Bắc/Nam Giữa Thời Mắc Dịch

Bắc/Nam Giữa Thời Mắc Dịch

Tưởng Năng Tiến

Tuy chào đời tại Sài Gòn – trước Hiệp Định Geneve – tôi vẫn có mặt trong đoàn người di cư từ Bắc vào Nam hồi năm 1954. Tuy đây không phải là một “giai thoại” ly kỳ hay thú vị gì sất cả nhưng vẫn xin được phép ghi thêm đôi dòng (cùng dặm thêm chút đỉnh mắm muối) để câu chuyện được tỏ tường, và đỡ phần nhạt nhẽo.

Tác giả Lê Duy San cho biết:

“Ngày 12/7/1946, theo lệnh của Trường Chinh, Việt Minh âm thầm cho công an đột nhập trụ sở Việt Nam Quốc dân Đảng ở số 9 phố Ôn Như Hầu. Hằng trăm người bị giết bằng cách trói lại và bị quăng xuống những con sông để họ chết chìm rồi loan tin là những người này bị VNQDĐ thủ tiêu.

Vụ này đã làm cho VNQDĐ tan rã, nhiều người phải chạy trốn sang Tầu trong đó có cụ Nguyễn Hải Thần, Huỳnh Thúc Kháng, Vũ Hồng Khanh, Hoàng Đạo, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam và nhiều lãnh tụ của Việt Quốc và Việt Cách khác. Hàng ngàn người khác bị chúng bắt đem di giam giữ tại Hỏa Lò Hà Nội và nhiều nơi khác trong đó có nhà văn Khái Hưng Trần Khánh Giư.”

Tôi sinh sau đẻ muộn nên không được tường tận về những sự kiện thượng dẫn nhưng biết chắc rằng – ngoài những nhân vật nổi tiếng vừa nêu – còn có vô số những đảng viên cấp địa phương (của cả Việt Quốc lẫn Việt Cách) cũng bị truy lùng hay sát hại vì không “bung” kịp, hoặc không tìm được đường để ra đến nước ngoài.

Thân phụ tôi là một trong những kẻ thuộc cái đám đông vô danh tiểu tốt này. Thay vì chạy sang Tầu, như phần lớn những đồng chí ở trung ương, ông trốn vào Nam. Tuy tay trắng, không có chi để lận lưng, ngoài cái bằng tiểu học (Certificat D’Étude Primaires Complémentaires Indochinoises, C.E.P.C.I) ông vẫn kiếm được đôi ba chỗ kèm trẻ, và một nơi để trú thân, trong một cái xóm lao động nghèo nàn –  có tên là Xóm Chiếu – bên Khánh Hội.

Trong Thư Về Làng (viết năm 1956) nhạc sỹ Thanh Bình tâm sự: Từ miền Nam, viết thư về thăm xóm làng/ Sắt son gửi trong mấy hàng/ Thăm bà con dãi dầu năm tháng/ Từ Tiền giang thương qua đèo Cả thương sang/ Đêm đêm nhìn vầng trăng sáng …

Bố tôi không phải là nghệ sỹ nên ông chỉ đề cập đến chuyện cơm, áo, gạo, tiền … Thư ông viết: “Trong này có khi cơm ăn không hết, người ta đổ cho gà hay cho lợn”. Mẹ hiền, tất nhiên, không thể nào tin vào một chuyện “hoang đường” cỡ đó!

Bà vùng vằng, tức tối xé nát tờ thư trong tay (ấy là tôi đoán thế, nếu sai, xin má thứ tha và bỏ qua cho thằng con út) lầu bầu: “Lại phải lòng con đĩ nào trong ấy rồi, và chắc là định trốn vợ trốn con luôn đây, chứ thức ăn ở đâu ra mà lại phí phạm như vậy được?”

Nói xong, bất chấp mọi sự can ngăn/khuyên giải của họ hàng nội ngoại, bà tức tốc lặn lội vào Nam. Tới nơi, hiền mẫu tìm quanh quất mãi nhưng chả ra một con đĩ  (ngựa) nào ráo trọi mà nhìn đâu cũng thấy phố xá tấp nập, hàng quán tùm lum, và đồ ăn thức uống ê hề khắp chốn.  

Vốn ham vui, và rất chóng quên nên mẹ tôi ở lại luôn trong Nam cả năm trời. Hệ quả (hay hậu quả) là tôi cất tiếng khóc chào đời tại Sài Gòn. Khi hiệp định đình chiến được ký kết tại Geneve, vào ngày 20 tháng 7 năm 1954, tôi mới vừa lẫm chẫm biết đi. Cũng mãi đến lúc này bà má mới “chợt nhớ” ra rằng mình còn mấy đứa con nữa, đang sống với ông bà ngoại, ở tuốt luốt bên kia vỹ tuyến.

Thế là tôi được bế ra ngoài Bắc, rồi lại được gồng gánh vào Nam (cùng với hai người chị) không lâu sau đó. Nhờ vậy (nhờ ra đời trước cái đám Bắc Kỳ con sinh trong Nam đôi ba năm) nên từ thuở ấu thơ tôi đã được nghe nhiều bài hát ca ngợi tình bắc duyên nam – qua radio – vào thời điểm đó :

– Người từ là từ phương Bắc đã qua dòng sông, sông dài/ Tìm đến phương này, một nhà thân ái/ Ơi! Tình Bắc duyên Nam là duyên tình chung muôn đời ta đắp xây… (“Khúc Hát Ân Tình.” Xuân Tiên & Song Hương).

– Em gái Bắc Ninh, anh trai Biên Hòa/ Em đất Thanh Nghệ, anh nhà Cà Mâu/
Đồi nương thương sức cần lao/ Se duyên Nam Bắc ngọt ngào tình yêu, ngọt ngào tình yêu
… (“Đất Lành.” Phạm Đình Chương)

Chuyện se duyên Nam Bắc có ngọt ngào tình yêu (thiệt) không thì chả ai dám chắc, và cũng không có chi bảo đảm cả nhưng với thời gian – rồi ra – ai cũng biết cái mền là cái chăn, cái mùng còn gọi là cái màn, cái phong bì với cái bao thư là một, cái bật lửa đã trở thành bựt lửa, cái hôn và cái hun cùng một nghĩa (và cùng đã) như nhau.

Cuộc chung đụng giữa cái bàn là với cái bàn ủi, cái bát với cái chén, cái cốc với cái ly, cái ô với cái dù, cái môi với cái vá, cái thìa với cái muỗm … tuy không toàn hảo nhưng (tương đối) thuận thảo và tốt đẹp.

Kết quả của mối giao duyên tốt lành này là một phần tư thế kỷ sau – dù chả cần ai tuyên truyền, hay cổ động gì ráo nạo – chàng trai Biên Hoà Nguyễn Tất Nhiên vẫn cứ si mê “cô em tóc demi garçon,” và mê chết bỏ: Đôi mắt tròn, đen, như búp bê/ Cô đã nhìn anh rất… Bắc Kỳ/ Anh vái trời cho cô dễ dạy/ Để anh đừng uổng mớ tình si. (“Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ.” NXB Nam Á: Paris 1982).

Nền Đệ I Cộng Hoà ở miền Nam cũng có không ít những khiếm khuyết (vô cùng đáng tiếc) nhưng việc ổn định hằng triệu người dân di cư phải được coi là một điểm son của chế độ này, nhờ vào sự trợ giúp tận tình của cả nước Hoa Kỳ. Không phải thế lực ngoại bang nào đến Việt Nam cũng chỉ với mục đích xâm chiếm, cùng với chính sách chia để trị.

Chủ trương phân biệt vùng miền, mỉa mai thay, lại là đường lối xuyên suốt và nhất quán của cái nhà nước được mệnh danh là cách mạng hiện hành – theo như lời của nhiều công dân Việt :

  • FB Trần Đình Thu: “Để kỳ thị hai miền Nam Bắc xẩy ra ngày càng nghiêm trọng là do những chủ trương tuyên truyền hung hăng của nhà nước VN.”
  • Blogger Ku Búa: “Ai là người gây ra nạn phân biệt Bắc Kỳ Nam Kỳ? Đó không phải là sự khác biệt trong tư duy, trong môi trường sống, trong quan niệm sống hay con người. Mà chính là sự phân biệt trong chính sách chính phủ hiện tại.”
  • FB Thuc Tran: “Bất công là nguồn gốc của mọi sự thù ghét nhau giữa dân chúng hai miền và có lẽ đó cũng là ý đồ của đảng khi chia để trị.”

Họ có quá lời chăng?

Không dám “quá” đâu. Từ cuối thế kỷ trước, ông Vũ Đình Huỳnh (một nhân vật quan trọng của ĐCSVN) cũng đã từng nói những điều tương tự: “Sài Gòn là một thành phố bị chiếm đóng. Không phải là một thành phố được giải phóng. Chỉ vài năm thôi, nó sẽ giống Hà-Nội.” (Nguyễn Chí Thiện. Hỏa Lò. 7th ed. NXB Cành Nam, Virginia: 2007).

Thực sự thì Sài Gòn chưa bao giờ được Bên Thắng Cuộc xem “giống như Hà Nội” cả. Sự thực phũ phàng này được nhìn thấy rõ hơn trong những ngày tháng vừa qua.

Tác giả Nguyễn Khoa nhận xét:

“Dịch bệnh cũng làm bộc lộ mâu thuẫn chính trị vùng miền, với sự thống trị của miền Bắc, vốn là nơi phát xuất những đội quân chiến thắng năm 1975. Trong những năm 1990, người ta dành kinh phí quốc gia để xây dựng đường số 5 Hà Nội – Hải Phòng, hay đường số 18 Hải Dương – Quảng Ninh, thay vì con đường nhiều hàng hóa hơn là Quốc lộ 1 Sài Gòn – Mỹ Tho, hay liên tỉnh số 8 Sa Đéc – Long Xuyên.

Việc này có thể được thông cảm vì hệ thống đường sá miền Bắc quá tệ hại. Nhưng vào năm 2021, với một dân số gấp đôi, số người nhiễm bệnh gấp ba Hà Nội, mà số liều vaccine phân phối về Sài Gòn lại ít hơn là điều không thể tha thứ được.”

Bao giờ mà kẻ thống trị còn giữ được quyền bính thì họ chả cần đến sự “tha thứ” của bất cứ ai. Câu hỏi đặt ra là cái đạo quân chiếm đóng hiện nay sẽ còn tiếp tục duy trì được quyền lực ở Việt Nam thêm bao lâu nữa, và chuyện gì sẽ xảy ra sau đó?

Tưởng Năng Tiến
8/2021

Tự Do cho TNLT Trần Huỳnh Duy Thức

May be an image of 1 person and text that says 'TỰ DO CHO TNLT TRẦN HUỲNH DUY THỨC "TÔI CẦN CÔNG LÝ VÀ NHÀ NƯỚC PHẢI THƯỢNG TÔN PHÁP LUẬT!" LUA "Tôi không LẬT ĐÓ CHÍNH QUYỀN gì cả tôi chỉ CHỐNG CƯỜNG QUYỀN và sẽ còn CHỐNG nó đến khi nào còn THẤY nó"'

Lê Vi

Tôi có thói quen tìm kiếm sự vô lý trong mọi thứ xung quanh mình, có anh bạn mỗi lần gặp mặt thường than túng thiếu trong khi mỗi ngày anh hút hết một gói Marlboro giá khoảng 11 đô Mỹ. Khi tôi nói ông túng thiếu vậy sao ngày nào cũng đốt khơi khơi 11 đô chỉ để rước bệnh vô người chi vậy thì anh bảo “Chứ giờ bỏ hổng được biết làm sao?”

Xưa lúc mới qua đi làm chung với một bà đồng nghiệp da đen, chồng bà ấy làm nghề rửa xe dạo nhưng mượn tiền tậu một chiếc BMW gần 60 ngàn đô rồi đem về trùm mền lại chứ không dám chạy, lần đó xe bả bị hư phải sửa nên bả phải đi nhờ xe tôi, tôi hỏi sao không lấy xe BMW đi cho nó oai thì bả bảo chồng bả không cho bả đụng đến chiếc xe cưng đó, tôi cười và hỏi “Chiếc xe mua chỉ để ngắm thì mua làm gì?”

Hai vợ chồng ông bà bảo trợ cho gia đình tôi ngày xưa là giáo viên về hưu, họ sống giản dị và chi tiêu mọi thứ rất cẩn thận nên chỉ với số tiền hưu ít ỏi mà họ vẫn có thể đi du lịch khắp nơi trên thế giới. Một lần họ đem hình họ chụp ở Miến Điện cho tôi xem, chỉ vào những cái chùa vàng chùa bạc gì gì nơi xứ ấy họ bảo cái xứ này nghèo bởi vì họ xài sang quá, họ đổ quá nhiều tiền vào những nơi như thế này.

Mỗi khi về Việt Nam chơi tôi hay bị người nhà nhắc nhở “…thôi mày đừng chê nữa, làm mất cuộc vui…”. Thực tình là không phải tôi thích chê bai nhưng mỗi khi thấy chuyện gì vô lý mà không nói thì bức rứt khó chịu bởi ở xứ mình sự vô lý hiện diện ở khắp nơi.

Chẳng hạn như mới sáng sớm gặp mặt mấy thằng em tụi nó đã rủ “nhậu đi!”, giờ làm việc mà quán cà phê đông nghẹt người, đến nơi công quyền mới một giờ chiều đã thấy thằng cán bộ mặt đỏ gay vì cữ nhậu giữa trưa, con đường thì nhỏ mà cái lề đường lại quá rộng và không có đường cho xe lăn leo lên leo xuống, mỗi cái cổng chào hoành tráng cho mỗi huyện chẳng biết để làm gì? Đi từ Sài Gòn ra Nha Trang mà đếm không hết mấy cái tượng đài với cổng chào luôn, ủy ban nhân dân một toà nhà vĩ đại thì đảng uỷ cũng một toà vĩ đại không kém, thác Cam Ly lại chỉ có toàn nước cống và nước đái ngựa hôi rình, chợ Đà Lạt thì ngập ngụa rác, xuống tắm biển thì mới vừa lặn xuống trồi lên đã vướng cái bịt ni lông ở trên đầu…

Còn nhiều lắm, ở đâu cũng có sự vô lý nhưng ở xứ mình thì nó nhan nhản xung quanh ta, nó hiện diện ở tất cả các ngành trọng yếu của đất nước từ giáo dục, y tế, tư pháp, lập pháp, hành pháp, công an, quân đội, du lịch, thể thao…nói chung là nhiều lắm. Một con người mà cứ ôm khư khư những điều vô lý thì cuộc đời con ngưòi đó khó mà khá lên được, một dân tộc mà mãi bám víu vào những điều vô lý thì dân tộc đó khó có thể bằng bạn bằng bè, một đất nước mà nhìn đâu cũng thấy đầy sự vô lý thì đất nước đó khó thoát phận tiểu nhược nghèo hèn.

Một chính quyền mà không dẹp bỏ được những điều vô lý là một chính quyền không chính danh, một chính quyền mà dung dưỡng những điều vô lý chỉ với mục đích duy trì quyền lực thì chính quyền đó là thứ chính quyền vô đạo không xứng đáng được tồn tại. Công an nhân dân mà hợp tác với côn đồ đi liệng cứt vào nhà dân là vô lý, quân đội nhân dân mà đi ra hỗ trợ doanh nghiệp cướp đất của dân là vô lý, nhân tài của đất nước đã không được trọng dụng lại còn bị giam cầm oan ức là vô lý, hạng dốt nát tham lam mà nhảy lên làm quan với lương ba cọc ba đồng nhưng thằng nào cũng sở hữu biệt phủ lầu đài là một điều hết sức vô lý không tài nào hiểu được.

Thấy điều vô lý mà không lên tiếng thì xứng đáng được hít khói bụi khi đi ra đường, bị bỏ mặc cho chết trong phòng cấp cứu nếu không có tiền, bị tra tấn khi phải nín tiêu nín tiểu khi không có toilet, bị hành xác khi kẹt xe, bị đè đầu móc bóp khi qua hải quan, bị chặn xe làm tiền khi lưu thông trên đường, bị đánh đập đến chết khi vào đồn công an…

Thấy điều vô lý mà không lên tiếng để thay đổi nó thì sẽ sống chung với những điều vô lý như cái anh chàng nói ở đầu bài lúc nào cũng ca bài ca túng thiếu trong lúc miệng phì phèo thuốc lá và ho sù sụ, thế thôi.

Đất nước nào cũng cần người tài ra lãnh đạo để phát triển nhưng ở VN lại giam cầm người tài là một điều hết sức vô lý cần phải lên tiếng.

Free Trần Huỳnh Duy Thức

Fb Thuc Tran

Đọc chuyện bà Mai để biết dân khổ ra sao

Đọc chuyện bà Mai để biết dân khổ ra sao

Bởi  AdminTD

Blog VOA

Trân Văn

15-9-2021

Tờ Công Luận – cơ quan ngôn luận của Hội Nhà báo Việt Nam vừa kể một câu chuyện mà nội dung khiến độc giả không biết nên xác định thân phận con người và đạo lý ở Việt Nam vào loại nào trong đại dịch…

Bà Trương Thị Tuyết Mai, 54 tuổi, cư trú ở phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân, TP. HCM. Ngày 28/6/2021, bà Mai rời nhà, dùng xe hai bánh gắn máy về xã Tường Đa, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre để chăm sóc thân mẫu lâm trọng bệnh…

Thượng tuần tháng 7, chính quyền TP.HCM bắt đầu áp đặt những biện pháp phòng ngừa nghiêm ngặt theo yêu cầu “ai ở đâu ở đấy” của Thủ tướng nên bà Mai bị kẹt lại tại Bến Tre không thể về nhà.

Bà Mai dự tính sẽ chờ đến 15/9/2021 – thời điểm mà chính quyền TP.HCM nới lỏng các biện pháp hạn chế đi lại – nhưng chồng bà đột ngột lâm trọng bệnh. Ngày 11/9/2021, bà Mai đến Văn phòng UBND tỉnh Bến Tre, trình bày hoàn cảnh của mình và xin nơi này cấp cho bà Giấy đi đường. Chính quyền tỉnh Bến Tre đã cho bà một tờ giấy. Họ xác định bà Mai được rời Bến Tre vào ngày 12/9/2021 để về nhà ở phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân, TP. HCM. Yêu cầu bà tuân thủ các qui định về phòng chống dịch. Đồng thời đề nghị Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch COVID-19 các cấp cho phép bà Mai được băng qua các trạm gác vì chồng bà cần người chăm sóc…

Có giấy xác nhận đã xét nghiệm COVID-19 với kết quả âm tính, có giấy đi đường, bà Mai dùng xe hai bánh gắn máy rời khỏi Bến Tre nhưng chỉ đi được đến thành phố Tân An, thuộc tỉnh Long An…

Một trạm kiểm soát đi lại ở thành phố Tân An, tỉnh Long An không cho bà Mai qua trạm vì… Giấy đi đường do UBND tỉnh Bến Tre không có… số văn bản! Muốn qua trạm này, bà Mai phải quay lại Bến Tre, xin giấy đi đường… hợp cách!

Thế là bà Mai phải lộn trở lại Bến Tre để xin Giấy đi đường mới. May cho bà là Văn phòng UBND tỉnh Bến Tre thông cảm, chấp nhận cấp lại Giấy đi đường có… số văn bản theo đòi hỏi của chính quyền tỉnh Long An…

Với Giấy đi đường mới, bà Mai hăm hở trở về thêm một lần nữa ngay trong ngày 12/9/2021. Lần này bà băng qua được tỉnh Long An nhưng khi xe hai bánh gắn máy của bà gặp trạm kiểm soát đầu tiên của TP.HCM ở huyện Bình Chánh thì bà không được đi nữa! Công an ở trạm này không chấp nhận cho bà Mai – cư dân TP.HCM – quay về nhà của bà để chăm sóc chồng vì theo họ, lý do đó… không chính đáng! Bà Mai kể với phóng viên của tờ Công Luận rằng: Công an dọa sẽ lập biên bản, phạt bà vi phạm quy định phòng, chống dịch nếu bà tiếp tục năn nỉ… Bà Mai đành ngậm đắng, nuốt cay quay về Bến Tre thêm một lần nữa.

TP.HCM đã quyết định kéo dài thời gian hạn chế đi lại thêm nửa tháng nữa. Chưa rõ sau 30/9/2021 bà Mai có được trở về nhà của bà không? Đến lúc đó chồng của bà có còn cần người chăm sóc nữa không hay đã…

Tờ Công Luận đã đem câu chuyện của bà Mai và những Giấy đi đường bà được chính quyền tỉnh Bến Tre cấp để hỏi đại diện Công an TP.HCM xem… vì sao lại thế? Một viên thượng tá tên Lê Mạnh Hà là Phó phòng Tham mưu của Công an TP. HCM, bảo rằng: Công an TP.HCM chưa nhận được… văn bản của chính quyền tỉnh Bến Tre! Chẳng lẽ ngoài Giấy đi đường đã cấp cho bà Mai, chính quyền tỉnh Bến Tre còn phải gửi văn bản cho Công an TP.HCM để thông báo họ cho phép bà Mai rời khỏi Bến Tre?

Viên thượng tá vừa đề cập nói thêm, công an ở các chốt, trạm chỉ làm theo qui định “ai ở đâu, ở đấy”. Giấy đi đường liên tỉnh chỉ có giá trị khi có cả sự đồng ý của bên cho đi và bên tiếp nhận! Dường như đây là chỉ thỉ của Bộ Công an nên viên thượng tá tên Hà cho biết, Công an TP.HCM đang đề xuất Bộ Công an có văn bản chỉ đạo, tránh tình trạng mỗi địa phương thực hiện một kiểu! Viên thượng tá bảo, những trường hợp như bà Mai thì… CÓ THỂ giải quyết linh động hơn, hỗ trợ người dân về nhà an toàn.

CÓ THỂ có nghĩa là chấp nhận cũng được và từ chối cũng… chẳng sao! Không chỉ bà Mai, hoàn cảnh của bà, mà sự chấp thuận – cho phép đương sự đi lại – của chính quyền một tỉnh cũng… chẳng là gì cả!

Đại dịch COVID-19 đã lột trần từ trí tuệ, khả năng đến bản chất phi nhân của hệ thống chính trị, hệ thống công quyền từ trung ương đến địa phương tại Việt Nam. Khi Thủ tướng bật đèn xanh cho hệ thống truyền thông chính thức hướng dư luận vào việc chỉ trích hệ thống chính trị, hệ thống công quyền địa phương vì… xét nghiệm chậm, lỏng lẻo trong quản lý người về từ vùng dịch (2) thì chuyện xem việc ai đó muốn về nhà để chăm sóc thân nhân lâm trọng bệnh là… không chính đáng sẽ mang tính tất nhiên.

Không chỗ nương thân, đói khát, thiếu người chăm sóc nếu bệnh tật hay chẳng may nhiễm COVID-19, tuyệt vọng vì tương lai mù mịt, nhiều người Việt tìm đủ mọi cách để thoát khỏi vùng dịch, kể cả chấp nhận những phương thức nguy hiểm tới tính mạnh trốn trong thùng xe vận tải chở hàng đông lạnh (3). Hệ thống chính trị, hệ thống công quyền vẫn thế, vẫn bất chấp thực tại, răm rắp thực thi nghiêm lệnh của Thủ tướng dù nghiêm lệnh chỉ khiến thực trạng tồi tệ hơn để khỏi bị phê bình, khỏi bị Thủ tướng biến thành bung xung, thay chính phủ gánh trách nhiệm vì chiến lược và các giải pháp phòng ngừa chung chung, thiếu cụ thể, không hiệu quả nhưng vẫn khoác tấm áo choàng… chính đáng!

Việt Nam/COVID: Số ca nhiễm và tử vong đi xuống trong 8 ngày

VOA Tiếng Việt

Bản tin về đại dịch COVID-19 của Bộ Y tế Việt Nam cho biết đất nước có thêm hơn 10.500 ca nhiễm và 276 ca tử vong trong thời gian từ 17h ngày 13/9 đến 17h ngày 14/9.

Đến nay, Việt Nam có tổng cộng hơn 635.000 người nhiễm virus và 15.936 người thiệt mạng vì dịch. Hầu hết các ca này xảy ra trong vòng 4 tháng rưỡi trở lại đây. Chiếm khoảng một nửa các con số vừa kể là ở thành phố Hồ Chí Minh, tâm dịch của đất nước.

Thống kê của Bộ Y tế cho thấy số ca dương tính được ghi nhận qua các cuộc xét nghiệm chính thức đang có xu hướng đi xuống trong 8 ngày gần đây, từ gần 14.200 ca hôm 7/9 xuống gần 10.500 hôm 14/9.

Trong cùng thời gian, đường đồ thị về số người tử vong trên toàn quốc đi từ con số 316 của ngày 7/9 và 335 của ngày 8/9 xuống 217 vào ngày 11/9, sau đó đi ngang trong 3 ngày từ 12 đến 14/9 với khoảng trên dưới 270 người thiệt mạng vì dịch mỗi ngày.

Xu thế giảm cũng khá rõ ở tâm dịch Tp.HCM, với số ca nhiễm trung bình là trên dưới 7.300 trong các ngày 7-10/9 xuống mức 5.500-6.500 trong những ngày gần đây, tương tự là con số tử vong từ trên 250 ca trong các ngày 7 và 8/9 xuống khoảng 200 trong vài ngày qua.

Mặc dù vậy, tình hình dịch vẫn bị xem là còn nghiêm trọng và chính quyền Tp.HCM tiếp tục áp dụng lệnh giãn cách ở mức độ cao trong ít nhất 2 tuần nữa kể từ ngày 15/9.

Thành phố có vai trò là đầu máy kinh tế của Việt Nam đã áp dụng các biện pháp giãn cách, phong tỏa nghiêm ngặt trong hơn 3 tháng, dẫn đến nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp và người dân.

Trong khi đó, chính quyền của thủ đô Hà Nội mới đây cho biết họ đang cân nhắc lộ trình nới lỏng giãn cách theo từng bước sau các thời điểm 15 và 21/9, nhưng chưa đưa ra kế hoạch nào cụ thể. Một quan chức kiểm soát bệnh dịch của Hà Nội nói với báo chí rằng thành phố này vẫn “chưa hết nguy cơ lây nhiễm”. Thủ đô của Việt Nam áp dụng lệnh giãn cách từ 24/7.

Cách Hà Nội không xa, chính quyền thành phố cảng Hải Phòng thông báo hôm 14/9 rằng họ cho phép một loạt dịch vụ công ích hoặc kinh doanh sinh lợi được hoạt động trở lại từ 0h ngày 15/9.

Đó là các vườn hoa, công viên, nhà hàng, các quán vỉa hè, các cơ sở kinh doanh dịch vụ thể dục, thể thao trong nhà, spa, chăm sóc sắc đẹp, các phòng khám chữa răng, tai mũi họng, v.v…

Nhà chức trách Hải Phòng nói cơ sở để nới lỏng lệnh giãn cách là thành phố đã đẩy mạnh tiêm vắc-xin, đến nay đã tiêm được gần 500.000 liều, và qua 21 ngày thực hiện nhiều xét nghiệm song không ghi nhận ca nhiễm mới trong cộng đồng.

Trên cả nước, Việt Nam đã tăng đáng kể số người được chủng ngừa COVID-19, với tổng số liều vắc xin được tiêm là hơn 30,3 triệu, trong đó hơn 24,7 triệu người tiêm được tiêm 1 mũi và hơn 5,6 triệu người đã tiêm 2 mũi. Với dân số hơn 98 triệu người, việc tiêm vắc-xin của Việt Nam còn tiếp tục diễn ra trong những ngày tháng tới.

https://www.voatiengviet.com/…/viet-nam…/6226001.html

Việt Nam/COVID: Số ca nhiễm và tử vong đi xuống trong 8 ngày

VOATIENGVIET.COM

Việt Nam/COVID: Số ca nhiễm và tử vong đi xuống trong 8 ngày

Theo Bộ Y tế VN, số ca dương tính đang có xu hướng đi xuống trong 8 ngày gần đây, từ gần 14.200 ca hôm 7/9 xuống gần 10.500 hôm 14/9. Đường đồ thị về số người tử vong trên toàn quốc cũng đi xuống.

NGƯỜI LÍNH MIỀN BẮC CÓ “ĐÁNH THUÊ” KHÔNG?

 Tôi Yêu Miền Nam

NGƯỜI LÍNH MIỀN BẮC CÓ “ĐÁNH THUÊ” KHÔNG?

Trần Trung Đạo

Các bạn trẻ tại Việt Nam nghe ba chữ “lính đánh thuê” từ khi mới tập đọc nhưng chắc không hiểu rõ định nghĩa quốc tế của ba chữ này.

Theo Nghị định thư (Protocol) 1977 được Liên Hiệp Quốc công bố ngày 8 tháng 6 năm 1977 để đính kèm theo Công Ước Geneva quy định các nguyên tắc hành xử trong một xung đột võ trang ra đời năm 1949, những điểm căn bản định nghĩa lính đánh thuê (mercenary) gồm (1) không thuộc quân đội chính thức của chính phủ, (2) được tuyển dụng tại địa phương hay nước ngoài để tham gia một cuộc xung đột võ trang chỉ vì ước muốn riêng tư và được hứa đền bù cao hơn một người lính cùng cấp trong lực lượng võ trang của chính phủ mướn người đó, (3) không phải thành viên hay đang cư ngụ trên lãnh thổ được kiểm soát bởi chính phủ.

Theo định nghĩa trong Nghị định thư 1977, người lính miền Nam không đánh thuê cho ai cả mà chỉ chiến đấu trong một cuộc chiến tranh tự vệ trên mảnh đất mà chính họ chọn làm quê hương và nhiều trong số họ đã chết trên mảnh đất đó.

Nếu gọi quân đội Việt Nam Cộng Hòa là lính đánh thuê cho Mỹ vì Mỹ trang bị vũ khí, tài trợ là không đúng với các định nghĩa quốc tế cũng như thực tế chiến tranh.

Trong Thế chiến Thứ hai, phần lớn trong khoảng 60 quốc gia trực tiếp hay gián tiếp đứng về phía đồng minh, trong đó có Liên Sô và đã nhận vũ khí của Mỹ qua đạo luật Lend-Lease Act nhưng không ai gọi họ là “lính đánh thuê” vì họ có kẻ đối đầu chung là Khối trục. Tương tự, từ khi bắt đầu cuộc chiến cho đến khi Hiệp định Paris ký kết ngày 27 tháng 1 năm 1973, quyền lợi và mục đích chiến lược của Mỹ và VNCH giống nhau là ngăn chận làn sóng CS tràn xuống phía Nam Việt Nam. Sau khi Mỹ thay đổi trục chiến lược bằng việc thỏa hiệp với Trung Cộng, VNCH phải chiến đấu trong cô đơn và cô thế.

Nói rộng hơn, ngoại trừ các hoạt động gián điệp mà bất cứ cuộc chiến tranh lớn nào cũng có, Việt Nam Cộng Hòa không chủ trương đánh chiếm miền Bắc. Nếu CS miền Bắc, tính luôn các thành phần CS cài lại ở miền Nam sau 1954, để yên cho miền Nam ổn định và phát triển về mọi lãnh vực thì đã không có gì xảy ra.

Nếu áp đụng Nghị định thư 1977 trong Công Ước Geneva 1949, câu hỏi “Người lính miền Bắc có đánh thuê không?” lại có vẻ thích hợp hơn và đáng phân tích hơn.

Những người lính miền Bắc thỏa mãn các điều kiện căn bản của định nghĩa “lính đánh thuê” vì (1) “không thuộc quân đội chính thức” mà là các thành phần khủng bố, xâm lược, được lén lút đưa vào Việt Nam Cộng Hòa từ một quốc gia khác, trong trường hợp này là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH), (2) vô thừa nhận, đảng CSVN có một thời không thừa nhận những thanh niên nói giọng Hà Nội, Nghệ An, Hà Tỉnh, Cao Bằng v.v.. bị quân đội VNCH bắt được là từ miền Bắc mà cho họ là “nhân dân miền Nam tự đứng dậy”, (3) chỉ phục vụ cho quyền lợi của những kẻ trả lương và cung cấp vũ khí trong đó gồm đảng CSVN, Liên Sô và Trung Cộng.

Không chỉ rút ra từ Công ước Geneva mà từ cấp cao nhất của đảng CSVN cho đến cấp cao nhất của nhà nước VNDCCH đều thừa nhận “lính miền bắc là lính đánh thuê”.

Lấy các phát biểu của Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng và Nguyễn Mạnh Cầm để chứng minh.

Về phía đảng, Lê Duẩn, Tổng bí thư đảng CSVN thừa nhận quân đội CSVN là quân đội đánh thuê.

Nhân dịp “40 năm ngày ký Hiệp định Paris về Việt Nam”, Nguyễn Mạnh Cầm, nguyên Bộ trưởng Ngoại Giao CSVN, khi trả lời phóng viên Tuần Việt Nam đã nhắc lại câu nói của Lê Duẩn: “Ta đánh là đánh cả cho Trung Quốc, cho Liên Xô!”.

Để công bằng và trung thực cho câu nói của Lê Duẩn, xin lưu ý, một số tài liệu khi viết lại đã cố tình bỏ chữ “cả” để vạch ra bộ mặt đánh thuê của CSVN là “đánh cho Trung Quốc và Liên Sô”. Thật ra, trong câu đó có chữ “cả” nữa, nhưng “cả” gồm những ai, xin đọc tiếp.

Câu trả lời của Lê Duẩn có thể phân tích đầy đủ hơn gồm “cho ta”, “cho Trung Quốc” và “cho Liên Sô”:

(1) Quân đội CS miền Bắc “đánh cho ta” nhằm CS hóa toàn cõi Việt Nam. Nếu theo dõi dòng lịch sử đảng CS từ thập niên 1920 khi Hồ Chí Minh nước mắt chảy dài đọc “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lenin viết ngày 5 tháng 6, 1920 cho đến hôm nay rồi đem so sánh giữa thực tế đất nước qua cách sống như vua chúa của tập đoàn cai trị CS bên cạnh những mái tranh nghèo của hơn 90 triệu dân còn lại, sẽ thấy “ta” trong câu của Lê Duẩn là đảng CSVN chứ không phải toàn dân Việt Nam.

(2) Quân đội CS miền Bắc đánh thuê cho Trung Cộng để bảo vệ vùng an toàn phía nam quan trọng của Trung Quốc và cửa ngõ ra Biển Đông. Chính sách bành trướng nhanh chóng của Tập Cận Bình ngày nay một phần do quan điểm Trung Quốc và Việt Nam như anh với em, như môi với răng, như nước với sữa mà CSVN đã lặp đi lặp lại từ lâu.

Nếu CSVN biết cứng rắn như Philippines hay kiên quyết như Bắc Hàn thì dù không chận đứng hẳn ít ra đã làm họ Tập chậm chân chứ không có những căn cứ, những phi trường quân sự trên đảo Chữ Thập của Việt Nam như ngày nay.

(3) Quân đội CS miền Bắc đánh thuê cho Liên Sô để giảm áp lực của Mỹ bằng một mặt trận nóng trong Chiến Tranh Lạnh giữa Mỹ và Liên Sô. Giới lãnh đạo CS Liên Sô biết không sớm thì muộn Liên Sô sẽ nguy khốn nếu không làm chậm cuộc chạy đua võ trang với Mỹ.

Về phía chính phủ CS, Phạm Văn Đồng, thủ tướng CSVN, cũng thừa nhận quân đội CS đánh thuê cho Trung Cộng.

Đoạn đối thoại dưới đây giữa Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng trích trong tác phẩm On China của Henry Kissinger. Chu Ân Lai nói với Phạm Văn Đồng: “Trong một thời gian dài, Trung Quốc bị Mỹ bao vây. Bây giờ Liên Xô bao vây Trung Quốc, ngoại trừ phần Việt Nam.” Phạm Văn Đồng cam kết: “Chúng tôi càng quyết tâm để đánh bại đế quốc Mỹ bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam.” Chu Ân Lai thỏa mãn: “Đó chính là lý do chúng tôi ủng hộ các đồng chí.”

Như vậy, cả đại diện cho đảng và nhà nước CS đều thừa nhận những người lính từ Bắc Việt và các thành phần cài lại ở miền Nam đều là lính đánh thuê, đúng theo tinh thần của Công ước Geneva 1949.

Quan điểm Mao Trạch Đông về chiến tranh tại Việt Nam phù hợp với cách giải thích của Lê Duẩn. Theo đó, giống như trong chiến tranh Triều Tiên, là tạo một vùng độn trong biên giới phía nam Trung Quốc. Để thực hiện chủ trương này, Trung Cộng đã chi dụng gần như hầu hết võ khí, đạn được cho CSVN. Trung Cộng là mẹ đỡ đầu của các chính sách và chiến lược chiến tranh của đảng CSVN từ 1949 đến 1954.

Giai đoạn đầu của chiến tranh, Mao chỉ muốn miền Bắc là phên giậu và thỏa mãn sau khi đạt được mục đích đó.

Theo nghiên cứu của Chen Jian trong China’s Involvement in the Vietnam War, 1964-69, Bành Đức Hoài, 24 tháng 12, 1955 thông báo cho Võ Nguyên Giáp biết các đoàn cố vấn quân sự Trung Cộng sẽ rút về nước hết vào tháng 3, 1956. Tuy nhiên khi chiến tranh leo thang, Trung Cộng cảm thấy vùng an toàn phía nam lần nữa bị đe dọa nên đổi ý và gia tăng viện trợ cho CSVN cho đến khi chấm dứt chiến tranh.

Quan điểm Liên Sô về chiến tranh Việt Nam xác định chủ trương mướn người Việt đánh người Mỹ.

Mặc dù trước đó tỏ ra lạnh nhạt trong nhưng khi cuộc chiến leo thang, Liên Sô từng bước trở thành phe có lợi trong chiến tranh tại Việt Nam. Liên Sô vượt qua cả Trung Cộng trong việc cung cấp vũ khí, viện trợ kinh tế và các phương tiện tuyên truyền cho CSVN. Để làm gì? Ngày nay các tài liệu cho thấy, Liên Sô muốn (1) dùng người Việt để đánh Mỹ, (2) cố gắng nhận chìm bộ máy quân sự của Mỹ, (3) cạnh tranh ảnh hưởng với Trung Cộng trong các nước thuộc phe “xã hội chủ nghĩa”, và (4) quan trọng nhất là giảm ưu thế của Mỹ trong cuộc chạy đua vũ trang.

Tóm lại, quan điểm của Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Trung Cộng và Liên Sô về lý luận lẫn thực tế đều giống nhau.

Nhưng nếu đem câu “người lính miền bắc có đánh thuê hay không?” để hỏi một cựu cán binh CS đã từng chiến đấu ở miền Nam trước 1975, chắc chúng ta sẽ nhận câu trả lời “không phải.”

Nếu ai đó tiến bộ về nhận thức chính trị thì nhiều lắm chỉ thừa nhận họ bị gạt, bị lừa nhưng vẫn cho khẩu hiệu “đánh bại chính sách thực dân mới của đế quốc Mỹ” là đúng và “thống nhất đất nước” là tình cảm tự nhiên. Tuy nhiên, cho tới nay, chắc không bao nhiêu người hiểu “chủ nghĩa thực dân mới” là gì và tình cảm “thống nhất đất nước” kia từ đâu mà có.

Một số khác cũng trả lời “không”, không có nghĩa là họ không thấy, không biết, không nhận ra sự thật sau nhiều nghìn đêm mất ngủ, nhưng chỉ vì không đủ can đảm để từ chối một phần đời trai trẻ của mình và nhất là mất đi những gì họ đang có hôm nay.

Trần Trung Đạo

Một thảm họa nhân đạo…!

DuyHy  Luật Sư Nguyễn Văn Đài và Bạn Bè

Một thảm họa nhân đạo…!

Một đoàn 15 người quê Trị Thiên, bỏ ra 700k mỗi người để thuê xe đông lạnh chở từ Đồng Nai về quê, gặp chốt chặn và bị phát hiện, với tình trạng “khó thở” – khi trả lời với cơ quan chức năng, một người trong đoàn đã nói như vậy.

“Khó thở”, làm người ta liên tưởng tới tin nhắn cuối cùng của một nạn nhân trong vụ 39 người trong container đông lạnh ở UK, đã gửi đoạn chat cuối cùng với tiếng kêu trong tuyệt vọng “Mẹ ơi, con không thở được”.

Không biết, những người lãnh đạo quốc gia đang nghĩ gì? Ông trọng ông chính, miệng lúc nào cũng ca ngợi đây là thiên đường, có đảng quang vĩ đại lãnh đạo?

Các ông vĩ đại đang nghĩ điều chi khi thấy hình ảnh này? Khi đồng bào của mình, những người chủ đất nước phải chui trong xe đông lạnh để đào thoát khỏi nhà tù đang bao phủ khắp Miền Nam, và, với thành tích chống dịch giảm Dân số chưa có điểm dừng của các ông miệng đầy lý luận?

Không ai muốn mình phải nguy hiểm, nhất là trong lúc này, để mạo hiểm chui vào thùng xe với rủi ro chết người vô cùng lớn nhưng họ vẫn phải thử, mới biết ở lại còn kinh hoàng như thế nào? Có khi là cái chết từ từ đau đớn.

Hình ảnh này như cái tát vào những kẻ miệng mở ra lúc nào cũng vì Dân, Do Dân.. các ông vì Dân sao lại để ra nông nỗi thế này?

Hình ảnh này gợi ta nhớ nhiều điều tang thương của năm 2019, nhưng, nó nhắc ta rằng, ta đang sống ở một quốc gia không thở được đúng nghĩa. Một thảm hoạ đang trải khắp trên quê hương, không phải do dịch bệnh gây ra mà vì những kẻ gọi là lãnh đạo.

Nếu như, có cạnh tranh về học thuật, có tự do biểu đạt, công bằng trong môi trường việc làm tại Việt Nam, thì, làm sao 39 người phải chạy sang Uk và bỏ mạng, làm sao người ngoài trung lại chạy hết vào Nam?

Mọi tài nguyên quốc gia đều bị nhóm cầm quyền chiếm đoạt, lợi ích nhóm luôn đặt lên trên lợi ích Dân tộc, họ tước đoạt quyền bình đẳng của Nhân dân, để rồi tạo ra các cánh cửa chặn đường sống của Nhân dân, buộc Dân phải tha hương cầu thực, miễn sao tạo của cải, vật cho cá nhân những kẻ cầm quyền.

Dân ta bị vắt kiệt sức, bị đối xử không như một con người – rất khó thở. Ngay cả lúc dịch bệnh đang xảy đến, với bản tính tham lam vô độ, vừa ác lại thiếu trí tuệ, các chính sách chống dịch ban ra liên tục, cũng chỉ nhằm tạo ra lợi nhuận cho một nhóm người. Vì thế, một thảm hoạ nhân đạo xảy ra, một không gian ảm đạm một không khí ngột ngạt khó thở bao bùm lên mọi người Dân- vì họ là Dân đen.

Xin hãy đoái thương và nhìn đến những mảnh đời đang khốn khổ, họ đang ở đáy vực thẳm, hãy tìm cách thương lấy đồng bào mình. Vì họ đã ở tận cùng khốn khổ.

Phạm Minh Vũ

https://vnexpress.net/15-nguoi-ngoi-trong-xe-dong-lanh-de…

SÀI GÒN NGÀY PHONG TỎA THỨ SÁU MƯƠI SÁU

Van Pham

Bài viết khá dài, xin phép tác giả được ngắt đoạn để người đọc dễ theo dõi hơn…

***

SÀI GÒN NGÀY PHONG TỎA THỨ SÁU MƯƠI SÁU

Do Duy Ngoc

Chính quyền thành phố đã bắt đầu những chủ trương và đề ra các biện pháp giảm giãn cách. Mục đích là sẽ bình thường hoá đời sống của Sài Gòn sau thời gian dài thi hành nhiều biện pháp không mang lại hiệu quả. Thành phố đã bắt đầu chỉ thị 16 từ 9.7.2021.

Đến nay qua nhiều lần siết chặt, giới nghiêm đã đến ngày thứ 66. Mọi người đang mong muốn sẽ bình thường cuộc sống nhưng cuộc sống sẽ không còn bình thường như xưa được nữa. Cơn đại dịch đã mang đến thành phố này những đổi thay và mất mát quá lớn. Làm sao mà bình thường được khi có người đã mất vợ, mất chồng, mái ấm gia đình tan nát cả. Làm sao bình thường được nữa khi chỉ trong thời gian ngắn ngủi, cha mẹ già lần lượt ra đi, bạn bè, người thân cũng không còn. Làm sao bình thường trở lại khi những người con bỗng chốc trở thành kẻ mồ côi, bơ vơ lạc lõng giữa cõi đời.

Cũng khó có thể bình thường khi những đứa con mang nặng đẻ đau nuôi lớn bỗng một ngày tắt thở vì dịch bệnh. Bao ước vọng, bao ước mơ, bao tin yêu bỗng chốc sụp đổ. Cũng không thể bình thường khi trên bàn thờ của nhiều gia đình có thêm những hủ tro cốt xếp hàng và nhiều người chết giờ vẫn còn nằm trong ngăn lạnh.

Chúng ta sẽ không thể trở lại cuộc sống bình thường như cũ nữa. Đó là một thực tế phải chấp nhận. Kinh tế sa sút có thể một năm, hai năm hay năm năm, mười năm nữa sẽ phục hồi và phát triển. Những những người mất đi trong cơn đại dịch làm sao có thể tái sinh. Mất mát lớn nhất của dịch bệnh đi qua thành phố này là con số tử vong. Khu nào cũng có người chết, trẻ có, già có, giàu có, nghèo có. Tất cả lặng lẽ ra đi không lời tiễn đưa, không kinh cầu, không đèn hoa. Đó chính là bi kịch lớn nhất mà con người đã chứng kiến và cũng là nạn nhân khi con virus tung hoành ở thành phố này.

Có nhiều nguyên nhân để đưa đến những bi kịch, có nhiều vụng về, lúng túng, sai sót trong cách xử trí khủng hoảng. Cũng không thiếu những sai lầm cần rút ra những bài học. Nhưng rồi phải chấp nhận, chấp nhận những cái chết oan khiên không đáng có, chấp nhận những hoang mang, căng thẳng, lo âu, thiếu thốn và tù hãm thật ra cũng không đáng có. Thời gian cũng đang trôi đi, dịch bệnh cũng đang có dấu hiệu giảm dần, số người tử vong hàng ngày cũng đang dần ít đi. Còn được sống còn có quyền hi vọng. Nhưng có hi vọng được không?

Trong chuỗi ngày dài sống trong sợ hãi và âu lo, con người có thể sẽ có những thay đổi, có cái nhìn khác về cuộc đời, về tham vọng, về lợi danh. Con người sẽ thấm hơn về lẽ vô thường. Những cái chết nhanh chóng vì thiếu một hơi thở, vì thiếu sự chăm sóc kịp thời sẽ cho người ta thấy rõ hơn lằn ranh sinh tử chỉ là một khoảnh khắc, chỉ là một phút giây. Để rồi ngộ ra một điều tất cả là vô nghĩa. Buông hai tay là chẳng còn gì. Một thân xác mới thấy đó, hiện diện trong cõi đời với một số phận bỗng chốc chỉ còn là một nắm tro. Một con người trong phút chốc đã biến mất hẳn trên cõi đời này. Hơn thua, được mất, tiền tài, danh vọng, nhan sắc, lợi danh chẳng còn ý nghĩa chi nữa.

Con virus Vũ Hán bay lơ lửng đó đây và cho đến nay người ta vẫn chưa hiểu hết về nó. Người chưa tiêm vaccine cũng nhiễm mà người đã tiêm vaccine đủ liều vẫn nhiễm, và cũng có người vẫn diễn biến nặng và tử vong. Loài người cứ nghĩ rằng vaccine là cứu cánh duy nhất của đại dịch. Nhưng rồi chưa hẳn thế. Mỹ rồi Israel đã tiêm chủng nhưng số người nhiễm vẫn liên tục. Khoa học đang tìm mọi cách để hiểu hơn về nó và tìm đủ biện pháp để ngăn chận nó. Nhưng cho đến giờ vẫn chưa tìm ra. Cấu trúc của virus Vũ Hán là một loại vi khuẩn đơn giản nên cứ sau 106 lần nhân lên của virus lại xuất hiện 1 đột biến mới. Như vậy thì hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng đều có chủng virus mới. Chủng virus mới này chưa đủ mạnh để gây thành dịch do biến chủng mới mà thôi.

Chỉ mới biến chủng Delta mà nhân loại đã rùng mình rồi, nếu giờ thêm biến chủng mạnh khác nữa chắc là bó tay thôi. Và đành phải sống chung với nó. Sống chung và rút ra những bài học cho cuộc sống. Tai nạn giao thông hàng năm chết chục ngàn người, ung thư hàng năm chết hàng trăm ngàn người, chết vì bệnh tim mạch cũng là con số lớn nhưng rồi người ta vẫn không sợ hãi, không hoang mang như nhiễm và chết vì con virus. Và cũng có người lại bảo rằng sao chỉ nói về tác hại của Covid mà rất ít người nhìn nhận khía cạnh tích cực của nó. Tôi cho rằng không nên có suy nghĩ khía cạnh tích cực về đại dịch mà chỉ là chấp nhận nó và tìm cách để sống chung bình thường với con virus đó mà thôi.

Đó là những kinh nghiệm để thích nghi với cuộc sống bị tù hãm, bị xáo trộn những sinh hoạt thường ngày. Tập thích nghi để tiếp tục sống được trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tập bình thản không kêu ca để được tâm yên. Tập làm những việc mà trong cuộc sống bình thường ta không làm hoặc không muốn làm và giờ đây ta biết rõ là chuyện gì nếu muốn và cố gắng, ta vẫn làm được cả.

Tức là tạo cho bản thân kỹ năng sống trong mọi hoàn cảnh. Ăn thiếu một chút, ăn dở hơn bình thường, thiếu cái này, hụt cái kia rồi cũng xong một ngày, cũng qua một bữa. Càng thấm hơn cái triết lý cứ biết đủ là đủ. Hiểu được lẽ vô thường, chúng ta sẽ học cách bao dung hơn, yêu thương, quan tâm đến những người chung quanh hơn, quên bớt cái tôi của mình đi.

Chứng kiến cảnh nhiều người chết hàng ngày, chúng ta học bớt sân si, bớt tham lam, ích kỷ, bớt ham danh vọng bởi cái chết lúc nào cũng rình rập quanh ta. Hãy học thêm yêu thương, hãy mở lòng ra với những thân phận, hãy biết sẻ chia. Đừng đòi hỏi riêng cho mình nhiều quá mà học bài học cảm thông để chia sẻ cho mọi người và đồng cảm cho mọi hoàn cảnh. Dịch bệnh cũng cho ta tập kiên nhẫn và tập hoà hợp. Kiên nhẫn để có thể chịu đựng và hoà hợp để cùng mọi người chung lòng vượt qua những khó khăn.

Dịch bệnh còn cho ta thấy rõ đằng sau những cao ốc chọc trời, những chiếc xe trăm tỷ, những áo xiêm loè loẹt, những ký hột xoàn chiếu sáng, những cuộc ăn chơi thâu đêm của các thiếu gia, đại gia là hàng triệu con người thiếu ăn, sống lam lũ trong những căn nhà chật hẹp, những phòng trọ thiếu tiện nghi của một cuộc sống con người. Những số phận đó ngày thường đã bị che lấp bởi nhịp sống hối hả của Sài Gòn.

Và ta cũng nên biết sống cho mình, cứ làm những điều mình khao khát, mình ước mơ, mình ưa thích vì nhiều khi chúng ta sẽ chẳng còn cơ hội để thực hiện. Những bi thương của nhân loại đang gánh chịu duy cho cùng cũng do lỗi ở con người. Phá rừng, làm những dòng sông khô kiệt, đầu độc biển cả, phá hoại môi trường, vì lợi lộc mà tự đầu độc nhau, bắn giết lẫn nhau, đua nhau chế tạo những vũ khi giết người nhanh nhất, nhiều người chết nhất, nghiên cứu và phát triển những vi khuẩn độc hại để mong bá chủ thế giới..lỗi là từ con người cả.

Và cũng đã đến lúc loài người bị trừng phạt chính bởi những âm mưu của chính mình. Con người vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân. Dịch bệnh, chiến tranh như là một quy trình để sàng lọc loài người, thanh lọc nhân loại.

May be an image of text

Bài học nào từ thất bại thảm hại của Việt Nam trong chống dịch Covid?

Bài học nào từ thất bại thảm hại của Việt Nam trong chống dịch Covid?

Bởi  AdminTD

 Jackhammer Nguyễn

11-9-2021

Công cuộc chống dịch Covid-19 của Đảng Cộng sản Việt Nam đang thất bại thảm hại. Minh chứng cho sự thất bại đó là trung bình có hơn 300 người chết mỗi ngày ở Sài Gòn, trong khi các hoạt động kinh tế và xã hội tại thành phố này đã và đang bị phong tỏa hơn hai tháng qua, mà vẫn chưa thấy lối ra.

Với hơn 300 người bị virus giết chết mỗi ngày, dù đã hơn hai tháng phong tỏa, các hoạt động kinh tế, xã hội… bị đóng băng, càng thảm bại hơn khi Việt Nam có những thế mạnh mà không tận dụng được: Hơn một năm rưỡi yên tĩnh để chuẩn bị trong khi các nước trên thế giới và trong khu vực vất vả đối phó với đại dịch; cũng như thái độ tuân thủ chính quyền của dân chúng, và nhất là người dân ở Việt Nam không có tâm lý chống vaccine…

Các viên chức tuyên truyền của Đảng có thể dùng chiến thuật ngụy biện cũ rích là Whataboutism (Thế cái này thì sao), để biện minh rằng thì là Thái Lan thế này, Indonesia thế nọ, Mỹ cũng còn thế kia, Ý còn như thế đó… thiết nghĩ, lần này người dân Việt Nam không còn bị thuyết phục bởi sự ngụy biện đó, bởi cái chết đang đến đầu ngõ, cũng như cái đói đang chực chờ họ.

Sự thất bại này cho người dân Việt những bài học nào?

1/ Xã hội dân sự Việt Nam bị tê liệt

Điều rất quái gỡ là, hơn một tháng sau khi dịch bệnh hoành hành ở Sài Gòn, biến thành phố thật sự trở thành một thành phố chết, người ta mới bắt đầu nói đến việc đưa các bệnh viện tư nhân vào chống dịch.

Đây chỉ là một trong nhiều sự việc cho thấy rằng sức lực và trí tuệ của những thành phần khác nhau trong xã hội không được huy động khi đất nước rơi vào khủng hoảng.

Những thành phần khác nhau ấy thường được gọi là xã hội dân sự. Có thể nói không quá đáng rằng xã hội dân sự chính là một xã hội bình thường, trong đó người dân sống tự do, họ rất linh họat để đối phó và phản ứng với những biến động của xã hội. Nhưng xã hội dân sự không bao giờ được những người cộng sản ưa thích, vì sự tự do của nó thách thức sự toàn trị của Đảng.

Đảng Cộng sản thường tuyên truyền rằng, họ cũng có những cái gọi là các tổ chức quần chúng, như đoàn thanh niên, hội phụ nữ… nhưng những tổ chức này đều là những công cụ chính trị, trở thành những ung nhọt hành chính, không hề thấy bóng dáng của họ ở đâu trong những ngày đại dịch đang hoành hoành người dân trên đất nước này.

Giả sử không có các tổ chức tôn giáo nấu ăn cho dân nghèo trong những ngày giới nghiêm này, những đội thiện nguyện đi hỏa táng hàng trăm người chết mỗi ngày… chắc hẳn Sài Gòn đã trở thành địa ngục.

2/ Nghịch lý của chính quyền toàn trị tập trung

Sự hỗn loạn trong cách điều hành chống dịch của hệ thống chính trị Việt Nam từ trung ương tới địa phương, gợi chúng ta nhớ tới sự sụp đổ của Đông Âu và Liên Xô cũ chỉ trong vài ngày.

Hệ thống chính trị ở Việt Nam và Trung Quốc hiện nay, cũng như Đông Âu và Liên Xô ngày xưa là hệ thống toàn trị, với những tầng nấc chặt chẽ từ trung ương đến tổ dân phố. Nhưng hệ thống này cho thấy, nó chỉ hoạt động được theo lối mòn. Những lối mòn đó là: Công nghiệp hóa với các xí nghiệp nhà nước của Liên Xô cũ, tổ chức mô hình phân phối xã hội chủ nghĩa sau chiến tranh thế giới thứ hai ở Đông Âu, xã hội chiến tranh ở miền Bắc Việt Nam trước 1975, mô hình tư bản nhà nước của Việt Nam và Trung Quốc hiện nay.

Một lối mòn rất điển hình nữa của chế độ toàn trị là lạm dụng bạo lực (cái gọi là bạo lực cách mạng) với sự ưu tiên cho các bộ máy công an và bộ đội.

Đại dịch Covid-19, với biến chủng Delta là những điều nằm ngoài những con đường mòn của các chế độ toàn trị, nó cũng giống như vài yếu tố thị trường tự do xâm nhập vào Đông Âu trước kia, làm cho các cán bộ điều hành không biết điều gì đang xảy ra để đối phó.

Việc sử dụng những lọ vaccine hiếm hoi đầu tiên cho công an, bộ đội, thay vì cho những người già, những y tá tuyến đầu, những shipper, những người lao động sống trong những con hẽm chật chội,… đã lợi (cho chế độ) nhưng bất cập hại (cho dân chúng), khi những tầng lớp dân chúng dễ tổn thương đó lần lượt gục ngã, tạo sức ép kinh hoàng lên hệ thống y tế vốn đã quá tải, làm tê liệt hệ thống kinh tế cơ sở ở các đô thị phục vụ dân sinh.

3/ Cán bộ điều hành quốc gia bất tài

Với cơ cấu tuyển chọn cán bộ theo kiểu “quy hoạch”, các nhà nước toàn trị khó lòng đưa ra được những những nhà lãnh đạo có năng lực thật sự, để có khả năng đối phó với đại dịch. Bộ máy tuyên truyền cộng sản thường hay ba hoa rằng, họ trân trọng cái gọi là “có tâm có tầm” (sic) nhưng về thực chất kiểu quy hoạch cán bộ ở các chế độ toàn trị cho ra những thế hệ sau bất tài hơn thế hệ trước, vì người đứng ra “quy hoạch” không thể chấp nhận kẻ nối nghiệp thông minh và tài giỏi hơn mình. Điều đó dẫn tới một sự suy thoái di truyền trong giới lãnh đạo.

Bộ máy cán bộ điều hành tại Việt Nam hiện nay đã và đang lúng túng như gà mắc tóc, cán bộ trung ương thì ba hoa, nói những lời vô nghĩa như bị mê sảng, các cán bộ tại các tỉnh thì ra sức dựng nên các “pháo đài” tại các biên giới tỉnh, đúng theo “chỉ đạo”.

Kết

Kịch bản tồi tệ nhất, theo những gì chúng ta biết về Covid hiện nay là dịch bệnh lây ra cho toàn bộ dân chúng Việt Nam, và sẽ có khoảng hơn 2 triệu người thiệt mạng (theo tỷ lệ 2,5%). Các lực lượng công an, bộ đội, 200 ủy viên trung ương vẫn toàn vẹn vì đã được chính ngừa.

Nhưng có còn Việt Nam nữa không?

Cuộc khủng hoảng ở Việt Nam hiện nay có nguồn cơn từ chính cấu trúc chính trị toàn trị của quốc gia. Khi nói như vậy không có nghĩa là ở các xã hội dân chủ, mọi thứ đều có thể diễn ra êm đẹp, vì cuộc khủng hoảng Covid là cuộc khủng hoảng trăm năm có một, không ai biết trước. Nhưng Việt Nam lại là kẻ quan sát suốt hơn một năm rưỡi, khi đại dịch diễn ra trên toàn cầu. Các cán bộ Việt Nam chỉ lo ba hoa những bài ca chính trị, không chuẩn bị gì cả. Các cán bộ lãnh đạo Việt Nam lẽ ra phải biết trước điều gì đang xảy ra ở Sài Gòn và Hà Nội, vì nó đã xảy ra ở New York, New Delhi…

Một điều quan trọng nữa là dân chúng tại các quốc gia dân chủ có thể bãi nhiệm các cán bộ bất tài, chẳng hạn như cha con Donald Trump ở Hoa Kỳ, trong khi người dân ở Việt Nam thì không thể đuổi cổ các lãnh đạo quá tệ hại.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Lời Qua Tiếng Lại

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Lời Qua Tiếng Lại

Thứ Ba, 09/07/2021 – 07:11 — tuongnangtien

Ảnh của tuongnangtien

Lời Thưa Đầu: Tôi cùng vài đồng nghiệp – Phạm Trần, Ngô Nhân Dụng, Kami, Bùi Thanh Hiếu … – bị Báo Nhân Dân hài tội (“xuyên tạc, vu cáo, vu khống, dựng chuyện … làm xói mòn niềm tin vào Đảng, Nhà nước Việt Nam) nên đêm rồi sợ tới mất ngủ luôn. Nằm suy nghĩ mãi tôi mới nhớ ra là mình có một bài viết cũ – trên trang talawas – lỡ ghi lại vài ba sự kiện về báo này, cùng với những lời bình hết sức vô tư và khách quan, chứ không hề “dựng chuyện” hay “vu cáo” gì (ai) ráo trọi.

Xin phép được ghi lại trên diễn đàn này để rộng đường dư luận, cùng với hy vọng sẽ được công luận minh oan.

Tờ Nhân Dân tự giới thiệu như sau :

“Báo Nhân Dân, Cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam, Tiếng nói của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, ra số đầu ngày 11-3-1951 tại Chiến khu Việt Bắc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Báo Nhân Dân kế tục truyền thống báo Thanh Niên do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập ngày 21-6-1925 và các báo Tranh Đấu, Dân Chúng, Cờ Giải Phóng, Sự Thật.

Hiện nay, báo Nhân Dân có 5 ấn phẩm (sic) gồm: Nhân Dân hằng ngày, Nhân Dân cuối tuần, Nhân Dân hằng tháng, Nhân Dân điện tử tiếng Việt, Nhân Dân điện tử tiếng Anh.

Báo Nhân Dân hằng ngày có số phát hành khoảng 220.000 nghìn bản/ngày.

Báo Nhân Dân cuối tuần 16 trang ra hằng tuần khoảng 110.000 bản/kỳ. Báo Nhân Dân cuối tuần in tại Hà Nội, chuyển bằng máy bay, xe lửa, ô-tô đến các tỉnh, thành phố trong cả nước.

Báo Nhân Dân hằng tháng ra hằng tháng, mỗi số 48 trang, số lượng phát hành khoảng 130.000 bản/kỳ. Báo Nhân Dân hằng tháng in ở 2 nhà in: Nhà in báo Nhân Dân tại Hà Nội và Công ty in Tạp chí Cộng sản, được vận chuyển bằng máy bay, xe lửa, ô-tô đi các tỉnh, thành phố trong cả nước.

Báo Nhân Dân in tại 8 điểm in (Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Nghệ An, Đà Nẵng, Cần Thơ, Bình Định, Đác Lắc, Điện Biên), phát hành trên phạm vi toàn quốc và một số lượng nhất định được gửi ra nước ngoài.

Báo Nhân Dân phát hành theo cả hai kênh: Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam (VNPT) và hệ thống bán lẻ. Năm 1996 đạt 57,85 triệu tờ. Năm 2007 đạt 82,74 triệu tờ.”

Tờ báo bề thế và tầm vóc (tới) cỡ đó mà giáo sư Nguyễn Ngọc Lan, thuở sinh thời, trong một cuộc phỏng vấn dành cho RFI, dám biểu là thiên hạ không ai thèm đọc báo Nhân Dân. Họ chỉ dùng nó vào những việc gia dụng khác: “I was reminded of the time when there was a severe shortage of paper across the country. People literally lined up daily to buy the inexpensive Nhan Dan for household uses.” (Robert Templer, Shadows And Wind. Penguin Group. New York:1988, 165).

Dùng vô chuyện gì khác thì (dù có bị tra tấn) ổng cũng nhất định không chịu nói.

Người phương Tây thì khác. Họ không có thói quen nói năng úp/mở, hay “bóng và gió” như vậy. Tác giả cuốn sách dẫn thượng, Robert Templer – sau ba năm làm đặc phái viên cho A.F.P. tại Việt Nam, từ 1994 đến 1997 – đã thản nhiên tuyên bố:

“Dân Việt dùng báo Nhân Dân để đi cầu, chớ còn tin tức thì họ nghe từ chương trình phát thanh tiếng Việt của đài BBC, RFI và VOA.” (Vietnamese may have found Nhan Dan useful in the bathroom, but for information they turned to their radios and the Vietnamese language services of BBC, RFI and VOA).

Những ý kiến vừa ghi, tất nhiên, chỉ là cái nhìn phiến diện và chủ quan của những cha nội thuộc loại phản động, hay bá vơ nào đó – kiểu như Nguyễn Ngọc Lan, Robert Templer… mà thôi. Báo Nhân Dân, chắc hẳn, phải có tác dụng và giá trị (đặc biệt) của nó mà “kẻ ngoại đạo” khó lòng nhìn ra được.

Qua BBC, tôi nghe nhà văn Đào Hiếu kể một chuyện vui và (chả hiểu sao) lại nghĩ ngay đến ông Tổng Biên tập của báo Nhân Dân: “Có thằng nhà báo Pháp gặp tao nó hỏi: ‘Việt Nam hiện nay có mấy tờ báo và tạp chí?’ Tao đáp: ‘Có chừng 700.’ ‘Ô thế thì báo chí Việt Nam thực là phong phú.’ Tao nói: ‘Coi vậy mà không phải vậy. Vì có 700 tờ báo nhưng chỉ có một ông tổng biên tập.’ Thằng Tây nó cười gần chết.”

Còn “mấy thằng làm báo Việt Nam” thì cũng gần chết (dù không cười) khi phải làm việc với một ông TBT khổng lồ cỡ đó. Tuy có tên là ND nhưng (thiệt ra) đây là tờ báo của Đảng CSVN. Nó có nhiệm vụ chính là định hướng tư tưởng cho đảng viên và chỉ đạo nhận thức cho cả nước. Ngoài ra, nói một cách hoa mỹ, báo ND cũng là “kim chỉ nam” hay “ngọn hải đăng” cho cả ngàn tờ báo khác.”

Phải mở lại những chồng báo cũ – kể từ năm 1951 đến nay, trải qua những đời TBT Trường Chinh, Tố Hữu, Hoàng Tùng … – mới thấy được hết công dụng của báo Nhân Dân trong công việc xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội ở… nước ta!

Khi thì báo Nhân Dân cổ động chính sách Cải Cách Ruộng Đất hay Cải Tạo Công Thương Nghiệp, lúc thì hô phong hoán vũ (“thay trời làm mưa,” “nghiêng đồng cho nước chẩy ra ngoài”) để đẩy mạnh phong trào Hợp Tác Xã Nông Nghiệp …

Báo Nhân Dân còn đảm nhiệm một vai trò quan trọng khác nữa mà cỡ thường dân như ông Nguyễn Ngọc Lan, hay ngoại nhân như ông Robert Templer, còn lâu mới khám phá ra. Ông Bùi Tín, cựu phó Tổng Biên tập của tờ báo này cho biết: “Đây là một nền báo chí quan liêu, chuyên lên lớp, răn dạy, đe nẹt người đọc.” (Hoa Xuyên Tuyết, 2nd ed. Turpin Press. California: 1994, 42).

Nói tóm lại là răn/đe. Xin đơn cử một thí dụ về thứ ngôn ngữ đanh thép, đe doạ và qui chụp – theo tiêu chí “gắp lửa bỏ tay người” – của báo Nhân Dân đối với những đồng nghiệp (hay đồng chí) lỡ thò chân ra khỏi… lề bên phải:

“Năm 1956, Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi lập thành một nhóm. Tháng 9-1956, dựa vào tiền bạc của những phần tử tư sản phản động, bọn chúng xuất bản tờ báo Nhân Văn… Báo Nhân Văn là tờ báo chính trị phản động. Mục đích của tờ báo này là nhằm khích động quần chúng chống lại chế độ dân chủ nhân dân… Sau khi báo Nhân Văn bị đóng cửa, bọn Nguyễn Hữu Đang và Thụy An vẫn cấu kết chặt chẽ với nhau và tiếp tục hoạt động gián điệp phá hoại.” (Nguồn: Nhân Dân, Hà Nội, 21/01/1960, tr. 1, 6. Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn).

Nửa thế kỷ sau, vào ngày 27 tháng 4 năm 2009, trên báo Nhân Dân xuất hiện bài viết “Chung quanh vấn đề khai thác bô – xít ở Tây Nguyên” (của một ông hay bà Xuân Quang nào đó) để cổ vũ cho chủ trương khai thác bauxite ở Tây Nguyên – cũng cùng với cái giọng điệu “ngậm máu phun người” cố hữu:

Cần cảnh giác và có thái độ rõ ràng, kiên quyết với những mưu toan chính trị hóa vấn đề của các thế lực thù địch, thiếu thiện chí, muốn chia rẽ nội bộ chúng ta; xuyên tạc sự thật, lợi dụng những tình cảm thiêng liêng trong trái tim, khối óc mỗi người để kích động hòng thực hiện những mưu đồ xấu xa của họ.”

Lập trường của báo Nhân Dân rõ ràng (và hoàn toàn) không thay đổi nhưng thế thời thì đã đổi thay… tự lâu rồi. Cây gậy có tên gọi là báo Nhân Dân của Đảng CSVN, với thời gian, đã trở thành một… cây củi mục! Nó không còn có thể gây sợ hãi hay gây tai hại cho bất cứ ai nữa.

Chuyện “báo hại” tới đây kể như đã (hoàn toàn) chấm dứt nhưng chuyện “báo cô” hay còn gọi là cách sống ký sinh thì ngó bộ còn lâu. Coi:

“Trụ sở chính Bộ Biên tập báo Nhân Dân đóng tại: Nhà số 71, phố Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Cơ quan thường trực tại TP Hồ Chí Minh, tại TP Đà Nẵng, tại TP Cần Thơ…”

“Ngày 21-8-1997, Thường vụ Bộ Chính trị T.Ư Đảng CS Việt Nam đã đồng ý cho phép báo Nhân Dân đặt cơ quan thường trú nước ngoài tại Paris (Pháp), Bắc Kinh (Trung Quốc) và Bangkok (Thailand).”

“Báo Nhân Dân in tại 8 điểm in (Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Nghệ An, Đà Nẵng, Cần Thơ, Bình Định, Đác Lắc, Điện Biên), phát hành trên phạm vi toàn quốc và một số lượng nhất định được gửi ra nước ngoài.”

Sản xuất giấy để… chùi thì chỉ cần nhà máy in là đủ. Chớ mắc mớ chi phải có trụ sở trung ương, cơ quan thường trực tại những thành phố lớn, và những cơ quan thường trú ở Paris, Bangkok, Bắc Kinh …? Đã thế, còn khoe rằng báo Nhân Dân có “một số lượng nhất định được gửi ra… nước ngoài” nữa cơ! Nghe mà ớn chè đậu. Nói sợ ông Lê Quốc Minh (TBT báo Nhân Dân) buồn lòng chớ ngoài những nước bạn bè thân thiết như Cu Ba, Bắc Hàn ra, người dân ở bất cứ một quốc gia khác – kể cả dân Tầu – không ai có đủ can đảm (dám) đụng tay vào tờ báo (thổ tả) này đâu!

VỀ ĐI CON!

Van Pham

46 NĂM THỐNG NHẤT, HÒA BÌNH TIẾN LÊN THIÊN ĐƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. ĐỂ NGÀY HÔM NAY LỚP NGƯỜI NGHÈO SỐNG BÊN LỀ XÃ HỘI….

VỀ ĐI CON!

Về đi con, nhà mình còn lon gạo

Về nhà đi, mẹ nấu cháo cho ăn

Nhà mình nghèo, khó nhọc kiếm miếng ăn

Con mơ chi chuyện cung hằng, sao hỏa

Về đi con, cả đêm qua đói lã

Mà sáng nay còn tất tả đến trường

Không có tiền, đừng cầu cạnh tình thương

Không học phí thì ra đường mà đứng

Về đi con, đừng rưng rưng nước mắt

Lòng mẹ đau như ai cắt con ơi

Bởi mẹ cha sinh ra “bất phùng thời”

Lại vô tâm sinh con, đời con khổ

Về đi con, chữ nghĩa đều vô bổ

Con người ta hùng hổ được nhờ tiền

Người hơn người nhờ cơ cấu ,ưu tiên

Học cho giỏi, quá hiền, đành thất nghiệp

Về đi con, lật sách, ta học tiếp

Chữ nghĩa nhân trong số phận con người

Học yêu thương, học khóc lẫn học cười

Học chân thật giữa kiếp người lừa lọc!

Nguyễn Quốc Việt

MẤT NGỦ – Phạm Xuân Trường

Bài thơ rất hay và rất đau, tác giả như viết ra từ máu não, từ linh hồn hơn 13 ngàn người VN chết trong đại dịch cúm Tàu không có nghi thức tiễn đưa!

———-

FB Lao Ta

MẤT NGỦ

Phạm Xuân Trường

(Mở mắt ra đọc tin trên trang của bạn, về một cái chết là hậu quả của nhiều cái chết rùng rợn khác. Lời chia buồn trở nên vô nghĩa. Chỉ cảm thấy bất lực đến tận cùng. Khi không thể nói bằng lời, thì im lặng lại cứ vang lên những tiếng gào thét.

May mà còn có bài thơ này của thi sĩ Phạm Xuân Trường. Không nỡ chúc ông có thêm nhiều đêm mất ngủ).

Đất nước này rồi sẽ về đâu

Hình Tổ quốc dáng lưng còng của Mẹ

Bốn nghìn năm bão dông dâu bể

Chiếc nón trên đầu chằm bằng đá Hà Giang

Từng ngọn cỏ đất này đã hoá mũi chông

Cái chóp nhọn là đỉnh trời Lũng Cú

Là mộc, là khiên để ngăn quỷ dữ

Bốn nghìn năm nuôi mộng bá quyền

Vút lên trời như một mũi tên

Sắc như gươm, nhọn hoắt như ngọn dáo

Là ngọn hải đăng đêm giông ngày bão

Đó là cột cờ Lũng Cú chớ quên

Bệ đỡ xây bằng xương lính máu dân…

Nửa thế kỷ hoà bình sao dân vẫn khổ

Những kẻ cậy quyền đông như cướp chợ

Còn cái lai quần chúng cũng chẳng tha

Ủi cả ban thờ mồ mả ông cha

Ốc đảo Thủ Thiêm bỗng thành binh địa

Đông như quân Nguyên đầu trâu mặt ngựa

Gậy chống lưng nhóm ma quỷ ăn phàm

Đánh Mỹ giữ làng giờ trắng tay không

Dưới ban thờ nhà má là hầm

Nay nhìn mặt các con mà bầm gan tím ruột

Những giống cái và những giống đực

Xoen xoét đua nhau dậy đạo đức Bác Hồ

Đầy tớ nhân dân mà sướng hơn vua

Ghế gỗ dát vàng, vàng đâu nhiều thế

Là phí trên lưng dân, vai trăm loại thuế

Má chết đi con thế nợ “gia truyền”

Bổ nhiệm vào đâu rất đúng quy trình

Tội phải tử hình lại dùng uyển ngữ

Nhớ phát ngôn xưa ngồi trong tứ trụ

Cán bộ sai thì sửa

Cứ kỷ luật thế này “nguồn” lấy đâu ra…

Văn minh giảng đường thầy Chu văn An sống lại cũng thua

Sinh viên bán dâm ba lần chưa bị đuổi học

Nhìn bản mặt bỗng nhiên lợm giọng

“Chán chường muốn mửa cuộc đời ra “ (1)

Cả tin vào y đức của ông, cha

Bao bệnh nhân ung thư nghèo uống Pacma mà chết

Quan lớn vẫn cười tươi như tết

Pháp luật cúi đầu bó tay chấm com

Thiên tử trên giời hạ giới vua con

Rồng lộn Cát linh kìa sông Tô Lịch

Tàn phá cảnh quan, huỷ diệt môi trường

Sông Kim Ngưu thời các Quân Vương

Trâu vàng thiên cung xuống đây dầm nước

Này thành “ Hắc Ngưu “ sông như đổ mực

Một dòng máu đen chảy giữa kinh thành

Miền Trung thắt eo dốc đứng rừng xanh

Cả khúc ruột miền Trung chặt khúc làm thuỷ điện

Lũ chồng lũ hạ du dân chết

Chụm đầu đổ tội cho Trời làm biến đổi thiên nhiên

Thuỷ điện Rào Trăng ai đã đặt tên

Trăng là của trời, rào trăng — dân chết

Quyền lợi nhóm bện như chân Rết

Từ ngõ ngách làng quê tới đỉnh thiên đình

Như nấm sau mưa cỏ lại hồi sinh

Nhấp nhổm tượng đài đốt theo vài ngàn tỷ

Lại quả cho nhau biệt phủ lâu đài

Chưa tốt nghiệp phổ thông lại có bằng tiến sỹ

Quái thai giáo sư, giáo dở, giáo điều…

Nơi chín con rồng nuôi đất phì nhiêu

Kẻ ác nhằm khuất phục dân ta ngăn thượng nguồn mười thuỷ điện

Rồng sặc nước ngàn héc ta ngập mặn

Lúa dậy thì chết đứng giữa mùa xuân

Bộ trưởng điều trần són lệ “thương dân”

Thè lưỡi nếm phân đâu là thật giả

Tội ác tày trời “cứt Trâu hoá đá”

Bao nhiêu năm pháp luật bó tay: nhìn

Có ai về đống sắt vụn Thái Nguyên

Kẻ tàn phá đất nước này máu Tầu chính gốc

Có ai ngờ thâm cung loài rắn độc

Chui thật sâu và leo thật cao

Đất nước này rồi sẽ về đâu ???

Những vụ án oan ép cung người vô tội

Nguyễn Thanh Chấn bẩy năm rời ngục tối

Huỳnh Văn Nén chục năm mới thấy lại mặt trời

Mười bốn năm rồi vụ án Cầu Voi

Mười bảy quan toà ghi tên vào ngục sử…

Thơ dẫu vạn trang không đủ

Về những tham quan cai trị đất nước này

“ Đẩy dân chúng xuống hầm sâu tai vạ “ (2)

Bản tin chiều nay đau thương quá

Bốn mươi lò thiêu Bình Hưng Hoà đã kiệt sức thiêu

Bẩy nghìn mạng rồi chắc chắn còn thiếu

Bốn mươi Công ten nơ lắp sẵn điều hoà

Lình đào năm hec ta

Một ngôi mộ chờ chôn tập thể

Mạng chúng con như rễ bọt bèo

Vì áo cơm như thiêu thân vào phố

Chốt đóng cửa rồi không được chết ở quê….

An Duong Vương xưa tin vào lời thề

Để Cổ Loa còn đau vạn thuở

Ngày xưa có một Trọng Thuỷ

Giờ chui vào rừng sâu nằm phục không đếm xuể Mẹ ơi!!!

Niềm tin chúng con đã cạn kiệt rồi

Chỉ thừa thãi đau thương và dư nước mắt

Phải xa quê cái chúng con cần nhất

Có thật nhiều tiền để phụng dưỡng mẹ cha

Có thật nhiều tiền sửa lại ngôi nhà

Có thật nhiều tiền để cháu đi du học…

Xin đừng hỏi nhiều tiền để làm gì

6h 15 25/8/21

_______________

P/S:

(1). Nơi Gừ , trong tập thơ CỬA MỞ của cố thi sỹ Việt Phương )

(2) Trong Bình Ngô Đại Cáo – Nguyễn Trãi

Nguồn FB Lao Ta https://www.facebook.com/1160946631/posts/10223384412376119/?d=n

May be art of 1 person

Hết ‘bộ đội đi chợ’ đến ‘vàng, cam, xanh’, VN đang rối bời trong khủng hoảng Covid?

VOA Tiếng Việt 

Sau nhiều tháng áp dụng các biện pháp cứng rắn theo kiểu thiết quân luật, tình hình dịch bệnh tại các tâm dịch ở Việt Nam vẫn không có dấu hiệu sẽ được sớm kiểm soát trong khi nhiều người dân ca thán vì tình trạng kiệt quệ tài chính, còn các nhà phân tích thì liên tục cảnh báo về nguy cơ sụp đổ nền kinh tế và các hệ luỵ xã hội khác.

Loanh quanh thử nghiệm

Bắt đầu từ một ngày giữa tháng 8, sau cuộc tháo chạy bất thành của hàng ngàn người lao động nhập cư ùn ùn kéo nhau rời khỏi TPHCM, “tâm dịch” lớn nhất nước, nhiều người dân Sài thành bất ngờ, nghi ngờ lẫn hoang mang với hình ảnh các chú bộ đội bồng súng và xe thiết giáp bỗng xuất hiện trên các con phố vắng lặng vì bị phong toả, với danh nghĩa hỗ trợ thành phố chống dịch.

“Chống dịch làm sao phải dùng đến xe thiết giáp, dùng súng, dùng nhiều bộ độ làm gì? Chỉ cần nhân viên y tế và các cứu trợ xã hội thôi chứ”, TS. Mạc Văn Trang, một nhà quan sát thời sự đang cư ngụ tại TPHCM nói với VOA.

Theo ông, việc chính quyền điều quân vào thủ phủ của miền Nam có lẽ nhằm cả hai mục tiêu: Vừa giúp chống dịch, vừa đề phòng người dân bức xúc quá sẽ “nổi dậy”.

“Thực ra là chính quyền đã quá lo ngại vì vừa qua thấy hàng vạn người dân họ ào ra đường chạy tán loạn về địa phương, rồi bắt họ quay trở lại. Tình hình dân đói, rồi ở trong môi trường mà thử tưởng tưởng chỉ có 9m2 mà có 3 người ở, mà nhốt trong đó mấy tháng trời thì bức xúc lắm. Cho nên chính quyền lo hãi rằng dân thì đó, dân bức xúc như thế thì có thể họ nổi loạn chăng?”, TS. Mạc Văn Trang nhận định thêm.

Bất chấp hàng loạt bài viết, hình ảnh, video trên truyền thông tô vẽ hình ảnh đẹp đẽ của các chú bộ đội đến nhà dân phát các túi thực phẩm hay đi chợ giúp dân, mô hình “bộ đội đi chợ” ngay trong những ngày đầu tiên đã nhanh chóng lộ ra các khiếm khuyết, bất cập và bất lực trong việc đáp ứng nhu cầu an sinh xã hội tại địa phương.

“Mỗi anh bộ đội đi cầm gói quà phát vào nhà dân thì thường có hai người đi theo. Một người ghi chép xem nhà chủ tên gì và yêu cầu họ ký tên vào, đó là người của phường. Còn một người là của bên thanh niên hay gì đó dẫn đường. Tôi thấy nó buồn cười! Một người lạ đi phát thì phải có hai người đi theo. Như vậy không biết hiệu quả nó thế nào!?”, TS. Mạc Văn Trang nói.

Một tuần sau khi đưa bộ đội vào thay vai trò của shippers, TPHCM hôm 30/8 đã phải cho lực lượng chuyển phát chuyên nghiệp này chính thức hoạt động trở lại giữa bối cảnh các đơn hàng thực phẩm, nhu yếu phẩm bị ùn ứ tại các cửa hàng nhiều ngày vì không có người chuyển phát đến tay người dân.

Chỉ trong vòng vài ngày, số đơn hàng được giao đến các hộ dân đã đạt mức từ trên 90 đến 100%, với công suất lên đến gần 200.000 đơn hàng mỗi ngày, đến ngày 2/9 đã không có đơn hàng tồn đọng, theo tường thuật của Zing.

Thất bại của mô hình “bộ đội đi chợ” nối tiếp một “thử nghiệm” trước đó của chính quyền khi ra quy định buộc các doanh nghiệp phải thực hiện “ba tại chỗ” (ăn, ở và làm việc tại chỗ) để vừa chống dịch vừa bảo đảm sản xuất.

Mô hình này đã gây tiêu tốn nhiều tỉ đồng của các doanh nghiệp khi họ phải đầu tư cơi nới nhà máy, mua sắm, xây dựng cơ sở vật chất cho hàng ngàn công nhân lưu trú để bảo đảm hoàn thành các đơn hàng quan trọng. Nhưng mô hình này cũng nhanh chóng thất bại khi nhiều nhà máy vẫn phải dừng hoạt động vì không thể cáng đáng nổi mức chi phí quá tải khi thực hiện “ba tại chỗ” hoặc khi có ca nhiễm COVID-19 xuất hiện trong công nhân.

Mục tiêu vẫn bất thành

Ông Nguyễn Lân Thắng, một nhà hoạt động theo dõi sát tình hình thời sự Việt Nam, bày tỏ lo ngại với VOA về công tác phòng chống dịch sắp tới của Việt Nam trước tình trạng chính quyền đã tiêu tốn quá nhiều nguồn lực vào những biện pháp phòng chống dịch thiếu hiệu quả.

Ông nói: “Việt Nam đã mất quá nhiều nguồn lực trong việc truy tìm cũng như dồn những người bệnh thuộc dạng F0, F1 vào các khu cách ly rồi, giờ lại tung nốt nguồn lực cuối cùng là quân đội thì không hiểu nếu trong trường hợp một thời gian nữa, có thể là cuối tháng 9 hoặc tháng 10, mà bệnh dịch phát triển ồ ạt thì làm sao? Lúc đó Việt Nam sẽ không còn một cửa lùi nào nữa trong việc phòng chống dịch”.

Nhà hoạt động này cho rằng việc sử dụng nguồn lực như vậy là “rất nguy hiểm” giữa bối cảnh cơ sở hạ tầng, hệ thống y tế của Việt Nam rất thiếu thốn, tích trữ của người dân không cao, nguồn vốn ngân sách thì luôn bị thâm thủng vì những phung phí trong các dự án không hiệu quả và tình trạng tham nhũng.

Riêng với mô hình bộ đội đi chợ, phát thực phẩm cho dân được nói là để giúp người dân có thể an tâm ở nhà, thực hiện quy định “ai ở đâu ở yên đó” để giúp nhà nước kiểm soát và dập dịch. Tiếng là vậy, nhưng đại diện của một nhóm thiện nguyện tư nhân ở TPHCM, anh Trần Minh Vương, cho biết những người dân cần được giúp đỡ nhất là các công nhân, di dân sống trong các khu nhà trọ lại rất ít người nhận được trợ giúp.

Anh giải thích: “Quân đội hỗ trợ là họ đi mua đồ cho các hộ dân hoặc khu trọ, thì chỉ những người có tiền người ta mới nhờ mua. Còn những công nhân ở các khu nhà trọ thì bây giờ ngay cả tiền nhà trọ người ta còn chưa có để đóng nữa thì tiền đâu mà nhờ mua đồ?!”

Chưa kể, theo lời anh Vương, có nhiều di dân chẳng thể có địa chỉ để khai báo với lãnh đạo khu phố để được nhận trợ cấp.

Anh cho biết: “Mấy anh đi làm công trình ở thành phố. Giờ thì các công trình ngưng rồi mà các anh không thể về quê được nên phải ở trong mấy cái lán. Mấy anh phải dựng mấy tấm bạt, kê tôn lên để ở thôi, chứ cũng không có nhà trọ để ở luôn”.

Chính vì thực tế này mà những lời kêu cứu xin trợ giúp gửi đến các nhóm thiện nguyện tư nhân tại TPHCM vẫn không hề giảm xuống sau khi có sự xuất hiện của quân đội, khiến các nhóm này luôn trong tình trạng quá tải.

Dừng ‘bế quan toả cảng’, xây dựng kế sách lâu dài

  1. Mạc Văn Trang cho rằng các biện pháp trợ giúp của chính quyền hiện nay chỉ đáp ứng nhu cầu rất ngắn hạn trước mắt, không thể giải quyết được nan đề khủng hoảng an sinh xã hội.

Ông nói: “Nếu chính quyền thực sự giúp cho dân thì hiện nay công nhân, sinh viên họ đều có tài khoản, thì cứ như các nước, chỉ việc chuyển tiền vào tài khoản thôi. Mà quan trọng nhất là phải giúp cho người ta đủ sống, mức sống tối thiểu, chứ không phải chỉ giúp cho 10 kg gạo, mấy gói mì xong rồi thôi thì người ta sống thế nào được, quan trọng nhất là tiền”.

Vào thời điểm hai thành phố lớn của Việt Nam là Hà Nội và TPHCM chuẩn bị kết thúc các lệnh phong toả hiện tại, nhiều trí thức và các nhà phân tích lên tiếng cảnh báo về những hệ luỵ khôn lường về kinh tế, xã hội và cả an ninh nếu Việt Nam tiếp tục áp dụng các biện pháp khắt khe theo kiểu “thiết quân luật” mà không có kế sách lâu dài, vì người dân nhiều nơi đã quá kiệt quệ về tài chính, không thể chịu đựng được tình trạng mất thu nhập lâu hơn.

“Tôi nghĩ rằng cho đến bây giờ thì rõ ràng biện pháp mà Việt Nam chống dịch là thất bại, nhưng nhà nước không thừa nhận điều đó trên truyền thông. Nhưng việc ông Phạm Minh Chính quyết định trở thành trưởng ban chống dịch của quốc gia thay cho ông Đam chứng tỏ bộ máy, bộ khung chống dịch này rõ ràng không đạt được kết quả như mong muốn”, nhà hoạt đông Nguyễn Lân Thắng nêu nhận xét với VOA.

Ông Nguyễn Lân Thắng đề nghị thay vì loay hoay với những thử nghiệm biện pháp chống dịch thiếu hiệu quả, chính quyền Việt Nam nên có kế hoạch hợp tác với các nước trong các thoả thuận quốc tế đề được hỗ trợ tốt hơn về nguồn lực chống dịch, đặc biệt là các quốc gia có khả năng về vaccine COVID-19, để từng bước giải quyết khủng hoảng.

Hôm 2/9, Hà Nội thông báo tiếp tục sẽ áp dụng phân vùng “đỏ, cam, xanh” tuỳ theo mức độ nguy cơ và đặc điểm địa lý dân cư. Theo đó, lệnh giãn cách xã hội ở mức cao hơn Chỉ thị 16 sẽ tiếp tục được thực hiện trong vùng đỏ và các vùng cam, xanh sẽ được điều chỉnh các biện pháp phù hợp. Tuy nhiên, nhiều người dân đề nghị chính phủ nên từng bước mở cửa nền kinh tế, học tập các quốc gia đã thành công trong việc kiểm soát dịch bệnh để xây dựng một kế hoạch sống chung với đại dịch một cách hiệu quả.

Hiện Việt Nam là một trong số các quốc gia có tỉ lệ tiêm chủng thấp nhất trong khu vực, với chỉ khoảng 2,9% trong số 98 triệu dân được tiêm chủng đầy đủ. Theo nhận định của tờ Nikkei, từ vị trí một “ngôi sao” chống dịch hiệu quả vào thời kỳ đầu đại dịch, Việt Nam nay đã rơi xuống đáy bảng danh sách xếp hạng 120 quốc gia và vùng lãnh thổ về khả năng xử lý dịch bệnh, triển khai tiêm chủng và giải quyết các vấn đề xã hội

Hết ‘bộ đội đi chợ’ đến ‘vàng, cam, xanh’, VN đang rối bời trong khủng hoảng Covid?

VOATIENGVIET.COM

Hết ‘bộ đội đi chợ’ đến ‘vàng, cam, xanh’, VN đang rối bời trong khủng hoảng Covid?

Nhiều người lo ngại về những hệ luỵ khôn lường về kinh