc Biệt Bộ Lê Trí Vị, một biệt bộ công chức của TĐV.

Anh tốt nghiệp cử nhân ban tư pháp trường Đại Học Luật Khoa SG năm 1973, GS Nguyễn Văn Ngôn làm Chánh Chủ Khảo. GS Ngôn là cố vấn của Tổng Đoàn Sinh Viên Cấp Tiến và là ca sĩ bài Đường Xưa Lối Cũ của Tổng Đoàn khi có sinh hoạt văn nghệ.

Sau ngày 30/4/1975 anh bị đi tù tại trại 15-NV ở Long Thành. Đến tháng 11/1975 vì CSVN bị lúng túng trong vấn đề thiếu chuyên viên thuế vụ phụ trách việc thu thuế ở Miền Nam nên anh được tha nhưng bị quản chế 6 tháng để làm việc cho họ trong lãnh vực chuyên môn này.

Sau 6 tháng anh xin nghỉ việc và đứng ra thành lập Tổ Hợp Nông Sản, nhưng đó chỉ là mặt nổi bên ngoài, bên trong là tổ chức chính trị có tên là Binh Đoàn Lê Văn Duyệt. Đến tháng 10/1977 anh bị bắt, nhưng đến tháng 3/1978 anh được thả ra vì CS không khai thác được gì.

Ra tù anh tiếp tục hoạt động ngấm ngầm cho đến ngày 4/2/1979 tức vào ngày mùng 4 Tết Kỷ Mùi, anh cùng một số bạn bè thành lập tổ chức kháng chiến có tên là Mặt Trận Tự Do Cứu Quốc Việt Nam, có cơ sở chính tại Sài Gòn và chính anh là chủ tịch. Mặt Trận này có địa bàn hoạt động từ miền Đông qua chiến hữu Trần Quang Mẫn, cho đến miền Tây qua chiến hữu Nguyễn Văn An ở vùng Long Xuyên, Rạch Giá.

Ngày 27/4/1979, trên đường về chiến khu miền Tây, anh và các chiến hữu bị bắt, do sự phản bội của một người trong tổ chức có tên là Nguyễn Hải Đăng chỉ điểm.

Ngày 11/8/1981 anh bị toà Sơ Thẩm Nhân Dân CSVN tại Sài Gòn kết án tù chung thân. Trước toà anh hiên ngang và dũng cảm đối đáp với chánh án, gọi họ và nhà cầm quyền Hà Nội là tay sai bán nước, đưa nhân dân vào cảnh bần cùng đói rách, bóp nghẹt tự do dân chủ. Lúc quá căm phẩn, anh đã bất thần hô to “Đả đảo Cộng Sản! Đả đảo Hồ Chí Minh!” ngay trước phiên toà. Bị sỉ nhục quá bất ngờ, CS liền dùng bán súng đánh anh quỵ ngay tại chỗ. Sau đó họ xin lệnh Hà Nội để lập phiên toà khác xử lại.

Ngày 27/5/1983 cả ba anh đều bị kết án tử hình. Trước đó, các bạn bè ở Âu Châu liên lạc với Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế tại Luân Đôn qua văn thư số UA234/82 ngày 7/10/1982 để can thiệp và xin ân xá, nhưng CSVN không đáp ứng.

Ngày 31/5/1983, chỉ 4 ngày sau khi kết án, lúc 9:00AM sáng, CSVN đem anh Hoàng và anh Mẫn ra xử bắn tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, riêng anh An thì bị họ đánh chết trong tù.

Chị Trần Mỹ Hường, vợ anh Hoàng, phải vội vã chạy lo lót tiền cho bọn cai ngục để được nhìn mặt chồng lần cuối, nhờ đó mới biết được sự đánh đập anh Hoàng dã man trong lúc xử án, cũng như việc đánh chết anh An trong tù.

Khi biết mình bị án tử hình, anh đã xin lỗi người vợ hiền vì đã không làm tròn trách nhiệm của người chồng, người cha, và cũng tạ lỗi với cha mẹ già vì đã không còn dịp để phụng dưỡng!

Trước khi bắn, CS nhét hai quả chanh thật to vào miệng hai anh vì sợ hai anh nhục mạ chế độ và lãnh tụ của họ. Sau đó họ vùi xác hai anh và cắm lên mỗi mộ phần – được lấp đất sơ sài – một tấm bảng với hàng chữ ” Âm mưu lật đổ chính quyền”.

Chị Hoàng núp sau lùm cây xa xa để lén nhìn chồng đang bị hành huyết nhưng không dám kêu gào mà chỉ âm thầm rơi lệ vì sợ bị lộ nơi ẩn nấp!

Anh Hoàng đã hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ – 36 tuổi!

Khi tin anh bị bức hại được loan truyền ra hải ngoại vào khoảng tháng 11/1983, GS Nguyễn Ngọc Huy, người thầy khả kính của những sinh viên Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, đã điếu học trò mình qua bài thơ “Điếu Một Môn Sinh” nói lên sự hy sinh anh hùng của anh cho quốc gia dân tộc.

Theo thư của chị Hoàng cho biết, năm 1993 hài cốt anh Hoàng đã được chị đưa về an táng nơi quê nhà của anh ở Biên Hoà để gia đình tiện việc hương khói. Các con của chị – con trai lớn Hiển và hai con gái Hân, Hạnh – cũng rất ngoan và chăm chỉ học hành. Tất cả đều tốt nghiệp đại học, có việc làm và đều đã lập gia đình.

Anh Hoàng mất cho đến nay – 2022 – là 39 năm. Xin thành kính dâng lên anh một nén hương lòng và luôn nhớ về anh, một nguời anh hùng đất Việt.

(Dựa theo bài viết của anh Nguyễn Văn Sáu, người bạn QGHC của anh Hoàng, trong Biên Khảo Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Tập II, trang 426-431)

Điếu Một Môn Sinh

    • Đằng Phương Nguyễn Ngọc Huy
      Houston, Texas 26/11/1983

Năm trước cùng chung một mái trường
Trong chương trình phục vụ quê hương
Thầy trao trò nhận truyền tri thức
Giúp nước trong thời đại nhiễu nhương

Đến lúc non sông cát bụi lầm
Thầy đi nơi hải ngoại xa xăm
Trò bên trong nước đầy tang tóc
Nhưng vẫn cùng chung một quyết tâm

Đập nát xiềng gông lũ bạo tàn
Làm cho toàn quốc được khương an
Trong niềm vui sống và no ấm
Cùng tự do về với quốc dân

Nhưng giữa phong ba nổi bất ngờ
Trên đường tranh đấu rủi sa cơ
Trò đà ngã gục ngày hôm ấy
Và chết hiên ngang dưới bóng cờ

Nghe tin trò đã phải hy sinh
Xao xuyến trong tâm mối nghĩa tình
Thầy thấp nén hương thờ liệt sĩ
Cho nhà ái quốc cựu môn sinh

Trên con đường giải phóng nhơn dân
Còn có bao người quyết dấn thân
Diệt lũ hung tàn, xây đất nước
Suối vàng trò hãy cứ an tâm


 

Xung đột sắc tộc ở Tây Nguyên

Báo Tiếng Dân

Dương Quốc Chính

11-6-2023

Ảnh chụp màn hình

Tây Nguyên, nguyên là hai nước Thuỷ Xá và Hoả Xá, đến thời Minh Mạng vẫn chỉ là thuộc quốc của Đại Nam. Có lẽ chúa rồi vua Nguyễn cũng không định xâm lược và sát nhập. Khi Pháp chiếm Đông Dương thì vùng này mới được nhập và An Nam (Trung Kỳ), vì người Pháp mới tận dụng được lợi thế về đất đai và tài nguyên ở đây, các đồn điền cafe, cao su… mới chỉ có từ khi người Pháp xâm lược. Có nghĩa là đây là vùng đất cuối cùng được nhập vào Việt Nam.

Đến giai đoạn Quốc gia Việt Nam, vùng này được quy chế tự trị dành riêng cho Hoàng gia, gọi là Hoàng triều cương thổ. Các lãnh đạo địa phương chỉ thần phục Quốc trưởng Bảo Đại. Đến thời VNCH, ông Diệm thống nhất quốc gia nên xoá bỏ Hoàng triều cương thổ, nhập vào VNCH.

Trong chiến tranh Việt Nam, dân Tây Nguyên vẫn có những nhóm chống quân cộng sản, chứ không phải trên dưới một lòng theo Việt cộng như sách báo chính thống viết đâu. Điển hình là vụ thảm sát Đắk Sơn, anh em Google để biết chi tiết, có cả ảnh. Đây là một vùng ở Đắk Lắk luôn. Tức là mầm mống xung đột nó có từ lâu đời rồi.

Khi chiến tranh Việt Nam kết thúc thì tổ chức FULRO vẫn tồn tại ở Tây Nguyên đến 1992. Anh em Google tiếp để biết FULRO là tổ chức nào. Đại khái đây là tổ chức đấu tranh để giành độc lập cho các dân tộc Tây Nguyên, gồm cả người Chăm và Khmer. Có nghĩa là họ chống lại sự cai trị của người Kinh gồm cả VNCH lẫn Việt Nam cộng sản.

Năm 1999, nhà nước DEGAR được thành lập, đây là nhà nước tự xưng của người dân tộc ở Tây Nguyên. Thủ đô cũng ở Đắk Lắk. Google để biết chi tiết. Nhà nước này trên lý thuyết vẫn tồn tại, lãnh đạo lưu vong.

Mấy hôm trước, trùng hợp thay, có ông thày giáo cũng ở Đắk Lắk mới bị kết án vì kêu gọi dân chủ, nhân quyền trên Facebook. Nên mình mới bảo là vùng này rất nhạy cảm chính trị, nên dân mà ngo ngoe chống đối là bị dính án ngay. Hôm qua xảy ra vụ cũng ở Đắk Lắk, hiện chưa công bố nguyên nhân chính thức dẫn tới vụ khủng bô’. Nhưng nhiều người đồn đoán là tổ chức Degar đứng sau, cũng có người cho rằng chỉ là tranh chấp đất đai.

Mình tóm lược lại một số thông tin về sự nhạy cảm chính trị, nguy cơ ly khai của vùng này để mọi người hiểu bản chất của lịch sử xung đột ở vùng đất Tây Nguyên. Chuyện tương tự diễn ra khá phổ biến trên thế giới. Đặc biệt là ở các nước cộng sản hay độc tài thì nó diễn ra càng bạo lực hơn. Bên Tàu thì Tân Cương, Tây Tạng cũng không khác gì Tây Nguyên. Các vụ khủng bố rồi đàn áp đẫm máu diễn ra nhiều ở Nga, TQ vì nguyên nhân sắc tộc. Vùng Kosovo cũng vậy, đang tái diễn bạo lực.

Nói chung là việc cai trị những vùng đất mới có lịch sử, văn hoá, dân tộc quá khác biệt với các nơi khác là không hề đơn giản. Ở nhiều nước hay nhiều giai đoạn lịch sử thì các vùng đất này phải có quyền tự trị tương đối thoáng. Ngay ở TQ cũng có khu tự trị dân tộc Choang ở Quảng Tây giáp Việt Nam. Nga cũng có nước CH tự trị. Việt Nam hiện không có và đã từng có ở Tây Nguyên và miền núi phía Bắc (người Mèo).

Hiện tại chưa rõ nguyên nhân vụ vừa xong là gì, nhưng mâu thuẫn sắc tộc thường không được công bố là nguyên nhân chính thức, dễ bị lái thành mâu thuẫn thuần tuý hình sự.

Xem thêm chi tiết sự vụ tấn công 2 đồn Công An ở đây.


 

Đồng chí này là đồng chí nào?

Chau Trieu is with Kim Dao Lam

Đây là đồng chí Kim Ngọc Tuyến, Giám đốc kiêm Bí thư đảng ủy của Công ty Phát triển dịch vụ giá trị gia tăng (VNPT VAS), trực thuộc Tập đoàn Bưu Chính viễn thông Việt Nam (VNPT).

Đây là hình đồng chí giám đốc Tuyến và nhân viên của VNPT VAS về thăm nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn ở Quảng Trị.

May be an image of 2 people, wrist watch, belt and text that says 'đồng hồ Patek Philippe Nautilus 5711 8,5 tý đồng dây lưng Hermes 20 triệu đông Đồng chí này LÀ CON ĐÔNG CHÍ NÀO?'

Người ta phát hiện đồng chí Tuyến đeo chiếc đồng hồ Patek Philippe Nautilus 5711 trị giá 338.898 euro, tương đương khoảng 8,5 tỷ đồng. Mang chiếc thắt lưng da Hermes trị giá hơn 20 triệu đồng.

Đây chỉ là những vật phụ kiện của đồng chí Tuyến thôi chứ chưa nói đến các tài sản khác. Là giám đốc của một công ty trực thuộc nhà nước, không biết lương bao nhiêu mà đồng chí Tuyến có số tiền lớn như vậy?

Có người sẽ hỏi, thế có biết “đồng chí này là con của đồng chí nào” không?

Xin thưa, đồng chí Tuyến có bố vợ là đồng chí Vũ Tuấn Hùng – Tổng giám đốc VNPT từ năm 2006 đến năm 2013. Có thể nhờ đó mà đồng chí Tuyến mới lên chức Giám đốc của VNPT VAS nhanh như vậy.

Mọi người hay nói, lương của một dư luận viên là 3 củ, tức là 3 triệu đồng/tháng. Thì chỉ tính riêng chiếc đồng hồ Patek Philippe Nautilus 5711 của đồng chí đảng viên Kim Ngọc Tuyến thôi, bằng lương của bạn dư luận viên “cào phím bảo vệ chế độ” trong 236 năm.

Các đồng chí đảng viên làm lãnh đạo đi đâu cũng rao giảng về đạo đức cách mạng, uống nước nhớ nguồn, tri ân thế hệ đã hy sinh để bảo vệ tổ quốc… Nhưng làm sao các lãnh đạo có nhiều tiền thì họ lại không nói.

Cái lò của ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đốt bao giờ mới hết, hoặc không bao giờ hết được vì chính cái cơ chế của đảng cộng sản cầm quyền nó sinh ra như thế.

Nguyễn Phú Trọng, Việt Nam, tham nhũng

NGUỒN HÌNH ẢNH,HOANG DINH NAM/GETTY IMAGES Chụp lại hình ảnh, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nổi tiếng với câu ‘Lò nóng lên rồi thì củi tươi cũng phải cháy’

Chỉ thương các bạn dư luận viên “cào phím” thối móng tay để bảo vệ chế độ, bảo vệ những lãnh đạo như đồng chí Kim Ngọc Tuyến.

No photo description available.

Đối phó Đốt Lò tranh của Fb La Thanh Hiền, 19-7-2022

Ps: Một số bài báo viết về các hoạt động đồng chí Kim Ngọc Tuyến đã bị gỡ bài. Tại sao?

Gia Minh