PHẢN BIỆN VỀ SỰ KÊU GỌI CỦA CHÍNH PHỦ.

PHẢN BIỆN VỀ SỰ KÊU GỌI CỦA CHÍNH PHỦ.

Gọi điện bảo mụ dzợ chiều ghé chợ mua con cá về ăn, chứ mấy ngày nay ăn nước mắm hoài, nóng ruột chịu không thấu. Chuông ĐT mụ chưa đổ thì lập trình của bộ Y Tế léo nhéo nhắc nhở phải đóng góp, ủng hộ quỹ vắc xin.

Gọi điện cho cô em hỏi vay ít tiền mai đi khám bệnh, chuông cô ấy chưa đổ thì bộ Y Tế nhảy xổm vào nhắc đóng góp cho quỹ vắc xin.

Chán chường! Tắt máy, định nhắn tin cho cô hồn khỏi ám. Nhưng vừa mở tin nhắn ra thì gặp ngay chính phủ kêu gọi: tương thân tương ái cùng chung tay đóng góp quỹ vắc xin. Ôi!!!

Bực bội, click vào facebook giải sàu thì cu Mark hỏi, bạn đang nghĩ gì? À! Tao nghĩ thế này nè Mark:

– Thứ nhất, những người cộng sản trong giai đoạn kháng chiến. Họ phải núp trong hang, trốn trong rừng nên họ phải kêu gọi nhân dân ủng hộ, đóng góp. Điều này thì nhân dân có thể chấp nhận đóng góp, chứ không có gì phải bàn cãi cả. Nhưng, khi đã cướp được chính quyền rồi; lãnh thổ đất nước đã thống nhất rồi; chiến tranh đã lùi xa gần nửa thế kỷ rồi; Mỹ cũng đã bỏ cấm vận mấy chục năm nay rồi….Vậy thì nhà nước chẳng có lý do gì kêu gọi nhân dân đóng góp, ủng hộ nữa cả!

– Thứ 2: Một đất nước độc lập có biển bạc rừng vàng; có tài nguyên phong phú; có gạo xuất khẩu hạng nhất nhì trên thế giới; có mức tăng trưởng GDP hằng năm cao chót vót; có nhận kiều hối hàng năm hàng chục tỷ đô, thuộc top đầu thế giới; và có nhân dân đóng thuế cao nhất trong khu vực… Một nhà nước như vậy ngân sách phải dồi dào, thừa sức lo cho an sinh xã hội. Vậy thì, chẳng có lý do gì nhà nước ấy phải kêu gọi nhân dân đóng góp, ủng hộ cho chính phủ cả!

– Thứ 3: Đảng csVn khẳng định: “ngoài đảng cộng sản ra thì chẳng có 1 tổ chức nào đủ bản lĩnh, đủ khả năng, đủ trình độ để lãnh đạo đất nước. Đảng cho rằng, mình luôn sáng suốt, trí tuệ, tài tình…lèo lái đất nước qua mọi khó khăn để tiến lên CNXH”. Một đất nước mà có đảng lãnh đạo giỏi giang, vinh quang như vậy, thì chẳng có lý do gì kêu gọi nhân dân đóng góp, ủng hộ cho nhà nước cả. Đúng chưa?

– Thứ 4: Chính phủ kêu gọi mọi người tương thân tương ái….. Tương thân tương ái là gì vậy? Đó là:

– Khi, nhà nước bỏ ra hàng nghìn tỷ đồng xây nhà hát giao hưởng phục vụ tầng lớp quý tộc, thì hãy nghĩ đến những kẻ lê lết trên vỉa hè, chui rúc dưới gầm cầu lượm rác mưu sinh. Đó, mới là tương thân tương ái.

– Khi, chính phủ xuất ra hàng nghìn tỷ từ ngân sách để xây nghĩa trang cao cấp cho cán bộ. Thì, phải nghĩ ngay đến những con người không có tiền thuê xe chở xác người thân, mà phải bó chiếu cột trên xe máy chở từ bệnh viện về đến quê nhà, xa cả hàng chục cây số. Đó, mới là tương thân tương ái.

– Khi, Chính quyền bỏ ra hàng nghìn tỷ xây cổng chào, tượng đài. Thì, hãy nghĩ đến hoàn cảnh bà mẹ trẻ tự tử chết vì túng thiếu. Trước lúc nhâm mắt, bà mong số tiền bà con làng xóm phúng viếng cho mình, đủ đóng tiền học phí cho con. Đó, mới là tương thân tương ái…..

Ngoài xây dựng những công trình nghìn tỷ cũng chỉ để trang trí cho chế độ. Mỗi năm, nhà nước còn phung phí hàng chục nghìn tỷ khác qua các lễ hội, ăn mừng, bắn pháo hoa….Vậy mà dám mạnh miệng nêu tinh thần tương thân tương ái!

Qua vụ lùm xùm tiền bạc của nghệ sĩ Hoài Linh, cậu ta đăng đàn lên tiếng: quý vị thử nghĩ, tôi có thể đánh đổi 14 tỷ ấy với 30 năm sự nghiệp của tôi không? Chẳng hiểu lần này đảng kêu gọi được bao nhiêu tỷ, nhưng xem ra, sự nghiệp hơn 75 năm xây dựng, mà bây giờ phải ngửa tay nhận tiền của từng đứa trẻ 7-8 tuổi, nhận cả tiền dành dụm mua quan tài của các cụ gần đất xa trời. Vậy còn gì nữa mà vĩ đại với quang vinh?

Tui nói vậy đúng hông quý dzị?

Ngô Trường An

Tòa án lập gần 60 vụ án ‘ảo’ để… tự xét xử cho đủ chỉ tiêu!

 Đài Á Châu Tự Do

Luật sư Đặng Đình Mạnh, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh, khi trả lời RFA hôm 8/6 cho biết, giới hoạt động tư pháp đã hết sức kinh ngạc về sự kiện Tòa án Nhân dân Huyện Đắk Song đã ngụy tạo 60 vụ án ‘ảo’ để bảo đảm thành tích thi đua. Theo Luật sư Mạnh, đây là hành vi chưa từng có tiền lệ xảy ra trong hoạt động tư pháp tại Việt Nam. Điều đáng nói theo ông Mạnh là việc xử lý sau đó chỉ kỷ luật với mức khiển trách đối với những cán bộ tòa án có liên quan mà thôi. Luật sư Đặng Đình Mạnh nhận định:

“Về phương diện pháp lý, để thực hiện một hồ sơ vụ án, từ khởi kiện đến thụ lý, đình chỉ vụ án thì lãnh đạo tòa án và thẩm phán đã phải thực hiện một loạt hành vi tố tụng, trong đó có các quyết định tố tụng, mà hành vi cuối cùng là quyết định đình chỉ vụ án. Thế nhưng, tất cả quá trình này đều là ngụy tạo, trong đó, lãnh đạo tòa án và thẩm phán là chủ mưu, đồng phạm cùng thực hiện các hành vi mà họ biết rất rõ là ngụy tạo, trái pháp luật mà vẫn thực hiện. Rõ ràng như 1 + 1 =2 vậy, hành vi của họ đã đủ yếu tố cấu thành tội danh “Ra quyết định trái pháp luật” theo điều 371 Bộ luật Hình sự có hình phạt lên đến 12 năm tù và cấm đảm nhiệm chức vụ cho đến 05 năm.”

Theo Luật sư Đặng Đình Mạnh, sự việc cho thấy, việc không khởi tố vụ án hình sự đối với các hành vi ngụy tạo hồ sơ vụ án là không nghiêm minh, không bảo đảm nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Tạo ra những hệ lụy rất tai hại cho chính hoạt động tư pháp và xã hội. Ông nói tiếp:

“Thật vậy, về phương diện xã hội, rõ ràng, tòa án với chức năng như là nút chặn cuối cùng đối với đạo đức xã hội đã bị vô hiệu hóa. Nơi để ban phát công lý, tái lập lại niềm tin xã hội cho công chúng lại bị tha hóa đến cùng cực.”

Theo đó, Luật sư Đặng Đình Mạnh cho rằng, sự việc cần được các cơ quan bảo vệ pháp luật đánh giá nghiêm túc lại sự việc để có xử lý thích đáng, phù hợp với các quy định pháp luật và phục hồi niềm tin của công chúng đối với hoạt động tư pháp nước nhà.

https://www.rfa.org/…/the-district-court-set-up-nearly…

Tòa án lập gần 60 vụ án ‘ảo’ để... tự xét xử cho đủ chỉ tiêu!
RFA.ORG

Tòa án lập gần 60 vụ án ‘ảo’ để… tự xét xử cho đủ chỉ tiêu!

Mới đây cơ quan chức năng phát hiện một tòa án cấp huyện đã lập gần 60 vụ án ‘ảo’ để … tự xét xử cho đủ chỉ tiêu… 

“Một chính phủ vừa bất tài, vừa bất lực, vừa to họng…”

“Một chính phủ vừa bất tài, vừa bất lực, vừa to họng…”

Bởi  AdminTD

 BTV Tiếng Dân

1-6-2021

Đại dịch cho thấy rõ, chính quyền nào là chính quyền thật sự của dân; chính quyền nào là chính quyền lo cho dân. Những tiếng kèn thắng trận đã nổi lên quá sớm ở Việt Nam qua những khẩu hiệu tuyên truyền như Việt Nam “chống dịch tốt nhất thế giới”, rằng các nước ấn tượng về “thành tích chống dịch của Việt Nam” và “thế giới phải học Việt Nam cách chống dịch”… chỉ mua vui được một thời gian.

Sau hơn một năm thì mọi chuyện đã thay đổi, nhiều nước đã chích ngừa miễn phí cho dân và gần như trở lại bình thường, trong khi Việt Nam vẫn loay hoay dập dịch. Do lãnh đạo CSVN quá tự tin vào các biện pháp khoanh vùng, cách ly, truy vết… rồi “ngạo nghễ” tự tin rằng mình sẽ chiến thắng được dịch qua cách chống dịch kiểu này, mà không có kế hoạch chích ngừa cho toàn dân, để bây giờ trở thành nước nằm trong nhóm có tỉ lệ chích ngừa thấp nhất thế giới (hiện chỉ có khoảng 0,5% dân được chích ngừa đủ hai liều).

Trong khi các nước chích ngừa miễn phí cho dân, thì Việt Nam “xã hội hóa vaccine”, kêu gọi người dân trong và ngoài nước góp tiền để mua thuốc chích ngừa. Đại dịch xảy ra khắp nơi trên thế giới, trong đó số ca nhiễm ở VN công bố thuộc nhóm thấp nhất so với hầu hết các nước. Nhiều nước bị dịch nặng nề, nhưng cũng đã giúp đỡ cho Việt Nam hơn một năm qua, chưa kể Việt Nam tăng trưởng cao, trong lúc thế giới gồng mình chống dịch.

Dịp Tết Nguyên đán vừa qua, tác giả Phương Hạ còn có bài viết đầy lạc quan: “Niềm tin và khát vọng“, qua câu kết như sau: “Trong bức tranh u ám kinh tế toàn cầu, tăng trưởng GDP 2,91% thật sự là kỳ tích, góp phần đưa Việt Nam vào nhóm 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới, là cơ sở để các tổ chức quốc tế lạc quan về triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2021 và những năm tiếp theo“.

Lạc quan về những “kỳ tích”, tự hào, “ngạo nghễ” qua chuyện chống dịch, qua triển vọng kinh tế sáng sủa… nhưng đến bây giờ, chính phủ CSVN vẫn tiếp tục kêu gọi thế giới hỗ trợ, kêu gọi người dân góp tiền mua vaccine!

Xin được giới thiệu bài viết của các tác giả: Song Chi, Hoàng Ngọc Diêu và Nguyễn Ngọc Như Quỳnh dưới đây, để quý bạn đọc hiểu thêm về cái gọi là nhà nước “của dân, do dân và vì dân” ở Việt Nam.

***

Song ChiDân mình thật… dễ chịu, khi đại dịch chưa bùng phát mạnh ở VN và các nước láng giềng mà chỉ hoành hành ở Mỹ và châu Âu, nhiều người Việt cứ nắc nỏm khen “chính phủ ta” chống dịch giỏi, rồi còn tự hào thật may mắn đang ở VN, nhìn sang Mỹ sang châu Âu kia chết như rạ v.v…

Nhưng cuối cùng thì đại dịch COVID-19 chả chừa quốc gia nào, và khi dịch nặng thì rõ ràng những cái tệ hại của một quốc gia độc tài, một chính phủ không biết nghĩ cho dân càng lộ ra rõ rành rành.

Trong khi các nước từ Mỹ cho tới châu Âu, Canada, Úc v.v… chính phủ đều có những chính sách hỗ trợ cho các thành phần bị thiệt hại vì đại dịch, từ người thu nhập thấp, người thất nghiệp, lao động tự do, doanh nghiệp nhỏ cho tới doanh nghiệp lớn; mọi người dân đều được chích vaccine miễn phí, ưu tiên những người hoạt động trong ngành y tế, người già, người có bệnh nền được chích trước, Thủ tướng, Tổng thống thì cũng phải chờ đến lượt; vậy mà dân ngày nào cũng kiếm cách chỉ trích chính phủ đủ thứ…

Còn ở VN, dân đóng bao nhiêu thứ thuế, nhưng lại không được hỗ trợ cái gì, khi thiên tai lũ lụt cho tới đại dịch, lúc nào nhà cầm quyền cũng kêu gọi người dân đóng góp, và dân thì cứ phải đứng ra tổ chức quyên góp giúp đỡ nhau, rồi bây giờ thì lại kêu gọi “xã hội hóa vaccine”, đóng tiền mua vaccine… Cái gì cũng đè cổ dân!

Mấy hôm nay lại thấy đổ hết tội lan truyền dịch cho cái Hội thánh gì đó, vậy chứ giữa khi đang có dịch vẫn cứ tổ chức trò hề bầu cử Quốc hội, vừa tốn kém bao nhiêu tiền của, vừa lây lan dịch thì sao? Cái số tiền “khủng” bỏ ra cho cái trò hề đó cũng mua được bao nhiêu liều vaccine đấy!

***

Hoàng Ngọc Diêu: Ở Úc, từ lúc bùng nổ đại dịch đầu 2020 đến nay, chưa hề thấy chính phủ Úc kêu gọi quyên góp hoặc giúp đỡ cái gì. Ngược lại, chính phủ Úc liên tục giúp đỡ người dân bằng mọi cách. Đến nay, thuốc chích ngừa cũng do chính phủ giàn xếp mọi thứ và người dân chỉ việc đi chích miễn phí.

Nhiều bạn nói, so sánh Úc với Việt Nam là khập khiễng nhưng xét về khía cạnh trách nhiệm của chính phủ Việt Nam (lúc nào cũng rêu rao đúng đắn tài tình) thì vẫn cần so sánh và quả là sự khác biệt một trời một vực. Hết kêu gọi cái này, đến xin xỏ cái kia, thậm chí còn đại ngôn kiểu “đề nghị chuyển giao công nghệ” này nọ. Nay thì lại đẻ ra cái chuyện kêu gọi dân góp tiền mua vaccine, rồi đề nghị doanh nghiệp tự lo chuyện vaccine, thậm chí đẻ ra chuyện “đấu giá vaccine”.

Lúc bình thường thì đẻ bao nhiêu là thuế, phí và lắm trò hút máu dân để tham nhũng, để xây tượng đài, để làm những thứ vô ích và phí phạm. Đụng chuyện thì viện cớ, đổ thừa, xin xỏ. Một chính phủ vừa bất tài, vừa bất lực, vừa to họng như vậy mà vẫn tiếp tục tồn tại thì quả là chuyện bi hài.

Vậy chớ ít bữa đâu vào đó, chắc chắn lại tiếp tục cái trò “ơn đảng”, “đúng đắn, tài tình”.

***

Nguyễn Ngọc Như Quỳnh: Sơ kết một số khoản hỗ trợ của quốc tế dành cho Việt Nam trong năm 2020 – 2021.

– Tháng 4/2020: Thông cáo của Đại sự quán Hoa Kỳ cho biết Mỹ hỗ trợ y tế gần 4,5 triệu USD giúp Việt Nam đối phó với dịch COVID-19.

– Tháng 4/2020: Đại diện tổ chức Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tại Việt Nam đã tiến hành lễ bàn giao 3 thiết bị y tế với tổng trị giá 50 triệu yen cho Bệnh viện Trung ương Huế nhằm hỗ trợ bệnh viện này phòng, chống dịch COVID-19.

– Tháng 5/2020: Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tiết lộ thêm con số 5 triệu đô la cho quỹ hỗ trợ kinh tế giúp Việt Nam trong đại dịch, Tổng hai lần hỗ trợ từ Hoa Kỳ ở thời điểm này là $9,5 triệu.

– Tháng 5/2020: Úc cam kết hỗ trợ Việt Nam 10,5 triệu đôla Úc cho nỗ lực ứng phó và phục hồi từ COVID-19.

– Tháng 7/2020: Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia Đông Nam Á sẽ nhận được sự giúp đỡ từ gói hỗ trợ hơn 800 triệu euro của EU.

– Tháng 9/2020: Nhật Bản sẽ viện trợ gần 500 tỷ đồng giúp Việt Nam phòng, chống dịch COVID-19. Thông tin này được công bố trong Lễ ký công hàm trao đổi giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Nhật Bản về khoản viện trợ không hoàn lại phòng, chống dịch COVID-19.

– Tháng 4/2021: Chính phủ Nhật Bản, Quỹ dân số Liên Hợp Quốc hỗ trợ Việt Nam 2,8 triệu USD cho nhóm dân số dễ bị tổn thương bởi Covid-19.

– Tháng 5/2021: Hàn Quốc hỗ trợ hệ thống máy đo thân nhiệt trị giá gần 1 triệu USD cho Việt Nam.

– Tháng 5/2021: Nhật Bản sẽ hỗ trợ Việt Nam 1,8 triệu đô để xây dựng hệ thống kho lạnh trong kế hoạch tiếp cận vaccine.

– Việt Nam tham gia chương trình COVAX của Tổ chức Y tế thế giới nên sẽ nhận được 1,7 triệu liều vaccine thông qua WHO.

Trên đây tôi chưa tính đến các khoản viện trợ thiết bị y tế, test kit từ Hàn Quốc và một số nước khác cho Việt Nam.

Cuối cùng thì chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam sau hơn 1 năm tuyên bố đã chế tạo thành công bộ xét nghiệm, đang nghiên cứu và sẽ đưa vaccine made in Vietnam vào sử dụng cuối quý 3/2021, rộn ràng ca ngợi “mặt trời Việt Nam đang tỏa sáng trong khi thế giới u ám”, giờ làm gì?

Chính phủ hô hào cùng nhân dân chống dịch, không để một ai lại phía sau, bây giờ không những không giải ngân ngân sách giúp dân vượt qua khó khăn trong đại dịch, mà còn mở tài khoản để các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, kiều bào xa quê góp tiền để mua vaccine.

Gói 62,000 tỷ hỗ trợ dân trong đại dịch từ tháng 4/2020 đến nay vẫn chưa giải ngân xong và cũng không có một lời giải trình, tổng kết gì.

P/s: Đây là chưa tính đến khoản hỗ trợ quốc tế cho người dân Việt Nam trong bão lũ tháng 10/2020 lên tới hơn 10 triệu đô nữa.

Không lẽ năm nào cũng vậy và không lẽ hết lần này đến lần khác, chính phủ không có kịch bản gì do dân và vì dân hay sao?

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Nguyên Ngọc / Hà Giang & Hoa Thuốc Phiện

                 

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Nguyên Ngọc / Hà Giang & Hoa Thuốc Phiện

05/06/2021

blank

Trước khi “tập kết ngược” (trở lại miền Nam) vào năm 1962, Nguyên Ngọc có thời gian lang thang ở cao nguyên Đồng Văn – Mèo Vạc. “Mùa Hoa Thuốc Phiện Cuối Cùng” là chuyện viết về người thật việc thật, nơi vùng giới tuyến (Việt/Hoa) này.

“Đây cũng là một truyện ngắn hay của ông. Cô gái Mèo Vàng Thị Mỹ ở với bố trên những đỉnh núi cao quanh năm mây phủ. Ở đó nếu có khách tới nhà thì chỉ là thú rừng thôi. Cô bé thấy thèm người. Rồi ông bố cho cô đến với người.

 Đó là một phiên chợ. Cơ man nào là người. Ông bố bán thuốc phiện, một thứ vàng đen, mong giúp con gái đổi đời. Nhưng bị trả quá rẻ, ông không bán. Thế rồi dọc đường trở về, bố con ông bị bọn người đó chặn lại. Chúng cướp không số thuốc phiện rồi bắn chết ông. 

Cô bé may mà thoát chết. Rồi cô được một bà goá đem về nuôi. Năm 13 tuổi, cô bị gả chồng. Chồng cô là thằng bé mới 7 tuổi, con lão chúa đất. Ngày về nhà chồng, cô khóc nhiều lắm. Khóc vì không được cô độc sống giữa các vách núi. Cô lại phải đến với người.

 Ở nhà chồng, cô bỗng nhận ra bố chồng là một tên dã thú đã giết bố cô. Thế là cô bỏ trốn. Bây giờ thì cô sợ phải gặp người. Cứ thấy làng, thấy người là cô tránh. Cô đi lang thang rồi lạc vào rừng. Hoang mang và đói lả, cô ngồi thụp xuống bên hang đá, thiếp đi. Rồi cô chợt bừng tỉnh khi thấy trong hang lại có tiếng người. 

Thế là cô bé lại vùng dậy chạy. Nhưng không còn sức chạy nữa. Cô lại phải gặp người. Không phải người thú mà người cách mạng. Chính người cách mạng đó đã cứu cô. Rồi cô gặp Đảng. Đảng chỉ cho cô đường đi, nước bước. Đảng bảo phải bỏ cây thuốc phiện. Nó chính là nguồn gốc mọi nỗi đau khổ của người Mèo. Phải phá bỏ cây thuốc phiện trồng ngô sắn. Rồi Nguyên Ngọc còn để cô Vàng Thị Mỹ nói với đồng bào Mèo nguyên văn như thế này: ‘Ngày xưa, người đối với người coi nhau như thú dữ, bây giờ có Đảng, có chính phủ, có Cụ Hồ, người với người mới tin nhau, giúp nhau như thể anh em một nhà vậy. Đó là bản chất của Chủ nghĩa xã hội đấy, bà con ạ…”  (Trần Đăng Khoa. Chân Dung Và Đối Thoại. NXB Thanh Niên: 1998).

Với thời gian, cái “bản chất của Chủ Nghĩa Xã Hội đấy” – mỗi lúc – được “bà con”  nhận thức rõ ràng hơn. Năm 1991, Nguyên Ngọc có dịp quay lại Hà Giang. Vẫn cảnh cũ, người xưa nhưng nỗi lạc quan của nhà văn thì đã hoàn toàn tan biến: 

Phiên chợ Mèo Vạc nghèo và buồn. Phải nói thật điều này thôi: không bằng 30 năm trước. Không còn những chõ xôi vàng rực, chỉ nhìn đủ thèm. Không còn những gói hoàng tinh (mà ở đây người ta gọi là voòng chính) mỡ màng chất đầy các củi tấu. Không còn những chú lợn béo ụ được dòng dây vào cổ, người bán người mua thách và mặc cả ầm ĩ… không còn thấy cảnh các đôi trai gái say mèm, người con trai cầm khèn vừa nhảy lò cò vừa thổi, người con gái cầm ô xanh đỏ hát dìu dặt Tu tè chí dù mưng, rồi dìu nhau vào các hốc đá tiếp tục cuộc tình đắm đuối cho đến tối mịt… Mới trưa chợ đã vãn. Không gì bộc lộ rõ rệt đời sống của người dân bằng cái chợ… (Nguyên Ngọc. “Trở Lại Mèo Vạc”).

blank

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cũng “buông một tiếng thở dài” tương tự khi bước chân đến cái cao nguyên đá dựng này: “Người ta nói, đi qua một khu chợ sẽ biết đời sống của cư dân ở đó. Mình tin điều đó. Và nhìn món hàng bày trước mặt những người phụ nữ vùng cao, mình hình dung được nồi cơm, căn bếp, cuộc đời…”

Những sản phẩm mà Nguyễn Ngọc Tư “nhìn” được ở chợ Hà Giang hồi mười năm trước (“nụm nịu một hai nải chuối, co ro vài ba bó củi”) hay hình ảnh những em bé H’Mong đang ngồi vật vạ (bên mấy mớ rau rừng) ngày nay giúp cho kẻ ở miền xuôi “hình dung được nồi cơm, căn bếp, cuộc đời…” của đồng bào nơi mạn ngược.

Vấn đề của họ cũng không chỉ giới hạn vào “nồi cơm” hay “căn bếp.” Những cuộc nổi dậy liên tiếp (vào những năm 2001, 2004, và 2011) cho thấy sự bất ổn và khủng hoảng trầm trọng trong cuộc sống của người dân bản địa tại Việt Nam, ở rất nhiều nơi. 

Phóng viên  Thanh Trúc (RFA) tường thuật: “Từ một thập niên trở lại đây, vì thường xuyên bị sách nhiễu và gây khó dễ trong cuộc sống, nhiều người H’mong, phần lớn đi đạo Tin Lành và thường tụ họp để thờ phượng Chúa như họ kể, từ Điện Biên, Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang… vượt biên giới sang Lào rồi tìm đường sang Thái Lan xin tị nạn.”

Kể từ “Mùa Hoa Thuốc Phiện Cuối Cùng”, cho đến khi xẩy ra cuộc Chiến Tranh Biên Giới Việt – Trung (Sino -Vietnamese War) nhà đương cuộc Hà Nội – dường như – không hề có bất cứ một dự án hay hành động thiết thực nào để để giúp đỡ người H’Mong cả. 

Hệ quả, hay hậu quả, nhãn tiền: “Khi bọn bành trướng Bắc Kinh tràn sang hồi năm 1979, một bộ phận không nhỏ dân tộc thiểu số, sống ở vùng biên giới, đã đồng loạt ngả theo, làm tay sai cho ngoại bang. Đó chính là hậu quả của chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc.” (Lý Hồng Xuân. Nhận Diện Chân Dung Nhà Văn. NXB Văn Nghệ: California 2000).

Thêm gần nửa thế kỷ đã qua, và những “chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” – xem chừng – mỗi lúc một thêm tệ hại. Người H’Mong vẫn bị bỏ mặc cho chính quyền địa phương áp bức hay dầy xéo. Công luận đã từng biết đến tên tuổi những quan chức “khét tiếng” ở Hà Giang (Sầm Đức Xương, Nguyễn Trường Tô, Triệu Tài Vinh, Vũ Trọng Lương) và vô số tệ trạng nơi đây. 

“Thật sự chưa có con đường ra cho cái cao nguyên đá kỳ dị này” là nguyên văn lời của Nguyên Ngọc, cùng nỗi “ấm ức” của ông:.

Ba mươi năm trước, người H’mông chuyên trồng loại cây đắt giá nhất, kỳ ảo nhất, say đắm nhất trên đời này: cây thuốc phiện.

Bây giờ thuốc phiện bị cấm rồi. Thay bằng cây ngô. Trồng ngô ở đây, thì chết đói.

Trồng thuốc phiện – thì hư hỏng. Hư hỏng cả xã hội.

Làm sao?

Cuộc nổi phỉ và cuộc tiễu phỉ ác liệt năm 1959, với tất cả sự đan chen vô cùng phức tạp của các mưu đồ chính trị lớn và nhỏ, trong nước ngoài nước… đều dính líu chằng chịt đến chuyện trồng cái cây gì trên bụm đất nhỏ xíu còn sót lại giữa các hốc đá nham nhở nơi này.

 Trồng cây gì?

Câu hỏi chừng đơn giản vậy mà đẫm máu, mà chi phối khắc nghiệt số phận hàng vạn con người, từng số phận con người, từng chặng đường số phận mỗi con người…

Tôi liều mạng bục ra một câu hỏi kỳ thực vẫn ấm ức từ lâu:  Hay trở lại cây thuốc phiện?

“Trở lại” e đã muộn. Bây giờ thì chất gây nghiện có thể chế tạo bằng nhiều thứ hoá chất chứ không nhất thiết phải cần đến nhựa của hoa Anh Túc nữa. Và “xã hội thì hư hỏng” hết rồi. Ma túy đã được vận chuyển (theo đơn vị tấn) đi khắp mọi nơi: 

Cái ảo vọng của Tố Hữu về tình hữu nghị (bên ni biên giới là mình/bên kia biên giới cũng tình quê hương) cũng đã tan vỡ từ lâu. Sớm muộn gì thì “bọn bành trướng Bắc Kinh” cũng sẽ “tràn sang” lần nữa thôi, trong khi “những chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” thì vẫn cứ tiếp tục xô đẩy người dân về phía kẻ thù! 

Chả phải vô cớ mà tiếng nói của Nguyên Ngọc bỗng trở nên tiếng cú: “Chế độ này thế nào cũng sụp đổ. Nhưng không biết nó sẽ sụp đổ theo kịch bản nào?” Kịch bản nào cũng được vì ngày nào mà cái chính thể hiện hành còn tồn tại thì cả nước Việt sẽ không có lối ra, chứ chả riêng chi vùng cao nguyên Đồng Văn – Mèo Vạc.

Đại dịch, bản năng đổ lỗi, và những cuộc săn dê tế thần

Đại dịch, bản năng đổ lỗi, và những cuộc săn dê tế thần

Khi chọn được vật tế thần, ta yên chí rằng chỉ cần loại nó đi, tất cả sẽ sạch tội.

  04/06/2021

By  HIỀN MINH

Ảnh gốc: Thanh Niên. Đồ họa: Luật Khoa.

Ảnh gốc: Thanh Niên. Đồ họa: Luật Khoa.

 Bên dưới bức thư xin lỗi đăng trên trang Facebook Muối và Ánh sáng của Hội thánh Truyền giáo Phục Hưng ngày 30/5/2021 là hàng loạt các bình luận chửi bới, mỉa mai, công kích.[1]

“Tắt văn dùm, vì sự vô ý thức, thái độ thiếu trung thực của các ông các bà mà ảnh hưởng đến bao người. Thay vì cảm ơn chúa thì hãy cảm ơn các y bác sĩ ấy.”

“Nếu ngay từ đầu hợp tác và khai báo trung thực thì hậu quả đâu đến mức này? Giờ viết thư xin lỗi để làm gì trong khi biết bao nhiêu con người ngoài kia đang phải chịu ảnh hưởng và gồng mình chống dịch […]”

“Thay vì viết cái lá thư sáo rỗng này thì ông bà nên thành thật khai báo đã tiếp xúc những ai để cho chính quyền còn biết mà khoanh vùng dịch cho đúng. Khỏi bệnh rồi thì bán hết tài sản để nộp cho quỹ phòng chống dịch bệnh đi, nguy hại mà gia đình ông bà gây ra cả mấy triệu dân ở thành phố này đang phải gánh chịu đấy. Đừng có nói mồm hay viết tay suông.”

“Tụ tập đông người trong phòng kín, không đeo khẩu trang (mặc dù đang có dịch và có quy định phải đeo khẩu trang nơi công cộng và chỗ đông người) thì lỗi của ai đây? Thiệt hại của hàng triệu con người cả thành phố do hậu quả của việc này thì ai chịu trách nhiệm đây?”

Giữa đợt bùng phát dịch lần thứ tư tại Việt Nam, tất cả sự chú ý dường như đang dồn vào một cái tên: Hội thánh Truyền giáo Phục Hưng. Từ ba ca nhiễm được phát hiện vào hôm 26/5, họ bị quy kết trách nhiệm cho hàng ngàn ca nhiễm mới trong thành phố. Truyền thông đưa tin dồn dập về họ. [2] Các phản ứng chính sách diễn ra liên tiếp chỉ trong vài ngày: khởi tố vụ án (30/5), đề nghị đình chỉ hoạt động và rút giấy phép hoạt động tôn giáo (1/6). [3] [4] Ban Tôn giáo còn lên tiếng cả về cách họ gọi tên tổ chức mình (không phải hội thánh!), cách họ gọi tên chức sắc tôn giáo của mình (không phải mục sư!). [5]

Các bài viết về chuyện xử lý vụ việc này thu hút hàng loạt bình luận cho rằng nhà nước thật “anh minh”, và việc quản lý các điểm nhóm tôn giáo phải được siết chặt hơn nữa.

Cảnh phong tỏa ở khu vực nơi tín đồ của Hội thánh Truyền giáo Phục Hưng sinh hoạt. Ảnh: Kênh 14.

Cảnh phong tỏa ở khu vực nơi tín đồ của Hội thánh Truyền giáo Phục Hưng sinh hoạt. Ảnh: Kênh 14.

Những dữ kiện bị phớt lờ

Có một vài dữ kiện mà những người đang nhiệt tình kết án nhóm sinh hoạt chỉ có hơn 50 thành viên kia bỏ qua.

Thứ nhất, không có bằng chứng cho thấy nhóm sinh hoạt này giấu thông tin hay vi phạm các quy định phòng chống dịch. Các thông tin trên báo chí về chuyện đeo khẩu trang hay không, tập trung bao nhiêu người đều rời rạc và thiếu căn cứ. Người quản nhiệm hội thánh khẳng định rằng họ đã tuân thủ các quy định và không giấu thông tin. [6] Cho dù viết thư xin lỗi và mong được lượng thứ, họ không hề thừa nhận làm lây lan dịch bệnh. Vụ án mới chỉ bắt đầu được điều tra, chưa đưa ra kết luận gì.

Thứ hai, chưa rõ nguồn lây nhiễm và thời điểm lây nhiễm của những ca bệnh thuộc hội thánh này. Những dấu hiệu đầu tiên của đợt lây nhiễm mới nhất đã xuất hiện từ tháng Tư, nhưng các hoạt động vẫn diễn ra bình thường. Người dân cả nước vẫn nghỉ lễ và du lịch khắp nơi trong kỳ nghỉ 30/4 và 1/5. Đến ngày bầu cử 23/5, khi dịch đã bùng phát mạnh ở các tỉnh phía Bắc, nhà nước truyền đi thông điệp quyết tâm tổ chức thành công kỳ bầu cử trong mọi tình huống của dịch. [7] Ngay cả tâm dịch Bắc Ninh và Bắc Giang cũng hô hào quyết tâm. [8] Các cán bộ mang luôn cả thùng phiếu vào trong bệnh viện, tới tận giường của những bệnh nhân nằm liệt tại chỗ để họ bỏ phiếu. [9]

Nếu như mầm bệnh đã có trong cộng đồng từ lâu, chỉ với hai sự kiện nói trên, việc truy nguyên là gần như bất khả. Các ca nhiễm từ hội thánh hoàn toàn có thể là lây chéo từ những chuyến du lịch trong kỳ nghỉ lễ, hay những điểm bầu cử mà họ tham gia trước đó. Việc gán nguyên nhân của chuỗi lây nhiễm mới với các sinh hoạt tôn giáo của hội thánh này, cho đến nay, là vô căn cứ.

Thứ ba, có sự phân biệt đối xử đối với Hội thánh Truyền giáo Phục Hưng. Khi dịch bùng phát ở các khu công nghiệp tại Bắc Giang, Bắc Ninh, không cá nhân nào bị đem ra chỉ trích. Khi có ca nhiễm từ tổ bầu cử ở Goldmark City, Hà Nội, chẳng ai chất vấn ai đã vi phạm quy định. [10] Thế nhưng, khi một nhóm sinh hoạt tôn giáo tiếp tục hoạt động và có ca nhiễm, vụ việc lại bị khởi tố.

Ngày 21/5/2021, Bộ Y tế ra một công văn yêu cầu không cung cấp cho báo chí danh tính, lịch trình di chuyển và quá trình tiếp xúc của bệnh nhân, nhằm tránh xâm phạm đời tư của người bệnh.11 [11] Quy định này sau đó được báo chí tuân thủ, nhưng đến trường hợp của Hội thánh Truyền giáo Phục Hưng thì lại như chưa từng tồn tại.

Các tờ báo chạy đua với nhau đăng thông tin cá nhân, [12] lịch trình di chuyển của những ca nhiễm là thành viên của nhóm. [13] Giữa hàng trăm ca nhiễm mới được đánh số, bỗng dưng lại có vài nhân vật có danh tính, tôn giáo, địa chỉ rõ ràng. Không khó hiểu tại sao tất cả sự căm ghét dồn về phía họ.

Từ việc quy kết mọi lỗi lầm cho một tổ chức tôn giáo, người ta bắt đầu chất vấn cả loại hình tổ chức của họ. Kết quả là khi sự việc chưa ngã ngũ, hội thánh đã bị dọa rút giấy phép hoạt động. Các điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo tương tự thì bị đưa vào đối tượng nguy cơ cao cần xét nghiệm đầu tiên. [14] Những lời yêu cầu nhà nước tăng cường quản lý điểm nhóm tôn giáo xuất hiện ở nhiều diễn đàn, bất chấp một thực tế rằng chính sách quản lý tôn giáo ở Việt Nam đã luôn khắt khe đến mức báo động trên thế giới. [15]

Người dân đi bầu ở quận Gò Vấp, TP. HCM ngày 23/5/2021. Ảnh: hcmcpv.org.vn.

Người dân đi bầu ở quận Gò Vấp, TP. HCM ngày 23/5/2021. Ảnh: hcmcpv.org.vn.

“Ai chịu trách nhiệm đây?” (Không phải tôi)

Con người không được tạo hóa thiết kế để thấy dễ chịu trong những tình huống rủi ro và bất định. Khi có chuyện gì xấu xảy ra, bản năng đổ lỗi (blame instinct) sẽ được kích hoạt để tìm ra một nguyên do đơn giản, rõ ràng cho nó. Như một cơ chế tự vệ, bản năng này có nhiệm vụ tìm ra ai đó chịu trách nhiệm cho việc này, nếu không thì thế giới sẽ thật khó đoán, rối bời, đáng sợ. [16]

Đại dịch COVID-19, đặc biệt là đợt lây nhiễm mới nhất với những biến chủng nguy hiểm và khó lường, rõ ràng đã đặt chúng ta vào một tình thế bấp bênh chưa từng có.

Mark Schaller, giáo sư tâm lý tại Đại học British Columbia, tác giả cuốn “Social Psychology of Prejudice” cho rằng mối liên quan giữa đại dịch và việc đổ lỗi có nguồn gốc tiến hóa. [17] Phản ứng đó là một phần của khái niệm mà ông gọi là hệ miễn dịch tâm lý hành vi (behavioral immune system), tương tự như hệ miễn dịch của cơ thể. Ta đẩy lỗi cho ai đó khác để bản thân có thể yên tâm rằng mình vô can. Và để khiến cho sự đùn đẩy của mình có lý lẽ, chúng ta tự động gán cho đối tượng những đặc tính tiêu cực.

Cơ chế này dường như khớp với cách mà chúng ta đang đòi Hội thánh Truyền giáo Phục Hưng chịu trách nhiệm cho đợt lây lan dịch tại thành phố Hồ Chí Minh, trong khi mọi thứ còn đang là dấu hỏi. Từ vài lời kể rời rạc, chúng ta vội vàng quy kết rằng họ làm sai quy định, họ giấu giếm không hợp tác. Suy nghĩ đó dựa trên một niềm tin rằng nếu tuân thủ quy định thì hẳn là đã không sao rồi.

Niềm tin đó rõ ràng là mong manh, chỉ cần xét riêng một chuyện là hàng chục triệu người dân cả nước vẫn đi du lịch khắp nơi và đi bầu khi dịch đã bắt đầu bùng phát. Thực tế cho thấy, các diễn biến xảy ra bất ngờ, và tất cả mọi người, bao gồm cả các đơn vị chuyên trách, đều đang ở thế căng mình để chống chọi. Phần lớn có lẽ đều đang ở trong trạng thái như người quản nhiệm Hội thánh Truyền giáo Phục Hưng chia sẻ khi biết chuyện: “Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra”. [18] Nhưng thừa nhận sự bất lực này lại không phải thói quen của bản năng đổ lỗi. Bằng cách chỉ ngay ngón tay vào người đã dám “không biết”, dư luận khước từ gánh nặng của việc phải chấp nhận một sự thật khó nhằn.

Lựa dê tế thần

Nếu đổ lỗi là một bản năng tự vệ của từng cá nhân, thì việc lựa chọn ai làm người gánh chịu tội lỗi lại phản ánh những định kiến, niềm tin, lý tưởng của cộng đồng. Hành vi này gọi là “scapegoating”.

“Scapegoat” trong tiếng Anh được ghép từ “escape” – chạy thoát và “goat” – con dê. Từ này có nguồn gốc từ Kinh thánh, mô tả một nghi thức đền tội của người Do Thái với Thiên Chúa của họ, trong đó có hai con dê được chọn. [19] Một con bị giết để dâng lên làm vật đền tội, con còn lại thì gánh tất cả tội lỗi của một cộng đồng và sau khi cầu nguyện thì được thả vào trong hoang mạc. Bằng cách đó, tất cả được sạch tội.

Dê tế thần. Ảnh: cruciformcoc.com.

Dê tế thần. Ảnh: cruciformcoc.com.

Các nhà tâm lý học xã hội mượn từ này để xác lập lý thuyết vật tế thần (scapegoat theory). Theo Peter Glick, giáo sư Đại học Lawrence, khái niệm này mô tả một hình thái định kiến cực đoan, trong đó một nhóm ngoại lai bị đổ lỗi cố tình gây ra tai ương cho một nhóm nội bộ. [20]

Các phong trào tế thần (scapegoat movement) trong một cộng đồng thường diễn ra khi họ phải đối mặt với những tình huống phức tạp, trong đó, chướng ngại vật để vượt qua là không rõ ràng. Các cuộc săn linh vật tế thần thu hút nhiều người tham gia là do nó có thể đưa ra một câu trả lời đơn giản hơn. Trong cuộc săn tìm đó, người ta thường đưa ra các lựa chọn phi lý trí, do nỗi sợ và tâm lý vội vàng ảnh hưởng đến năng lực nhận thức, và do thiếu thông tin.

Trong chương 15 của cuốn sách “On the Nature of Prejudice: Fifty Years after Allport”, Peter Glick tổng hợp các lý do giải thích cho lựa chọn vật tế thần trong các lý thuyết tâm lý xã hội đương đại. [21] Theo đó, vật tế thần thường là một nhóm thiểu số với các tiêu chí: (1) quyền lực không quá mạnh để có thể phản kháng, nhưng cũng không quá yếu (vì yếu quá thì không thể gây ra tai ương), (2) khớp với những định kiến có sẵn trước đó trong cộng đồng và (3) tiện lợi.

Thử dùng lý thuyết này để xem xét vụ việc Hội thánh Truyền giáo Phục Hưng bị chỉ trích, ta thấy nhóm này thỏa các điều kiện đã nêu của một “vật tế thần”. Họ là một nhóm tôn giáo thiểu số, không có tổ chức mạnh nhưng đã được công nhận hoạt động điểm nhóm, thuộc tầng lớp trung lưu (không quá mạnh, không quá yếu). Hoạt động của các nhóm sinh hoạt tôn giáo tự phát từ lâu đã nhận nhiều định kiến từ phía dư luận, bị nhà nước xem là “tà đạo” (định kiến). Thông tin về họ được công bố theo cách vừa đủ để dư luận suy đoán và đánh giá (tiện lợi).

So sánh với các nguồn lây nhiễm khả thi khác, như một tổ chức tôn giáo lớn hơn, những nhóm công nhân yếu thế, hay các hội đồng bầu cử, ta thấy việc đổ lỗi cho hội thánh nhỏ này “tiện lợi” hơn nhiều.

Hội thánh Truyền giáo Phục Hưng có phải là vật tế thần hay không chỉ là một giả thuyết. Vẫn tồn tại khả năng họ thực sự đã cố tình làm sai, xem nhẹ an toàn của cộng đồng. Nhưng việc các nhóm tôn giáo thiểu số trở thành mục tiêu đổ lỗi trong đại dịch COVID-19 thì không phải là chuyện lạ trên thế giới, và còn có tính lịch sử. [22]

Các nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Phát triển (Institute of Development Studies – Anh) đã tư liệu hóa sự phân biệt đối xử và đổ lỗi mang tính hệ thống với người Hồi giáo ở Ấn Độ, người Yazidis, Kaka’i và các nhóm theo đạo Cơ Đốc ở Iraq, và người Khmer theo đạo Hồi ở Campuchia. [23] Những cộng đồng này thường bị cáo buộc làm lây lan dịch bệnh. Họ trở thành nạn nhân của các chiến dịch thù ghét trên mạng xã hội, với sự tham gia của cả các chính khách và giới báo chí. Đáng chú ý, họ đều đã là nạn nhân của định kiến phổ biến từ trước đó, khớp với lý thuyết được giáo sư Peter Glick nêu phía trên.

Đơn cử, vào tháng 3/2020, khi một nhóm người Hồi giáo trở về Campuchia sau khi tham gia một sự kiện ở Malaysia, họ được phát hiện dương tính với COVID-19. Thông tin về tôn giáo của những người này được chính bộ trưởng y tế Campuchia tiết lộ trên Facebook cá nhân, trong khi Bộ Y tế yêu cầu truyền thông cẩn trọng khi công bố thông tin người bệnh. Chi tiết về tôn giáo lập tức tạo nên một làn sóng thù ghét và đổ lỗi nhắm vào người Khmer theo đạo Hồi, vốn đã là nhóm yếu thế so với những người Khmer theo đạo Phật ở Campuchia. [24]

“Họ nên bị nhốt trong nhà”, một người dùng Facebook viết.

“Tại sao mấy người có thể ngu ngốc và vô tâm đến mức mang lại phiền toái cho biết bao người khác”, một người khác bình luận.

Các bình luận dạng này cũng xuất hiện nhiều trong phong trào đổ lỗi cho người Hồi giáo ở Ấn Độ, cùng thời điểm tháng 3/2020. [25] Khi một số nhà truyền giáo Ấn Độ được phát hiện nhiễm virus SARS-coV-2 sau một sự kiện quốc tế tổ chức tại Delhi, bộ trưởng phụ trách các vấn đề của cộng đồng thiểu số đã công khai gọi những người tổ chức sự kiện này là “tội phạm Taliban”. Những làn sóng chỉ trích, lăng mạ đi kèm với thông tin sai lệch lan rộng với phạm vi khoảng 170 triệu tài khoản Twitter.

“Đại dịch đã cho thấy người Hồi giáo Ấn Độ là những kẻ phản bội và không trung thành với tổ quốc.”

“Ấn Độ cần được tự do khỏi Corona và Jihad (từ ám chỉ những người Hồi giáo với nghĩa tiêu cực) vì cả hai đều là những vũ khí chết người.”

Khi đã chọn được con dê tế thần, người ta được trấn an với ảo giác rằng chỉ cần loại nó ra khỏi cộng đồng thì mọi chuyện sẽ được giải quyết.

Cơn say đổ tội thường sẽ khiến chúng ta ngừng tìm hiểu các nguyên nhân khác, cũng như giải pháp để ngăn chặn các vấn đề tương tự xảy ra trong tương lai. Đối tượng được chọn làm vật tế thần thì chẳng biết mình có tội gì, nhưng vừa phải chịu đau đớn thể xác vì nhiễm bệnh, lại vừa phải chịu hành hạ về tinh thần trước những lời nhẫn tâm không ngừng trút xuống lúc này, mà chắc chắn để lại hậu quả kỳ thị dài lâu.

Hơn ai hết, chúng ta hiểu rằng đại dịch không thể được giải quyết bằng những cách hành xử phi lý trí đó.

From: Luật Khoa

Gắp lửa bỏ tay người

Gắp lửa bỏ tay người

Bởi  AdminTD

Đỗ Ngà

3-6-2021

Ngày 27/5, báo Zing có post phóng sự ngắn có tựa đề “Số ca nhiễm liên quan Hội thánh truyền giáo Phục Hưng sẽ tăng”. Trong phóng sự đó BS. TS Nguyễn Trung Hoàng – giám đốc Trung Tâm Y tế Quận Gò Vấp cho biết “Những người trong gia đình của ông bệnh nhân này ngày bầu cử có đi bầu cử”.

Ngày 3/6 báo Vnexpress có bài viết “Gần 300.000 người TP HCM liên quan ổ dịch hội truyền giáo”, trong bài này người ta thống kê trong nửa tháng qua, cả TP. HCM 275 ca nhưng những ca liên quan đến Hội Truyền Giáo Phục Hưng là 248 ca.

Ngày 28/5, trên báo Vnexpress có bài viết “Thêm hai ca nghi nhiễm, hình thành chuỗi lây mới ở TP HCM” có cho biết Hai vợ chồng trú tại chung cư Sen Xanh, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú bị mắc Covid -19, và hai vợ chồng này “không đi bầu cử”. Và cho đến nay, không thấy báo chí nói gì về những bệnh nhân nào nữa lây từ 2 bệnh nhân này.

Đều là người nhiễm Covid-19 nhưng người đi bầu cử lại làm Covid bùng phát còn người không đi bầu thì không bùng. Đây là những thông tin tôi lấy từ báo chí CS. Với bạn đọc công tâm, hãy xem nguyên nhân nào gây nên tình trạng dịch bùng phát? Phải chỉ đích danh nó là do bầu cử.

Cuộc bầu cử giả hiệu ngày 23/5 vừa qua được ví như là một kho xăng, còn mỗi bệnh nhân nhiễm Covid – 19 là một đốm lửa. Nếu chính quyền CS không lấy đóm lửa đó quẳng vào kho xăng thì làm sao xăng bùng cháy giữ dội như hôm nay? Dù cho chính quyền này đang biến Hội Truyền Giáo Phục Hưng thành bao cát để xã hội trút giận thì bản chất vấn đề vẫn không thay đổi. Sự thật vẫn là do ĐCS đã ép mồi lửa phải châm vào xăng cho ngọn lửa dịch bùng phát chứ không ai khác.

Việc cho báo chí đồng loạt tố Hội Truyền Giáo Phục Hưng là hành động gắp lửa bỏ tay người – một thủ đoạn đáng tởm của cái đảng này. Nó đã làm điều đó từ 76 năm qua và bây giờ vẫn tiếp tục. Người dân Việt Nam đang phải sống dưới sự cai trị của cái đảng khốn nạn như vậy, thật là bất hạnh.

_____

Tham khảo:

https://zingnews.vn/video-so-ca-nhiem-lien-quan-hoi-thanh-truyen-giao-phuc-hung-se-tang-post1220184.html

https://vnexpress.net/them-hai-ca-nghi-nhiem-hinh-thanh-chuoi-lay-moi-o-tp-hcm-4284855.html

https://vnexpress.net/gan-300-000-nguoi-tp-hcm-lien-quan-o-dich-hoi-truyen-giao-4288382.html

Ước mơ sở hữu ô tô giá rẻ ở Việt Nam có hiện thực hay không?

Một chiếc Camry XLE 2.5 2019 có giá lăn bánh tại Mỹ là 28925 USD (670 triệu) nhưng để lăn bánh ở Việt Nam sẽ có những loại thuế và phí sau:

+ Thuế nhập khẩu 70% giá xe là: 1tỷ 140 triệu

+ Tiếp theo là thuế tiêu thụ đặc biệt áp lên dung tích 2500cc là 50% giá xe Camry XLE 2.5 2019 lên: 1tỷ 710 triệu

+ Sau đó là thuế giá trị gia tăng (VAT) là 10% giá xe: 1tỷ 881 triệu

+ Để chiếc xe lăn bánh ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh bạn mất thêm 12% phí trước bạ giá xe ~2tỷ 100 triệu

+ Phí cấp biển số ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh là 20 triệu giá xe: 2tỷ 120 triệu

+ Và sau khi trải qua 15 loại thuế và phí giá xe Camry XLE 2.5 2019 là ~2tỷ 200 triệu cho 1 con xe có giá gốc 670 triệu!

Mọi người đã thấy tại sao lại có những loại phí và thuế chồng lên nhau, như vậy ước mơ sở hữu ô tô giá rẻ ở Việt Nam có hiện thực hay không?

May be an image of text

 Truyền- Đơn Người

 Truyền- Đơn Người

Lê Xuân Cảnh

Nhân Memorial Day là ngày nước Mỹ tưởng-niệm các chiến-sĩ đã chết khi phục-vụ cho đất nước Hoa-kỳ, chúng ta không quên tưởng-niệm gần ba trăm ngàn thuyền-nhân Việtnam đã bỏ xác ngoài biển Đông khi phục-vụ cho đất nước Hoa-kỳ.

Sẽ có người đặt câu hỏi:

Thuyền-nhân Việt tử-nạn trên đường vượt-biên thì có dính dáng gì đến việc phục-vụ cho đất nước Hoa-kỳ?

Dưới đây là câu trả lời rất chủ-quan của chúng tôi:

Thuyền-nhân Việt tử-nạn trên đường vượt-biên đã phục-vụ cho quốc-gia lãnh-đạo thế-giới tự-do là Hoa-kỳ trong việc chống lại sự bành-trướng của chủ-nghĩa Cộng-sản trên toàn-cầu.

“Những cái chết tức-tưởi của thuyền-nhân Việt trên đường trốn chạy Cộng-sản là thông-điệp mạnh-mẽ nhất được gửi đi khắp nơi để cho loài người trên trái đất này nhìn thấy Cộng-sản là gì mà anh em cùng một dòng máu, anh em cùng một màu da, anh em cùng một ngôn-ngữ, anh em cùng một quê-hương, anh em cùng một lòng yêu quí sự thống-nhất đất nước và độc-lập xứ sở của dân-tộc mình đã không sống với nhau được, đã phải bỏ nước ra đi bằng mọi giá, chỉ vì người anh em bên kia của mình là người Cộng-sản không giống ai. Ít nhất là trong hơn một thập-niên sau biến-cố 30 tháng Tư năm 1975.”

“Giữa anh em trong một nước với nhau mà còn không sống với nhau được, vậy thì ngụy-thuyết Cộng-sản với chủ-trương sống đại-đồng giữa các quốc-gia là một điều khôi-hài, hoang-tưởng.”

LXC

Truyền-đơn giấy chỉ có tác-dụng nhỏ, rất hạn-chế trong khu-vực được rải xuống hoặc được chuyền tay nhau, rất giới-hạn.

Truyền-đơn người, với qui- mô rộng lớn hơn, nhất là với sự tiếp tay rất tích-cực của những hãng truyền-thông lớn trên thế-giới ra rả quảng-bá liên-tục cả thập-niên từ 1975, đã lan rộng và gây ảnh-hưởng rất lớn, nếu không nói là lớn nhất trong công việc chống Cộng-sản toàn-cầu.

Hình-ảnh những chiếc ghe đánh cá nhỏ bé như chiếc lá chòng-chành chất chồng cả trăm người nhét chật hơn cá hộp chịu đựng bão tố khắc-nghiệt trên đại-dương mênh mông, tin-tức về những người vượt-biên được kể lại qua các cuộc phỏng-vấn thuyền-nhân người Việt còn sống sót của Cao-ủy Tị-nạn Liên-hiệp-quốc nói về việc người gần chết rình chia nhau ăn thịt người sắp chết, về việc hải-tặc cướp bóc hãm-hiếp thuyền-nhân, rõ ràng là những truyền-đơn người này có tác-dụng mạnh mẽ cho thấy Việt-nam là một bằng-chứng hùng-hồn nhất về sự thất-bại về lâu về dài của chủ-thuyết Cộng-sản, dù cho họ có chiến-thắng về mặt quân-sự.

Những cái chết của gần ba trăm ngàn người Việt liều mạng trốn chạy Cộng-sản kia đã ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm, thập-niên qua thập-niên, gây nhức nhối con tim loài người, đánh động lương-tri nhân-loại, trong số đó có lương-tri của một người Cộng-sản thức-thời, Tổng-bí-thư Mikhail Gorbachev của Nga, người đã bắt tay Tổng-thống Ronald Reagan của Mỹ, và cả hai phối-hợp nhịp nhàng với Pope John Paul ll của Vatican đã cùng nhau dựt sập bức tường ô-nhục Berlin và dẫn đến sự sụp-đổ hoàn-toàn của toàn-bộ khối Cộng-sản Đông-âu.

Gần ba trăm ngàn xác chết của thuyền-nhân Việt bị tử-nạn trên đường trốn chạy Cộng-sản này là những TRUYỀN-ĐƠN NGƯỜI đã cảnh-tỉnh và giúp những người còn mơ ngủ hiểu rõ Cộng-sản là gì, từ đó giúp chống lại chủ-nghĩa Cộng-sản một cách hữu-hiệu nhất.

TỰ-PHÁT HAY DO TÍNH TOÁN?

Hơn một triệu rưỡi người Việt vượt-biên trong đó gần ba trăm ngàn thuyền-nhân đã chết tức tưởi ngoài biển Đông vào thập-niên 80 đã là những truyền-đơn người sống động nhất vạch rõ cái xấu xa của Cộng-sản cần phải tránh xa và cái tốt đẹp của thế-giới tự-do cần phải tìm đến bằng mọi giá, ngay cả việc có thể phải đổi cả mạng sống của mình.

Câu hỏi được đặt ra:

Đây là loại truyền-đơn người tự-phát, hay đây là sản-phẩm của người Mỹ trong cuộc chiến-tranh ý-thức-hệ?

Nhiều người cho rằng chính người Mỹ khi rút quân ra khỏi chiến-trường VN, tạm-thời chấp-nhận thua cuộc về mặt quân-sự đã âm-mưu cài dùng người Việt chống Cộng-sản ở lại để dấy động một phong-trào vượt-biên, chịu khổ sở chết chóc trên biển Đông để thế-giới tự-do có phương-tiện tuyên-truyền chống Cộng-sản.

Hãy nghe vị đại-sứ Mỹ cuối cùng tại VN trước biến-cố 30 tháng Tư, 1975, Graham Martin nói trong “Tears Before The Rain”, một tập sử-liệu về sự sụp đổ của miền Nam Vietnam được thu-thập qua những cuộc phỏng-vấn các nhân-vật có liên-hệ đến cuộc chiến thực-hiện bởi Larry Engelmann, một giáo-sư sử-học tại San Jose State University, California. Sách được dịch bởi Nguyễn Bá Trạc và xuất-bản năm 1990 (cùng năm với sự qua đời của Graham Martin.)

“Tại vì bấy giờ ở đấy có một việc không một ai biết ngoại-trừ tôi và Wolf Lehmann, phụ-tá của tôi.

Việc ấy là chuyện đi lại của Brezhnev và Kissinger với Hà Nội. Và theo Leonid Brezhnev, Hà Nội đã đồng-ý ấn-định thời-hạn cho chúng tôi rút: Hạn chót là ngày 3 tháng 5. Đó là một thỏa-thuận.”

Vậy thì vì sao vị đại-sứ này đã rời Saigon vào sáng sớm ngày 30 tháng Tư, theo lệnh của Tổng-thống Mỹ lúc bấy giờ là Gerald Ford, bỏ lại gần 400 quân cán chính người Việt và Nam-hàn đã ở bên trong tòa đại-sứ cả ngày hôm trước mà mạng sống sẽ bị đe dọa một khi Cộng quân vào đến Saigon ?

Ngay cả việc thế-giới tự-do lơ là trong việc cứu vớt người vượt-biên ngoài biển cả khi các tàu buôn lớn bỏ chạy luôn không cứu vớt thuyền-nhân, ngay cả việc thế-giới tự-do làm ngơ để cho hải-tặc Thái-lan hoành-hành tại vịnh Thái-lan, tất cả những lơ-là đó không phải là không có mục-đích.

Rõ ràng càng gây hiểm nguy cực-kỳ cho thuyền-nhân trong việc vượt biển bao nhiêu, người Mỹ càng cho cả thế-giới nhìn thấy rõ hơn bấy nhiêu là Cộng-sản là con quái-vật gì mà dân cùng một nước không thể sống chung được, phải trốn chạy, dù biết nguy-hiểm đến chết người vẫn cứ bỏ đi.

Thái-lan là đệ-tử ruột của Mỹ, nếu Mỹ muốn bóp mũi bọn hải-tặc mà đa-số là lính biên-phòng và dân đánh cá Thái, chỉ cần một cú phone từ đàn anh Mỹ.

Nhưng dẹp bỏ hải-tặc để làm gì trong khi duy-trì nó có lợi cho việc tuyên-truyền chống Cộng-sản hơn.

Phải chăng Boat People cũng là Best Propaganda ? BP.

Hơn một thập-niên sau đó người Mỹ đã gặt hái được một thắng-lợi chính-trị vĩ-đại khi chủ-nghĩa Cộng-sản bị khai-tử tại liên-bang Sô-viết và các nước chư-hầu Đông-âu.

Không tốn một viên đạn!

Không tốn một giọt máu.

Chỉ có sự hy-sinh của gần ba trăm ngàn người Việt chúng ta trên biển Đông.

Và gần sáu chục ngàn lính Mỹ chết trước đó trong cuộc chiến với Bắc-việt tại Việt Nam mà chúng ta tưởng-niệm hôm nay.

Thuyết âm-mưu này có thật hay không?

Hay chỉ là một sự diễn-biến trùng-hợp tự-nhiên.

Xin quí anh chị vui lòng bỏ vài phút cùng chúng tôi, một truyền-đơn người may mắn không bỏ mạng trên con đường trốn chạy Cộng-sản, cùng ngược dòng lịch-sử trở lại Saigon ngày 29 tháng Tư năm 1975.

MỘT ÂM-MƯU CỦA MỸ?

HAY CHỈ LÀ MỘT CUỘC DI-TẢN TỒI?

Sáu giờ ba mươi sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975, tôi

vào được bên trong sân sau của toà đại-sứ Mỹ tại Saigon.

Dân chúng muốn di-tản đã phá cổng ùa vào khi toàn-bộ lính Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ có nhiệm-vụ bảo-vệ tòa đại-sứ đã rút hết vào bên trong toà nhà chính kiên-cố, chuẩn-bị chờ trực-thăng đưa ra hạm-đội Mỹ đang neo ngoài khơi biển Vũng Tàu.

Tôi đứng lạc-lõng cạnh hồ bơi, nước mắt ràn rụa.

Nhìn những hộp giấy đựng thức ăn dở, muỗng nĩa nhựa chai lon vứt bừa bãi tung toé trên hồ bơi, tôi biết chúng là một trong những thành-phần đang sống trong thành-phố Saigon không muốn di-tản. Chúng sẽ ở lại với Cộng-sản và những người bị kẹt lại như chúng tôi.

Khi cánh cửa bên hông tòa đại-sứ mở ra, hàng trăm người, đàn ông thì complet cà-vạt đàng-hoàng tay xách samsonite, đàn bà thì váy đầm váy điết đẹp đẽ nách mang ví bóp hợp thời-trang, ngay cả con nít quần áo cũng rất chỉnh-tề, úa ra sân và lục-tục bỏ ra cổng trước phía đường Thống Nhất, hốt-hoảng lo kiếm đường về nhà hoặc vội-vã chạy ra bến Bạch Đằng kiếm đường thoát thân bằng cách leo lên những tàu buôn dân-sự đang neo tại đó. Một số đã đi được vào giờ phút chót bằng con đường này.

Không ai buồn nhìn lại toà nhà kiên-cố mình đã sống chết trong đó cả ngày mà không được Mỹ bốc đi.

Họ là những người có tên trong danh-sách cần phải được di-tản vì mạng sống sẽ bị đe dọa nếu ở lại.

Chiếc cổng trước mở toang, chả bù với trước đó vài giờ, quân-cảnh và lính Thuỷ-quân lục-chiến Mỹ súng ống đầy đủ, nhất là lựu đạn thì đeo đầy người đang phải đối-phó với hàng ngàn người Việt bên ngoài cổng đang chen lấn xô đẩy nhau cố trình giấy tờ vào phút chót để được cho vào bên trong toà đại-sứ với hy-vọng được di-tản vào giờ chót bằng trực-thăng ra đệ Thất hạm-đội Mỹ đang neo tại ngoài khơi Vũng Tàu, mất khoảng ba mươi phút bay.

Tôi đã đứng chen lấn với đám đông người ngay trước cổng sắt của toà đại-sứ Mỹ này từ tối hôm trước, chỉ mong tìm cách lọt vào bên trong sân lúc đó đang lốn nhốn đầy ngập người. Tôi không biết có được cho vào không vì trong người chỉ có cái căn-cước có hình và một cái bùa rất tồi là cái business card có tên mình và logo của Vietnamese American Asociation (VAA). Tôi có cơ-hội cộng-tác với Phòng Văn-hoá của hội để phụ-trách một lớp dạy đàn Tây-ban-cầm cổ-điển tại đây.

Trước đó, tại điểm hẹn do VAA thông-báo cho các nhân-viên của hội tập-họp lại để được đón đi di-tản, chúng tôi chờ mãi chả thấy bóng dáng một chiếc trực-thăng nào đỗ xuống.

Có khi nào những chiếc trực-thăng này đã đi đón những người ba Tàu giàu có đã đóng vàng hoặc dollars để được đi? Hay thật ra cũng chẳng có máy bay trực-thăng nào ráo.

Ban giám-đốc của VAA đã ra đi và nhân-viên của VAA tụ-họp lại với nhau tại những địa-điểm tập-trung coi như giả nay đầy những tiếng chửi thề thật.

Chúng tôi chửi Mỹ bằng tiếng mẹ đẻ là tiếng “Đan Mạch” cho nên cả bọn nghe với nhau thật đầy đủ, thấm-thía, không sót một chữ. Toàn là những nhân-viên làm việc tại phòng VĂN-HÓA nên nghe nhau chửi thề rất là thú-vị. Phải nói là VAA đã tuyển chọn lầm người vào làm công việc văn-hóa cho hội.

Các ông họa-sĩ chửi nhiều nhất, nhất là các ông có mang theo những bức tranh quí giá của mình vẽ, tưởng sẽ có dịp được triển-lãm ở Mỹ nay mai !?

WHO CARES?

Suốt đêm 29 rạng 30 đứng bên ngoài hàng rào của toà đại-sứ Mỹ trên đường Thống-nhất nghe tiếng rì rầm của những chuyến trực-thăng đến và đi trên nóc toà đại-sứ Mỹ lúc bấy giờ đang rực sáng do lửa cháy mà theo Wikipedia (Operation Frequent Wind) là do nhân-viên toà đại-sứ vừa đốt hủy tài-liệu mật và năm triệu dollars Mỹ vừa để hướng-dẫn trực-thăng thấy đường đáp xuống. Tài-liệu mật bị đốt thì có lý. Năm triệu dollars thì chắc bị đốt trên báo-cáo cho đúng nguyên-tắc. Cũng theo tài-liệu này thì cứ cách 10 phút lại có một chiếc trực-thăng đáp xuống để bốc người đi.

Bắc-việt đã thỏa-thuận không can-thiệp vào việc di-tản cho đến ngày 3 tháng Năm, chỉ mong sao Mỹ và chúng ta rút nhanh để họ sớm vào Saigonmột cách êm-ái. Cuộc pháo-kích vào phi-trường Tân Sơn Nhất ngày 28 và 29 có lẽ đã không xảy ra nếu trước đó không có việc ba chiếc phản-lực-cơ nặng ký F-5 bay qua Thái-lan, trái với thỏa-ước là Mỹ phải để lại toàn-bộ các máy bay chiến-đấu cho VC.

Đến 7:35 sáng thì việc di-tản tại toà đại-sứ Mỹ chấm dứt. Một TQLC Mỹ từ trên nóc nhà toà đại-sứ vứt một quả lựu đạn cay xuống hồ bơi và chiếc trực-thăng cuối cùng rời nóc toà đại-sứ, bỏ lại bên dưới hàng trăm người đã ở bên trong toà đại-sứ suốt cả ngày hôm qua.

Chắc chắn những người này sẽ là những người tiền-phong dấy động việc tìm đường vượt-biên, và không biết ai trong bọn họ sẽ là truyền-đơn người còn sống sót sau cuộc vượt biển.

THÂN-PHẬN CỦA CON DÂN MỘT NƯỚC NHƯỢC-TIỂU.

Bây giờ nhìn lại, sau gần nửa thế-kỷ, ngoài gần ba trăm ngàn đồng-bào của chúng ta đã phải bỏ mình trên đường vượt-biên, phần còn lại trong chúng ta đã may mắn đến được bến bờ tự-do, không còn là công-dân của một nước nhược-tiểu mà số-phận luôn bị định-đoạt bởi các cường-quốc trên thế-giới nữa.

Dù là một âm-mưu chính-trị tinh-vi có tính-toán của người Mỹ dùng thuyền-nhân Việt làm truyền-đơn sống chống Cộng-sản, dùng Boat People như một Best Propaganda để tuyên-truyền ngăn cản sự bành-trướng của chủ-nghĩa Cộng-sản; hay chỉ là một cuộc di-tản quân-sự tồi dẫn đến một phong-trào vượt biên trốn chạy Cộng-sản

thi đối với người Việt tị-nạn chúng ta, rõ ràng đây là một sự-kiện lịch-sử có tính Tiền Hung Hậu Kiết.

Trong cái rủi có cái may.

Không có cuộc đổi đời này, làm sao ngày nay chúng ta thấy được có những người cha người mẹ trước đây vốn gốc nông-dân hay làm nghề chài lưới ở VN, nay hành-nghề cắt cỏ hay làm Nail tại Mỹ nuôi dạy con thành bác-sĩ, kỹ-sư, dược-sĩ, chuyên-viên giỏi không thua kém bất-kỳ sắc dân nào trên thế-giới.

KẾT.

Việc bỏ nước ra đi, chấp-nhận cái chết, chấp-nhận bị cướp bóc hãm hiếp đã nói lên cho cả thế-giới, ngay cả thế-giới Cộng-sản, thấy là Cộng-sản là cái gì mà cùng một màu da cùng một dòng máu mà con người ta vẫn không sống với người anh em của mình được.

Tác-dụng của những cái chết ngoài biển Đông của hàng trăm ngàn người Việt hy-sinh ngoài biển cả phải chăng là tác-dụng tuyên-truyền mạnh nhất, hữu-hiệu nhất cho công việc chống Cộng trên toàn thế-giới.

Và chúng ta không là truyền-đơn người là gì?

Nay chúng ta là Mỹ GIẤY, là Úc GIẤY, là Pháp GIẤY, là Bỉ GIẤY, là Đức GIẤY, là Ý GIẤY, là Hoà-lan GIẤY, là Anh GIẤY, là Canada GIẤY, là vv….và ….vv….

Nhưng chúng ta là những truyền-đơn NGƯỜI THẬT hãy còn sống, không vô-tri vô-giác như giấy.

Chúng ta luôn nhớ đến gần ba trăm ngàn đồng-bào của chúng ta, những truyền-đơn NGƯỜI đã vĩnh-viễn ra đi, những chiến-sĩ chống Cộng hữu-hiệu nhất trên hành-tinh này là những người xứng-đáng cho chúng ta tưởng nhớ, không những trong ngày lễ Memorial Day, mà còn trong những ngày nào chúng ta còn sống.

Truyền-đơn người sống còn đây,

Khóc truyền-đơn người chết thây không mồ,

Biển khơi sóng biếc nhấp nhô,

Hồn người năm cũ bây giờ nơi đâu ?

Lê Xuân Cảnh.

(Memorial Day, 05/31/2021)

May be an image of flower, nature and sky

ĐI HỐT CỐT CHA TỪ TRẠI TÙ

 ĐI HỐT CỐT CHA TỪ TRẠI TÙ

Câu chuyện sau đây có thể không liên quan nhiều đến nước Mỹ nhưng là một trong những mãnh vỡ cuộc đời của một đứa con người tù cải tạo sau ngày thất trận bi thảm 1975. Là lý do của những cuộc ra đi và định cư tại miền đất cách xa quê nhà hơn nửa vòng trái đất.

***

Ngày đưa ba đi trình diện học tập dành cho “sĩ quan nguỵ quân” tại trường Chu Văn An năm 1975, là khoảnh khắc cuối cùng mẹ nhìn thấy mặt ba còn sống. Chuyến đi tưởng chỉ 10 ngày trở thành 2 năm 6 tháng chia lìa và xa nhau mãi mãi. Mỏi mòn chờ đợi để cuối cùng chỉ được ôm xác người chồng yêu thương lần cuối cùng ở một trại cải tạo ngút ngàn tận cùng biên giới Việt Trung.

Tháng hai năm 1979, trở về Sài Gòn sau khi để lại ba nằm hiu quạnh trong trại cải tạo Tân Lập Vĩnh Phú, mẹ trở thành một người hoàn toàn khác hẳn. Cái tính cứng cỏi ngày xưa của mẹ giờ thêm lòng căm thù và nỗi đau mất chồng khiến mẹ trở nên điên dại. Đã có những tháng ngày mẹ không thiết tha gia đình, lang thang từ nhà ra chợ. Câu chuyện mất chồng của mẹ lan truyền nhanh chóng trong khu xóm đường Lam Sơn với toàn gia đình sĩ quan chế độ cũ. Lan truyền đến tận cái chợ nhỏ Cây Quéo cuối con đường Hoàng Hoa Thám quận Bình Thạnh. Ai cũng biết câu chuyện người đàn bà Huế mất chồng trong trại cải tạo.

Cuộc sống gian khổ, nỗi nhớ chồng quay quắt làm mẹ ngày một gầy guộc đi. Đã không còn là người đàn bà trắng trẻo mập mạp phúc hậu của khu phố sĩ quan ngày nào. Ban ngày chỉ là tạm quên, đêm về là những giây phút mẹ nhớ đến cái lặng lẽ cô độc của ba nơi miền đất phía Bắc xa xôi. Nhớ đến cặp mắt chưa kịp khép của ba trong ngày gặp mặt. Mẹ cứ hay bảo, không biết ba mày có đói hay không, áo quần có lành lặn hay không, có ai hành hạ ba mày hay không. Rồi mẹ lại khóc và mẹ lại nhớ đến cái khuôn mặt hốc hác, tiều tuỵ ngày ba qua đời. Nhớ đến hàm râu dài lưa thưa, cái thân hình gầy guộc và cái áo cũ rách nát tả tơi. Có những đêm ngồi bên cửa sổ nhìn ra khoảng tối mênh mông, mẹ lặng lẽ khóc nức nở một mình.

Những tháng năm sau đó với mẹ con tôi, thời gian qua thật dài. Không biết làm gì để an ủi mẹ ngoài chuyện cùng mẹ thay ba lo cho những đứa em còn nhỏ dại. Ngoài giờ làm việc tại Bưu Điện, vợ chồng tôi phụ me, làm đủ thứ nghề để sinh sống. Bán quần áo cũ tại chợ trời, làm bánh đậu xanh, nuôi gà trong phòng ngủ, nuôi heo trong cầu tiêu để chỉ thật mong đến ngày đủ sức đem ba trở lại quê nhà.

Cùng với những vất vả lo toan cho cuộc sống, qua thời gian, mẹ và chúng tôi phải làm quen những ngày tháng không có ba. Các em vẫn hằng ngày cắp sách đến trường. Vợ chồng chúng tôi đã có đứa con đầu tiên. Đứa cháu ra đời chưa bao giờ thấy được ông nội bằng xương bằng thịt. Mỗi khi nhìn con tôi lại nhớ đến ba. Cháu bao nhiêu tuổi, bấy nhiêu năm ba rời xa chúng tôi.

Có những ngày ăn bo bo thay cơm. Có những ngày liên tiếp không có gạo chỉ có bột mì. (Thời đó tại Sài Gòn chúng tôi phải làm quen với chế độ tem phiếu như ngoài Bắc). Tùy theo lúc, theo số người trong gia đình, có khi được cấp gạo, có khi nhận toàn bột mì, cũng có khi cả tuần nhận toàn bo bo. Mẹ xoay xở chế biến thành đủ thứ món ăn bằng bột mì cho đỡ ngán. Dù sao thì cũng không thể gian khổ bằng ba trong những ngày tù miền Bắc. Tôi tự an ủi như vậy để sống. Mẹ bề ngoài rất can trường nhưng trong lòng lúc nào cũng canh cánh nỗi lo về ba. Mẹ lúc nào cũng ao ước đem được ba về. Hết than ngắn lại thở dài.

Thường phải qua 3 năm, mới có thể dời mộ nhưng chỉ mới chưa đầy 3 năm, thương mẹ mỏi mòn trông đợi, tôi cùng mẹ xin giấy phép ra Bắc đem xác ba về.

Dĩ nhiên mọi chuyện không dễ dàng. Thời đó làm gì có cái loại giấy phép ra trại cải tạo để đem xác chồng. Lên phường xin đại cái giấy phép ra thăm ông chú còn ở lại ngoài Bắc. Cứ ra Hà Nội cái đã mọi chuyện tính sau.

Thế là sáng ngày 15 tháng 8 năm 1981, hai mẹ con khăn gói lên tàu hoả “ thống nhất”, miền Bắc trực chỉ. Ở lại nhà chú một đêm, hôm sau cùng với ông Tiến, người chuyên bốc mộ thuê do chú giới thiệu, ba chúng tôi lại lên tàu chợ Hà Nội – Vĩnh Phú tiếp tục cuộc hành trình. So với 2 lần đi thăm ba những năm về trước, chuyến đi này tương đối dễ dàng hơn. Hành lý của hai mẹ con chỉ là một cái xách tay nhỏ đựng vài bộ áo quần và một ít thức ăn khô, duy chỉ có ông Tiến là lỉnh kỉnh cuốc xẻng, mấy cái bị lác và mấy chai dầu hồi, ông bảo dùng để rửa xương.

Tướng người ông Tiến đen đúa khắc khổ nhưng nhanh nhen và vui tính. Cái giọng bắc 75 mới đầu hơi khó nghe, rồi cũng quen dần. Chuyến đi có thêm người đào mộ thuê cũng nhờ thế làm thời gian trôi qua nhanh hơn. Ông làm cái nghề này cũng đã mấy mươi năm sau cái ngày cởi bỏ áo quần bộ đội. Ai cần đào mộ là có mặt ông. Thường bốc xác lên đem đi chôn chỗ khác, cũng có khi đem đi thiêu.

Miền Bắc hồi đó có rất nhiều những ngôi mộ vô danh nằm lẫn trong các ruộng vườn. Người ta nhờ ông. Ông lại có thêm công việc tìm kiếm, đào xới, dọn dẹp và đem vào các hố chôn tập thể. Hay có khi chỉ cần tẩm dầu và đốt. Ông kể, công việc tuy vất vả nhưng cứ có hoài. Tiền thì không bao nhiêu vì dân ở đây thường rất nghèo, nhưng cũng đủ sống qua ngày.

Ông lão chép miệng. 30 năm đi lính, chỉ biết đánh nhau, xuất ngũ không có tay nghề, làm cái việc suốt ngày bên các xác chết ít người chịu được, cũng ít gian khổ hơn thời chiến tranh. Ông nói thêm, đây là lần đầu tiên có người trong Nam ra nhờ ông, lại là đào mộ của người học tập cải tạo. Tôi hỏi, người chết là sĩ quan miền Nam, sao ông vẫn nhận. Ông lão chép miệng, cũng là con người cả. Ai chết rồi cũng như nhau, hận thù gì nữa. Mà thật ra tôi có thù hận ai đâu. Ngày xưa đi lính, bảo bắn thì tôi bắn, không bắn thì chết sao ông.

Lần đầu tiên trên một miền đất với tôi chỉ là thù hận, tôi thấy một cảm giác an toàn.

Từ sáng sớm ba người chúng tôi lên ga Hàng Cỏ và đến tối thì chúng tôi đến trại K2. Sáng hôm sau chúng tôi gặp cán bộ trại xin đào lấy xác ba đem về chôn tại quê nhà và như dự đoán bị từ chối ngay. Lý do phải có giấy cho phép của cấp trên. Thời gian chờ đợi ít nhất cũng phải trên ba tháng. Hơn nữa, tay cán bộ trại giam nói thêm, ông nhà chết chưa quá ba năm chắc cấp trên không cho đâu.

Không còn cách nào khác, không lẽ lặn lội mấy ngàn cây số ra đây rồi về tay không, chúng tôi quyết định đi bốc mộ trộm. Đến lúc này mỗi khi nhớ lại tối hôm đó tôi vẫn còn rùng mình. Tôi vẫn không hiểu tại sao mình lại quyết định liều lĩnh như vậy. Đào mộ chui, chết hoặc ở tù như chơi. Có lẽ phần vì còn trẻ liều lĩnh, phần thương ba, thương mẹ và một phần do sự khuyến khích của người đào mộ thuê. Cũng may là ngôi mộ của ba nằm ngoài vòng đai trại cải tạo, nếu không ai biết trước việc gì sẽ xảy ra cho chúng tôi.

Đêm đó đợi lúc trời chạng vạng tối, trời mưa lất phất, 3 người chúng tôi đi đến khu rừng có mộ ba. Tôi vẫn nhớ rất rõ đường đi. Cũng không xa lắm vành đai trại và cũng chỉ một con đường đất nhỏ hẹp.

Vẫn không thay đổi gì nhiều, chỉ khác là cỏ mọc um tùm hơn. Cây thánh giá trước mộ vẫn còn đó, xiêu vẹo. Dấu khắc tên ba trên cây vẫn còn dù thời gian có làm mờ đi. Và cũng chỉ duy nhất một mình ngôi mộ của ba nằm ở đó, lạnh lẽo, hiu quạnh. Chung quanh không có ngôi mộ nào khác. Có lẽ chỉ một mình ba tôi là có thân nhân đến tiễn đưa khi chết, nên được chôn nơi đây. Những người khác chắc chỉ dđược bó chiếu, nằm chung nhau trong một ngôi mộ tập thể vô danh nào đó.

Chúng tôi bắt đầu công việc đào đất trong cái ánh đèn cầy leo lét. Người đào mộ làm việc chuyên nghiệp và nhanh thoăn thoắt. Lớp đất xốp có lẽ được lấp vội vàng nên công việc đào xới cũng dễ dàng. Rồi cũng đến lúc chạm đến cái nắp hòm củ kỹ mục nát. Nén xúc động, tôi mở nắp quan tài. Ba nằm đó, bộ xương còn nguyên vẹn với một phần da thịt và tóc chưa phân hủy hết.

Chúng tôi nhặt xương ba lên theo thứ tự đầu, giữa, chân, tay, bên phải bên trái. Mẹ nức nở nhưng không dám khóc to. Mẹ vừa khóc vừa rửa xương ba bằng chai nước cánh hồi, sau đó chúng tôi phụ nhau bỏ vào hai xách tay bằng lác mang theo. Một bao tôi xách gồm phần đầu và phần tay chân bên trái. Bao lác của mẹ gồm xương sống và phần tay chân bên phải. Người đào mộ dặn phải làm như thế để khi về đem chôn trở lại, ba mới siêu thoát với hình hài còn nguyên vẹn chân tay.

Chúng tôi lặng lẽ vượt gần 30 cây số lên đường trở ra ga Ấm Thượng ngay trong đêm. Cũng phải vượt qua hai con sông nước chảy xiết, qua những con đường đất quanh co, và những ngôi nhà leo lét ánh đèn. Không một bóng người. Tiễn chúng tôi chỉ là những tiếng côn trùng ếch nhái và những giọt mưa phùn lành lạnh.

Vừa đi vừa cầu nguyện. Rồi cũng suông sẻ ra đến ga Ấm Thượng khi trời tờ mờ sáng. Kịp đón chuyến tàu về đến ga Hàng Cỏ Hà Nội thì cũng đã xế chiều. Mệt lả người vì thiếu ăn và thiếu ngủ nhưng chúng tôi rất vui vì đã đem ba về an toàn.

Chia tay người bốc mộ ngay tại sân ga, bấy giờ tôi mới cảm thấy đói. Hai mẹ con ngồi tựa cột đèn nhà ga, mỗi người ôm chặt một bị lác chứa xương người. Chúng tôi chia nhau ăn ổ bánh mì dai nhách, uống ly chè xanh đắng chát, nhưng thật ngon lành.

Đêm lạnh, hai mẹ con chúng tôi ngồi bên nhau, cô độc ngay trong cái sân ga đông kịt người. Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa mãi mãi với tôi vẫn là nơi vô cùng xa lạ và không bao giờ muốn quay về.

Đang nằm thiu thiu ngủ bỗng dưng tôi thấy tay mình nhẹ tưng, bừng tỉnh cũng là lúc tôi thấy một bóng người phóng qua mình tôi về phía trái. Ôi cái bị lác của tôi. Tôi phóng người đuổi theo, vừa chạy vừa la: xương người, xương người. Đứa bé ăn trộm bị tôi đuổi kịp quăng bị lác xuống đất chạy vào bóng đêm mất dạng. Tôi lượm bị lác lên và ôm chặt vào lòng. Đêm đó hai mẹ con lại ngồi tựa cột đèn, thức trắng. Lại một đêm thật dài, dài đến vô cùng.

Trời mới tờ mờ sáng, chúng tôi lên chuyến tàu sớm đầu tiên xuôi Nam và đến ga Huế vào nửa đêm.

Nhà ông bà ngoại tôi nằm dưới chân núi Ngự Bình, cách lăng Thành Thái không bao xa. Ngôi nhà cổ với sân vườn sau là các ngôi mộ của gia tộc bên ngoại. Về nhà quá khuya nhưng đã có rất đông họ hàng, các em cùng vợ con tôi từ Đà Nẵng về cả ngày hôm trước. Có cả ông Cặn hàng xóm, người chuyên môn lo về cúng kiếng với hòm rương nhang đèn đầy đủ.

Đám ma của ba tôi được tổ chức đơn giản nhưng với đầy đủ thủ tục lễ nghĩa như với một người vừa mới qua đời. Xương của ba được sắp xếp lại theo thứ tự tay chân trái phải và đưọc đặt vào quan tài cùng với các đồ dùng còn sót lại của những ngày trong trại cải tạo. Không thể mặc cho ba manh áo mới lành lặn, mẹ xếp ngay ngắn bên cạnh.

Bà con hàng xóm láng giềng khu vực An Lăng có mặt thật đông. Hôm đó mẹ đã khóc ngất đi nhiều lần mặc dầu ba qua đời đã lâu. Dù sao mẹ cũng đã mãn nguyện thực hiện được ước muốn từ bao năm qua: đưa được ba về, nằm ấm cúng trong mảnh vườn nhỏ gia tộc bên cạnh ôn mệ, họ hàng. Hôm đó tôi đã khấn trước mộ ba: Ba ơi, hãy yên nghỉ, chúng con luôn thương nhớ ba. Con sẽ thay ba lo cho mẹ và các em. Ba có linh thiêng xin phù hộ cho mẹ và cho chúng con.

Tôi tin là có một thế giới, nơi ba đang sống, thật gần với chúng tôi, luôn theo dõi phù hộ chúng tôi, trong những ngày đen tối còn lại tại quê nhà và những tháng năm lưu lạc trên quê người.

Đã 40 năm sau ngày ba mất, đại gia đình chúng tôi, một mẹ và 9 người con vẫn đang thật bình yên trên xứ Mỹ này. Mỗi năm chúng tôi đều thay phiên về thăm ba. Ngôi mộ được chăm sóc có sạch sẽ bởi một người bà con còn ở lại. Chỉ riêng tôi, hơn 20 năm qua vẫn chưa một lần trở lại. Chắc ba cũng hiểu, nỗi đau vẫn còn mãi trong tôi. Đã có những khó khăn, đã có những vất vả trên quê hương thứ hai này, nhưng mẹ và anh em chúng tôi đều kiên cường vượt qua để sống một cách lương thiện.

Dù mẹ đã lúc quên lúc nhớ nhưng tôi vẫn luôn tin rằng hình bóng của ba vẫn luôn còn mãi trong tận cùng trái tim của mẹ. Mẹ không nói, nhưng chắc vẫn nhớ nhiều điều trong quá khứ, nhất là cái ngày hai mẹ con mình đi nhặt lại xác cha, phải không mẹ của con.

Viết trong ngày Vu Lan 2019

Lê Xuân Mỹ 

Blogger bất đồng chính kiến Lê Dũng Vova bị truy nã

Blogger bất đồng chính kiến Lê Dũng Vova bị truy nã

1 tháng 6 2021,

Facebook Le Dung Vova

NGUỒN HÌNH ẢNH,FACEBOOK LE DUNG VOVA

Công an Việt Nam vừa phát lệnh truy nã blogger bất đồng chính kiến Lê Văn Dũng với cáo buộc “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước”.

Truyền thông Việt Nam ngày 1/6 đưa tin Cơ quan an ninh điều tra, Công an Hà Nội ra quyết định truy nã bị can Lê Văn Dũng (51 tuổi, còn gọi là Lê Dũng Vova, quê Ứng Hòa, Hà Nội) theo điều 117 Bộ luật hình sự.

Trước đó, công an Hà Nội khởi tố ông Dũng về tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước; đồng thời tới nhà để bắt ông hôm 25/5, nhưng không thành.

Công an Hà Nội sau đó kết luận rằng ông Dũng đã ‘bỏ trốn’.

Vụ ‘bắt hụt’

Lệnh truy nã ông Lê Văn Dũng

Chụp lại hình ảnh,

Lệnh truy nã ông Lê Văn Dũng

Ngày 25/5/2021, công an Hà Nội tới nhà ông Lê Văn Dũng ở 54B ngõ 2, Hà Trì 3, phường Hà Cầu quận Hà Đông, TP Hà Nội để thực hiện lệnh bắt bị can để tạm giam. Nhưng ông Dũng không có mặt ở nhà lúc đó.

Tài khoản Facebook Hồng Lam mô tả rằng vào khoảng 2:00 chiều 25/5, “một đoàn gần 20 người bao gồm cả đại diện tổ dân phố Hà Trì 3” đã đến nhà ông Lê Dũng VoVa.

“Trước đó 5 phút điện bị cắt. Họ yêu cầu vợ anh Dũng mở cửa, trong nhà có 2 con nhỏ.

Họ đọc lệnh khởi tố và vài giấy gì đó, họ không đưa cho vợ anh Dũng. Sau đó họ thu laptop và 2 chiếc điện thoại iphone của chị Huệ (vợ ông Dũng), nói là sẽ triệu tập lên tra sau khi kiểm tra.

Dù nhân viên kiểm tra tại chỗ nói là máy của vợ không có gì liên quan, nhưng họ vẫn thu và mang đi.

Sau khi thu giữ đồ đạc cá nhân của chị Huệ thì họ đi, không để lại giấy tờ gì.” Facebooker này mô tả.

Các livestream trên Facebook của ông Lê Dũng Vova

‘Chỉ mong xã hội tốt lên’

Chụp lại hình ảnh,

Các livestream trên Facebook của ông Lê Dũng Vova

Ông Lê Văn Dũng là chủ kênh truyền thông CHTV. Ông thường xuyên livestream trên Facebook về các vấn đề chính trị, xã hội của đất nước.

Trên Facebook cá nhân, ngày 25/5, ông Lê Dũng cho hay từ đầu năm 2021 tới nay ông liên tiếp bị gửi giấy triệu tập liên quan đến các clip “có nội dung xuyên tạc, chống phá nhà nước”.

Ông Dũng đã lên làm việc với một điều tra viên tên Phan Quốc Uy vào 19/3/2021. Người này cho ông Dũng xem 12 clip đang chờ cục an ninh mạng xác minh.

Ông Dũng khẳng định rằng trong 12 clip này, 6 cái là cắt ghép chắp vá, không phải của ông.

Nhưng sau đó ông vẫn tiếp tục nhận được giấy triệu tập liên quan đến nội dung các clip.

Việc này, theo ông Dũng, ‘gây phiền’ hà cho gia đình và hàng xóm trong lúc dịch bệnh, gây khó khăn cho ông khi đang phải đi tìm ‘đủ việc’ để làm.

Ông Dũng cũng khẳng định các livestream của ông trên Facebook cá nhân “hoàn toàn dựa trên các chuẩn mực đạo Đức và hiến pháp, pháp luật” và phần lớn là về các vấn đề ‘kỹ thuật, quản lý xây dựng’ để giúp đồng nghiệp và cơ quan nhà nước.

“Ngoài ra có các clip về việc phản ánh giúp dân trong việc họ gửi đơn từ tới các cơ quan chức năng về tranh chấp đất đai, quyền lợi chưa được giải quyết…”

Ông Dũng nói “chỉ mong chia sẻ kinh nghiệm nghề nghiệp và góp tiếng nói thúc đẩy xã hội minh bạch” chứ ông ” không tham gia quản lý nhà nước hay tham gia đảng phái chính trị nào cả.”

“Nếu có bị bỏ tù vì nói đúng lương tâm thì tôi vẫn nói như thế. Dù biết rằng để nói thật thì sẽ thiệt thòi cho không chỉ riêng mình mà cả gia đình vợ con mình…,” ông Lê Dũng bộc bạch trên Facebook cá nhân.

Chính quyền VN nói gì?

Trong khi đó, truyền thông Việt Nam đưa tin rằng ông Dũng “tự làm thẻ nhà báo cho mình, rồi đưa ra khẩu hiệu “CHTV là kênh truyền hình của dân oan” nhằm lôi kéo người dân”, “tổ chức các buổi livestream trên nền tảng Facebook và Youtube để chống phá Đảng và Nhà nước”.

Trang VnExpress hôm 1/6 cho hay ông Dũng ‘bị truy nã đặc biệt’ nhưng “sai phạm cụ thể của ông Dũng chưa được cơ quan điều tra công bố”.

Ngay trước ngày ông Lê Dũng Vova bị ‘bắt hụt’, trung tướng Tô Ân Xô, chánh Văn phòng Bộ Công an nói với báo chí trong nước rằng đã “triệt phá được nhiều nhóm thế lực thù địch có thủ đoạn chống phá bầu cử”.

Cái xấu của chế độ và sự vô minh của một số nghệ sĩ dính phốt

Cái xấu của chế độ và sự vô minh của một số nghệ sĩ dính phốt

Bởi  AdminTD

Đỗ Ngà

27-5-2021

Chính quyền CS họ dùng sai lầm để vá sai lầm, họ dùng dối trá để vá dối trá thành công, là vì điều gì? Vì trong tay họ có quyền lực, ai bóc phốt họ thì họ bắt bỏ tù. Để vá lỗ phốt vừa khui thì họ dùng dối trá. Vì cách dùng quyền lực như thế nên những người muốn bóc phốt chế độ vì sợ mà im lặng, cuối cùng sự thật không được lan tỏa và CS vá lỗ phốt thành công.

Chính quyền nào thì xã hội đó, mà để tạo ra bản chất đặc trưng cho một xã hội thì số đông thường hành xử theo một dạng giống nhau và nó giống với lối hành xử của chính quyền. Xã hội xấu không phải mọi người xấu mà là số đông xấu, xã hội tốt đẹp không phải mọi người sống tốt mà là số đông sống tốt.

Tại sao Úc, Canada, New Zealand vẫn có tội phạm nhưng xã hội lại được đánh giá là yên bình đáng sống? Tại sao Việt Nam cũng có tội phạm mà chính ngay người Việt Nam như tôi đây vẫn tởm cái xã hội này? Bởi khác nhau tỉ lệ. 1% xấu và 99% tốt nó khác hoàn toàn với 99% xấu và 1% tốt. Vậy nên đừng bao giờ ngụy biện, nơi nào cũng có người xấu người tốt.

Ở tại Việt Nam, con người sống tử tế nó trở hiếm hoi, và đôi khi những người dám giữ nguyên lối sống tử tế ấy bị cho là “bất bình thường”, là “sống dại”, là “khờ khạo”, là “ngu” vì không khôn lỏi giống mọi người. Chính vì sự tử tế quá lẻ loi nên nó dễ bị bẻ gãy. Ở cái xứ này, sống làm người tử tế mà thiếu bản lĩnh rất dễ bị cái xấu chung của xã hội tấn công làm con người biến chất. Tại Việt Nam, người tử tế dễ bị kéo xuống vũng bùn chứ họ không thể kéo số đông ra khỏi vũng được.

Lòng trung thực và sự minh bạch nó là một phần xây dựng nên sự tử tế. CS vốn dối trá và thiếu minh bạch thì bộ máy đó khó mà sản sinh những con người tử tế được. Khi bị đá ra khỏi guồng máy chính trị, ông Nguyễn Tấn Dũng đã nói một câu nổi tiếng là ông sẽ về “sống làm người tử tế”. Quyền lực CS gắn liền với dối trá và giấu giếm điều đó là điều ai cũng biết, có lẽ ngày đầu tiên được thoát ra khỏi gọng cùm quyền lực, ông Dũng mới thấy cơ hội “sống làm người tử tế” được. Tuy nhận thức thế nhưng không biết đến nay ông ta đã làm được người tử tế chưa?!

Người nghệ sĩ là một thành phần của xã hội này. Một khi người nghệ sĩ sống thỏa hiệp với CS thì khó thành người tử tế. Sống thỏa hiệp với CS, con người họ trở nên thiếu trung thực và xa rời sự minh bạch. Vì thỏa hiệp với CS nên họ là bản sao của chế độ một cách tự nhiên mà đôi khi họ không nhận ra.

Nếu CS dùng sai lầm che đậy sai lầm, dùng dối trá che đậy dối trá thì họ cũng làm y hệt như vậy. Và họ quên rằng, họ là cá nhân, họ không có thứ quyền lực cứng bao trùm toàn xã hội như nhà nước CS nên họ không thể thực hiện cách dập tắt sai lầm bằng sai lầm được. Nếu họ tiếp tục con đường này thì chỉ có thể thân bại danh liệt. Vì vô minh, các nghệ sĩ dính phốt ấy đã “lấy xăng chữa lửa”.

Người nghệ sĩ trong tay có hàng triệu fan hâm mộ là tài sản vô giá. Những ai đã sở hữu lượng fan như vậy thì cần phải học bài học làm người tử tế, nếu không chỉ cần một tai nạn đúng ngay yếu điểm những tài sản vô giá kia sẽ bay biến nhanh như khói thuốc. Những ai mà không chịu buông bỏ những giá trị xấu xa ấy nếu không sớm thì muộn cũng sẽ “bán danh ba đồng” thôi.

Nói cho cùng, người tài cỡ nào mà không tử tế thì họ đáng chúng ta khinh hơn là để ngưỡng mộ. Những ông nghệ sĩ kia chọn gieo nhân nào thì hôm nay mấy ổng gặt quả đó thôi. Trách ai?! Hãy trách sao mình vô minh quá không sống làm người tử tế được, chứ đừng trách khán giả. Gieo nhân nào thì ắt nhận quả đó thôi.